Lãng du trong âm nhạc Ba Lan
Federyk Chopin (1810-1849), Henryk Wieniawski
(1835-1880) là hai nhà soạn nhạc nổi tiếng trong lịch sử âm
nhạc Ba Lan.
NHẠC SĨ BA LAN FREDERIC CHOPIN
Frédéric Chopin (1810-1849) sinh năm 1810 ở Zelazowa
Wola, Ba Lan.Bố ông là Nicolas Chopin, từ Pháp tới đây năm 1902 làm gia sư cho hai đứa trẻ nhà Skarbek, ông đã gặp một người em họ xa của gia tộc
Skarbek, Justyna Krzyzanowska, vốn sống ở trang viên này. Họ cưới nhau vào năm
1806 và sống trọn vẹn cuộc đời ở Ba Lan. Con trai của họ, Frédéric Chopin, sinh
vào năm 1810. Cuối năm đó cả gia đình đã chuyển tới sống ở Warsaw. Chopin từ bé đã được hưởng một sự giáo dục đầy đủ. Chopin được định sẵn để trở
thành một nhạc sĩ. Tài năng của ông với tư cách một nhà soạn nhạc
đã sớm được chứng minh. Bản Polonaise giọng Sol thứ đầu tiên của ông được viết
năm 1817, thực sự là một thành tích vượt bậc với một đứa trẻ mới 7 tuổi. Chopin
được chiêu sinh vào nhạc viện Warsaw, nơi anh học sáng tác ba năm tiếp theo dưới
hướng dẫn thấu đáo của Jozef K. Elsner.
Những nhạc phẩm tiêu biểu
của Chopin là “Dạ khúc 9 và 15”; “Concerto 11 và 13”; “Mazurca 17”; “Scherzo 20”; “Valse 69”.
Những vũ khúc thôn dã của quê mẹ Ba Lan, đã thấm vào Chopin
làm nên một thiên tài âm nhạc thuần khiết, đôn hậu, mãnh liệt mà da diết
với những bản polonaise, marzuka, etude... bất hủ. Ông được coi là nhà thơ của
cây đàn piano.
Barcarolle Op. 60 cho piano-Khúc nhạc chèo
thuyền là những khúc hát, những bản tình ca trên các dòng sông thành Venice.
Barcarolle được khá nhiều nhà soạn nhạc thế kỷ thứ 19 như Mendelssohn,
Chopin,Tchaikovsky, Fauré, Rachmaninov… sáng tác. Mendelssohn sáng tác một vài
bản barcarolle cho đàn piano và xếp các tác phẩm này vào tập nhạc “Những bài ca
không lời”. Khác với Mendelssohn, Chopin chỉ sáng tác duy nhất một bản
barcarolle vào lúc gần cuối cuộc đời, nhưng là một bản nhạc vô giá. Bản
barcarolle của Chopin cũng mang những đặc tính chung về các chiếc thuyền thành
Venice, tiếng mái chèo khua nước cùng với những bản tình ca, nhưng barcarolle của
Chopin nổi lên như một tác phẩm lớn độc lập và đạt những tiêu chuẩn mẫu mực nhất
về cấu trúc và hòa âm. Rất nhiều nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng ưa thích bản
barcarolle op.60 nhưng ít người thể hiện thành công chất thơ và chất hát trong
những giai điệu tuyệt vời này. Phần dẫn nhập tạo nên một cảm giác
lâng lâng mờ ảo. Sau một khoảng lặng, giai điệu chính bắt đầu với tiếng mái
chèo ở bè đệm với cùng một nhịp điệu xuyên suốt phần thứ nhất của tác phẩm.
Giai điệu chính bắt nhịp vào tiếng mái chèo và cất tiếng hát thật trong trẻo
tươi đẹp như những bản dạ khúc tình yêu. Giai điệu chính được lặp lại bằng những
hợp âm quãng ba và quãng sáu, những khúc trill quyến rũ, và kết thúc phần thứ
nhất với loạt hợp âm bổng và nhạt dần trong nốt chuyển âm từ Fa# trưởng sang
Fa# thứ. Ở phần thứ hai, một khúc độc thoại chuyển
điệu Fa# thứ sang điệu La trưởng. Nhịp điệu của tiếng mái chèo trở nên rõ hơn
và đều đặn hơn với giai điệu chuyển từ Sol# sang Fa#. Không gì đẹp hơn những hợp
âm rải trên các nốt Sol# và Fa# như những giọt nước lìa khỏi mái chèo bay vào
khoảng không và cất lên tiếng hát trong trẻo. Nhịp chèo trở nên hối hả, dồn dập
hơn với những hợp âm quãng tám mạnh mẽ. Cao trào dâng lên cao nhất cùng với hai
hợp âm Sol# và Fa#. Kịch tính tan dần đi cùng với sự chuyển sang hợp âm Fa# thứ
nhẹ nhàng, ẩn chứa đâu đây một niềm tiếc nuối. Tiếp theo đó là giai điệu ở giọng
La trưởng thanh bình và cũng không kém phần êm đẹp, như một lời đáp lại chủ đề
chính ở phần thứ nhất và giai đoạn kịch tính ở phần thứ hai. Một khúc trầm lắng
với những hợp âm giảm, chậm rãi, mái chèo dường như dừng hẳn để mặc chiếc thuyền
nhẹ trôi theo dòng nước, con người như chìm vào những giấc mơ.
Phần thứ ba bắt đầu với những khúc trill ngân
dài.Những hợp âm dâng lên đến đỉnh điểm và chuyển sang khúc lặp của phần thứ
hai, nhưng vẫn ở giọng Fa# trưởng thay vì La trưởng, cao hơn một quãng tám, dữ
dội hơn, kịch tính hơn để giải quyết những uẩn khúc xuyên suốt tác phẩm. Khúc
coda sử dụng hàng loạt những kỹ thuật hòa âm phức tạp, bay bổng, dường như mái
chèo không còn khua trên dòng nước nữa mà là trên những tầng mây. Chính những tầng
mây này đưa chiếc thuyền trở về với dòng sông quen thuộc bằng nốt trầm Fa# và
con người cũng trở về với thực tại, kết thúc bản tình ca với hai quãng tám ngân
vang, mạnh mẽ.
ETUDE GIỌNG MI TRƯỞNG
"NỖI BUỒN" OP.10 NO.3
"NỖI BUỒN" OP.10 NO.3
Nghệ sĩ piano người Ba Lan Arthur Rubinstein
(1887-1982) là một trong những nghệ sĩ biểu diễn nhạc Chopin xuất sắc nhất
thế kỉ 20 nói:
“Chopin là một thiên tài hấp dẫn toàn cầu. Âm nhạc
của ông chinh phục hầu hết mọi loại khán thính giả. Khi những nốt đầu tiên của
Chopin vang lên trong phòng hòa nhạc, mọi người liền tỏ dấu hiệu vui sướng vì
nhận ra. Đàn ông và phụ nữ khắp thế giới biết về âm nhạc của ông. Họ yêu thích
nó. Họ xúc động vì nó. Ấy thế mà nó không phải là “âm nhạc Lãng mạn” theo nghĩa
của Byron. Nó diễn cảm và riêng tư nhưng vẫn là nghệ thuật thuần túy. Âm nhạc của
ông là ngôn ngữ giao tiếp toàn cầu của nhân loại. Khi tôi chơi nhạc Chopin, tôi
biết là tôi nói một cách trực tiếp với trái tim của con người!”
Frédéric Chopin đã được công nhận là một trong
những nhà soạn nhạc quan trọng và độc đáo nhất của thời kỳ Lãng mạn. Những tác
phẩm quy mô nhỏ: valse, nocturne, prelude, mazurka và polonais… (mazurka và
polonais là thể loại phản ánh chủ nghĩa dân tộc Ba Lan tha thiết trong
ông) rất quen thuộc nơi người yêu âm nhạc. Những tác phẩm này kết nối giai điệu
diễn cảm thơ mộng và hòa âm.
Bản Étude No. 3 giọng Mi trưởng được soạn vào
ngày 25 tháng 8 năm 1832 trong Bộ 12 étude Op. 10, xuất bản năm 1833 và đề tặng
Franz Liszt còn được gọi bằng những cái tên Pháp như Tristesse (Nỗi
buồn) có lẽ là étude được nhiều người biết đến nhất của Chopin. Etude được gọi
là một khúc thơ nhỏ bằng âm nhạc và cách phân nhịp có thể hát lên được tuyệt diệu
của nó (cantabile) bộc lộ tình yêu lớn lao của Chopin. Có một giai thoại
kể rằng trong lúc dạy bản étude này cho một học trò của mình là Adolf Gutmann,
Chopin đã bật khóc và kêu lên: “Ôi quê hương tôi!” Chopin cũng lưu ý rằng tác
phẩm này là một trong những tác phẩm thân tình nhất ông từng soạn. Ông tuyên bố: “Cả cuộc đời tôi, tôi chưa bao giờ có thể tìm thấy lần nữa một giai điệu đẹp
đến thế.”
HENRYK WIENIAWSKI
Henryk Wieniawski sinh ngày 10 tháng 7 năm 1835 ở
Lublin, Ba Lan. Mẹ của Henryk là một nghệ sỹ piano chuyên nghiệp, bà dạy
cho cậu những bài học đầu tiên và đưa cậu bước vào thế giới âm nhạc. Vượt qua tất cả những trở ngại do không đủ tuổi và nguồn gốc ngoại quốc, cậu bé
Ba Lan Henryk được nhận vào Nhạc viện Paris năm 8 tuổi. Sau khi hoàn thành khóa
học với thành tích huy chương vàng, Henryk tiếp tục ở lại Paris để hoàn thiện kỹ
thuật dưới sự hướng dẫn của giáo sư Joseph L.Massart. Wieniawski tiếp tục học
sáng tác ở Nhạc viện Paris cho đến 1850. Với niềm kiêu hãnh và định kiến
của giới thượng lưu Anh, cha mẹ của Isabella Hampton đã phản đối quyết liệt
đính ước giữa con gái mình và chàng nghệ sĩ Wieniawski “xướng ca vô loài”.
Nhưng sau khi được nghe tác phẩm Légende (Truyền thuyết) của
Szymanowski viết tặng người yêu Isabella Hampton, hai ông bà đã bất ngờ thay đổi
quan điểm, chuyển sang ủng hộ mối lương duyên này.. Năm 1860 là một năm bước
ngoặt trong cuộc đời và sự nghiệp của Wieniawski với hai sự kiện trọng đại. Đó
là đám cưới của ông với Isabella Hampton và việc ông nhận lời Anton Rubinstein
tới định cư tại St. Petersburg để giúp thành lập một nhạc viện ở thành phố Nga
này.
Gia đình Wieniawski sống ở kinh đô Saint
Petersburg - thành phố duy nhất trên trái đất được UNESCO đưa vào
danh sách Di sản văn hóa thế giới từ 1860 đến 1872. Gia đình Wieniawski sống
ở kinh đô nước Nga St. Petesburg từ 1860 đến 1872 (St.
Peterburg là thủ đô của Nga từ năm 1712 tới năm 1918). Ở đó, ông có
một hợp đồng ba năm làm nghệ sỹ solo ở các nhà hát và cung điện. Điều kiện
công việc đã cho phép Wieniawski có thời gian đi du lịch trong suốt mùa xuân và
mùa hè, ông tiếp tục đi châu Âu với một lịch trình bận rộn của những buổi hòa
nhạc. Từ 1872 đến 1874, Wieniawski đi Mỹ cùng với Rubinstein. Ông miệt mài với những buổi biểu diễn, và chính điều đó đã làm sức khỏe của ông giảm
sút một cách nghiêm trọng. Tháng tư năm 1879, ông tổ chức một buổi hòa nhạc cuối
cùng ở Odessa để từ biệt khán giả. Wieniawski mất vì bệnh tim ở Moscow vào năm
1880 khi mới 45 tuổi, đám tang diễn ra ở Warsaw với sự có mặt của bốn mươi
nghìn người.
Polonaise là một điệu nhảy truyền thống, cổ xưa
nhất của người Ba Lan. Polonaise được sinh ra trong giới quý tộc Ba Lan hồi thế
kỷ 16. Sau đó, nó lan ra khắp giới quý tộc châu Âu. Polonaise là một
điệu nhảy mang nhiều tính nghi thức trịnh trọng hơn là một điệu vũ thông thường.
Mazurka là một điệu vũ dân gian vùng Mazovia, miền
trung đông của Ba Lan, đặc biệt được các bạn trẻ yêu thích. Mỗi bản nhạc chứa đầy
sắc màu rực rỡ, biến đổi lung linh, muôn màu mà giới phê bình âm nhạc đương đại
đánh giá là cuốn "Bách khoa toàn thư" âm nhạc về những tình cảm của
con người.
Điệu nhảy mazurka nhanh chóng điệu nhảy được
toàn dân Ba Lan biết tới và vô cùng yêu thích, sau đó mazurka đã vượt ra ngoài
biên giới và trở nên thịnh hành ở nhiều nước Châu Âu khác như Anh, Nga, Pháp, Đức...
Mazurka có thể dành cho một đôi độc diễn hoặc 4-8 đôi đồng diễn một lúc.
Nhiều nhà soạn nhạc cổ điển châu Âu đã viết những
bản mazurka bất hủ, tiêu biểu như bản Mazurka số 57 của nhạc sĩ thiên tài
Frédéric Chopin cho độc tấu piano. Henryk Wieniawski viết hai bản cho violon
hòa tấu piano, và vào những năm 1920, Karol Szymanowski đã soạn bộ hai mươi bản
mazurka cho độc tấu piano. Điệu mazurka đã sinh ra những điệu nhảy hiện đại
khác sau này, ví dụ như varsoviana, kujawiak và oberek.
LỜI BÌNH:
Frederic Chopin là nhạc sĩ thiên tài Ba Lan, một
nhạc sĩ chân thành và cảm động. Nhạc sĩ Đức Mendelssohn từng thốt
lên: "Chopin là cả một lò lửa. Ông nung chảy tất cả những gì mà cuộc sống
ban cho. Và ông ấy rút ra từ đó kho báu hết sức quý giá". Ba nhạc sĩ tạo nên phong cách piano thế kỷ XIX là Chopin, Schumann,
Liszt. Âm nhạc của Chopin quyến rũ bởi vẻ đẹp giai điệu, làm ta cảm phục
bởi vẻ duyên dáng tao nhã, nó diễn đạt những sắc thái tế nhị, những rung động của
tâm hồn. Các giai điệu trong Ballade, Nocturne, Mazurca, Polonaise,
Scherzo, Concerto của Chopin tuôn chảy tự nhiên, mềm mại thấm đượm tính chất trữ
tình của âm nhạc dân gian Ba Lan. Chopin không phải là nhà soạn
nhạc giao hưởng. Ông thổ lộ tất cả ý nghĩ và tình cảm của mình vào
đàn piano, để “hát” trên phím đàn. Chopin là một nhà thơ đầy cảm hứng
trên đàn piano. Sức mạnh hấp dẫn của nhạc phẩm của Chopin được Schumann đánh giá là:
Trong cuộc đời âm nhạc của mình, Henryk
Wieniawski là một nghệ sỹ có cá tính lớn, mạnh mẽ trong thể hiện và sâu sắc về
kỹ thuật. Kỹ thuật của ông vẫn tạo ảnh hưởng rõ rệt đến phong cách của một số
nghệ sỹ violon Trường phái Nga. Chính Wieniawski đã dạy cho các học trò của ông
một cách cầm vĩ của riêng mình, đó là một cách cầm vĩ rất cứng, cho phép chơi
những “nốt láy ma quỷ”.
Những sáng tác của Wieniawski là những giá
trị đỉnh cao của kỹ thuật và nghệ thuật đàn violon, tập trung vào các thể loại
biến tấu, fantasie, capricio và concerto. Nhiều tác phẩm xuất sắc của
Wieniawski cho đến nay vẫn thường xuyên được biểu diễn
như Légende, Tarantella, Etudes-caprices op.18, Polonaise Brillante
op.21, Fantasia on Faust, đặc biệt là hai bản Concerto violon Fa thăng thứ và
Rê thứ cực khó. Các sáng tác của ông thường mang một niềm say mê bất tận đối với
những điệu nhảy truyền thống Mazurka và Polonaise của Ba Lan.
Âm nhạc trong một điệu Polonaise rất đặc trưng với
những âm thanh đứt rời và nhấn rất mạnh, mang nhiều kịch tính với tốc độ chậm.
Để phục vụ cho giới quý tộc thượng lưu, những nhà soạn nhạc nổi tiếng như Bach,
Handel, Mozart, Beethoven, và cả Schubert đều đã từng viết những bản nhạc phục
vụ cho các bài nhảy polonaise. Trong đó nổi bật nhất có Chopin với tất cả 13 bản,
đương thời ông coi việc soạn nhạc cho các điệu nhảy truyền thống của dân tộc Ba
Lan là một cách để thể hiện tình yêu nước của mình. Vũ điệu mazurka nhanh, mạnh,
sôi động và trẻ trung, về sau nó trở nên phổ biến trên khắp châu Âu suốt thế kỉ
19. Quốc ca Ba Lan cũng là một bản mazurka. Điệu mazurka đặc trưng với những tiếng
giậm chân của người nhảy, những tiếng nện gót giày tạo nhịp điệu mạnh mẽ và khỏe
khoắn. Loại nhạc cụ đi kèm là những chiếc kèn túi (bagpipes) - một nhạc cụ bình
dân của người Ba Lan. Điệu nhảy mang tính chất tự biên tự diễn, thể hiện tính
sáng tạo và tài tình của người nhảy, có tới hơn 50 điệu mazurka khác nhau. Những
bản marzuka của Frederich Chopin thực sự là những "bức tranh" xinh xắn,
những bức hoa bằng âm thanh mỹ lệ. Wieniawski và Chopin được coi là “một cặp
song tấu trong mơ”: Thiên tài đã tạo nên vẻ đẹp của âm nhạc, còn sức sống
của vẻ đẹp ấy lại bắt nguồn từ tâm hồn và truyền thống Ba Lan. (Federyk
Chopin (1810-1849), Henry Wieniawski (1835-1880) đã làm rạng danh nền âm nhạc
Ba Lan.
LƯƠNG VĂN HỒNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét