Tại sao cần nâng cao
Phạm Quang Tuấn (Thư số 1)
... Trước hết ta phải định nghĩa trình độ thưởng thức là gì.
Có nhiều người (có thể phần lớn người Việt Nam) bảo rằng không có gì là trình độ
trong nghệ thuật, vì mỗi người thích, cảm được một loại nhạc khác nhau. Câu trả lời
của tôi rất giản dị: Nếu BIẾT nhiều và có khả năng CẢM NHẬN được nhiều tác phẩm,
nhiều thể loại, styles, thì tức là trình độ thưởng thức cao. Tác phẩm trình độ
cao tức là tác phẩm có khả năng làm hài lòng và rung động những thính giả có
trình độ cao (vì hẳn là biết nhiều và cảm được nhiều thể loại thì những người
đó sẽ có khả năng so sánh, chọn lựa và sẽ không hài lòng với những cái tầm thường).
Anh V. viết:
Khi đọc một truyện ngắn, thường thì V. đọc 2 hay
3 đoạn đầu thấy lôi cuốn thì V. đọc tiếp, không thì bỏ qua thôi. Nhạc cũng
tương tự như vậy, V. nghĩ nếu như melodie mở đầu mà hay thì sẽ
"catch" cái tai của ngươì nghe, "hook" họ vào trong baì nhạc
mình muốn trình bày. Cho nên, thính giả có thể nói khi nghe nhạc mới, họ cần
phải thích ngay là như vậy.
Đồng ý là muốn người ta thích thì phải làm người ta cảm.
Nhưng, vấn đề là muốn "cảm" thì trước hết phải "hiểu", mà nếu
trình độ người nghe quá thấp thì rất kẹt về vấn đề "hiểu" này. Vì người Việt Nam hay dị ứng chuyện "hiểu" và "học thưởng thức" âm nhạc,
nên trước hết tôi xin đưa ra vài ví dụ trong các ngành nghệ thuật khác:
* Khi đọc câu thơ
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
thì hẳn chúng ta đều thấy là hay, đều cảm một cách rất thấm
thía cái vẻ đẹp mà Nguyễn Du đã tả. Tuy nhiên, nếu một người Mỹ không biết tiếng
Việt thì sẽ thấy nó là gibberish. Nếu học tiếng Việt 1, 2 năm, sẽ hiểu, nhưng
chưa cảm. Phải học tiếng Việt khá rành rọt mới cảm được. Ngay cả một người rành
tiếng Việt nhưng sinh ra ở đồng bằng Cửu Long, chưa đi học, hề nghe nói tới hay
thấy hình một cây liễu, thì cũng khó cảm được. Chúng ta cảm được, là vì chúng ta
có một số kiến thức về thế giới, về thi ca mà chúng ta đã học trong những giờ văn
chương cũng như những giờ khác suốt những năm trung học.
* Khi nghe ngâm
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
Hẳn những người Mỹ sẽ chẳng thấy hay gì mà chỉ thấy sì sà sì
sồ như anh ba tàu đang chửi đổng. Nhưng lỗ tai người Việt đã quen thuộc với những
âm luật bằng trắc, thì thấy âm điệu rất hay. Rồi nếu đủ vốn Hán Việt để hiểu,
thì sẽ thấy sự tê tái, bi thảm của người lính ra trận. Rồi nếu biết về hoàn cảnh
lịch sử của bài thơ, trong thời đế quốc Đường luôn luôn phải chinh chiến với
quân Hồ, thì lại càng cảm thêm. Càng hiểu thấu, ta càng cảm, càng thấy hay hơn.
* Khi nhìn một bức tranh lập thể của Picasso, một người nhà quê Việt Nam chắc sẽ cho là vụng về không đáng để ý. Nhưng nếu hiểu sơ về lịch sử hội họa
Tây phương và những cố gắng không ngừng để tìm ra những góc độ mới, thoát khỏi
cái hiện thực của thời cổ điển, thì ta mới thấy cái hay của Picasso. Nếu được học
hội họa, có chút skill, thì ta mới thấy nhữ nét cọ điêu luyện của Picasso. Cũng
vậy, nếu một bực thầy giảng giải cho ta về cách sử dụng cọ và mực trong một bức
tranh lụa thì ta sẽ cảm được cái hay của nó hơn.
* Muốn thấy một vở hài kịch hay, ta phải hiểu rõ những cái
jokes trong đó thì mới cảm được v.v...
Trở về nhạc, hầu hết chúng ta đều dễ cảm tân nhạc, nhất là
tân nhạc tình cảm buồn buồn, có thu, có tình yêu lá vàng, nhưng ngoài ra còn
bao nhiêu loại nhạc khác như jazz, blues, rock, classical, contemporary, cổ nhạc
etc. mà người thường ít khi cảm được hết, nếu không chịu học hỏi, vì không thấy
những uyên áo của nó.
Tôi lớn lên trong tân nhạc và ít nghe cổ nhạc, nên ngày xưa
không thấy cổ nhạc hay, trái lại nghe rất chướng tai. Sau này, cố sức học hỏi,
mới thấy những cái chướng tai đó là do cổ nhạc Việt Nam vượt ra ngoài những quy ước về
thang âm, hòa âm, âm sắc, chất giọng mà dùng những quy ước khác hẳn, chừng đó mới
"cảm" được những Lưu thủy, Tứ đại oán... Bây giờ, cứ nghe đàn tranh,
đàn bầu tấu lên chuỗi notes hò xự xê xang lạc lạc microtones là tôi lại cảm thấy
rờn rợn một cách thích thú, nhưng ngày xưa thì rờn rợn một cách khó chịu! Tóm lại,
càng BIẾT nhiều, ta càng HIỂU nhiều. Càng HIỂU nhiều, ta càng CẢM nhiều. Cái đó
gọi là trình độ thưởng thức. Đối với những người làm nghề nghiên cứu âm nhạc
như anh TQH thì hẳn là khả năng cảm nhận rất rộng vì kiến thức rất rộng. Tuy
nhiên, những người không chuyên nghiệp như chúng ta cũng có thể nâng cao trình
độ thưởng thức. Bằng cách nào?
Cách thông dụng nhất mà ai cũng chấp nhận là nghe nhiều cho
quen. Đây là cách mà tất cả mọi người đều làm, trong tuổi từ 0 tới khoảng 20. Đứa
trẻ muốn nói và hiểu tiếng mẹ đẻ không cần phải đi học, mà chỉ cần nghe nhiều rồi
để tiềm thức tự động phân tích, xếp loại, nhớ. Cái process làm quen với nhạc
cũng vậy. Do đó, sanh ra ở hai xã hội khác nhau, những nhạc mà nó cảm được sẽ
hoàn toàn khác nhau.
Vì lúc trẻ người ta học bằng tiềm thức, nên nhiều người lầm
tưởng rằng cảm nhận được cái hay của nhạc là hoàn toàn ở "trực giác"
chứ không phải đi qua trung gian của sự "hiểu", vì họ associate cái
"hiểu" với conscious learning. Cũng vậy, những người nhà quê ít học,
chưa bao giờ gặp người ngoại quốc có thể cho rằng tiếng mẹ đẻ của họ là
"trời cho", "tự nó có" chứ không hề nghĩ rằng họ đã phải
dày công học hỏi bằng tiềm thức.
Tuy nhiên, quá tuổi 20-25, thì phần lớn người ta mất đi cái
khả năng hay bản năng học hỏi tự động bằng tiềm thức đó, mà có khuynh hướng học
bằng lý trí, rationally and consciously. Do đó muốn tăng gia khả năng hiểu và cảm
nhận nghệ thuật, chúng ta phải học bằng lý trí: đọc sách, hỏi bạn, học thầy, tự
mình nghe và phân tách. Các trường đại học lớn đều có những khoá học dạy
"musical appreciation" để hướng dẫn mình trên con đường nâng cao
trình độ thưởng thức. Chỉ hướng dẫn mà thôi, còn có nâng được không vẫn là tùy ở
cố gắng của mình.
Nếu không có phương tiện học mấy khóa đó thì trong xã hội Tây
Mỹ, sách vở, đĩa và internet sites không thiếu gì. Phần tôi, hễ rảnh mà không
viết nhạc là tôi phải đọc sách về nhạc, nghe nhạc mới (nhất là những nhạc mà
mình khó "cảm"), hỏi bạn bè, phân tách những gì mình nghe hay đọc,
v.v...
Sẽ có người hỏi: đã cảm được một loại nhạc thì cứ nghe đi nghe
lại loại đó cho đến già cho rồi, học hỏi làm chi mất công? Theo tôi, thì càng
hiểu nhiều, mình càng có nhiều loại cảm xúc khác nhau và đời sống tinh thần,
nghệ thuật của mình càng phong phú hơn. Một người chỉ cảm được thơ lục bát thì
cũng OK, nhưng nếu cảm được thêm thơ Đường thì sẽ yêu thơ hơn (mà càng yêu nhiều
thì càng enjoy life!), và nếu hiểu đuợc thơ tự do thì lại càng yêu thơ hơn nữa.
Cảm được nhạc Hoàng Thi Thơ thì cũng thấy vui, nhưng nếu nghe được TCS, Văn
Cao, Phạm Duy v.v... thì lại càng vui hơn nữa. Để diễn tả một nỗi buồn, tài tử cải
lương hay opera có thể rống lên, la khóc kể lể, nhưng một tài tử phim Pháp có
thể chỉ nhếch mép cười: Nếu ta hiểu được cả hai cách diễn tả đó, ta sẽ là người
có trình độ cao hơn là nếu chỉ hiểu có một, và điều quan trọng là ta sẽ enjoy
phim kịch hơn. Do đó, một khi đã yêu một nghệ thuật thì ta trở thành tham lam và
càng muốn biết nhiều thêm.
Đối với người sáng tác, thì nâng cao trình độ khán giả là một vấn
đề đáng quan tâm, vì người sáng tác thường muốn diễn tả những cái mới lạ, mà
như vậy thì nhiều khi phải dùng nhũng phương tiện kỹ thuật mới. Lúc mới tập
tành sáng tác thì ta hay bắt chước những tác giả cũ, đi theo những con đường đã
vạch sẵn, nhưng rồi cứ diễn tả mãi những thu vàng, lá rơi, con nai vàng, mình
yêu nhau nhé, đừng quên nhau nhé, cố hương xa vời, mãi thì cũng chán. Phải tìm
ý khác, nhưng không thể diễn tả những ý và lời như "dây điện quấn lấy
chúng ta, bóp nghẹt mọi hy vọng" một cách hiệu quả bằng một thang âm major và
một melody đi về chủ âm được! Do đó, tới một mức nào đó thì người sáng tác đều mong
là trình độ khán thính giả cao lên để hiểu nổi tác phẩm của mình.
Thân
Phạm Quang Tuấn (Thư số 2)
Chị T. viết:
Nghe một bài nhạc, như xem... một bức tranh. Có nghĩa là ai muốn hiểu sao thì hiểu! Đừng nên "ép duyên" ai hết.
Tôi rất đồng ý. Cái vấn đề mà tôi muốn nói tới, là có nhiều
người không hiểu gì hết, chứ hiểu sai, hiểu ngược thì đã quá diễm phúc cho tác
giả vì như vậy tức là họ cũng làm một cái cố gắng nào đó để hiểu. Đằng này, không
những không hiểu gì hết, mà nhiều khi còn không MUỐN hiểu gì hết.
Người Việt mình thích tránh chữ trình độ (nhất là trong nghệ
thuật) vì tính dĩ hòa vi quý, chứ thực ra trong hành động thì ai cũng chấp nhận
là có trình độ. Như cha mẹ T. cho T. đi học nhạc, chắc cũng đâu định là để T.
làm nhạc sĩ, nhưng chắc cũng có hy vọng là trình độ nhạc của T. sẽ khá hơn. Khi
có con, chắc T. cũng sẽ cho nó đi học nhạc vì lý do tương tự Ở Sydney, 10% học
sinh trung học chọn môn Nhạc làm một trong những môn để thi Tú tài (Nhạc,
Physics, Chemistry, Maths, sinh ngữ đều là môn elective như nhau). Đâu phải
chính phủ Úc muốn bỏ tiền ra đào tạo cả triệu nhạc sĩ đâu, mà chỉ muốn nâng cao
trình độ thưởng thức nhạc trong dân chúng. Ở Việt Nam thì môn nghệ thuật duy nhất được
dạy ở trung học là thi văn, do đó trình độ thưởng thức thi văn của người Việt Nam tương đối cao hơn là trình độ thưởng thức nhạc.
Chị T. viết:
Đừng nên đòi hỏi đến trình độ người nghe, khi
chọn một người bạn mới, có bao giờ mình lại hỏi... "anh học đến lớp
mấy" vậy?! Nếu anh học nhỏ hơn tôi nhiều lớp, thì... dẹp anh qua một bên đi!. Ai hỏi như vậy bao giờ.
Vậy mà các nghệ sĩ xưa nay vẫn đòi hỏi! Khi viết truyện Kiều,
Nguyễn Du đã dùng rất nhiều tiếng Hán, tức là ông đã đòi hỏi là người đọc phải
biết tiếng Hán. T. hỏi bất cứ một họa sĩ nào, nếu họ thành thực trả lời thì họ sẽ
cho biết là họ đòi hỏi một trình độ nào đó ở ngưòi thưởng ngoạn, ít nhất là phải
đi quá giai đoạn hiện thực (realism). T. thử tới trang Văn Học Nghệ Thuật liên
mạng (hay bất cứ tạp chí văn học nào khác) và xem những bài thơ, xem có phải là
hầu hết những bài thơ đó đòi hỏi người đọc phải có trình độ ít ra là những năm
cuối trung học hay không (ít ra là người đọc phải có đủ trình độ để thưởng thức
thơ tự do mà không đòi hỏi vần điệu cứng ngắc và những câu dài ngắn đều nhau)...
Phạm Quang Tuấn (Thư số 3)
Anh B. viết:
Nói tóm lại, nghê thuật nói chung, và âm nhạc nói riêng là
thuộc phạm vi tình cảm. Còn "hiểu" thuộc phạm vi lý trí. Chúng ta
không nên lẫn lộn. Hãy để các tác giả và người thưởng ngoạn rung cảm tự nhiên
qua cây cầu tác phẩm nếu có. Phần lý trí coi như không cần thiết ở đây, cho nên
không có cái gọi là "Trình độ thưởng thức".
Chị T. viết:
Trình độ, theo T. nghĩ, phải luôn luôn có sự giản dị + chân
thật trong đó. Viết một bài nhạc, vẽ một bức tranh,... hay nói một câu chuyện
kể, mà mình đòi hỏi người nghe, người nhìn... phải cần có một "trình độ" nào đó ("ít nhất" cũng được như... mình chẳng hạn!?) là mình... thua rồi!. Thua ở đây, là mình không nắm được... sự giản dị của người đón
nhận.
Một cô giáo hay thầy giáo, khi giảng bài trước bao cặp mắt
dại khờ của những đứa nhỏ, có bao giờ thầy cô giáo "đòi hỏi" học trò phải có một trình độ nào đó để .. "thông suốt" được điều thầy cô giảng đâu! Muốn dạy một người nhỏ hơn mình: chậm hiểu + ngu đần... Điều cần
thiết là tình thương + mộc mạc + chân thật.
... Ra mắt một cuốn sách, mà mình đòi hỏi người... (chịu khó bỏ tiền!) mua phải có ít nhất một trình độ nào đó để đọc và hiểu những gì mình
viết thì cuốn sách đó chắc chắn... bạn cao lắm được ba người: Cha + Me + tác giả mà thôi.
Một câu viết, một bài nhạc, một bức tranh... mà được nhiều
người cảm xúc là do ở sự giản dị, mộc mạc, chân thật chứ không phải là do ở trình độ đâu!...
Có cái gì là trình độ thưởng thức hay không? Dĩ nhiên là có! Khi T. gửi bản nhạc
của T. đi dự thi thì những người giám khảo có cần có trình độ không nhỉ? Nếu
không cần thì tại sao họ phải quảng cáo ông này là giáo sư âm nhạc, ông kia là
tốt nghiệp học viện? Gần đây nghe nói GS Trần Văn Khê được mời về Việt Nam làm giám
khảo cuộc thi đàn tranh quốc tế, và anh VTHân từ Singapore cũng hay được mời về
làm giám khảo thi guitar - sao họ không lấy đại một anh bán vé số nào đó vô chấm
mà phải mời xa vậy? Chỉ cần anh bán vé số đó thấy rung động nhiều là trao giải.
Anh B. viết:
"Tôi có một thí dụ giản dị như sau: Khi anh gặp một người
đàn bà chẳng hạn, một là anh bị "tiếng sét ái tình" ("love at
the first sight"), tức là anh đã "cảm" ngay, hoặc là anh "cảm"
sau này mà không biết "tại sao". Hai là anh ngồi dùng đầu óc phân
tích: tại sao cô ấy "đẹp" nhỉ: Mũi dọc dừa hay mũi sư tử??, mắt
bồ câu hay mắt ti hí?, v.v... và v.v... (Xin lỗi các vị nữ lưu trong diễn đàn!). Lúc đó có lẽ anh lại phải trở về với những lý thuyết mà anh đã học hỏi để dựa
theo cái tiêu chuẩn nào đó mà phán xét trước khi quyết định có "yêu"
cô ta không!!. Như vậy tình yêu nào là tình yêu chân thật đây??. Và âm nhạc, hay
các bộ môn nghệ thuật khác cũng thế!"
Về thí dụ nhìn đàn bà đẹp của anh B., hẳn anh cũng công nhận
rằng: với kinh nghiệm sống ở ngoại quốc nhiều, nhìn nhiều loại người, chúng ta
có khả năng nhìn thấy cái đẹp ở rất nhiều sắc tộc (đen, vàng, trắng), trong khi
một người nhà quê Việt Nam ở thế kỷ 19 chắc là khó thấy cái đẹp của một người đàn bà da
trắng (mũi lõ, mắt sâu, lông lá, gò má cao, đi đứng huỳnh huỵch, to như cái bồ)
chứ đừng nói là da đen. Ngay cả thời nay, một người 40, 50 tuổi có thể nhìn thấy
những nét đẹp ở người đàn bà mà một thanh niên 20 không thấy nổi (như đôi mắt
bí ẩn, giọng nói có thanh sắc lạ...) Những người mà tôi cho là rất đẹp thời tôi
20, bây giờ vẫn thấy đẹp, nhưng không còn "quá đẹp" như thời đó nữa,
vì trình độ thẩm mỹ của tôi đã cao hơn và tôi thấy được nhiều nét đẹp mà thời
trẻ tôi không thấy (dạo đó chỉ cần mũm mĩm tủm tỉm một tí là thấy đẹp).
Tôi hoàn toàn đồng ý rằng âm nhạc và nghệ thuật phải làm người
ta rung cảm. Vấn đề là: Có cần thiết phải ráng làm TẤT CẢ mọi người, (kể cả những
người không biết gì cả về nghệ thuật) rung cảm không?. Có phải làm họ rung cảm
NGAY LẬP TỨC mới là hay không?. Có phải chỉ giản dị mới là hay không?
Câu trả lời của tôi là: không cho cả ba câu. Hơn nữa, câu thứ
ba là một câu hỏi gần như vô nghĩa, vì chữ "giản dị" trong nghệ thuật
là vô nghĩa. Trong nghệ thuật, không có gì là giản dị hay rắc rối, mà chỉ có là
mới hay cũ, quen hay không quen. Như tôi đã từng viết trong nhacviet:
"Thế nào là thủ pháp rắc rối? Thời thượng cổ, "nhạc"
chỉ có một cung (tức là chanting). Khi điệu nhạc đầu tiên dùng hai cung, hẳn có
người chỉ trích là cầu kỳ rắc rối! Rồi thành tam cung, tứ cung, ngũ cung (nhạc Việt Nam), cứ mỗi lần là sẽ có người phàn nàn là cầu kỳ rắc rối vô ích! Lúc tân nhạc
được đem vào Việt Nam với BẢY cung, ôi chao rắc rối cầu kỳ quá! Nhạc Việt Nam ngày xưa
không có hợp âm, lúc các nhạc sĩ tân nhạc đầu tiên đem hợp âm Do trưởng vào,
chà cầu kỳ quá! Bây giờ thì trình độ của thính giả có học ở Việt Nam dừng ở chỗ:
melody 7 notes (diatonic), harmony 3 hợp âm (tonic, dominant, subdominant), và
cái gì đi quá đều bị coi là rắc rối cầu kỳ.
"Đó là nói về lịch sử. Bây giờ nói về địa lý: nhũng nhịp
(rhythms) của Phi châu, đối với lỗ tai của Âu châu, rất là cầu kỳ nhưng đối với
người Phi châu lại là dễ dàng. Những hòa âm căn bản lớp vỡ lòng của hoà âm của
Âu châu lại rất khó đối với đại đa số người Việt Nam. Những notes luyến, láy, mổ,
rung trong nhạc tài tử miền Nam VN rất dễ hiểu đối với người Việt Nam ưa thích cổ nhạc,
lại rất cầu kỳ khó hiểu với người Âu Châu. Những microtones của nhạc Ấn dùng
thường ngày, những thang âm 24 notes của nhiều dân tộc, lại quá rắc rối với người
Âu châu. Sự phân biệt âm điệu hỏi ngã rất giản dị với người Hà Nội, lại rất khó
hiểu với người Saigon. Những microtones xang già xê non rất giản dị với người
Huế, lại rất rắc rối đối với người Bắc...
"Thực sự, không có gì là quá cầu kỳ cả đối với người học
hỏi, mê say, cầu tiến. Mình không quen thì thấy cầu kỳ, mình quen thì thấy bình
thường. Càng gạt bỏ cái mặc cảm về sự cầu kỳ, càng học hỏi được nhiều và có nhiều
khả năng cảm nhận các loại nhạc trên thế giới. Còn sợ sự cầu kỳ thì nên trở lại
với lối chanting của người thượng cổ, đồng thời cũng bỏ hết những nhịp "cầu
kỳ rắc rối" như valse, tango, rumba mà trở lại lối nhịp "oẳn tù
tì!"...
Bây giờ trở lại với câu: "Có cần thiết phải ráng làm tất
cả mọi người, (kể cả những người không biết gì cả về nghệ thuật) rung cảm
không? Có phải làm họ rung cảm ngay lập tức không?" thì tôi xin trả lời!
Không cần thiết! Đó chỉ là MỘT trong vô vàn con đường đi trong sự sáng tác nghệ
thuật. Cũng như trong khoa học, người thì chọn con đường develop kem đánh răng,
người thì chọn con đường nghiên cứu quantum dynamics, trong nghệ thuật cũng vậy:
có người thì chọn con đường giải trí quần chúng, có người thì nhắm vào một audience hạn hẹp hơn (như chỉ những người mê nhạc, hay chỉ những nhạc sĩ khác,
hay chỉ những nhạc sĩ trình độ cao khác). Đó là một tình trạng hoàn toàn normal.
Trong văn học Tây phương, nếu có những tiểu thuyết mì ăn liền bán để tiêu thời
giờ ở airport thì cũng có những tiểu thuyết mà chỉ những người nghiên cứu văn học
ở Đại học mới hiểu và cảm tường tận được cái hay, như cuốn Ulysses của James
Joyce. Trong nhạc, nếu có những nhạc musak để người ta đợi phone, đi lift thì
cũng có những nhạc của Schoenberg, Berg, John Cage làm người ta điên đầu. Trong
hội họa, nếu có những bức vẽ phong cảnh tại các thắng cảnh cho du khách, thì
cũng có những khai phá mới mà cả chục năm sau quần chúng mới hiểu.
Nếu áp dụng triết lý "chỉ có những gì tất cả mọi người cảm
ngay mới hay" thì đã không có Picasso mà các hoạ sĩ hãy còn vẽ như ... thời
tiền sử. Nói gần hơn, sẽ KHÔNG CÓ TÂN NHẠC ở Việt Nam, vì khi tân nhạc mới du nhập
vào Việt Nam hẳn là quần chúng nghe rất trái tai, vì đã sẵn quen với ngũ cung!. Thậm
chí nghe đàn lên một chuỗi notes piano là nghe đã chướng rồi vì nó theo equal
temperament (bình quân luật), một lối tuning rất chướng đối với tai thính giả Việt Nam thời đó. Phải có ông Nguyễn Văn Tuyên, một trong số rất ít người Việt Nam được học
nhạc lý Tây hồi đầu thế kỷ 20, âm thầm sáng tác rồi được chính phủ bảo hộ đưa
đi diễn thuyết và giới thiệu tác phẩm của mình TRONG CÁC KHÁN GIẢ CÓ TRÌNH ĐỘ,
rồi được Thế Lữ đưa lên báo Ngày Nay (mà thời đó rất ít người đọc, vì dân chúng
đa số là mù chữ, chỉ có một THIỂU SỐ CÓ TRÌNH ĐỘ tại các thành thị đọc), lúc ấy
tân nhạc mới bắt đầu phát triển, các nhạc sĩ miền bắc mới DÁM trình bày tác phảm
của mình (mới đầu là trong một đám rất nhỏ, giống như nhacviet của chúng ta), và
ngày nay T. mới có thể làm rung động người Việt Nam bằng những tác phẩm bolero!.
Một nghệ sĩ, mười nghệ sĩ hay 100 nghệ sĩ chọn con đường phục
vụ quần chúng thì không sao cả, nhưng nếu quan điểm phục vụ quần chúng,
"thỏa mãn liền" mà lấy làm nguyên tắc hướng dẫn của cả một dân tộc,
thì tất cả nền nghệ thuật của dân tộc đó sẽ rơi ngay vào cái tầm thường, ao tù,
hướng nội, không tiến bộ mà trong văn học đang gọi là "nền văn hóa làng
xã".
Nguy hiểm hơn nữa là khi quan điểm ấy được một nhà độc tài lấy
làm quốc sách!. Tại Liên xô thời 1930s-40s, Stalin cho rằng tất cả nghệ thuật phải
làm sao cho quần chúng hiểu ngay, nhất là quần chúng ít học, và do đó ông bắt
buộc các nghệ sĩ phải đi theo cái mà ông gọi là socialist realism (hiện thực xã
hội chủ nghĩa). Tất cả các tìm tòi khai phá của các nghệ sĩ, nhất là nhạc sĩ
Tây phương, đều bị cấm tại Liên xô. Đau khổ nhất là Shostakovich, đã từng bị
mental breakdown vì tác phẩm của mình bị Stalin không hiểu và ghét. Stalin (hay
là bộ trưởng văn hóa của ông ta mà tôi quên tên) đã từng gọi Shostakovich vào để
dạy cách viết nhạc!. Bên Tàu, Mao Trạch Đông cũng áp dụng chính sách tương tự.
Dường như những nhà độc tài ít học rất sợ và ghét những cái mà mình không hiểu
vì có thể động chạm đến tự ái của họ. Dĩ nhiên Mao và Stalin cũng cho rằng những
tìm tòi khai phá của Tây phương là ô nhiễm tinh thần.
Nói tóm lại, trong một nền nghệ thuật, phải có nhiều con đường,
nhiều trình độ, nhiều nhóm khán/ thính/ độc giả ở các levels khác nhau (nhưng
chắc chắn là có interaction, tức là những khai phá ở bực cao sẽ dần dần ảnh hưởng
tới bực thấp hơn và cuối cùng là tới nhạc quần chúng. Chẳng hạn, ở Tây phương,
nhạc sĩ Jazz áp dụng rất nhiều những khai phá của nhạc "serious" (từ
các nhạc viện và đại học), rồi nhạc pop bị ảnh hưởng của Jazz). Ảnh hưởng của
nhạc "serious" lên Jazz được documenter rất kỹ trong các sách về lịch
sử Jazz.
Khi nói đến thính giả âm nhạc, người Việt Nam thường hay nghĩ đến
quần chúng, nhưng thực ra trong âm nhạc có rất nhiều audiences: từ 100% dân số,
cho tới một người (như Tử Kỳ của Bá Nha), và anywhere in between. Quả thật, khi
viết nhạc, nhiều khi tôi đã nhắm đến làm rung cảm một người duy nhất (không phải
người yêu đâu nhé!), một người mà tôi vô cùng kính phục về trình độ thẩm âm
và hiểu biết nghệ thuật, và khi người ấy hiểu tôi muốn nói gì và bảo rằng tác
phẩm đó hay, thì tôi còn cảm thấy sung sướng hơn là khi một tác phẩm của mình được
một đám đông Karaoke-sĩ khen hay sau khi nghe lần đầu tiên!.
Nếu âm nhạc Việt Nam ở trong tình trạng healthy của một nền nghệ
thuật đa dạng, đa trình độ, có đủ tác phẩm để hài lòng và rung cảm đủ mọi LOẠI
khán giả, như là âm nhạc Tây Mỹ, thì đã không cần những ngưòi kêu gọi nâng cao
trình độ thưởng thức. Khổ thay, quan niệm "lowest common denominator"
đã trở thành accepted wisdom của hầu hết thính giả và ngay cả của các nhạc sĩ Việt Nam nói chung! Người nào phản đối thì bị gán cho là kiêu ngạo, là
"hù"!. Và do đó mà tân nhạc Việt Nam dậm chân tại chỗ hay thoái hóa từ mấy
chục năm naỵ Những tác phẩm giá trị như Hòn Vọng Phu thì ra đời từ thời 1940s,
Mẹ Việt Nam từ thời 60s, mấy chục năm gần đây còn gì nữa đâu.
Phạm Quang Tuấn






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét