Thế giới tuổi thơ
trong thơ Nguyễn ngọc Hưng
Trước khi nói
về thế giới tuổi thơ trong thơ Nguyễn ngọc Hưng, tôi muốn nói nhỏ với các em
một đôi điều. Tôi là người yêu thơ, yêu thơ lắm lắm! Bởi thơ làm
cho ta cảm thông, cho ta thấu hiểu, cho ta xích lại gần nhau. Có phải vậy chăng
mà khi được đọc những bài thơ của chú Hưng trên các tờ báo dành cho các em đã
có rất nhiều em nhỏ khắp mọi miền đất nước gửi thư chia sẻ và xin được kết bạn…
Thơ của chú Hưng viết cho các em trong trẻo quá, tươi mát và ngây thơ quá! Các
em cứ tưởng là chú Hưng đang ở lứa tuổi học trò. Từ đó một bước ngoặt lớn đã
đến với đời thơ chú Hưng. Giờ đây chú đã ít viết những vần thơ buồn. Những vần
thơ nếu được đọc nó thì dù là người lớn hay trẻ thơ cũng không thể không rưng
rưng nước mắt. Tôi xin dẫn một số câu để các em nhỏ thân yêu hiểu được thân
phận và nỗi đau của của một đời người, đời thơ. Đây là Đêm mưa nhớ
mẹ của chú Hưng:
“Lăn qua đụng giông, lăn lại bão bùng
Chăn nệm ấm
mà không sao ngủ được
Nỗi nhớ mẹ mang cả thiên hà nước
Lênh láng vui buồn
trút xuống tim con”.
Còn đây là chú Hưng viết về người dì, nhưng thực ra đây
cũng là nỗi cô đơn vô hạn của chú ấy:
“Mẹ con đã về với đất
Bà con xiêu
lạc cả rồi
Quê ngoại giờ xa lăng lắc
Mai dì đi nữa là thôi!”.
Nhiều khi chú
Hưng phải xót xa, phải tự dằn vặt vì mình là một “đứa con bất hiếu”:
“Chỉ
nhỉnh hơn mười cây số
Sao mà xa ngút ngàn xa
Mẹ ơi, lòng con như xé
Mỗi khi
giỗ mẹ, giỗ bà”
hoặc:
"Có con mà như không có
Giỗ mẹ ai người thắp
hương?”.
Các em ạ, chú Hưng cũng là người mồ côi mẹ nên chú đã gửi tất cả tâm
trạng của một đứa con mồ côi qua bài thơ Chim vịt kêu chiều:
“Sung
mãn ban mai con nào hay biết
Như nắng tàn mẹ mỗi lúc một hao
Rồi lặng lẽ đêm
tràn qua ổ tối
Hồn mẹ đi trong tiếng lá xạc xào”.
Mẹ đi rồi còn lại chỉ là nỗi
cô đơn buồn tủi:
“Gió vẫn thổi. Vườn vẫn xanh. Côi cút
Chim vịt kêu khản
giọng lý chiều chiều
Ngơ ngác ngõ sau, nghẹn ngào ngõ trước
Tại sao thơ
chú Hưng lại buồn như thế? Bởi chú Hưng có một số phận vô cùng khắc nghiệt. Năm
1983, chú Hưng tốt nghiệp thủ khoa Khoa Ngữ Văn, Khóa II, Trường ĐHSP Quy Nhơn.
Một chân trời tràn đầy ước mơ và hy vọng mở ra trước cuộc đời của chú. Nhưng
nào ngờ, căn bạo bệnh teo cơ – co rút toàn thân – oan nghiệt đã cướp đi tất cả
của chú. Người mẹ thân yêu đã mang chú đi chữa chạy khắp các bệnh viện. nhưng y
học thế giới hiện nay vẫn đang phải bó tay trước căn bệnh hiểm nghèo này. Vì
kiệt sức, năm 1988 bà đã qua đời, để lại một mình chú Hưng ốm đau, bơ vơ, trơ
trọi giữa cõi đời. Rất may chú Hưng đã gặp được những người bạn tốt. Đặc biệt
là gia đình cô bác Nguyễn Xuân Anh – Lê Thị Thu Hà và hai cháu nhỏ
có hai cái tên thật ngoan hiền: Nguyên Hạ và Hoàng Phượng chăm sóc, nuôi dưỡng.
Lòng tốt của họ đã được Nhà báo Đặng Vương Hưng coi đây như một câu chuyện cổ
tích thần tiên ở Nghĩa Hành.
Những người
tàn tật như chú Hưng - ăn nằm một chỗ - tồn tại được trên cõi đời này đã là một
nghị lực phi thường. Nhưng không chỉ có tồn tại mà chú Hưng đã sống. Một cuộc
sống có ích cho đời. Chú Hưng đã làm thơ. Những bài thơ để tri ân cuộc đời, tri
ân tuổi thơ. Tôi luôn nghĩ rằng sự chăm sóc của hai cháu Nguyên Hạ và Hoàng
Phượng: Khi thìa cháo, thìa cơm, khi cốc nước mát lạnh về mùa hạ, ấm nóng về
mùa đông, khi dội từng gáo nước để ba mẹ tắm cho chú Hưng đã là những cảm hứng
vô bờ để chú Hưng viết được những vần thơ cho các em. Rồi những lá thư của các
em nhỏ từ mọi miền đất nước gửi về. Tất cả đã là những liều thần dược giúp chú
Hưng đứng dậy với một khát vọng sống mãnh liệt như cỏ:
“Liềm lia sớm, hái
phạt chiều
Đứt đầu lại mọc chẳng kêu tiếng nào
Nhận mình thấp để người cao
Ngàn năm lặng lẽ dâng trào sóng xanh!”.
Rồi chú luôn luôn tự động viên
mình:
“Không có huy chương, không vòng nguyệt quế
Mình tự đua, tự đấu với
chính mình
Mỗi chiến thắng một nụ cười lặng lẽ
Bóng tối lui dần – cõi sáng
hồi sinh”.
Chú Hưng đã xua tan thứ bóng tối đã ám ảnh cuộc đời chú. Giờ đây còn
lại là thứ ánh sáng lung linh của thơ và lòng nhân ái. Chú đã ít viết hơn những
vần thơ buồn. Chú đã dành hơn phân nửa cuộc đời mình cho các em. Chú đã viết
được 11 tập thơ, đã nhận được nhiều giải thưởng. Năm 2009 tập thơ Những
khúc ca trên cỏ được tặng giải thưởng văn học của Ủy ban toàn quốc Liên
hiệp các hội VHNT Việt Nam.
Đất nước ta
ngày một giàu thêm, mang lại cho các em một cuộc sống đủ đầy hơn về miếng cơm
manh áo, về điều kiện học hành. Nhưng sự phát triển của công nghiệp hiện đại
cũng đã lấy đi của các em nhiều thứ lắm. Đó là những khoảng không dành cho những
cánh diều tuổi thơ bay cao, bay xa, cánh diều của những ước mơ và hy vọng.
Những cánh đồng đầy hoa thơm và cỏ lạ đến nỗi những chú bướm con lười học ham
chơi phải lạc đường về, khiến cho những chú dế con phải nỉ non gọi mẹ suốt đêm
dài. Có lẽ rất nhiều em chưa bao giờ được nhìn thấy những con chuồn voi, chuồn
kim, chuồn ớt. Có chăng chỉ là những hình ảnh nhạt nhòa khô cứng qua sách vở.
Chính vì lẽ đó, thế giới tuổi thơ trong thơ Nguyễn Ngọc Hưng đã tạo dựng cho
các em những khoảng trời, những cánh đồng, những bờ bãi đầy hoa, đầy gió, đầy
nắng, đầy tiếng chim ca và rất rất nhiều ong, bướm… Các em sẽ được sống và vẫy
vùng trong thế giới ấy bằng chính sự tưởng tượng, bằng chính tấm lòng thơ ngây
của các em.
Thơ là sản
phẩm của trí tưởng tượng. Mà trí tưởng tượng của nhà thơ lại giống như sự vô
biên của vũ trụ. Khi viết thơ cho các em thì trí tưởng tượng của nhà thơ phải
được tái tạo lại từ những quan sát tinh tế và nhạy cảm đối với thiên nhiên,
cuộc sống. Thơ của chú Hưng đã là như thế. Thế giới tuổi thơ trong thơ chú Hưng
là sản phẩm được tái tạo lại từ chính tuổi thơ của chú Hưng. Mặc dù tuổi thơ
của chú Hưng là một tuổi thơ nhiều lam lũ và mất mát (…). Bù lại, tuổi thơ của
chú Hưng được bồi đắp bằng tình yêu thương vô bờ của mẹ, bằng bầu trời có những
cánh diều tuổi thơ chao liệng… Thơ của chú Hưng được kết tinh bằng trí tưởng
tượng phong phú, bằng những quan sát tinh tế và nhạy cảm của những ngày thơ bé.
Trên hết thảy, thơ của chú Hưng được kết tinh bằng chính tấm lòng nhân hậu biết
yêu thương, biết nâng niu và trân trọng tất cả những gì là nhỏ nhất của thiên
nhiên, của cuộc đời. Qua thơ chú Hưng, các sinh vật dù bé nhỏ đến đâu vẫn có
một số phận riêng của nó. Chú Hưng không áp đặt nỗi đau của đời chú lên những
vần thơ mà chú viết cho các em. Chú đã biến nỗi đau ấy thành những vần thơ đầy
yêu thương và che chở.
Loài bướm
sinh ra là để nhởn nhơ tìm hoa hút mật. Nhưng với chú Hưng thì không chỉ thế.
Chú đã nhân hóa nó thành một em nhỏ vừa dễ thương và cũng vừa đáng
trách:
“Có một cô bướm nhỏ
Dễ thương nhưng rất lười
Học hành không chịu
học
Suốt ngày nhởn nhơ chơi”.
Không chịu học mà còn mải chơi đến độ:
“Lạc
đường… bướm gọi mẹ
Dẫn con về, hu hu…”
“Cánh mỏng như làn gió
Long lanh
mắt giọt sương
Thích chơi cùng cây cỏ
Nhởn nhơ bay khắp vườn”.
Các em nhỏ
sống nơi phố phường chắc chẳng bao giờ được nhìn thấy đôi mắt của con chuồn và
lại càng không được nhìn thấy những giọt sương long lanh của buổi sớm mai trong
lành. Chú Hưng của các em đã giúp cho các em nhìn thấy được bằng những câu thơ
vừa giản dị và cũng vừa rất tài hoa. Đọc những câu thơ như thế, các em nhỏ sẽ
tưởng tượng ra những con chuồn của mình. Ở đây, mỗi con chuồn chú Hưng đều ban
tặng cho nó một việc làm tuy nhỏ nhưng đều có ích:
“Chuồn voi nghịch lạ
thường
Cắn rốn thằng cu Tý”.
Các em có biết chuồn voi cắn rốn thằng cu Tý để
làm gì không? Để cho cu Tý chóng biết bơi đấy! Còn chuồn kim thì mảnh mai bé
nhỏ: “Kim thì siêng xỏ chỉ” cho bà vá may. Chuồn ớt có màu đỏ nên chú
Hưng dành cho nó một việc làm nặng nhọc hơn: “Ớt hăng hái làm
tương” cho tất cả mọi người. Không những thế, loài chuồn lại có biệt
tài:
“Môn dự báo thời tiết
Điểm 10 cho chuồn thôi!”.
Thực ra đây là cách
kiếm ăn của loài chuồn - trời nắng ruồi muỗi ở trên cao, trời mưa ruồi muỗi ở
dưới thấp…
Bài Dế
con lạc mẹ là một bức tranh của cảnh đêm thanh bình. Trong tranh có dế
con, có đom đóm, có ông trăng, có cây cỏ và còn có cả mẹ dế nữa. Vẻ đẹp ở đây
là vẻ đẹp của tình yêu thương che chở, giúp đỡ lẫn nhau. Với dế con thì:
“Lúc
thì vệ cỏ
Khi ở lùm khoai
Dế con lạc mẹ
Tỉ tê khóc hoài”.
Thực ra loài dế
đêm đêm thường sát cánh vào nhau để phát ra tiếng kêu để gọi bạn tình. Nhưng
trí tưởng tượng của của chú Hưng lại không phải như thế. Có lẽ nhiều đêm vì đau
không ngủ được chú Hưng đã nhớ mẹ và đã từng gọi mẹ trong đêm. Nghe tiếng dế
kêu nỉ non, chú Hưng đã tưởng tượng ra dế con cũng đang có cảnh ngộ như mình.
Sau tiếng dế nỉ non là cả thế giới đầy yêu thương che chở. Đom đóm và giọt
sương thì:
“Lập lòe đom đóm
Thắp nến soi đường
Lặng nhìn theo dế
Rưng
rưng mắt sương”.
Còn ông trăng thì:
“Nghe dế nỉ non
Ông trăng thương quá
Mở con mắt tròn
Soi từng kẽ lá”.
Nhờ mọi người giúp đỡ dế con đã tìm được mẹ.
Điều đầu tiên dế con phải làm đó là:
“Vòng tay tám hướng
Nghẹn ngào cám
ơn”.
Thật là cảm động phải không các em?
Thiên nhiên
trong thơ chú Hưng thật đẹp. Đây là cảnh ban mai của một vùng quê:
“Sáng
nay tiếng chim chiền chiện
Líu lo đánh thức mặt trời
Ra vườn mắt em chợt
sáng
Ô kìa, nõn lá xanh tươi…”.
Còn đây là mùa hoa gạo:
“Cánh tròn, cánh
nhọn
Hồng thắm, son pha
Lại như lửa cháy
Đỏ trời tháng ba”…
Vẽ thơ trên
cát là một bài thơ nhiều cảm xúc, nhiều suy tưởng. Nhìn những dấu chân
còng loằng ngoằng trên cát, chú Hưng đã có một liên tưởng kỳ diệu. Chú đã coi
đó là những bài thơ tự do mà còng đã viết. Trước cảnh đẹp:
“Vi vút hàng
dương gió/
Xôn xao sóng vỗ bờ”,
còng đã không kìm giữ được cảm xúc của mình và
đã tập làm thơ:
“Ô… chân còng hí hoáy
Tập làm thơ đấy ư?
Loay hoay viết
rồi xóa
Chắc là đang bí từ…”.
Chú Hưng đã thật tài hoa và cũng thật ngộ nghĩnh
khi gán cho còng cái công việc nặng nhọc nhất của một đời, đó là làm thơ. Còng
phải nhọc lòng lắm, bởi chỉ một con sóng vỗ bờ nhẹ thôi và mềm mại lắm cũng đã
xóa đi tất cả công lao của còng. Biết vậy, còng không thể nhờ vào lòng tốt, sự
giúp đỡ của mọi người. Làm thơ là một công việc của chính bản thân mình, là cảm
xúc, là rung động của tâm hồn mình. Nên còng đã:
“Còng cám ơn các bạn
Tự
mình sẽ làm xong!”.
Bằng sự lao động miệt mài, bền gan, bền chí, còng con đã
thực hiện được ước mơ của đời mình:
“Suốt đêm dài mê mải
Luyện chữ với
rèn câu
Thơ tự do còng viết
Loằng ngoằng trên cát nâu”.
Chú Hưng đã gửi gắm
tất cả những suy tư về cuộc đời làm thơ của mình bằng một bài thơ rất giản dị
mà vô cùng sâu sắc.
Với chú Hưng,
việc cầm được cây bút để viết thôi cũng là cả một công việc nặng nhọc, phải
chiến đấu kiên cường với nỗi đau thể xác lẫn nỗi đau tinh thần, thế mà cho đến
nay cả tập thơ BỐN
MÙA CHO BÉ mà các em
đang cầm trên tay là tập thơ thứ 6 chú Hưng viết cho các em. Các em hãy đón
nhận món quà này không chỉ bằng tấm lòng trân trọng mà còn là sự yêu thương,
biết sẻ chia và thấu hiểu!
Qua bài viết
này, tôi chỉ trích dẫn những câu thơ, những bài thơ mà tôi tin không phải em
nhỏ nào cũng có được. Bởi mỗi tập thơ của chú Hưng chỉ có từ 500 đến 1000 cuốn.
Ngần ấy cuốn thơ trên hàng chục triệu em nhỏ đang cắp sách đến trường là một
con số quá nhỏ nhoi, phải thế không các em?
Với BỐN MÙA CHO BÉ thì các em đã có nó trên tay. Các em đã
và sẽ còn đọc nó. Tôi tin: Với sự trong sáng, giản dị của thơ chú Hưng và bằng
chính sự tưởng tượng của mình, các em sẽ tạo dựng được một thế giới tuổi thơ
đầy vui tươi, hồn nhiên, thú vị cho các em. Ở đó không chỉ là hoa, là cỏ, là
gió, là nắng, là trăng, là tiếng chim ca, là ong, là bướm… mà ở đó còn là thế
giới của tuổi thơ biết yêu thương, đùm bọc và sẻ chia cho nhau những gì tốt đẹp
nhất có thể có trên cuộc đời này. Nếu được như vậy, các em sẽ không còn là
người đọc nữa mà là bạn đồng hành với chú Hưng trong suốt cuộc đời và hơn hết
thảy, các em đã là những thi sĩ bé thơ!.
“Chú Hưng có
một tuổi thơ không có ba. Ba chú Hưng là một nghệ sĩ của một gánh hát rong, đã
xa mẹ con chú khi chú Hưng chưa biết mặt ba là gì nơi mảnh đất miền Trung nhiều
đói nghèo và nhiều bão giông trong thời Mỹ ngụy, để chạy theo cái đam mê lãng
tử của đời ông”. (NXB Kim Đồng BT).
Mùa tựu trường 2010
Nguyễn Xuân Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét