Hương vị đời
Chút đăng đắng trong cuộc sống
1. Thằng
Chà hý hửng cầm hai cuốn truyện Tàu bước qua ngạch cửa khi trời vừa hừng sáng.
Bữa nay chúa nhựt ba nó ở nhà nhưng đã cho phép nó đi đổi truyện. Ngày thường
ông đạp xe máy ra Trà quít làm việc tối mịt mới về, lợi dụng giờ giấc nó tự ý
đi không cần phép tắc, nhưng khi ông ở nhà thì phải hỏi phải thưa. Nó bước nhè
nhẹ ngang qua chuồng gà tính mở cửa ngỏ thì con Ô nhảy ra chuồng hồi nào không
biết lật đật chạy theo quấn quít bên chưn. Con Ô thân thiện thiệt tình nhưng
sáng nay sự thân thiện đó không làm cho thằng Chà khoái chí chút nào. Hai cuốn
truyện Tàu được đưa ra quơ quơ làm võ khí nhưng con Ô chỉ cần né đầu là tránh
được dễ dàng rồi cứ lẩn quẩn theo cản chưn trở cẳng. Thằng Chà tức khí đứng lại
tính ăn thua đủ thì con Ô cũng khựng lại, ngóng cao cổ đập cánh phành phạch rồi
cất tiếng gáy. Không khí đương yên tĩnh bỗng sôi động lên, đàn gà mái nhao nhao
vừa cục tác vừa gục gặc đầu đủng đỉnh đi tới đi lui trong chuồng hay chõ mỏ qua
khe rào kêu réo. Thằng Chà thừa cơ hội, lận hai cuốn truyện vô bụng, kéo áo phủ
xuống, cuốn nào cũng đã được chủ nhơn đóng bằng giấy dầu nên nó không sợ mồ hôi
làm ướt. Mau chưn nó phóng ra ngoài. Con Ô sau một giây ngơ ngác, chạy đuổi
theo chủ chừng 5, 7 thước thì bỏ cuộc, quay vô bay đậu lên hàng rào chuồng
chừng một vài phút rồi nhảy xuống hăm hở rượt đuổi bầy thê thiếp, không còn tha
thiết gì tới chủ nữa.
Đã tờ
mờ sáng. Đằng xa kia, nơi chưn trời một chút ánh hồng bắt đầu ló dạng. Tiếng
ếch nhái đã hết inh ỏi. Màn sương khuya và gió lạnh báo hiệu cho thằng Chà bằng
một cơn nhảy mũi dài tiếp theo một cái rùng mình nổi ốc từ duới chưn cẳng lên
tới tay chưn. Nó kéo hai vạt áo lại sát nhau, bẻ cao cổ áo rồi lấy tay đập nhè
nhẹ lên đầu để cái nón nỉ cũ của cậu nó vạt ra cho được chắc hơn. Nó nhắm hướng
cầu Ngang đi miết…
Con
đường đê tháng Hè đất cứng, chủ ruộng đã xắn đất đắp nện tạo một chút phẳng
phiu xe máy chạy được, nhưng với đứa đi chưn không như nó một lúc thì thấy hơi
nhói nhói dưới gót. Nó cảm thấy vậy thôi, không quan trọng lắm nên vừa đi vừa
suy nghĩ tới lúc gặp mặt con Quyên đổi hai cuốn truyện nầy lấy hai cuốn truyện
khác. Tùng dịp nói vài ba chuyện bâng quơ ngó mặt cho đở nhớ.
Nghĩ
tới đây thằng Chà cười hí hí một mình, nhảy chưn sáo vài ba cái trước khi đi
lại như bình thường.
Mấy
người đàn bà đi chợ sớm bước mau qua mặt nó. Một người quay lại hỏi chọc:
‘Chà,
Chà, mầy đi xóm sớm ha! Đi đổi truyện Tàu hay đi thăm nhỏ Quyên đó mậy?’
Một
bà xồn xồn, bà con xa với phía ba nó, lên giọng răn đe của người trưởng thượng:
‘Coi
chừng đó, nó lớn hơn mầy hai tuổi lận, lơ mơ nó đánh cho sặt máu mũi. Năm sau
thì nó tới tuổi bẻ gảy sừng trâu, vật mầy như vật ếch, đừng có tưởng bở!’
Chị
ta nói tới đây thì như thích thú day qua phân bua với người đồng hành:
‘Chị
coi, con nhỏ lớn sộ, thằng nầy có chút nhí mà tối ngày tò vè, xẩn quẩn. Muốn
lắm nên kiếm chuyện tới lui hoài. Mà khổ, con nhỏ coi bộ chịu đèn mới chết một
cửa tứ mấy thằng trang lứa lối xóm của nó.’
Chị
ta coi bộ hứng chí với lời châm chọc của mình, bèn cười hô hố sau câu nói.
Người
đàn bà đầu tiên thấy vui vui, quay qua thằng Chà, dạy đời:
‘Chà
mầy đừng có lớ ngớ đứng ngoài vàm nữa nha, không múm vô vàm thì thiên hạ ẳm mất
tiêu giờ. Con nhỏ cũng ngộ đến chứ có sứt môi méo miệng gì đâu nà! Da nó lại
trắng nữa, dân ruộng rẫy mà như vậy thì kiếm đâu được đứa thứ hai!’’
Được
mợi cái người có bà con bước gần tới vò đầu nó:
‘Ối
chà! Trước khi đi thăm mèo cậu đã hớt tóc tai đàng hoàng ha. Thầy hù nào mà hớt
coi được đến. Con Quyên nó chết mê chết mệt còn gì!’
Thằng
Chà cười cười trong họng mà ngượng ngịu ngang, không trả lời trả vốn gì hết,
cắm đầu cắm cổ bước mau qua khỏi đám đàn bà nhiều chuyện. Họ quay qua nói với
nhau rậm ran về đề tài trai gái bồ bịch tình tang trong xóm. Nó bối rối, ngó
ngoái lại coi họ có nói gì về mình nữa không. Hình như đề tài đã được đổi quaq
chuyện cá mắm, chồng con. Nhìn từng cái rổ tre, từng cái giỏ xách đong đưa theo
mấy cánh tay đánh đồng xa của các bà, nó nghĩ ngợi bâng quơ về một hình ảnh ôm
ấp trong trí.
Trời
sáng lần, âm thanh và cảnh tuợng đêm tối đã được thay bằng giai điệu của hoạt
cảnh ban mai. Tiếng gió nhẹ xào xạc qua kẻ lá tre hòa với tiếng nghiến răng của
hai thân tre cọ vô nhau theo gió mạnh, tiếng chó sủa xa xa và tiếng lịch bịch
của mấy con trâu bị chủ đánh ra đồng…
Bỗng
nhiên thằng Chà xuýt xoa rồi cong một chưn lên, nhảy cò cò. Đổ cộc, nó rủa
thầm:
‘Mắc
dịch mấy thằng cha hút thuốc liệng tàn bậy bạ. Vái cho chết tiệt hết khỏi hại
người khác. Tàn thuốc hút rồi cũng không biết liệng xuống ruộng, liệng bậy trên
đường đê, con nít đạp nhằm một cái đau thấu mây xanh! Trời mới tưng bửng sáng
đã làm tầm bậy rồi! ’
Nó
giơ bàn chưn lên dòm dòm. Tuy đau nhưng cũng không tới nỗi nào. Nó sửa sửa lại
hai cuốn truyện Tàu cho yên vị rồi tiếp tục đi. Cây me keo làm ranh giới Xóm Me
Keo cuối làng nó với xóm Mả Lạn đầu làng của nhỏ Quyên đã được bỏ lại sau lưng.
Mặt trời sau rặng cây bên kia sông đương hé dạng.
Nó
lầm lũi đi tới, chỗ nầy đồng vắng nhưng đất đồng khô nứt nẻ không phải ruộng,
mấy tháng trước đội banh hai xóm đá giao hữu được vài lần thì giải tán vì
thường xảy ra xích mích, đánh lộn đánh lạo khiến mích lòng mích bề người lớn
một thời gian. Nhớ tới chuyện đó thằng Chà xuýt xoa thầm tiếc. Nó thấy lời nói
thầy Thìn là đúng: ‘Bây chơi thể thao mà không có tinh thần thể thao chút nào
hết! Thường thì phải theo phong cách mã thượng: Ăn không kiêu ngạo hay hạ nhục
địch thủ, thua không làm trận làm thượng rồi kiếm cớ gây sự. Điệu nghệ chơi bời
là vậy… Ai đời tụi bây bị ôm mấy trái thì bữa sau chận đường đánh thằng đá vô
gôn, còn đương đá thì đốn giò, chặt ống quyển mấy thằng giỏi của đội kia. Chơi
vậy thì chơi với chó chớ chơi với ai! Cái mửng chơi xấu nầy lớn lên có nước nằm
nhà, dầu đá hay cách mấy cũng không ai cho vô hội tuyển trung bình chớ đừng
mong gì được vô hội danh tiếng như Ngôi Sao Gia Định hay AJS.’
Từ
hình ảnh thầy Thìn nó nhớ tới hai má lúm đồng tiền của nhỏ Quyên và thấy lòng
mình mát rượi, xao xuyến. Nó vừa đi vừa đá một cục đất tròn theo từng bước
chưn, tưởng tượng là trái banh mà nó đương lừa để kiếm cách giao cho bạn làm
bàn.
2. ‘Bữa
nay tía đi coi mạch bốc thuốc cho ông quản Hên ở làng bên.’ Nó mừng rơn khi
nghe con Quyên báo tin đó. Con nhỏ hí hửng:
‘Chà
ngồi chơi một lát nha, Quyên đi nấu chè táo xọn hai đứa mình ăn chờ tía về. Có
cuốn Phong Kiếm Xuân Thu tía mới mua tháng trước, quí lắm,
Chà coi sơ cho đỡ ghiền trong khi đợi chè.’
Con
nhỏ lăn xăn chạy lên chạy xuống vừa lo nồi chè vừa tiếp bạn. Lửa củi nóng hắt
làm má nó hồng hồng, thằng Chà ngó thiếu điều rớt cặp mắt. Con nhỏ bẽn lẽn lấy
khăn lông lau mồ hôi mặt, ngồi xuống đối diện bạn chơi hỏi đố chuyện Tàu.
‘Chà
đố trước đi.’
Cũng
cái mửng cũ, nó hỏi chuyện ai cũng biết để lấy lòng bạn:
‘Chuyện
Tôn Tẩn giả điên trong bộ nào bà biết không?’ Nó dùng tiếng bà thay vì kêu bằng
Quyên như mọi khi.
‘Dễ
ợt! Xuân Thu Oanh Liệt!’
‘Lúc
cuối cùng ông ta ra sao vậy kà?’
‘Ổng
vô núi Thạch Nhân tu luyện.’
‘Rồi
sao nữa?’
‘Mất
biệt, không ai biết gì hơn. Có lẽ theo thầy Quỷ Cốc tu luyện linh đơn rồi thành
tiên.’
‘Hay
ha! Bà rành sáu câu ha. Thiệt ra ông làm như vậy mới là có cốt tiên. Thành công
giúp đời rồi thì lo tu dưỡng cho mình. Trần thế vốn nhiều bụi nhơ, người có cốt
tiên không ai màng.’
Con
Quyên đưa tay lên chồng sách nhón lấy bộ Xuân Thu Oanh Liệt cầm
tay, hỏi:
‘Ba năm luyện pháp núi Vân Mộng,
Một lúc đem ra giúp vạc Tề.’
Nhỏ
Quyên thấy thằng Chà thuộc nên cùng đọc với bạn hai câu sau:
‘Công toại danh thành lòng chẳng động,
Về non tu luyện lánh cơn mê.’
Hai
đứa cười lớn khi hết câu. Con Quyên vui quá, giơ cao bộ truyện đập xuống chồng
truyện trên bàn. Ngực nó bật tung một cái nút bóp. Nó lật đật đưa tay lên che.
Thằng Chà lần đầu tiên thoáng thấy mãng trăng trắng huyển ảo trước ngực bạn,
lập lại mấy tiếng lánh nơi mê theo
giọng hỏi làm cho Quyên mắc cở bỏ vô nhà trong một nước sau tiếng nói lầm thầm:
Đồ quỉ!
Ngồi
đó hèn lâu mà con nhỏ không ra, buồn tình nó đứng dậy nói lớn:
‘Tui
đi về nha bà! Chè táo xọn đâu không thấy đợi hoài. Lại còn bị giận hờn.’
Tiếng
con Quyên sau bếp vọng ra:
‘Hơi
(mới) có! Bộ đói lắm sau mà hối vọng ngược vọng xuôi vậy?’
Nó
mừng rơn khi con nhỏ hai tay bưng chén chè đầy ắp để trên dĩa đàng hoàng. Đưa
tay đở, tùng dịp đụng vô mấy ngón tay ngà ngọc, nó nói theo kiểu ‘làm quen’ để
địch thủ hết giận:
‘Chà
thích cách nói thiệt là miền Hậu giang của Quyên: hơi (mới) có, tiếng mới được
nuốt đi tạo một thổ ngơi đặc biệt dễ mến cách gì, cũng như nghe mấy thiếm bán
hàng nói thồi lại, nói giùm làm, Chà
thấy chơn chất gần gũi làm sao ấy!’
Cặp
môi cắn chỉ mím nhẹ chịu đựng chừng vài giây rồi mới hơi mỉm cười. Nó nói nhỏ
giọng thủ thỉ êm đềm của người tình:
‘Đừng
giận nha! Cho Chà xin lỗi nha.’
Con
Quyên nhỏ nhẹ:
Bạn
hữu thì ai chấp nhứt gì, nhưng xin đừng nói chơi, nó nhẹ thể con người mình đi!’
Hai
đứa cúi đầu mạnh ai nấy ăn, không khí tuy đã không còn nặng chình chịch như hồi
nảy nhưng lòng nó vẫn còn mặc cảm như đã làm một lỗi lầm rất lớn. Nó cố gắng
không ôn lại trong trí cái mình vừa mới thấy mà nghĩ tới cách làm sao cho con
Quyên hết giận.
Thầy
Thìn về nhà coi như một sự cứu bồ đúng lúc, thằng Chà lật đật rút lui sau khi
xin phép mượn lại bộ La Thông Tảo Bắc với
bộ Phong Thần Diễn Nghĩa. Con nhỏ không thèm ngó nó từ
giả.
Vậy
mà con Quyên hết hờn sau đó không lâu. Những lần tới đổi truyện tiếp theo hai
đứa vẫn thân mật như thường. Có lần con nhỏ nói giọng người lớn không ngờ:
‘Truyện
Tàu tức là truyện của người Tàu, truyện bên Tàu. Nước người ta có nhiều tuồng
tích hay ho như vậy người nước mình thì mạt rệp từ đường, đi cày đi cấy cực khổ
đã không đủ ăn thì chớ lại còn bày đặt rượu chè be bét như hủ hèm. Lúc say xỉn
thì lè nhè rồi đánh đập vợ con hay gây sự đâm chém thiên hạ. Còn lúc bình
thường bị làng xã ức hiếp, bị phú lít mã tà đá đít bộp tai thì ôm đầu máu chịu,
im re chẳng dám phản kháng.’
Thằng
Chà không nói gì. Những chuyện nầy nhan nhãn đầy trời nên trở thành thường sự.
Hèn lâu nó mới nói một câu lãng xẹt:
‘Bà
biết hảo hớn là gì không? Là anh hùng đó!’
Con
Quyên chép miệng:
‘Người
Tàu họ tinh quái lắm. Họ không nói dũng nhơn, hão dũng, anh kiệt hay gì gì đó
mà nói hão hớn có nghĩa là người Tàu tốt, người Tàu
giỏi, hay người Tàu anh hùng. Làm như thiên hạ không ai là anh hùng như người
Tàu, người Hán.’
Thằng
Chà lại ngồi im, há hốc miệng nghe nhỏ Quyên lý thuyết. Nó thấy Quyên hơn mình
về mặt nầy. Con nhỏ thoát ra khỏi mấy cuốn truyện Tàu còn nó thí dính cứng vô
đó. Thuộc lòng La Thông, La Côn, La Xán lúc nhỏ lúc lớn lúc già, thuộc lòng tên
và hành trạng mấy chục anh hùng hão hớn Lương Sơn Bạc nhưng không có cái nhìn
về thực tế cuộc đời trước mặt như con Quyên.
Nó
ngó bạn không nháy mắt, thầm thán phục lẫn ước mơ. Ôi cặp má lúm hai đồng tiền
nho nhỏ, hồng hồng với vài sợi gân đỏ lờ mờ dưới lớp da mịn màng, khiến nhỏ ta
đỏ mặt quay đi chỗ khác.
3. Cửa
nhà thầy Thìn đã mở. Ông đương ngồi tréo ngoảy bên cái bàn giữa nhà. Bình trà
trước mặt. Một tay cầm cuốn sách đóng bằng giấy manh (main), tay kia cầm tách
nước đưa tới gần miệng nhưng đã ngừng lại ở đó. Ông đọc chậm rãi từng câu:
Ta chay trường khinh mạn lục thân,
Bạn bè tới thăm chẳng rần rần.
Nhắp chén trà thơm không rượu uống,
Dọn dĩa rau dưa chẳng thịt mần.
Hạ
nhẹ tay cầm sách xuống, Thầy Thìn đưa tay cầm tách nước lên chút xíu nữa, chầm
chậm nhắp một ngụm. Thoáng thấy cảnh đó Thằng Chà hơi khựng lại khi bước tới
hàng rào mồng tơi. Trong cửa buồng con Quyên nảy giờ đứng im lặng kính cẩn ngó
cha mình ngâm thơ, thấy dạng thằng Chà bèn nháy mắt hất hàm ra dấu biểu đừng
bước tới nữa.
Thầy
Thìn hạ tách nước xuống, đưa sách lên cao ngang tầm mắt, ngâm tiếp, giọng nho
nhỏ vừa đủ nghe:
Bằng hữu lạ ta sao ăn chay,
Chỉ bởi Thiên Đường – Địa Ngục hai.
Ăn chay rau giá vậy mà tốt,
Dẫn tới Linh Sơn khoái thích thay!
Thiều quang thấp thoáng lẹ lắm mà,
Mỗi ngày tâm niệm Phật Di Đà.
Hiểu lẽ Tử - Sinh, chuyện phải có,
Chốn cố hương về lòng hoan ca.
Con
Mực nằm dưới đất cuộn mình ngoan ngoản lim dim nhưng đưa mõm gác lên một bàn
chưn chủ, thầy Thìn lấy chưn kia xoa xoa lên mình con vật, nó cựa cựa uốn éo
như thưởng thức tình thương, như tỏ lòng biết ơn. Người chủ ngó xuống con vật
cưng của mình rồi cầm sách lên ngâm nga tiếp:
Thời gian trần thế có mấy hồi,
Đời người ngày tháng thoáng như thoi.
Nam choắc thành ông, nữ thành bà,
Bao người nhận thấy dung nhan đổi!
Con
Mực thình lình phóng ra hực hực chào người quen. Tách nước trên bàn được Thầy
Thìn uống cạn sau khi chậm rãi để sách xuống, ngó ra sân. Con Quyên bước thụt
vô buồng. Thằng Chà lật đật buớc vô, chào thưa bác nói mình đem đổi truyện.
Nó
trịnh trọng để hai cuốn truyện lên bàn, lí nhí:
‘Dạ,
cháu thấy kẹp trong hai cuốn nầy, mỗi cuốn có một tờ giấy oảnh. Chắc
bác để lâu rồi quên. Xin nhắc bác hổng thôi rớt mất uổng.’
Thầy
Thìn lật ra chỗ có tiền, lấy bỏ túi. Thầy ngó ngoái lại cố ý kiếm đứa con gái
rượu để thầm trao đổi gì đó, nhưng không thấy. Một lúc sau con Quyên mới bưng
ra một chồng truyện Tàu và một xấp Sách Bạn Trẻ của
nhà xuất bản Nam Việt để lên bàn.
‘Lần
nầy tía cho Chà mượn hai loại luôn nha! Coi chuyện Tàu hoài cũng nhàm. Loại Sách
Bạn Trẻ nầy tốt hơn, thực tế hơn.’
Thầy
Thìn cười lớn:
‘Con
biết ý tía đa! Đọc cho mở mắt ra với người. Mà sao con cho nó mượn nhiều như
vậy? Chắc sợ nó đổ đường tới đây mất công chứ gì! Chà nó có lý do để đi một
tuần hai ba lần. Xá gì đường xa!’
Đứa
con gái hơi xẻng lẻng, cười mím chi nói tía chọc con hoài, tụi con chỉ là bạn
hữu cùng xóm cùng làng. Chà mất công đổ đường thì ăn nhập gì tới con!’
‘Để
nói cho hai đứa nghe. ’ Thầy Thìn sửa lại bộ ngồi. ‘Đọc truyện Tàu thì phải
biết là cái tụi Tàu nó viết toàn là khoe dân tộc nó anh hùng, nào là người Tàu
có sức mạnh cử đỉnh ngàn cân, nào là người Tàu giỏi thập bát ban võ nghệ. Họ
kêu những người đó là tướng, là người Trời, là thái tử con Ngọc Hoàng đầu thai,
là một ngôi sao trên trời bị đọa. Họ kêu dân mình là Nam man, mấy dân tộc chung
quanh là Đông di là Bắc dịch là Thổ Phồn…, kêu người Âu Mỹ là Bạch quỷ. Tóm lại
ai không phải người Tàu đều là kẻ xấu, người dở, dã man, hèn mọn…’
‘Mà
thôi!’ Tách nước lại được thổi, húp. Sau cái chép miệng, thầy Thìn tiếp: ‘Tại
người mình không chịu viết truyện là do làm biếng suy nghĩ
với làm biếng tưởng tượng, có viết thì ăn cắp ý, có khi còn cọp-py nguyên con.
Để cho thiên hạ viết thay mình thì phải bị như vậy thôi. Tía nói cho hai đứa
nghe nè: Đọc thì đọc, mê thì mê nhưng phải biết cái tốt để theo cái dỡ để
tránh, đừng có lậm mấy cái pháp thuật bày đặt của họ mà quên thực tế ngoài đời…
Cuộc sống bên ngoài không dễ như trong sách đâu nà. Kẻ xấu tràn đầy như giòi
đục thịt sình, như ruồi bu xác chết. Nhưng học trung hiếu tiết nghĩa trong
truyện thì được, bắt chước làm anh hùng thì không nên. Chết như không đó!’
Con
Quyên liếc liếc thằng Chà như ngầm bảo rằng tía nói thì rán nghe để tía vừa
lòng. Thằng Chà đứng im rơ, chăm chú như nuốt từng lời vàng ngọc của thầy Thìn.
Ngó vô miệng thầy nhưng trong lòng tưởng tượng về đôi môi cắn chỉ, về má lúm
đồng tiền, về cặp mắt hột nhãn của con Quyên…
‘… Tía
thấy thằng Chà thẳng ngay. Lớn lên sẽ là người tốt, không phải là tụi ‘cầu
điền vấn xá’, tụi ‘ái bất
thích thủ’ như thiên hạ nhan nhãn thời nay!…’
‘Dạ ‘cầu
điền vấn xá’ là gì hả tía, ‘ái bất thích thủ’ cũng
vậy. Tía nói chữ mắc quá con không hiểu. Không biết Chà có hiểu không.’
Ánh
mắt thầy Thìn rọi vô mặt nó, thằng Chà nhè nhẹ lắc đầu.
‘Là
bọn đêm ngày cầu mong có được ruộng vườn chim bay gảy cánh chó chạy cong đuôi,
bọ gạt đầu nầy cướp đầu nọ để được nhà sang cửa rộng ấy mà! Bọn ham
cái gì thì ôm cứng không chịu buông tay ra. Cầu biệt thự thênh
thang ở Ô Cấp, ở Đà Lạt, ở Nha Trang, Phú quốc…, kéo vô kéo vô cho tràn họng,
cho ngập mặt thì hỏi làm sao có lòng với người nghèo khổ, với tổ quốc được. Khi
lòng tham muốn quơ quào quá lớn thì lòng thiện còn đâu chỗ trú? Chà nó có tấm
lòng thành thật. Sẽ là người tốt. Tía nói vậy đó, bây tính sao thì tính. Làm
sao coi được thì thôi.’
Người
cha quay mặt ngó thẳng vô khách hèn lâu rồi quay qua đứa con gái:
‘Chim
chóc có cái hay mà loài người không biết bắt chước. Chim mẹ đi kiếm mồi cho
chim con lúc con còn nhỏ. Khi chim con tới độ ra ràng thì giúp đẩy cho bay. Một
hai lần khi chim con bay được thì thôi không xía vô nữa. Tía cũng vậy, chuyện
tình cảm của con cái tía để con cái quyết định, không cản trở cũng không khuyến
khích.’
Con
Quyên bỏ chạy vô buồng. Thầy Thìn lắc đầu cười. Thằng Chà không hiểu hết ý
nghĩa câu nói của thầy Thìn nhưng lờ mờ thấy rằng mình không bị ghét bỏ. Nó
nghĩ rằng rồi đây nó sẽ được tới căn nhà nầy thường xuyên hơn. Và nó đưa mắt vô
nhà trong, tay nắm chặt như một người chiến thắng.
4. Ông
già mơ màng ngó ra vườn. Khu vườn đẹp theo kiểu Việt Nam với vài thứ cây ăn
trái và một vuông đất nhỏ cho mấy bà còn mạnh mạnh xới đất trồng rau. Không ăn
uống gì ba cái thứ đó nhưng ‘tưới nước ngắt lá’ để
nhớ ‘thời chưa bịnh, lúc còn sởn sơ’ là câu cửa miệng
của một số ông bà còn đi lại được. Ông già còn đủ sức để điều khiển xe lăn ra
hưởng khung cảnh khu vườn. Tôi vài lần đi thăm người bác cùng lứa tuổi ông cũng
ở trong nursing home nhiều người Việt Nam nầy từ đó quen ông và được nghe kể về
chuyện hơn bảy mươi năm trước…
‘Chúng
tôi thân thiết với nhau như vậy tới ba bốn năm, tôi nhổ giò bể tiếng, đứng
nhĩnh hơn Quyên nửa trán khi thi đậu bằng Thành Chung rồi đậu luôn kỳ thi
còm-mi làm việc ở tòa bố tỉnh Sốc Trăng. Hai đứa không thề thốt gì nhưng trong
lòng coi nhau như đã cặp bồ, không còn là bạn hữu nữa. Những lần tới nhà Quyên
tự nhiên hơn và cũng chẳng cần đổi truyện. Được cho uống nước đá chanh muối,
được trách cứ nhẹ nhàng sao không chịu đội nón dang đầu trần ra đường coi chừng
cảm nắng… Nhiều lần còn được ngồi ăn chung với thầy Thìn để nghe thầy giảng chữ
nghĩa thánh hiền. Những khi thầy đi bắt mạch xa, chúng tôi ngồi đối diện nói
chuyện tự nhiên hơn. Cũng chỉ là chuyện trời trăng mây nước, chuyện Tề Thiên
Đại thánh đánh quỷ trừ yêu. Nhiều lắm là một hai cái nắm tay. Rồi thôi. Trong
sáng.
Vậy
mà… Bỗng nhiên tôi mất tung tích Quyên. Tôi lúc đó như người chết đuối trôi
sông. Đâu chừng là đầu năm 1950. Quyên đi đâu thầy Thìn cũng không biết, chỉ để
lại bức thư tạ lỗi bất hiếu đại ý là thấy cảnh nước nhà tang thương, người
nghèo khổ bị bóc lột, kẻ cô thế bị ức oan, Tây tà nạt nộ chưởi bới dân… Lòng
quặn đau không chịu nổi. Quyên không nói mình đi với phe phái nào. Quân lưu
động trong đầm lầy, trên sông cùng rạch cạn của tướng Lê Quang Vinh, tướng Trần
Văn Soái, quân đóng ngay tại Sàigòn hoa lệ của tướng Lê Văn Viễn Bình Xuyên…
hay gì gì nữa!’
Ông
già ngừng một lúc hèn lâu, mắt mơ ngàng ngó vô mấy con chim nhảy nhót trên bãi
cỏ, vài ba con sóc vui đùa leo lên leo xuống mấy gốc cây cao. Tôi ngó vô con
người sức mõn chỉ còn lại chút trí nhớ le lói ánh chiều tàn mà nghĩ tới mai hậu
mình… Cuộc sống một người sau cùng rồi cũng như vậy sao? Tưởng ông đã quên
những gì đã nói bỗng ông tiếp, không cần ngó tôi, như là để nói với chính mình,
hợp lý như nảy giờ không có lúc ngừng nghỉ:
‘Quyên
vô bưng làm nữ cứu thương sống đời nguy hiễm rày đây mai đó hay theo phe quốc
gia làm nữ quân nhân như một nghề, sống an lành với chồng con xa chiến trường…
Tôi biệt biết. Cha Quyên cũng biệt biết. Chúng tôi hai người đàn ông liên kết
nhờ tình yêu đối với một người nữ đã biền biệt tăm hơi, thường ngó nhau buồn
thảm. Những cuốn sách của ông đóng bụi trong tủ chẳng còn mời gọi tôi như ngày
xưa. Thầy Thìn từ đó lặng lẽ như cái bóng, chuyện coi mạch hốt thuốc ai năn nỉ
lắm mới chịu đi, còn thì ngồi trên cái ghế năm xửa năm xưa với bình trà mọi
thuở, nhiều khi đến lần sau cách lần trước cả tháng cũng thấy ông trong vị trí
đó, trong dáng điệu đó khiến tôi có cảm tưởng ông ngồi một chỗ, uống trà để cầm
hơi, bỏ ăn bỏ ngủ. Ông lắm khi lãm nhãm về những thang thuốc hay như Tứ Quân
thang, Ngũ Vật thang, Bổ Trung Ích Khí thang …. rồi chép miệng thở dài. ‘Cũng
bởi những nữ tướng kiểu Đào Tam Xuân, kiểu Phàn Lê Huê, những Thập Nhị Quả Phụ,
những Sở Vân, những Mạnh Lệ Quân… chuyện sách vở không dễ như chuyện đời. Nó
bồng bột quá, nó tưởng mình là con nhà tướng, nó tưởng đâu là súng đạn cũng như
cung tên có thể né tránh được.’
Cái
xe lăn được điều khiển để ra chỗ có chút ánh nắng sớm. Gương mặt ông già có
chút rạng rỡ hơn.
‘Nói
về thầy thuốc Thìn ai ghét thì ghét chứ tôi thương đứt ruột. Ông ngâm nga thơ
phú làm mình mất thời giờ, ông tuông điển tích nầy nọ chẳng ăn nhập gì tới cuộc
sống chung quanh làm mình khó chịu nhưng đó là những kiến thức quí dàng trời.’
Ông
già hom hem lục túi lấy chai Dầu Xanh Con Ó ra xức vài quẹt trên nhơn trung,
trên yết hầu, trên chớn thủy:
‘Khổ
thiệt! Muốn xức dầu phải trốn ra đây! Xức trong đó y tá họ rầy, nói nhiều người
chịu không được mùi dầu. Nhứt là thằng y tá người Mễ. Nó nhăn nhăn mũi như là
dầu nầy thúi không bằng. Hồi xưa đi hành quân tôi thủ theo mấy chai Nhị Thiên
Đường đề phòng trường hợp… Hồi còn má tôi, mỗi khi tôi đi đâu xa má tôi cắt củm
mua cho mấy chai….’
Tôi
làm thân, đưa tay mượn chai dầu của ông, quẹt trên mũi mình mấy cái.
‘Tôi
còn nhớ thầy Thìn cắt nghĩa chữ Nhị Thiên Đường mà chắc trên đời nầy không mấy
người Việt Nam nào biết: Nhị Thiên Đường là nhà thuốc cứu người. Dầu Nhị Thiên
là dầu cứu người. Nó như ông Trời thứ hai đã cứu mạng ta, ông trời thứ nhứt là
cha mẹ đã sanh ra ta…’
Thấy
ông già vừa nói vừa ngó những chùm hoa hồng trắng vương giả, tôi liếc mau về
phía cửa sổ rồi day qua bứt lẹ cho ông hai cái hoa thiệt đẹp. Đưa bàn tay run
rẫy khô cằn đầy gân xanh ra nhận, ông gật gật đầu mà con mắt đã ươn ướt:
‘Ngày
trước đâu có tiền để mà tặng hoa tặng quà. Bây giờ muốn tặng bao nhiêu cũng
được thì đã không còn người để tặng.’
Tôi
được dịp đi sâu hơn chút nữa vào đời tư ông:
‘Bác
có bao giờ gặp lại bà Quyên không?’
‘Có
mà không, không mà có. Chẳng biết sao mà nói cho đúng!’
‘?????’
‘Cuối
năm 58, đại đội tôi đi tiếp ứng, bị phục kích, tan nát. Tôi bị thương nặng ở
hai chưn, thằng hiệu thính viên cố kéo ra khỏi trận địa chừng 100 thước, đẩy vô
một lùm bụi, lấy cây lá đậy điếm cẩn thận rồi chạy đi vì tiếng nói lào xào của
họ đã tới gần. Họ đến kéo xác đồng đội và thu dọn chiến trường. Nằm trong bụi
tôi thấy một cái ót quen thuộc, một dáng đi điệu đứng quen quen. Người xưa nói nếu
chẳng quen lung đố nhìn nhau cho đặng mà! Chỉ có cặp mắt thôi,
cô ta quấn khăn rằn ngang mũi che kín mặt, chỉ chừa có bao nhiêu đó. Tôi định
chừng hết 80% là Quyên của tôi. Tôi nín thở, không biết nên im lặng hay kêu lên
tên em. Để bảo tồn sanh mạng, tôi quyết định nằm im. Cô ta đi về phía tôi, hơi
khựng lại một chút khi nhìn thấy cặp mắt của tôi qua kẻ lá rồi quay về, kéo theo
hai người đồng đội nam, mặt đằng đằng sát khí vừa bước tới…
Ngày
ấy tới nay đã bốn chục năm rồi tôi chưa giải được bài toán đó. Có thể là Quyên,
có thể không. Có thể người ấy thấy tôi, có thể không. Đời mà! Thiệt thiệt hư
hư, tỉnh tỉnh mê mê. Phải phải quấy quấy, như sự ra đi của Quyên. Để yên lòng,
tôi đồ chừng lúc đó mình bị thương nên mê man và hình ảnh cái cô bận bà ba đen
bịt mặt bằng khăn rằn kia là không có thiệt. Mê mà!’
Tôi
nói vuốt đuôi và đưa tay đẩy cái xe lăn vài ba thước tìm chút ánh nắng cho ông
vui.
‘Có
thể là mê đó bác, chuyện nầy người ta kêu là sảng, không có thiệt đâu. Nhứt là
khi mình bị thương quá đau đớn, quá cận kề lằn mứt tử sanh.’
‘Sau
trận đó tôi thường nằm chiêm bao thấy Quyên, rõ ràng, nhưng mặt buồn dười dượi
mà vía tôi trong chiêm bao cũng buồn, cái buồn lạ lắm, kéo dài tới thức dậy hồi
lâu vẫn còn. Vía tôi hỏi gì Quyên cũng lắc đầu không nói rồi đi xuyên qua người
tôi, mất biệt. Tôi đồ chừng Quyên đã….’
Ông
già Chà bật khóc nức nở. Tôi để tay lên vai ông an ủi bằng cử chỉ thân mật.
Một
luồng gió lạnh thổi qua hơi lâu. Tôi rùng mình. Ông già hắt hơi hai ba cái
thiệt mạnh như muốn văng ra khỏi cái xe lăn rồi im trong vị thế ngồi không được
thoải mái với cái đầu nghẻo xuống, cằm chấm ngực. Tôi đợi một lúc lâu mới đưa
tay lên mũi ông để nghe hơi thở.
Êm
re.
Tránh
qua một bên để nhân viên nursing home làm việc, ngó gương mặt buồn man mác
nhưng đượm chút thanh thản của người chết, tôi nghĩ rằng Trời đất đã ban cho
ông một hương vị đời, tuy thật tế có chua cay đắng chát nhưng hương thơm của tình
yêu trai gái thuở thiếu thời còn đọng hoài trong trái tim, cứ thoang thoảng dịu
êm làm ông mang cảm giác buồn buồn dễ chịu.
Ông
già Chà ra đi mang theo cuộc tình không trọn.
Tôi biết chắc tình yêu của
ông với bà Quyên nào đó là mối tình trọn vẹn trong
lòng ông nếu không nói là đẹp đẽ vô song. Không đẹp sao ông ôm ấp nâng niu tới
hơi thở chót, không đẹp sao ông mang vác từ quê hương tới xứ người?
Trên
đường lái xe về, tôi lại muốn nghĩ rằng người nữ mà ông già Chà thấy không phải
là bà Quyên. Và người đó cũng không thấy ông đương nằm vái Trời trong bụi rậm.
Mà Trời Đất Quỷ Thần ơi! Tại sao tôi lại bận trí về chuyện tình thời xa xưa của
một ông già chẳng thân tộc gì với mình! Biết đâu lúc hắt hơi cuối đời là lúc
ông nhìn thấy cái má lúm đồng tiền của người con gái năm xưa trong khói sương
mờ ảo của Vô Thức. Biết đâu người tình Quyên chờ đợi ông bao nhiêu năm nay bên
kia cuộc đời mà ông thì cứ nấn níu hoài trên cái cõi trần tạm bợ nầy để mong có
ngày gặp lại cố nhân “lai vô ảnh khứ vô tung …”
Lời người viết truyện: Quý bạn. Truyện hơi dài
dòng há! Tôi vừa viết vừa nhớ lại vài ba chuyện của Nguyễn Tuân ấy mà: Nét
Bút Người Tử Tù. Đố chữ (?)… Mấy câu thơ ông thầy đông y Thìn
ngâm nga, thấy trong kinh ‘Bách Tuế Tu Hành Kinh’ của
Vân Thê đại sư百歲修行經﹣雲棲大師戒殺修行勸世文, kinh Phật bình dân của Tàu phổ biến ở Việt Nam vào cuối thế
kỷ 19. Dịch thoát mấy đoạn đầu: 我吃長齌慢六親 親朋來到冷淨靜 只有茶來沒有酒 只有素菜沒有葷…. Cũng nên nhắc lại vài ba từ ngữ
thời của truyện này, cuối 40 đầu 50, nay đã đổi thay hay đã mất, xe
máy: xe đạp; giấy oảnh: tờ giấy
hai chục đồng Đông dương. Tiền này có giá trị rất lớn thời đó, có thể bằng 20
triệu tiền hồ bây giờ. Xin lỗi nếu truyện làm bạn chán đọc. Hình như tôi viết
cho những người ở tuổi thất thập cổ lai… (NVS).
Sàigòn đầu tháng 3, 2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét