Tâm chúng sanh
và tâm của bậc giác ngộ?
và tâm của bậc giác ngộ?
Tâm của một chúng sanh không tu tập là tâm bị vây kín bởi tư
tưởng, hết tư tưởng này đến tư tưởng khác, người xưa gọi là tâm viên ý mã (tâm
như khỉ, ý như ngựa). Đứng về mặt nhận thức mê lầm, người bình thường chỉ thấy
tâm mình hiện diện tương tục bởi các tư tưởng cho nên họ nhìn nhận có một cái
tôi đại diện cho các khởi tưởng này là tâm.
Tâm của các bậc giác ngộ thì luôn hiện diện trong khoảng lặng
sống động. Tâm thanh tịnh dù có ứng hiện bao nhiêu tư tưởng, nhận biết bao
nhiêu hình tướng đi nữa thì biểu hiện của tâm cũng là giải thoát hay như kinh
Duy Ma Cật nói: “Tâm tịnh thì cõi nước thanh tịnh”. Hoặc: “Hay khéo phân
biệt các tướng mà nơi nghĩa Đệ nhất chẳng động”.
Tâm của bậc giác ngộ chỉ có một vị giải thoát; tuy nhiên, nói
giải thoát không có nghĩa là phủ nhận tất cả các tư tưởng, và các hình tướng;
mà ngay khi khởi tưởng, khi có hình tướng, thay vì chấp nó thật có mà bị dính mắc
vào thế giới sanh tử; bậc giác ngộ nhận biết nó là sự biểu hiện từ tâm giải
thoát và nó chính là tâm giải thoát. Họ biết được như vậy vì họ luôn luôn sống
bằng sự yên tĩnh sống động, hay tĩnh thức.
Tâm thanh tịnh, tâm rỗng rang và sáng tỏ, tâm này là tâm nền
tảng, nó có sẵn cho dù chúng ta có mê hay ngộ. Người kinh nghiệm được tâm này
trong tu hành của mình là nhận biết xưa nay tâm vốn thanh tịnh. Cho nên câu nói
nổi tiếng của Lục Tổ Huệ Năng là: “Xưa nay không một vật” nhằm chỉ cho chúng ta
thôi dứt đi những che chướng bất tịnh trong cái thấy mà nhận ra xưa nay tâm vốn
thanh tịnh.
Chúng ta cả đời sinh ra và lớn lên hết dính mắc chuyện này đến
dính mắc chuyện khác, chúng ta luôn luôn khổ đau, bất toại nguyện, chúng ta
luôn luôn muốn mình thay đổi để trở thành một cái gì đó tốt hơn. Đớn đau thay
chúng ta không biết rằng ngay tại đây và bây giờ chúng ta đang sống trong sự ứng
hiện của tâm giải thoát. Chỉ cần nhận ra điều này thì mọi phiền não đau khổ của
cuộc đời sanh tử tiêu vong theo sự lầm chấp hư vọng, tưởng rằng các tướng là có
thật.
Để cho dễ cảm nhận, chúng ta phân tích khoảng lặng trong một
bản nhạc nhằm có sự tiếp cận, thông hiểu trong một bản nhạc; rồi từ đó so sánh
với tâm để có thể nhận ra khoảng lặng sống động của tâm.
Như thế nào là khoảng lặng?
Trong một bản nhạc thông thường được biểu hiện bằng những nốt
nhạc và nốt lặng. Một nốt nhạc được biểu hiện hai mặt: một là âm thanh cao hay
thấp của nốt nhạc; hai là trường canh, là khoảng thời gian mà âm thanh đó kéo
dài bao lâu.
Nốt lặng nhằm biểu hiện không có âm thanh và thời gian diễn
ra không có âm thanh này.
Như vậy một bản nhạc được phủ kín bởi các nốt nhạc và cả nốt
lặng. Nhưng khi chúng ta chịu quan sát chúng ta sẽ thấy: nếu một nốt nhạc hay
nhiều nốt nhạc có thể hiện diện bất kỳ là có một khoảng không gian thinh lặng
làm nền tảng luôn luôn hiện hữu để dung chứa sự hiện diện này. Giống như hư
không luôn luôn có mặt làm chỗ cho các hình tướng hiện ra. Khoảng lặng mà chúng
ta muốn nói ở đây không phải là nốt lặng mà là sự tĩnh lặng cùng khắp luôn luôn
hiện diện để dung chứa mọi âm thanh.
Như vậy sự tĩnh lặng luôn luôn có mặt, vì nó luôn luôn có mặt
cho nên khi không có biểu hiện của nốt nhạc thì tĩnh lặng hiện diện và sự hiện
diện như nó đã có trước này bao lâu chỉ khi có một nốt nhạc khác chiếm chỗ;
và sự tĩnh lặng lại bị che khuất bởi âm thanh.
Thế nào là khoảng lặng sống động?
Tâm của chúng ta cũng diễn ra tương đồng như một bản nhạc. Tư
tưởng là những nốt nhạc, sự tĩnh lặng của tâm hay tâm an định được coi là nốt lặng,
khoảng lặng. Tuy nhiên, có một sự khác biệt rất lớn ở đây. Sự thinh lặng ở khoảng
lặng của một nốt nhạc là yên lặng chết. So với sự sống động của âm thanh thì
khoảng lặng của một nốt nhạc là sự dừng dứt âm thanh.
Với tâm chúng ta, sự tĩnh lặng không phải là một sự dừng dứt
tư tưởng không thôi, mà là một trạng thái dừng dứt tâm tạo tác, nhưng sáng tỏ,
sống động. “Im lặng sấm sét” (Mặc như lôi). Cho nên tĩnh lặng khác với tỉnh lặng.
Một tĩnh lặng diễn tả sự diệt dứt của tư tưởng. Và một Tỉnh lặng
khác: có sức sống, diễn tả cũng sự dừng dứt của tư tưởng nhưng trở về cái thấy
sống động giải thoát. Đây là bước đầu của nhận biết mà Lục Tổ dạy “Nhất niệm
tương ưng, niệm niệm tương ưng”. Chúng ta phải thể nghiệm một niệm này trong
cái thấy của mình. Và niệm niệm thấy nó.
Khi đã nhận ra khoảng lặng sống động này rồi nếu an trú trong
nó, tâm sẽ có khởi tưởng, tức là một nốt nhạc khác sẽ chiếm chỗ khoảng thinh lặng.
Nhưng chúng ta đã nói ở trước rồi, với tâm thì có khác, tâm tỉnh lặng luôn luôn
có sự sáng suốt sống động cho nên dù tư tưởng có khởi sanh bao nhiêu đi nữa với
người sống được trong khoảng lặng sống động sẽ nhận thấy tư tưởng cũng không
ngoài khoảng lặng sống động. Tất cả chỉ là một Tâm, tất cả chỉ là sự tĩnh lặng
sống động. Tất cả không ngoài tỉnh lặng sống động.
Ngài Jamgon Kongtrul Lodro Thayé (1813 - 1899) dạy về Cái Thấy
và Thiền Định Đại Toàn Thiện:
“Sự nhận biết hiện tại thì trống rỗng, rộng mở và sáng tỏ; nó
không phải là vật chất cụ thể, nhưng cũng không phải là không có gì cả.
Trống rỗng, nhưng hoàn toàn nhận biết, sáng tỏ, tỉnh thức.
Giống như, thật kỳ diệu, không bởi cố gắng để nó trở nên nhận
biết, mà là nhận biết tự có, sự nhận biết liên tục hoạt động.”
Cuối cùng chúng ta tu hành chỉ là tu hành sự nhận biết này,
chúng ta phải nhận biết nó nơi tâm chúng ta và hộ trì nó. Khi thực hành tịnh
hóa tâm thức tương đối đủ bằng cách: ngồi thiền, tụng kinh, niệm Phật, Trì chú,
lễ lạy, cúng dường, bố thí, giữ giới… qua giai đoạn tịnh hóa tâm thức để tâm
xao động tương tục khởi diệt tưởng chừng không có một khe hở giữa niệm trước và
niệm sau, cho đến khi tâm tương đối được tịnh hóa, chúng ta quan sát sẽ nhận ra
được khoảng lặng sống động này của tâm.
Bước kế tiếp phải thực tập để thường xuyên nhận ra cái thấy
này. Tương tục trong nó. Tốt nhất là được dẫn dắt của một vị thầy, phải biết khả
năng của mình trong đời sống cái gì là vượt trội, thuần thục nhất, chúng ta dấn
thân vào để thực hành hạnh bồ tát trong sở trường đó. Đây là đem cái thấy đã nhận
biết đi vào cuộc đời. Theo Đại Toàn Thiện là chúng ta thực hành: cái thấy, thiền
định, hạnh và quả.
Tháng 11/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét