Lev Tolstoy (1828 - 1910) là một trong những nhà văn cổ điển
lớn nhất nước Nga, đã viết nhiều tác phẩm nổi tiếng: Truyện kể về Xevaxtopol,
Luyxerno, Chiến tranh và Hòa bình, Anna Carenina, Cái chết của Ivan Illitr, Phục
sinh, v.v... (1) Lenin đã gọi Tolxtoi là "tấm gương soi của cách mạng
Nga". Trong Anna Carenina, chúng ta sẽ thấy lại bức tranh xã hội chân thực
và sinh động của cả một giai đoạn lịch sử nước Nga vào giữa thế kỷ XIX, sau giải
phóng nông nô. Ngòi bút nghệ thuật điêu luyện, nghiêm khắc vạch trần bộ mặt xấu
xa của chế độ phong kiến chuyên chế sa hoàng Nga; những tư tưởng, nguyện vọng,
ưu điểm, nhược điểm của nông dân cùng phong trào cách mạng của họ đã gián tiếp
vang dội vào cuốn tiểu thuyết. Chính chủ nghĩa hiện thực phê phán của Tolxtoi,
cây bút biết gắn liền nghệ thuật với thời đại để phản ánh đấu tranh xã hội, đã
khiến Lenin viết nhiều bài phê bình nổi tiếng về Tolxtoi, đặt nền móng cho khoa
phê bình văn học Mác - Lenin.
Bốn năm sau khi viết xong Chiến tranh và Hòa bình, ngày 19-3- 1873, L. Tolxtoi lại hạ bút viết dòng đầu tiên của cuốn tiểu thuyết dài Anna Carenina.
Cũng như nhiều nhà văn hồi đó, Tolxtoi chịu ảnh hưởng của Puskin. Ông nói: "Tôi học tập được nhiều ở Puskin, ông là người cha của tôi, ta nên học tập ông". Đây không phải là ảnh hưởng bề ngoài về cách viết, giọng văn; cũng không phải là vay mượn, bắt chước cốt truyện này nọ. Những tác phẩm Puskin đã khơi dậy tất cả sức lực sáng tác sẵn có của Tolxtoi, thôi thúc ông làm việc và gợi nhiều ý sáng tác tốt, mới.
Nhân đọc truyện viết dở dang của Puskin: Những người khách họp mặt trong biệt thự, Tolxtoi nảy ra ý định viết Anna Carenina. Và ông dựa vào con gái Puskin là Mari Alecxandrovna Gactun làm nguyên mẫu, để tả vẻ mặt, dáng người nhân vật Anna. Bắt tay vào làm, nhà văn thực ra chỉ định phóng bút viết, chưa thấy hết tầm to lớn của cuốn truyện, dần dần sau này trong quá trình viết, nó mới đòi hỏi nhiều tâm sức. Ông cũng ngừng bút nhiều lần vì bận giúp vận động cứu tế nạn dân hạn hán, hoặc bận viết cuốn Bàn về giáo dục quốc gia để tranh cãi về phương pháp giáo dục với các nhà giáo ở Moxcva; ông lại nhiều lần chán nản, muốn bỏ dở cuốn truyện, vì thấy mình viết không hay. Đây là quãng đời sống êm ấm trong gia đình, với tình hình tư tưởng ổn định và công việc sáng tác phong phú nhất của nhà văn trong môi trường quý tộc tại trại ấp ở Iátxnaia Poliana. Hồi trẻ, ông tòng quân tại Capcadơ và dự cuộc chiến tranh Nga - Thổ ở Crưm. Nhờ đó, ông nhìn thấu bộ mặt trái của chiến tranh đế quốc tranh giành thị trường và đồng thời cũng thấy rõ tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước thật sự của binh lính và thủy thủ bình thường. Lòng cảm phục sự vĩ đại của dân tộc Nga và căm ghét chế độ nông nô khiến ông từ đó bắt đầu chú ý tới vấn đề dân cày. Ông đi du lịch nhiều nước châu Âu như Đức, Pháp, Thụy Sĩ, ý, Bỉ, Anh, và nhận ra nhiều thối nát của chế độ tư bản. Nếu Tolxtoi còn tìm thấy trong các tác phẩm của Voltaire, Diderot, Jean Jacques Rousseau, chút tính chất tiến bộ nào đó trong thời kỳ đầu chủ nghĩa tư bản thay thế chế độ phong kiến mọt ruỗng của thế kỷ XVII và XVIII ở Pháp, thì qua thực tế xã hội các nước Tây Âu nửa sau thế kỷ XIX, ông đã tận mắt chứng kiến những hiện tượng thụt lùi, phản động, bắt đầu lộ rõ không sao che giấu của chủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới. Trở về nước, Tolxtoi lần nữa hiểu thêm bộ mặt xấu xa của thực tế xã hội Nga hồi đó. Ông bắt đầu nghiên cứu cách dạy học cho bình dân, viết sách giáo khoa, và trong một năm 1862, đã mở tới 21 trường học cho người lớn và trẻ em.
Trước đó, khi còn ở Peterburg. Tolxtoi có quen nhóm văn sĩ tiến bộ trong tạp chí Người đương thời như Trernưsevxki, Turghenev, Gontrarov, Necraxov, Oxtrovxki, và cũng có quen cả những nhà nghệ thuật vị nghệ thuật như Drudinin, Botkin và Amencov. Nhưng với cả hai nhóm chống chọi nhau đó, Tolxtoi đều không cùng chung quan điểm và vẫn giữ ý kiến riêng về đời sống và nghệ thuật.
Tất cả các sự việc nhà văn theo dõi và trải qua trong xã hội thượng lưu ở Moxcva và Peterburg khi còn là chàng thanh niên ưa chơi bời phóng đãng, mọi hiểu biết và suy nghĩ về nông dân Nga khi trở về trông nom trại ấp, mọi tìm tòi và mong muốn về một chế độ xã hội thích hợp với các quan điểm chính trị, tư tưởng, đạo đức riêng, tự rút ra khi nghiên cứu triết học, khoa học, văn học và tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng hồi đó ở trong và ngoài nước, mọi kinh nghiệm già giặn gom góp sau hàng chục năm sáng tạo nghệ thuật, tất cả vốn liếng dư dật và nhiều mặt đó đủ giúp Tolxtoi viết xong cuốn tiểu thuyết lớn Anna Carenina này.
Thông qua cuộc ngoại tình éo le, chấm dứt bằng cái chết tội lỗi và bi thảm của Anna Carenina, cuộc sống gia đình lục đục của Oblonxki, mối tình trắc trở nhưng hạnh phúc của Levin, cùng đời sống tình cảm phức tạp của nhiều nhân vật khác, như Betxi Tverxcaia, Lidia Ivanovna, Lida Mercalova, Xapho Stond, nhà văn đã đặt ra vấn đề tình yêu và hôn nhân như một sự việc cá nhân và xã hội. Những việc và người được tả tỉ mỉ, thực và động, trình bày cho ta thấy các quan niệm khác nhau về tình yêu, hôn nhân, dẫn đến các việc làm và kết quả khác nhau như thế nào, các nguồn gốc xã hội sâu xa nào quyết định tính chất tốt, xấu của mối tình trai gái trong chế độ phong kiến và tư bản, cuối cùng thực chất của hạnh phúc cùng đạo đức yêu đương theo nhà văn hiểu là ở đâu? Nhân dịp này, Tolxtoi phơi trần nhiều mặt xấu xa của đời sống quý phái, từ lối sống xa hoa, lười biếng, vợ chồng lừa dối nhau, bạn bè ghen ghét, xảo trá, đến thói quen sĩ diện hão, giả nhân giả nghĩa, tranh giành địa vị, bon chen luồn cúi, nhu nhược, phá sản của tầng lớp quý tộc.
Bên cạnh chủ đề trên, nhà văn còn đưa ra nhiều vấn đề xã hội khác, có tầm quan trọng lớn hơn nhiều, chủ yếu bằng cách thông qua nhân vật Levin: Đó là các vấn đề lý tưởng xã hội, các ý kiến về dân tộc, về nông dân, về tổ chức xã hội, cơ cấu kinh tế, giáo dục, chính trị, về mọi sự thay đổi ảnh hưởng quyết định đến đời sống nhân dân, về triết học, nghệ thuật và cả về hòa bình, chiến tranh... Tóm lại, tất cả những vấn đề thời sự nóng bỏng mà bất cứ người Nga nào thời đó, ít nhiều biết suy nghĩ về vận mệnh nước nhà, đều phải lo lắng tới.
Nhiều vấn đề cấp thiết nêu lên đó chưa được giải quyết và kết luận, hoặc được giải quyết và kết luận theo lập trường riêng không ít sai trái của nhà văn, nhưng mọi vấn đề được đặt ra đã là một phát hiện có giá trị lớn lao, phản ánh đúng đắn các mâu thuẫn xã hội chính trong giai đoạn khủng hoảng trầm trọng của nước Nga gia trưởng cũ bắt đầu tan rã mau chóng trước sự xâm nhập, chèn ép của chủ nghĩa tư bản. Nhiều lý lẽ chính của "học thuyết Tolxtoi" về vần đề chế độ tư hữu, đạo đức tư sản, lợi nhuận, chính quyền chuyên chế và quân phiệt, nghệ thuật và tôn giáo, mà sau này tác giả sẽ trình bày trong các cuốn sách lý luận, như Nghệ thuật là gì?, Sám hối, Tôn giáo của tôi, Làm gì... đã bắt đầu được trực tiếp hoặc gián tiếp vạch ra trong cuốn tiểu thuyết này.
V.I. Lenin nhận xét về Tolxtoi như sau: "Một mặt thì chỉ trích thẳng tay chế độ bóc lột của tư bản, tố cáo những hành vi bạo ngược của chính phủ, tố cáo các trò hề của công lý và của hành chính nhà nước, vạch trần hết tính chất sâu sắc của các mâu thuẫn giữa tình trạng của cải ngày càng tăng thêm, văn minh đạt nhiều thành quả và tình trạng cùng khổ, man rợ và đau thương của quần chúng công nhân cũng ngày càng tăng thêm; mặt khác lại là người hiền từ đứng ra khuyên răn "không nên dùng bạo lực chống lại điều ác"... Tolxtoi vĩ đại là ở chỗ ông đã nói lên được những tư tưởng và những tâm trạng đã được hình thành trong hàng triệu nông dân Nga khi bắt đầu cuộc cách mạng tư sản Nga" (2). Những suy nghĩ của nhà văn về đời sống hàng ngày, cũng như những tìm tòi để trả lời các vấn đề xã hội lớn của thời đại đặt ra, được thể hiện bằng nghệ thuật viết truyện cao tay. Với sức làm việc trung bình mười hai, mười ba giờ một ngày, từ ý định đầu tiên chỉ là tả "một người vợ phụ bạc", qua nhiều lần bỏ dở, sửa chữa, thay đổi hoàn toàn so với bản thảo thứ nhất, tiểu thuyết Anna Carenina viết xong vào tháng 7 năm 1877. Cuốn truyện vượt ra ngoài khuôn khổ một tấn thảm kịch ngoại tình và trở thành tấm gương phản chiếu một giai đoạn lịch sử Nga, sau cải cách nông nô, vào giữa những năm 70 của thế kỷ XIX, với mọi mâu thuẫn xã hội nóng bỏng và phức tạp nhất.
Trên trang mở đầu cuốn truyện, có ghi một đề từ: "Việc báo oán thuộc về ta, chính ta lại ra ân đền bù lại", với ngụ ý: chúng ta không có quyền phán xét người đời, quyền đó thuộc về Chúa. Câu này gói ghém ý nghĩa khe khắt về luật pháp vô tình của Chúa Trời, nhưng mặt khác tỏ rõ tất cả lòng nhân đạo, rộng lượng của nhà văn với nhân vật chính. Ông muốn che chở Anna trước dư luận bất công của một xã hội ưa sống giả dối, quen chà đạp con người; ông không cho nó được quyền xét xử, vì chính nó là nguồn gốc gây ra tội lỗi. Và nếu Anna là tội nhân xúc phạm vào đạo đức, trật tự phong kiến thì đồng thời cũng là nạn nhân của lối sống giả nhân giả nghĩa. Nói vậy, không phải Anna hoàn toàn không có trách nhiệm về việc mình làm. Trong cái chết oan khiên của nàng đã mang ý nghĩa tính hậu quả không tránh khỏi của việc làm tội lỗi, về sự tự trừng phạt.
Sau nhân vật Tachiana của Puskin, Anna là một hình ảnh phụ nữ mới, tiến bộ trong văn học cổ điển Nga, đã gắng giải phóng cá tính con người, vùng vẫy thoát khỏi áp bức và nhục nhã của phong kiến quý tộc. Cùng với Trernưsevxki, Turghenev, Necraxov, tác giả Anna Carenina góp phần vào việc giải phóng phụ nữ, những người bị áp bức tàn nhẫn nhất. Mặc dầu chủ nghĩa xã hội của Trernưsevxki là không tưởng, ông vẫn cho việc giải phóng phụ nữ không phải chỉ ở mặt tình yêu, mà còn ở trên nhiều khía cạnh khác: đàn bà phải ngang hàng với đàn ông về mọi công việc xã hội, có quyền lao động hữu ích, hưởng thụ vật chất và chỉ có độc lập về kinh tế như vậy mới có tự do về tinh thần. Tầm tư tưởng, Tolxtoi về vấn đề này có phần hẹp hơn so với nhà cách mạng dân chủ. Ông chỉ đánh giá cao vai trò người đàn bà trong gia đình. Thái độ đó được thể hiện ở nhân vật Natasa trong Chiến tranh và Hòa bình, nay lại thể hiện trong Anna Carenina, với các nhân vật Doli, Kitti. Còn với Anna, ý định đầu tiên của nhà văn là phải phê phán nghiêm khắc người đàn bà bội bạc đã phá hoại nền móng gia đình. Nhưng vì đòi hỏi hiện thực và chống lại trật tự phong kiến, nhà văn thẳng thắn đã buộc phải thay đổi thái độ với nhân vật chính trong quá trình sáng tác: cuối cùng ông đã bào chữa cho Anna, nạn nhân của sự đè nén, trói buộc lạc hậu.
Anna, người sứ giả hạnh phúc đi dàn hòa cho gia đình xích mích của Doli, nhưng trớ trêu thay, ở đó nàng gặp Vronxki và cũng từ đó bắt đầu sự tan vỡ của chính gia đình nàng. Anna lấy Carenin không phải vì tình yêu, mà chỉ do sự sắp đặt của bà cô đã tìm được cho mình một ông cháu rể môn đăng hộ đối, đủ tiền tài danh vọng. Carenin yêu chiều vợ theo thói quen vợ chồng, nhưng tâm hồn căn cỗi, tình cảm khô khan, lối sống tẻ nhạt khuôn sáo, tính nết giả dối, ưa sĩ diện, hám hư danh, cộng với đầu óc thông minh lạnh lẽo đượm màu sắc giễu cợt đáng ghét của ông (nhất là với đàn bà mà chưa bao giờ ông thực tâm coi trọng), tất cả tạo cho Anna cuộc sống gia đình yên ổn nhưng buồn tẻ, sang trọng nhưng u uất. Nàng cố tự lừa dối để sống cạnh người chồng nhạt nhẽo ngót chục năm trời, với bề ngoài như mọi sự trên đời đều tốt đẹp! Thực ra, Carenin không hề đem hạnh phúc đến cho người vợ xinh đẹp, hồn hậu, thậm chí còn chà đạp lên sức sống tự nhiên ở nàng. Và đã đến lúc tính cách chân thực, sự cuồng nhiệt, khao khát được yêu, được sống tự do của Anna không thể kìm hãm nữa và chỉ cần thoáng gặp Vronxki, một người trái ngược hẳn với chồng, là nàng lập tức lao đầu vào tình yêu, như thiêu thân mê ánh lửa, không tính toán, mặc kệ cả lễ giáo và dư luận xã hội thượng lưu. Cái hạnh phúc hợp pháp đúng với giáo lý nền đạo đức chính thống, đáng ghen tị trước con mắt bạn đồng liêu, mà Karenin tưởng rất vững chắc, phút chốc hóa đồ mã sụp đổ tan tành, vì không được xây dựng bằng nguyên liệu tình cảm thực sự, Anna yêu say đắm, công khai, như để trả thù chồng, đền bù lại tất cả đè nén tình cảm, yêu thương giả dối mà nàng phải chịu đựng trong cuộc hôn nhân bế tắc. Tấn bi kịch cũng bắt đầu từ đấy: nàng muốn tự do và thẳng thắn yêu, nhưng vấp phải trở ngại lớn là Carenin và xã hội thượng lưu; nàng rất ghét giả dối nhưng rồi buộc phải giam mình vào vòng dối trá.
Anna là người vợ xấu số, nhưng lại là người mẹ rất yêu con. Chính mâu thuẫn này làm nàng chịu nhiều cay đắng, đau khổ khi hưởng hạnh phúc tình yêu mới. Nàng đành xa lìa đứa con trai rứt ruột để đi với Vronxki và biết ngay người yêu cũng không sao hiểu hết nỗi lòng người mẹ xót xa. Mánh khoé của Carenin và luật lệ xã hội chia rẽ mẹ con nàng, dồn nàng vào bước đường cùng hoặc phải hy sinh quyền sống yêu thương thực sự, hoặc phải cắt đứt tình mẹ con. Lần gặp gỡ con trai khi ở nước ngoài về, vừa vui sướng vừa đau đớn tuyệt vọng, tỏ rõ thêm bộ mặt tinh thần đằm thắm của nàng và tình cảnh đáng thương của đứa trẻ thiếu tình mẹ. Những giờ phút yêu đương vui sướng nhất cũng chỉ là vui gượng bề ngoài, không hề trọn vẹn, vì lòng nàng luôn giằng xé giữa hai người: giữa con trai Xerioja và người tình Vronxki, nàng chỉ có quyền chọn lấy một.
Thực ra, nếu Anna muốn, nàng vẫn có thể thu xếp ổn thỏa. Chính ông chồng chẳng đã đưa ra trước một cách dàn xếp rất hợp với đạo đức và thói quen của xã hội thượng lưu đấy ư? Ông sẵn sàng làm ngơ (nếu chưa phải hoàn toàn thừa nhận) trước sự ngoại tình, với điều kiện dễ dàng chỉ cần vợ giữ cho kín đáo và đừng đòi ly dị, miễn sao bề ngoài gìn giữ được danh giá ông, gìn giữ được nếp nhà và tục lệ nhà vua cùng đạo Chúa! Đó chẳng phải sự việc thường thấy trong cảnh gia đình rắc rối của bao tổ ấm quý tộc đó ư? Những Betxi Tverxcaia, Xapho Stond, Lida Mercalova không hề áy náy, buồn rầu trong nếp sống quen dối trá, cứ đàng hoàng đi lại với tình nhân ở ngay giữa nhà chồng, lấy đó làm thú vui chơi lấp lỗ trống cho cuộc sống rỗng tuếch, bê tha, tiêu biểu của giới quý phái đó sao. Nhưng với tính tình trung hậu, nồng nhiệt, thẳng thắn, Anna đã cao thượng hơn họ. Nàng cương quyết gạt bỏ ý định bỉ ổi và hèn nhát của chồng. Tuy vẫn luyến tiếc địa vị xã hội mình, Anna vẫn cảm thấy lẻ loi trong xã hội đó; nó chỉ thừa nhận thông dâm, ngoại tình, còn kết tội mọi mối tình chân thực, chính đáng. Sau bao năm sống ngột ngạt trong không khí đạo đức giả dối, nàng muốn xé toang màn đen dối trá ông chồng định che phủ lên đời nàng và vị đại thần phu nhân đó đã đòi ly dị, ngang nhiên bỏ chồng bỏ con đi theo người tình trước mắt mọi người. ở đây, việc làm này có ý nghĩa như một sự nổi loạn, một sự khiêu khích chính xã hội nàng xuất thân. Và tất nhiên nó sẽ không dung tha, nó sẽ cấm cửa từ bỏ nàng như đứa con hoang. Các họ hàng, bè bạn thân nhất như Varia, Bétxy cũng không dám tiếp nàng, mụ Cataxova thì chửi cạnh khóe. Nếu Anna có gan chống chọi, giày xéo lên mọi lễ nghi, sĩ diện của bọn cành vàng lá ngọc thì chúng cũng không thương xót gì mà không phỉ nhổ trước khi nàng kịp tự mình cắt đứt hẳn với chúng.
Mối tình Anna với Vronxki sẽ được coi là đứng đắn, thật sự tiến bộ nếu nàng quả quyết đến cùng làm tròn việc tự giải phóng. Nhưng không, Anna không làm được như vậy. Nàng đã có gan bỏ chồng xa con, xa luôn cả cuộc sống tù túng, giả dối. Trong cuộc tình duyên mới mẻ và hoàn cảnh sống đã thay đổi, đáng lẽ nàng phải tìm thấy lẽ sống mới chính đáng, cao quý hơn, phải xây dựng đứng đắn cho mối tình hai người được bền vững và bắt tay vào làm công việc gì có ích cho gia đình và xã hội, nâng cao ý nghĩa cuộc sống. Nhưng rồi mục đích duy nhất của Anna vẫn chỉ là đem tất cả cuộc đời phó mặc cho số mệnh nổi trôi theo mối tình phiêu lưu, lãng mạn, tầm thường. Nàng tự buông thả trong cuộc sống nhàn rỗi, đi rong chơi nước ngoài, làm duyên làm dáng với người chung quanh, thậm chí không yêu thương chăm sóc cả đứa con gái mới đẻ để gìn giữ sắc đẹp và chiều theo mọi ý thích của người tình, tính toán giằng co trong việc ly hôn, do dự không dám cắt đứt hẳn với xã hội cũ. Tình yêu ngày càng trở nên ích kỷ. Nàng bắt đầu so sánh, đòi hỏi, oán giận, ghen tuông. Nàng chạnh nghĩ nỗi lòng đau khổ phải xa con để dằn vặt người tình, chỉ muốn hoàn toàn độc chiếm tất cả tư tưởng, tình cảm, thời gian của chàng, để chỉ có mỗi việc là yêu quý, chiều chuộng nàng. Với tâm lý đó, nếu mất Vronxki là nàng sẽ mất hết. Vì tự đem cả đời mình phụ thuộc vào Vronxki, như cái bóng có được nhờ dập theo cái hình, tự tước đi quyền lợi và khả năng sống tự do, độc lập, cho nên nàng có ảo tưởng buộc người tình phải hoàn toàn nô lệ mình, để cân bằng giá trị với mất mát của nàng. Cái tình trở thành cái nợ, yêu thương biến thành hờn oán. Nàng không hề làm công việc gì có ích cho đời sống riêng và chung, càng chui đầu vào mối tình hẹp hòi, không ngừng đòi thoả mãn tình cảm và dục vọng thì càng trở nên xấu tính, nhỏ nhen, vị kỷ.
Mối tình có thể nói bắt nguồn từ một mong ước cao thượng, bằng việc làm can đảm, cuối cùng cũng trở thành tầm thường, hèn kém, không hơn gì cuộc hôn nhân đầu tiên với Carenin: Nàng vẫn không vượt khỏi vòng tiêu cực, thoái hóa của bản chất giai cấp xuất thân và hoàn cảnh sinh sống. Đó là tấn bi kịch của xung đột bên trong con người nàng, nó điển hình cho mâu thuẫn bên trong của lớp người trung thực, muốn tiến lên giành hạnh phúc nhưng không đủ sức chống lại trở ngại chính là xã hội thượng lưu hồi đó.
Trong lần suýt chết vì sinh nở, Anna đã có lúc cảm động vì chồng tha thứ. Nhưng phút yếu lòng đó chỉ thoảng qua và nàng không thể nào làm lành với cuộc sống giả dối: ngay sau đó, nàng lại căm ghét Carenin như thường. Mặt khác, nàng cũng không bao giờ yên ổn trong mối tình mới và cảm thấy lẻ loi cả với Vronxki. Nàng lo sợ cho mối tình, luôn bị đe doạ có cái gì đáng sợ trong đó. Nàng nghĩ đến cái chết, thấy chỉ có nó mới giải thoát khỏi mọi nỗi khổ đau. Nàng như sợi dây căng thẳng chỉ chờ đứt phựt. Cảm giác định mệnh có tính chất bi thảm và việc đoán trước một tai họa không tránh khỏi luôn ám ảnh nàng. Nàng không hiểu nổi lực lượng gieo họa phúc đó nảy sinh từ đâu, nên không thể có cách nào chống chọi lại. Nàng đã mất chồng, mất con và mất cả chỗ đứng trong xã hội. Nàng không có lý tưởng sống nào khác ngoài tình yêu với Vronxki mà bây giờ, theo nàng, nó đã trở nên mong manh, nhạt nhẽo, hết hy vọng. Cuộc đời dang dở dẫn nàng đến ngõ cụt hết lối thoát, ngoài lối thoát cuối cùng là cái chết. Hơn nữa, nàng phải trả thù, phải vạch một vết nhơ lên cái trán đạo đức giả dối của nhà thờ và xã hội. Nàng phải làm cho Vronxki vì nàng mà điêu đứng, hối hận: nếu không trói buộc được Vronxki bằng thể xác thì nàng sẽ trói buộc chàng bằng một kỷ niệm vĩnh viễn, bằng tiếc thương không gì xoá được. Và Anna đã chết bằng cái chết thảm khốc. Trong khi huỷ hoại thân mình, nàng hủy hoại cả cuộc sống tình cảm của người yêu mà nàng đã độc chiếm, với hy vọng chàng sẽ không bao giờ còn yêu ai bằng nàng. Đây là sự trừng phạt người và trừng phạt mình. Cả xã hội thượng lưu lẫn Carenin, Vronxki và cá nhân người chết phải chịu trách nhiệm về việc này.
Tấn trò ái tình đã hạ màn, cái chết bất đắc kỳ tử của người đàn bà bạc phận mãi mãi sẽ còn làm cho nhiều người phải giận, phải thương.
Xoay quanh nhân vật Anna, nhà văn còn vẽ lên một loạt nhận vật khác cũng không kém sắc nét. Trước hết là Carenin. Ông là người có nhiều ham muốn công danh; bước chân ra khỏi nhà trường, ông liền đem hết tâm trí, nghị lực giành lấy địa vị xã hội cao sang. Về chính trị và tín ngưỡng, ông thuộc phe bảo thủ, tỏ ra thông minh, giao thiệp rộng, có kinh nghiệm tiến thủ trong hoạn trường. Tính nết vốn lạnh nhạt, nay lại chuyên sống bằng lý trí tàn nhẫn, tâm hồn ông ngày càng khô cằn. Ông là thứ người quan liêu kiểu mẫu trong cả việc nước lẫn việc nhà, khối óc và trái tim phát triển không đều, suy tính rất máy móc và xử sự rất bất nhân. Đây là con đẻ của nước Nga chuyên chế, xa rời đời sống, đối địch với nhân dân. Trong việc công, ông thực ra chỉ là con rối chuyên nặn ra các thứ giấy tờ vô dụng. Về đời tư, ông cũng lại tỏ ra là người chồng, người cha hèn kém, mù quáng. Ông chỉ nghĩ đến mình, không hề nghĩ đến số phận Anna, đến tâm tư tình cảm nàng. Thậm chí ông còn tự bịt mắt, không dám đi sâu vào đời sống tinh thần của vợ, coi đó là việc vô ích, không tưởng, nguy hiểm.
Ông lảng tránh và phó mặc cho tôn giáo. Tất cả cố gắng chỉ là vớt vát sĩ diện, tìm mọi cách che giấu việc Anna ngoại tình để khỏi ảnh hưởng xấu đến việc thăng quan tiến chức. Chủ nghĩa quan liêu thấm sâu vào mọi mặt đời sống, cả đến việc dạy con: ông không bắt đầu từ lòng yêu thương, tìm hiểu đứa trẻ mà chỉ dựa vào mấy trang giáo điều của cuốn lý luận sư phạm để dạy con một cách máy móc, thô thiển. Ông không hề yêu, không biết yêu và không thể yêu ai, kể cả vợ con. Ông không có lấy một người bạn thân. Ông sống lẻ loi, co lại, nghi ngờ, khinh bạch, với trái tim tê liệt. Sự tàn nhẫn bất lương tỏ rõ nhất trong việc ông từ chối ly hôn Anna, quyết định giữ nguyên tình trạng cũ, với lý do đầy lòng "mộ đạo" là để Anna có dịp "hối cải" quay về!
Carenin đánh bạn với nữ bá tước Lidia Ivanovna. Tuy bề ngoài có vẻ trái ngược với lối sống bê tha, dâm đãng của Betxi Tverxcaia, nhưng thực chất cuộc sống bên trong bà ta cũng là cảnh cùng hội cùng thuyền. Người đàn bà tàn xuân đầy thèm muốn xấu xa, đeo mặt nạ đạo đức, đứng ra gìn giữ phong tục, tín ngưỡng, biến chúng thành thứ tiết hạnh giả dối, mê tín dị đoan. Tính chất khẩu phật tâm xà của Lidia lộ rõ trong việc khuyên Carenin không cho Anna gặp lại con trai. Chính xã hội hủ bại giúp cho bọn vô lại, bịp bợm như Lăngđô thành công. Tên thầy bói này quyết định những vấn đề quan trọng nhất của cuộc sống; nó nửa tỉnh nửa mê gạt bỏ việc xin ly hôn của Anna, đẩy nàng mau tới cái chết. Carenin sợ sự thực như cú sợ ánh sáng. Ngọn lửa sống hiu hắt trong ông tàn lụi dần, trật tự gia đình sụp đổ, sự nghiệp công danh bắt đầu thất thế, tất cả chỉ còn là ảo tưởng, về cuối cuốn truyện, ông thật sự chỉ còn là xác chết biết đi. Và tai hại nhất, mỉa mai nhất là ở chỗ chính những người như ông lại là thành viên tiêu biểu của xã hội thượng lưu, những kẻ có quyền thế ở triều đình, những người nắm vận mạng sống còn của cả một dân tộc.
Tuy không có quan điểm duy vật lịch sử, chỉ đứng trên lập trường "đạo đức vĩnh viễn không thay đổi", bằng ngòi bút hiện thực, Tolxtoi cũng đã thẳng tay vạch trần đạo đức hủ bại của chế độ xã hội dựa trên tư hữu, áp bức.
Tuy nhiên, nhà văn không chỉ tả sự cằn cỗi, nghèo nàn trong tâm hồn Carenin. Trung thành với tư tưởng tôn giáo, ông cố gắng chứng minh Carenin cũng có thể đổi mới tâm hồn, có thể làm những việc cao thượng. Đó là cảnh Carenin ở bên giường bệnh Anna, tha thứ cho vợ và dàn hòa với Vronxki. Ông sung sướng vì đã tha thứ và yêu thương kẻ thù, đúng như lời Chúa từng răn dạy. Nguồn gốc mọi đau khổ trở thành nguồn gốc của vui vẻ thảnh thơi trong lòng. Nhưng bên cạnh sức mạnh tinh thần hướng dẫn tâm hồn ông đó, còn có một sức mạnh khác, sơ đẳng hơn, nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ, điều khiển đời ông: ông thấy mọi người ngạc nhiên nhìn ông, không hiểu ông và đang chờ đợi ở ông một hành động gì đó. Rõ ràng Tolxtoi đã khéo léo chứng minh một giáo lý cơ bản, cố hữu của đạo Cơ đốc là tha thứ cho kẻ thù. Nhưng thực ra, vai kịch Carenin sắm trong một lúc đó rất gượng gạo. Vì tha thứ cho kẻ hấp hối có lẽ còn dễ dàng hơn tiếp tục oán giận. Trên con đường đổi mới tinh thần của Carenin đã hiện ra một trở lực, đó là sức mạnh thô bạo của xã hội thượng lưu. Việc tha thứ cho vợ làm ông trở thành người khác thường, vượt lên trên xã hội; nhưng chung quanh, mọi người vẫn sống như cũ, không thừa nhận "chân lý" của Kinh Phúc âm, không noi theo giáo lý Cơ đốc, vẫn ăn gian nói dối, còn có ác ý chế giễu tình cảm ông. Carenin trở thành lẻ loi, nhục nhã. Thế là ông đành đi đến bước đường cùng: ông đánh bạn với Lidia Ivanovna và hoàn toàn phá sản về tinh thần. Hình tượng Carenin rất thực vì tuân theo mọi quy luật phát triển bên trong; và đúng là một người hèn hạ, độc ác như vậy không thể tự mình đổi mới tinh thần.
Trái hẳn với Carenin, Vronxki là một người trẻ tuổi, đẹp trai, khỏe mạnh, thẳng thắn, thông minh và nhất là đắm say, táo bạo. Nhà văn không thể xây dựng nhân vật này cách khác được: vì nếu anh ta không như thế thì làm sao một người đàn bà tài sắc đầy đủ như Anna lại có thể mới gặp là yêu ngay? Nhưng các đức tính tốt đó chỉ hợp riêng với mặt tình yêu kiểu Anna và cũng không sao thay đổi được cuộc đời nàng, cứu nàng thoát khỏi cái chết tuyệt vọng. Vronxki thực ra vẫn chỉ là người xấu, về mọi mặt tình cảm, tâm hồn, trí tuệ đều không sánh kịp Anna. Nhà văn tả nhân vật này có khác với các nhân vật phản diện khác nhưng vẫn khá rõ nét. Vronxki chỉ là người ích kỷ, sống vô dụng, không có lý tưởng, mục đích gì hết, tóm lại đúng là đứa con đẻ được nuông chiều của xã hội quý tộc. Vronxki và Anna đều không giúp đỡ được gì cho nhau: họ không bù đắp những phần thiếu sót trong bản thân mỗi người và do đó, dần dần cảm thấy không cần nhau nữa. Chàng công tử bột không hề đếm xỉa đến luân lý, đạo đức, chỉ biết chơi gái, đánh bạc, đua ngựa, rượu chè đàn đúm với chúng bạn và thừa tiền, thừa thời giờ thì coi sóc trại ấp, vừa bóc lột làm giàu vừa ban ơn cải lương cho nông dân, coi đó cũng là thứ "mốt" mới. Chàng có cách thức riêng đối xử với đời: phải rất thành thực với mọi người, trung thành với bè bạn, trừ với đàn bà; không được lừa dối ai, nhưng có thể lừa dối người chồng có vợ đẹp:
Sẵn sàng quỵt tiền công thợ may, nhưng nhất thiết phải trả nợ tiền cờ bạc bịp; có quyền làm nhục người, nhưng không chịu để người khác làm nhục mình, chàng rất hiếu thắng và có thể hy sinh cả tính mệnh, tiền tài, sự nghiệp cho tình yêu, nhưng đừng ai xâm phạm đến lối sống tự do của chàng, dù là anh, là mẹ hay cả Anna nữa. Bọn chàng rất khinh những người "cổ hủ" còn khư khư ôm mớ lễ giáo "lố bịch".
Họ chế giễu tất cả, từ tính nết trung thành, trinh tiết của đàn bà, tính tự trọng gìn giữ của đàn ông, đến sự dạy dỗ con cái, làm việc cần cù. Mọi cái đều sai trái và vô lý, nhưng lại thích hợp với tính hưởng lạc vị kỷ của mình, nên chàng cho thái độ ấy là tuyệt đối đúng và yên tâm, kiêu hãnh sống như vậy.
Bốn năm sau khi viết xong Chiến tranh và Hòa bình, ngày 19-3- 1873, L. Tolxtoi lại hạ bút viết dòng đầu tiên của cuốn tiểu thuyết dài Anna Carenina.
Cũng như nhiều nhà văn hồi đó, Tolxtoi chịu ảnh hưởng của Puskin. Ông nói: "Tôi học tập được nhiều ở Puskin, ông là người cha của tôi, ta nên học tập ông". Đây không phải là ảnh hưởng bề ngoài về cách viết, giọng văn; cũng không phải là vay mượn, bắt chước cốt truyện này nọ. Những tác phẩm Puskin đã khơi dậy tất cả sức lực sáng tác sẵn có của Tolxtoi, thôi thúc ông làm việc và gợi nhiều ý sáng tác tốt, mới.
Nhân đọc truyện viết dở dang của Puskin: Những người khách họp mặt trong biệt thự, Tolxtoi nảy ra ý định viết Anna Carenina. Và ông dựa vào con gái Puskin là Mari Alecxandrovna Gactun làm nguyên mẫu, để tả vẻ mặt, dáng người nhân vật Anna. Bắt tay vào làm, nhà văn thực ra chỉ định phóng bút viết, chưa thấy hết tầm to lớn của cuốn truyện, dần dần sau này trong quá trình viết, nó mới đòi hỏi nhiều tâm sức. Ông cũng ngừng bút nhiều lần vì bận giúp vận động cứu tế nạn dân hạn hán, hoặc bận viết cuốn Bàn về giáo dục quốc gia để tranh cãi về phương pháp giáo dục với các nhà giáo ở Moxcva; ông lại nhiều lần chán nản, muốn bỏ dở cuốn truyện, vì thấy mình viết không hay. Đây là quãng đời sống êm ấm trong gia đình, với tình hình tư tưởng ổn định và công việc sáng tác phong phú nhất của nhà văn trong môi trường quý tộc tại trại ấp ở Iátxnaia Poliana. Hồi trẻ, ông tòng quân tại Capcadơ và dự cuộc chiến tranh Nga - Thổ ở Crưm. Nhờ đó, ông nhìn thấu bộ mặt trái của chiến tranh đế quốc tranh giành thị trường và đồng thời cũng thấy rõ tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước thật sự của binh lính và thủy thủ bình thường. Lòng cảm phục sự vĩ đại của dân tộc Nga và căm ghét chế độ nông nô khiến ông từ đó bắt đầu chú ý tới vấn đề dân cày. Ông đi du lịch nhiều nước châu Âu như Đức, Pháp, Thụy Sĩ, ý, Bỉ, Anh, và nhận ra nhiều thối nát của chế độ tư bản. Nếu Tolxtoi còn tìm thấy trong các tác phẩm của Voltaire, Diderot, Jean Jacques Rousseau, chút tính chất tiến bộ nào đó trong thời kỳ đầu chủ nghĩa tư bản thay thế chế độ phong kiến mọt ruỗng của thế kỷ XVII và XVIII ở Pháp, thì qua thực tế xã hội các nước Tây Âu nửa sau thế kỷ XIX, ông đã tận mắt chứng kiến những hiện tượng thụt lùi, phản động, bắt đầu lộ rõ không sao che giấu của chủ nghĩa tư bản trên toàn thế giới. Trở về nước, Tolxtoi lần nữa hiểu thêm bộ mặt xấu xa của thực tế xã hội Nga hồi đó. Ông bắt đầu nghiên cứu cách dạy học cho bình dân, viết sách giáo khoa, và trong một năm 1862, đã mở tới 21 trường học cho người lớn và trẻ em.
Trước đó, khi còn ở Peterburg. Tolxtoi có quen nhóm văn sĩ tiến bộ trong tạp chí Người đương thời như Trernưsevxki, Turghenev, Gontrarov, Necraxov, Oxtrovxki, và cũng có quen cả những nhà nghệ thuật vị nghệ thuật như Drudinin, Botkin và Amencov. Nhưng với cả hai nhóm chống chọi nhau đó, Tolxtoi đều không cùng chung quan điểm và vẫn giữ ý kiến riêng về đời sống và nghệ thuật.
Tất cả các sự việc nhà văn theo dõi và trải qua trong xã hội thượng lưu ở Moxcva và Peterburg khi còn là chàng thanh niên ưa chơi bời phóng đãng, mọi hiểu biết và suy nghĩ về nông dân Nga khi trở về trông nom trại ấp, mọi tìm tòi và mong muốn về một chế độ xã hội thích hợp với các quan điểm chính trị, tư tưởng, đạo đức riêng, tự rút ra khi nghiên cứu triết học, khoa học, văn học và tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng hồi đó ở trong và ngoài nước, mọi kinh nghiệm già giặn gom góp sau hàng chục năm sáng tạo nghệ thuật, tất cả vốn liếng dư dật và nhiều mặt đó đủ giúp Tolxtoi viết xong cuốn tiểu thuyết lớn Anna Carenina này.
Thông qua cuộc ngoại tình éo le, chấm dứt bằng cái chết tội lỗi và bi thảm của Anna Carenina, cuộc sống gia đình lục đục của Oblonxki, mối tình trắc trở nhưng hạnh phúc của Levin, cùng đời sống tình cảm phức tạp của nhiều nhân vật khác, như Betxi Tverxcaia, Lidia Ivanovna, Lida Mercalova, Xapho Stond, nhà văn đã đặt ra vấn đề tình yêu và hôn nhân như một sự việc cá nhân và xã hội. Những việc và người được tả tỉ mỉ, thực và động, trình bày cho ta thấy các quan niệm khác nhau về tình yêu, hôn nhân, dẫn đến các việc làm và kết quả khác nhau như thế nào, các nguồn gốc xã hội sâu xa nào quyết định tính chất tốt, xấu của mối tình trai gái trong chế độ phong kiến và tư bản, cuối cùng thực chất của hạnh phúc cùng đạo đức yêu đương theo nhà văn hiểu là ở đâu? Nhân dịp này, Tolxtoi phơi trần nhiều mặt xấu xa của đời sống quý phái, từ lối sống xa hoa, lười biếng, vợ chồng lừa dối nhau, bạn bè ghen ghét, xảo trá, đến thói quen sĩ diện hão, giả nhân giả nghĩa, tranh giành địa vị, bon chen luồn cúi, nhu nhược, phá sản của tầng lớp quý tộc.
Bên cạnh chủ đề trên, nhà văn còn đưa ra nhiều vấn đề xã hội khác, có tầm quan trọng lớn hơn nhiều, chủ yếu bằng cách thông qua nhân vật Levin: Đó là các vấn đề lý tưởng xã hội, các ý kiến về dân tộc, về nông dân, về tổ chức xã hội, cơ cấu kinh tế, giáo dục, chính trị, về mọi sự thay đổi ảnh hưởng quyết định đến đời sống nhân dân, về triết học, nghệ thuật và cả về hòa bình, chiến tranh... Tóm lại, tất cả những vấn đề thời sự nóng bỏng mà bất cứ người Nga nào thời đó, ít nhiều biết suy nghĩ về vận mệnh nước nhà, đều phải lo lắng tới.
Nhiều vấn đề cấp thiết nêu lên đó chưa được giải quyết và kết luận, hoặc được giải quyết và kết luận theo lập trường riêng không ít sai trái của nhà văn, nhưng mọi vấn đề được đặt ra đã là một phát hiện có giá trị lớn lao, phản ánh đúng đắn các mâu thuẫn xã hội chính trong giai đoạn khủng hoảng trầm trọng của nước Nga gia trưởng cũ bắt đầu tan rã mau chóng trước sự xâm nhập, chèn ép của chủ nghĩa tư bản. Nhiều lý lẽ chính của "học thuyết Tolxtoi" về vần đề chế độ tư hữu, đạo đức tư sản, lợi nhuận, chính quyền chuyên chế và quân phiệt, nghệ thuật và tôn giáo, mà sau này tác giả sẽ trình bày trong các cuốn sách lý luận, như Nghệ thuật là gì?, Sám hối, Tôn giáo của tôi, Làm gì... đã bắt đầu được trực tiếp hoặc gián tiếp vạch ra trong cuốn tiểu thuyết này.
V.I. Lenin nhận xét về Tolxtoi như sau: "Một mặt thì chỉ trích thẳng tay chế độ bóc lột của tư bản, tố cáo những hành vi bạo ngược của chính phủ, tố cáo các trò hề của công lý và của hành chính nhà nước, vạch trần hết tính chất sâu sắc của các mâu thuẫn giữa tình trạng của cải ngày càng tăng thêm, văn minh đạt nhiều thành quả và tình trạng cùng khổ, man rợ và đau thương của quần chúng công nhân cũng ngày càng tăng thêm; mặt khác lại là người hiền từ đứng ra khuyên răn "không nên dùng bạo lực chống lại điều ác"... Tolxtoi vĩ đại là ở chỗ ông đã nói lên được những tư tưởng và những tâm trạng đã được hình thành trong hàng triệu nông dân Nga khi bắt đầu cuộc cách mạng tư sản Nga" (2). Những suy nghĩ của nhà văn về đời sống hàng ngày, cũng như những tìm tòi để trả lời các vấn đề xã hội lớn của thời đại đặt ra, được thể hiện bằng nghệ thuật viết truyện cao tay. Với sức làm việc trung bình mười hai, mười ba giờ một ngày, từ ý định đầu tiên chỉ là tả "một người vợ phụ bạc", qua nhiều lần bỏ dở, sửa chữa, thay đổi hoàn toàn so với bản thảo thứ nhất, tiểu thuyết Anna Carenina viết xong vào tháng 7 năm 1877. Cuốn truyện vượt ra ngoài khuôn khổ một tấn thảm kịch ngoại tình và trở thành tấm gương phản chiếu một giai đoạn lịch sử Nga, sau cải cách nông nô, vào giữa những năm 70 của thế kỷ XIX, với mọi mâu thuẫn xã hội nóng bỏng và phức tạp nhất.
Trên trang mở đầu cuốn truyện, có ghi một đề từ: "Việc báo oán thuộc về ta, chính ta lại ra ân đền bù lại", với ngụ ý: chúng ta không có quyền phán xét người đời, quyền đó thuộc về Chúa. Câu này gói ghém ý nghĩa khe khắt về luật pháp vô tình của Chúa Trời, nhưng mặt khác tỏ rõ tất cả lòng nhân đạo, rộng lượng của nhà văn với nhân vật chính. Ông muốn che chở Anna trước dư luận bất công của một xã hội ưa sống giả dối, quen chà đạp con người; ông không cho nó được quyền xét xử, vì chính nó là nguồn gốc gây ra tội lỗi. Và nếu Anna là tội nhân xúc phạm vào đạo đức, trật tự phong kiến thì đồng thời cũng là nạn nhân của lối sống giả nhân giả nghĩa. Nói vậy, không phải Anna hoàn toàn không có trách nhiệm về việc mình làm. Trong cái chết oan khiên của nàng đã mang ý nghĩa tính hậu quả không tránh khỏi của việc làm tội lỗi, về sự tự trừng phạt.
Sau nhân vật Tachiana của Puskin, Anna là một hình ảnh phụ nữ mới, tiến bộ trong văn học cổ điển Nga, đã gắng giải phóng cá tính con người, vùng vẫy thoát khỏi áp bức và nhục nhã của phong kiến quý tộc. Cùng với Trernưsevxki, Turghenev, Necraxov, tác giả Anna Carenina góp phần vào việc giải phóng phụ nữ, những người bị áp bức tàn nhẫn nhất. Mặc dầu chủ nghĩa xã hội của Trernưsevxki là không tưởng, ông vẫn cho việc giải phóng phụ nữ không phải chỉ ở mặt tình yêu, mà còn ở trên nhiều khía cạnh khác: đàn bà phải ngang hàng với đàn ông về mọi công việc xã hội, có quyền lao động hữu ích, hưởng thụ vật chất và chỉ có độc lập về kinh tế như vậy mới có tự do về tinh thần. Tầm tư tưởng, Tolxtoi về vấn đề này có phần hẹp hơn so với nhà cách mạng dân chủ. Ông chỉ đánh giá cao vai trò người đàn bà trong gia đình. Thái độ đó được thể hiện ở nhân vật Natasa trong Chiến tranh và Hòa bình, nay lại thể hiện trong Anna Carenina, với các nhân vật Doli, Kitti. Còn với Anna, ý định đầu tiên của nhà văn là phải phê phán nghiêm khắc người đàn bà bội bạc đã phá hoại nền móng gia đình. Nhưng vì đòi hỏi hiện thực và chống lại trật tự phong kiến, nhà văn thẳng thắn đã buộc phải thay đổi thái độ với nhân vật chính trong quá trình sáng tác: cuối cùng ông đã bào chữa cho Anna, nạn nhân của sự đè nén, trói buộc lạc hậu.
Anna, người sứ giả hạnh phúc đi dàn hòa cho gia đình xích mích của Doli, nhưng trớ trêu thay, ở đó nàng gặp Vronxki và cũng từ đó bắt đầu sự tan vỡ của chính gia đình nàng. Anna lấy Carenin không phải vì tình yêu, mà chỉ do sự sắp đặt của bà cô đã tìm được cho mình một ông cháu rể môn đăng hộ đối, đủ tiền tài danh vọng. Carenin yêu chiều vợ theo thói quen vợ chồng, nhưng tâm hồn căn cỗi, tình cảm khô khan, lối sống tẻ nhạt khuôn sáo, tính nết giả dối, ưa sĩ diện, hám hư danh, cộng với đầu óc thông minh lạnh lẽo đượm màu sắc giễu cợt đáng ghét của ông (nhất là với đàn bà mà chưa bao giờ ông thực tâm coi trọng), tất cả tạo cho Anna cuộc sống gia đình yên ổn nhưng buồn tẻ, sang trọng nhưng u uất. Nàng cố tự lừa dối để sống cạnh người chồng nhạt nhẽo ngót chục năm trời, với bề ngoài như mọi sự trên đời đều tốt đẹp! Thực ra, Carenin không hề đem hạnh phúc đến cho người vợ xinh đẹp, hồn hậu, thậm chí còn chà đạp lên sức sống tự nhiên ở nàng. Và đã đến lúc tính cách chân thực, sự cuồng nhiệt, khao khát được yêu, được sống tự do của Anna không thể kìm hãm nữa và chỉ cần thoáng gặp Vronxki, một người trái ngược hẳn với chồng, là nàng lập tức lao đầu vào tình yêu, như thiêu thân mê ánh lửa, không tính toán, mặc kệ cả lễ giáo và dư luận xã hội thượng lưu. Cái hạnh phúc hợp pháp đúng với giáo lý nền đạo đức chính thống, đáng ghen tị trước con mắt bạn đồng liêu, mà Karenin tưởng rất vững chắc, phút chốc hóa đồ mã sụp đổ tan tành, vì không được xây dựng bằng nguyên liệu tình cảm thực sự, Anna yêu say đắm, công khai, như để trả thù chồng, đền bù lại tất cả đè nén tình cảm, yêu thương giả dối mà nàng phải chịu đựng trong cuộc hôn nhân bế tắc. Tấn bi kịch cũng bắt đầu từ đấy: nàng muốn tự do và thẳng thắn yêu, nhưng vấp phải trở ngại lớn là Carenin và xã hội thượng lưu; nàng rất ghét giả dối nhưng rồi buộc phải giam mình vào vòng dối trá.
Anna là người vợ xấu số, nhưng lại là người mẹ rất yêu con. Chính mâu thuẫn này làm nàng chịu nhiều cay đắng, đau khổ khi hưởng hạnh phúc tình yêu mới. Nàng đành xa lìa đứa con trai rứt ruột để đi với Vronxki và biết ngay người yêu cũng không sao hiểu hết nỗi lòng người mẹ xót xa. Mánh khoé của Carenin và luật lệ xã hội chia rẽ mẹ con nàng, dồn nàng vào bước đường cùng hoặc phải hy sinh quyền sống yêu thương thực sự, hoặc phải cắt đứt tình mẹ con. Lần gặp gỡ con trai khi ở nước ngoài về, vừa vui sướng vừa đau đớn tuyệt vọng, tỏ rõ thêm bộ mặt tinh thần đằm thắm của nàng và tình cảnh đáng thương của đứa trẻ thiếu tình mẹ. Những giờ phút yêu đương vui sướng nhất cũng chỉ là vui gượng bề ngoài, không hề trọn vẹn, vì lòng nàng luôn giằng xé giữa hai người: giữa con trai Xerioja và người tình Vronxki, nàng chỉ có quyền chọn lấy một.
Thực ra, nếu Anna muốn, nàng vẫn có thể thu xếp ổn thỏa. Chính ông chồng chẳng đã đưa ra trước một cách dàn xếp rất hợp với đạo đức và thói quen của xã hội thượng lưu đấy ư? Ông sẵn sàng làm ngơ (nếu chưa phải hoàn toàn thừa nhận) trước sự ngoại tình, với điều kiện dễ dàng chỉ cần vợ giữ cho kín đáo và đừng đòi ly dị, miễn sao bề ngoài gìn giữ được danh giá ông, gìn giữ được nếp nhà và tục lệ nhà vua cùng đạo Chúa! Đó chẳng phải sự việc thường thấy trong cảnh gia đình rắc rối của bao tổ ấm quý tộc đó ư? Những Betxi Tverxcaia, Xapho Stond, Lida Mercalova không hề áy náy, buồn rầu trong nếp sống quen dối trá, cứ đàng hoàng đi lại với tình nhân ở ngay giữa nhà chồng, lấy đó làm thú vui chơi lấp lỗ trống cho cuộc sống rỗng tuếch, bê tha, tiêu biểu của giới quý phái đó sao. Nhưng với tính tình trung hậu, nồng nhiệt, thẳng thắn, Anna đã cao thượng hơn họ. Nàng cương quyết gạt bỏ ý định bỉ ổi và hèn nhát của chồng. Tuy vẫn luyến tiếc địa vị xã hội mình, Anna vẫn cảm thấy lẻ loi trong xã hội đó; nó chỉ thừa nhận thông dâm, ngoại tình, còn kết tội mọi mối tình chân thực, chính đáng. Sau bao năm sống ngột ngạt trong không khí đạo đức giả dối, nàng muốn xé toang màn đen dối trá ông chồng định che phủ lên đời nàng và vị đại thần phu nhân đó đã đòi ly dị, ngang nhiên bỏ chồng bỏ con đi theo người tình trước mắt mọi người. ở đây, việc làm này có ý nghĩa như một sự nổi loạn, một sự khiêu khích chính xã hội nàng xuất thân. Và tất nhiên nó sẽ không dung tha, nó sẽ cấm cửa từ bỏ nàng như đứa con hoang. Các họ hàng, bè bạn thân nhất như Varia, Bétxy cũng không dám tiếp nàng, mụ Cataxova thì chửi cạnh khóe. Nếu Anna có gan chống chọi, giày xéo lên mọi lễ nghi, sĩ diện của bọn cành vàng lá ngọc thì chúng cũng không thương xót gì mà không phỉ nhổ trước khi nàng kịp tự mình cắt đứt hẳn với chúng.
Mối tình Anna với Vronxki sẽ được coi là đứng đắn, thật sự tiến bộ nếu nàng quả quyết đến cùng làm tròn việc tự giải phóng. Nhưng không, Anna không làm được như vậy. Nàng đã có gan bỏ chồng xa con, xa luôn cả cuộc sống tù túng, giả dối. Trong cuộc tình duyên mới mẻ và hoàn cảnh sống đã thay đổi, đáng lẽ nàng phải tìm thấy lẽ sống mới chính đáng, cao quý hơn, phải xây dựng đứng đắn cho mối tình hai người được bền vững và bắt tay vào làm công việc gì có ích cho gia đình và xã hội, nâng cao ý nghĩa cuộc sống. Nhưng rồi mục đích duy nhất của Anna vẫn chỉ là đem tất cả cuộc đời phó mặc cho số mệnh nổi trôi theo mối tình phiêu lưu, lãng mạn, tầm thường. Nàng tự buông thả trong cuộc sống nhàn rỗi, đi rong chơi nước ngoài, làm duyên làm dáng với người chung quanh, thậm chí không yêu thương chăm sóc cả đứa con gái mới đẻ để gìn giữ sắc đẹp và chiều theo mọi ý thích của người tình, tính toán giằng co trong việc ly hôn, do dự không dám cắt đứt hẳn với xã hội cũ. Tình yêu ngày càng trở nên ích kỷ. Nàng bắt đầu so sánh, đòi hỏi, oán giận, ghen tuông. Nàng chạnh nghĩ nỗi lòng đau khổ phải xa con để dằn vặt người tình, chỉ muốn hoàn toàn độc chiếm tất cả tư tưởng, tình cảm, thời gian của chàng, để chỉ có mỗi việc là yêu quý, chiều chuộng nàng. Với tâm lý đó, nếu mất Vronxki là nàng sẽ mất hết. Vì tự đem cả đời mình phụ thuộc vào Vronxki, như cái bóng có được nhờ dập theo cái hình, tự tước đi quyền lợi và khả năng sống tự do, độc lập, cho nên nàng có ảo tưởng buộc người tình phải hoàn toàn nô lệ mình, để cân bằng giá trị với mất mát của nàng. Cái tình trở thành cái nợ, yêu thương biến thành hờn oán. Nàng không hề làm công việc gì có ích cho đời sống riêng và chung, càng chui đầu vào mối tình hẹp hòi, không ngừng đòi thoả mãn tình cảm và dục vọng thì càng trở nên xấu tính, nhỏ nhen, vị kỷ.
Mối tình có thể nói bắt nguồn từ một mong ước cao thượng, bằng việc làm can đảm, cuối cùng cũng trở thành tầm thường, hèn kém, không hơn gì cuộc hôn nhân đầu tiên với Carenin: Nàng vẫn không vượt khỏi vòng tiêu cực, thoái hóa của bản chất giai cấp xuất thân và hoàn cảnh sinh sống. Đó là tấn bi kịch của xung đột bên trong con người nàng, nó điển hình cho mâu thuẫn bên trong của lớp người trung thực, muốn tiến lên giành hạnh phúc nhưng không đủ sức chống lại trở ngại chính là xã hội thượng lưu hồi đó.
Trong lần suýt chết vì sinh nở, Anna đã có lúc cảm động vì chồng tha thứ. Nhưng phút yếu lòng đó chỉ thoảng qua và nàng không thể nào làm lành với cuộc sống giả dối: ngay sau đó, nàng lại căm ghét Carenin như thường. Mặt khác, nàng cũng không bao giờ yên ổn trong mối tình mới và cảm thấy lẻ loi cả với Vronxki. Nàng lo sợ cho mối tình, luôn bị đe doạ có cái gì đáng sợ trong đó. Nàng nghĩ đến cái chết, thấy chỉ có nó mới giải thoát khỏi mọi nỗi khổ đau. Nàng như sợi dây căng thẳng chỉ chờ đứt phựt. Cảm giác định mệnh có tính chất bi thảm và việc đoán trước một tai họa không tránh khỏi luôn ám ảnh nàng. Nàng không hiểu nổi lực lượng gieo họa phúc đó nảy sinh từ đâu, nên không thể có cách nào chống chọi lại. Nàng đã mất chồng, mất con và mất cả chỗ đứng trong xã hội. Nàng không có lý tưởng sống nào khác ngoài tình yêu với Vronxki mà bây giờ, theo nàng, nó đã trở nên mong manh, nhạt nhẽo, hết hy vọng. Cuộc đời dang dở dẫn nàng đến ngõ cụt hết lối thoát, ngoài lối thoát cuối cùng là cái chết. Hơn nữa, nàng phải trả thù, phải vạch một vết nhơ lên cái trán đạo đức giả dối của nhà thờ và xã hội. Nàng phải làm cho Vronxki vì nàng mà điêu đứng, hối hận: nếu không trói buộc được Vronxki bằng thể xác thì nàng sẽ trói buộc chàng bằng một kỷ niệm vĩnh viễn, bằng tiếc thương không gì xoá được. Và Anna đã chết bằng cái chết thảm khốc. Trong khi huỷ hoại thân mình, nàng hủy hoại cả cuộc sống tình cảm của người yêu mà nàng đã độc chiếm, với hy vọng chàng sẽ không bao giờ còn yêu ai bằng nàng. Đây là sự trừng phạt người và trừng phạt mình. Cả xã hội thượng lưu lẫn Carenin, Vronxki và cá nhân người chết phải chịu trách nhiệm về việc này.
Tấn trò ái tình đã hạ màn, cái chết bất đắc kỳ tử của người đàn bà bạc phận mãi mãi sẽ còn làm cho nhiều người phải giận, phải thương.
Xoay quanh nhân vật Anna, nhà văn còn vẽ lên một loạt nhận vật khác cũng không kém sắc nét. Trước hết là Carenin. Ông là người có nhiều ham muốn công danh; bước chân ra khỏi nhà trường, ông liền đem hết tâm trí, nghị lực giành lấy địa vị xã hội cao sang. Về chính trị và tín ngưỡng, ông thuộc phe bảo thủ, tỏ ra thông minh, giao thiệp rộng, có kinh nghiệm tiến thủ trong hoạn trường. Tính nết vốn lạnh nhạt, nay lại chuyên sống bằng lý trí tàn nhẫn, tâm hồn ông ngày càng khô cằn. Ông là thứ người quan liêu kiểu mẫu trong cả việc nước lẫn việc nhà, khối óc và trái tim phát triển không đều, suy tính rất máy móc và xử sự rất bất nhân. Đây là con đẻ của nước Nga chuyên chế, xa rời đời sống, đối địch với nhân dân. Trong việc công, ông thực ra chỉ là con rối chuyên nặn ra các thứ giấy tờ vô dụng. Về đời tư, ông cũng lại tỏ ra là người chồng, người cha hèn kém, mù quáng. Ông chỉ nghĩ đến mình, không hề nghĩ đến số phận Anna, đến tâm tư tình cảm nàng. Thậm chí ông còn tự bịt mắt, không dám đi sâu vào đời sống tinh thần của vợ, coi đó là việc vô ích, không tưởng, nguy hiểm.
Ông lảng tránh và phó mặc cho tôn giáo. Tất cả cố gắng chỉ là vớt vát sĩ diện, tìm mọi cách che giấu việc Anna ngoại tình để khỏi ảnh hưởng xấu đến việc thăng quan tiến chức. Chủ nghĩa quan liêu thấm sâu vào mọi mặt đời sống, cả đến việc dạy con: ông không bắt đầu từ lòng yêu thương, tìm hiểu đứa trẻ mà chỉ dựa vào mấy trang giáo điều của cuốn lý luận sư phạm để dạy con một cách máy móc, thô thiển. Ông không hề yêu, không biết yêu và không thể yêu ai, kể cả vợ con. Ông không có lấy một người bạn thân. Ông sống lẻ loi, co lại, nghi ngờ, khinh bạch, với trái tim tê liệt. Sự tàn nhẫn bất lương tỏ rõ nhất trong việc ông từ chối ly hôn Anna, quyết định giữ nguyên tình trạng cũ, với lý do đầy lòng "mộ đạo" là để Anna có dịp "hối cải" quay về!
Carenin đánh bạn với nữ bá tước Lidia Ivanovna. Tuy bề ngoài có vẻ trái ngược với lối sống bê tha, dâm đãng của Betxi Tverxcaia, nhưng thực chất cuộc sống bên trong bà ta cũng là cảnh cùng hội cùng thuyền. Người đàn bà tàn xuân đầy thèm muốn xấu xa, đeo mặt nạ đạo đức, đứng ra gìn giữ phong tục, tín ngưỡng, biến chúng thành thứ tiết hạnh giả dối, mê tín dị đoan. Tính chất khẩu phật tâm xà của Lidia lộ rõ trong việc khuyên Carenin không cho Anna gặp lại con trai. Chính xã hội hủ bại giúp cho bọn vô lại, bịp bợm như Lăngđô thành công. Tên thầy bói này quyết định những vấn đề quan trọng nhất của cuộc sống; nó nửa tỉnh nửa mê gạt bỏ việc xin ly hôn của Anna, đẩy nàng mau tới cái chết. Carenin sợ sự thực như cú sợ ánh sáng. Ngọn lửa sống hiu hắt trong ông tàn lụi dần, trật tự gia đình sụp đổ, sự nghiệp công danh bắt đầu thất thế, tất cả chỉ còn là ảo tưởng, về cuối cuốn truyện, ông thật sự chỉ còn là xác chết biết đi. Và tai hại nhất, mỉa mai nhất là ở chỗ chính những người như ông lại là thành viên tiêu biểu của xã hội thượng lưu, những kẻ có quyền thế ở triều đình, những người nắm vận mạng sống còn của cả một dân tộc.
Tuy không có quan điểm duy vật lịch sử, chỉ đứng trên lập trường "đạo đức vĩnh viễn không thay đổi", bằng ngòi bút hiện thực, Tolxtoi cũng đã thẳng tay vạch trần đạo đức hủ bại của chế độ xã hội dựa trên tư hữu, áp bức.
Tuy nhiên, nhà văn không chỉ tả sự cằn cỗi, nghèo nàn trong tâm hồn Carenin. Trung thành với tư tưởng tôn giáo, ông cố gắng chứng minh Carenin cũng có thể đổi mới tâm hồn, có thể làm những việc cao thượng. Đó là cảnh Carenin ở bên giường bệnh Anna, tha thứ cho vợ và dàn hòa với Vronxki. Ông sung sướng vì đã tha thứ và yêu thương kẻ thù, đúng như lời Chúa từng răn dạy. Nguồn gốc mọi đau khổ trở thành nguồn gốc của vui vẻ thảnh thơi trong lòng. Nhưng bên cạnh sức mạnh tinh thần hướng dẫn tâm hồn ông đó, còn có một sức mạnh khác, sơ đẳng hơn, nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ, điều khiển đời ông: ông thấy mọi người ngạc nhiên nhìn ông, không hiểu ông và đang chờ đợi ở ông một hành động gì đó. Rõ ràng Tolxtoi đã khéo léo chứng minh một giáo lý cơ bản, cố hữu của đạo Cơ đốc là tha thứ cho kẻ thù. Nhưng thực ra, vai kịch Carenin sắm trong một lúc đó rất gượng gạo. Vì tha thứ cho kẻ hấp hối có lẽ còn dễ dàng hơn tiếp tục oán giận. Trên con đường đổi mới tinh thần của Carenin đã hiện ra một trở lực, đó là sức mạnh thô bạo của xã hội thượng lưu. Việc tha thứ cho vợ làm ông trở thành người khác thường, vượt lên trên xã hội; nhưng chung quanh, mọi người vẫn sống như cũ, không thừa nhận "chân lý" của Kinh Phúc âm, không noi theo giáo lý Cơ đốc, vẫn ăn gian nói dối, còn có ác ý chế giễu tình cảm ông. Carenin trở thành lẻ loi, nhục nhã. Thế là ông đành đi đến bước đường cùng: ông đánh bạn với Lidia Ivanovna và hoàn toàn phá sản về tinh thần. Hình tượng Carenin rất thực vì tuân theo mọi quy luật phát triển bên trong; và đúng là một người hèn hạ, độc ác như vậy không thể tự mình đổi mới tinh thần.
Trái hẳn với Carenin, Vronxki là một người trẻ tuổi, đẹp trai, khỏe mạnh, thẳng thắn, thông minh và nhất là đắm say, táo bạo. Nhà văn không thể xây dựng nhân vật này cách khác được: vì nếu anh ta không như thế thì làm sao một người đàn bà tài sắc đầy đủ như Anna lại có thể mới gặp là yêu ngay? Nhưng các đức tính tốt đó chỉ hợp riêng với mặt tình yêu kiểu Anna và cũng không sao thay đổi được cuộc đời nàng, cứu nàng thoát khỏi cái chết tuyệt vọng. Vronxki thực ra vẫn chỉ là người xấu, về mọi mặt tình cảm, tâm hồn, trí tuệ đều không sánh kịp Anna. Nhà văn tả nhân vật này có khác với các nhân vật phản diện khác nhưng vẫn khá rõ nét. Vronxki chỉ là người ích kỷ, sống vô dụng, không có lý tưởng, mục đích gì hết, tóm lại đúng là đứa con đẻ được nuông chiều của xã hội quý tộc. Vronxki và Anna đều không giúp đỡ được gì cho nhau: họ không bù đắp những phần thiếu sót trong bản thân mỗi người và do đó, dần dần cảm thấy không cần nhau nữa. Chàng công tử bột không hề đếm xỉa đến luân lý, đạo đức, chỉ biết chơi gái, đánh bạc, đua ngựa, rượu chè đàn đúm với chúng bạn và thừa tiền, thừa thời giờ thì coi sóc trại ấp, vừa bóc lột làm giàu vừa ban ơn cải lương cho nông dân, coi đó cũng là thứ "mốt" mới. Chàng có cách thức riêng đối xử với đời: phải rất thành thực với mọi người, trung thành với bè bạn, trừ với đàn bà; không được lừa dối ai, nhưng có thể lừa dối người chồng có vợ đẹp:
Sẵn sàng quỵt tiền công thợ may, nhưng nhất thiết phải trả nợ tiền cờ bạc bịp; có quyền làm nhục người, nhưng không chịu để người khác làm nhục mình, chàng rất hiếu thắng và có thể hy sinh cả tính mệnh, tiền tài, sự nghiệp cho tình yêu, nhưng đừng ai xâm phạm đến lối sống tự do của chàng, dù là anh, là mẹ hay cả Anna nữa. Bọn chàng rất khinh những người "cổ hủ" còn khư khư ôm mớ lễ giáo "lố bịch".
Họ chế giễu tất cả, từ tính nết trung thành, trinh tiết của đàn bà, tính tự trọng gìn giữ của đàn ông, đến sự dạy dỗ con cái, làm việc cần cù. Mọi cái đều sai trái và vô lý, nhưng lại thích hợp với tính hưởng lạc vị kỷ của mình, nên chàng cho thái độ ấy là tuyệt đối đúng và yên tâm, kiêu hãnh sống như vậy.
Nhưng Vronxki cũng tỏ ra hơn bọn thanh niên cùng loại ở vài
điểm nhỏ. Thoạt đầu, chàng cũng chỉ coi việc ngoại tình với Anna là trò tiêu
khiển đang được thịnh hành trong giới quý phái. Nhưng sau đó, chàng đã thật
lòng yêu, không nghe theo lời khuyên xấu xa của mẹ và anh. Chàng rất khổ tâm
khi sa vào hoàn cảnh luôn phải dối trá, trái với tính nết thực thà của mình.
Chàng cũng không phải chỉ hợm hĩnh mà còn biết nhìn thấy thói xấu của mình và của
giới thượng lưu. Trong khi đưa một hoàng thân nước ngoài đi thăm các cảnh đẹp ở
Peterburg, chàng nhìn thấy rõ tính tình và lối sống đáng ngán của một người
"rất khỏe, rất sạch nhưng rất ngốc và rất tự mãn, có thế thôi". Và
chàng thấy mình được soi đầy đủ vào tấm gương đó! Chàng hiểu nhưng không đủ sức
thay đổi con người mình. Lối sống của Vronxki là lối sống địa chủ lai căng, xa
lạ với dân tộc.
Chàng là người Nga sống trên đất nước Nga, nhưng chung quanh toàn là người và vật từ nước ngoài đem vào. Từ máy móc làm ruộng, đồ đạc, sách báo đến cả đồ chơi trẻ con cũng đều mua ở nước ngoài.
Nào ngựa giống Anh, hầu phòng, vú nuôi người Pháp, quản lý người Đức, nhà thương kiểu Mỹ, nói chuyện bằng tiếng Pháp, ăn chơi theo lối Anh. Lối sống sặc mùi tư sản giữa nơi thôn quê phong kiến chỉ rõ đầu óc sùng bái nước ngoài một cách mù quáng của chủ nhà. Trước con mắt bà mẹ Doli đông con, lối sống đó như diễn ra trên một sân khấu hào nhoáng, màu mè. Ngay trong đời sống tâm tình, Vronxki cũng bắt đầu đóng kịch. Chàng hơi hối hận vì yêu Anna mà mất cả tự do, nhưng vẫn giấu nỗi bực mình dưới lời lẽ dịu dàng, lịch sự. Đối với chàng, tình yêu vẫn còn màu sắc một chiến thắng và khi hư vinh đó giảm dần thì chàng bắt đầu chán.
Anna thèm muốn hạnh phúc thật sự. Nàng yêu tha thiết vì mong đó là con đường thoát khỏi mọi trói buộc giả dối, độc ác của giới thượng lưu. Nhưng Vronxki không phải là người có thể đánh giá đúng mong ước đó. Chính Levin, con người chính trực, đã nhận xét Anna là người đàn bà hiếm có, luyến tiếc cho một tâm hồn, trí tuệ tốt đẹp và lo ngại Vronxki không hiểu hết nàng. Đúng thế, Vronxki không hiểu nổi Anna vì về mọi mặt của đời sống tinh thần, chàng đều nghèo nàn, hèn yếu hơn; chàng không có đòi hỏi về đời sống bên trong đứng đắn, không dám xa rời giới thượng lưu, thậm chí còn đầu hàng. Chàng đã lấy tình yêu làm vinh quang, thì khi nó mất đi, chàng cũng thiếu lẽ sống. Chàng đã một lần tự tử hụt vì bị sỉ nhục và bị mất Anna. Sau khi nàng chết, việc chàng tình nguyện tòng quân đi đánh nhau ở Xerbi hoàn toàn chẳng phải vì lòng yêu nước hay ý định làm chính trị gì hết, mà chỉ là việc làm tuyệt vọng, một vụ "tự sát" thứ hai cũng không kém phần "nổi tiếng" như cái chết của Anna. Cuốn truyện hình như chia làm hai đường dây nhân vật riêng rẽ: một bên là Anna, Carenin, Vronxki, một bên là Kitti, Levin. Thực ra, ngay đến số phận riêng của các nhân vật khác cũng đều được bố trí theo một hướng thống nhất, để đóng góp vào việc trình bày và Anna Karenina Lev Tolstoy giải quyết vấn đề trung tâm cuốn truyện: tình yêu và hôn nhân, gia đình hạnh phúc hay bất hạnh. Coznusev, một người sống xa thực tế, chỉ chuyên chúi đầu vào sách vở và Varenca, một cô gái đức hạnh, mộ đạo, cả hai cuối cùng cũng phải trải qua thử thách với vấn đề hôn nhân. Từ Betxi Tverxcaia, Lidia Ivanovna, đến Xerpukhovxcoe đều luôn bàn đến chuyện gia đình, tuy không phải là chuyện chính. Rồi các gia đình Xviajxki, Trerbaxki Lvov đều được miêu tả đầy đủ.
Lối sống trụy lạc của Oblonxki làm gia đình lục đục, làm Doli, một người vợ chỉ biết có chồng và con, phải đau khổ, ghen tuông. Dưới vẻ bề ngoài đầy đủ, êm ấm, gia đình quý tộc đó đang tan vỡ hạnh phúc với những túng thiếu, xích mích và chán ghét nhau. Tình yêu khó đi đôi với tính ích kỷ. Hạnh phúc chỉ đến với những người quên mình mà yêu. Trong chừng mực nhất định, cặp vợ chồng Levin - Kitti có lẽ đạt tới hạnh phúc đó. Họ là những người thực thà, chín chắn và tình yêu của họ cũng phải trải qua những lầm lạc, hối hận, đau khổ. Họ yêu và trọng nhau, trầm lặng nhưng thắm thiết, vừa không ngừng tìm hiểu nhau và lo lắng đến bổn phận mỗi người. Kitti theo chồng về quê ở, gắng làm quen với lối sống của chồng và giúp đỡ chồng làm việc. Nàng hiểu thấu tình máu mủ của Levin, hết lòng săn sóc người anh chồng ốm nặng. Nhưng quý hơn cả là nàng hiểu tâm hồn chồng, một tâm hồn nàng cho là "tất cả cho người khác, không nghĩ gì đến mình", nhưng lại đang băn khoăn đi tìm lẽ sống, tìm chân lý.
Kitti là cô gái dịu dàng, ngây thơ, đang ao ước tình yêu sẽ đền đáp xứng đáng cho sắc đẹp tươi trẻ mình. Tất cả nỗi lòng nàng say sưa tin vào một hạnh phúc gia đình tốt đẹp. Vronxki đã phá hoại lòng tin đó, làm nàng từ đó nhìn đời chỉ thấy toàn xấu xa. Khi dưỡng bệnh ở suối nước nóng, Kitti gặp Varenca. Thoạt đầu, nàng cho cô bạn mới này là con người toàn vẹn, sống cuộc đời khác hẳn bọn thanh niên hời hợt.
Nàng khám phá ra một thế giới hoàn toàn mới mẻ: ngoài cuộc sống bản năng nàng vẫn sống từ trước đến nay, còn cuộc sống tinh thần khác, cao thượng và kỳ diệu hơn nhiều. Người ta đi vào cuộc sống đó bằng tôn giáo, khác hẳn thứ tôn giáo quen thuộc từ nhỏ với các buổi lễ ở nhà thờ hoặc học thuộc lòng Kinh thánh. Thứ tôn giáo này cao siêu, huyền bí hơn, gắn liền với các tư tưởng, tình cảm cao thượng, quên mình để yêu thương kẻ khác. Và Kitti đã bị Varenca cảm hoá, bắt chước bạn giúp đỡ kẻ nghèo, săn sóc người ốm, đọc kinh Phúc âm cho họ nghe. ở đây, Tolxtoi muốn đem lòng vị tha bác ái và đạo đức tự hoàn thiện bản thân để chứng minh rằng chỉ có tôn giáo mới cứu ta thoát khỏi mọi ràng buộc bản năng của xác thịt và tiến tới cuộc sống tinh thần cao quý hơn. Nhưng cũng chính ngòi bút hiện thực của nhà văn đã giới thiệu Varenca là người thế nào? Đó là một cô gái còn rất trẻ nhưng không có tuổi trẻ, giống đóa hoa đẹp còn nguyên cánh nhưng sớm tàn úa và không hương thơm, nhất là cô ta thiếu niềm hăng say đậm đà, quyến rũ trước đàn ông. Cô già trước tuổi, chỉ nghĩ đến bổn phận, không có nổi tiếng cười. Cuộc sống hoàn toàn lý trí đã giết chết đời sống tình cảm bình thường. Lòng cô yêu thương mọi người không tự nhiên, luôn phải cố gắng, gượng gạo: nó chỉ che đậy một sự thực là cô không có khả năng thực tâm yêu thương theo một tình cảm trần thế giữa người với người. Tất nhiên, với tính yêu đời nồng nàn, Kitti không thể nào trở thành một tiểu thư Varenca thứ hai được. Hơn nữa, con mắt thông minh của nàng cũng bất chợt thấy, sau tính tình "cao thượng", cuộc đời "cảm động", lời lẽ "dịu dàng" của Stan phu nhân là những dấu hiệu giả dối, bịa đặt, giảo quyệt của bà ta, lấy thú vui từ thiện làm một nguồn an ủi, một đồ trang sức. Kitti chỉ sống bằng trái tim mà không thể sống bằng nguyên tắc giáo lý như họ, chỉ thật tâm yêu người mà không thể lên mặt dạy người, cứu người! Nàng sẽ cứ là nàng, không thể đóng kịch trên sân khấu "thanh cao, thoát tục" như Stan phu nhân và cũng không thể là một Varenca khô héo, cằn cỗi. Qua lần thử thách này, cả thân thể lẫn tinh thần Kitti đều khỏe lại và nàng trở về với cuộc sống thực sự yêu đời, đứng ngoài mọi nguyên tắc giả nhân giả nghĩa.
Trong chương lễ cưới Kitti, người đọc thấy rõ sự đồng tình của nhà văn với số phận các cô gái, khi ước mơ hạnh phúc thường bị cuộc sống tàn nhẫn phá vỡ, như các cuộc hôn nhân của nhiều người khách dự đám cưới lúc họ nhớ lại quá khứ. Doli cảm động ứa nước mắt, tạm quên cảnh nhà trước mắt và nhớ lại mối tình đầu trong trắng. Bà càng thương cho cảnh sa chân lỡ bước của Anna. Người đàn bà mang hy vọng và hãi hùng trong lòng, chấm dứt những ngày trẻ trung để bước về nhà chồng, đi vào một tương lai bí ẩn, chính mình cũng không rõ cuộc sống rồi sẽ may rủi, tốt xấu ra sao. Đó là điều đáng thương thường xảy ra cho người đàn bà trong xã hội cũ. Trong tuần trăng mật, Levin thầm trách Kitti là nông nổi, hèn mọn, ngoài chuyện nhà cửa, bếp nước, vá may ra thì không biết để ý đến một công việc gì đứng đắn, như quản lý trại ấp, xem xét nông dân, chơi nhạc, đọc sách. Nhưng chàng không hiểu vợ mình tự cho phép hưởng vài phút sung sướng, an nhàn đó là để sửa soạn gánh vác những nhiệm vụ rất nặng nề: làm chủ gia đình, làm vợ, làm mẹ. Cả cuộc đời Doli cũng hy sinh cho con cái: bà đem hết tâm sức ra nuôi nấng dạy dỗ, yêu thương chúng. Bà không hiểu nổi, thậm chí còn kinh ngạc, khiếp sợ khi thấy Anna không tự mình nuôi con và không dám đẻ nữa, để gìn giữ sắc đẹp, có thời giờ chiều chuộng người tình. Về mặt tinh thần, người mẹ bình thường đó hơn hẳn bao nhiêu người đàn bà ích kỷ khác. Cả hai chị em Doli và Kitti đều là những người có nữ tính tốt đẹp, trung thành với trách nhiệm người vợ, người mẹ. Nhà văn ra sức ca ngợi những con người đã sinh ra và giữ gìn cuộc sống trên trái đất này.
Tuy nhiên, những nhân vật trên của Tolxtoi có đời sống tinh thần quá eo hẹp. Họ không muốn bước chân ra khỏi ngưỡng cửa gia đình, không đòi hỏi, lo lắng gì mọi quyền lợi khác. Nhà văn cho rằng tâm tình mọi người đàn bà đứng đắn chỉ là "thờ chồng nuôi con". Ông phủ nhận vai trò người đàn bà trong xã hội, mặc dầu vẫn giải quyết vấn đề gia đình với quan niệm nó là một bộ phận chính hợp thành xã hội.
Dù sao Anna Carenina vẫn là cuốn tiểu thuyết xã hội, không phải tiểu thuyết "gia đình" kiểu châu Âu.
Trong mấy dòng mở đầu cuốn truyện, có một câu: "Trong gia đình, Oblonxki, mọi việc đều rối bét". Đây là chiếc chìa khóa mở cho ta thấy mọi mặt đời sống nhân vật và xã hội phản ánh vào truyện. Mọi gia đình khác của Trerbaxki, Carenin, Levin... cả nông thôn gia trưởng nước Nga đều rối loạn, vùng vẫy chống chọi sự lấn át của chủ nghĩa tư bản, giáng xuống đầu họ như một tai vạ không thể tránh thoát.
Quận công phu nhân Trerbaxki lo cho tương lai Kitti; Doli lo cho gia đình sa sút; Lidia Ivanovna tin vào trò bói toán... mọi người đều lo sợ, hoang mang trước hiện tại bấp bênh, tương lai mù mịt. Ngày mai sẽ ra sao? Không ai dám nhìn thẳng sự thật, cố tìm quên lãng trong rượu, gái, cờ bạc, bói toán... Chỉ mình Levin ngày đêm canh cánh lo cho cuộc sống thay đổi. Những địa chủ quý tộc như chàng còn giữ được trại ấp, vẫn sống theo thói quen cũ, nhưng về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức, đã cảm thấy bị lối làm ăn sinh sống của chủ nghĩa tư bản tấn công. Tàn dư chế độ nông nô nhường bước cho thời kỳ tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản tham lam, vô sỉ với người bạn cùng đường là đói rét, nghèo khổ của nhân dân. Sức mạnh đồng tiền phá hỏng nhân phẩm, cá tính, quan hệ giữa người và người.
Tất cả những sự việc lịch sử cụ thể đó gắn liền với cuộc đời và cắt nghĩa mọi tư tưởng, tình cảm, việc làm của Levin. Đứng trên miếng đất phức tạp của một địa chủ, dựa vào các sự việc mới xảy ra trong đời sống, Levin luôn suy nghĩ tìm đường giữa xã hội đang đầy rẫy mâu thuẫn, khủng hoảng trầm trọng, không ngừng tác động vào cuộc sống riêng tư. Là người thẳng thắn, rất nhạy cảm và phản ứng cũng rất nhanh với mọi thay đổi trong đời sống xung quanh, chàng luôn bất mãn với hiện thực, luôn lo lắng tìm hiểu chân lý và hạnh phúc ở đâu? Tất cả chặng đường phát triển về tinh thần của nhân vật là cuộc đấu tranh nội tâm gay go, phức tạp. Tâm tư chàng luôn bị giày vò, hết nghi ngờ, hoang mang rồi lại hối hận, tự trách mình. Chàng khao khát và cố gắng giành lấy cuộc sống sung sướng hơn, tốt đẹp hơn, bằng lao động và đấu tranh, bằng tình thương yêu và sự suy nghĩ. Chàng thực tâm muốn rời bỏ cuộc sống ích kỷ, tự tư tự lợi và tìm con đường đi vào gần gũi với nhân dân.
Levin xót xa cho tầng lớp quý tộc đang chết lụi, khinh ghét bọn con buôn vô học, tham lam, lừa lọc. Những ông lớn có tiếng mà không có miếng như Oblonxki phải chìa tay đón lấy túi tiền của các ông chủ mới "phất" như Riabinil. Bán đi khu rừng, Oblonxki là gã quý tộc không biết thẹn, ưa "sống gấp", thích a dua, buông trôi theo thời thế, lười biếng, hèn yếu, chỉ quen ăn chơi. Tuy là người thẳng thắn, nhưng ông ta không có tài năng gì, chuyên cầu cạnh họ hàng, nịnh hót bạn bè, luồn cúi kẻ giàu sang để cầu chút danh vị, tiền tài. Cảnh hoàng thân Oblonxki, người nối dõi dòng họ Rurits, ngồi đợi hai giờ liền tại phòng chờ tên tư sản Do thái Bongarinov để ngửa tay xin việc, đủ nói rõ ông ta đã chôn vùi nốt sĩ diện quý tộc và cúi đầu trước sức mạnh đồng tiền.
Làm sao Levin không lo lắng trước những sự việc đó được? Levin thấy rõ xã hội Nga đã rối loạn như thế nào sau giải phóng nông nô, thấy rõ những người thay mặt cho một trật tự kinh tế mới đã ló đầu ra. Vấn đề lo lắng nhất của chàng là: nước Nga sẽ phát triển theo con đường nào?
Giữa các "thành thị" và "công xã nông thôn", ai sẽ thắng ai? Cơ sở kinh tế nào sẽ được xây dựng ở nước Nga? Levin tin rằng nước Nga sẽ tránh được nanh vuốt chủ nghĩa tư bản, các tên Riabinil sẽ biến mất nếu địa chủ biết quản lý trại ấp hợp lý. Chàng chê trách các quý tộc bán rẻ ruộng đất và cả những người tổ chức lại lối sản xuất theo kiểu tư bản; chàng muốn tìm ra một hình thức sản xuất kiểu hợp tác giữa địa chủ và nông dân, điều hòa quyền lợi hai bên.
Vin vào cớ nền kinh tế tự nhiên giữ vai trò chính và văn minh thành thị từ nước ngoài mang vào đã gây nhiều ảnh hưởng xấu ở thôn quê, Levin cho rằng nước Nga đứng ngoài quy luật phát triển của chủ nghĩa tư bản. Quan điểm này rất gần với phe dân tuý: họ cũng cho chủ nghĩa tư bản không có khả năng phát triển ở Nga, tin rằng nông dân và nông thôn Nga có bản tính riêng biệt xã hội chủ nghĩa"! Qua lời lẽ Levin, nhà văn chỉ mới phản ánh quan điểm đó như một niềm hy vọng mà thôi, chứ không phải như một tình hình có thực, vì rõ ràng đồng tiền đã len lỏi vào mọi mặt đời sống, kể cả kinh tế và nông nghiệp của nước Nga. Nhưng nhà văn cũng không hiểu nổi mối quan hệ khăng khít giữa đồng tiền và chế độ tư bản. Ông nhắm mắt trước sự thật là chủ nghĩa tư bản đã được xây dựng trên đất nước Nga vừa mới tạm thời ổn định. Levin mượn cớ cắt nghĩa tính dân tộc của nông dân Nga để chứng minh cách suy nghĩ của chàng về đường lối phát triển riêng biệt của xã hội Nga: nào nông dân lạc hậu, bảo thủ, chống lại mọi đổi mới kỹ thuật, công cụ, bám vào lề thói làm ăn cũ kỹ. Người Nga có cách làm ruộng riêng và do đó họ mới làm tròn được nhiệm vụ rải ra trên khắp đất đai rộng lớn, hoang vu của nước Nga. Chàng nhìn thấy sự bất công giữa địa chủ giàu và nông dân nghèo, nhưng lại cố bảo vệ việc chiếm hữu ruộng đất. Chàng muốn chủ nghĩa cải lương của mình đứng giữa chủ nghĩa cộng sản và chế độ tư hữu: vừa quay lại chế độ gia trưởng, vừa tiến lên hòa hợp giai cấp! Dù có bắt nguồn từ ý muốn nhân đạo nào đó, nội dung quan điểm trên rõ ràng là không tưởng và phản động. Đó là những lẽ thất bại của Levin khi tìm tòi các cách cải tạo xã hội và nguyên nhân nỗi lòng chán nản, tuyệt vọng của chàng. Những cuộc tình duyên, các công việc xã hội, dự định nghệ thuật cuối cùng đều hỏng cả. Và cái chết luôn có mặt, nó đe doạ, ám ảnh rồi kết liễu cuộc đời một số người. Tất cả cuốn truyện toát lên không khí bi quan nặng nề. Levin không biết tìm đâu ra sức mạnh để đưa nhân dân ra khỏi vòng khổ cực. Chàng tưởng tìm thấy sự yên ổn và lòng yêu đời trong hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình. Nhưng cuộc đời chung quanh đang đầy rẫy mâu thuẫn tàn khốc và lương tâm chàng trở lại bị giày vò. Chàng tìm cách hướng về "tinh thần", chủ trương không đấu tranh, nhắm mắt làm ngơ trước thực tế xã hội tư bản và gắng tiếp tục truyền thống văn hóa cũ, lề lối sinh hoạt dân gian cũ. Chàng phản đối cách mạng, đi tới cùng đường bế tắc và chuyển những vấn đề xã hội sang vấn đề luân lý, đạo đức.
Levin day dứt băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống. Chàng là ai? Vì sao chàng sống? Sống để làm gì và sẽ đi đến đâu? Những câu hỏi đó ngày đêm thúc giục buộc chàng trả lời. Nhiều định kiến cũ phá sản trước thực tế tàn nhẫn. Đâu là chân lý mới? Những người sống chung quanh hoặc an phận, hoặc vô tư, hoặc vội vàng tìm ngay một học thuyết nào đó để có nơi trú ẩn yên ổn cho tư tưởng, khỏi mất công tìm kiếm lôi thôi. Chàng phản đối các nhà duy vật để đi tìm lẽ phải ở các triết gia duy tâm khác như Platon, Xpinoza, Cant, Senlin, Hegel, Sôpenhaoơ, nhưng chỉ cần những lý thuyết đó chạm phải thực tế là lập tức đổ sụp. Chàng hoang mang, chán đời, thấy mình chỉ là cái bong bóng xà phòng trong không gian và thời gian vô tận. Cho nên cái ông bố gia đình rất sung sướng đó nhiều lần muốn tự tử, định trốn thoát cuộc sống tinh thần tắc tị.
Levin chỉ cảm thấy tâm hồn thanh thoát, giản dị, tự nhiên, thành thực khi được gần gũi thiên nhiên, được làm việc như người lao động bình thường. Nhà văn có nhiều trang tả thiên nhiên và lao động rất hay. Chương tả mùa xuân ở nông thôn ngồn ngộn sức sống vươn lên của cảnh vật và không khí tưng bừng của lao động. Đó không phải là cái đẹp hời hợt, bàng quan mà là cái đẹp của thiên nhiên trải qua cải tạo bằng lao động chân tay lành mạnh và có ích của con người.
Chương tả Levin cùng cắt cỏ với nông dân thật sống động và vui. Chàng cũng thèm muốn cuộc sống của cặp vợ chồng nông dân trẻ Ivan Parmenov: hạnh phúc gia đình thực sự là ở trong lao động, thân thể khỏe mạnh và lòng tín ngưỡng ngây thơ. Nhà văn ca ngợi lao động chân tay như một thú vui lành mạnh, có ích cho cả thể xác lẫn tinh thần. Nhưng lao động cho ai? Kết quả sẽ thế nào? Levin cho đó là câu hỏi vô vị, không cần trả lời vì người nông dân chỉ đơn giản làm việc theo đòi hỏi tự nhiên của mỗi con người khỏe mạnh và họ không hề bận tâm đến chuyện thành quả lao động thuộc về ai! Nhưng rồi chàng cũng thấy sự thật chẳng phải như vậy: không phải ngẫu nhiên mà người thợ làm mướn làm ẩu, lười biếng, phá hỏng nông cụ, súc vật, hạt giống, đất đai và tìm mọi cách lừa dối chàng. Mọi cố gắng của Levin, coi nông dân như người bạn đồng tâm đều vô ích: quyền lợi ông chủ không những xa lạ và không thể hiểu nổi mà còn trái ngược hẳn với quyền lợi của họ. ở đây, Tolxtoi mới nhìn thấy và tô vẽ thêm mặt vui vẻ của lao động, còn mặt khổ nhục của nó trong xã hội cũ thì phải chờ đến khi viết Phục sinh, nhà văn mới nhìn thấy. Trái lại, trong bài thơ dài Ai có thể sung sướng và tự do ở nước Nga này, Necraxov lúc đó đã phản ánh đúng đời sống khổ sở của nông dân, kêu gọi đấu tranh chống địa chủ và nền chuyên chế nhà vua. Người thầy dạy Levin cách sống, vạch cho chàng thấy sự thật, lại không phải là những triết gia xa lạ nào mà chính là người dân cày chăm chỉ, bình thường làm ăn như bà Matriona, bác Fedor: đó là cuộc sống không chỉ vì cái dạ dày và đòi hỏi khác của riêng mình, mà còn vì những người chung quanh, sống "Vì linh hồn mình, sống theo chân lý, theo luật lệ Chúa".
Chân lý đó ở khắp nơi, không cần tìm trong sách vở mà tự cuộc sống đem lại cho chàng. Trong những giáo lý, đạo đức của nhà thờ Cơ đốc đã bị hủ hóa, đã trở thành vũ khí mê hoặc và áp bức nhân dân của giai cấp thống trị, chàng muốn rút ra cái phần nhân đạo, vị tha, bác ái, để đưa thành thứ tôn giáo mới. ý nghĩa cuộc sống không phải trong sự hưởng thụ của xã hội thượng lưu đầy tội ác, mà trong việc làm điều thiện của nhân dân. Từ đó Levin rút ra kết luận: để chống lại điều ác, chỉ cần làm điều thiện là đủ. Và cũng trên hệ tư tưởng tiêu cực đó mà chàng đã có ý kiến chống lại cuộc chiến tranh Xerbi, không thừa nhận một dúm người dám tự xưng thay mặt cho tư tưởng, ý chí toàn dân tộc để đi trả thù và sát hại một dân tộc khác.
Tolxtoi được dạy dỗ về tôn giáo trong không khí nên thơ của những buổi lễ chầu từ hồi nhỏ. Ông cho tôn giáo là nguồn gốc chính nâng cao tinh thần, hiểu đúng đắn thế nào là thiện, ác. Trên nền tảng nhất trí về tín ngưỡng, Levin hi vọng sẽ nhất trí với nông dân về tinh thần. Con người phải tin ở Chúa Trời, tin ở điều thiện, không cần lý trí vì chàng hiểu biết được sự thật là nhờ tín ngưỡng, chứ không phải nhờ lý trí. Cho nên những nông dân bình thường như bác Fedor hiểu ý nghĩa cuộc sống đầy đủ hơn ai hết: tình cảm, tâm hồn được thay thế cho lý trí, tín ngưỡng được thay thế cho tri thức. Nhà văn hạ thấp vai trò của lý trí và hết sức đề cao chân lý vĩnh cửu của tôn giáo. Con mắt nhận xét hiện thực nghiêm ngặt đã làm ông xa lánh Giáo hội chính thống hợp pháp cùng bộ máy chính quyền và quân đội của nhà nước phong kiến Nga. Ông đi vào thực tiễn để tìm chân lý nhưng lại trở về với thứ chủ nghĩa nhân đạo chung chung, duy thiện, đầy thần bí.
Levin đứng về phía lợi ích nông dân mà đấu tranh đến mức độ nhất định, nhưng trước sau chàng vẫn chỉ là một địa chủ không cắt đứt với giai cấp mình. Chàng nhìn thấy tội ác bọn bóc lột nhưng lại không muốn dùng bạo lực gạt bỏ chúng ra khỏi đời sống, mà chỉ muốn tu nhân tích đức, hoàn thiện bản thân, làm điều lành. Chàng nhìn thấy sự giãy chết của giai cấp quý tộc, những tội ác mới của chủ nghĩa tư bản, nỗi bần cùng khổ sở của nông dân, nhưng cũng lại phủ nhận hết thảy những tiến bộ về khoa học, kỹ thuật của phương thức sản xuất mới và muốn bo bo kìm hãm nước Nga giữ nguyên tình trạng sản xuất riêng lẻ, phân tán lạc hậu, quay lại chế độ gia trưởng, với hy vọng hão huyền chỉ có nông dân mới cứu vớt được nước Nga. Lối thoát cuối cùng của chàng là đứng ra thuyết lý về tôn giáo, lý tưởng hóa đạo Cơ đốc. Trong hoàn cảnh nước Nga hồi đó, khi xã hội bắt đầu xuất hiện những lực lượng dân chủ và cách mạng, các quan điểm, tư tưởng đó đã đứng về phía phản động; chúng đầu độc quần chúng bị áp bức không kém gì những thứ kinh tế học tư sản, triết học duy tâm và tôn giáo mê muội khác. Mâu thuẫn bên trong của Levin chính là mâu thuẫn trong thế giới quan của Tolxtoi. Sau này, ông có tiến bộ hơn nhân vật hồi đó của mình. Quá trình sáng tạo ra nhân vật có lẽ cũng là quá trình tự tìm hiểu của nhà văn. Đọc tiểu sử ông, ta tưởng như ông căn cứ vào cuộc đời mình để đẻ ra nhân vật, rồi sau đó lại dựa vào nhân vật mà suy nghĩ, sống và tiến lên. Chỉ có nhìn mọi mặt con người Levin cùng những nhân vật khác của cuốn truyện dài này thì ta mới hiểu được thời đại và những vấn đề mà nhà văn đặt ra cho họ trong cuộc sống. Như lời của V.I. Lenin đã nhận xét: "Tolxtoi đã phản ánh được mối căm thù chồng chất, mối hoài vọng rốt cuộc cũng đã chín muồi hướng về một tương lai tốt đẹp hơn, cái ý muốn giải phóng mình khỏi quá khứ - và cũng lại phản ánh cả sự chưa chín của những ước mơ, sự thiếu giáo dục chính trị, sự thờ ơ đối với cách mạng" (3).
Với Anna Carenina, chủ nghĩa hiện thực của Tolxtoi cũng như của chung nền văn học Nga hồi đó tiến thêm một bước đáng kể. Nó đề ra nhiệm vụ lớn cho loại truyện dài là: người viết phải khái quát được một quãng lịch sử của đời sống xã hội và phải có thái độ vững vàng trước cái gì là tốt, là xấu, bằng cách phản ánh mọi hiện tượng sinh hoạt. Mỗi nhân vật ở đây đều có cá tính sâu sắc, có lối cảm nghĩ, cử chỉ, lời nói, thói quen ưa thích, vui sướng, đau khổ riêng... Mỗi người là một cá nhân riêng lẻ đồng thời lại là thành viên của một tổ chức gia đình, xã hội chung nhất; mỗi người phản ánh mỗi mặt đời sống phức tạp, nhiều màu vẻ. Các nhân vật ở đây cũng không phải là "lắp lại" hoặc "biến hình" của các nhân vật trong những cuốn truyện trước của Tolxtoi. Chúng mở rộng hàng ngũ nhân vật do nhà văn sáng tạo và mang những bộ mặt riêng, mới mẻ, rõ nét của từng người.
Các sự việc rối loạn xảy ra trong xã hội Nga vào những năm bước ngoặt lịch sử 1870 đã vang dội vào cốt truyện, vào cuộc đời từng nhân vật. Số phận Anna đủ nói rõ điều đó. Cõi lòng sóng gió, thấp thỏm lo sợ của nàng, từ đầu đến cuối, luôn linh cảm trước một thảm họa không tránh khỏi sẽ xảy ra. Vì mục đích tả tâm trạng đó, nhà văn đưa ra một số hình ảnh có vẻ tượng trưng, một số lời có vẻ tiên tri (ví dụ: người thợ máy tóc bù trên đường ray, cơn bão tuyết, cây nến cháy lụi...); những cái đó góp lại nói lên tâm tình quằn quại, hoang mang của Anna. Levin cũng dao động, bơ vơ giữa ngã ba đường đời, còn những người khác thì không một ai yên tâm sống. Kịch tính trong cuốn truyện luôn căng thẳng cũng do ở điểm này. Tolxtoi tự nhận định Anna Carenina là cuốn "tiểu thuyết dài thực sự" đầu tiên. Mặc dầu nhân vật đông đúc, sự việc phức tạp, hai nhóm Carenin - Vronxki - Anna và Levin - Kitti tạo thành hai đường dây chính khác nhau, có vẻ riêng rẽ của cốt truyện, và các đường dây khác càng phức tạp hơn nhưng bố cục cuốn truyện vẫn chặt chẽ, rành mạch, cân xứng. Truyện dài nhưng không rườm rà, rất nhiều chương nhưng mỗi chương đều ngắn gọn, cô đúc; mỗi hình tượng đều có căn cứ bên trong, không tuỳ tiện; mỗi chi tiết đều dùng thể hiện chủ đề, mỗi phần hòa hợp theo cấu tứ thống nhất. Kết cấu truyện không xây dựng trên quan hệ bên trong của tư tưởng chủ đề. Về mặt này, Tolxtoi là nhà văn mạnh dạn đổi mới. Ông chống lại mọi quy định cứng nhắc trước đây, mọi thói quen cũ kỹ chỉ được phép đưa ra một cặp nhân vật trai gái và một đường dây cốt truyện từ đầu đến cuối trong cách xây dựng truyện dài. Cuộc sống sinh động so với công thức văn học, thực ra phong phú và phức tạp hơn nhiều. Để phản ánh cuộc sống được rộng rãi và đầy đủ hơn, Tolxtoi tìm ra cách viết tiểu thuyết mới, với cốt truyện có nhiều cặp nhân vật, dựa vào sự chằng chịt phức tạp của các đường dây tư tưởng, vừa mâu thuẫn vừa thống nhất, để phản ánh biện chứng mọi hiện tượng sinh hoạt và chặng đường phát triển của chúng. Tất nhiên, ở đây nhiều cách xây dựng cốt truyện khác cũng giúp ích vào việc gắn bó các đường dây thành một bố cục hoàn chỉnh, thống nhất: Levin quen anh trai Anna là Oblonxki; Kitti, vợ của Levin lại là em gái Doli, vợ Oblonxki; Vronxki từng cầu hôn Kitti; Anna cũng lại quen Kitti tại nhà chị dâu Doli; cuối cùng Levin cũng đã gặp Vronxki và Anna, v.v... tóm lại tất cả đều dần dần quy vào một mối. Những quen thuộc họ hàng, bè bạn đó, như những nguyên tắc kiến trúc song song và đối nhau, là điều đáng chú ý trong cách xây dựng truyện, tỏ rõ mối gắn bó "bên trong" khá chặt chẽ giữa các chủ đề riêng lẻ của cuốn truyện.
Tolxtoi chữa đi chữa lại tới bốn lần chương viết về sám hối, để không còn sót lại chút dấu vết nào về sự đánh giá chủ quan của nhà văn với nhân vật. Ông nói, trong bất cứ cuốn truyện nào ông đều gắng để người đọc không sao biết được tác giả có đồng tình hay không với bất cứ nhân vật nào đó; chỉ có như vậy, tác phẩm văn học mới gây được ấn tượng khách quan sâu sắc, có sức thuyết phục mạnh mẽ. Tolxtoi noi theo nguyên tắc này trong mọi cuốn truyện; chỉ trong số ít trường hợp là nhà văn viết những câu có ý nghĩa giáo dục trực tiếp hoặc có tính khái quát rộng rãi, sau khi miêu tả sự việc tỉ mỉ. Ông chỉ muốn kín đáo thể hiện tư tưởng bằng hình tượng thật cụ thể, thật khách quan; tất nhiên, như thế hoàn toàn không có nghĩa ông thể hiện cuộc sống một cách lạnh nhạt, vô tình.
Để làm nổi bật các tính cách nhân vật có nhiều khía cạnh một cách khách quan, nhà văn thường dùng phép so sánh và đối chiếu.
Ông không vạch thẳng thói xấu Vronxki mà đem vị hoàng thân nước ngoài ra đối chiếu để chỉ rõ thói xấu đó ở nhiều chỗ khác, phép so sánh còn kín đáo hơn. Tính vui vẻ yêu đời của Kitti khác hẳn vẻ cằn cỗi buồn chán của Varenca. Trái ngược với Levin là cả một loạt người đủ màu vẻ: nào Oblonxki thèm hưởng lạc, rồi Pet rixki thích bừa bãi và bao người khác nữa, những kẻ sống trụy lạc ở thành phố, tất cả họp lại thành cái nền trên đó nổi bật phẩm chất đạo đức của Levin với lối sống lành mạnh, giản dị ở thôn quê.
Khi xây dựng nhân vật, ngòi bút thành thạo Tolxtoi biết chú ý tới những hình dáng bề ngoài, với nét thể xác cụ thể, cố định và cả vẻ tinh thần trừu tượng, thoáng qua. Các chi tiết hình dáng bề ngoài không những giúp ta hình dung từng người từng người một, không hề lẫn lộn, mà còn thể hiện hoàn cảnh sống, tính nết, tư tưởng, tình cảm với cả chặng đường diễn biến bên trong nhân vật. Cặp mắt màu xám và sáng long lanh, hơi u tối dưới hàng mi dày của Anna, đôi tai "sao mà lại to đến thế kia" của Carenin và thói quen bẻ khục ngón tay của ông, cái trán bắt đầu hói của Vronxki... mỗi chi tiết đều gắn liền với nhân vật, cắt nghĩa tính cách nhân vật, đồng thời có giá trị riêng thể hiện tình cảm, thái độ của người có quan hệ với nhân vật đó. Con mắt nhận xét chăm chú và sắc sảo của nhà văn nhìn bao quát và thấu suốt mọi sự vật, từ việc lớn mà đôi mắt bình thường không hiểu nổi đến cái vụn vặt một người lơ đễnh thường bỏ qua; tất cả cái đó giúp nhà văn "trình bày" tâm hồn con người với mọi vẻ sâu sắc, cụ thể và bất ngờ nhất, bằng chất liệu nóng hổi lấy ngay từ cuộc sống thực. Tùy theo cốt truyện dần dần mở ra, nhà văn lần lượt giới thiệu cuộc đời đã qua của nhân vật, như các đoạn phim phục hiện; ông cũng thường tả sự phản ứng của người nọ với người kia khi cọ xát nhau. Nhưng đặc điểm nổi bật và xuất sắc nhất của Tolxtoi trong việc xây dựng nhân vật là miêu tả tâm lý.
Ông nghiên cứu rất kỹ và nắm chắc mọi quy luật phát triển tâm lý. Một tư tưởng tình cảm của nhân vật bất ngờ nảy ra từ ấn tượng hoặc sự việc cụ thể nào đó được nhà văn dẫn dắt, gắn liền với kỷ niệm, ý nghĩ khác. Sợi dây chuyền liên tưởng này xe kết với nhau, quyện lại và biến thành tư tưởng, tình cảm khác mới hơn, sâu hơn, rồi lại trở về với xúc động, tâm tư ban đầu ở mức độ cao hơn, mạnh mẽ hơn và cứ thế nó tiếp tục thay đổi, chuyển hoá, phát triển không ngừng, lẫn lộn hư với thực, cảm giác với suy tưởng, hiện thực với ước vọng, quá khứ, hiện tại với tương lai... Một tâm trạng ổn định chỉ rất tương đối, nó chưa kịp giải quyết hết thắc mắc còn lại đã bắt đầu lo lắng tới băn khoăn mới nảy ra. Tài nghiên cứu con người của nhà văn không chỉ bó hẹp ở chỗ nêu lên kết quả hợp lý của một chặng đường diễn biến tâm lý, mà chính ở ngay trong từng bước trên suốt dọc đường diễn biến đó, với những nét biểu hiện tinh vi, sâu sắc, có khi chỉ thoáng qua mơ hồ mà không ngừng vận động phức tạp đối lập nhau và thống nhất với nhau, theo một tốc độ rất nhanh dưới các hình thức muôn hình muôn vẻ, chằng chịt lẫn nhau.
Trernưsevxki đã gọi chủ nghĩa hiện thực tâm lý đó là "phép biện chứng về tâm hồn". Để phân tích đời sống bên trong, nhà văn luôn dùng đến độc thoại nội tâm. Và ông đã dùng ngay lời nói mang rõ nét riêng biệt của từng tính cách để viết nên những trang độc thoại nội tâm trộn không lẫn, chúng nói lên được trọn vẹn những phản ứng và vận động bên trong của từng trạng thái tâm lý. ở đây, ông như nhà đạo diễn giấu mình kín đáo sau sân khấu, người xem không trông thấy nhưng vẫn cảm thấy bàn tay thành thạo, tinh tế của người điều khiển luôn có mặt. Cho nên, với lối kể trực tiếp, cụ thể ngay chính câu chuyện và bề ngoài có vẻ khách quan đó, nhà văn chỉ cần thông qua những chi tiết nghệ thuật có vẻ rất phụ để chắc chắn và mạnh mẽ tỏ rõ thái độ với nhân vật, tỏ rõ lý tưởng thẩm mỹ, đạo đức xã hội và khuynh hướng chính trị của ông.
Nhà văn tả phong cảnh ngoài trời cũng như đồ đạc trong nhà chính để thể hiện cảm xúc, tâm tư nhân vật được đầy đủ, nhiều vẻ hơn. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Cái biệt thự kiểu ý trước sau vẫn vậy, nhưng tâm tình Vronxki thay đổi thì vẻ đẹp của nó cũng thay đổi theo; trước mắt chàng, nó đột nhiên trở nên bẩn thỉu, điêu tàn. Cơn bão tuyết trong đêm gặp gỡ giữa Anna và Vronxki trên dọc đường xe lửa cũng là cơn giông tố đang nổi dậy trong cõi lòng vừa vui sướng vừa kinh hoàng của Anna. Nhà văn tả đồ vật rất ngắn nhưng tả phong cảnh khá kỹ. Ông am hiểu và nhạy cảm trước sức sống thiên nhiên với nắng mưa, cây cỏ, súc vật, tiếng động, màu sắc, mùi vị phong phú. Mọi vẻ riêng đời sống bên ngoài đều không thoát khỏi giác quan tinh tế và sống lại trong truyện với sức mạnh, vẻ đẹp rất mới và thực. Ông không tả phong cảnh theo kiểu duy mỹ, vì ông cho cái đẹp của thế giới tự nhiên ở chỗ nó có thực và nhiều vẻ, ở sức sống mạnh mẽ, bồng bột của vạn vật. Ông tả cảnh gắn liền với người và không sợ tả mọi cảnh thực, kể cả những cảnh xấu. Ông đứng trên miếng đất của người lao động để nhìn cảnh vật, không cần tô vẽ, làm cho cái đẹp, cái xấu có thực thành giả. Cho nên ông không ngại tả mùi hoa cúc với mùi phân đồng ruộng. Người lao động coi thiên nhiên là miếng đất đẻ ra mọi vui sướng và đau khổ thực sự. Tolxtoi suốt đời gắn bó với thiên nhiên, với lao động, vì chúng mà tự hào và hạnh phúc, càng không thể nào giả dối.
Những súc vật trong truyện cũng rất sống; chúng cũng vui buồn, sợ hãi, mừng rỡ, suy nghĩ, đồng tình với chủ. Con chó Laxca nhìn các ông chủ đi săn như oán giận và thầm trách họ mải nói chuyện đến nỗi bắn trượt; con bò Pava sinh con đẻ cái; con ngựa Lao xao nhận ra chủ, đang lồng lộn bỗng dịu ngay xuống. Ta có cảm tưởng như chúng chỉ thiếu có điều là không biết nói, nếu không chúng là người rồi. Động vật và thiên nhiên quả giữ vai trò đáng kể trong việc phản ánh sinh hoạt, nội tâm và quan hệ của nhân vật với chung quanh. Văn Tolxtoi kỵ nhất những chữ văn hoa, mòn sáo, khó hiểu. Ông gắng viết thật giản dị, rõ ràng, không phải chỉ để người cùng sống trong giới quý tộc thưởng thức, mà cho hàng chục triệu người bình dân xem và hiểu. Ông cho những chữ thường dùng là những chữ khó dùng nhất vì nó sáng sủa, cụ thể, hay dở hoặc sai đúng ai nấy đều phân biệt được ngay, chứ không mơ hồ, rắc rối như những danh từ trừu tượng. Khi tả xã hội thượng lưu, văn ông thường đượm vẻ châm biếm với cách dùng lời ăn tiếng nói diêm dúa, kiểu cách, lai căng của họ và làm cho tầm thường đi những chữ mà họ coi là đẹp đẽ, thiêng liêng. Để chống lại hẳn lối văn bay bướm, ông dùng lối văn nhiều khi gồ ghề, thô mộc, nó đập rất mạnh vào trí tưởng tượng của người đọc hồi đó đã bị hư hỏng vì thị hiếu văn chương "lãng mạn" dễ dãi. Ông thích dùng cú pháp có sức chứng minh, thuyết phục, nên câu văn đâm trúc trắc, rườm rà; cái ông cần chính là sức mạnh và ý nghĩa, phải như cái chuông, rung và vang trong mỗi chữ, mỗi câu. Văn Tolxtoi còn có một đòi hỏi nữa rất quan trọng là phải mới, phải lạ, phải gây được những tác động đột ngột, vì ông cho "một nghệ sĩ chân chính phải nhìn thế giới bằng đôi mắt mới mẻ" và "lý tưởng chung phải được diễn đạt một cách mới mẻ và bất ngờ". Ông tìm cái đẹp giản dị, thô mộc và mới lạ đó không phải trong sách vở hoặc trong phòng khách quý phái mà trong lời nói rất giàu hình ảnh của nông dân. Đây không phải là chuyện "hình thức", mà là nội dung cụ thể của những quan điểm triết học và xã hội được thể hiện vào trong nghệ thuật.
Những đối thoại nhân vật cũng không bao giờ chỉ là cuộc trò chuyện, trao đổi ý kiến mà thôi: nó thay thế nhiều trang miêu tả tâm lý, đồng thời nói lên quan hệ và ảnh hưởng qua lại giữa các tính cách, trên trình độ kịch tính khá cao.
Ý nghĩa xã hội và tác dụng nhận thức các vấn đề lớn do cuốn truyện đặt ra chỉ biểu hiện bằng đặc điểm nghệ thuật riêng biệt như trên. Thời đại rối loạn đó được phản ánh rộng rãi và sâu sắc vào trong Anna Carenina đầy đủ như một bộ "bách khoa toàn thư về đời sống Nga", do tác giả đã phân tích tâm lý tinh vi khi miêu tả toàn diện con người, với tiếng nói văn học rung cảm và bằng bố cục chắc tay.
Chàng là người Nga sống trên đất nước Nga, nhưng chung quanh toàn là người và vật từ nước ngoài đem vào. Từ máy móc làm ruộng, đồ đạc, sách báo đến cả đồ chơi trẻ con cũng đều mua ở nước ngoài.
Nào ngựa giống Anh, hầu phòng, vú nuôi người Pháp, quản lý người Đức, nhà thương kiểu Mỹ, nói chuyện bằng tiếng Pháp, ăn chơi theo lối Anh. Lối sống sặc mùi tư sản giữa nơi thôn quê phong kiến chỉ rõ đầu óc sùng bái nước ngoài một cách mù quáng của chủ nhà. Trước con mắt bà mẹ Doli đông con, lối sống đó như diễn ra trên một sân khấu hào nhoáng, màu mè. Ngay trong đời sống tâm tình, Vronxki cũng bắt đầu đóng kịch. Chàng hơi hối hận vì yêu Anna mà mất cả tự do, nhưng vẫn giấu nỗi bực mình dưới lời lẽ dịu dàng, lịch sự. Đối với chàng, tình yêu vẫn còn màu sắc một chiến thắng và khi hư vinh đó giảm dần thì chàng bắt đầu chán.
Anna thèm muốn hạnh phúc thật sự. Nàng yêu tha thiết vì mong đó là con đường thoát khỏi mọi trói buộc giả dối, độc ác của giới thượng lưu. Nhưng Vronxki không phải là người có thể đánh giá đúng mong ước đó. Chính Levin, con người chính trực, đã nhận xét Anna là người đàn bà hiếm có, luyến tiếc cho một tâm hồn, trí tuệ tốt đẹp và lo ngại Vronxki không hiểu hết nàng. Đúng thế, Vronxki không hiểu nổi Anna vì về mọi mặt của đời sống tinh thần, chàng đều nghèo nàn, hèn yếu hơn; chàng không có đòi hỏi về đời sống bên trong đứng đắn, không dám xa rời giới thượng lưu, thậm chí còn đầu hàng. Chàng đã lấy tình yêu làm vinh quang, thì khi nó mất đi, chàng cũng thiếu lẽ sống. Chàng đã một lần tự tử hụt vì bị sỉ nhục và bị mất Anna. Sau khi nàng chết, việc chàng tình nguyện tòng quân đi đánh nhau ở Xerbi hoàn toàn chẳng phải vì lòng yêu nước hay ý định làm chính trị gì hết, mà chỉ là việc làm tuyệt vọng, một vụ "tự sát" thứ hai cũng không kém phần "nổi tiếng" như cái chết của Anna. Cuốn truyện hình như chia làm hai đường dây nhân vật riêng rẽ: một bên là Anna, Carenin, Vronxki, một bên là Kitti, Levin. Thực ra, ngay đến số phận riêng của các nhân vật khác cũng đều được bố trí theo một hướng thống nhất, để đóng góp vào việc trình bày và Anna Karenina Lev Tolstoy giải quyết vấn đề trung tâm cuốn truyện: tình yêu và hôn nhân, gia đình hạnh phúc hay bất hạnh. Coznusev, một người sống xa thực tế, chỉ chuyên chúi đầu vào sách vở và Varenca, một cô gái đức hạnh, mộ đạo, cả hai cuối cùng cũng phải trải qua thử thách với vấn đề hôn nhân. Từ Betxi Tverxcaia, Lidia Ivanovna, đến Xerpukhovxcoe đều luôn bàn đến chuyện gia đình, tuy không phải là chuyện chính. Rồi các gia đình Xviajxki, Trerbaxki Lvov đều được miêu tả đầy đủ.
Lối sống trụy lạc của Oblonxki làm gia đình lục đục, làm Doli, một người vợ chỉ biết có chồng và con, phải đau khổ, ghen tuông. Dưới vẻ bề ngoài đầy đủ, êm ấm, gia đình quý tộc đó đang tan vỡ hạnh phúc với những túng thiếu, xích mích và chán ghét nhau. Tình yêu khó đi đôi với tính ích kỷ. Hạnh phúc chỉ đến với những người quên mình mà yêu. Trong chừng mực nhất định, cặp vợ chồng Levin - Kitti có lẽ đạt tới hạnh phúc đó. Họ là những người thực thà, chín chắn và tình yêu của họ cũng phải trải qua những lầm lạc, hối hận, đau khổ. Họ yêu và trọng nhau, trầm lặng nhưng thắm thiết, vừa không ngừng tìm hiểu nhau và lo lắng đến bổn phận mỗi người. Kitti theo chồng về quê ở, gắng làm quen với lối sống của chồng và giúp đỡ chồng làm việc. Nàng hiểu thấu tình máu mủ của Levin, hết lòng săn sóc người anh chồng ốm nặng. Nhưng quý hơn cả là nàng hiểu tâm hồn chồng, một tâm hồn nàng cho là "tất cả cho người khác, không nghĩ gì đến mình", nhưng lại đang băn khoăn đi tìm lẽ sống, tìm chân lý.
Kitti là cô gái dịu dàng, ngây thơ, đang ao ước tình yêu sẽ đền đáp xứng đáng cho sắc đẹp tươi trẻ mình. Tất cả nỗi lòng nàng say sưa tin vào một hạnh phúc gia đình tốt đẹp. Vronxki đã phá hoại lòng tin đó, làm nàng từ đó nhìn đời chỉ thấy toàn xấu xa. Khi dưỡng bệnh ở suối nước nóng, Kitti gặp Varenca. Thoạt đầu, nàng cho cô bạn mới này là con người toàn vẹn, sống cuộc đời khác hẳn bọn thanh niên hời hợt.
Nàng khám phá ra một thế giới hoàn toàn mới mẻ: ngoài cuộc sống bản năng nàng vẫn sống từ trước đến nay, còn cuộc sống tinh thần khác, cao thượng và kỳ diệu hơn nhiều. Người ta đi vào cuộc sống đó bằng tôn giáo, khác hẳn thứ tôn giáo quen thuộc từ nhỏ với các buổi lễ ở nhà thờ hoặc học thuộc lòng Kinh thánh. Thứ tôn giáo này cao siêu, huyền bí hơn, gắn liền với các tư tưởng, tình cảm cao thượng, quên mình để yêu thương kẻ khác. Và Kitti đã bị Varenca cảm hoá, bắt chước bạn giúp đỡ kẻ nghèo, săn sóc người ốm, đọc kinh Phúc âm cho họ nghe. ở đây, Tolxtoi muốn đem lòng vị tha bác ái và đạo đức tự hoàn thiện bản thân để chứng minh rằng chỉ có tôn giáo mới cứu ta thoát khỏi mọi ràng buộc bản năng của xác thịt và tiến tới cuộc sống tinh thần cao quý hơn. Nhưng cũng chính ngòi bút hiện thực của nhà văn đã giới thiệu Varenca là người thế nào? Đó là một cô gái còn rất trẻ nhưng không có tuổi trẻ, giống đóa hoa đẹp còn nguyên cánh nhưng sớm tàn úa và không hương thơm, nhất là cô ta thiếu niềm hăng say đậm đà, quyến rũ trước đàn ông. Cô già trước tuổi, chỉ nghĩ đến bổn phận, không có nổi tiếng cười. Cuộc sống hoàn toàn lý trí đã giết chết đời sống tình cảm bình thường. Lòng cô yêu thương mọi người không tự nhiên, luôn phải cố gắng, gượng gạo: nó chỉ che đậy một sự thực là cô không có khả năng thực tâm yêu thương theo một tình cảm trần thế giữa người với người. Tất nhiên, với tính yêu đời nồng nàn, Kitti không thể nào trở thành một tiểu thư Varenca thứ hai được. Hơn nữa, con mắt thông minh của nàng cũng bất chợt thấy, sau tính tình "cao thượng", cuộc đời "cảm động", lời lẽ "dịu dàng" của Stan phu nhân là những dấu hiệu giả dối, bịa đặt, giảo quyệt của bà ta, lấy thú vui từ thiện làm một nguồn an ủi, một đồ trang sức. Kitti chỉ sống bằng trái tim mà không thể sống bằng nguyên tắc giáo lý như họ, chỉ thật tâm yêu người mà không thể lên mặt dạy người, cứu người! Nàng sẽ cứ là nàng, không thể đóng kịch trên sân khấu "thanh cao, thoát tục" như Stan phu nhân và cũng không thể là một Varenca khô héo, cằn cỗi. Qua lần thử thách này, cả thân thể lẫn tinh thần Kitti đều khỏe lại và nàng trở về với cuộc sống thực sự yêu đời, đứng ngoài mọi nguyên tắc giả nhân giả nghĩa.
Trong chương lễ cưới Kitti, người đọc thấy rõ sự đồng tình của nhà văn với số phận các cô gái, khi ước mơ hạnh phúc thường bị cuộc sống tàn nhẫn phá vỡ, như các cuộc hôn nhân của nhiều người khách dự đám cưới lúc họ nhớ lại quá khứ. Doli cảm động ứa nước mắt, tạm quên cảnh nhà trước mắt và nhớ lại mối tình đầu trong trắng. Bà càng thương cho cảnh sa chân lỡ bước của Anna. Người đàn bà mang hy vọng và hãi hùng trong lòng, chấm dứt những ngày trẻ trung để bước về nhà chồng, đi vào một tương lai bí ẩn, chính mình cũng không rõ cuộc sống rồi sẽ may rủi, tốt xấu ra sao. Đó là điều đáng thương thường xảy ra cho người đàn bà trong xã hội cũ. Trong tuần trăng mật, Levin thầm trách Kitti là nông nổi, hèn mọn, ngoài chuyện nhà cửa, bếp nước, vá may ra thì không biết để ý đến một công việc gì đứng đắn, như quản lý trại ấp, xem xét nông dân, chơi nhạc, đọc sách. Nhưng chàng không hiểu vợ mình tự cho phép hưởng vài phút sung sướng, an nhàn đó là để sửa soạn gánh vác những nhiệm vụ rất nặng nề: làm chủ gia đình, làm vợ, làm mẹ. Cả cuộc đời Doli cũng hy sinh cho con cái: bà đem hết tâm sức ra nuôi nấng dạy dỗ, yêu thương chúng. Bà không hiểu nổi, thậm chí còn kinh ngạc, khiếp sợ khi thấy Anna không tự mình nuôi con và không dám đẻ nữa, để gìn giữ sắc đẹp, có thời giờ chiều chuộng người tình. Về mặt tinh thần, người mẹ bình thường đó hơn hẳn bao nhiêu người đàn bà ích kỷ khác. Cả hai chị em Doli và Kitti đều là những người có nữ tính tốt đẹp, trung thành với trách nhiệm người vợ, người mẹ. Nhà văn ra sức ca ngợi những con người đã sinh ra và giữ gìn cuộc sống trên trái đất này.
Tuy nhiên, những nhân vật trên của Tolxtoi có đời sống tinh thần quá eo hẹp. Họ không muốn bước chân ra khỏi ngưỡng cửa gia đình, không đòi hỏi, lo lắng gì mọi quyền lợi khác. Nhà văn cho rằng tâm tình mọi người đàn bà đứng đắn chỉ là "thờ chồng nuôi con". Ông phủ nhận vai trò người đàn bà trong xã hội, mặc dầu vẫn giải quyết vấn đề gia đình với quan niệm nó là một bộ phận chính hợp thành xã hội.
Dù sao Anna Carenina vẫn là cuốn tiểu thuyết xã hội, không phải tiểu thuyết "gia đình" kiểu châu Âu.
Trong mấy dòng mở đầu cuốn truyện, có một câu: "Trong gia đình, Oblonxki, mọi việc đều rối bét". Đây là chiếc chìa khóa mở cho ta thấy mọi mặt đời sống nhân vật và xã hội phản ánh vào truyện. Mọi gia đình khác của Trerbaxki, Carenin, Levin... cả nông thôn gia trưởng nước Nga đều rối loạn, vùng vẫy chống chọi sự lấn át của chủ nghĩa tư bản, giáng xuống đầu họ như một tai vạ không thể tránh thoát.
Quận công phu nhân Trerbaxki lo cho tương lai Kitti; Doli lo cho gia đình sa sút; Lidia Ivanovna tin vào trò bói toán... mọi người đều lo sợ, hoang mang trước hiện tại bấp bênh, tương lai mù mịt. Ngày mai sẽ ra sao? Không ai dám nhìn thẳng sự thật, cố tìm quên lãng trong rượu, gái, cờ bạc, bói toán... Chỉ mình Levin ngày đêm canh cánh lo cho cuộc sống thay đổi. Những địa chủ quý tộc như chàng còn giữ được trại ấp, vẫn sống theo thói quen cũ, nhưng về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức, đã cảm thấy bị lối làm ăn sinh sống của chủ nghĩa tư bản tấn công. Tàn dư chế độ nông nô nhường bước cho thời kỳ tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản tham lam, vô sỉ với người bạn cùng đường là đói rét, nghèo khổ của nhân dân. Sức mạnh đồng tiền phá hỏng nhân phẩm, cá tính, quan hệ giữa người và người.
Tất cả những sự việc lịch sử cụ thể đó gắn liền với cuộc đời và cắt nghĩa mọi tư tưởng, tình cảm, việc làm của Levin. Đứng trên miếng đất phức tạp của một địa chủ, dựa vào các sự việc mới xảy ra trong đời sống, Levin luôn suy nghĩ tìm đường giữa xã hội đang đầy rẫy mâu thuẫn, khủng hoảng trầm trọng, không ngừng tác động vào cuộc sống riêng tư. Là người thẳng thắn, rất nhạy cảm và phản ứng cũng rất nhanh với mọi thay đổi trong đời sống xung quanh, chàng luôn bất mãn với hiện thực, luôn lo lắng tìm hiểu chân lý và hạnh phúc ở đâu? Tất cả chặng đường phát triển về tinh thần của nhân vật là cuộc đấu tranh nội tâm gay go, phức tạp. Tâm tư chàng luôn bị giày vò, hết nghi ngờ, hoang mang rồi lại hối hận, tự trách mình. Chàng khao khát và cố gắng giành lấy cuộc sống sung sướng hơn, tốt đẹp hơn, bằng lao động và đấu tranh, bằng tình thương yêu và sự suy nghĩ. Chàng thực tâm muốn rời bỏ cuộc sống ích kỷ, tự tư tự lợi và tìm con đường đi vào gần gũi với nhân dân.
Levin xót xa cho tầng lớp quý tộc đang chết lụi, khinh ghét bọn con buôn vô học, tham lam, lừa lọc. Những ông lớn có tiếng mà không có miếng như Oblonxki phải chìa tay đón lấy túi tiền của các ông chủ mới "phất" như Riabinil. Bán đi khu rừng, Oblonxki là gã quý tộc không biết thẹn, ưa "sống gấp", thích a dua, buông trôi theo thời thế, lười biếng, hèn yếu, chỉ quen ăn chơi. Tuy là người thẳng thắn, nhưng ông ta không có tài năng gì, chuyên cầu cạnh họ hàng, nịnh hót bạn bè, luồn cúi kẻ giàu sang để cầu chút danh vị, tiền tài. Cảnh hoàng thân Oblonxki, người nối dõi dòng họ Rurits, ngồi đợi hai giờ liền tại phòng chờ tên tư sản Do thái Bongarinov để ngửa tay xin việc, đủ nói rõ ông ta đã chôn vùi nốt sĩ diện quý tộc và cúi đầu trước sức mạnh đồng tiền.
Làm sao Levin không lo lắng trước những sự việc đó được? Levin thấy rõ xã hội Nga đã rối loạn như thế nào sau giải phóng nông nô, thấy rõ những người thay mặt cho một trật tự kinh tế mới đã ló đầu ra. Vấn đề lo lắng nhất của chàng là: nước Nga sẽ phát triển theo con đường nào?
Giữa các "thành thị" và "công xã nông thôn", ai sẽ thắng ai? Cơ sở kinh tế nào sẽ được xây dựng ở nước Nga? Levin tin rằng nước Nga sẽ tránh được nanh vuốt chủ nghĩa tư bản, các tên Riabinil sẽ biến mất nếu địa chủ biết quản lý trại ấp hợp lý. Chàng chê trách các quý tộc bán rẻ ruộng đất và cả những người tổ chức lại lối sản xuất theo kiểu tư bản; chàng muốn tìm ra một hình thức sản xuất kiểu hợp tác giữa địa chủ và nông dân, điều hòa quyền lợi hai bên.
Vin vào cớ nền kinh tế tự nhiên giữ vai trò chính và văn minh thành thị từ nước ngoài mang vào đã gây nhiều ảnh hưởng xấu ở thôn quê, Levin cho rằng nước Nga đứng ngoài quy luật phát triển của chủ nghĩa tư bản. Quan điểm này rất gần với phe dân tuý: họ cũng cho chủ nghĩa tư bản không có khả năng phát triển ở Nga, tin rằng nông dân và nông thôn Nga có bản tính riêng biệt xã hội chủ nghĩa"! Qua lời lẽ Levin, nhà văn chỉ mới phản ánh quan điểm đó như một niềm hy vọng mà thôi, chứ không phải như một tình hình có thực, vì rõ ràng đồng tiền đã len lỏi vào mọi mặt đời sống, kể cả kinh tế và nông nghiệp của nước Nga. Nhưng nhà văn cũng không hiểu nổi mối quan hệ khăng khít giữa đồng tiền và chế độ tư bản. Ông nhắm mắt trước sự thật là chủ nghĩa tư bản đã được xây dựng trên đất nước Nga vừa mới tạm thời ổn định. Levin mượn cớ cắt nghĩa tính dân tộc của nông dân Nga để chứng minh cách suy nghĩ của chàng về đường lối phát triển riêng biệt của xã hội Nga: nào nông dân lạc hậu, bảo thủ, chống lại mọi đổi mới kỹ thuật, công cụ, bám vào lề thói làm ăn cũ kỹ. Người Nga có cách làm ruộng riêng và do đó họ mới làm tròn được nhiệm vụ rải ra trên khắp đất đai rộng lớn, hoang vu của nước Nga. Chàng nhìn thấy sự bất công giữa địa chủ giàu và nông dân nghèo, nhưng lại cố bảo vệ việc chiếm hữu ruộng đất. Chàng muốn chủ nghĩa cải lương của mình đứng giữa chủ nghĩa cộng sản và chế độ tư hữu: vừa quay lại chế độ gia trưởng, vừa tiến lên hòa hợp giai cấp! Dù có bắt nguồn từ ý muốn nhân đạo nào đó, nội dung quan điểm trên rõ ràng là không tưởng và phản động. Đó là những lẽ thất bại của Levin khi tìm tòi các cách cải tạo xã hội và nguyên nhân nỗi lòng chán nản, tuyệt vọng của chàng. Những cuộc tình duyên, các công việc xã hội, dự định nghệ thuật cuối cùng đều hỏng cả. Và cái chết luôn có mặt, nó đe doạ, ám ảnh rồi kết liễu cuộc đời một số người. Tất cả cuốn truyện toát lên không khí bi quan nặng nề. Levin không biết tìm đâu ra sức mạnh để đưa nhân dân ra khỏi vòng khổ cực. Chàng tưởng tìm thấy sự yên ổn và lòng yêu đời trong hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình. Nhưng cuộc đời chung quanh đang đầy rẫy mâu thuẫn tàn khốc và lương tâm chàng trở lại bị giày vò. Chàng tìm cách hướng về "tinh thần", chủ trương không đấu tranh, nhắm mắt làm ngơ trước thực tế xã hội tư bản và gắng tiếp tục truyền thống văn hóa cũ, lề lối sinh hoạt dân gian cũ. Chàng phản đối cách mạng, đi tới cùng đường bế tắc và chuyển những vấn đề xã hội sang vấn đề luân lý, đạo đức.
Levin day dứt băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống. Chàng là ai? Vì sao chàng sống? Sống để làm gì và sẽ đi đến đâu? Những câu hỏi đó ngày đêm thúc giục buộc chàng trả lời. Nhiều định kiến cũ phá sản trước thực tế tàn nhẫn. Đâu là chân lý mới? Những người sống chung quanh hoặc an phận, hoặc vô tư, hoặc vội vàng tìm ngay một học thuyết nào đó để có nơi trú ẩn yên ổn cho tư tưởng, khỏi mất công tìm kiếm lôi thôi. Chàng phản đối các nhà duy vật để đi tìm lẽ phải ở các triết gia duy tâm khác như Platon, Xpinoza, Cant, Senlin, Hegel, Sôpenhaoơ, nhưng chỉ cần những lý thuyết đó chạm phải thực tế là lập tức đổ sụp. Chàng hoang mang, chán đời, thấy mình chỉ là cái bong bóng xà phòng trong không gian và thời gian vô tận. Cho nên cái ông bố gia đình rất sung sướng đó nhiều lần muốn tự tử, định trốn thoát cuộc sống tinh thần tắc tị.
Levin chỉ cảm thấy tâm hồn thanh thoát, giản dị, tự nhiên, thành thực khi được gần gũi thiên nhiên, được làm việc như người lao động bình thường. Nhà văn có nhiều trang tả thiên nhiên và lao động rất hay. Chương tả mùa xuân ở nông thôn ngồn ngộn sức sống vươn lên của cảnh vật và không khí tưng bừng của lao động. Đó không phải là cái đẹp hời hợt, bàng quan mà là cái đẹp của thiên nhiên trải qua cải tạo bằng lao động chân tay lành mạnh và có ích của con người.
Chương tả Levin cùng cắt cỏ với nông dân thật sống động và vui. Chàng cũng thèm muốn cuộc sống của cặp vợ chồng nông dân trẻ Ivan Parmenov: hạnh phúc gia đình thực sự là ở trong lao động, thân thể khỏe mạnh và lòng tín ngưỡng ngây thơ. Nhà văn ca ngợi lao động chân tay như một thú vui lành mạnh, có ích cho cả thể xác lẫn tinh thần. Nhưng lao động cho ai? Kết quả sẽ thế nào? Levin cho đó là câu hỏi vô vị, không cần trả lời vì người nông dân chỉ đơn giản làm việc theo đòi hỏi tự nhiên của mỗi con người khỏe mạnh và họ không hề bận tâm đến chuyện thành quả lao động thuộc về ai! Nhưng rồi chàng cũng thấy sự thật chẳng phải như vậy: không phải ngẫu nhiên mà người thợ làm mướn làm ẩu, lười biếng, phá hỏng nông cụ, súc vật, hạt giống, đất đai và tìm mọi cách lừa dối chàng. Mọi cố gắng của Levin, coi nông dân như người bạn đồng tâm đều vô ích: quyền lợi ông chủ không những xa lạ và không thể hiểu nổi mà còn trái ngược hẳn với quyền lợi của họ. ở đây, Tolxtoi mới nhìn thấy và tô vẽ thêm mặt vui vẻ của lao động, còn mặt khổ nhục của nó trong xã hội cũ thì phải chờ đến khi viết Phục sinh, nhà văn mới nhìn thấy. Trái lại, trong bài thơ dài Ai có thể sung sướng và tự do ở nước Nga này, Necraxov lúc đó đã phản ánh đúng đời sống khổ sở của nông dân, kêu gọi đấu tranh chống địa chủ và nền chuyên chế nhà vua. Người thầy dạy Levin cách sống, vạch cho chàng thấy sự thật, lại không phải là những triết gia xa lạ nào mà chính là người dân cày chăm chỉ, bình thường làm ăn như bà Matriona, bác Fedor: đó là cuộc sống không chỉ vì cái dạ dày và đòi hỏi khác của riêng mình, mà còn vì những người chung quanh, sống "Vì linh hồn mình, sống theo chân lý, theo luật lệ Chúa".
Chân lý đó ở khắp nơi, không cần tìm trong sách vở mà tự cuộc sống đem lại cho chàng. Trong những giáo lý, đạo đức của nhà thờ Cơ đốc đã bị hủ hóa, đã trở thành vũ khí mê hoặc và áp bức nhân dân của giai cấp thống trị, chàng muốn rút ra cái phần nhân đạo, vị tha, bác ái, để đưa thành thứ tôn giáo mới. ý nghĩa cuộc sống không phải trong sự hưởng thụ của xã hội thượng lưu đầy tội ác, mà trong việc làm điều thiện của nhân dân. Từ đó Levin rút ra kết luận: để chống lại điều ác, chỉ cần làm điều thiện là đủ. Và cũng trên hệ tư tưởng tiêu cực đó mà chàng đã có ý kiến chống lại cuộc chiến tranh Xerbi, không thừa nhận một dúm người dám tự xưng thay mặt cho tư tưởng, ý chí toàn dân tộc để đi trả thù và sát hại một dân tộc khác.
Tolxtoi được dạy dỗ về tôn giáo trong không khí nên thơ của những buổi lễ chầu từ hồi nhỏ. Ông cho tôn giáo là nguồn gốc chính nâng cao tinh thần, hiểu đúng đắn thế nào là thiện, ác. Trên nền tảng nhất trí về tín ngưỡng, Levin hi vọng sẽ nhất trí với nông dân về tinh thần. Con người phải tin ở Chúa Trời, tin ở điều thiện, không cần lý trí vì chàng hiểu biết được sự thật là nhờ tín ngưỡng, chứ không phải nhờ lý trí. Cho nên những nông dân bình thường như bác Fedor hiểu ý nghĩa cuộc sống đầy đủ hơn ai hết: tình cảm, tâm hồn được thay thế cho lý trí, tín ngưỡng được thay thế cho tri thức. Nhà văn hạ thấp vai trò của lý trí và hết sức đề cao chân lý vĩnh cửu của tôn giáo. Con mắt nhận xét hiện thực nghiêm ngặt đã làm ông xa lánh Giáo hội chính thống hợp pháp cùng bộ máy chính quyền và quân đội của nhà nước phong kiến Nga. Ông đi vào thực tiễn để tìm chân lý nhưng lại trở về với thứ chủ nghĩa nhân đạo chung chung, duy thiện, đầy thần bí.
Levin đứng về phía lợi ích nông dân mà đấu tranh đến mức độ nhất định, nhưng trước sau chàng vẫn chỉ là một địa chủ không cắt đứt với giai cấp mình. Chàng nhìn thấy tội ác bọn bóc lột nhưng lại không muốn dùng bạo lực gạt bỏ chúng ra khỏi đời sống, mà chỉ muốn tu nhân tích đức, hoàn thiện bản thân, làm điều lành. Chàng nhìn thấy sự giãy chết của giai cấp quý tộc, những tội ác mới của chủ nghĩa tư bản, nỗi bần cùng khổ sở của nông dân, nhưng cũng lại phủ nhận hết thảy những tiến bộ về khoa học, kỹ thuật của phương thức sản xuất mới và muốn bo bo kìm hãm nước Nga giữ nguyên tình trạng sản xuất riêng lẻ, phân tán lạc hậu, quay lại chế độ gia trưởng, với hy vọng hão huyền chỉ có nông dân mới cứu vớt được nước Nga. Lối thoát cuối cùng của chàng là đứng ra thuyết lý về tôn giáo, lý tưởng hóa đạo Cơ đốc. Trong hoàn cảnh nước Nga hồi đó, khi xã hội bắt đầu xuất hiện những lực lượng dân chủ và cách mạng, các quan điểm, tư tưởng đó đã đứng về phía phản động; chúng đầu độc quần chúng bị áp bức không kém gì những thứ kinh tế học tư sản, triết học duy tâm và tôn giáo mê muội khác. Mâu thuẫn bên trong của Levin chính là mâu thuẫn trong thế giới quan của Tolxtoi. Sau này, ông có tiến bộ hơn nhân vật hồi đó của mình. Quá trình sáng tạo ra nhân vật có lẽ cũng là quá trình tự tìm hiểu của nhà văn. Đọc tiểu sử ông, ta tưởng như ông căn cứ vào cuộc đời mình để đẻ ra nhân vật, rồi sau đó lại dựa vào nhân vật mà suy nghĩ, sống và tiến lên. Chỉ có nhìn mọi mặt con người Levin cùng những nhân vật khác của cuốn truyện dài này thì ta mới hiểu được thời đại và những vấn đề mà nhà văn đặt ra cho họ trong cuộc sống. Như lời của V.I. Lenin đã nhận xét: "Tolxtoi đã phản ánh được mối căm thù chồng chất, mối hoài vọng rốt cuộc cũng đã chín muồi hướng về một tương lai tốt đẹp hơn, cái ý muốn giải phóng mình khỏi quá khứ - và cũng lại phản ánh cả sự chưa chín của những ước mơ, sự thiếu giáo dục chính trị, sự thờ ơ đối với cách mạng" (3).
Với Anna Carenina, chủ nghĩa hiện thực của Tolxtoi cũng như của chung nền văn học Nga hồi đó tiến thêm một bước đáng kể. Nó đề ra nhiệm vụ lớn cho loại truyện dài là: người viết phải khái quát được một quãng lịch sử của đời sống xã hội và phải có thái độ vững vàng trước cái gì là tốt, là xấu, bằng cách phản ánh mọi hiện tượng sinh hoạt. Mỗi nhân vật ở đây đều có cá tính sâu sắc, có lối cảm nghĩ, cử chỉ, lời nói, thói quen ưa thích, vui sướng, đau khổ riêng... Mỗi người là một cá nhân riêng lẻ đồng thời lại là thành viên của một tổ chức gia đình, xã hội chung nhất; mỗi người phản ánh mỗi mặt đời sống phức tạp, nhiều màu vẻ. Các nhân vật ở đây cũng không phải là "lắp lại" hoặc "biến hình" của các nhân vật trong những cuốn truyện trước của Tolxtoi. Chúng mở rộng hàng ngũ nhân vật do nhà văn sáng tạo và mang những bộ mặt riêng, mới mẻ, rõ nét của từng người.
Các sự việc rối loạn xảy ra trong xã hội Nga vào những năm bước ngoặt lịch sử 1870 đã vang dội vào cốt truyện, vào cuộc đời từng nhân vật. Số phận Anna đủ nói rõ điều đó. Cõi lòng sóng gió, thấp thỏm lo sợ của nàng, từ đầu đến cuối, luôn linh cảm trước một thảm họa không tránh khỏi sẽ xảy ra. Vì mục đích tả tâm trạng đó, nhà văn đưa ra một số hình ảnh có vẻ tượng trưng, một số lời có vẻ tiên tri (ví dụ: người thợ máy tóc bù trên đường ray, cơn bão tuyết, cây nến cháy lụi...); những cái đó góp lại nói lên tâm tình quằn quại, hoang mang của Anna. Levin cũng dao động, bơ vơ giữa ngã ba đường đời, còn những người khác thì không một ai yên tâm sống. Kịch tính trong cuốn truyện luôn căng thẳng cũng do ở điểm này. Tolxtoi tự nhận định Anna Carenina là cuốn "tiểu thuyết dài thực sự" đầu tiên. Mặc dầu nhân vật đông đúc, sự việc phức tạp, hai nhóm Carenin - Vronxki - Anna và Levin - Kitti tạo thành hai đường dây chính khác nhau, có vẻ riêng rẽ của cốt truyện, và các đường dây khác càng phức tạp hơn nhưng bố cục cuốn truyện vẫn chặt chẽ, rành mạch, cân xứng. Truyện dài nhưng không rườm rà, rất nhiều chương nhưng mỗi chương đều ngắn gọn, cô đúc; mỗi hình tượng đều có căn cứ bên trong, không tuỳ tiện; mỗi chi tiết đều dùng thể hiện chủ đề, mỗi phần hòa hợp theo cấu tứ thống nhất. Kết cấu truyện không xây dựng trên quan hệ bên trong của tư tưởng chủ đề. Về mặt này, Tolxtoi là nhà văn mạnh dạn đổi mới. Ông chống lại mọi quy định cứng nhắc trước đây, mọi thói quen cũ kỹ chỉ được phép đưa ra một cặp nhân vật trai gái và một đường dây cốt truyện từ đầu đến cuối trong cách xây dựng truyện dài. Cuộc sống sinh động so với công thức văn học, thực ra phong phú và phức tạp hơn nhiều. Để phản ánh cuộc sống được rộng rãi và đầy đủ hơn, Tolxtoi tìm ra cách viết tiểu thuyết mới, với cốt truyện có nhiều cặp nhân vật, dựa vào sự chằng chịt phức tạp của các đường dây tư tưởng, vừa mâu thuẫn vừa thống nhất, để phản ánh biện chứng mọi hiện tượng sinh hoạt và chặng đường phát triển của chúng. Tất nhiên, ở đây nhiều cách xây dựng cốt truyện khác cũng giúp ích vào việc gắn bó các đường dây thành một bố cục hoàn chỉnh, thống nhất: Levin quen anh trai Anna là Oblonxki; Kitti, vợ của Levin lại là em gái Doli, vợ Oblonxki; Vronxki từng cầu hôn Kitti; Anna cũng lại quen Kitti tại nhà chị dâu Doli; cuối cùng Levin cũng đã gặp Vronxki và Anna, v.v... tóm lại tất cả đều dần dần quy vào một mối. Những quen thuộc họ hàng, bè bạn đó, như những nguyên tắc kiến trúc song song và đối nhau, là điều đáng chú ý trong cách xây dựng truyện, tỏ rõ mối gắn bó "bên trong" khá chặt chẽ giữa các chủ đề riêng lẻ của cuốn truyện.
Tolxtoi chữa đi chữa lại tới bốn lần chương viết về sám hối, để không còn sót lại chút dấu vết nào về sự đánh giá chủ quan của nhà văn với nhân vật. Ông nói, trong bất cứ cuốn truyện nào ông đều gắng để người đọc không sao biết được tác giả có đồng tình hay không với bất cứ nhân vật nào đó; chỉ có như vậy, tác phẩm văn học mới gây được ấn tượng khách quan sâu sắc, có sức thuyết phục mạnh mẽ. Tolxtoi noi theo nguyên tắc này trong mọi cuốn truyện; chỉ trong số ít trường hợp là nhà văn viết những câu có ý nghĩa giáo dục trực tiếp hoặc có tính khái quát rộng rãi, sau khi miêu tả sự việc tỉ mỉ. Ông chỉ muốn kín đáo thể hiện tư tưởng bằng hình tượng thật cụ thể, thật khách quan; tất nhiên, như thế hoàn toàn không có nghĩa ông thể hiện cuộc sống một cách lạnh nhạt, vô tình.
Để làm nổi bật các tính cách nhân vật có nhiều khía cạnh một cách khách quan, nhà văn thường dùng phép so sánh và đối chiếu.
Ông không vạch thẳng thói xấu Vronxki mà đem vị hoàng thân nước ngoài ra đối chiếu để chỉ rõ thói xấu đó ở nhiều chỗ khác, phép so sánh còn kín đáo hơn. Tính vui vẻ yêu đời của Kitti khác hẳn vẻ cằn cỗi buồn chán của Varenca. Trái ngược với Levin là cả một loạt người đủ màu vẻ: nào Oblonxki thèm hưởng lạc, rồi Pet rixki thích bừa bãi và bao người khác nữa, những kẻ sống trụy lạc ở thành phố, tất cả họp lại thành cái nền trên đó nổi bật phẩm chất đạo đức của Levin với lối sống lành mạnh, giản dị ở thôn quê.
Khi xây dựng nhân vật, ngòi bút thành thạo Tolxtoi biết chú ý tới những hình dáng bề ngoài, với nét thể xác cụ thể, cố định và cả vẻ tinh thần trừu tượng, thoáng qua. Các chi tiết hình dáng bề ngoài không những giúp ta hình dung từng người từng người một, không hề lẫn lộn, mà còn thể hiện hoàn cảnh sống, tính nết, tư tưởng, tình cảm với cả chặng đường diễn biến bên trong nhân vật. Cặp mắt màu xám và sáng long lanh, hơi u tối dưới hàng mi dày của Anna, đôi tai "sao mà lại to đến thế kia" của Carenin và thói quen bẻ khục ngón tay của ông, cái trán bắt đầu hói của Vronxki... mỗi chi tiết đều gắn liền với nhân vật, cắt nghĩa tính cách nhân vật, đồng thời có giá trị riêng thể hiện tình cảm, thái độ của người có quan hệ với nhân vật đó. Con mắt nhận xét chăm chú và sắc sảo của nhà văn nhìn bao quát và thấu suốt mọi sự vật, từ việc lớn mà đôi mắt bình thường không hiểu nổi đến cái vụn vặt một người lơ đễnh thường bỏ qua; tất cả cái đó giúp nhà văn "trình bày" tâm hồn con người với mọi vẻ sâu sắc, cụ thể và bất ngờ nhất, bằng chất liệu nóng hổi lấy ngay từ cuộc sống thực. Tùy theo cốt truyện dần dần mở ra, nhà văn lần lượt giới thiệu cuộc đời đã qua của nhân vật, như các đoạn phim phục hiện; ông cũng thường tả sự phản ứng của người nọ với người kia khi cọ xát nhau. Nhưng đặc điểm nổi bật và xuất sắc nhất của Tolxtoi trong việc xây dựng nhân vật là miêu tả tâm lý.
Ông nghiên cứu rất kỹ và nắm chắc mọi quy luật phát triển tâm lý. Một tư tưởng tình cảm của nhân vật bất ngờ nảy ra từ ấn tượng hoặc sự việc cụ thể nào đó được nhà văn dẫn dắt, gắn liền với kỷ niệm, ý nghĩ khác. Sợi dây chuyền liên tưởng này xe kết với nhau, quyện lại và biến thành tư tưởng, tình cảm khác mới hơn, sâu hơn, rồi lại trở về với xúc động, tâm tư ban đầu ở mức độ cao hơn, mạnh mẽ hơn và cứ thế nó tiếp tục thay đổi, chuyển hoá, phát triển không ngừng, lẫn lộn hư với thực, cảm giác với suy tưởng, hiện thực với ước vọng, quá khứ, hiện tại với tương lai... Một tâm trạng ổn định chỉ rất tương đối, nó chưa kịp giải quyết hết thắc mắc còn lại đã bắt đầu lo lắng tới băn khoăn mới nảy ra. Tài nghiên cứu con người của nhà văn không chỉ bó hẹp ở chỗ nêu lên kết quả hợp lý của một chặng đường diễn biến tâm lý, mà chính ở ngay trong từng bước trên suốt dọc đường diễn biến đó, với những nét biểu hiện tinh vi, sâu sắc, có khi chỉ thoáng qua mơ hồ mà không ngừng vận động phức tạp đối lập nhau và thống nhất với nhau, theo một tốc độ rất nhanh dưới các hình thức muôn hình muôn vẻ, chằng chịt lẫn nhau.
Trernưsevxki đã gọi chủ nghĩa hiện thực tâm lý đó là "phép biện chứng về tâm hồn". Để phân tích đời sống bên trong, nhà văn luôn dùng đến độc thoại nội tâm. Và ông đã dùng ngay lời nói mang rõ nét riêng biệt của từng tính cách để viết nên những trang độc thoại nội tâm trộn không lẫn, chúng nói lên được trọn vẹn những phản ứng và vận động bên trong của từng trạng thái tâm lý. ở đây, ông như nhà đạo diễn giấu mình kín đáo sau sân khấu, người xem không trông thấy nhưng vẫn cảm thấy bàn tay thành thạo, tinh tế của người điều khiển luôn có mặt. Cho nên, với lối kể trực tiếp, cụ thể ngay chính câu chuyện và bề ngoài có vẻ khách quan đó, nhà văn chỉ cần thông qua những chi tiết nghệ thuật có vẻ rất phụ để chắc chắn và mạnh mẽ tỏ rõ thái độ với nhân vật, tỏ rõ lý tưởng thẩm mỹ, đạo đức xã hội và khuynh hướng chính trị của ông.
Nhà văn tả phong cảnh ngoài trời cũng như đồ đạc trong nhà chính để thể hiện cảm xúc, tâm tư nhân vật được đầy đủ, nhiều vẻ hơn. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Cái biệt thự kiểu ý trước sau vẫn vậy, nhưng tâm tình Vronxki thay đổi thì vẻ đẹp của nó cũng thay đổi theo; trước mắt chàng, nó đột nhiên trở nên bẩn thỉu, điêu tàn. Cơn bão tuyết trong đêm gặp gỡ giữa Anna và Vronxki trên dọc đường xe lửa cũng là cơn giông tố đang nổi dậy trong cõi lòng vừa vui sướng vừa kinh hoàng của Anna. Nhà văn tả đồ vật rất ngắn nhưng tả phong cảnh khá kỹ. Ông am hiểu và nhạy cảm trước sức sống thiên nhiên với nắng mưa, cây cỏ, súc vật, tiếng động, màu sắc, mùi vị phong phú. Mọi vẻ riêng đời sống bên ngoài đều không thoát khỏi giác quan tinh tế và sống lại trong truyện với sức mạnh, vẻ đẹp rất mới và thực. Ông không tả phong cảnh theo kiểu duy mỹ, vì ông cho cái đẹp của thế giới tự nhiên ở chỗ nó có thực và nhiều vẻ, ở sức sống mạnh mẽ, bồng bột của vạn vật. Ông tả cảnh gắn liền với người và không sợ tả mọi cảnh thực, kể cả những cảnh xấu. Ông đứng trên miếng đất của người lao động để nhìn cảnh vật, không cần tô vẽ, làm cho cái đẹp, cái xấu có thực thành giả. Cho nên ông không ngại tả mùi hoa cúc với mùi phân đồng ruộng. Người lao động coi thiên nhiên là miếng đất đẻ ra mọi vui sướng và đau khổ thực sự. Tolxtoi suốt đời gắn bó với thiên nhiên, với lao động, vì chúng mà tự hào và hạnh phúc, càng không thể nào giả dối.
Những súc vật trong truyện cũng rất sống; chúng cũng vui buồn, sợ hãi, mừng rỡ, suy nghĩ, đồng tình với chủ. Con chó Laxca nhìn các ông chủ đi săn như oán giận và thầm trách họ mải nói chuyện đến nỗi bắn trượt; con bò Pava sinh con đẻ cái; con ngựa Lao xao nhận ra chủ, đang lồng lộn bỗng dịu ngay xuống. Ta có cảm tưởng như chúng chỉ thiếu có điều là không biết nói, nếu không chúng là người rồi. Động vật và thiên nhiên quả giữ vai trò đáng kể trong việc phản ánh sinh hoạt, nội tâm và quan hệ của nhân vật với chung quanh. Văn Tolxtoi kỵ nhất những chữ văn hoa, mòn sáo, khó hiểu. Ông gắng viết thật giản dị, rõ ràng, không phải chỉ để người cùng sống trong giới quý tộc thưởng thức, mà cho hàng chục triệu người bình dân xem và hiểu. Ông cho những chữ thường dùng là những chữ khó dùng nhất vì nó sáng sủa, cụ thể, hay dở hoặc sai đúng ai nấy đều phân biệt được ngay, chứ không mơ hồ, rắc rối như những danh từ trừu tượng. Khi tả xã hội thượng lưu, văn ông thường đượm vẻ châm biếm với cách dùng lời ăn tiếng nói diêm dúa, kiểu cách, lai căng của họ và làm cho tầm thường đi những chữ mà họ coi là đẹp đẽ, thiêng liêng. Để chống lại hẳn lối văn bay bướm, ông dùng lối văn nhiều khi gồ ghề, thô mộc, nó đập rất mạnh vào trí tưởng tượng của người đọc hồi đó đã bị hư hỏng vì thị hiếu văn chương "lãng mạn" dễ dãi. Ông thích dùng cú pháp có sức chứng minh, thuyết phục, nên câu văn đâm trúc trắc, rườm rà; cái ông cần chính là sức mạnh và ý nghĩa, phải như cái chuông, rung và vang trong mỗi chữ, mỗi câu. Văn Tolxtoi còn có một đòi hỏi nữa rất quan trọng là phải mới, phải lạ, phải gây được những tác động đột ngột, vì ông cho "một nghệ sĩ chân chính phải nhìn thế giới bằng đôi mắt mới mẻ" và "lý tưởng chung phải được diễn đạt một cách mới mẻ và bất ngờ". Ông tìm cái đẹp giản dị, thô mộc và mới lạ đó không phải trong sách vở hoặc trong phòng khách quý phái mà trong lời nói rất giàu hình ảnh của nông dân. Đây không phải là chuyện "hình thức", mà là nội dung cụ thể của những quan điểm triết học và xã hội được thể hiện vào trong nghệ thuật.
Những đối thoại nhân vật cũng không bao giờ chỉ là cuộc trò chuyện, trao đổi ý kiến mà thôi: nó thay thế nhiều trang miêu tả tâm lý, đồng thời nói lên quan hệ và ảnh hưởng qua lại giữa các tính cách, trên trình độ kịch tính khá cao.
Ý nghĩa xã hội và tác dụng nhận thức các vấn đề lớn do cuốn truyện đặt ra chỉ biểu hiện bằng đặc điểm nghệ thuật riêng biệt như trên. Thời đại rối loạn đó được phản ánh rộng rãi và sâu sắc vào trong Anna Carenina đầy đủ như một bộ "bách khoa toàn thư về đời sống Nga", do tác giả đã phân tích tâm lý tinh vi khi miêu tả toàn diện con người, với tiếng nói văn học rung cảm và bằng bố cục chắc tay.
Anna Carenina làm dấy lên cuộc đấu tranh chính trị và văn học
khá gay gắt. Giới phê bình phản động hồi đó hòng dùng cuốn truyện để đạt mục
đích riêng bỉ ổi. Họ bóp méo cuốn truyện, cho là Tolxtoi ca ngợi xã hội quý tộc, là cuốn truyện xây dựng trên nền móng tiếp thu
"di sản truyền thống văn hoá". Họ hết lời khen những trang tả cảnh
sinh hoạt gia đình Tsécbatxki. Từ cuốn truyện, họ rút ra nhận xét vu khống là đặc
tính cố hữu của đàn bà là phục tùng. Họ chống lại những người đòi giải phóng phụ
nữ, cho những người này "bẻ queo thiện tính đàn bà", vì "đàn bà
nói chung không thích chống đối". Những lý lẽ phản động đó hòng xoá bỏ hoặc
ít nhất hạ thấp phần phản kháng trong nhân vật Anna. Họ cho rằng nàng chỉ là loại
đàn bà sống bằng tình cảm. Họ rất sợ so đọ cuốn truyện với cuộc sống thực tế của
thời đại nên cố ý lờ đi mọi vấn đề xã hội trọng yếu hàng đầu được nhà văn nêu
lên và biến cuốn truyện thành cuốn sử đời tư cá nhân.
Mặt khác, những nhà phê bình thuộc phe tự do lại cho là Tolxtoi "ca tụng đời sống vì đời sống mà không có lý tưởng cao siêu gì". Họ chê cuốn truyện tầm thường, không có ý nghĩa xã hội và nội dung chính chỉ là tả tình yêu. Đây là mưu gian hòng đánh lạc hướng người đọc. Tất nhiên, họ thừa biết cuốn truyện có đầy đủ ý nghĩa xã hội và ý nghĩa chống đối cả quý tộc lẫn tư sản và rất căm giận nhà văn. Nhiều nhà văn tiến bộ hoặc có lòng tốt cũng không hiểu Tolxtoi. Những nhà phê bình thuộc phe dân tuý chê trách ông, cho cuốn truyện là đáng ghét, là "nghệ thuật phòng khách", là "sử thi của phong cách quý tộc kiểu mới", là "nội dung rỗng tuếch", Turghenev cũng hết lời chê bai, cho cuốn truyện buồn chán, sặc mùi cũ rích, mùi gái già, cả mùi chủ nghĩa Xlav lẫn chủ nghĩa quý tộc và các thứ mùi vị khác đại loại như vậy! Đó chỉ là nhận xét nông nổi, hẹp hòi. Necraxov thì làm thơ chế giễu vì không nhìn thấy sự vạch mặt xã hội thượng lưu trong cuốn truyện. Xantucov Sedrin lo "phe bảo thủ đang đắc chí" sẽ dùng cuốn truyện làm "lá cờ chính trị". Nỗi lo ngại sau thành sự thực và các phe phái phản động quả đã lợi dụng nó "phất cờ chính trị". Còn nhiều nhà phê bình khác cũng bóp méo hoặc chê bai cuốn truyện. Qua Anna, họ cho "bản tính loài người là vô cùng gian ác", là "hàng ngàn năm nay con người chưa gạt bỏ được thú tính". Họ không đả động gì đến những nét xã hội trong tấn bi kịch cuộc đời Anna: mà chỉ bàn các điểm kích thích sinh vật học. Họ cho Anna, Vronxki, Carenin chỉ tự mình làm tội mình, hoàn toàn không phải lỗi ở hoàn cảnh xã hội. Họ không tin ở sức mạnh lý trí của con người, cho không thể hiểu nổi "sự bí mật hoàn cảnh cuộc sống" và khuyên nên đi tìm lối thoát ở tôn giáo thần bí. Nói chung những nhà phê bình của những năm 1870 đều không đánh giá đúng tác phẩm. Đó là chưa kể người Mỹ: họ bỏ bớt những chương viết về các vấn đề xã hội, đem in thành cuốn tiểu thuyết "lịch sử diễm tình tay ba" rẻ tiền! Chỉ dưới ánh sáng mỹ học Mác - Lenin, cuối cùng cuốn truyện mới được trả lại đúng chỗ đứng xứng đáng. Tolxtoi viết: "Mục đích nghệ sĩ không phải là giải quyết hoàn toàn đúng đắn một vấn đề đặt ra, mà chỉ bắt buộc người đọc yêu cuộc sống dưới mọi hình thái, mà những hình thái này lại vô tận. Nếu người ta bảo tôi cần viết cuốn tiểu thuyết chứng minh những tư tưởng xã hội của tôi là đúng, tôi sẽ không chịu bỏ phí hai giờ để viết quyển truyện như vậy; nhưng nếu người ta bảo cái tôi viết ra sau hai mươi năm sẽ được những người hiện giờ còn là trẻ con đọc, họ sẽ vừa khóc vừa cười trong khi đọc, và quyển truyện sẽ làm họ yêu mến cuộc sống thì tôi sẽ hiến tất cả cuộc đời và sức lực trí tuệ để làm việc đó". Câu này bộc lộ rõ chỗ yếu và chỗ mạnh của nhà nghệ sĩ kiêm nhà tư tưởng Tolxtoi.
Trong Anna Carenina, ông đã nghiêm khắc lên án lối sống ăn bám, áp bức nhân dân và có nhiều suy nghĩ sâu sắc về số phận dân tộc Nga. Nhưng ông không đủ sức chỉ ra hướng đúng đắn giải quyết những vấn đề to lớn đặt ra trong cuốn truyện và trong cuộc sống ở thời đại đó. Ông đã giải phóng cho Anna khỏi cuộc sống giả dối, tù túng nhưng rồi lại đưa nàng vào cõi chết. Bước đường tư tưởng nhân đạo của Levin cuối cùng lại chui vào chủ nghĩa duy thiện thần bí và phản động. Đúng như V.I Lenin nhận xét: "Những mâu thuẫn trong tư tưởng của Tolxtoi là một tấm gương thực sự phản chiếu những điều kiện mâu thuẫn trong đó đã diễn ra sự hoạt động lịch sử của nông dân trong quá trình cuộc cách mạng của chúng ta... Mô tả thời kỳ lịch sử đó trong đời sống ở Nga, L. Tolxtoi đã biết đề ra trong các tác phẩm của mình biết bao vấn đề to lớn, ông đã có thể đạt tới một nghệ thuật khá mạnh mẽ khiến những tác phẩm của ông đã chiếm hàng đầu trong văn học thế giới... Trong di sản của nhà nghệ sĩ thiên tài đó để lại, có cái không chìm vào dĩ vãng, có cái thuộc về tương lai" (4).
Chú thích:
(1) Về tiểu sử của tác giả, xin xem lời giới thiệu cuốn Chiến tranh và Hòa bình. Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1961.
(2) V.I Lenin: Bàn về văn học nghệ thuật, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr.124.
(3) V.I. Levin: Bàn về văn học nghệ thuật, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr. 127.
(4) V.I Lenin: Bàn về văn học nghệ thuật, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr. 124, 129, 135.
Quyển 1Mặt khác, những nhà phê bình thuộc phe tự do lại cho là Tolxtoi "ca tụng đời sống vì đời sống mà không có lý tưởng cao siêu gì". Họ chê cuốn truyện tầm thường, không có ý nghĩa xã hội và nội dung chính chỉ là tả tình yêu. Đây là mưu gian hòng đánh lạc hướng người đọc. Tất nhiên, họ thừa biết cuốn truyện có đầy đủ ý nghĩa xã hội và ý nghĩa chống đối cả quý tộc lẫn tư sản và rất căm giận nhà văn. Nhiều nhà văn tiến bộ hoặc có lòng tốt cũng không hiểu Tolxtoi. Những nhà phê bình thuộc phe dân tuý chê trách ông, cho cuốn truyện là đáng ghét, là "nghệ thuật phòng khách", là "sử thi của phong cách quý tộc kiểu mới", là "nội dung rỗng tuếch", Turghenev cũng hết lời chê bai, cho cuốn truyện buồn chán, sặc mùi cũ rích, mùi gái già, cả mùi chủ nghĩa Xlav lẫn chủ nghĩa quý tộc và các thứ mùi vị khác đại loại như vậy! Đó chỉ là nhận xét nông nổi, hẹp hòi. Necraxov thì làm thơ chế giễu vì không nhìn thấy sự vạch mặt xã hội thượng lưu trong cuốn truyện. Xantucov Sedrin lo "phe bảo thủ đang đắc chí" sẽ dùng cuốn truyện làm "lá cờ chính trị". Nỗi lo ngại sau thành sự thực và các phe phái phản động quả đã lợi dụng nó "phất cờ chính trị". Còn nhiều nhà phê bình khác cũng bóp méo hoặc chê bai cuốn truyện. Qua Anna, họ cho "bản tính loài người là vô cùng gian ác", là "hàng ngàn năm nay con người chưa gạt bỏ được thú tính". Họ không đả động gì đến những nét xã hội trong tấn bi kịch cuộc đời Anna: mà chỉ bàn các điểm kích thích sinh vật học. Họ cho Anna, Vronxki, Carenin chỉ tự mình làm tội mình, hoàn toàn không phải lỗi ở hoàn cảnh xã hội. Họ không tin ở sức mạnh lý trí của con người, cho không thể hiểu nổi "sự bí mật hoàn cảnh cuộc sống" và khuyên nên đi tìm lối thoát ở tôn giáo thần bí. Nói chung những nhà phê bình của những năm 1870 đều không đánh giá đúng tác phẩm. Đó là chưa kể người Mỹ: họ bỏ bớt những chương viết về các vấn đề xã hội, đem in thành cuốn tiểu thuyết "lịch sử diễm tình tay ba" rẻ tiền! Chỉ dưới ánh sáng mỹ học Mác - Lenin, cuối cùng cuốn truyện mới được trả lại đúng chỗ đứng xứng đáng. Tolxtoi viết: "Mục đích nghệ sĩ không phải là giải quyết hoàn toàn đúng đắn một vấn đề đặt ra, mà chỉ bắt buộc người đọc yêu cuộc sống dưới mọi hình thái, mà những hình thái này lại vô tận. Nếu người ta bảo tôi cần viết cuốn tiểu thuyết chứng minh những tư tưởng xã hội của tôi là đúng, tôi sẽ không chịu bỏ phí hai giờ để viết quyển truyện như vậy; nhưng nếu người ta bảo cái tôi viết ra sau hai mươi năm sẽ được những người hiện giờ còn là trẻ con đọc, họ sẽ vừa khóc vừa cười trong khi đọc, và quyển truyện sẽ làm họ yêu mến cuộc sống thì tôi sẽ hiến tất cả cuộc đời và sức lực trí tuệ để làm việc đó". Câu này bộc lộ rõ chỗ yếu và chỗ mạnh của nhà nghệ sĩ kiêm nhà tư tưởng Tolxtoi.
Trong Anna Carenina, ông đã nghiêm khắc lên án lối sống ăn bám, áp bức nhân dân và có nhiều suy nghĩ sâu sắc về số phận dân tộc Nga. Nhưng ông không đủ sức chỉ ra hướng đúng đắn giải quyết những vấn đề to lớn đặt ra trong cuốn truyện và trong cuộc sống ở thời đại đó. Ông đã giải phóng cho Anna khỏi cuộc sống giả dối, tù túng nhưng rồi lại đưa nàng vào cõi chết. Bước đường tư tưởng nhân đạo của Levin cuối cùng lại chui vào chủ nghĩa duy thiện thần bí và phản động. Đúng như V.I Lenin nhận xét: "Những mâu thuẫn trong tư tưởng của Tolxtoi là một tấm gương thực sự phản chiếu những điều kiện mâu thuẫn trong đó đã diễn ra sự hoạt động lịch sử của nông dân trong quá trình cuộc cách mạng của chúng ta... Mô tả thời kỳ lịch sử đó trong đời sống ở Nga, L. Tolxtoi đã biết đề ra trong các tác phẩm của mình biết bao vấn đề to lớn, ông đã có thể đạt tới một nghệ thuật khá mạnh mẽ khiến những tác phẩm của ông đã chiếm hàng đầu trong văn học thế giới... Trong di sản của nhà nghệ sĩ thiên tài đó để lại, có cái không chìm vào dĩ vãng, có cái thuộc về tương lai" (4).
Chú thích:
(1) Về tiểu sử của tác giả, xin xem lời giới thiệu cuốn Chiến tranh và Hòa bình. Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1961.
(2) V.I Lenin: Bàn về văn học nghệ thuật, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr.124.
(3) V.I. Levin: Bàn về văn học nghệ thuật, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr. 127.
(4) V.I Lenin: Bàn về văn học nghệ thuật, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr. 124, 129, 135.
Chương 1
Mọi gia đình sung sướng đều giống nhau, nhưng mỗi gia đình bất hạnh lại khổ sở theo cách riêng.
Trong gia đình Oblonxki, mọi việc đều rối bét. Bà vợ khám phá ra việc chồng tằng tịu với cô nữ gia sư người Pháp dạy trẻ trước đây và nói thẳng với chồng là mình không thể sống chung với ông nữa. Sự tình kéo dài từ hai hôm nay khiến cho cả vợ chồng, con cái và kẻ ăn người làm trong nhà đều cảm thấy khổ tâm. Tất cả đều thấy hai người chẳng còn lý do gì để ăn ở cùng nhau nữa và mối dây ràng buộc họ bây giờ còn lỏng lẻo hơn cả cái quan hệ giữa những người tình cờ gặp nhau trong một quán trọ bên đường. Bà vợ không buồn bước ra khỏi phòng; ông chồng vắng nhà đã hai hôm; con cái tha thẩn khắp nhà như bị bỏ rơi; chị vú nuôi người Anh cãi nhau với bà quản gia, đã viết thư nhờ một cô bạn thân tìm cho chỗ làm khác; anh đầu bếp ra đi vào bữa ăn tối qua; cô phụ bếp và anh xà ích thì đòi tính tiền công xá.
Ba hôm sau cuộc cãi lộn, công tước Xtepan Arcaditr Oblonxki tức Xtiva 5 - như người ta thường gọi trong giới thượng lưu - thức giấc vào giờ thường lệ, nghĩa là tám giờ sáng, không phải trong phòng ngủ của vợ, mà trên chiếc đi văng bọc da ở phòng làm việc của mình. Ông trở nghiêng cái thân hình nặng nề và phì nộn trên lò xo đi văng như muốn ngủ lại, vòng hai tay ôm lấy gối và áp má vào; rồi bỗng nhiên ông nhỏm lên, ngồi dậy và mở choàng mắt.
"Ừ... ừ... thế nào nhỉ? Ông ta nghĩ ngợi, cố nhớ lại giấc mơ vừa qua.
Thế nào nhỉ? à, Alabin thết tiệc ở Darmoxtat; không, không phải Darmoxtat 6 mà là cái quái gì My Mỹ kia. Đúng rồi: Darmoxtat ở Mỹ.
Alabin thết tiệc trên bàn thuỷ tinh và... những bàn đó hát bài Kho vàng của tôi 7 và một khúc ca khác du dương hơn. Có cả những bình pha lê nhỏ mà lại là đàn bà".
Cặp mắt Xtepan Arcaditr bỗng ánh lên vui thích, và ông say sưa mơ mộng, môi nở một nụ cười. "ồ, khoái thật, khoái ghê. Trong giấc mơ ấy, còn ối chuyện tuyệt thú, mà chẳng thể diễn đạt bằng lời cũng như bằng ý; và khi đã thức dậy là không còn biết xác định nó ra sao nữa". Rồi, bỗng thấy tia sáng chiếu xiên qua từ sau tấm màn cửa bằng dạ, ông vội đặt chân xuống đất, quờ tìm đôi dép da cừu thêu kim tuyến, món quà vợ mừng nhân dịp sinh nhật ông năm ngoái; sau đó, theo cái thói quen từ chín năm nay, ông cứ nằm nguyên, với tay về phía vẫn treo chiếc áo ngủ. Lúc dó ông mới sực nhớ ra tại sao và thế nào mà mình lại không nằm trong phòng vợ; nụ cười vụt biến khỏi môi và ông cau mày.
Ông nhớ lại mọi việc đã xảy ra, miệng lẩm bẩm: "à! Chậc! Chậc!..." Và trong trí tưởng tượng của ông, lại diễn ra tất cả các chi tiết xung đột với vợ, cái thế bí không lối thoát và lỗi lầm của chính ông, nó giày vò dữ dội hơn mọi điều khác.
Ông nghĩ bụng: "Không, Doli sẽ chẳng tha thứ cho mình đâu, Doli không thể tha thứ cho mình được. Và điều ghê gớm hơn hết là chính mình gây ra tất cả; tất cả đều do mình, vậy mà thực không phải lỗi tại mình. Tất cả tấn bi kịch là ở đó". Ông vừa than vãn tuyệt vọng "ối chao", vừa nhớ lại những chi tiết khổ tâm nhất về cuộc cãi lộn.
Chính cái phút đầu tiên là phút khó chịu nhất: vừa đi xem hát về, dáng vui vẻ và hể hả, tay cầm một trái lê to làm quà cho vợ, ông không thấy vợ ở phòng khách; ông ngạc nhiên vì sang phòng làm việc cũng không thấy; sau cùng, ông gặp vợ ở phòng ngủ, tay cầm lá thư đốn mạt đã làm vỡ lở hết mọi chuyện.
Cô nàng Doli 7 suốt đời ưu tư và bận rộn, mà ông vẫn cho chẳng có gì là sắc sảo, lúc đó đang ngồi yên không nhúc nhích với lá thư trong tay và nhìn ông vừa kinh tởm, tuyệt vọng, vừa giận dữ.
- Cái này là cái gì? Cái gì? - bà chìa mảnh giấy hỏi chồng.
Điều làm Xtepan Arcaditr khổ tâm hơn cả mỗi khi nhớ lại cảnh đó - mà ông cứ nhớ lại luôn mới tệ chứ - không phải bản thân câu chuyện mà chính là cái cung cách ông trả lời vợ. Lúc đó ông lâm vào cái tình thế vẫn thường xảy đến với những người bỗng dưng vướng vào một chuyện xấu xa. Ông không biết đường sửa soạn một bộ mặt hợp với hoàn cảnh sau khi tội lỗi đã bị lộ. Đáng lẽ phải làm ra bộ tức giận, chối phắt, hay thanh minh, xin lỗi, cùng nữa là cứ dửng dưng (cách nào cũng vẫn tốt hơn) thì ông lại tươi cười, thản nhiên dễ dãi và lúc ấy vẻ mặt ông thật ngây ngô. Sắc diện đó là vô tình, hoàn toàn vô tình thôi (Xtepan Arcaditr vốn thích sinh lý học nên cho đó là "phản xạ não").
Ông không thể tha thứ cho mình về cái cười đần độn ấy. Vừa thoáng thấy nụ cười đó, Doli giật bắn người như bị một cơn đau giày vò thể xác. Không nén nổi cơn giận, bà tuôn ra những lời gay gắt và bỏ chạy khỏi phòng. Từ đó, bà nhất định không nhìn mặt chồng nữa.
"Chính cái cười ngây ngô là nguyên nhân của mọi chuyện - Xtepan Arcaditr nghĩ bụng - Nhưng biết làm thế nào? Làm thế nào đây?", ông nhắc đi nhắc lại một cách tuyệt vọng. Và vẫn không tìm ra câu trả lời.
Chú thích:
1. Về tiểu sử của tác giả, xin xem lời giới thiệu cuốn Chiến tranh và Hòa bình. Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1961.
2. V.I Lenin: Bàn về văn học nghệ thuật, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr.124.
3. V.I. Levin: Bàn về văn học nghệ thuật, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr. 127.
4. V.I Lenin: Bàn về văn học nghệ thuật, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr. 124, 129, 135.
5. Xtiva là Xtepan gọi theo tiếng Anh. Thời đó, giới thượng lưu thường gọi nhau bằng tên đã Anh hóa hoặc Pháp hóa và coi đó là mỹ tục. (Tất cả những chú thích ở dưới trang đều của người dịch).
6. Một tỉnh ở Đức. Vĩ ngữ "stad" có nghĩa là tỉnh.
7. II mio Tesoro (tiếng ý trong nguyên bản). Những chữ in nghiêng đều bằng tiếng nước ngoài trong nguyên bản.
8. Doli là tên Daria, gọi theo tiếng Anh.
Trong gia đình Oblonxki, mọi việc đều rối bét. Bà vợ khám phá ra việc chồng tằng tịu với cô nữ gia sư người Pháp dạy trẻ trước đây và nói thẳng với chồng là mình không thể sống chung với ông nữa. Sự tình kéo dài từ hai hôm nay khiến cho cả vợ chồng, con cái và kẻ ăn người làm trong nhà đều cảm thấy khổ tâm. Tất cả đều thấy hai người chẳng còn lý do gì để ăn ở cùng nhau nữa và mối dây ràng buộc họ bây giờ còn lỏng lẻo hơn cả cái quan hệ giữa những người tình cờ gặp nhau trong một quán trọ bên đường. Bà vợ không buồn bước ra khỏi phòng; ông chồng vắng nhà đã hai hôm; con cái tha thẩn khắp nhà như bị bỏ rơi; chị vú nuôi người Anh cãi nhau với bà quản gia, đã viết thư nhờ một cô bạn thân tìm cho chỗ làm khác; anh đầu bếp ra đi vào bữa ăn tối qua; cô phụ bếp và anh xà ích thì đòi tính tiền công xá.
Ba hôm sau cuộc cãi lộn, công tước Xtepan Arcaditr Oblonxki tức Xtiva 5 - như người ta thường gọi trong giới thượng lưu - thức giấc vào giờ thường lệ, nghĩa là tám giờ sáng, không phải trong phòng ngủ của vợ, mà trên chiếc đi văng bọc da ở phòng làm việc của mình. Ông trở nghiêng cái thân hình nặng nề và phì nộn trên lò xo đi văng như muốn ngủ lại, vòng hai tay ôm lấy gối và áp má vào; rồi bỗng nhiên ông nhỏm lên, ngồi dậy và mở choàng mắt.
"Ừ... ừ... thế nào nhỉ? Ông ta nghĩ ngợi, cố nhớ lại giấc mơ vừa qua.
Thế nào nhỉ? à, Alabin thết tiệc ở Darmoxtat; không, không phải Darmoxtat 6 mà là cái quái gì My Mỹ kia. Đúng rồi: Darmoxtat ở Mỹ.
Alabin thết tiệc trên bàn thuỷ tinh và... những bàn đó hát bài Kho vàng của tôi 7 và một khúc ca khác du dương hơn. Có cả những bình pha lê nhỏ mà lại là đàn bà".
Cặp mắt Xtepan Arcaditr bỗng ánh lên vui thích, và ông say sưa mơ mộng, môi nở một nụ cười. "ồ, khoái thật, khoái ghê. Trong giấc mơ ấy, còn ối chuyện tuyệt thú, mà chẳng thể diễn đạt bằng lời cũng như bằng ý; và khi đã thức dậy là không còn biết xác định nó ra sao nữa". Rồi, bỗng thấy tia sáng chiếu xiên qua từ sau tấm màn cửa bằng dạ, ông vội đặt chân xuống đất, quờ tìm đôi dép da cừu thêu kim tuyến, món quà vợ mừng nhân dịp sinh nhật ông năm ngoái; sau đó, theo cái thói quen từ chín năm nay, ông cứ nằm nguyên, với tay về phía vẫn treo chiếc áo ngủ. Lúc dó ông mới sực nhớ ra tại sao và thế nào mà mình lại không nằm trong phòng vợ; nụ cười vụt biến khỏi môi và ông cau mày.
Ông nhớ lại mọi việc đã xảy ra, miệng lẩm bẩm: "à! Chậc! Chậc!..." Và trong trí tưởng tượng của ông, lại diễn ra tất cả các chi tiết xung đột với vợ, cái thế bí không lối thoát và lỗi lầm của chính ông, nó giày vò dữ dội hơn mọi điều khác.
Ông nghĩ bụng: "Không, Doli sẽ chẳng tha thứ cho mình đâu, Doli không thể tha thứ cho mình được. Và điều ghê gớm hơn hết là chính mình gây ra tất cả; tất cả đều do mình, vậy mà thực không phải lỗi tại mình. Tất cả tấn bi kịch là ở đó". Ông vừa than vãn tuyệt vọng "ối chao", vừa nhớ lại những chi tiết khổ tâm nhất về cuộc cãi lộn.
Chính cái phút đầu tiên là phút khó chịu nhất: vừa đi xem hát về, dáng vui vẻ và hể hả, tay cầm một trái lê to làm quà cho vợ, ông không thấy vợ ở phòng khách; ông ngạc nhiên vì sang phòng làm việc cũng không thấy; sau cùng, ông gặp vợ ở phòng ngủ, tay cầm lá thư đốn mạt đã làm vỡ lở hết mọi chuyện.
Cô nàng Doli 7 suốt đời ưu tư và bận rộn, mà ông vẫn cho chẳng có gì là sắc sảo, lúc đó đang ngồi yên không nhúc nhích với lá thư trong tay và nhìn ông vừa kinh tởm, tuyệt vọng, vừa giận dữ.
- Cái này là cái gì? Cái gì? - bà chìa mảnh giấy hỏi chồng.
Điều làm Xtepan Arcaditr khổ tâm hơn cả mỗi khi nhớ lại cảnh đó - mà ông cứ nhớ lại luôn mới tệ chứ - không phải bản thân câu chuyện mà chính là cái cung cách ông trả lời vợ. Lúc đó ông lâm vào cái tình thế vẫn thường xảy đến với những người bỗng dưng vướng vào một chuyện xấu xa. Ông không biết đường sửa soạn một bộ mặt hợp với hoàn cảnh sau khi tội lỗi đã bị lộ. Đáng lẽ phải làm ra bộ tức giận, chối phắt, hay thanh minh, xin lỗi, cùng nữa là cứ dửng dưng (cách nào cũng vẫn tốt hơn) thì ông lại tươi cười, thản nhiên dễ dãi và lúc ấy vẻ mặt ông thật ngây ngô. Sắc diện đó là vô tình, hoàn toàn vô tình thôi (Xtepan Arcaditr vốn thích sinh lý học nên cho đó là "phản xạ não").
Ông không thể tha thứ cho mình về cái cười đần độn ấy. Vừa thoáng thấy nụ cười đó, Doli giật bắn người như bị một cơn đau giày vò thể xác. Không nén nổi cơn giận, bà tuôn ra những lời gay gắt và bỏ chạy khỏi phòng. Từ đó, bà nhất định không nhìn mặt chồng nữa.
"Chính cái cười ngây ngô là nguyên nhân của mọi chuyện - Xtepan Arcaditr nghĩ bụng - Nhưng biết làm thế nào? Làm thế nào đây?", ông nhắc đi nhắc lại một cách tuyệt vọng. Và vẫn không tìm ra câu trả lời.
Chú thích:
1. Về tiểu sử của tác giả, xin xem lời giới thiệu cuốn Chiến tranh và Hòa bình. Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1961.
2. V.I Lenin: Bàn về văn học nghệ thuật, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr.124.
3. V.I. Levin: Bàn về văn học nghệ thuật, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr. 127.
4. V.I Lenin: Bàn về văn học nghệ thuật, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr. 124, 129, 135.
5. Xtiva là Xtepan gọi theo tiếng Anh. Thời đó, giới thượng lưu thường gọi nhau bằng tên đã Anh hóa hoặc Pháp hóa và coi đó là mỹ tục. (Tất cả những chú thích ở dưới trang đều của người dịch).
6. Một tỉnh ở Đức. Vĩ ngữ "stad" có nghĩa là tỉnh.
7. II mio Tesoro (tiếng ý trong nguyên bản). Những chữ in nghiêng đều bằng tiếng nước ngoài trong nguyên bản.
8. Doli là tên Daria, gọi theo tiếng Anh.
Quyển
1
Chương 2
Chương 2
Xtepan Arcaditr vốn thật thà với mình. Ông không thể dối lòng
đến mức tin rằng ông đã hối hận về hành động của mình. Một người đàn ông băm tư
tuổi, bảnh bao, đầy dục tình như ông, không thể hối hận vì đã thôi không yêu vợ,
một bà mẹ bảy con nuôi được năm và chỉ kém mình có một tuổi. Ông chỉ tiếc đã
không biết giấu vợ cho khéo hơn. Nhưng ông cũng nhìn rõ tất cả tầm nghiêm trọng
của tình hình. Ông thương Doli, thương các con và thương cả bản thân mình nữa.
Nếu đoán trước được tin đó sẽ làm vợ xúc động đến thế, có lẽ ông đã biết che đậy
sự phụ bạc khéo hơn. Tuy không bao giờ suy nghĩ cụ thể về chuyện đó, ông vẫn
láng máng thấy rằng bà vợ đã đoán biết ông bạc tình từ lâu, nhưng đành nhắm mắt
làm ngơ đấy thôi. Thậm chí ông còn cho rằng cái người đàn bà tàn tạ, luống tuổi,
hết thời xuân sắc ấy, người đàn bà chẳng có đức tính gì nổi bật và chỉ còn là
bà mẹ tốt trong gia đình, đáng lý phải biết ăn ở cho rộng lượng hơn thì mới hợp
lẽ công bằng. Thế mà sự việc lại xảy ra khác hẳn.
"Ôi phiền quá! Phiền quá! Xtepan Arcaditr cứ nhắc đi nhắc lại mãi mà vẫn chẳng tìm ra giải pháp. Trước đây mọi việc đều êm thấm, hai vợ chồng sống cuộc đời tươi đẹp biết bao! Doli hài lòng, sung sướng với lũ trẻ, mình không hề làm phiền Doli chút nào, mình để Doli tuỳ ý trông nom nhà cửa. Kể cũng đáng tiếc là cô ta trước kia lại là cô giáo dạy con mình, kể cũng hèn hạ tầm thường. Nhưng sao lại có cô gia sư đẹp đến thế kia chứ! (Ông nhớ lại rõ ràng cặp mắt đen láy, tinh quái và nụ cười của cô Rolland 1. Tuy nhiên, cả thời gian cô ta ở nhà mình, mình có dám giở trò gì đâu. ác nhất là cô ta lại... Thật cứ như cố tình ấy! Chao! Nhưng biết làm thế nào? Làm thế nào đây?" Chẳng có giải đáp nào khác, ngoài câu trả lời chung cho mọi vấn đề phức tạp và nan giải: đành lần lữa cho qua ngày, đành quên đi thôi. Không thể tìm được quên lãng trong giấc ngủ, và nếu có thì cũng phải đến đêm; cũng không thể quay lại với điệu nhạc, lời ca của những phụ - nữ - bình - pha - lê được nữa; âu là cứ ru mình vào giấc mộng đời cho khuây khoả.
"Rồi sau sẽ hay", Xtepan Arcaditr nghĩ bụng. Ông đứng dậy, xỏ tay vào chiếc áo ngủ màu xám lót lụa xanh nhạt, thắt dây lưng, và hít một hơi dài căng lồng ngực vạm vỡ, rồi lại gần cửa sổ, đôi chân chữ bát bước đi thoăn thoắt, nhẹ nhàng, trái hẳn với tấm thân phì nộn, kéo rèm cửa lên và lắc chuông rầm rĩ. Người hầu phòng Matvei, một lão bộc thân tín, lập tức bước vào, tay cầm quần áo, đôi ủng và một bức điện tín. Theo sau là anh thợ cạo với túi đồ.
- Có giấy tờ gì của toà án không? - Xtepan Arcaditr hỏi, cầm lấy bức điện và ngồi xuống trước gương.
- Ở trên bàn ấy ạ, - Matvei trả lời, liếc nhìn chủ bằng cặp mắt dò hỏi và đầy vẻ thông cảm; - đợi một lát, - bác nói tiếp, mỉm cười ranh mãnh.
- Lão chủ hiệu xe thuê vừa cho người tới đấy ạ.
Xtepan Arcaditr không trả lời và chỉ đưa mắt nhìn Matvei trong gương, cái nhìn họ trao đổi chứng tỏ họ hiểu nhau biết chừng nào.
Xtepan như muốn hỏi: "Tại sao bác lại nói với tôi điều đó? Bác thừa hiểu sự tình ra sao rồi còn gì?".
Matvei thọc tay vào túi áo dài chẽn, dạng chân ra, và chẳng nói chẳng rằng đưa ánh mắt thân ái nhìn chủ, trên môi thoáng một nụ cười. Bác nói:
- Tôi đã bảo họ chủ nhật hãy tới và từ nay đến hôm đó, đừng làm phiền ông vô ích.
Câu nói rõ ràng được chuẩn bị từ trước.
Xtepan Arcaditr biết Matvei nói giỡn và muốn ông chú ý đến bác.
Ông mở bức điện tin ra đọc, mặc nhiên chỉnh lại trong đầu những chữ sai chính tả thường thấy ở các bức điện, vẻ mặt bỗng sáng lên:
- Matvei này, mai cô Anna Arcadievna đến đấy, ông nói, tạm ngăn bàn tay bóng nhẫy, mũm mĩm của anh thợ cạo đương rẽ một đường hồng hồng giữa hai chòm râu má dài loăn xoăn của ông.
- Đội ơn Chúa! - Matvei thốt lên và câu trả lời tỏ ra bác cũng hiểu rõ như chủ tầm quan trọng của việc này: - Anna Arcadievna, cô em gái thân yêu của Xtepan Arcaditr, có thể giúp hai vợ chồng làm lành với nhau.
Matvei hỏi:
- Cô đến một mình hay cùng đi với chồng kia ạ?
Xtepan Arcaditr không thể trả lời vì anh thợ cạo đã nắm lấy môi trên ông; ông bèn giơ một ngón tay lên. Matvei gật đầu một cái trong gương.
- Có một mình thôi ạ. Vậy có phải sửa soạn căn buồng trên gác không?
- Báo tin đó cho Daria Alecxandrovna biết đã, rồi bà bảo sao thì làm vậy.
- Báo cho Daria Alecxandrovna? - Matvei hỏi lại, vẻ nghi ngại.
- Phải. Này, mang cho bà xem bức điện; bà bảo gì phải nhớ nói lại với tôi đấy.
"Ông định thăm dò đây", Matvei hiểu ngầm như vậy, nhưng bác chỉ nói gọn lỏn:
- Thưa ông vâng ạ.
Xtepan Arcaditr rửa mặt, chải đầu xong và sắp mặc quần áo thì Matvei chậm rãi quay lại, đôi ủng khẽ kêu cót két, tay vẫn cầm bức điện. Lúc đó anh thợ cạo đi rồi.
- Daria Alecxandrovna dặn tôi thưa với ông là bà sắp đi. Bà bảo:
"Ông ấy (tức là ông đấy ạ), ông ấy muốn làm thế nào thì làm". - Và Matvei, hai tay đút túi, đầu nghiêng sang bên, đăm đăm nhìn chủ, chỉ có đôi mắt là nhấp nháy cười.
Xtepan Arcaditr nín lặng. Rồi một nụ cười hiền hậu, hơi thiểu não, hiện trên khuôn mặt đẹp của ông.
- Làm thế nào bây giờ, Matvei? - ông hất hàm nói.
- Không sao cả, ông chủ ạ, rồi sẽ ổn thôi, - Matvei trả lời.
- Có chắc không?
- Thưa ông, chắc chứ ạ.
- Bác chắc thế thật à? Ai đó? - Xtepan Arcaditr nghe thấy tiếng áo phụ nữ sột soạt sau cửa, liền hỏi.
- Thưa ông, tôi đấy ạ.
Một giọng rắn rỏi và dễ nghe đáp lại; rồi khuôn mặt nghiêm nghị, rỗ hoa của bác bảo mẫu Matriona Filimonovna hiện ra ở khung cửa.
- Có chuyện gì đấy, Matriona? - Xtepan Arcaditr bước về phía bác ta, hỏi.
Mặc dầu Xtepan Arcaditr hoàn toàn có lỗi với vợ và chính ông cũng biết vậy, nhưng hầu như mọi người trong nhà, kể cả bác bảo mẫu là người thân tín nhất của Daria Alecxandrovna, vẫn bênh ông.
- Có chuyện gì vậy? - ông hỏi, giọng rầu rĩ.
- Thưa ông, ông nên đến xin lỗi bà lần nữa đi. Chúa sẽ phù hộ cho ông. Bà đang đau khổ, trông thương tâm lắm; còn trong nhà thì mọi việc đều rối bời. Ông phải biết thương các em chứ. Ông hãy đến xin lỗi bà đi. Chẳng có cách nào khác đâu! Gây đổ vỡ thì phải...
- Nhưng bà chẳng tiếp tôi đâu...
- Như vậy chẳng gì ông cũng làm hết bổn phận. Chúa lòng lành vô cùng! Ông cầu nguyện đi, ông chủ ạ, ông hãy cầu nguyện đi!
- Thôi được. Nào! - Xtepan Arcaditr nói, mặt bỗng đỏ dừ. Ông quay lại bảo Matvei: "Bác giúp tôi mặc quần áo", và ông cởi áo ngủ, dáng kiên quyết.
Matvei thổi thổi những hạt bụi vô hình, chìa sẵn cho chủ chiếc sơ mi hồ bột và hỉ hả ra mặt, choàng áo lên cái thân hình trau chuốt của Xtepan Arcaditr.
Mặc quần áo xong, Xtepan Arcaditr bơm nước hoa, cài khuy tay áo, quen tay bỏ luôn vào túi chiếc ví, hộp thuốc lá, bao diêm và chiếc đồng hồ quả quýt có dây chuyền kép đính đồ trang sức, rũ khăn tay, rồi, cảm thấy sạch sẽ, thơm tho, thoải mái và khoan khoái thể xác, mặc dù đang ở trong tâm trạng phiền muộn, ông đi thẳng sang phòng ăn, bước chân hơi run rẩy, nơi món cà phê sáng và thư từ, giấy má đã chờ sẵn.
Ông đọc thư. Có một bức thư làm ông rất khó chịu: đó là thư của một thương gia đang muốn mua khu rừng trong trang trại của vợ ông. Nhất thiết phải bán khu rừng đó rồi; nhưng vấn đề chưa thể đặt ra trước khi vợ chồng hòa thuận trở lại. Điều bực mình nhất là việc dàn hòa này lại dính đến chuyện tiền nong. Ông khó chịu với ý nghĩ là trường hợp đó có thể làm ông mất thể diện: tìm cách làm lành với vợ để bán trôi khu rừng.
Đọc xong tập thư, Xtepan Arcaditr kéo đống giấy má để trên bàn lại, giở nhanh hai tập hồ sơ, lấy chiếc bút chì to đánh dấu vài chỗ rồi gạt tất cả sang bên, rót cà phê uống; ông vừa điểm tâm vừa giở tờ báo buổi sáng còn ướt mực và bắt đầu đọc.
Xtepan Arcaditr thường ngày đọc tờ báo của phái tự do, cũng không lấy gì làm tân tiến lắm, thuộc cái khuynh hướng mà đa số đang theo. Và mặc dầu chẳng quan tâm đặc biệt gì đến khoa học, nghệ thuật cũng như chính trị, ông vẫn kiên quyết giữ vững quan điểm của đa số và của tờ báo về tất cả những vấn đề đó, và chỉ thay đổi ý kiến khi đa số cũng thay đổi, hoặc, nói đúng hơn, ông chẳng thay đổi gì hết: chính những quan điểm tự thay đổi lúc nào không biết.
Xtepan Arcaditr không hề lựa chọn khuynh hướng cũng như quan điểm; tự chúng tìm đến ông; ông chẳng mất công lựa chọn gì hơn chọn mũ chọn áo: người ta ăn vận thế nào, ông làm theo như vậy. Nhưng sống trong một xã hội mà mọi người đứng tuổi đều phải có một hoạt động trí tuệ nào đó, việc có chính kiến đối với ông, cũng cần như đội mũ. Sở dĩ ông ưng khuynh hướng tự do hơn khuynh hướng bảo thủ mà một số đông trong giới ông đang theo, đó không phải vì ông thấy nó phải chăng hơn, mà bởi nó phù hợp với lối sống của ông hơn. Phe tự do nói ở nước Nga, mọi sự đều bí bét: quả vậy, Xtepan Arcaditr nợ đìa ra và luôn luôn túng tiền. Phe tự do nói hôn nhân là tục lệ lỗi thời, cần phải cải cách: thực tế, cuộc sống vợ chồng chẳng đem lại hứng thú gì lắm cho Xtepan Arcaditr, buộc ông phải dối trá, che đậy, và điều đó trái hẳn với bản chất ông. Phe tự do nói, hay đúng hơn, ngụ ý rằng tôn giáo chỉ là một trở lực kìm bước đám người vô học trong dân chúng: thì đấy, Xtepan Arcaditr có bao giờ chịu đựng nổi một buổi lễ chầu, dù ngắn nhất, mà không rấm rứt ở bắp chân; ông không tài nào hiểu được ý nghĩa của tất cả những bài thuyết giáo hãi hùng và khoa trương về thế giới bên kia, trong khi người ta vẫn có thể vui chơi thoả thích ở ngay cái thế giới này. Ngoài ra, Xtepan Arcaditr, vốn thích bông đùa, thường rất khoái trá mỗi khi có dịp châm chọc những người yên phận rằng: nếu ta hãnh diện vì dòng giống thì lẽ nào chỉ dừng lại ở thời Ruritr 2 và không chịu công nhận ông tổ đầu tiên là... con khỉ. Cho nên, khuynh hướng tự do đã trở thành thói quen của Xtepan Arcaditr, và ông yêu thích tờ báo của mình như điếu xì gà sau bữa ăn trưa, nó toả một màn sương nhẹ lâng trong đầu.
Ông đọc xã luận, bài báo giải thích là thời buổi này, thật hoài công mà đi la lối rằng chủ nghĩa cấp tiến đang đe doạ nuốt chửng mọi yếu tố bảo thủ; rằng chính phủ sắp sửa bắt buộc phải ra tay bóp nghẹt con mãng xà tinh cách mạng; trái lại "theo ý chúng tôi, nguy cơ không do con mãng xà tinh cách mạng tưởng tượng gây ra, mà chính là tại các yếu tố tồn cổ đã ngoan cố kìm hãm đà tiến bộ", v.v... Ông cũng đọc lướt bài báo thứ hai bàn về vấn đề tài chính, trong đó người ta dẫn ra nào là Bentham 3 nào là Min 4 và xỏ ngọt Bộ Tài chính vài cú. Vốn sắc sảo minh mẫn, ông hiểu ngay ý nghĩa của từng lời ám chỉ: xuất phát từ đâu, nhằm vào ai và được tung ra nhân việc gì, ông đều hiểu hết và cũng như mọi lần điều đó đem lại cho ông ít nhiều thú vị.
Nhưng bữa nay, niềm thích thú bị giảm đi khi ông nhớ tới lời khuyên của Matriona Filimonovna và tình trạng rối bời trong gia đình; báo còn loan tin bá tước Boxt đi Vixbadell, tin thị trường không còn món tóc bạc, tin có người muốn bán xe ngựa nhẹ và tin một thanh niên tìm việc làm; nhưng những tin tức đó không mang lại cho ông niềm thoả mãn bình thản và nhạo đời như mọi lần trước.
Đọc báo xong, và uống cạn tách cà phê thứ hai với chiếc bánh mì trắng nhỏ quệt bơ, ông đứng dậy, rũ những mẩu bánh vụn vãi trên áo gi lê và ưỡn bộ ngực nở nang, mỉm cười khoan khoái, không phải vì ông thấy tâm hồn có gì đặc biệt thanh thản... mà là do thức ăn đã tiêu hóa tốt.
Nụ cười rạng rỡ làm ông sực nhớ lại tất cả, và ông đâm ra tư lự.
Có tiếng hai đứa trẻ đằng sau cửa (Xtepan Arcaditr nhận ra tiếng Grisa, con trai út, và Tania, con gái lớn của ông). Chúng vừa đánh rơi một vật gì.
- Chị đã bảo em đừng có để hành khách lên mái, - con bé la lên bằng tiếng Anh. - Bây giờ thì phải nhặt lên nào!
Xtepan Arcaditr nghĩ bụng: "Nhà cửa lung tung, trẻ con bị bỏ mặc chẳng ai trông nom". Và ông lại gần cửa, lên tiếng gọi hai con. Chúng bỏ chiếc hộp dùng làm tàu hoả và chạy lại với bố.
Tania, con gái cưng của Xtepan Arcaditr, mạnh dạn bước vào, quàng tay ôm lấy cổ bố vừa đánh đu vừa cười như mọi lần, khoan khoái hít hít mùi nước hoa quen thuộc toả ra từ hai chòm râu má của bố. Sau khi hôn bộ mặt bố đỏ bự vì phải cúi xuống và ngời ngợi trìu mến, đứa bé buông tay ra định chạy, nhưng ông bố giữ con lại.
- Mẹ đang làm gì? - ông vừa hỏi vừa vuốt ve cái cổ mảnh dẻ của con gái. Rồi quay sang mỉm cười với thằng con trai út: Chào chú!
Ông không thấy yêu con trai bằng con gái và luôn luôn gắng không để lộ điều đó; nhưng thằng bé thừa biết và không buồn đáp lại cái cười gượng của bố.
- Mẹ ấy à? Mẹ dậy rồi ạ, - con bé trả lời.
Xtepan Arcaditr buông một tiếng thở dài. Ông nghĩ: "Thế ra, cả đêm nàng không ngủ".
- Mẹ có vui không?
Con bé thừa biết bố mẹ đã cãi nhau, mẹ nó không thể vui được, bố hẳn phải hiểu rõ, nhưng định đóng kịch nên vờ hỏi giỡn như vậy. Nó đỏ mặt thay cho bố. Xtepan Arcaditr chợt hiểu ngay và cũng đỏ mặt.
- Con chả biết, - nó nói. - Mẹ bảo chúng con không phải học nữa mà đi với cô Hal đến nhà bà.
- Vậy thì đi đi thôi, Tania bé bỏng của ba. à, khoan đã - ông giữ con lại lần nữa, vuốt ve bàn tay nhỏ xíu mềm mại của nó...
Ông cầm hộp kẹo để trên lò sưởi từ hôm qua, chọn lấy hai cái con bé thích nhất: một kẹo sôcôla, một kẹo mứt hoa quả và đưa cho con.
Con bé giơ chiếc kẹo sôcôla và hỏi:
- Cái này cho Grisa phải không ba?
- Ừ, ừ.
Và vuốt ve lần cuối chiếc vai nhỏ nhắn của con gái xong, ông hôn vào cổ, vào chân tóc rồi cho nó đi ra.
- Xe đánh ra ngoài rồi đấy ạ, - Matvei vào báo và nói tiếp: - có một bà đến kêu việc.
- Bà ta đến lâu chưa? - Xtepan Arcaditr hỏi.
- Độ nửa giờ rồi.
- Đã bao lần tôi dặn bác phải báo ngay kia mà.
- Thì tôi cũng phải để ông dùng xong cà phê đã chứ, - Matvei nói, giọng lủng bủng và thân mật khiến ông không còn bụng nào mà giận được.
- Thôi cho người ta vào nhanh lên, - Oblonxki cau mày nói.
Người đó là vợ viên đại uý tham mưu Klinin, đến nhờ vả một việc không thể giải quyết được và phi lý nữa; nhưng Xtepan Arcaditr, theo thói quen, vẫn mời bà ta ngồi và chăm chú nghe từ đầu đến cuối không hề ngắt lời, chỉ vẽ cụ thể nên xử sự thế nào, nên đến cầu cạnh ai, và viết hẳn một lá thư bằng lối chữ khoáng đạt, đẹp và rõ ràng của ông, giới thiệu đến người có thể giúp đỡ bà ta được. Sau khi đưa tiễn vợ viên đại uý, Xtepan Arcaditr bèn cầm mũ và dừng lại tự hỏi xem có quên gì không. Ông chỉ quên mỗi một điều mà ông ước ao quên đi được là... vợ ông.
"À, phải!", ông cúi đầu và bộ mặt đẹp bỗng đượm buồn. Ông tự hỏi:
"Ta nên đến gặp, hay không nên đến?" Một tiếng nói từ trong lòng bảo ông có đến gặp cũng vô ích, rút cục chỉ đi đến chỗ giả dối thôi, không thể chắp nối lại tình nghĩa vợ chồng nữa rồi, bởi vì không ai có thể trả lại cho Doli cái xuân sắc quyến rũ thuở xưa, cũng như không thể biến ông thành lão già bất lực được. Làm thế chỉ đưa đến giả tạo và dối trá: mà giả tạo và dối trá thì trái hẳn với bản chất ông.
"Tuy nhiên trước sau, vẫn phải một lần, không thể cứ thế này mãi được!", ông tự bảo, gắng động viên mình mạnh hơn. Ông thẳng người lên, lấy điếu thuốc lá, châm lửa hút, kéo hai hơi, rồi vứt điếu thuốc vào chiếc vỏ xà cừ dùng làm gạt tàn, đi nhanh qua phòng khách và mở cửa phòng vợ.
Chú thích:
1. Mile Rolland (tiếng Pháp trong nguyên bản).
2. Tù trưởng của bộ lạc Varege ở bán đảo Xcandinavi. Hồi gần cuối thế kỷ thứ IX, đột nhập nước Nga, chinh phục các bộ lạc giữa Phần Lan và Xlav lập nên đế chế Nga.
3. Jeremie Bentham (1748-1832) nhà triết học và pháp luật học Anh theo chủ nghĩa thực dụng.
4. James Mill (1773-1836) nhà triết học Anh, người kế tục Bentham.
"Ôi phiền quá! Phiền quá! Xtepan Arcaditr cứ nhắc đi nhắc lại mãi mà vẫn chẳng tìm ra giải pháp. Trước đây mọi việc đều êm thấm, hai vợ chồng sống cuộc đời tươi đẹp biết bao! Doli hài lòng, sung sướng với lũ trẻ, mình không hề làm phiền Doli chút nào, mình để Doli tuỳ ý trông nom nhà cửa. Kể cũng đáng tiếc là cô ta trước kia lại là cô giáo dạy con mình, kể cũng hèn hạ tầm thường. Nhưng sao lại có cô gia sư đẹp đến thế kia chứ! (Ông nhớ lại rõ ràng cặp mắt đen láy, tinh quái và nụ cười của cô Rolland 1. Tuy nhiên, cả thời gian cô ta ở nhà mình, mình có dám giở trò gì đâu. ác nhất là cô ta lại... Thật cứ như cố tình ấy! Chao! Nhưng biết làm thế nào? Làm thế nào đây?" Chẳng có giải đáp nào khác, ngoài câu trả lời chung cho mọi vấn đề phức tạp và nan giải: đành lần lữa cho qua ngày, đành quên đi thôi. Không thể tìm được quên lãng trong giấc ngủ, và nếu có thì cũng phải đến đêm; cũng không thể quay lại với điệu nhạc, lời ca của những phụ - nữ - bình - pha - lê được nữa; âu là cứ ru mình vào giấc mộng đời cho khuây khoả.
"Rồi sau sẽ hay", Xtepan Arcaditr nghĩ bụng. Ông đứng dậy, xỏ tay vào chiếc áo ngủ màu xám lót lụa xanh nhạt, thắt dây lưng, và hít một hơi dài căng lồng ngực vạm vỡ, rồi lại gần cửa sổ, đôi chân chữ bát bước đi thoăn thoắt, nhẹ nhàng, trái hẳn với tấm thân phì nộn, kéo rèm cửa lên và lắc chuông rầm rĩ. Người hầu phòng Matvei, một lão bộc thân tín, lập tức bước vào, tay cầm quần áo, đôi ủng và một bức điện tín. Theo sau là anh thợ cạo với túi đồ.
- Có giấy tờ gì của toà án không? - Xtepan Arcaditr hỏi, cầm lấy bức điện và ngồi xuống trước gương.
- Ở trên bàn ấy ạ, - Matvei trả lời, liếc nhìn chủ bằng cặp mắt dò hỏi và đầy vẻ thông cảm; - đợi một lát, - bác nói tiếp, mỉm cười ranh mãnh.
- Lão chủ hiệu xe thuê vừa cho người tới đấy ạ.
Xtepan Arcaditr không trả lời và chỉ đưa mắt nhìn Matvei trong gương, cái nhìn họ trao đổi chứng tỏ họ hiểu nhau biết chừng nào.
Xtepan như muốn hỏi: "Tại sao bác lại nói với tôi điều đó? Bác thừa hiểu sự tình ra sao rồi còn gì?".
Matvei thọc tay vào túi áo dài chẽn, dạng chân ra, và chẳng nói chẳng rằng đưa ánh mắt thân ái nhìn chủ, trên môi thoáng một nụ cười. Bác nói:
- Tôi đã bảo họ chủ nhật hãy tới và từ nay đến hôm đó, đừng làm phiền ông vô ích.
Câu nói rõ ràng được chuẩn bị từ trước.
Xtepan Arcaditr biết Matvei nói giỡn và muốn ông chú ý đến bác.
Ông mở bức điện tin ra đọc, mặc nhiên chỉnh lại trong đầu những chữ sai chính tả thường thấy ở các bức điện, vẻ mặt bỗng sáng lên:
- Matvei này, mai cô Anna Arcadievna đến đấy, ông nói, tạm ngăn bàn tay bóng nhẫy, mũm mĩm của anh thợ cạo đương rẽ một đường hồng hồng giữa hai chòm râu má dài loăn xoăn của ông.
- Đội ơn Chúa! - Matvei thốt lên và câu trả lời tỏ ra bác cũng hiểu rõ như chủ tầm quan trọng của việc này: - Anna Arcadievna, cô em gái thân yêu của Xtepan Arcaditr, có thể giúp hai vợ chồng làm lành với nhau.
Matvei hỏi:
- Cô đến một mình hay cùng đi với chồng kia ạ?
Xtepan Arcaditr không thể trả lời vì anh thợ cạo đã nắm lấy môi trên ông; ông bèn giơ một ngón tay lên. Matvei gật đầu một cái trong gương.
- Có một mình thôi ạ. Vậy có phải sửa soạn căn buồng trên gác không?
- Báo tin đó cho Daria Alecxandrovna biết đã, rồi bà bảo sao thì làm vậy.
- Báo cho Daria Alecxandrovna? - Matvei hỏi lại, vẻ nghi ngại.
- Phải. Này, mang cho bà xem bức điện; bà bảo gì phải nhớ nói lại với tôi đấy.
"Ông định thăm dò đây", Matvei hiểu ngầm như vậy, nhưng bác chỉ nói gọn lỏn:
- Thưa ông vâng ạ.
Xtepan Arcaditr rửa mặt, chải đầu xong và sắp mặc quần áo thì Matvei chậm rãi quay lại, đôi ủng khẽ kêu cót két, tay vẫn cầm bức điện. Lúc đó anh thợ cạo đi rồi.
- Daria Alecxandrovna dặn tôi thưa với ông là bà sắp đi. Bà bảo:
"Ông ấy (tức là ông đấy ạ), ông ấy muốn làm thế nào thì làm". - Và Matvei, hai tay đút túi, đầu nghiêng sang bên, đăm đăm nhìn chủ, chỉ có đôi mắt là nhấp nháy cười.
Xtepan Arcaditr nín lặng. Rồi một nụ cười hiền hậu, hơi thiểu não, hiện trên khuôn mặt đẹp của ông.
- Làm thế nào bây giờ, Matvei? - ông hất hàm nói.
- Không sao cả, ông chủ ạ, rồi sẽ ổn thôi, - Matvei trả lời.
- Có chắc không?
- Thưa ông, chắc chứ ạ.
- Bác chắc thế thật à? Ai đó? - Xtepan Arcaditr nghe thấy tiếng áo phụ nữ sột soạt sau cửa, liền hỏi.
- Thưa ông, tôi đấy ạ.
Một giọng rắn rỏi và dễ nghe đáp lại; rồi khuôn mặt nghiêm nghị, rỗ hoa của bác bảo mẫu Matriona Filimonovna hiện ra ở khung cửa.
- Có chuyện gì đấy, Matriona? - Xtepan Arcaditr bước về phía bác ta, hỏi.
Mặc dầu Xtepan Arcaditr hoàn toàn có lỗi với vợ và chính ông cũng biết vậy, nhưng hầu như mọi người trong nhà, kể cả bác bảo mẫu là người thân tín nhất của Daria Alecxandrovna, vẫn bênh ông.
- Có chuyện gì vậy? - ông hỏi, giọng rầu rĩ.
- Thưa ông, ông nên đến xin lỗi bà lần nữa đi. Chúa sẽ phù hộ cho ông. Bà đang đau khổ, trông thương tâm lắm; còn trong nhà thì mọi việc đều rối bời. Ông phải biết thương các em chứ. Ông hãy đến xin lỗi bà đi. Chẳng có cách nào khác đâu! Gây đổ vỡ thì phải...
- Nhưng bà chẳng tiếp tôi đâu...
- Như vậy chẳng gì ông cũng làm hết bổn phận. Chúa lòng lành vô cùng! Ông cầu nguyện đi, ông chủ ạ, ông hãy cầu nguyện đi!
- Thôi được. Nào! - Xtepan Arcaditr nói, mặt bỗng đỏ dừ. Ông quay lại bảo Matvei: "Bác giúp tôi mặc quần áo", và ông cởi áo ngủ, dáng kiên quyết.
Matvei thổi thổi những hạt bụi vô hình, chìa sẵn cho chủ chiếc sơ mi hồ bột và hỉ hả ra mặt, choàng áo lên cái thân hình trau chuốt của Xtepan Arcaditr.
Mặc quần áo xong, Xtepan Arcaditr bơm nước hoa, cài khuy tay áo, quen tay bỏ luôn vào túi chiếc ví, hộp thuốc lá, bao diêm và chiếc đồng hồ quả quýt có dây chuyền kép đính đồ trang sức, rũ khăn tay, rồi, cảm thấy sạch sẽ, thơm tho, thoải mái và khoan khoái thể xác, mặc dù đang ở trong tâm trạng phiền muộn, ông đi thẳng sang phòng ăn, bước chân hơi run rẩy, nơi món cà phê sáng và thư từ, giấy má đã chờ sẵn.
Ông đọc thư. Có một bức thư làm ông rất khó chịu: đó là thư của một thương gia đang muốn mua khu rừng trong trang trại của vợ ông. Nhất thiết phải bán khu rừng đó rồi; nhưng vấn đề chưa thể đặt ra trước khi vợ chồng hòa thuận trở lại. Điều bực mình nhất là việc dàn hòa này lại dính đến chuyện tiền nong. Ông khó chịu với ý nghĩ là trường hợp đó có thể làm ông mất thể diện: tìm cách làm lành với vợ để bán trôi khu rừng.
Đọc xong tập thư, Xtepan Arcaditr kéo đống giấy má để trên bàn lại, giở nhanh hai tập hồ sơ, lấy chiếc bút chì to đánh dấu vài chỗ rồi gạt tất cả sang bên, rót cà phê uống; ông vừa điểm tâm vừa giở tờ báo buổi sáng còn ướt mực và bắt đầu đọc.
Xtepan Arcaditr thường ngày đọc tờ báo của phái tự do, cũng không lấy gì làm tân tiến lắm, thuộc cái khuynh hướng mà đa số đang theo. Và mặc dầu chẳng quan tâm đặc biệt gì đến khoa học, nghệ thuật cũng như chính trị, ông vẫn kiên quyết giữ vững quan điểm của đa số và của tờ báo về tất cả những vấn đề đó, và chỉ thay đổi ý kiến khi đa số cũng thay đổi, hoặc, nói đúng hơn, ông chẳng thay đổi gì hết: chính những quan điểm tự thay đổi lúc nào không biết.
Xtepan Arcaditr không hề lựa chọn khuynh hướng cũng như quan điểm; tự chúng tìm đến ông; ông chẳng mất công lựa chọn gì hơn chọn mũ chọn áo: người ta ăn vận thế nào, ông làm theo như vậy. Nhưng sống trong một xã hội mà mọi người đứng tuổi đều phải có một hoạt động trí tuệ nào đó, việc có chính kiến đối với ông, cũng cần như đội mũ. Sở dĩ ông ưng khuynh hướng tự do hơn khuynh hướng bảo thủ mà một số đông trong giới ông đang theo, đó không phải vì ông thấy nó phải chăng hơn, mà bởi nó phù hợp với lối sống của ông hơn. Phe tự do nói ở nước Nga, mọi sự đều bí bét: quả vậy, Xtepan Arcaditr nợ đìa ra và luôn luôn túng tiền. Phe tự do nói hôn nhân là tục lệ lỗi thời, cần phải cải cách: thực tế, cuộc sống vợ chồng chẳng đem lại hứng thú gì lắm cho Xtepan Arcaditr, buộc ông phải dối trá, che đậy, và điều đó trái hẳn với bản chất ông. Phe tự do nói, hay đúng hơn, ngụ ý rằng tôn giáo chỉ là một trở lực kìm bước đám người vô học trong dân chúng: thì đấy, Xtepan Arcaditr có bao giờ chịu đựng nổi một buổi lễ chầu, dù ngắn nhất, mà không rấm rứt ở bắp chân; ông không tài nào hiểu được ý nghĩa của tất cả những bài thuyết giáo hãi hùng và khoa trương về thế giới bên kia, trong khi người ta vẫn có thể vui chơi thoả thích ở ngay cái thế giới này. Ngoài ra, Xtepan Arcaditr, vốn thích bông đùa, thường rất khoái trá mỗi khi có dịp châm chọc những người yên phận rằng: nếu ta hãnh diện vì dòng giống thì lẽ nào chỉ dừng lại ở thời Ruritr 2 và không chịu công nhận ông tổ đầu tiên là... con khỉ. Cho nên, khuynh hướng tự do đã trở thành thói quen của Xtepan Arcaditr, và ông yêu thích tờ báo của mình như điếu xì gà sau bữa ăn trưa, nó toả một màn sương nhẹ lâng trong đầu.
Ông đọc xã luận, bài báo giải thích là thời buổi này, thật hoài công mà đi la lối rằng chủ nghĩa cấp tiến đang đe doạ nuốt chửng mọi yếu tố bảo thủ; rằng chính phủ sắp sửa bắt buộc phải ra tay bóp nghẹt con mãng xà tinh cách mạng; trái lại "theo ý chúng tôi, nguy cơ không do con mãng xà tinh cách mạng tưởng tượng gây ra, mà chính là tại các yếu tố tồn cổ đã ngoan cố kìm hãm đà tiến bộ", v.v... Ông cũng đọc lướt bài báo thứ hai bàn về vấn đề tài chính, trong đó người ta dẫn ra nào là Bentham 3 nào là Min 4 và xỏ ngọt Bộ Tài chính vài cú. Vốn sắc sảo minh mẫn, ông hiểu ngay ý nghĩa của từng lời ám chỉ: xuất phát từ đâu, nhằm vào ai và được tung ra nhân việc gì, ông đều hiểu hết và cũng như mọi lần điều đó đem lại cho ông ít nhiều thú vị.
Nhưng bữa nay, niềm thích thú bị giảm đi khi ông nhớ tới lời khuyên của Matriona Filimonovna và tình trạng rối bời trong gia đình; báo còn loan tin bá tước Boxt đi Vixbadell, tin thị trường không còn món tóc bạc, tin có người muốn bán xe ngựa nhẹ và tin một thanh niên tìm việc làm; nhưng những tin tức đó không mang lại cho ông niềm thoả mãn bình thản và nhạo đời như mọi lần trước.
Đọc báo xong, và uống cạn tách cà phê thứ hai với chiếc bánh mì trắng nhỏ quệt bơ, ông đứng dậy, rũ những mẩu bánh vụn vãi trên áo gi lê và ưỡn bộ ngực nở nang, mỉm cười khoan khoái, không phải vì ông thấy tâm hồn có gì đặc biệt thanh thản... mà là do thức ăn đã tiêu hóa tốt.
Nụ cười rạng rỡ làm ông sực nhớ lại tất cả, và ông đâm ra tư lự.
Có tiếng hai đứa trẻ đằng sau cửa (Xtepan Arcaditr nhận ra tiếng Grisa, con trai út, và Tania, con gái lớn của ông). Chúng vừa đánh rơi một vật gì.
- Chị đã bảo em đừng có để hành khách lên mái, - con bé la lên bằng tiếng Anh. - Bây giờ thì phải nhặt lên nào!
Xtepan Arcaditr nghĩ bụng: "Nhà cửa lung tung, trẻ con bị bỏ mặc chẳng ai trông nom". Và ông lại gần cửa, lên tiếng gọi hai con. Chúng bỏ chiếc hộp dùng làm tàu hoả và chạy lại với bố.
Tania, con gái cưng của Xtepan Arcaditr, mạnh dạn bước vào, quàng tay ôm lấy cổ bố vừa đánh đu vừa cười như mọi lần, khoan khoái hít hít mùi nước hoa quen thuộc toả ra từ hai chòm râu má của bố. Sau khi hôn bộ mặt bố đỏ bự vì phải cúi xuống và ngời ngợi trìu mến, đứa bé buông tay ra định chạy, nhưng ông bố giữ con lại.
- Mẹ đang làm gì? - ông vừa hỏi vừa vuốt ve cái cổ mảnh dẻ của con gái. Rồi quay sang mỉm cười với thằng con trai út: Chào chú!
Ông không thấy yêu con trai bằng con gái và luôn luôn gắng không để lộ điều đó; nhưng thằng bé thừa biết và không buồn đáp lại cái cười gượng của bố.
- Mẹ ấy à? Mẹ dậy rồi ạ, - con bé trả lời.
Xtepan Arcaditr buông một tiếng thở dài. Ông nghĩ: "Thế ra, cả đêm nàng không ngủ".
- Mẹ có vui không?
Con bé thừa biết bố mẹ đã cãi nhau, mẹ nó không thể vui được, bố hẳn phải hiểu rõ, nhưng định đóng kịch nên vờ hỏi giỡn như vậy. Nó đỏ mặt thay cho bố. Xtepan Arcaditr chợt hiểu ngay và cũng đỏ mặt.
- Con chả biết, - nó nói. - Mẹ bảo chúng con không phải học nữa mà đi với cô Hal đến nhà bà.
- Vậy thì đi đi thôi, Tania bé bỏng của ba. à, khoan đã - ông giữ con lại lần nữa, vuốt ve bàn tay nhỏ xíu mềm mại của nó...
Ông cầm hộp kẹo để trên lò sưởi từ hôm qua, chọn lấy hai cái con bé thích nhất: một kẹo sôcôla, một kẹo mứt hoa quả và đưa cho con.
Con bé giơ chiếc kẹo sôcôla và hỏi:
- Cái này cho Grisa phải không ba?
- Ừ, ừ.
Và vuốt ve lần cuối chiếc vai nhỏ nhắn của con gái xong, ông hôn vào cổ, vào chân tóc rồi cho nó đi ra.
- Xe đánh ra ngoài rồi đấy ạ, - Matvei vào báo và nói tiếp: - có một bà đến kêu việc.
- Bà ta đến lâu chưa? - Xtepan Arcaditr hỏi.
- Độ nửa giờ rồi.
- Đã bao lần tôi dặn bác phải báo ngay kia mà.
- Thì tôi cũng phải để ông dùng xong cà phê đã chứ, - Matvei nói, giọng lủng bủng và thân mật khiến ông không còn bụng nào mà giận được.
- Thôi cho người ta vào nhanh lên, - Oblonxki cau mày nói.
Người đó là vợ viên đại uý tham mưu Klinin, đến nhờ vả một việc không thể giải quyết được và phi lý nữa; nhưng Xtepan Arcaditr, theo thói quen, vẫn mời bà ta ngồi và chăm chú nghe từ đầu đến cuối không hề ngắt lời, chỉ vẽ cụ thể nên xử sự thế nào, nên đến cầu cạnh ai, và viết hẳn một lá thư bằng lối chữ khoáng đạt, đẹp và rõ ràng của ông, giới thiệu đến người có thể giúp đỡ bà ta được. Sau khi đưa tiễn vợ viên đại uý, Xtepan Arcaditr bèn cầm mũ và dừng lại tự hỏi xem có quên gì không. Ông chỉ quên mỗi một điều mà ông ước ao quên đi được là... vợ ông.
"À, phải!", ông cúi đầu và bộ mặt đẹp bỗng đượm buồn. Ông tự hỏi:
"Ta nên đến gặp, hay không nên đến?" Một tiếng nói từ trong lòng bảo ông có đến gặp cũng vô ích, rút cục chỉ đi đến chỗ giả dối thôi, không thể chắp nối lại tình nghĩa vợ chồng nữa rồi, bởi vì không ai có thể trả lại cho Doli cái xuân sắc quyến rũ thuở xưa, cũng như không thể biến ông thành lão già bất lực được. Làm thế chỉ đưa đến giả tạo và dối trá: mà giả tạo và dối trá thì trái hẳn với bản chất ông.
"Tuy nhiên trước sau, vẫn phải một lần, không thể cứ thế này mãi được!", ông tự bảo, gắng động viên mình mạnh hơn. Ông thẳng người lên, lấy điếu thuốc lá, châm lửa hút, kéo hai hơi, rồi vứt điếu thuốc vào chiếc vỏ xà cừ dùng làm gạt tàn, đi nhanh qua phòng khách và mở cửa phòng vợ.
Chú thích:
1. Mile Rolland (tiếng Pháp trong nguyên bản).
2. Tù trưởng của bộ lạc Varege ở bán đảo Xcandinavi. Hồi gần cuối thế kỷ thứ IX, đột nhập nước Nga, chinh phục các bộ lạc giữa Phần Lan và Xlav lập nên đế chế Nga.
3. Jeremie Bentham (1748-1832) nhà triết học và pháp luật học Anh theo chủ nghĩa thực dụng.
4. James Mill (1773-1836) nhà triết học Anh, người kế tục Bentham.
Quyển
1
Chương 3
Chương 3
Daria Alecxandrovna, mình khoác áo choàng, mái tóc xưa kia đẹp
và dày nay đã lưa thưa, tết bím vắt ra sau gáy, đang đứng trước tủ quần áo mở
toang và lục lọi lựa chọn; xung quanh bề bộn những đồ dùng. Má bà hóp lại và
khuôn mặt gầy càng làm nổi bật cặp mắt to sợ sệt. Nghe thấy tiếng chồng, bà dừng
tay và nhìn ra cửa, cố làm ra vẻ nghiêm khắc và khinh bỉ nhưng vô hiệu. Bà cảm
thấy sợ chồng, sợ cuộc gặp gỡ này. Bà đang thử làm cái điều bà đã thử hàng chục
lần trong ba hôm nay là thu xếp quần áo của các con và của mình để gửi về nhà mẹ
đẻ. Cả lần này nữa, bà cũng không thể quyết định dứt khoát; nhưng cũng như lần
trước, bà lại tự nhủ không thể cứ thế này mãi, thể nào mình cũng phải làm một
cái gì: trừng phạt anh ta, làm anh ta phải xấu hổ, trả thù về nỗi đau đớn anh
ta đã gây ra cho mình, dù chỉ phần nào thôi. Bà cứ nhắc đi nhắc lại trong bụng
là mình sẽ bỏ chồng, nhưng lại cảm thấy không thể được; không thể được vì bà
không thể từ bỏ thói quen coi anh ta là chồng và yêu thương anh ta.
Hơn nữa, bà hiểu rằng nếu như ở đây, trong nhà mình, bà nuôi năm đứa con cũng đã thấy vất vả, thì ở chốn kia, nơi bà định đến với chúng, hẳn còn cực hơn nữa. Trong ba ngày hôm nay, đứa bé nhất đã ốm vì bị cho ăn canh thiu, còn ba đứa kia hôm qua suýt phải nhịn ăn chiều. Bà cảm thấy không thể bỏ đi được; nhưng bà cứ tự dối mình và vẫn tiếp tục nhặt nhạnh quần áo và giả bộ như sắp bỏ đi.
Thoáng thấy chồng, bà thọc hai tay vào một ngăn tủ như đang tìm vật gì đó và mãi đến khi chồng đã tới sát bên cạnh, bà mới thèm ngoảnh lại nhìn ông ta một cái. Nhưng mặc dầu muốn tỏ ra nghiêm nghị và kiên quyết, mặt bà chỉ lộ vẻ bối rối và đau đớn.
- Doli! - Oblonxki nói, giọng dịu dàng và rụt rè.
Ông ta rụt đầu lại, cố nặn ra một bộ mặt qụy lụy và thiểu não, song người ông lại roi rói tươi tắn và khỏe mạnh. Doli ướm nhìn nhanh người đàn ông ngời ngợi vẻ tươi tắn và khỏe mạnh đó. "Phải, anh ta đang sung sướng và mãn nguyện, bà nghĩ bụng... còn như mình đây! Cả đến cái tính hồn hậu của anh ta mà mọi người đều quý mến và ca tụng, mình cũng thấy ghê tởm: mình căm ghét lòng tốt của anh ta!" - Môi bà bặm lại và bộ mặt tái nhợt, tức tối, rúm ró.
- Ông muốn gì? - bà hỏi nhanh, giọng khàn khàn khác thường.
- Doli! - ông nhắc lại, giọng run run. - Hôm nay, Anna đến.
- Thế thì can gì đến tôi? Tôi không thể tiếp cô ấy được! - bà nói to.
- Dù sao cũng nên tiếp, Doli...
- Ông đi ra đi, ra đi! - Doli hét lên, không nhìn chồng, dường như tiếng kêu bật ra từ một nỗi đau thể xác.
Xtepan Arcaditr hồi nãy có thể bình tĩnh khi nghĩ đến vợ, hy vọng mọi sự rồi sẽ "ổn" theo cách nói của Matvei, ông có thể điềm nhiên đọc báo và uống cà phê; nhưng khi trông thấy bộ mặt đầy vẻ tiều tụy và đau khổ, khi nghe thấy giọng nói nhẫn nhục và tuyệt vọng, ông đâm nghẹn ngào, cổ họng se lại và rơm rớm nước mắt.
- Lạy Chúa! Tôi đã làm gì nên tội, Doli! Nhân danh Chúa!... - Ông không nói tiếp được nữa; một tiếng nấc nghẹn lại trong cổ.
Bà đóng sập tủ thật mạnh và nhìn chồng.
- Doli, tôi biết nói gì đây?... Chỉ một điều thôi: mình hãy tha thứ cho tôi... Mình nghĩ lại xem, chín năm trời ăn ở với nhau, lẽ nào không thể chuộc lại một phút, một phút...
Doli đưa mắt nhìn xuống và chờ đợi điều chồng sắp nói, dường như bà đang van xin chồng giải mối nghi ngờ cho mình bằng cách này hay cách khác.
- Một phút mê muội... - Oblonxki nói nốt câu và định tiếp tục, nhưng vừa nghe thấy câu đó, môi Doli bỗng mím lại như bị một cơn đau thể xác hành hạ và những bắp thịt ở má phải bà lại co rúm lại.
- Ông ra đi, ông ra khỏi đây đi! - bà rít lên the thé. - Đừng có nhắc lại với tôi những chuyện mê muội và đốn mạt của ông nữa.
Bà định ra khỏi phòng nhưng bỗng lảo đảo và phải níu vào thành chiếc ghế tựa. Mặt Oblonxki đỏ bừng, môi phồng lên, mắt đẫm lệ.
- Doli! - Lần này, ông ta vừa nói vừa nức nở. - Vì lòng yêu kính Chúa, mình hãy nghĩ đến các con, chúng nó, chúng nó vô tội! Chính tôi là kẻ gây nên tội, mình hãy trừng phạt tôi, mình hãy bảo tôi phải chuộc lỗi như thế nào. Tôi sẵn sàng làm tất cả những gì tôi có thể làm được. Tôi đã gây nên tội, tôi không còn biết tìm chữ gì để nói với mình rằng tội tôi nặng như thế nào. Nhưng xin mình hãy tha thứ cho tôi, Doli!
Bà ngồi xuống. Oblonxki lắng nghe nhịp thở nặng nề, hổn hển của vợ và thấy thương vợ vô cùng. Nhiều lần bà định nói nhưng không thốt nên lời. Ông vẫn chờ đợi.
- Anh nhớ đến các con là để nô đùa với chúng, còn tôi đây, tôi lo cho chúng và tôi biết rằng bây giờ đời chúng thế là bỏ đi, - bà nói. Rõ ràng đây là một trong những câu bà thầm nhắc đi nhắc lại từ ba hôm nay.
Bà đã gọi chồng bằng: "anh", Oblonxki đưa mắt nhìn vợ tỏ vẻ biết ơn và định cầm lấy tay bà, nhưng bà ghê tởm né ra.
- Tôi nghĩ đến các con và tôi sẽ làm mọi việc trên đời để cứu chúng; nhưng chính bản thân tôi cũng không biết làm thế nào là hợp lẽ hơn:
để chúng xa rời hẳn bố hay ở lại với một người trụy lạc... phải, một người trụy lạc... Nào, ông hãy nói cho tôi nghe xem là sau... cái chuyện vừa xảy ra, chúng ta còn có thể chung sống với nhau được không? Có thể được không? Ông hãy nói tôi nghe, có thể được không?
- Bà cất cao giọng nhắc lại, - khi mà chồng tôi, người cha của các con tôi lại đi tằng tịu với con bé dạy trẻ.
- Nhưng làm thế nào? Làm thế nào đây? - Oblonxki nói với giọng rầu rĩ, chính ông cũng không hiểu mình nói gì và đầu mỗi lúc một cúi gằm xuống.
- Đối với tôi, ông là một vật gớm ghiếc, tởm lợm! - bà nổi nóng hét lên. - Nước mắt ông chỉ là nước lã! Ông chẳng bao giờ yêu gì tôi, ông là người không có tim, chứ cao quý cái nỗi gì! Ông làm tôi phát tởm, đối với tôi, ông chỉ là người dưng nước lã, phải, chỉ là người dưng nước lã mà thôi! - Bà chua xót thốt lên cái tiếng người dưng nước lã, cái tiếng kinh khủng biết bao đối với bà.
Oblonxki nhìn vợ, vẻ hằn học trên mặt bà khiến ông sợ hãi và sửng sốt. Ông không hiểu chính việc ông tỏ ra thương hại vợ đã làm bà tức giận. Doli thấy rõ chồng chỉ thương hại chứ không hề yêu mình. "Phải, cô ta căm ghét mình. Cô ta sẽ không tha thứ cho mình đâu", Oblonxki thầm nghĩ.
- Thật đáng sợ, đáng sợ! - ông nói.
Giữa lúc ấy ở phòng bên, một đứa nhỏ, hẳn vừa bị ngã, khóc oà lên.
Daria Alecxandrovna lắng tai nghe và nét mặt đột nhiên dịu đi.
Bà định thần lại một lúc, như do dự, tự hỏi xem mình đang ở đâu, rồi đứng phắt dậy và đi ra cửa.
"Tuy nhiên nàng vẫn yêu con mình, Oblonxki nghĩ bụng, nhận thấy nét mặt vợ biến đổi khi nghe tiếng đứa bé khóc... con của tôi; vậy thì làm sao nàng lại đang tâm ghét bỏ mình được?" - Doli, cho tôi nói câu nữa thôi, - ông vừa nói vừa chạy theo vợ.
- Nếu ông đi theo tôi, tôi sẽ gọi bọn người làm, gọi bọn trẻ đến! Cho tất cả chúng nó biết ông là đồ thô bỉ! Tôi đi khỏi đây bây giờ cho ông ở lại với nhân tình của ông.
Bà bước ra, đóng sập cửa lại.
Xtepan Arcaditr thở dài, thấm mồ hôi trên mặt và lặng lẽ bước ra cửa.
"Matvei bảo mọi việc rồi sẽ ổn, nhưng ổn là ổn thế nào chứ? Mình thấy chả chắc gì. Ôi thật là tai hại! Mà sao cô ta lại ăn nói thô tục đến thế! Oblonxki nghĩ thầm, nhớ lại những lời vợ tru tréo, những tiếng "thô bỉ" và "nhân tình", khéo mà bọn gái hầu phòng nghe thấy mất thôi! Thật là thô tục ghê gớm!" Xtepan Arcaditr đứng lại một mình trong giây lát, lau nước mắt, thở dài và dướn thẳng người, đi ra khỏi phòng.
Hôm đó là thứ sáu; trong phòng ăn, bác thợ đồng hồ người Đức đang lên dây chiếc đồng hồ quả lắc. Xtepan Arcaditr sực nhớ tới câu ông nói bỡn con người rất đúng giờ giấc này: "Anh chàng người Đức này đã được lên dây cót đời mình để làm nghề lên dây cót đồng hồ" và ông mỉm cười. Xtepan Arcaditr vốn thích những chữ ý nhị. "Có thể là chuyện đó sẽ "ổn" thực; cái từ ấy hay đấy, ta sẽ dùng lại nó".
- Matvei! - Ông gọi, - bác với Maria hãy sửa soạn mọi thứ ở phòng khách cho cô Anna Arcadievna nhé, - ông nói với bác hầu phòng vừa xuất hiện.
- Thưa ông, vâng ạ.
Xtepan Arcaditr mặc áo choàng lông và bước ra thềm cửa.
- Ông không ăn chiều ở nhà ạ? - Matvei vừa tiễn chủ vừa hỏi.
- Còn tùy xem. Này, tiền chi các khoản đây, - Oblonxki nói, rút trong ví ra mười rúp. - Có đủ không?
- Đủ hay không, thì cũng phải bằng lòng vậy thôi, - Matvei nói, đóng cửa xe và bước lên bậc thềm.
Trong khi ấy, Daria Alecxandrovna dỗ con nín xong, nghe thấy tiếng bánh xe ngựa lăn, biết chồng đã đi rồi và quay về buồng mình.
Đó là nơi ẩn náu duy nhất: cứ động ra khỏi đấy, là những lo lắng về chuyện nhà cửa lại bủa vây lấy bà. Ngay cả vừa nãy, trong quãng thời gian ngắn ngủi bà sang buồng lũ trẻ, chị vú nuôi người Anh và bác Matriona Filimonovna cũng đã hỏi bà về bao việc không thể trì hoãn được, và chỉ có bà mới trả lời nổi: mặc quần áo gì cho trẻ con để dẫn đi chơi? Cho chúng uống sữa có được không? Liệu có phải tìm anh bếp khác không?
- Trời! Để tôi yên! - bà bảo họ, và trở về phòng ngủ, bà lại ngồi vào chỗ cũ lúc nói chuyện với chồng; hai bàn tay ngón gầy nhẳng, nhẫn đeo đã lỏng tuột, ép chặt vào nhau, bà ôn lại từ đầu đến cuối cuộc nói chuyện giữa hai người hồi nãy.
Chàng đi rồi! Nhưng chàng đã cắt đứt với con kia ra sao? Liệu chàng còn tìm gặp nó nữa chăng? Tại sao mình lại không hỏi chàng điều đó nhỉ? Không, không, hai chúng mình không thể nào cùng chung sống với nhau được nữa. Dù có ở cùng nhà, mình và anh ta sẽ vẫn là người dưng nước lã với nhau. Mãi mãi! Người dưng nước lã! Bà cứ một mực nhay đi nhay lại cái tiếng phũ phàng đó. Tuy nhiên trước kia, ta yêu chàng biết mấy, lạy Chúa, trước kia ta yêu chàng nhường nào!... Xưa ta yêu chàng nhường nào! Và bây giờ, phải chăng ta không yêu chàng? Hay có khi ta còn yêu chàng hơn trước nữa cũng nên? Điều đáng sợ nhất là...", bà bắt đầu ngẫm nghĩ, nhưng không có thì giờ nghĩ nốt vì Matriona Filimonovna đã ló đầu qua khung cửa.
- Xin bà cho tìm em trai tôi vậy, - Matriona nói, - ít ra nó cũng có thể nấu bữa chiều hầu bà, kẻo lại giống như hôm qua và các em sẽ phải nhịn ăn mãi đến tận sáu giờ mất thôi.
- Được, tôi sẽ sai làm ngay bây giờ. Có người đi lấy sữa tươi chưa?
Thế là Daria Alecxandrovna lại lao đầu vào những lo lắng thường ngày và dìm nỗi phiền muộn vào đó trong chốc lát.
Chú thích:
1. Đơn vị trọng lượng của Nga bằng 16,38 kg.
2. Coterie (tiếng Pháp trong nguyên bản).
3. Tên gọi theo tiếng Anh của Ecaterina.
Hơn nữa, bà hiểu rằng nếu như ở đây, trong nhà mình, bà nuôi năm đứa con cũng đã thấy vất vả, thì ở chốn kia, nơi bà định đến với chúng, hẳn còn cực hơn nữa. Trong ba ngày hôm nay, đứa bé nhất đã ốm vì bị cho ăn canh thiu, còn ba đứa kia hôm qua suýt phải nhịn ăn chiều. Bà cảm thấy không thể bỏ đi được; nhưng bà cứ tự dối mình và vẫn tiếp tục nhặt nhạnh quần áo và giả bộ như sắp bỏ đi.
Thoáng thấy chồng, bà thọc hai tay vào một ngăn tủ như đang tìm vật gì đó và mãi đến khi chồng đã tới sát bên cạnh, bà mới thèm ngoảnh lại nhìn ông ta một cái. Nhưng mặc dầu muốn tỏ ra nghiêm nghị và kiên quyết, mặt bà chỉ lộ vẻ bối rối và đau đớn.
- Doli! - Oblonxki nói, giọng dịu dàng và rụt rè.
Ông ta rụt đầu lại, cố nặn ra một bộ mặt qụy lụy và thiểu não, song người ông lại roi rói tươi tắn và khỏe mạnh. Doli ướm nhìn nhanh người đàn ông ngời ngợi vẻ tươi tắn và khỏe mạnh đó. "Phải, anh ta đang sung sướng và mãn nguyện, bà nghĩ bụng... còn như mình đây! Cả đến cái tính hồn hậu của anh ta mà mọi người đều quý mến và ca tụng, mình cũng thấy ghê tởm: mình căm ghét lòng tốt của anh ta!" - Môi bà bặm lại và bộ mặt tái nhợt, tức tối, rúm ró.
- Ông muốn gì? - bà hỏi nhanh, giọng khàn khàn khác thường.
- Doli! - ông nhắc lại, giọng run run. - Hôm nay, Anna đến.
- Thế thì can gì đến tôi? Tôi không thể tiếp cô ấy được! - bà nói to.
- Dù sao cũng nên tiếp, Doli...
- Ông đi ra đi, ra đi! - Doli hét lên, không nhìn chồng, dường như tiếng kêu bật ra từ một nỗi đau thể xác.
Xtepan Arcaditr hồi nãy có thể bình tĩnh khi nghĩ đến vợ, hy vọng mọi sự rồi sẽ "ổn" theo cách nói của Matvei, ông có thể điềm nhiên đọc báo và uống cà phê; nhưng khi trông thấy bộ mặt đầy vẻ tiều tụy và đau khổ, khi nghe thấy giọng nói nhẫn nhục và tuyệt vọng, ông đâm nghẹn ngào, cổ họng se lại và rơm rớm nước mắt.
- Lạy Chúa! Tôi đã làm gì nên tội, Doli! Nhân danh Chúa!... - Ông không nói tiếp được nữa; một tiếng nấc nghẹn lại trong cổ.
Bà đóng sập tủ thật mạnh và nhìn chồng.
- Doli, tôi biết nói gì đây?... Chỉ một điều thôi: mình hãy tha thứ cho tôi... Mình nghĩ lại xem, chín năm trời ăn ở với nhau, lẽ nào không thể chuộc lại một phút, một phút...
Doli đưa mắt nhìn xuống và chờ đợi điều chồng sắp nói, dường như bà đang van xin chồng giải mối nghi ngờ cho mình bằng cách này hay cách khác.
- Một phút mê muội... - Oblonxki nói nốt câu và định tiếp tục, nhưng vừa nghe thấy câu đó, môi Doli bỗng mím lại như bị một cơn đau thể xác hành hạ và những bắp thịt ở má phải bà lại co rúm lại.
- Ông ra đi, ông ra khỏi đây đi! - bà rít lên the thé. - Đừng có nhắc lại với tôi những chuyện mê muội và đốn mạt của ông nữa.
Bà định ra khỏi phòng nhưng bỗng lảo đảo và phải níu vào thành chiếc ghế tựa. Mặt Oblonxki đỏ bừng, môi phồng lên, mắt đẫm lệ.
- Doli! - Lần này, ông ta vừa nói vừa nức nở. - Vì lòng yêu kính Chúa, mình hãy nghĩ đến các con, chúng nó, chúng nó vô tội! Chính tôi là kẻ gây nên tội, mình hãy trừng phạt tôi, mình hãy bảo tôi phải chuộc lỗi như thế nào. Tôi sẵn sàng làm tất cả những gì tôi có thể làm được. Tôi đã gây nên tội, tôi không còn biết tìm chữ gì để nói với mình rằng tội tôi nặng như thế nào. Nhưng xin mình hãy tha thứ cho tôi, Doli!
Bà ngồi xuống. Oblonxki lắng nghe nhịp thở nặng nề, hổn hển của vợ và thấy thương vợ vô cùng. Nhiều lần bà định nói nhưng không thốt nên lời. Ông vẫn chờ đợi.
- Anh nhớ đến các con là để nô đùa với chúng, còn tôi đây, tôi lo cho chúng và tôi biết rằng bây giờ đời chúng thế là bỏ đi, - bà nói. Rõ ràng đây là một trong những câu bà thầm nhắc đi nhắc lại từ ba hôm nay.
Bà đã gọi chồng bằng: "anh", Oblonxki đưa mắt nhìn vợ tỏ vẻ biết ơn và định cầm lấy tay bà, nhưng bà ghê tởm né ra.
- Tôi nghĩ đến các con và tôi sẽ làm mọi việc trên đời để cứu chúng; nhưng chính bản thân tôi cũng không biết làm thế nào là hợp lẽ hơn:
để chúng xa rời hẳn bố hay ở lại với một người trụy lạc... phải, một người trụy lạc... Nào, ông hãy nói cho tôi nghe xem là sau... cái chuyện vừa xảy ra, chúng ta còn có thể chung sống với nhau được không? Có thể được không? Ông hãy nói tôi nghe, có thể được không?
- Bà cất cao giọng nhắc lại, - khi mà chồng tôi, người cha của các con tôi lại đi tằng tịu với con bé dạy trẻ.
- Nhưng làm thế nào? Làm thế nào đây? - Oblonxki nói với giọng rầu rĩ, chính ông cũng không hiểu mình nói gì và đầu mỗi lúc một cúi gằm xuống.
- Đối với tôi, ông là một vật gớm ghiếc, tởm lợm! - bà nổi nóng hét lên. - Nước mắt ông chỉ là nước lã! Ông chẳng bao giờ yêu gì tôi, ông là người không có tim, chứ cao quý cái nỗi gì! Ông làm tôi phát tởm, đối với tôi, ông chỉ là người dưng nước lã, phải, chỉ là người dưng nước lã mà thôi! - Bà chua xót thốt lên cái tiếng người dưng nước lã, cái tiếng kinh khủng biết bao đối với bà.
Oblonxki nhìn vợ, vẻ hằn học trên mặt bà khiến ông sợ hãi và sửng sốt. Ông không hiểu chính việc ông tỏ ra thương hại vợ đã làm bà tức giận. Doli thấy rõ chồng chỉ thương hại chứ không hề yêu mình. "Phải, cô ta căm ghét mình. Cô ta sẽ không tha thứ cho mình đâu", Oblonxki thầm nghĩ.
- Thật đáng sợ, đáng sợ! - ông nói.
Giữa lúc ấy ở phòng bên, một đứa nhỏ, hẳn vừa bị ngã, khóc oà lên.
Daria Alecxandrovna lắng tai nghe và nét mặt đột nhiên dịu đi.
Bà định thần lại một lúc, như do dự, tự hỏi xem mình đang ở đâu, rồi đứng phắt dậy và đi ra cửa.
"Tuy nhiên nàng vẫn yêu con mình, Oblonxki nghĩ bụng, nhận thấy nét mặt vợ biến đổi khi nghe tiếng đứa bé khóc... con của tôi; vậy thì làm sao nàng lại đang tâm ghét bỏ mình được?" - Doli, cho tôi nói câu nữa thôi, - ông vừa nói vừa chạy theo vợ.
- Nếu ông đi theo tôi, tôi sẽ gọi bọn người làm, gọi bọn trẻ đến! Cho tất cả chúng nó biết ông là đồ thô bỉ! Tôi đi khỏi đây bây giờ cho ông ở lại với nhân tình của ông.
Bà bước ra, đóng sập cửa lại.
Xtepan Arcaditr thở dài, thấm mồ hôi trên mặt và lặng lẽ bước ra cửa.
"Matvei bảo mọi việc rồi sẽ ổn, nhưng ổn là ổn thế nào chứ? Mình thấy chả chắc gì. Ôi thật là tai hại! Mà sao cô ta lại ăn nói thô tục đến thế! Oblonxki nghĩ thầm, nhớ lại những lời vợ tru tréo, những tiếng "thô bỉ" và "nhân tình", khéo mà bọn gái hầu phòng nghe thấy mất thôi! Thật là thô tục ghê gớm!" Xtepan Arcaditr đứng lại một mình trong giây lát, lau nước mắt, thở dài và dướn thẳng người, đi ra khỏi phòng.
Hôm đó là thứ sáu; trong phòng ăn, bác thợ đồng hồ người Đức đang lên dây chiếc đồng hồ quả lắc. Xtepan Arcaditr sực nhớ tới câu ông nói bỡn con người rất đúng giờ giấc này: "Anh chàng người Đức này đã được lên dây cót đời mình để làm nghề lên dây cót đồng hồ" và ông mỉm cười. Xtepan Arcaditr vốn thích những chữ ý nhị. "Có thể là chuyện đó sẽ "ổn" thực; cái từ ấy hay đấy, ta sẽ dùng lại nó".
- Matvei! - Ông gọi, - bác với Maria hãy sửa soạn mọi thứ ở phòng khách cho cô Anna Arcadievna nhé, - ông nói với bác hầu phòng vừa xuất hiện.
- Thưa ông, vâng ạ.
Xtepan Arcaditr mặc áo choàng lông và bước ra thềm cửa.
- Ông không ăn chiều ở nhà ạ? - Matvei vừa tiễn chủ vừa hỏi.
- Còn tùy xem. Này, tiền chi các khoản đây, - Oblonxki nói, rút trong ví ra mười rúp. - Có đủ không?
- Đủ hay không, thì cũng phải bằng lòng vậy thôi, - Matvei nói, đóng cửa xe và bước lên bậc thềm.
Trong khi ấy, Daria Alecxandrovna dỗ con nín xong, nghe thấy tiếng bánh xe ngựa lăn, biết chồng đã đi rồi và quay về buồng mình.
Đó là nơi ẩn náu duy nhất: cứ động ra khỏi đấy, là những lo lắng về chuyện nhà cửa lại bủa vây lấy bà. Ngay cả vừa nãy, trong quãng thời gian ngắn ngủi bà sang buồng lũ trẻ, chị vú nuôi người Anh và bác Matriona Filimonovna cũng đã hỏi bà về bao việc không thể trì hoãn được, và chỉ có bà mới trả lời nổi: mặc quần áo gì cho trẻ con để dẫn đi chơi? Cho chúng uống sữa có được không? Liệu có phải tìm anh bếp khác không?
- Trời! Để tôi yên! - bà bảo họ, và trở về phòng ngủ, bà lại ngồi vào chỗ cũ lúc nói chuyện với chồng; hai bàn tay ngón gầy nhẳng, nhẫn đeo đã lỏng tuột, ép chặt vào nhau, bà ôn lại từ đầu đến cuối cuộc nói chuyện giữa hai người hồi nãy.
Chàng đi rồi! Nhưng chàng đã cắt đứt với con kia ra sao? Liệu chàng còn tìm gặp nó nữa chăng? Tại sao mình lại không hỏi chàng điều đó nhỉ? Không, không, hai chúng mình không thể nào cùng chung sống với nhau được nữa. Dù có ở cùng nhà, mình và anh ta sẽ vẫn là người dưng nước lã với nhau. Mãi mãi! Người dưng nước lã! Bà cứ một mực nhay đi nhay lại cái tiếng phũ phàng đó. Tuy nhiên trước kia, ta yêu chàng biết mấy, lạy Chúa, trước kia ta yêu chàng nhường nào!... Xưa ta yêu chàng nhường nào! Và bây giờ, phải chăng ta không yêu chàng? Hay có khi ta còn yêu chàng hơn trước nữa cũng nên? Điều đáng sợ nhất là...", bà bắt đầu ngẫm nghĩ, nhưng không có thì giờ nghĩ nốt vì Matriona Filimonovna đã ló đầu qua khung cửa.
- Xin bà cho tìm em trai tôi vậy, - Matriona nói, - ít ra nó cũng có thể nấu bữa chiều hầu bà, kẻo lại giống như hôm qua và các em sẽ phải nhịn ăn mãi đến tận sáu giờ mất thôi.
- Được, tôi sẽ sai làm ngay bây giờ. Có người đi lấy sữa tươi chưa?
Thế là Daria Alecxandrovna lại lao đầu vào những lo lắng thường ngày và dìm nỗi phiền muộn vào đó trong chốc lát.
Chú thích:
1. Đơn vị trọng lượng của Nga bằng 16,38 kg.
2. Coterie (tiếng Pháp trong nguyên bản).
3. Tên gọi theo tiếng Anh của Ecaterina.
Quyển
1
Chương 4
Chương 4
Xtepan Arcaditr trước đây học khá vì ông vốn thông minh;
nhưng tính lười nhác và nông nổi khiến ông tốt nghiệp trong số những người đội sổ.
Tuy nhiên, mặc dầu sống phóng túng, thứ bậc kém và trẻ tuổi, Oblonxki vẫn giữ một
chức vị kha khá và lương nhiều: ông là chánh án một toà án ở Moxcva. Oblonxki
có được chức vụ đó là nhờ ông chồng cô em Anna tức Alecxei Alecxadrovitr
Carenin, một trong những quan chức quan trọng nhất của Bộ trực tiếp chỉ đạo Toà
án đó; nhưng ví bằng không có Carenin, thì hàng trăm người khác, anh chị em họ,
bà con, chú bác cũng có thể kiếm cho ông cái địa vị đó hoặc một địa vị khác
tương tự, với số lương sáu nghìn rúp cần thiết cho ông sinh sống, vì mặc dầu có
cái gia sản của vợ, ông làm ăn vẫn cứ lẹt đẹt.
Kể có tới nửa Moxcva và Peterburg là chỗ thân thuộc và bè bạn của Xtepan Arcaditr. Ông vốn sinh trong giới những người có quyền lực trên thế gian này. Một phần ba các chính khách của thế hệ trước là bạn bè của ông thân sinh ra Oblonxki và biết ông từ hồi còn ẵm ngửa; cái phần ba thứ hai vào loại cậu cậu tớ tớ với ông và quan hệ của ông đối với cái phần ba thứ ba cũng rất tốt; những người phân phối của cải trên đời, dưới hình thức việc làm, trang trại, nhượng địa, v.v... tất cả đều là bạn bè của ông và chả lẽ lại bỏ rơi người thân. Cho nên Oblonxki chẳng phải chật vật gì cũng vẫn kiếm được một chỗ làm nhiều bổng lộc; ông chỉ việc đừng có khước từ cái gì, đừng ganh tị mà cũng đừng gây sự với ai, đừng tỏ ra hay động lòng, mà điều này lại chính là cái xu hướng hồn hậu bẩm sinh của ông. Hẳn ông sẽ coi là chuyện kỳ khôi nếu người ta từ chối không cho ông cái địa vị và số lương ông đang cần, vả chăng ông có yêu cầu điều gì khác thường đâu, chỉ đơn giản là cái mà những người vào lứa tuổi ông đều có thể đạt được, và ông hoàn toàn có khả năng làm tròn loại công việc đó như ai khác.
Tất cả những người quen biết Xtepan Arcaditr mến ông không phải chỉ vì tính nết tốt, sự hoạt bát và lòng trung thực hiển nhiên của ông. Cái bề ngoài quyến rũ, cặp mắt sáng long lanh, đôi lông mày và mớ tóc đen nhánh, nước da tươi tắn của ông có sức hấp dẫn thể chất với tất cả những ai gặp ông, khiến họ thấy khoái hoạt hẳn lên. "A, Xtiva! Oblonxki! Anh ta kia kìa!", họ reo lên và hầu như bao giờ cũng nở một nụ cười rạng rỡ mỗi khi trông thấy ông. Và cho dù cuộc trò chuyện chẳng mang lại điều gì đặc biệt thích thú, người ta vẫn không kém hoan hỉ khi gặp lại ông ngày hôm sau và hôm sau nữa.
Giữ địa vị chánh án trong một tòa án ở Moxcva từ hai năm nay, Xtepan Arcaditr đã chiếm được lòng quý mến và vì nể của các bạn đồng sự, cấp dưới và cấp trên, của mọi người có quan hệ công việc với ông. Những đức tính đã đem lại cho ông cái uy tín rộng khắp ấy là:
Thứ nhất, thái độ khoan dung rất mực đối với mọi người, dựa trên ý thức về những khuyết điểm của bản thân; thứ hai, một đầu óc tự do tuyệt đối, không phải thứ chủ nghĩa tự do người ta thường huyênh hoang với ông trên báo chí, mà là thứ chủ nghĩa tự do sẵn có từ trong máu, nó giúp ông đối xử với mọi người nhất loại như nhau không phân biệt địa vị và hoàn cảnh; thứ ba, và đây là điểm quan trọng nhất, thái độ hoàn toàn dửng dưng với nghề nghiệp, nó giữ cho ông khỏi say mê hoặc phạm điều vụng dại.
Đến tòa án, Xtepan Arcaditr đi về phòng làm việc, theo sau là gã lính hầu khúm núm mang cặp hồ sơ; ở đó, ông mặc quần áo quan toà rồi bước vào phòng nghị án. Những vị bồi thẩm và lục sự đứng dậy hết và vui vẻ, kính cẩn chào. Như thường lệ, Xtepan Arcaditr bước nhanh đến chỗ mình, bắt tay các thẩm phán và ngồi xuống. Ông nói đùa, trò chuyện với họ trong giới hạn nghiêm ngặt của thủ tục và khai mạc phiên họp. Không ai duy trì đúng mức hơn ông cái chừng mực giữa sự phóng túng, giản dị với giọng trịnh trọng cần thiết phải giữ để thừa hành nghề nghiệp một cách thoải mái. Người thư ký mang giấy má đến, vui vẻ và kính cẩn như tất cả những ai làm dưới quyền Xtepan Arcaditr, và nói bằng cái giọng thân mật, phóng túng mà Oblonxki đã khơi mào:
- Cuối cùng, tòa án tỉnh Penđa đã cung cấp tình hình cho chúng ta. Đây, xin trình ngài những tài liệu ấy...
- A! Ông đã có tình hình rồi đấy ư? - Xtepan Arcaditr nói, luồn ngón tay vào giữa những tờ giấy. - Vậy thì, thưa quý vị...
Phiên họp bắt đầu.
"Nếu họ biết, - Oblonxki nghĩ thầm, đầu nghiêng nghiêng trịnh trọng trong khi nghe đọc bản tường trình, - nếu họ biết trước đây nửa tiếng đồng hồ, ông chánh án của họ đã mang bộ mặt con nít phạm lỗi như thế nào!". Và đôi mắt ông cười. Buổi họp phải tiếp tục luôn một mạch đến tận hai giờ; đến hai giờ, sẽ tạm nghỉ họp để ăn trưa.
Khoảng gần hai giờ, cánh cửa kính cao của phòng thường mở toang và một người bước vào. Tất cả các vị thẩm phán, ngồi dưới chân dung đức vua, sau tấm gương của công lý, đều quay nhìn phía cửa ra vào, khoái chí vì cơ hội giải trí đó; nhưng người mõ toà đã tống ngay kẻ vừa đột nhập kia ra và đóng cửa lại.
Khi bản tường trình được đọc xong, Xtepan Arcaditr vươn vai, và theo cái chủ nghĩa tự do đương thời, hút thuốc lá ngay giữa phòng nghị án trước khi trở về phòng làm việc. Hai ông bạn đồng sự, vị lão thành Nikitin và nhà quý tộc của nghị viện Grinevitr, cùng ra với ông.
- Sau bữa ăn, chúng ta còn đủ thì giờ làm nốt, - Xtepan Arcaditr nói.
- Nhất định rồi! - Nikitin trả lời.
- Thằng cha Fomill ấy ắt hẳn là một tên lưu manh khét tiếng. - Grinevitr nói về một trong những nhân vật có dính líu đến vụ án họ đang thẩm xét.
Xtepan Arcaditr cau mày, có ý muốn để mọi người ngầm hiểu là không nên phát biểu một lời phán xét trước như thế và không trả lời gì.
- Lúc nãy ai vừa vào đấy? - ông hỏi người mõ toà.
- Bẩm quan lớn, có một người không được phép mà vẫn cứ lén vào, lúc chúng tôi vừa quay lưng đi. Hắn hỏi quan lớn. Chúng tôi đã bảo hắn phải chờ cho đến khi bãi toà.
- Vậy hắn đâu?
- Tôi chắc hẳn ra ngoài phòng chờ, hắn vừa đi bách bộ ở đây. Hắn kia rồi, - người mõ toà vừa nói vừa chỉ một người đàn ông vạm vỡ, vai rộng, râu quăn, đang chạy phăng phăng lên chiếc cầu thang bằng đá mòn nhẵn, chiếc mũ da cừu vẫn đội nguyên trên đầu. Một viên chức toà án đang đi xuống, dáng giảo hoạt, tay cắp cặp, nhìn đôi chân của người trai trẻ ra vẻ bất bình và đưa mắt dò hỏi Oblonxki.
Xtepan Arcaditr dừng lại ở bậc thang thứ nhất. Trên cổ áo thêu của bộ đồng phục, nét mặt hớn hở của ông sáng ngời lên khi nhận ra người vừa tới.
- Chính hắn! Levin đây rồi! - ông nói, vừa mỉm cười thân ái vừa giễu cợt, vừa nhìn Levin đang bước tới. - Cậu không sợ phải đến tìm mình trong cái hang hùm này ư? - Xtepan Arcaditr nói, không chỉ bắt tay mà còn ôm hôn Levin. - Cậu đến đây đã lâu chưa?
- Mình vừa mới tới và mình muốn gặp cậu quá, Levin trả lời, nhìn quanh có vẻ rụt rè, vừa bực dọc vừa lo ngại.
- Về phòng làm việc của mình đi, - Xtepan Arcaditr nói, vốn biết cái tính rụt rè vừa tự phụ vừa đa nghi của bạn; và ông nắm lấy cánh tay Levin kéo đi như kiểu dẫn dắt chàng qua những bước hiểm nghèo.
Xtepan Arcaditr mình mình cậu cậu với hầu hết những người quen: từ ông già sáu mươi đến chàng trai hai mươi, từ đào kép đến bộ trưởng, từ thương gia đến tướng lĩnh... thành thử đa số những người ông thường mình mình cậu cậu là thuộc hai đầu bậc thang xã hội và hẳn họ sẽ rất kinh ngạc nếu được biết nhờ Oblonxki mà họ có cái gì tương đồng với nhau. Ông xưng hô mình mình cậu cậu với tất cả những ai cùng ông uống rượu sâm banh, mà ông thì cạn cốc sâm banh với khắp thiên hạ; cho nên, trước mặt những người dưới quyền, khi gặp một trong những người xấu hổ vì bị mình mình cậu cậu - ông thường gọi đùa một số lớn bạn bè như thế - với sự tế nhị sẵn có, ông luôn biết tránh cho cấp dưới khỏi có cảm giác khó chịu. Levin không phải là một người xấu hổ vì bị mình mình cậu cậu, nhưng tự nhiên Oblonxki cảm thấy Levin cho rằng có lẽ ông không nên phô trương sự thân mật giữa hai người trước mặt cấp dưới, vì vậy ông vội vàng đưa Levin về phòng làm việc.
Levin gần trạc tuổi với Oblonxki và sở dĩ chàng mình mình cậu cậu với ông, đó không phải chỉ đơn thuần vì họ đã cùng uống sâm banh với nhau. Họ chơi với nhau từ hồi nhỏ. Mặc dầu khác biệt về tính tình và sở thích, họ yêu thương nhau như hai người bạn gắn bó từ lúc ấu thơ thường yêu nhau. Nhưng, như thường xảy ra giữa những người đã chọn những lĩnh vực hoạt động khác nhau, tuy về lý lẽ người nọ vẫn tán thành hoạt động của người kia, song thâm tâm lại miệt thị nó. Người nào cũng nghĩ cuộc đời mình đang sống mới là cuộc đời chân chính duy nhất còn cuộc đời bạn mình đang sống chỉ là... ảo giác. Oblonxki không thể kìm được nụ cười châm biếm nhẹ nhàng khi trông thấy Levin. Biết bao lần ông thấy Levin, từ nông thôn ra, nơi chàng đang làm "một việc gì" (Xtepan Arcaditr không biết đích xác đó là việc gì và tuyệt nhiên không quan tâm đến chuyện ấy). Levin đến Moxcva bao giờ cũng nháo nhác, vội vã, hơi rụt rè và bực dọc về tính rụt rè đó, nhiều khi mang theo những quan điểm hoàn toàn mới và bất ngờ về mọi sự. Xtepan Arcaditr thường cười bạn về điều đó và lấy thế làm vui thích. Về phía mình, Levin cũng coi thường cuộc sống thị thành và nghề nghiệp của bạn mà chàng coi là trò đùa và thường đưa ra chế giễu. Chỉ khác một điều là Oblonxki xử sự như tất cả mọi người, cười một cách tự tin và dễ dãi, còn Levin thì nghi ngờ chính bản thân mình và đôi khi thường cười gượng.
- Bọn mình chờ cậu đã lâu, - Xtepan Arcaditr nói, khi vào đến phòng làm việc và buông tay bạn, như để tỏ ra không còn gì nguy hiểm nữa. - Mình rất sung sướng được gặp cậu, - ông nói tiếp - Cậu có khỏe không? Hiện đang làm gì? Cậu đến lúc nào vậy?
Levin lặng thinh, nhìn bộ mặt lạ lẫm của hai bạn đồng sự với Oblonxki và nhất là bàn tay anh chàng Grinevitr sang trọng, ngón búp măng trắng muốt, móng dài vàng vàng và cong cong ở đầu, cùng những cái cúc to tướng lấp lánh ở cổ tay áo; đôi bàn tay đó dường như thu hút tất cả sự chú ý của chàng và khiến tâm trí chàng mất cả thoải mái. Oblonxki nhận ra điều đó ngay và mỉm cười.
- À phải, cho phép tôi giới thiệu các ngài với nhau, - ông nói. Các bạn đồng sự của tôi: Filip Ivanovitr Nikitin, Misen Xtanixlavitr Grinevitr, và quay lại phía Levin: một quan cai trị tỉnh nhỏ, con người mới của hội đồng tự trị địa phương, một lực sĩ một tay nhấc nổi năm pút 1, một nhà chăn nuôi và một nhà săn bắn, ông bạn Conxtantin Dimitrievitr Levin của tôi, em trai Xergei Ivanovitr Coznusev.
- Rất hân hạnh, - ông già nhỏ bé nói.
- Tôi đã có vinh dự được biết lệnh huynh Xergei Ivanovitr, Grinevitr nói, chìa bàn tay thanh tú để móng dài ra.
Levin sa sầm mặt; chàng lạnh lùng bắt tay Grinevitr và lập tức quay về phía Oblonxki. Mặc dầu rất mến phục ông anh cùng mẹ khác cha, nhà văn nổi tiếng khắp nước Nga, chàng không chịu được khi người ta nói với mình không phải như nói với Conxtantin Levin mà là với em trai nhà văn Coznưsev trứ danh.
- Không, tôi không ở trong hội đồng nữa đâu. Tôi đã xích mích với tất cả mọi người và không đến dự các phiên họp nữa, - chàng quay lại nói với Oblonxki.
- Thế là chuyện chẳng đi đến đâu cả! - Oblonxki mỉm cười nói. - Nhưng đầu đuôi thế nào? Tại sao vậy?
- Chuyện dài lắm. Mình sẽ kể cho cậu nghe sau, - Levin nói thế, nhưng chàng lại kể ngay tức khắc. - Nói vắn tắt là mình tin chắc không thể nào làm việc với hội đồng được, - chàng nói với giọng của kẻ vừa bị lăng nhục. - Một mặt, đó là một thứ đồ chơi: người ta vui chơi ở nghị viện; vậy mà mình thì chả còn non trẻ, cũng chưa đến nỗi già nua gì để vui thú với những thứ đồ chơi, và mặt khác (chàng ngần ngừ), đó là một thứ phe cánh 2 ở tỉnh nhỏ nhằm mục đích kiếm tiền.
Trước kia, có chế độ bảo hộ, có toà án, bây giờ thì là hội động tự trị, ở đây người ta không ăn hối lộ, nhưng lại kiếm được những khoản bổng lộc không phải do công sức làm ra, - chàng hăm hở nói, như thể trong số những người đứng đấy có ai định bác bỏ ý kiến của mình.
- Chà! Chà! Mình thấy cậu đang ở một giai đoạn mới đấy, cậu hướng về phe bảo thủ mất rồi, - Xtepan Arcaditr nói với Levin. - Ta sẽ trở lại chuyện đó sau.
- Phải, đúng vậy. Nhưng mình cần gặp cậu, - Levin nói, hằn học nhìn đôi bàn tay của Grinevitr.
Xtepan Arcaditr thoáng mỉm cười.
- Thế nào, dạo nọ cậu bảo là sẽ không vận âu phục nữa kia mà! - ông vừa nói vừa ngắm nghía bộ đồ mới của bạn, rõ ràng vừa ở một cửa hàng may người Pháp ra. - Quả đúng vậy: một giai đoạn mới...
Levin đột nhiên đỏ mặt, không phải như kiểu người lớn tuổi, chỉ hời hợt bên ngoài, tự mình không hay, mà như một chú bé cảm thấy tính nhút nhát làm cho mình đâm lố bịch, và do đó, lại càng đỏ mặt hơn, tựa hồ sắp phát khóc. Thật khổ tâm khi nhận thấy trên bộ mặt thông minh và trai tráng ấy một vẻ quá con nít như vậy, đến nỗi Oblonxki phải quay nhìn đi chỗ khác.
- Phải, vậy chúng ta có thể gặp nhau ở đâu? Mình có chuyện nhất thiết phải nói với cậu, - Levin nói.
Oblonxki ra vẻ đăm chiêu suy nghĩ.
- Mình đề nghị với cậu thế này: đến hiệu Gurin ăn trưa, ta sẽ có thể trò chuyện được. Mình còn rỗi cho đến ba giờ.
- Không, - Levin đáp sau một lúc suy nghĩ. - Mình còn phải đi đằng này.
- Vậy thì ta ăn chiều với nhau nhé.
- Ăn chiều ư? Nhưng câu chuyện mình nói với cậu chả có gì đặc biệt đâu: chỉ hai câu thôi; ta sẽ nói chuyện sau vậy.
- Được, cậu nói hai câu của cậu cho mình nghe đi, rồi đến bữa chiều ta sẽ bàn thêm.
- Thế này nhá, - Levin nói. - Vả lại, cũng chả có gì đặc biệt đâu.
Mặt chàng đột nhiên cau lại, do phải cố vượt lên thói nhút nhát.
- Gia đình Serbatxki hiện làm gì? Không có gì thay đổi chứ? - chàng hỏi.
Xtepan Arcaditr từ lâu đã biết Levin mê cô em vợ mình là Kitti 1 nên thoáng mỉm cười và cặp mắt ông vụt long lanh vui thích.
- Quả là cậu đã nói với mình có hai câu thật, nhưng mình không thể trả lời cậu vắn tắt như thế được, bởi vì... Xin lỗi cậu một lát...
Viên thư ký bước vào, với cái vẻ thân tình kính cẩn, và cái ý thức khiêm tốn chung của mọi người thư ký tự biết mình thạo công việc hơn hẳn thủ trưởng; anh ta mang giấy tờ đến cho Oblonxki và dùng hình thức câu hỏi để giải thích cho ông một chỗ khó xử. Xtepan Arcaditr không đợi anh ta nói hết, thân mật đặt tay lên tay áo viên thư ký.
- Không, ông cứ làm như tôi đã dặn, - ông nói, mỉm cười để làm nhẹ bớt lời phán đó, và sau khi cắt nghĩa tóm tắt ý kiến của mình về vấn đề ấy, ông đẩy chồng giấy ra và bảo: - ông cứ làm như thế cho, ông Zacari Nikititr ạ.
Viên thư ký ngượng ngập, rút lui. Trong khi họ nói chuyện, Levin đã hoàn toàn bình tĩnh lại; chàng vẫn đứng tỳ khuỷu tay vào chiếc ghế tựa, và nét mặt lộ vẻ chăm chú mỉa mai.
- Mình không hiểu, mình không hiểu, - chàng nói.
- Cậu không hiểu cái gì? - Oblonxki mỉm cười vui vẻ hỏi và lấy ra một điếu thuốc lá. Ông chờ Levin thốt ra một điều gì kỳ cục.
- Nhưng mình không hiểu các cậu làm cái gì thế, - Levin nhún vai nói. - Làm sao mà cậu có thể làm việc đó nghiêm túc được nhỉ?
- Tại sao?
- Vì... cậu chả có việc gì phải làm cả.
- Cậu tưởng thế chứ, tụi mình đang bù đầu vì công việc đấy.
- Toàn chuyện giấy tờ cả thôi; nhưng cậu có khiếu về mặt ấy đấy, - Levin nói thêm.
- Nghĩa là cậu cho rằng mình còn thiếu một cái gì phải không?
- Có thể, - Levin nói. - Nhưng dù sao mình vẫn thán phục cái điệu bộ trịnh trọng của cậu và hãnh diện có được người bạn là một nhân vật quan trọng đến thế. Với lại cậu chưa trả lời câu hỏi của mình, - chàng nói tiếp, gắng tự chủ để nhìn thẳng vào mắt Oblonxki.
- Được, được, không chóng thì chầy thế nào rồi cũng đến lượt cậu cho mà xem. Chừng nào cậu còn có ba ngàn mẫu trong quận Karazino, bắp thịt còn rắn chắc như bây giờ và tươi tắn như một em bé gái mười hai tuổi, thì mọi việc đều êm đẹp, nhưng cả cậu nữa, rồi cậu cũng đến như bọn mình thôi. Còn điều cậu hỏi mình, thì chẳng có gì thay đổi cả, nhưng có điều đáng tiếc là cậu bẵng đi quá lâu không đến chơi đằng ấy.
- Tại sao, - Levin sợ hãi hỏi.
- Bởi vì... - Oblonxki đáp. - Ta sẽ nói chuyện đó sau. Cậu về đây có việc gì?
- Điều đó ta cũng sẽ nói chuyện sau, - Levin nói, mặt đỏ dừ lên.
- Được, mình hiểu rồi, - Xtepan Arcaditr nói. - Cậu ạ, lẽ ra mình định mời cậu về nhà kia đấy, nhưng vợ mình lại hơi mệt. Nếu cậu muốn gặp họ, chắc chắn là từ bốn giờ đến năm giờ thế nào họ cũng có mặt ở vườn thú đấy, Kitti vẫn trượt băng tại đó. Cậu cứ đến đấy, mình sẽ tới tìm cậu và ta sẽ cùng đi ăn chiều với nhau.
- Tốt lắm, vậy thì lát nữa nhé.
- Coi chừng đấy, mình biết cậu lắm: cậu có thể quên phắt đi hoặc đùng đùng trở về nông thôn! - Xtepan Arcaditr cười, nói to với Levin.
- Không, nhất định mình sẽ đến.
Và Levin rời khỏi phòng làm việc, đúng lúc bước ra khỏi cửa chàng mới sực nhớ là đã quên không chào các bạn đồng sự của Oblonxki.
- Ông ấy có vẻ cương nghị lắm, - Grinevitr nói, khi Levin đi khỏi.
- Phải, ông bạn thân mến ạ, - Xtepan Arcaditr gật đầu nói, - đó là một anh chàng sung sướng! Ba nghìn mẫu ở quận Karazino! Trước mặt cậu ta có tất cả, con người mới tươi tắn làm sao! Thật không giống như chúng ta đây...
- Ông thì cũng chả có gì phải phàn nàn, ông Xtepan Arcaditr ạ.
- Có chứ, mọi việc đều lung tung beng, - Xtepan Arcaditr vừa nói vừa thở dài.
Kể có tới nửa Moxcva và Peterburg là chỗ thân thuộc và bè bạn của Xtepan Arcaditr. Ông vốn sinh trong giới những người có quyền lực trên thế gian này. Một phần ba các chính khách của thế hệ trước là bạn bè của ông thân sinh ra Oblonxki và biết ông từ hồi còn ẵm ngửa; cái phần ba thứ hai vào loại cậu cậu tớ tớ với ông và quan hệ của ông đối với cái phần ba thứ ba cũng rất tốt; những người phân phối của cải trên đời, dưới hình thức việc làm, trang trại, nhượng địa, v.v... tất cả đều là bạn bè của ông và chả lẽ lại bỏ rơi người thân. Cho nên Oblonxki chẳng phải chật vật gì cũng vẫn kiếm được một chỗ làm nhiều bổng lộc; ông chỉ việc đừng có khước từ cái gì, đừng ganh tị mà cũng đừng gây sự với ai, đừng tỏ ra hay động lòng, mà điều này lại chính là cái xu hướng hồn hậu bẩm sinh của ông. Hẳn ông sẽ coi là chuyện kỳ khôi nếu người ta từ chối không cho ông cái địa vị và số lương ông đang cần, vả chăng ông có yêu cầu điều gì khác thường đâu, chỉ đơn giản là cái mà những người vào lứa tuổi ông đều có thể đạt được, và ông hoàn toàn có khả năng làm tròn loại công việc đó như ai khác.
Tất cả những người quen biết Xtepan Arcaditr mến ông không phải chỉ vì tính nết tốt, sự hoạt bát và lòng trung thực hiển nhiên của ông. Cái bề ngoài quyến rũ, cặp mắt sáng long lanh, đôi lông mày và mớ tóc đen nhánh, nước da tươi tắn của ông có sức hấp dẫn thể chất với tất cả những ai gặp ông, khiến họ thấy khoái hoạt hẳn lên. "A, Xtiva! Oblonxki! Anh ta kia kìa!", họ reo lên và hầu như bao giờ cũng nở một nụ cười rạng rỡ mỗi khi trông thấy ông. Và cho dù cuộc trò chuyện chẳng mang lại điều gì đặc biệt thích thú, người ta vẫn không kém hoan hỉ khi gặp lại ông ngày hôm sau và hôm sau nữa.
Giữ địa vị chánh án trong một tòa án ở Moxcva từ hai năm nay, Xtepan Arcaditr đã chiếm được lòng quý mến và vì nể của các bạn đồng sự, cấp dưới và cấp trên, của mọi người có quan hệ công việc với ông. Những đức tính đã đem lại cho ông cái uy tín rộng khắp ấy là:
Thứ nhất, thái độ khoan dung rất mực đối với mọi người, dựa trên ý thức về những khuyết điểm của bản thân; thứ hai, một đầu óc tự do tuyệt đối, không phải thứ chủ nghĩa tự do người ta thường huyênh hoang với ông trên báo chí, mà là thứ chủ nghĩa tự do sẵn có từ trong máu, nó giúp ông đối xử với mọi người nhất loại như nhau không phân biệt địa vị và hoàn cảnh; thứ ba, và đây là điểm quan trọng nhất, thái độ hoàn toàn dửng dưng với nghề nghiệp, nó giữ cho ông khỏi say mê hoặc phạm điều vụng dại.
Đến tòa án, Xtepan Arcaditr đi về phòng làm việc, theo sau là gã lính hầu khúm núm mang cặp hồ sơ; ở đó, ông mặc quần áo quan toà rồi bước vào phòng nghị án. Những vị bồi thẩm và lục sự đứng dậy hết và vui vẻ, kính cẩn chào. Như thường lệ, Xtepan Arcaditr bước nhanh đến chỗ mình, bắt tay các thẩm phán và ngồi xuống. Ông nói đùa, trò chuyện với họ trong giới hạn nghiêm ngặt của thủ tục và khai mạc phiên họp. Không ai duy trì đúng mức hơn ông cái chừng mực giữa sự phóng túng, giản dị với giọng trịnh trọng cần thiết phải giữ để thừa hành nghề nghiệp một cách thoải mái. Người thư ký mang giấy má đến, vui vẻ và kính cẩn như tất cả những ai làm dưới quyền Xtepan Arcaditr, và nói bằng cái giọng thân mật, phóng túng mà Oblonxki đã khơi mào:
- Cuối cùng, tòa án tỉnh Penđa đã cung cấp tình hình cho chúng ta. Đây, xin trình ngài những tài liệu ấy...
- A! Ông đã có tình hình rồi đấy ư? - Xtepan Arcaditr nói, luồn ngón tay vào giữa những tờ giấy. - Vậy thì, thưa quý vị...
Phiên họp bắt đầu.
"Nếu họ biết, - Oblonxki nghĩ thầm, đầu nghiêng nghiêng trịnh trọng trong khi nghe đọc bản tường trình, - nếu họ biết trước đây nửa tiếng đồng hồ, ông chánh án của họ đã mang bộ mặt con nít phạm lỗi như thế nào!". Và đôi mắt ông cười. Buổi họp phải tiếp tục luôn một mạch đến tận hai giờ; đến hai giờ, sẽ tạm nghỉ họp để ăn trưa.
Khoảng gần hai giờ, cánh cửa kính cao của phòng thường mở toang và một người bước vào. Tất cả các vị thẩm phán, ngồi dưới chân dung đức vua, sau tấm gương của công lý, đều quay nhìn phía cửa ra vào, khoái chí vì cơ hội giải trí đó; nhưng người mõ toà đã tống ngay kẻ vừa đột nhập kia ra và đóng cửa lại.
Khi bản tường trình được đọc xong, Xtepan Arcaditr vươn vai, và theo cái chủ nghĩa tự do đương thời, hút thuốc lá ngay giữa phòng nghị án trước khi trở về phòng làm việc. Hai ông bạn đồng sự, vị lão thành Nikitin và nhà quý tộc của nghị viện Grinevitr, cùng ra với ông.
- Sau bữa ăn, chúng ta còn đủ thì giờ làm nốt, - Xtepan Arcaditr nói.
- Nhất định rồi! - Nikitin trả lời.
- Thằng cha Fomill ấy ắt hẳn là một tên lưu manh khét tiếng. - Grinevitr nói về một trong những nhân vật có dính líu đến vụ án họ đang thẩm xét.
Xtepan Arcaditr cau mày, có ý muốn để mọi người ngầm hiểu là không nên phát biểu một lời phán xét trước như thế và không trả lời gì.
- Lúc nãy ai vừa vào đấy? - ông hỏi người mõ toà.
- Bẩm quan lớn, có một người không được phép mà vẫn cứ lén vào, lúc chúng tôi vừa quay lưng đi. Hắn hỏi quan lớn. Chúng tôi đã bảo hắn phải chờ cho đến khi bãi toà.
- Vậy hắn đâu?
- Tôi chắc hẳn ra ngoài phòng chờ, hắn vừa đi bách bộ ở đây. Hắn kia rồi, - người mõ toà vừa nói vừa chỉ một người đàn ông vạm vỡ, vai rộng, râu quăn, đang chạy phăng phăng lên chiếc cầu thang bằng đá mòn nhẵn, chiếc mũ da cừu vẫn đội nguyên trên đầu. Một viên chức toà án đang đi xuống, dáng giảo hoạt, tay cắp cặp, nhìn đôi chân của người trai trẻ ra vẻ bất bình và đưa mắt dò hỏi Oblonxki.
Xtepan Arcaditr dừng lại ở bậc thang thứ nhất. Trên cổ áo thêu của bộ đồng phục, nét mặt hớn hở của ông sáng ngời lên khi nhận ra người vừa tới.
- Chính hắn! Levin đây rồi! - ông nói, vừa mỉm cười thân ái vừa giễu cợt, vừa nhìn Levin đang bước tới. - Cậu không sợ phải đến tìm mình trong cái hang hùm này ư? - Xtepan Arcaditr nói, không chỉ bắt tay mà còn ôm hôn Levin. - Cậu đến đây đã lâu chưa?
- Mình vừa mới tới và mình muốn gặp cậu quá, Levin trả lời, nhìn quanh có vẻ rụt rè, vừa bực dọc vừa lo ngại.
- Về phòng làm việc của mình đi, - Xtepan Arcaditr nói, vốn biết cái tính rụt rè vừa tự phụ vừa đa nghi của bạn; và ông nắm lấy cánh tay Levin kéo đi như kiểu dẫn dắt chàng qua những bước hiểm nghèo.
Xtepan Arcaditr mình mình cậu cậu với hầu hết những người quen: từ ông già sáu mươi đến chàng trai hai mươi, từ đào kép đến bộ trưởng, từ thương gia đến tướng lĩnh... thành thử đa số những người ông thường mình mình cậu cậu là thuộc hai đầu bậc thang xã hội và hẳn họ sẽ rất kinh ngạc nếu được biết nhờ Oblonxki mà họ có cái gì tương đồng với nhau. Ông xưng hô mình mình cậu cậu với tất cả những ai cùng ông uống rượu sâm banh, mà ông thì cạn cốc sâm banh với khắp thiên hạ; cho nên, trước mặt những người dưới quyền, khi gặp một trong những người xấu hổ vì bị mình mình cậu cậu - ông thường gọi đùa một số lớn bạn bè như thế - với sự tế nhị sẵn có, ông luôn biết tránh cho cấp dưới khỏi có cảm giác khó chịu. Levin không phải là một người xấu hổ vì bị mình mình cậu cậu, nhưng tự nhiên Oblonxki cảm thấy Levin cho rằng có lẽ ông không nên phô trương sự thân mật giữa hai người trước mặt cấp dưới, vì vậy ông vội vàng đưa Levin về phòng làm việc.
Levin gần trạc tuổi với Oblonxki và sở dĩ chàng mình mình cậu cậu với ông, đó không phải chỉ đơn thuần vì họ đã cùng uống sâm banh với nhau. Họ chơi với nhau từ hồi nhỏ. Mặc dầu khác biệt về tính tình và sở thích, họ yêu thương nhau như hai người bạn gắn bó từ lúc ấu thơ thường yêu nhau. Nhưng, như thường xảy ra giữa những người đã chọn những lĩnh vực hoạt động khác nhau, tuy về lý lẽ người nọ vẫn tán thành hoạt động của người kia, song thâm tâm lại miệt thị nó. Người nào cũng nghĩ cuộc đời mình đang sống mới là cuộc đời chân chính duy nhất còn cuộc đời bạn mình đang sống chỉ là... ảo giác. Oblonxki không thể kìm được nụ cười châm biếm nhẹ nhàng khi trông thấy Levin. Biết bao lần ông thấy Levin, từ nông thôn ra, nơi chàng đang làm "một việc gì" (Xtepan Arcaditr không biết đích xác đó là việc gì và tuyệt nhiên không quan tâm đến chuyện ấy). Levin đến Moxcva bao giờ cũng nháo nhác, vội vã, hơi rụt rè và bực dọc về tính rụt rè đó, nhiều khi mang theo những quan điểm hoàn toàn mới và bất ngờ về mọi sự. Xtepan Arcaditr thường cười bạn về điều đó và lấy thế làm vui thích. Về phía mình, Levin cũng coi thường cuộc sống thị thành và nghề nghiệp của bạn mà chàng coi là trò đùa và thường đưa ra chế giễu. Chỉ khác một điều là Oblonxki xử sự như tất cả mọi người, cười một cách tự tin và dễ dãi, còn Levin thì nghi ngờ chính bản thân mình và đôi khi thường cười gượng.
- Bọn mình chờ cậu đã lâu, - Xtepan Arcaditr nói, khi vào đến phòng làm việc và buông tay bạn, như để tỏ ra không còn gì nguy hiểm nữa. - Mình rất sung sướng được gặp cậu, - ông nói tiếp - Cậu có khỏe không? Hiện đang làm gì? Cậu đến lúc nào vậy?
Levin lặng thinh, nhìn bộ mặt lạ lẫm của hai bạn đồng sự với Oblonxki và nhất là bàn tay anh chàng Grinevitr sang trọng, ngón búp măng trắng muốt, móng dài vàng vàng và cong cong ở đầu, cùng những cái cúc to tướng lấp lánh ở cổ tay áo; đôi bàn tay đó dường như thu hút tất cả sự chú ý của chàng và khiến tâm trí chàng mất cả thoải mái. Oblonxki nhận ra điều đó ngay và mỉm cười.
- À phải, cho phép tôi giới thiệu các ngài với nhau, - ông nói. Các bạn đồng sự của tôi: Filip Ivanovitr Nikitin, Misen Xtanixlavitr Grinevitr, và quay lại phía Levin: một quan cai trị tỉnh nhỏ, con người mới của hội đồng tự trị địa phương, một lực sĩ một tay nhấc nổi năm pút 1, một nhà chăn nuôi và một nhà săn bắn, ông bạn Conxtantin Dimitrievitr Levin của tôi, em trai Xergei Ivanovitr Coznusev.
- Rất hân hạnh, - ông già nhỏ bé nói.
- Tôi đã có vinh dự được biết lệnh huynh Xergei Ivanovitr, Grinevitr nói, chìa bàn tay thanh tú để móng dài ra.
Levin sa sầm mặt; chàng lạnh lùng bắt tay Grinevitr và lập tức quay về phía Oblonxki. Mặc dầu rất mến phục ông anh cùng mẹ khác cha, nhà văn nổi tiếng khắp nước Nga, chàng không chịu được khi người ta nói với mình không phải như nói với Conxtantin Levin mà là với em trai nhà văn Coznưsev trứ danh.
- Không, tôi không ở trong hội đồng nữa đâu. Tôi đã xích mích với tất cả mọi người và không đến dự các phiên họp nữa, - chàng quay lại nói với Oblonxki.
- Thế là chuyện chẳng đi đến đâu cả! - Oblonxki mỉm cười nói. - Nhưng đầu đuôi thế nào? Tại sao vậy?
- Chuyện dài lắm. Mình sẽ kể cho cậu nghe sau, - Levin nói thế, nhưng chàng lại kể ngay tức khắc. - Nói vắn tắt là mình tin chắc không thể nào làm việc với hội đồng được, - chàng nói với giọng của kẻ vừa bị lăng nhục. - Một mặt, đó là một thứ đồ chơi: người ta vui chơi ở nghị viện; vậy mà mình thì chả còn non trẻ, cũng chưa đến nỗi già nua gì để vui thú với những thứ đồ chơi, và mặt khác (chàng ngần ngừ), đó là một thứ phe cánh 2 ở tỉnh nhỏ nhằm mục đích kiếm tiền.
Trước kia, có chế độ bảo hộ, có toà án, bây giờ thì là hội động tự trị, ở đây người ta không ăn hối lộ, nhưng lại kiếm được những khoản bổng lộc không phải do công sức làm ra, - chàng hăm hở nói, như thể trong số những người đứng đấy có ai định bác bỏ ý kiến của mình.
- Chà! Chà! Mình thấy cậu đang ở một giai đoạn mới đấy, cậu hướng về phe bảo thủ mất rồi, - Xtepan Arcaditr nói với Levin. - Ta sẽ trở lại chuyện đó sau.
- Phải, đúng vậy. Nhưng mình cần gặp cậu, - Levin nói, hằn học nhìn đôi bàn tay của Grinevitr.
Xtepan Arcaditr thoáng mỉm cười.
- Thế nào, dạo nọ cậu bảo là sẽ không vận âu phục nữa kia mà! - ông vừa nói vừa ngắm nghía bộ đồ mới của bạn, rõ ràng vừa ở một cửa hàng may người Pháp ra. - Quả đúng vậy: một giai đoạn mới...
Levin đột nhiên đỏ mặt, không phải như kiểu người lớn tuổi, chỉ hời hợt bên ngoài, tự mình không hay, mà như một chú bé cảm thấy tính nhút nhát làm cho mình đâm lố bịch, và do đó, lại càng đỏ mặt hơn, tựa hồ sắp phát khóc. Thật khổ tâm khi nhận thấy trên bộ mặt thông minh và trai tráng ấy một vẻ quá con nít như vậy, đến nỗi Oblonxki phải quay nhìn đi chỗ khác.
- Phải, vậy chúng ta có thể gặp nhau ở đâu? Mình có chuyện nhất thiết phải nói với cậu, - Levin nói.
Oblonxki ra vẻ đăm chiêu suy nghĩ.
- Mình đề nghị với cậu thế này: đến hiệu Gurin ăn trưa, ta sẽ có thể trò chuyện được. Mình còn rỗi cho đến ba giờ.
- Không, - Levin đáp sau một lúc suy nghĩ. - Mình còn phải đi đằng này.
- Vậy thì ta ăn chiều với nhau nhé.
- Ăn chiều ư? Nhưng câu chuyện mình nói với cậu chả có gì đặc biệt đâu: chỉ hai câu thôi; ta sẽ nói chuyện sau vậy.
- Được, cậu nói hai câu của cậu cho mình nghe đi, rồi đến bữa chiều ta sẽ bàn thêm.
- Thế này nhá, - Levin nói. - Vả lại, cũng chả có gì đặc biệt đâu.
Mặt chàng đột nhiên cau lại, do phải cố vượt lên thói nhút nhát.
- Gia đình Serbatxki hiện làm gì? Không có gì thay đổi chứ? - chàng hỏi.
Xtepan Arcaditr từ lâu đã biết Levin mê cô em vợ mình là Kitti 1 nên thoáng mỉm cười và cặp mắt ông vụt long lanh vui thích.
- Quả là cậu đã nói với mình có hai câu thật, nhưng mình không thể trả lời cậu vắn tắt như thế được, bởi vì... Xin lỗi cậu một lát...
Viên thư ký bước vào, với cái vẻ thân tình kính cẩn, và cái ý thức khiêm tốn chung của mọi người thư ký tự biết mình thạo công việc hơn hẳn thủ trưởng; anh ta mang giấy tờ đến cho Oblonxki và dùng hình thức câu hỏi để giải thích cho ông một chỗ khó xử. Xtepan Arcaditr không đợi anh ta nói hết, thân mật đặt tay lên tay áo viên thư ký.
- Không, ông cứ làm như tôi đã dặn, - ông nói, mỉm cười để làm nhẹ bớt lời phán đó, và sau khi cắt nghĩa tóm tắt ý kiến của mình về vấn đề ấy, ông đẩy chồng giấy ra và bảo: - ông cứ làm như thế cho, ông Zacari Nikititr ạ.
Viên thư ký ngượng ngập, rút lui. Trong khi họ nói chuyện, Levin đã hoàn toàn bình tĩnh lại; chàng vẫn đứng tỳ khuỷu tay vào chiếc ghế tựa, và nét mặt lộ vẻ chăm chú mỉa mai.
- Mình không hiểu, mình không hiểu, - chàng nói.
- Cậu không hiểu cái gì? - Oblonxki mỉm cười vui vẻ hỏi và lấy ra một điếu thuốc lá. Ông chờ Levin thốt ra một điều gì kỳ cục.
- Nhưng mình không hiểu các cậu làm cái gì thế, - Levin nhún vai nói. - Làm sao mà cậu có thể làm việc đó nghiêm túc được nhỉ?
- Tại sao?
- Vì... cậu chả có việc gì phải làm cả.
- Cậu tưởng thế chứ, tụi mình đang bù đầu vì công việc đấy.
- Toàn chuyện giấy tờ cả thôi; nhưng cậu có khiếu về mặt ấy đấy, - Levin nói thêm.
- Nghĩa là cậu cho rằng mình còn thiếu một cái gì phải không?
- Có thể, - Levin nói. - Nhưng dù sao mình vẫn thán phục cái điệu bộ trịnh trọng của cậu và hãnh diện có được người bạn là một nhân vật quan trọng đến thế. Với lại cậu chưa trả lời câu hỏi của mình, - chàng nói tiếp, gắng tự chủ để nhìn thẳng vào mắt Oblonxki.
- Được, được, không chóng thì chầy thế nào rồi cũng đến lượt cậu cho mà xem. Chừng nào cậu còn có ba ngàn mẫu trong quận Karazino, bắp thịt còn rắn chắc như bây giờ và tươi tắn như một em bé gái mười hai tuổi, thì mọi việc đều êm đẹp, nhưng cả cậu nữa, rồi cậu cũng đến như bọn mình thôi. Còn điều cậu hỏi mình, thì chẳng có gì thay đổi cả, nhưng có điều đáng tiếc là cậu bẵng đi quá lâu không đến chơi đằng ấy.
- Tại sao, - Levin sợ hãi hỏi.
- Bởi vì... - Oblonxki đáp. - Ta sẽ nói chuyện đó sau. Cậu về đây có việc gì?
- Điều đó ta cũng sẽ nói chuyện sau, - Levin nói, mặt đỏ dừ lên.
- Được, mình hiểu rồi, - Xtepan Arcaditr nói. - Cậu ạ, lẽ ra mình định mời cậu về nhà kia đấy, nhưng vợ mình lại hơi mệt. Nếu cậu muốn gặp họ, chắc chắn là từ bốn giờ đến năm giờ thế nào họ cũng có mặt ở vườn thú đấy, Kitti vẫn trượt băng tại đó. Cậu cứ đến đấy, mình sẽ tới tìm cậu và ta sẽ cùng đi ăn chiều với nhau.
- Tốt lắm, vậy thì lát nữa nhé.
- Coi chừng đấy, mình biết cậu lắm: cậu có thể quên phắt đi hoặc đùng đùng trở về nông thôn! - Xtepan Arcaditr cười, nói to với Levin.
- Không, nhất định mình sẽ đến.
Và Levin rời khỏi phòng làm việc, đúng lúc bước ra khỏi cửa chàng mới sực nhớ là đã quên không chào các bạn đồng sự của Oblonxki.
- Ông ấy có vẻ cương nghị lắm, - Grinevitr nói, khi Levin đi khỏi.
- Phải, ông bạn thân mến ạ, - Xtepan Arcaditr gật đầu nói, - đó là một anh chàng sung sướng! Ba nghìn mẫu ở quận Karazino! Trước mặt cậu ta có tất cả, con người mới tươi tắn làm sao! Thật không giống như chúng ta đây...
- Ông thì cũng chả có gì phải phàn nàn, ông Xtepan Arcaditr ạ.
- Có chứ, mọi việc đều lung tung beng, - Xtepan Arcaditr vừa nói vừa thở dài.
Quyển
1
Chương 5
Chương 5
Khi Oblonxki hỏi chàng đến Moxcva có việc gì, Levin đỏ mặt rồi
lại tự giận mình vì đã đỏ mặt, bởi lẽ chàng không thể trả lời: "Mình đến
xin cưới cô em vợ cậu đấy". Vậy mà, chàng ra đây chỉ vì cái việc duy nhất ấy.
Hai gia đình Levin và Serbatxki, hai gia đình quý phái lâu đời ở Moxcva luôn đi lại thân thiết với nhau. Mối quan hệ đó càng thêm khăng khít trong những năm Levin đi học. Chàng chuẩn bị thi và vào trường Đại học cùng một lúc với hoàng thân trẻ tuổi Serbatxki, anh của Doli và Kitti . Thời kỳ đó, Levin rất năng lui tới nhà Serbatxki và mê tất cả nhà. Kể ra thì cũng thật kỳ dị, nhưng quả là Conxtantin Levin phải lòng tất cả gia đình, và đặc biệt là phái nữ trong nhà Serbatxki.
Levin không còn giữ được kỷ niệm nào về mẹ mình, và chàng chỉ có một người chị, thành thử chính ở nhà Serbatxki, chàng đã làm quen với cái môi trường phong nhã và học thức của những gia đình quý phái lâu đời, mà vì bố mẹ mất sớm, chàng không được hưởng. Tất cả những người trong gia đình ấy, và chủ yếu là phái nữ, đối với chàng, dường như có một vầng hào quang thơ mộng và huyền bí bao quanh, chẳng những chàng không hề nhìn thấy ở họ một khuyết điểm nào, ngược lại, chính là để có ánh hào quang thơ mộng đó mà chàng gán cho họ những hoài bão cao cả nhất và tất cả những gì toàn thiện toàn mỹ có thể có trên đời. Tại sao ba cô tiểu thư trẻ măng kia cứ phải xen kẽ một ngày nói tiếng Pháp rồi lại một ngày nói tiếng Anh?
Tại sao vào những giờ nào đó, các cô cứ thay nhau ngồi vào dương cầm, tiếng đàn vẳng lên mãi tận phòng anh trai, nơi tốp thanh niên đang học tập? Tại sao các giáo sư dạy văn học Pháp, âm nhạc, hội họa và khiêu vũ cứ diễu đi diễu lại trong nhà? Tại sao, cứ đúng vào một giờ cố định, ba tiểu thư lại mặc áo choàng xatanh (Doli mặc một cái dài lê thê, Natalia một cái dài vừa và Kitti một cái ngắn tũn lộ cả đôi chân thon lẳn đi tất đỏ căng) cùng cô Linong 1 đi xe ngựa đến tận đại lộ Tve? Tại sao các tiểu thư cứ phải dạo chơi trên đại lộ Tve dưới sự hộ tống của tên hầu đeo phù hiệu vàng óng trên mũ? Tất cả những điều đó, chàng đều không hiểu nổi, cũng như phần lớn sự kiện xảy ra trong thế giới huyền bí của họ, nhưng chàng biết chắc tất cả những gì xảy ra ở đó đều tuyệt diệu và đúng là chàng đã mê cái không khí huyền bí đang bao quanh họ.
Trong những năm ở trường Đại học, chàng suýt phải lòng cô chị cả Doli, nhưng người ta đã sớm gả cô cho Oblonxki. Thế là chàng bắt đầu mê cô em. Chàng lờ mờ cảm thấy mình phải mê một trong mấy chị em mà không thể xác định dứt khoát là cô nào. Nhưng lại đến lượt Natalia, ngay sau khi xuất hiện trong giới thượng lưu, đã lấy luôn nhà ngoại giao Lvop. Khi Levin rời khỏi trường Đại học thì Kitti hãy còn là một cô bé. Chàng Serbatxki trẻ tuổi gia nhập hải quân, đã bị chết đuối ở biển Ban Tích, và sự lui tới giữa Levin với gia đình Serbatxki thưa dần, mặc dầu tình bạn của chàng đối với Oblonxki vẫn thân thiết. Nhưng vào đầu mùa đông năm nay, sau một năm ở nông thôn, khi Levin đến Moxcva và gặp lại gia đình Serbatxki, chàng chợt hiểu duyên số đã định mình phải yêu người nào trong ba chị em.
Cứ xét bề ngoài thì đối với chàng, chẳng có gì đơn giản hơn việc hỏi quận chúa Serbatxki làm vợ: ba mươi hai tuổi, con nhà gia thế, nói cho đúng là giàu có, xem ra rất có thể người ta sẽ coi chàng là một đám tốt. Nhưng Levin yêu Kitti và đối với chàng, Kitti dường như hoàn hảo hết sức về mọi phương diện, một con người vượt hẳn lên trên mọi sự ngẫu nhiên, còn bản thân chàng thì tự coi mình chẳng ra gì và quá ư phàm tục, đến nỗi ngay cả trong ý nghĩ, chàng cũng không sao hình dung nổi mọi người và bản thân Kitti lại có thể coi chàng là xứng đôi với nàng được.
Sau khi sống ở Moxcva hai tháng như trong giấc mộng, hầu như ngày nào cũng gặp Kitti trong giới xã giao, nơi chàng đến để tìm gặp nàng, bỗng nhiên Levin cả quyết là chuyện không thể thành được và trở về trang trại. Chàng tin chắc cha mẹ nàng đánh giá mình chưa đủ điều kiện là chàng rể xứng với Kitti kiều diễm, và chính Kitti cũng không thể nào yêu chàng. Dưới mắt cha mẹ Kitti, chàng không có công việc thường xuyên và dứt khoát nào cả, chẳng có địa vị gì trong giới thượng lưu, trong khi các bạn bè, vào lúc chàng đã ba mươi hai tuổi đầu, người là đại tá cận vệ, người là giáo sư, kẻ là giám đốc ngân hàng hay giám đốc hoả xa, hoặc chánh án như Oblonxki; còn chàng (chàng biết rất rõ những điều người ta có thể nghĩ về mình), chàng chỉ là anh điền chủ, nuôi bò cái, săn chim dẽ, xây nhà dựng cửa; vậy chàng chỉ là kẻ bất tài, không làm gì nên thân và trước mắt xã hội, chẳng kiếm được công việc gì khác ngoài những chuyện dành cho bọn vô tích sự.
Bản thân Kitti, huyền bí và xinh đẹp, làm sao có thể yêu một anh con trai xấu như vậy (chàng tự cho là xấu trai), nhất là lại thô sơ và tầm thường đến thế. Hơn nữa, những quan hệ cũ giữa chàng với Kitti (những quan hệ giữa một người lớn hẳn hoi với một cô bé, hậu quả tình bạn giữa chàng với anh trai Kitti ), đối với chàng, hình như cũng là một trở ngại khác cho mối tình. Một gã thanh niên trung thực, mã người chẳng có gì là ưa nhìn (chàng tự xét mình như thế), có thể khiến người ta muốn đánh bạn - chàng nghĩ bụng - nhưng muốn được yêu như chàng đã yêu Kitti, thì cần phải điển trai và nhất là phải... độc đáo.
Chàng từng nghe nói phụ nữ thường hay yêu những anh đàn ông xấu xí và kém cỏi, nhưng chàng không tin vì chàng cứ suy từ bụng mình thì biết, chàng chỉ có thể yêu một người đàn bà đẹp, huyền bí và độc đáo.
Tuy nhiên, sau hai tháng sống một mình ở nông thôn, chàng xác định rõ lối sống đó không còn là một cám dỗ tương tự như hồi còn trẻ măng, cảm giác đó không để chàng yên ổn lấy một phút, chàng sẽ không thể sống nổi nếu chưa được biết đích xác liệu nàng có thể trở thành vợ mình hay không, nỗi tuyệt vọng của chàng mới chỉ là do tưởng tượng thôi và chưa có gì chứng tỏ chàng sẽ bị từ chối. Thế là chàng đáp xe lửa đi Moxcva với quyết tâm sẽ tỏ tình và sẽ cưới nàng nếu được đồng ý. Hoặc là... nhưng chàng không dám nghĩ đến những điều sẽ xảy đến với mình, nếu bị cự tuyệt.
Chú thích:
1. Đây là nữ gia sư của các tiểu thư nhà Serbatxki. ở các nước phương Tây, chữ "cô" để chỉ tất cả những người đàn bà không chồng, không phân biệt trẻ hay già.
Hai gia đình Levin và Serbatxki, hai gia đình quý phái lâu đời ở Moxcva luôn đi lại thân thiết với nhau. Mối quan hệ đó càng thêm khăng khít trong những năm Levin đi học. Chàng chuẩn bị thi và vào trường Đại học cùng một lúc với hoàng thân trẻ tuổi Serbatxki, anh của Doli và Kitti . Thời kỳ đó, Levin rất năng lui tới nhà Serbatxki và mê tất cả nhà. Kể ra thì cũng thật kỳ dị, nhưng quả là Conxtantin Levin phải lòng tất cả gia đình, và đặc biệt là phái nữ trong nhà Serbatxki.
Levin không còn giữ được kỷ niệm nào về mẹ mình, và chàng chỉ có một người chị, thành thử chính ở nhà Serbatxki, chàng đã làm quen với cái môi trường phong nhã và học thức của những gia đình quý phái lâu đời, mà vì bố mẹ mất sớm, chàng không được hưởng. Tất cả những người trong gia đình ấy, và chủ yếu là phái nữ, đối với chàng, dường như có một vầng hào quang thơ mộng và huyền bí bao quanh, chẳng những chàng không hề nhìn thấy ở họ một khuyết điểm nào, ngược lại, chính là để có ánh hào quang thơ mộng đó mà chàng gán cho họ những hoài bão cao cả nhất và tất cả những gì toàn thiện toàn mỹ có thể có trên đời. Tại sao ba cô tiểu thư trẻ măng kia cứ phải xen kẽ một ngày nói tiếng Pháp rồi lại một ngày nói tiếng Anh?
Tại sao vào những giờ nào đó, các cô cứ thay nhau ngồi vào dương cầm, tiếng đàn vẳng lên mãi tận phòng anh trai, nơi tốp thanh niên đang học tập? Tại sao các giáo sư dạy văn học Pháp, âm nhạc, hội họa và khiêu vũ cứ diễu đi diễu lại trong nhà? Tại sao, cứ đúng vào một giờ cố định, ba tiểu thư lại mặc áo choàng xatanh (Doli mặc một cái dài lê thê, Natalia một cái dài vừa và Kitti một cái ngắn tũn lộ cả đôi chân thon lẳn đi tất đỏ căng) cùng cô Linong 1 đi xe ngựa đến tận đại lộ Tve? Tại sao các tiểu thư cứ phải dạo chơi trên đại lộ Tve dưới sự hộ tống của tên hầu đeo phù hiệu vàng óng trên mũ? Tất cả những điều đó, chàng đều không hiểu nổi, cũng như phần lớn sự kiện xảy ra trong thế giới huyền bí của họ, nhưng chàng biết chắc tất cả những gì xảy ra ở đó đều tuyệt diệu và đúng là chàng đã mê cái không khí huyền bí đang bao quanh họ.
Trong những năm ở trường Đại học, chàng suýt phải lòng cô chị cả Doli, nhưng người ta đã sớm gả cô cho Oblonxki. Thế là chàng bắt đầu mê cô em. Chàng lờ mờ cảm thấy mình phải mê một trong mấy chị em mà không thể xác định dứt khoát là cô nào. Nhưng lại đến lượt Natalia, ngay sau khi xuất hiện trong giới thượng lưu, đã lấy luôn nhà ngoại giao Lvop. Khi Levin rời khỏi trường Đại học thì Kitti hãy còn là một cô bé. Chàng Serbatxki trẻ tuổi gia nhập hải quân, đã bị chết đuối ở biển Ban Tích, và sự lui tới giữa Levin với gia đình Serbatxki thưa dần, mặc dầu tình bạn của chàng đối với Oblonxki vẫn thân thiết. Nhưng vào đầu mùa đông năm nay, sau một năm ở nông thôn, khi Levin đến Moxcva và gặp lại gia đình Serbatxki, chàng chợt hiểu duyên số đã định mình phải yêu người nào trong ba chị em.
Cứ xét bề ngoài thì đối với chàng, chẳng có gì đơn giản hơn việc hỏi quận chúa Serbatxki làm vợ: ba mươi hai tuổi, con nhà gia thế, nói cho đúng là giàu có, xem ra rất có thể người ta sẽ coi chàng là một đám tốt. Nhưng Levin yêu Kitti và đối với chàng, Kitti dường như hoàn hảo hết sức về mọi phương diện, một con người vượt hẳn lên trên mọi sự ngẫu nhiên, còn bản thân chàng thì tự coi mình chẳng ra gì và quá ư phàm tục, đến nỗi ngay cả trong ý nghĩ, chàng cũng không sao hình dung nổi mọi người và bản thân Kitti lại có thể coi chàng là xứng đôi với nàng được.
Sau khi sống ở Moxcva hai tháng như trong giấc mộng, hầu như ngày nào cũng gặp Kitti trong giới xã giao, nơi chàng đến để tìm gặp nàng, bỗng nhiên Levin cả quyết là chuyện không thể thành được và trở về trang trại. Chàng tin chắc cha mẹ nàng đánh giá mình chưa đủ điều kiện là chàng rể xứng với Kitti kiều diễm, và chính Kitti cũng không thể nào yêu chàng. Dưới mắt cha mẹ Kitti, chàng không có công việc thường xuyên và dứt khoát nào cả, chẳng có địa vị gì trong giới thượng lưu, trong khi các bạn bè, vào lúc chàng đã ba mươi hai tuổi đầu, người là đại tá cận vệ, người là giáo sư, kẻ là giám đốc ngân hàng hay giám đốc hoả xa, hoặc chánh án như Oblonxki; còn chàng (chàng biết rất rõ những điều người ta có thể nghĩ về mình), chàng chỉ là anh điền chủ, nuôi bò cái, săn chim dẽ, xây nhà dựng cửa; vậy chàng chỉ là kẻ bất tài, không làm gì nên thân và trước mắt xã hội, chẳng kiếm được công việc gì khác ngoài những chuyện dành cho bọn vô tích sự.
Bản thân Kitti, huyền bí và xinh đẹp, làm sao có thể yêu một anh con trai xấu như vậy (chàng tự cho là xấu trai), nhất là lại thô sơ và tầm thường đến thế. Hơn nữa, những quan hệ cũ giữa chàng với Kitti (những quan hệ giữa một người lớn hẳn hoi với một cô bé, hậu quả tình bạn giữa chàng với anh trai Kitti ), đối với chàng, hình như cũng là một trở ngại khác cho mối tình. Một gã thanh niên trung thực, mã người chẳng có gì là ưa nhìn (chàng tự xét mình như thế), có thể khiến người ta muốn đánh bạn - chàng nghĩ bụng - nhưng muốn được yêu như chàng đã yêu Kitti, thì cần phải điển trai và nhất là phải... độc đáo.
Chàng từng nghe nói phụ nữ thường hay yêu những anh đàn ông xấu xí và kém cỏi, nhưng chàng không tin vì chàng cứ suy từ bụng mình thì biết, chàng chỉ có thể yêu một người đàn bà đẹp, huyền bí và độc đáo.
Tuy nhiên, sau hai tháng sống một mình ở nông thôn, chàng xác định rõ lối sống đó không còn là một cám dỗ tương tự như hồi còn trẻ măng, cảm giác đó không để chàng yên ổn lấy một phút, chàng sẽ không thể sống nổi nếu chưa được biết đích xác liệu nàng có thể trở thành vợ mình hay không, nỗi tuyệt vọng của chàng mới chỉ là do tưởng tượng thôi và chưa có gì chứng tỏ chàng sẽ bị từ chối. Thế là chàng đáp xe lửa đi Moxcva với quyết tâm sẽ tỏ tình và sẽ cưới nàng nếu được đồng ý. Hoặc là... nhưng chàng không dám nghĩ đến những điều sẽ xảy đến với mình, nếu bị cự tuyệt.
Chú thích:
1. Đây là nữ gia sư của các tiểu thư nhà Serbatxki. ở các nước phương Tây, chữ "cô" để chỉ tất cả những người đàn bà không chồng, không phân biệt trẻ hay già.
Quyển
1
Chương 6
Chương 6
Tới Moxcva bằng chuyến xe lửa sáng, Levin ghé vào nhà ông anh
cùng mẹ khác cha Coznưsev. Sau khi thay quần áo, chàng đến phòng anh định kể
ngay cho ông rõ tại sao chàng đến Moxcva và hỏi ý kiến ông, nhưng anh chàng
không phải chỉ có một mình. Trong phòng còn có một giáo sư triết học nổi tiếng,
từ Kharcov đến, với chủ đích làm sáng tỏ sự hiểu lầm nảy ra giữa hai người về một
luận điểm triết học rất trọng yếu. Ông giáo sư đang tiến hành một cuộc bút chiến
sôi nổi, công kích các nhà duy vật chủ nghĩa và Xergei Coznưsev rất quan tâm
theo dõi cuộc bút chiến. Sau khi đọc bài báo gần đây nhất của giáo sư, ông gửi
thư phản đối giáo sư về một vài điểm: ông trách giáo sư nhượng bộ phái duy vật
nhiều quá. Và vị giáo sư lập tức đến đây để thanh minh. Đó là một vấn đề thời sự
nóng hổi: có ranh giới nào giữa những hiện tượng tâm lý và sinh lý trong sinh
hoạt của con người không và nó ở vào chỗ nào?
Xergei Ivanovitr tiếp đón em trai với nụ cười đáng yêu và lạnh lùng thường ngày của ông, và sau khi giới thiệu chàng với giáo sư, lại tiếp tục câu chuyện.
Người đàn ông nhỏ bé đeo kính, trán hẹp, ngừng một giây để chào Levin rồi lại tiếp tục chứng minh, chẳng buồn mảy may để ý đến chàng. Levin ngồi xuống chờ cho giáo sư đi khỏi, nhưng chẳng mấy chốc chàng bị lôi cuốn ngay vào câu chuyện. Chàng đã đọc những bài báo đó đăng trên các tạp chí và quan tâm đến chúng như một người nghiên cứu khoa vạn vật ở trường Đại học quan tâm đến sự phát triển của môn học này, nhưng chưa bao giờ chàng đem những điều suy diễn khoa học về nguồn gốc con người với tính cách là động vật, về những phản xạ, về sinh học và xã hội học, đối chiếu với những vấn đề ngày càng khiến chàng bận tâm: ý nghĩa của sự sống và cái chết.
Lắng nghe cuộc tranh luận, chàng thấy hai bên đang xác lập mối liên hệ giữa khoa học và những vấn đề có dính líu đến tâm hồn.
Nhiều lần, họ suýt đề cập đến những vấn đề này, nhưng cứ mỗi lần mon men gần tới cái điều Levin cho là chủ yếu, họ lại hấp tấp lảng xa để rồi lại lao vào lĩnh vực những nét phân biệt tinh vi, những phản bác, trích dẫn, điển cố, dẫn chứng và chàng vất cả lắm mới hiểu họ đang bàn chuyện gì!
- Tôi không thể thừa nhận, - Xergei Ivanovitr nói rành rọt, khúc chiết và trang nhã như thường thấy trong ngôn ngữ của ông, - trong bất kỳ trường hợp nào, tôi cũng không thể thừa nhận như Két rằng tất cả những điều tôi hình dung về thế giới bên ngoài là do cảm giác mà ra. Khái niệm cơ bản về con người không phải đến với tôi bằng giác quan, vì chẳng có cơ quan đặc biệt nào để truyền đạt ý niệm đó cả.
- Phải, nhưng cả Vuyếcxt, cả Cnovxc và cả Pripaxov đều sẽ trả lời rằng ý thức về con người của ông là do sự giao tiếp của cảm giác, nó chỉ là sản phẩm của cảm giác. Thậm chí, Vuyếcxt còn nói dứt khoát là hễ không còn cảm giác thì cũng không còn ý thức về con người nữa.
- Ngược lại, tôi cho rằng... - Xergei Ivanovitr mở đầu.
Nhưng một lần nữa, Levin cảm thấy, giữa lúc hơi đụng đến vấn đề chủ yếu, họ lại né ra; chàng quyết định hỏi vị giáo sư:
- Vậy nếu cảm giác của tôi chìm đắm vào chốn hư vô, nếu thể xác tôi chết đi, thì không thể có cuộc sống nữa chăng? - chàng hỏi.
Giáo sư có vẻ phật ý và như bị tổn thương về tinh thần vì câu phá ngang đó: ông đưa mắt nhìn kẻ nói leo, hắn giống phu kéo thuyền hơn là triết gia, và lại nhìn Xergei Ivanovitr như để hỏi xem nên trả lời thế nào. Nhưng Xergei Ivanovitr tuyệt nhiên không nghiệt ngã như giáo sư: trong óc ông có đủ cả câu trả lời giáo sư, lẫn sự thông cảm với cái quan điểm đơn giản và tự nhiên dẫn đến câu hỏi đó; ông mỉm cười nói:
- Chúng ta không có đủ luận cứ, - vị giáo sư nhấn mạnh thêm và tiếp tục trình bày luận điểm của mình. - Không, - ông nói, - tôi cho rằng nếu cảm giác cũng dựa trên ấn tượng như Pripaxov đã nói thì chính vì thế mà ta càng phải phân biệt rõ ràng hai khái niệm ấy.
Levin không nghe nữa và chờ giáo sư đi khỏi.
Xergei Ivanovitr tiếp đón em trai với nụ cười đáng yêu và lạnh lùng thường ngày của ông, và sau khi giới thiệu chàng với giáo sư, lại tiếp tục câu chuyện.
Người đàn ông nhỏ bé đeo kính, trán hẹp, ngừng một giây để chào Levin rồi lại tiếp tục chứng minh, chẳng buồn mảy may để ý đến chàng. Levin ngồi xuống chờ cho giáo sư đi khỏi, nhưng chẳng mấy chốc chàng bị lôi cuốn ngay vào câu chuyện. Chàng đã đọc những bài báo đó đăng trên các tạp chí và quan tâm đến chúng như một người nghiên cứu khoa vạn vật ở trường Đại học quan tâm đến sự phát triển của môn học này, nhưng chưa bao giờ chàng đem những điều suy diễn khoa học về nguồn gốc con người với tính cách là động vật, về những phản xạ, về sinh học và xã hội học, đối chiếu với những vấn đề ngày càng khiến chàng bận tâm: ý nghĩa của sự sống và cái chết.
Lắng nghe cuộc tranh luận, chàng thấy hai bên đang xác lập mối liên hệ giữa khoa học và những vấn đề có dính líu đến tâm hồn.
Nhiều lần, họ suýt đề cập đến những vấn đề này, nhưng cứ mỗi lần mon men gần tới cái điều Levin cho là chủ yếu, họ lại hấp tấp lảng xa để rồi lại lao vào lĩnh vực những nét phân biệt tinh vi, những phản bác, trích dẫn, điển cố, dẫn chứng và chàng vất cả lắm mới hiểu họ đang bàn chuyện gì!
- Tôi không thể thừa nhận, - Xergei Ivanovitr nói rành rọt, khúc chiết và trang nhã như thường thấy trong ngôn ngữ của ông, - trong bất kỳ trường hợp nào, tôi cũng không thể thừa nhận như Két rằng tất cả những điều tôi hình dung về thế giới bên ngoài là do cảm giác mà ra. Khái niệm cơ bản về con người không phải đến với tôi bằng giác quan, vì chẳng có cơ quan đặc biệt nào để truyền đạt ý niệm đó cả.
- Phải, nhưng cả Vuyếcxt, cả Cnovxc và cả Pripaxov đều sẽ trả lời rằng ý thức về con người của ông là do sự giao tiếp của cảm giác, nó chỉ là sản phẩm của cảm giác. Thậm chí, Vuyếcxt còn nói dứt khoát là hễ không còn cảm giác thì cũng không còn ý thức về con người nữa.
- Ngược lại, tôi cho rằng... - Xergei Ivanovitr mở đầu.
Nhưng một lần nữa, Levin cảm thấy, giữa lúc hơi đụng đến vấn đề chủ yếu, họ lại né ra; chàng quyết định hỏi vị giáo sư:
- Vậy nếu cảm giác của tôi chìm đắm vào chốn hư vô, nếu thể xác tôi chết đi, thì không thể có cuộc sống nữa chăng? - chàng hỏi.
Giáo sư có vẻ phật ý và như bị tổn thương về tinh thần vì câu phá ngang đó: ông đưa mắt nhìn kẻ nói leo, hắn giống phu kéo thuyền hơn là triết gia, và lại nhìn Xergei Ivanovitr như để hỏi xem nên trả lời thế nào. Nhưng Xergei Ivanovitr tuyệt nhiên không nghiệt ngã như giáo sư: trong óc ông có đủ cả câu trả lời giáo sư, lẫn sự thông cảm với cái quan điểm đơn giản và tự nhiên dẫn đến câu hỏi đó; ông mỉm cười nói:
- Chúng ta không có đủ luận cứ, - vị giáo sư nhấn mạnh thêm và tiếp tục trình bày luận điểm của mình. - Không, - ông nói, - tôi cho rằng nếu cảm giác cũng dựa trên ấn tượng như Pripaxov đã nói thì chính vì thế mà ta càng phải phân biệt rõ ràng hai khái niệm ấy.
Levin không nghe nữa và chờ giáo sư đi khỏi.
Quyển
1
Chương 7
Chương 7
Khi giáo sư đã ra về, Xergei Ivanovitr quay lại phía cậu em.
- Tôi rất mừng thấy chú lên chơi. Chú ở đây có lâu không? Công việc trang trại ra sao?
Levin biết ông anh rất ít quan tâm đến chuyện trang trại và ông hỏi chỉ vì phép lịch sự, cho nên chàng cũng chỉ nói chuyện bán lúa mì và thu nợ thôi.
Levin có ý nói với anh về dự định thành lập gia đình và muốn hỏi ý kiến ông; thậm chí chàng còn quyết tâm thế nào cũng nói. Nhưng khi gặp anh, theo dõi cuộc nói chuyện của ông với giáo sư, rồi lại nghe ông hỏi thăm tình hình quản lý trang trại với cái giọng vô tình mà thành ra kẻ cả (của cải của mẹ để lại không chia và chính Levin quản lý toàn bộ), Levin cảm thấy không thể ngỏ cho anh biết dự định lấy vợ của mình được nữa. Chàng cảm thấy ông anh sẽ không nhìn nhận vấn đê như chàng mong muốn.
- Công việc của hội đồng tự trị chỗ chú ra sao? - Xergei Ivanovitr hỏi, ông vốn rất quan tâm đến những thí nghiệm về hành chính địa phương mà ông cho là rất quan trọng.
- Em hoàn toàn chẳng biết tí gì.
- Sao hả?... Chú là uỷ viên hội đồng kia mà?
- Không, em không phải là uỷ viên nữa; em xin từ chức rồi, - Levin đáp, - và em không đi họp nữa.
- Thật đáng tiếc! - Xergei Ivanovitr cau mày nói.
Để tự bào chữa, Levin bắt đầu kể những việc người ta thường làm trong các cuộc họp của hội đồng tự trị ở quận chàng.
- Bao giờ cũng vẫn vậy! - Xergei Ivanovitr ngắt lời chàng, - người Nga chúng ta bao giờ cũng thế! Có lẽ khả năng nhìn thấy khuyết điểm của bản thân mình là mặt tốt của tính tình chúng ta, nhưng chúng ta đã đi quá trớn: ta khoái trá với cái chất châm biếm mà bao giờ ta cũng có thừa. Tôi chỉ cần nói với chú điều này thôi: nếu người ta cho một dân tộc khác ở châu Âu, như người Đức, người Anh chẳng hạn, được hưởng cũng những quyền hạn đó, cũng những chế độ địa phương đó, họ sẽ biến những cái đó thành tự do, còn chúng ta thì chỉ biết đem ra chế giễu.
- Biết làm thế nào được? - Levin nói với vẻ mặt phạm lỗi. - Đó là lần thí nghiệm cuối cùng của em. Em đã cống hiến tất cả sức lực vào đó. Em không thể chịu được nữa, em là kẻ bất tài.
- Chú không phải là kẻ bất tài đâu, - Xergei Ivanovitr nói, - nhưng chú không nhìn vấn đề với một quan điểm đứng đắn.
- Có lẽ thế, - Levin đáp, giọng buồn buồn.
- Chú có biết là chú Nicolai nhà ta đã trở về chưa?
Nicolai là anh ruột Conxtantin Levin và em cùng mẹ khác cha với Xergei Ivanovitr. Đó là con người bỏ đi: anh ta phung phí phần lớn gia sản, đàn đúm với một bọn người kỳ lạ, tư cách chẳng ra gì và xích mích với anh em ruột.
- Anh bảo sao? - Levin hoảng hốt thốt lên. - Sao anh biết?
- Procov trông thấy chú ấy ngoài phố.
- Ở Moxcva này ấy à? Anh ấy ở đâu? Anh có biết không? - Levin đứng dậy như định đi ngay.
- Tôi tiếc là đã nói với chú điều đó, - Xergei Ivanovitr nói và lắc đầu khi thấy vẻ bối rối của cậu em út. - Tôi đã cho người đi hỏi xem chú ấy ở đâu và tôi đã nhờ gửi tới tận tay chú ấy lá hối phiếu nhà Trubin mà tôi trả tiền rồi. Đây là thư chú ấy trả lời.
Và Xergei Ivanovitr lấy ở dưới cái chặn giấy ra một lá thư, chìa cho em xem.
Levin đọc mảnh giấy đặc sịt một thứ chữ kỳ quặc và quen thuộc:
"Tôi xin mọi người để cho tôi được yên thân. Tôi chỉ yêu cầu các ông anh, ông em thân mến của tôi có thế. Nicolai Levin".
Đọc xong bức thư, Levin cứ đứng nguyên trước mặt Xergei Ivanovitr, đầu cúi gằm, mảnh giấy trong tay. Trong tâm hồn chàng, ý muốn tạm quên người anh khốn khổ kia đang vật lộn với ý thức biết như thế là sai.
- Rõ ràng nó muốn sỉ nhục tôi, - Xergei Ivanovitr nói, - nhưng nó không đủ sức làm thế, còn tôi, với tất cả tấm lòng, tôi muốn giúp nó, nhưng biết không thể được.
- Vâng, vâng, - Levin nhắc lại. - Em hiểu và em tán thành thái độ của anh đối với anh ấy; dù sao em cũng phải đi gặp anh ấy!
- Tuy tôi muốn can chú là không nên, nhưng nếu chú muốn, thì chú cứ việc đến, - Xergei Ivanovitr nói. - Về phần tôi, tôi chả lo: nó không làm anh em mình bất hòa được đâu; nhưng tôi khuyên chú tốt hơn hết là đừng đến đó. Không giúp gì được cho nó đâu. Nhưng thôi, chú muốn làm thế nào thì tuỳ.
- Có thể là không giúp nổi anh ấy, nhưng em cảm thấy, nhất là trong lúc này (nhưng điều đó lại là chuyện khác), em cảm thấy em sẽ không yên tâm nếu...
- Tôi không hiểu chú ra sao cả, - Xergei Ivanovitr nói, - tôi chỉ hiểu có một điều, - ông nói thêm: - đó là một bài học nhục nhằn. Từ khi chú Nicolai nhà ta thành con người như bây giờ, tôi trở nên rộng lượng hơn đối với cái mà người ta gọi là sự đê mạt... Chú có biết nó đã làm những gì không?
- Chao! Thật ghê gớm! Ghê gớm! - Levin nhắc đi nhắc lại.
Sau khi hỏi người hầu phòng của Xergei Ivanovitr địa chỉ anh trai, Levin định đến đấy ngay, nhưng chàng lại thay đổi ý kiến, quyết định hoãn cuộc đi thăm đến tối. Muốn cho tâm trí thanh thản, trước hết chàng cần giải quyết vấn đề đã khiến chàng tới Moxcva. Từ nhà ông anh, chàng lại thẳng toà án của Oblonxki và sau khi biết nơi gia đình Serbatxki thường tới vui chơi, chàng đi luôn đến chỗ người ta bảo có thể gặp được Kitti.
- Tôi rất mừng thấy chú lên chơi. Chú ở đây có lâu không? Công việc trang trại ra sao?
Levin biết ông anh rất ít quan tâm đến chuyện trang trại và ông hỏi chỉ vì phép lịch sự, cho nên chàng cũng chỉ nói chuyện bán lúa mì và thu nợ thôi.
Levin có ý nói với anh về dự định thành lập gia đình và muốn hỏi ý kiến ông; thậm chí chàng còn quyết tâm thế nào cũng nói. Nhưng khi gặp anh, theo dõi cuộc nói chuyện của ông với giáo sư, rồi lại nghe ông hỏi thăm tình hình quản lý trang trại với cái giọng vô tình mà thành ra kẻ cả (của cải của mẹ để lại không chia và chính Levin quản lý toàn bộ), Levin cảm thấy không thể ngỏ cho anh biết dự định lấy vợ của mình được nữa. Chàng cảm thấy ông anh sẽ không nhìn nhận vấn đê như chàng mong muốn.
- Công việc của hội đồng tự trị chỗ chú ra sao? - Xergei Ivanovitr hỏi, ông vốn rất quan tâm đến những thí nghiệm về hành chính địa phương mà ông cho là rất quan trọng.
- Em hoàn toàn chẳng biết tí gì.
- Sao hả?... Chú là uỷ viên hội đồng kia mà?
- Không, em không phải là uỷ viên nữa; em xin từ chức rồi, - Levin đáp, - và em không đi họp nữa.
- Thật đáng tiếc! - Xergei Ivanovitr cau mày nói.
Để tự bào chữa, Levin bắt đầu kể những việc người ta thường làm trong các cuộc họp của hội đồng tự trị ở quận chàng.
- Bao giờ cũng vẫn vậy! - Xergei Ivanovitr ngắt lời chàng, - người Nga chúng ta bao giờ cũng thế! Có lẽ khả năng nhìn thấy khuyết điểm của bản thân mình là mặt tốt của tính tình chúng ta, nhưng chúng ta đã đi quá trớn: ta khoái trá với cái chất châm biếm mà bao giờ ta cũng có thừa. Tôi chỉ cần nói với chú điều này thôi: nếu người ta cho một dân tộc khác ở châu Âu, như người Đức, người Anh chẳng hạn, được hưởng cũng những quyền hạn đó, cũng những chế độ địa phương đó, họ sẽ biến những cái đó thành tự do, còn chúng ta thì chỉ biết đem ra chế giễu.
- Biết làm thế nào được? - Levin nói với vẻ mặt phạm lỗi. - Đó là lần thí nghiệm cuối cùng của em. Em đã cống hiến tất cả sức lực vào đó. Em không thể chịu được nữa, em là kẻ bất tài.
- Chú không phải là kẻ bất tài đâu, - Xergei Ivanovitr nói, - nhưng chú không nhìn vấn đề với một quan điểm đứng đắn.
- Có lẽ thế, - Levin đáp, giọng buồn buồn.
- Chú có biết là chú Nicolai nhà ta đã trở về chưa?
Nicolai là anh ruột Conxtantin Levin và em cùng mẹ khác cha với Xergei Ivanovitr. Đó là con người bỏ đi: anh ta phung phí phần lớn gia sản, đàn đúm với một bọn người kỳ lạ, tư cách chẳng ra gì và xích mích với anh em ruột.
- Anh bảo sao? - Levin hoảng hốt thốt lên. - Sao anh biết?
- Procov trông thấy chú ấy ngoài phố.
- Ở Moxcva này ấy à? Anh ấy ở đâu? Anh có biết không? - Levin đứng dậy như định đi ngay.
- Tôi tiếc là đã nói với chú điều đó, - Xergei Ivanovitr nói và lắc đầu khi thấy vẻ bối rối của cậu em út. - Tôi đã cho người đi hỏi xem chú ấy ở đâu và tôi đã nhờ gửi tới tận tay chú ấy lá hối phiếu nhà Trubin mà tôi trả tiền rồi. Đây là thư chú ấy trả lời.
Và Xergei Ivanovitr lấy ở dưới cái chặn giấy ra một lá thư, chìa cho em xem.
Levin đọc mảnh giấy đặc sịt một thứ chữ kỳ quặc và quen thuộc:
"Tôi xin mọi người để cho tôi được yên thân. Tôi chỉ yêu cầu các ông anh, ông em thân mến của tôi có thế. Nicolai Levin".
Đọc xong bức thư, Levin cứ đứng nguyên trước mặt Xergei Ivanovitr, đầu cúi gằm, mảnh giấy trong tay. Trong tâm hồn chàng, ý muốn tạm quên người anh khốn khổ kia đang vật lộn với ý thức biết như thế là sai.
- Rõ ràng nó muốn sỉ nhục tôi, - Xergei Ivanovitr nói, - nhưng nó không đủ sức làm thế, còn tôi, với tất cả tấm lòng, tôi muốn giúp nó, nhưng biết không thể được.
- Vâng, vâng, - Levin nhắc lại. - Em hiểu và em tán thành thái độ của anh đối với anh ấy; dù sao em cũng phải đi gặp anh ấy!
- Tuy tôi muốn can chú là không nên, nhưng nếu chú muốn, thì chú cứ việc đến, - Xergei Ivanovitr nói. - Về phần tôi, tôi chả lo: nó không làm anh em mình bất hòa được đâu; nhưng tôi khuyên chú tốt hơn hết là đừng đến đó. Không giúp gì được cho nó đâu. Nhưng thôi, chú muốn làm thế nào thì tuỳ.
- Có thể là không giúp nổi anh ấy, nhưng em cảm thấy, nhất là trong lúc này (nhưng điều đó lại là chuyện khác), em cảm thấy em sẽ không yên tâm nếu...
- Tôi không hiểu chú ra sao cả, - Xergei Ivanovitr nói, - tôi chỉ hiểu có một điều, - ông nói thêm: - đó là một bài học nhục nhằn. Từ khi chú Nicolai nhà ta thành con người như bây giờ, tôi trở nên rộng lượng hơn đối với cái mà người ta gọi là sự đê mạt... Chú có biết nó đã làm những gì không?
- Chao! Thật ghê gớm! Ghê gớm! - Levin nhắc đi nhắc lại.
Sau khi hỏi người hầu phòng của Xergei Ivanovitr địa chỉ anh trai, Levin định đến đấy ngay, nhưng chàng lại thay đổi ý kiến, quyết định hoãn cuộc đi thăm đến tối. Muốn cho tâm trí thanh thản, trước hết chàng cần giải quyết vấn đề đã khiến chàng tới Moxcva. Từ nhà ông anh, chàng lại thẳng toà án của Oblonxki và sau khi biết nơi gia đình Serbatxki thường tới vui chơi, chàng đi luôn đến chỗ người ta bảo có thể gặp được Kitti.
Quyển
1
Chương 8
Chương 8
Vào lúc bốn giờ, Levin từ trên chiếc xe ngựa thuê bước xuống
cửa Vườn thú, tim đập thình thình, men theo con đường nhỏ dẫn tới những trái
núi Nga 1 và sân trượt băng; chàng chắc chắn sẽ gặp nàng ở đó, vì đã trông thấy
cỗ xe của gia đình Serbatxki đậu gần cửa.
Trời quang đãng và lạnh. ở gần cửa, xe ngựa bốn bánh, xe trượt tuyết, xe cho thuê, đỗ thành dãy dài cùng với hàng rào sen đầm. Một đám đông sang trọng chen chúc ngoài cửa và trên những con đường nhỏ lách giữa dãy nhà xinh xắn bằng gỗ chạm trổ công phu, ánh nắng lấp lánh điểm tô những chiếc mũ và những cây bạch dương già cong queo trong vườn, phủ khắp cành nhánh một lượt tuyết như mặc bộ áo lễ mới, trang trọng.
Vừa đi về phía sân trượt băng, Levin vừa tự nhủ: "Bình tĩnh, không được rối trí! Mày làm sao thế? Mày muốn gì nào? Câm ngay đi, đồ ngốc!", chàng thầm nhủ lòng. Nhưng chàng càng gắng trấn tĩnh bao nhiêu lại càng bồi hồi bấy nhiêu. Một người bạn gặp chàng, gọi, nhưng Levin cũng không nhận ra anh ta nữa. Chàng đến gần những trái núi Nga từ đó vẳng lên tiếng cót két của dây xích xe trượt tuyết đang lên xuống ầm ầm trong tiếng xôn xao nói cười vui vẻ. Chàng đi mấy bước nữa thì thấy sân trượt băng và lập tức nhận ra nàng giữa đám đông.
Bằng vào niềm vui và nỗi xao xuyến tràn ngập lòng mình, chàng biết nàng đang ở đó. Nàng đang đứng nói chuyện với một bà ở đầu kia sân băng; nhìn bề ngoài thì cả y phục lẫn thái độ nàng chẳng có gì đặc biệt; nhưng đối với Levin, việc nhận ra nàng giữa đám đông cũng dễ dàng như nhận ra một cây hoa phong lữ thảo giữa bụi tầm ma. Tất cả đều ngập trong hào quang của nàng. Nàng là một nụ cười chiếu sáng tất cả những gì bao quanh. "Liệu mình có dám bước xuống sân băng và lại gần nàng không đây?" - Levin nghĩ thầm. Chàng cảm thấy như nơi Kitti đang đứng là một thánh đường bất khả xâm nhập và chỉ một ly nữa thì quay gót trở lui vì quá sợ hãi. Chàng phải cố sức chế ngự bản thân và tự nhủ rằng xung quanh nàng có đủ hạng người, và cả chàng nữa, chàng cũng có thể được phép trượt băng chứ. Chàng bước xuống, tránh không nhìn Kitti như kiểu người ta tránh nhìn mặt trời; nhưng mặc dầu không nhìn, chàng vẫn cứ trông thấy nàng, như vẫn thấy mặt trời vậy.
Hôm ấy, vào giờ này, trên mặt băng tập hợp toàn những người cùng một giới, tất cả đều quen biết nhau. ở đó, có những nhà trượt băng cự phách đang trổ tài, những người mới học đang vịn ghế bành để tập, cử chỉ lóng ngóng, vụng về, có cả những chú bé và những ông già trượt băng với mục đích bảo vệ sức khỏe; đối với Levin, hình như tất cả đều là những kẻ tốt số, sung sướng, vì họ được ở gần bên Kitti.
Vậy mà những người trượt băng lại cứ vượt qua nàng, đuổi kịp nàng, nói chuyện với nàng thản nhiên như không, và cứ vui đùa như tuyệt nhiên chẳng lệ thuộc gì vào nàng, cứ việc tận hưởng thời tiết đẹp và mặt băng trong ngần!
Nicolai Serbatxki, anh họ Kitti, mặc áo chẽn ngắn và quần ống hẹp, đang ngồi trên ghế dài, chân đi giày trượt băng; ông ta trông thấy Levin và gọi to:
- Này! Nhà trượt băng giỏi nhất nước Nga! Anh đến đây lâu chưa?
Sân băng tuyệt lắm, đi giày trượt vào mau lên!
- Tôi không có giày trượt, - Levin đáp, sửng sốt thấy mình mạnh dạn và phóng túng đến thế ngay trước mặt Kitti và tuy không hề nhìn, chàng vẫn không để nàng lọt khỏi tầm mắt một giây. Chàng cảm thấy mặt trời đang đi về phía mình. Nàng đang ở một đầu sân băng và, đôi chân nhỏ lút trong giày cao cổ, nàng tiến về phía chàng, vẻ sợ sệt lộ rõ trên nét mặt. Một chàng trai trẻ vận y phục kiểu Nga, tay vung hết sức mạnh, mình rạp xuống mặt đất, vượt qua nàng.
Nàng không vững tin ở mình lắm nên đã rút hai tay ra khỏi chiếc bao tay nhỏ quàng vào cổ bằng một sợi dây và sẵn sàng bíu lấy bất cứ cái gì; mắt đăm đăm nhìn Levin, mà nàng đã nhận ra, nàng mỉm cười với chàng và đồng thời mỉm cười cả về vẻ sợ hãi của chàng. Khi đã vượt qua chỗ ngoặt, nàng mềm mại quay gót lấy đà và tới thẳng chỗ Serbatxki; nàng nắm lấy tay ông ta và mỉm cười với Levin, gật đầu chào. Nàng còn đẹp hơn chàng mường tượng nhiều.
Khi nghĩ đến Kitti, Levin có thể hình dung rõ toàn thân nàng, đặc biệt là mái tóc vàng xinh xắn với vẻ trong trắng trẻ thơ và hồn hậu, mái tóc vô cùng thanh lịch trên đôi vai cân đối. Chính vẻ trẻ thơ ấy hòa với cái đẹp mỏng manh của thân hình đàn bà đã tạo nên sức quyến rũ của Kitti: Levin rất thích điều đó. Nhưng cái điều luôn luôn khiến chàng ngạc nhiên, gần như sửng sốt, là vẻ nhìn hiền dịu, bình thản, trung thực, và nhất là nụ cười của nàng, bao giờ nó cũng đưa Levin vào một thế giới huyền diệu trong đó chàng cảm thấy lòng mình xúc động và dịu lại, y hệt lúc chàng nhớ đến những ngày thơ ấu.
- Anh ra đã lâu chưa? - Kitti nói, chìa tay cho chàng. - Cảm ơn anh, - nàng nói thêm, khi chàng nhặt chiếc khăn tay từ bao tay nàng rơi xuống.
- Tôi ấy à? Không, tôi mới ra hôm qua, hay nói đúng hơn, hôm nay, - Levin đáp, trong lúc bối rối, không hiểu ra ngay câu hỏi. - Tôi tính đến thăm cô, - chàng nói, và chợt nhớ chủ đích của việc muốn gặp nàng, chàng đâm lúng túng và đỏ mặt. - Tôi không biết là cô vẫn trượt băng mà lại trượt giỏi đến thế.
Nàng chăm chú nhìn chàng, như muốn tìm hiểu nguyên nhân sự bối rối của chàng.
- Lời khen của anh thật quý hoá. ở đây, mọi người vẫn truyền tụng anh là nhà trượt băng vô song, - nàng nói, bàn tay nhỏ nhắn đeo găng đen phủi những nhánh băng nhọn đọng trên bao tay.
- Vâng, trước kia tôi mê trượt băng lắm; tôi muốn đạt tới trình độ hoàn hảo.
- Hình như anh làm việc gì cũng say mê, - nàng mỉm cười nói. - Em ao ước được xem anh trượt băng quá. Anh đi giày trượt vào và ta cùng trượt với nhau đi. "Cùng trượt với nhau! Có thể như thế được chăng?" - Levin vừa nghĩ vừa nhìn nàng.
- Tôi xong ngay đây, - chàng nói.
Và vội vàng ra đi giày trượt băng.
- Thưa ngài, lâu lắm không thấy ngài, - người cho thuê giày trượt nói với Levin, vừa giữ chân chàng để vặn cái ốc ở gót giày. - Từ khi vắng ngài, các vị kia, không ai trượt cừ cả. Thế này đã được chưa ạ? - bác ta vừa hỏi vừa thắt chặt dây da.
- Được rồi, được rồi, bác làm nhanh lên cho, -Levin đáp, gắng kìm nụ cười sung sướng bất giác vẫn ngời lên trên mặt chàng. "Phải, chàng nghĩ thầm, cuộc đời là thế đó, hạnh phúc là thế đó! cùng với nhau, nàng bảo thế, ta cùng trượt với nhau đi. Mình nói luôn với nàng bây giờ chăng? Nhưng chính nói ra bây giờ mới đáng sợ vì lúc này mình đang sung sướng, ít ra cũng sung sướng trong hy vọng...
Còn như... Nhưng cần phải thế! Cần phải thế! Không được yếu đuối!".
Levin đứng lên, cởi áo ngoài ra, sau khi đi thử trên mặt băng gồ ghề quanh nhà bát giác cho thuê giày trượt, chàng lao mình trên sân băng nhẵn lì và lướt đi không chút khó nhọc, dường như việc tăng, giảm tốc độ hoặc điều khiển hướng đi hoàn toàn là do ý mình. Chàng rụt rè đến bên Kitti, nhưng một lần nữa, nụ cười của nàng lại làm chàng vững tâm.
Nàng chìa tay cho chàng và hai người cùng lao đi, vai kề vai, dồn bước gấp hơn: hai người càng trượt nhanh, nàng càng nắm chặt lấy tay chàng.
- Cùng trượt với anh, em sẽ học mau hơn; không hiểu sao, em thấy tin ở anh lắm, - nàng nói.
- Tôi cũng thế, tôi cũng tin ở tôi, khi cô dựa vào tôi, - chàng nói; nhưng lập tức, chàng hốt hoảng vì điều mình nói và đỏ mặt lên. Và, quả thực, chàng vừa thốt ra câu đó, mặt Kitti đã mất hết vẻ thanh thản, như thể mặt trời lẩn vào sau đám mây, và Levin nhận ra cái nét quen thuộc đối với chàng, nó chứng tỏ nàng đang suy nghĩ mông lung lắm: một nếp nhăn làm cau vầng trán đang bằng phẳng của nàng.
- Cô phật ý ư? à mà tôi chả có quyền hỏi cô vậy, - chàng vội vàng nói.
- Tại sao lại thế?... Không, có gì mà phật ý, - nàng lạnh lùng trả lời; và liền sau đó, nàng nói tiếp: - anh chưa gặp cô Linong à?
- Chưa.
- Anh hãy đến gặp cô ấy đi, cô ấy mến anh lắm đấy.
"Có chuyện gì vậy? Mình đã xúc phạm đến nàng chăng? Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp tôi!", Levin nghĩ thầm và hấp tấp đi về phía bà già người Pháp búp tóc bạc trắng đang ngồi trên một chiếc ghế dài. Bà nhe cả hàm răng giả ra cười, chào đón chàng như một người bạn cũ.
- Phải, người ta ngày một lớn khôn? - bà ta nói với chàng, vừa đưa mắt chỉ Kitti... - và mỗi tuổi một già. Gấu con 2 đang lớn bổng lên! - bà già người Pháp nói tiếp, nhắc lại câu Levin gọi đùa ba cô gái là ba chú gấu con, trong chuyện cổ tích Anh.
- Cậu có nhớ dạo ấy cậu vẫn gọi họ như vậy không?
Chàng đã quên tiệt, vậy mà mười năm rồi, bà lão vẫn cười về câu nói đùa đó và lấy làm khoái trá.
- Thôi, đi trượt băng đi. Cô Kitti nhà ta trượt đã khá rồi đấy, có phải không?
Khi Levin theo kịp Kitti, nàng không còn giữ vẻ nghiêm nghị nữa; cặp mắt nàng lại chân thực và trìu mến, nhưng trong sự hòa nhã đó Levin thấy như có một cố gắng làm ra bình thản. Điều đó khiến chàng buồn buồn. Sau khi trao đổi vài câu về bà gia sư già và tính nết kỳ quặc của bà ta, nàng bèn hỏi về đời sống của chàng.
- Anh ở nông thôn mà không buồn à? - nàng hỏi.
- Ồ! Không, tôi rất bận, - chàng nói và cảm thấy đang bị nàng gò vào cái giọng thản nhiên mà có lẽ chàng sẽ không còn đủ sức từ bỏ nữa, cũng như hồi đầu mùa đông này.
- Anh còn ở lại lâu nữa không? - Kitti hỏi.
- Tôi không biết, - chàng đáp và không hề nghĩ đến điều mình đang nói. Nhưng chàng tự nhủ nếu cứ chịu bó mình với giọng bè bạn bình thản đó, chàng ắt sẽ phải trở về không nên công chuyện gì và quyết định phải vùng lên.
- Thế nào, anh không biết à?
- Không. Cái đó còn tuỳ ở cô, - chàng nói và lập tức lại hoảng lên vì câu nói của chính mình.
Nàng có nghe thấy câu đó không, hay là nàng không muốn nghe?
Nàng bước trật một cái, suýt ngã và vội vã lánh xa Levin. Nàng lại gần cô Linong, nói vài câu với bà và đi về phía nhà ván, chỗ các bà đang tháo giày trượt.
"Lạy Chúa! Tôi đã làm gì vậy? Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp, soi sáng cho tôi!". Levin cầu nguyện và cảm thấy phải vùng vẫy thật mạnh, chàng lượn hết bên này sang bên kia sân băng thành những vòng tròn tiếp giáp nhau, lúc bên trong, lúc bên ngoài.
Giữa lúc đó, một thanh niên, vô địch mới về môn trượt băng, ra khỏi quán cà phê, chân đi giày trượt, mồm ngậm thuốc lá, chạy về phía cầu thang và bắt đầu nhảy xầm xầm từng bước xuống các bậc.
Thoáng một cái, anh ta đã ở chân cầu thang và tay vẫn để nguyên như cũ, anh ta lao ngay mình trên mặt băng.
- A! Một ngón mới! - Levin tự bảo và lập tức chàng leo lên cầu thang để bắt chước tay kia.
- Khéo không ngã chết đấy, phải quen mới được! - Nicolai Serbatxki quát to bảo chàng.
Lên tới trên, Levin đi thử vài bước trước khi vào cầu thang và bắt đầu xuống, dùng cánh tay giữ thăng bằng trong tư thế bất bình thường đó. ở bậc cuối cùng, chàng bị vướng chân, nhưng chỉ hơi chạm tay xuống mặt băng, chàng cố sức dướn mình dậy và lại cười vang tiếp tục lao đi.
"Một chàng trai cừ thật!", Kitti nghĩ thầm, lúc đó nàng vừa ra khỏi căn nhà ván cùng cô Linong và nhìn chàng với nụ cười bình thản, trìu mến, như nhìn một người anh rất thân yêu. "Có thể là mình đã có lỗi, mình làm một điều gì không tốt chăng? Người ta bảo thế là điệu. Mình biết người mình yêu không phải là anh ta: nhưng dù sao ở cạnh anh ấy, mình cũng thấy vui thích, anh ấy dễ thương quá! Tại sao anh ấy lại nói thế nhỉ? ...", nàng ngẫm nghĩ.
Nhìn thấy Kitti đi khỏi và mẹ nàng đến tìm nàng, Levin dừng lại suy nghĩ, mặt còn đỏ bừng sau cuộc tập dượt mãnh liệt. Chàng tháo giày trượt băng và đuổi kịp hai mẹ con ở cổng Vườn thú.
- Tốt rất hài lòng được tiếp cậu, - quận công phu nhân nói. - Chúng tôi vẫn tiếp khách vào thứ năm đấy.
- Tức là hôm nay ạ?
- Chúng tôi sẽ rất vui mừng được tiếp cậu, - quận công phu nhân khô khan nói.
Cái giọng khô khan đó khiến Kitti chạnh lòng và nàng thấy cần làm dịu bớt thái độ lạnh lùng của mẹ. Nàng quay về phía Levin và mỉm cười chào:
- Tạm biệt.
Giữa lúc đó, Xtepan Arcaditr, mũ đội lệch một bên, vẻ mặt phấn khởi và cặp mắt long lanh, đi vào khu vườn với tư thế kẻ chiến thắng hoan hỉ. Nhưng khi gặp bà nhạc, ông liền tạo bộ mặt buồn bã và phạm lỗi để trả lời câu hỏi của bà về sức khỏe Doli. Sau khi nhỏ nhẻ nói chuyện với quận công phu nhân một lát, vẻ ủ rũ, ông lại dướn người lên và khoác tay Levin.
- Thế nào, ta đi chứ? - ông hỏi Levin. - Lúc nào mình cũng nghĩ đến cậu và mình rất sung sướng thấy cậu tới đây, - ông nói với một cái nhìn đầy ý nghĩa.
- Nào đi, - Levin đáp, lòng rộn ràng sung sướng, vẫn giữ nguyên trong trí nhớ lời "tạm biệt" và nụ cười kèm theo.
- Đến khách sạn "Anh Quốc" hay "Lầu ẩn Dật"?
- Mình thì đâu cũng thế.
- Vậy thì khách sạn "Anh Quốc", - Xtepan Arcaditr nói, ông chọn hiệu ăn này vì ông nợ ở đây nhiều hơn ở "Lầu ẩn Dật" và do đó, ông thấy nếu mình lờ nó đi thì kể cũng khiếm nhã. - Cậu có xe ngựa đấy không? Tốt lắm, vì mình cho đánh xe về rồi.
Suốt dọc đường, đôi bạn ngồi yên lặng, Levin cứ tự hỏi vẻ mặt thay đổi của Kitti có nghĩa gì; khi thì chàng tự thuyết phục là còn có thể hy vọng, khi lại đâm nản và thấy rõ có họa là điên, mới ôm khư khư lấy mối hy vọng. Tuy nhiên, chàng vẫn cảm thấy như trở thành một người khác hẳn, từ khi người ta mỉm cười và chào: "tạm biệt".
Xtepan Arcaditr thì ngồi nghĩ đến thực đơn bữa ăn.
- Mình chắc cậu thích món cá chim chứ? - ông bảo Levin khi tới nơi.
- Cái gì kia? - Levin hỏi, - cá chim ư? ừ, mình mê món cá chim lắm.
Chú thích:
1. Một trò chơi của người Nga. Những người tham gia ngồi xe trượt và trượt trên những ụ đất nhỏ nối tiếp nhau.
2. Tini bear (tiếng Anh trong nguyên bản).
Trời quang đãng và lạnh. ở gần cửa, xe ngựa bốn bánh, xe trượt tuyết, xe cho thuê, đỗ thành dãy dài cùng với hàng rào sen đầm. Một đám đông sang trọng chen chúc ngoài cửa và trên những con đường nhỏ lách giữa dãy nhà xinh xắn bằng gỗ chạm trổ công phu, ánh nắng lấp lánh điểm tô những chiếc mũ và những cây bạch dương già cong queo trong vườn, phủ khắp cành nhánh một lượt tuyết như mặc bộ áo lễ mới, trang trọng.
Vừa đi về phía sân trượt băng, Levin vừa tự nhủ: "Bình tĩnh, không được rối trí! Mày làm sao thế? Mày muốn gì nào? Câm ngay đi, đồ ngốc!", chàng thầm nhủ lòng. Nhưng chàng càng gắng trấn tĩnh bao nhiêu lại càng bồi hồi bấy nhiêu. Một người bạn gặp chàng, gọi, nhưng Levin cũng không nhận ra anh ta nữa. Chàng đến gần những trái núi Nga từ đó vẳng lên tiếng cót két của dây xích xe trượt tuyết đang lên xuống ầm ầm trong tiếng xôn xao nói cười vui vẻ. Chàng đi mấy bước nữa thì thấy sân trượt băng và lập tức nhận ra nàng giữa đám đông.
Bằng vào niềm vui và nỗi xao xuyến tràn ngập lòng mình, chàng biết nàng đang ở đó. Nàng đang đứng nói chuyện với một bà ở đầu kia sân băng; nhìn bề ngoài thì cả y phục lẫn thái độ nàng chẳng có gì đặc biệt; nhưng đối với Levin, việc nhận ra nàng giữa đám đông cũng dễ dàng như nhận ra một cây hoa phong lữ thảo giữa bụi tầm ma. Tất cả đều ngập trong hào quang của nàng. Nàng là một nụ cười chiếu sáng tất cả những gì bao quanh. "Liệu mình có dám bước xuống sân băng và lại gần nàng không đây?" - Levin nghĩ thầm. Chàng cảm thấy như nơi Kitti đang đứng là một thánh đường bất khả xâm nhập và chỉ một ly nữa thì quay gót trở lui vì quá sợ hãi. Chàng phải cố sức chế ngự bản thân và tự nhủ rằng xung quanh nàng có đủ hạng người, và cả chàng nữa, chàng cũng có thể được phép trượt băng chứ. Chàng bước xuống, tránh không nhìn Kitti như kiểu người ta tránh nhìn mặt trời; nhưng mặc dầu không nhìn, chàng vẫn cứ trông thấy nàng, như vẫn thấy mặt trời vậy.
Hôm ấy, vào giờ này, trên mặt băng tập hợp toàn những người cùng một giới, tất cả đều quen biết nhau. ở đó, có những nhà trượt băng cự phách đang trổ tài, những người mới học đang vịn ghế bành để tập, cử chỉ lóng ngóng, vụng về, có cả những chú bé và những ông già trượt băng với mục đích bảo vệ sức khỏe; đối với Levin, hình như tất cả đều là những kẻ tốt số, sung sướng, vì họ được ở gần bên Kitti.
Vậy mà những người trượt băng lại cứ vượt qua nàng, đuổi kịp nàng, nói chuyện với nàng thản nhiên như không, và cứ vui đùa như tuyệt nhiên chẳng lệ thuộc gì vào nàng, cứ việc tận hưởng thời tiết đẹp và mặt băng trong ngần!
Nicolai Serbatxki, anh họ Kitti, mặc áo chẽn ngắn và quần ống hẹp, đang ngồi trên ghế dài, chân đi giày trượt băng; ông ta trông thấy Levin và gọi to:
- Này! Nhà trượt băng giỏi nhất nước Nga! Anh đến đây lâu chưa?
Sân băng tuyệt lắm, đi giày trượt vào mau lên!
- Tôi không có giày trượt, - Levin đáp, sửng sốt thấy mình mạnh dạn và phóng túng đến thế ngay trước mặt Kitti và tuy không hề nhìn, chàng vẫn không để nàng lọt khỏi tầm mắt một giây. Chàng cảm thấy mặt trời đang đi về phía mình. Nàng đang ở một đầu sân băng và, đôi chân nhỏ lút trong giày cao cổ, nàng tiến về phía chàng, vẻ sợ sệt lộ rõ trên nét mặt. Một chàng trai trẻ vận y phục kiểu Nga, tay vung hết sức mạnh, mình rạp xuống mặt đất, vượt qua nàng.
Nàng không vững tin ở mình lắm nên đã rút hai tay ra khỏi chiếc bao tay nhỏ quàng vào cổ bằng một sợi dây và sẵn sàng bíu lấy bất cứ cái gì; mắt đăm đăm nhìn Levin, mà nàng đã nhận ra, nàng mỉm cười với chàng và đồng thời mỉm cười cả về vẻ sợ hãi của chàng. Khi đã vượt qua chỗ ngoặt, nàng mềm mại quay gót lấy đà và tới thẳng chỗ Serbatxki; nàng nắm lấy tay ông ta và mỉm cười với Levin, gật đầu chào. Nàng còn đẹp hơn chàng mường tượng nhiều.
Khi nghĩ đến Kitti, Levin có thể hình dung rõ toàn thân nàng, đặc biệt là mái tóc vàng xinh xắn với vẻ trong trắng trẻ thơ và hồn hậu, mái tóc vô cùng thanh lịch trên đôi vai cân đối. Chính vẻ trẻ thơ ấy hòa với cái đẹp mỏng manh của thân hình đàn bà đã tạo nên sức quyến rũ của Kitti: Levin rất thích điều đó. Nhưng cái điều luôn luôn khiến chàng ngạc nhiên, gần như sửng sốt, là vẻ nhìn hiền dịu, bình thản, trung thực, và nhất là nụ cười của nàng, bao giờ nó cũng đưa Levin vào một thế giới huyền diệu trong đó chàng cảm thấy lòng mình xúc động và dịu lại, y hệt lúc chàng nhớ đến những ngày thơ ấu.
- Anh ra đã lâu chưa? - Kitti nói, chìa tay cho chàng. - Cảm ơn anh, - nàng nói thêm, khi chàng nhặt chiếc khăn tay từ bao tay nàng rơi xuống.
- Tôi ấy à? Không, tôi mới ra hôm qua, hay nói đúng hơn, hôm nay, - Levin đáp, trong lúc bối rối, không hiểu ra ngay câu hỏi. - Tôi tính đến thăm cô, - chàng nói, và chợt nhớ chủ đích của việc muốn gặp nàng, chàng đâm lúng túng và đỏ mặt. - Tôi không biết là cô vẫn trượt băng mà lại trượt giỏi đến thế.
Nàng chăm chú nhìn chàng, như muốn tìm hiểu nguyên nhân sự bối rối của chàng.
- Lời khen của anh thật quý hoá. ở đây, mọi người vẫn truyền tụng anh là nhà trượt băng vô song, - nàng nói, bàn tay nhỏ nhắn đeo găng đen phủi những nhánh băng nhọn đọng trên bao tay.
- Vâng, trước kia tôi mê trượt băng lắm; tôi muốn đạt tới trình độ hoàn hảo.
- Hình như anh làm việc gì cũng say mê, - nàng mỉm cười nói. - Em ao ước được xem anh trượt băng quá. Anh đi giày trượt vào và ta cùng trượt với nhau đi. "Cùng trượt với nhau! Có thể như thế được chăng?" - Levin vừa nghĩ vừa nhìn nàng.
- Tôi xong ngay đây, - chàng nói.
Và vội vàng ra đi giày trượt băng.
- Thưa ngài, lâu lắm không thấy ngài, - người cho thuê giày trượt nói với Levin, vừa giữ chân chàng để vặn cái ốc ở gót giày. - Từ khi vắng ngài, các vị kia, không ai trượt cừ cả. Thế này đã được chưa ạ? - bác ta vừa hỏi vừa thắt chặt dây da.
- Được rồi, được rồi, bác làm nhanh lên cho, -Levin đáp, gắng kìm nụ cười sung sướng bất giác vẫn ngời lên trên mặt chàng. "Phải, chàng nghĩ thầm, cuộc đời là thế đó, hạnh phúc là thế đó! cùng với nhau, nàng bảo thế, ta cùng trượt với nhau đi. Mình nói luôn với nàng bây giờ chăng? Nhưng chính nói ra bây giờ mới đáng sợ vì lúc này mình đang sung sướng, ít ra cũng sung sướng trong hy vọng...
Còn như... Nhưng cần phải thế! Cần phải thế! Không được yếu đuối!".
Levin đứng lên, cởi áo ngoài ra, sau khi đi thử trên mặt băng gồ ghề quanh nhà bát giác cho thuê giày trượt, chàng lao mình trên sân băng nhẵn lì và lướt đi không chút khó nhọc, dường như việc tăng, giảm tốc độ hoặc điều khiển hướng đi hoàn toàn là do ý mình. Chàng rụt rè đến bên Kitti, nhưng một lần nữa, nụ cười của nàng lại làm chàng vững tâm.
Nàng chìa tay cho chàng và hai người cùng lao đi, vai kề vai, dồn bước gấp hơn: hai người càng trượt nhanh, nàng càng nắm chặt lấy tay chàng.
- Cùng trượt với anh, em sẽ học mau hơn; không hiểu sao, em thấy tin ở anh lắm, - nàng nói.
- Tôi cũng thế, tôi cũng tin ở tôi, khi cô dựa vào tôi, - chàng nói; nhưng lập tức, chàng hốt hoảng vì điều mình nói và đỏ mặt lên. Và, quả thực, chàng vừa thốt ra câu đó, mặt Kitti đã mất hết vẻ thanh thản, như thể mặt trời lẩn vào sau đám mây, và Levin nhận ra cái nét quen thuộc đối với chàng, nó chứng tỏ nàng đang suy nghĩ mông lung lắm: một nếp nhăn làm cau vầng trán đang bằng phẳng của nàng.
- Cô phật ý ư? à mà tôi chả có quyền hỏi cô vậy, - chàng vội vàng nói.
- Tại sao lại thế?... Không, có gì mà phật ý, - nàng lạnh lùng trả lời; và liền sau đó, nàng nói tiếp: - anh chưa gặp cô Linong à?
- Chưa.
- Anh hãy đến gặp cô ấy đi, cô ấy mến anh lắm đấy.
"Có chuyện gì vậy? Mình đã xúc phạm đến nàng chăng? Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp tôi!", Levin nghĩ thầm và hấp tấp đi về phía bà già người Pháp búp tóc bạc trắng đang ngồi trên một chiếc ghế dài. Bà nhe cả hàm răng giả ra cười, chào đón chàng như một người bạn cũ.
- Phải, người ta ngày một lớn khôn? - bà ta nói với chàng, vừa đưa mắt chỉ Kitti... - và mỗi tuổi một già. Gấu con 2 đang lớn bổng lên! - bà già người Pháp nói tiếp, nhắc lại câu Levin gọi đùa ba cô gái là ba chú gấu con, trong chuyện cổ tích Anh.
- Cậu có nhớ dạo ấy cậu vẫn gọi họ như vậy không?
Chàng đã quên tiệt, vậy mà mười năm rồi, bà lão vẫn cười về câu nói đùa đó và lấy làm khoái trá.
- Thôi, đi trượt băng đi. Cô Kitti nhà ta trượt đã khá rồi đấy, có phải không?
Khi Levin theo kịp Kitti, nàng không còn giữ vẻ nghiêm nghị nữa; cặp mắt nàng lại chân thực và trìu mến, nhưng trong sự hòa nhã đó Levin thấy như có một cố gắng làm ra bình thản. Điều đó khiến chàng buồn buồn. Sau khi trao đổi vài câu về bà gia sư già và tính nết kỳ quặc của bà ta, nàng bèn hỏi về đời sống của chàng.
- Anh ở nông thôn mà không buồn à? - nàng hỏi.
- Ồ! Không, tôi rất bận, - chàng nói và cảm thấy đang bị nàng gò vào cái giọng thản nhiên mà có lẽ chàng sẽ không còn đủ sức từ bỏ nữa, cũng như hồi đầu mùa đông này.
- Anh còn ở lại lâu nữa không? - Kitti hỏi.
- Tôi không biết, - chàng đáp và không hề nghĩ đến điều mình đang nói. Nhưng chàng tự nhủ nếu cứ chịu bó mình với giọng bè bạn bình thản đó, chàng ắt sẽ phải trở về không nên công chuyện gì và quyết định phải vùng lên.
- Thế nào, anh không biết à?
- Không. Cái đó còn tuỳ ở cô, - chàng nói và lập tức lại hoảng lên vì câu nói của chính mình.
Nàng có nghe thấy câu đó không, hay là nàng không muốn nghe?
Nàng bước trật một cái, suýt ngã và vội vã lánh xa Levin. Nàng lại gần cô Linong, nói vài câu với bà và đi về phía nhà ván, chỗ các bà đang tháo giày trượt.
"Lạy Chúa! Tôi đã làm gì vậy? Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp, soi sáng cho tôi!". Levin cầu nguyện và cảm thấy phải vùng vẫy thật mạnh, chàng lượn hết bên này sang bên kia sân băng thành những vòng tròn tiếp giáp nhau, lúc bên trong, lúc bên ngoài.
Giữa lúc đó, một thanh niên, vô địch mới về môn trượt băng, ra khỏi quán cà phê, chân đi giày trượt, mồm ngậm thuốc lá, chạy về phía cầu thang và bắt đầu nhảy xầm xầm từng bước xuống các bậc.
Thoáng một cái, anh ta đã ở chân cầu thang và tay vẫn để nguyên như cũ, anh ta lao ngay mình trên mặt băng.
- A! Một ngón mới! - Levin tự bảo và lập tức chàng leo lên cầu thang để bắt chước tay kia.
- Khéo không ngã chết đấy, phải quen mới được! - Nicolai Serbatxki quát to bảo chàng.
Lên tới trên, Levin đi thử vài bước trước khi vào cầu thang và bắt đầu xuống, dùng cánh tay giữ thăng bằng trong tư thế bất bình thường đó. ở bậc cuối cùng, chàng bị vướng chân, nhưng chỉ hơi chạm tay xuống mặt băng, chàng cố sức dướn mình dậy và lại cười vang tiếp tục lao đi.
"Một chàng trai cừ thật!", Kitti nghĩ thầm, lúc đó nàng vừa ra khỏi căn nhà ván cùng cô Linong và nhìn chàng với nụ cười bình thản, trìu mến, như nhìn một người anh rất thân yêu. "Có thể là mình đã có lỗi, mình làm một điều gì không tốt chăng? Người ta bảo thế là điệu. Mình biết người mình yêu không phải là anh ta: nhưng dù sao ở cạnh anh ấy, mình cũng thấy vui thích, anh ấy dễ thương quá! Tại sao anh ấy lại nói thế nhỉ? ...", nàng ngẫm nghĩ.
Nhìn thấy Kitti đi khỏi và mẹ nàng đến tìm nàng, Levin dừng lại suy nghĩ, mặt còn đỏ bừng sau cuộc tập dượt mãnh liệt. Chàng tháo giày trượt băng và đuổi kịp hai mẹ con ở cổng Vườn thú.
- Tốt rất hài lòng được tiếp cậu, - quận công phu nhân nói. - Chúng tôi vẫn tiếp khách vào thứ năm đấy.
- Tức là hôm nay ạ?
- Chúng tôi sẽ rất vui mừng được tiếp cậu, - quận công phu nhân khô khan nói.
Cái giọng khô khan đó khiến Kitti chạnh lòng và nàng thấy cần làm dịu bớt thái độ lạnh lùng của mẹ. Nàng quay về phía Levin và mỉm cười chào:
- Tạm biệt.
Giữa lúc đó, Xtepan Arcaditr, mũ đội lệch một bên, vẻ mặt phấn khởi và cặp mắt long lanh, đi vào khu vườn với tư thế kẻ chiến thắng hoan hỉ. Nhưng khi gặp bà nhạc, ông liền tạo bộ mặt buồn bã và phạm lỗi để trả lời câu hỏi của bà về sức khỏe Doli. Sau khi nhỏ nhẻ nói chuyện với quận công phu nhân một lát, vẻ ủ rũ, ông lại dướn người lên và khoác tay Levin.
- Thế nào, ta đi chứ? - ông hỏi Levin. - Lúc nào mình cũng nghĩ đến cậu và mình rất sung sướng thấy cậu tới đây, - ông nói với một cái nhìn đầy ý nghĩa.
- Nào đi, - Levin đáp, lòng rộn ràng sung sướng, vẫn giữ nguyên trong trí nhớ lời "tạm biệt" và nụ cười kèm theo.
- Đến khách sạn "Anh Quốc" hay "Lầu ẩn Dật"?
- Mình thì đâu cũng thế.
- Vậy thì khách sạn "Anh Quốc", - Xtepan Arcaditr nói, ông chọn hiệu ăn này vì ông nợ ở đây nhiều hơn ở "Lầu ẩn Dật" và do đó, ông thấy nếu mình lờ nó đi thì kể cũng khiếm nhã. - Cậu có xe ngựa đấy không? Tốt lắm, vì mình cho đánh xe về rồi.
Suốt dọc đường, đôi bạn ngồi yên lặng, Levin cứ tự hỏi vẻ mặt thay đổi của Kitti có nghĩa gì; khi thì chàng tự thuyết phục là còn có thể hy vọng, khi lại đâm nản và thấy rõ có họa là điên, mới ôm khư khư lấy mối hy vọng. Tuy nhiên, chàng vẫn cảm thấy như trở thành một người khác hẳn, từ khi người ta mỉm cười và chào: "tạm biệt".
Xtepan Arcaditr thì ngồi nghĩ đến thực đơn bữa ăn.
- Mình chắc cậu thích món cá chim chứ? - ông bảo Levin khi tới nơi.
- Cái gì kia? - Levin hỏi, - cá chim ư? ừ, mình mê món cá chim lắm.
Chú thích:
1. Một trò chơi của người Nga. Những người tham gia ngồi xe trượt và trượt trên những ụ đất nhỏ nối tiếp nhau.
2. Tini bear (tiếng Anh trong nguyên bản).
Quyển
1
Chương 9
Chương 9
Khi Levin bước vào tiệm ăn cùng Oblonxki, chàng không thể
không nhận thấy một vẻ đặc biệt, một vẻ rạng rỡ cố nén trên mặt và khắp toàn
thân Xtepan Arcaditr. Oblonxki cởi áo ngoài, và mũ đội lệch sang bên, đi thẳng
vào phòng ăn, sai bảo những gã Tacta quần áo chỉnh tề, khăn vắt cánh tay, đang
tất tả xung quanh ông. Ông quay bên trái, bên phải, chào người quen gặp ở lối
đi, và, cũng như ở mọi nơi khác, những người này đều tỏ ra mừng rỡ khi thấy
ông.
Oblonxki đến quầy rượu, uống một cốc vôtka với ít cá nướng và nói vài câu với người đàn bà Pháp mặt bự phấn, toàn thân đầy dải băng, đăng ten, búp tóc giả, ngồi sau quầy, làm mụ ta rũ ra cười thích chí.
Còn Levin, chàng từ chối không uống, vì thấy ngứa mắt trước cái mụ người Pháp dường như làm toàn bằng những mớ tóc giả, phấn bột gạo và dấm xoa mặt 1. Chàng vội lảng xa mụ như lảng xa một nơi xú uế.
Tâm hồn chàng đang tràn ngập hình ảnh Kitti, và trong mắt chàng ngời lên nụ cười đắc thắng và hạnh phúc.
- Xin mời quan lớn ngồi đây ạ, chỗ này sẽ không có ai làm rầy quan lớn cả, - một lão già người Tacta nói, lão ta tóc vàng, rất khúm núm, vạt áo xoè ra trên cái mông bè bè. - Xin mời quan lớn, - lão nói với Levin cũng rất lễ độ, để tỏ lòng kính trọng Xtepan Arcaditr.
Trong nháy mắt, lão đã trải khăn bàn sạch lên trên chiếc bàn tròn có phủ sẵn khăn, kê ở dưới cây đèn vách bằng đồng đen; lão kéo mấy chiếc ghế nhung lại gần và đứng cạnh Xtepan Arcaditr, tay cầm bảng món ăn và cắp chiếc khăn, chờ sai bảo.
- Nếu các quan cần phòng riêng thì hoàng thân Golitxun và một phu nhân sắp sửa ra khỏi một phòng trong chốc lát đấy ạ. Chúng tôi đã nhận được sò tươi.
- À phải! Sò!
Xtepan Arcaditr chợt có vẻ suy nghĩ.
- Hay ta thay đổi thực đơn chăng, Levin? - ông vừa nói vừa đặt ngón tay lên bảng món ăn. Và mặt ông lộ vẻ phân vân nghiêm trọng.
- Sò có ngon không? Liệu hồn nhà anh đấy!
- Bẩm quan lớn, sò Flenxburg ạ. Chúng tôi không có sò Ôxtăng.
- Sò Flenxburg cũng được. ít ra cũng còn tươi đấy chứ?
- Chúng tôi mới nhận được hôm qua ạ.
- Cậu thấy thế nào? Ta bắt đầu bằng món sò chăng? Hay là ta thay đổi tất cả thực đơn?
- Thế nào cũng được. Mình thì mình thích xúp bắp cải và kasa 2 hơn. Những món đó không thấy có ở đây.
- Quan lớn muốn dùng xúp nấu à la riousse 3 ạ? - lão già Tacta nói, cúi xuống Levin như vú nuôi cúi xuống đứa bé.
- Không, mình không nói đùa đâu, cậu cứ việc chọn món gì cậu ưng. Mình vừa trượt băng xong và đang đói. Đừng tưởng, Levin nói tiếp, khi thấy mặt Oblonxki có vẻ không bằng lòng, cậu đừng tưởng mình không biết đánh giá đúng sự lựa chọn của cậu đâu. Mình sẽ thú vị được chén một bữa thật sang.
- Mình rất mong thế! Cậu muốn nói gì thì nói, đó vẫn là một trong thứ khoái trên đời, - Xtepan Arcaditr nói. - Vậy thì, người anh em cho chúng tớ hai tá, à mà không, chừng ấy chả đủ được, ba tá sò, một xúp rau...
- Pretanière 4, - lão già Tacta tiếp lời.
Nhưng rõ ràng Xtepan Arcaditr không muốn để cho lão ta cái thú kể tên các món ăn bằng tiếng Pháp.
- Một xúp rau, anh rõ chứ? Rồi đến cá chim với nước xốt đặc, rồi...
thịt bò quay, nhưng phải chú ý là chín tới đấy. Một gà thiến và hoa quả hộp.
Lão già Tacta, chợt nhớ Xtepan Arcaditr vốn kiểu cách hay đặt cho các món ăn những tên khác với tên trong thực đơn, nên cứ để ông ta nói, nhưng lão cũng tự dành cho mình cái thú nhắc lại tất cả thực đơn bằng những tên trong bảng món ăn: "Xúp mùa xuân, Cá chim xốt Bomarse, Gà mái ghẹ nấu rau thơm, Nộm rau quả 5... rồi tức thì, như có lò xo điều khiển, lão đặt tấm bảng món ăn có đóng bìa xuống và lấy ra một bảng khác kê đồ uống chìa cho Xtepan Arcaditr.
- Ta uống gì bây giờ nào?
- Cậu muốn gọi gì thì gọi, mình chỉ thích làm tí sâm banh, - Levin nói.
- Sao? Ngay từ đầu bữa à? Kể ra thì tại sao lại không được nhỉ?
Cậu thích nhãn hiệu trắng chứ?
- Loại nhãn hiệu trắng 6, - lão Tacta đỡ lời.
- Cho chúng tớ thứ ấy nhắm với sò. Sau sẽ hay.
- Bẩm quan vâng. Các quan ưng dùng rượu vang gì ạ?
- Rượu vùng Nuy. Không, tốt hơn là cho chúng tớ vang trắng Sabli thường uống ấy.
- Vâng ạ. Có cần dọn món phó mát của ngài không đấy ạ?
- Ừ, phó mát vùng Parmo ấy, hay là cậu thích phó mát khác?
- Không, mình thì món nào cũng thế thôi, - Levin nói, không còn đủ sức để nín cười nữa.
Lão già Tacta đi khỏi, vạt áo phe phẩy sau lưng. Năm phút sau, lão bưng ra một đĩa sò, vỏ óng ánh màu xà cừ và chai rượu trong tay.
Xtepan Arcaditr vò nhàu khăn ăn hồ bột, luồn vào áo gi lê và điềm đạm đặt tay lên bàn, bắt đầu ăn sò.
- Sò cũng không đến nỗi tồi, - ông nói, tách những con sò mềm ra khỏi vỏ màu xà cừ bằng cái dĩa bạc nhỏ, và ăn hết con này đến con khác. - Không đến nỗi tồi, - ông nhắc lại, vừa đưa đôi mắt long lanh ướt, hết nhìn Levin lại đến lão Tacta.
Levin cũng ăn sò, tuy chàng thích bánh mì trắng và phó mát hơn.
Nhưng chàng thán phục Oblonxki. Ngay cả lão Tacta, sau khi mở chai, rót rượu vang lấp lánh vào những chiếc cốc mỏng mảnh và rộng miệng, cũng nhìn Xtepan Arcaditr với nụ cười mãn nguyện ra mặt, tay sửa lại ngay ngắn chiếc cravat trắng.
- Cậu không thích sò lắm à? - Xtepan Arcaditr vừa hỏi vừa cạn cốc rượu, - hay là cậu đang có chuyện gì lo lắng? Nói cho mình nghe nào?
Ông ta muốn Levin phải vui. Nhưng Levin tuy không buồn, vẫn thấy bứt rứt khó chịu. Với điều mang nặng trong lòng, chàng thấy không thoải mái trong tiệm ăn này, xung quanh toàn những phòng riêng người ta chui vào ăn nhậu với các phu nhân, giữa những sự đi lại và náo động này; tất cả những vật phu trang như đồ đồng đen, gương, đèn hơi, những bồi bàn người Tacta, đều khiến chàng chướng tai gai mắt. Chàng sợ làm ô uế những gì đang tràn ngập tâm hồn.
- Mình ấy à? Phải, mình đang có điều lo nghĩ; và hơn nữa, mọi thứ này khiến mình khó chịu. Cậu không tưởng tượng được mọi cái đó kỳ dị đến mức nào đối với một anh nhà quê như mình đâu. Thật y như mấy cái móng tay của cái anh chàng mình gặp ở chỗ cậu...
- Ừ, mình nhận thấy là những móng tay của anh chàng Grinevitr đáng thương ấy làm cậu rất quan tâm, - Xtepan Arcaditr vừa vười vừa nói.
- Mình biết làm thế nào được, - Levin đáp. - Cậu hãy gắng một chút tự đặt mình vào địa vị một anh chàng ở nông thôn xem. ở nông thôn, chúng tôi cố sức biến bàn tay thành một công cụ làm việc tiện lợi: chúng tôi cắt ngắn móng tay, và thỉnh thoảng lại xắn tay áo lên.
Còn ở đây, người ta lại cố tình để móng tay mọc càng dài càng tốt và đeo những khuy măngsét to bằng cái đĩa rồi không thể làm được gì bằng hai bàn tay cả.
Xtepan Arcaditr vui vẻ cười.
- Nhưng điều đó chứng tỏ họ không cần làm việc bằng tay; chính là trí tuệ họ làm việc...
- Có lẽ... Nhưng, dù sao đi nữa, mình vẫn thấy điều đó là kỳ dị.
Mình còn thấy điều này nữa, cũng kì dị, là ở nông thôn, bọn mình gắng ăn cho nhanh để còn làm việc, trong khi cái đó càng lâu càng tốt; cho nên chúng mình mới ăn sò...
- Tất nhiên, - Xtepan Arcaditr tán thành. - Nhưng chính đó là mục đích của văn minh. Phải biến tất cả thành thú vui.
- Nếu như đó là mục đích của văn minh, thì mình thích là người man rợ hơn.
- Thì cậu đã là người man rợ rồi đó. Họ hàng Levin nhà cậu, tất cả đều man rợ hết.
Levin thở dài. Chàng càng nghĩ đến ông anh Nikolai, cảm thấy hổ thẹn và cau mày; nhưng Oblonxki đã chuyển sang chuyện khác, lái ngay sự chú ý của chàng về một hướng mới.
- Thế nào, tối nay cậu có đến nhà bọn mình không, mình muốn nói là nhà Serbatxki ấy? - ông nói, gạt những vỏ sò sần sùi ra, kéo đĩa phó mát lại và đưa cặp mắt long lanh nhìn chàng đầy ý nghĩa.
- Có, nhất định mình sẽ đến, - Levin trả lời, - tuy mình cảm thấy hình như quận công phu nhân mời mình không thật tình cảm lắm.
- Cậu nói gì vậy? Ngốc thế! Đó là lối kiểu cách của bà ta. Nào, cho chúng tớ món xúp, người anh em!... Đó là lối kiểu cách đại phu nhân 7 của bà ta thôi, - Xtepan Arcaditr nói. - Mình cũng sẽ đến, nhưng mình còn phải đi dự buổi tập hát ở nhà nữ bá tước Bonin. Thế mà cậu còn không tự nhân là man rợ ư? Cắt nghĩa cái việc cậu đột nhiên biến khỏi Moxcva ra sao đây? Gia đình Serbatxki cứ hỏi mình về tin tức cậu mãi, làm như mình biết rõ ngọn nguồn ấy! Mình chỉ biết mỗi điều là bao giờ cậu cũng làm cái mà chẳng ai làm cả.
- Phải, - Levin chậm rãi nói, vẻ bối rối. - Cậu nói đúng, mình là một kẻ man rợ. Nhưng sự man rợ của mình không phải ở chỗ mình bỏ đi mà ở chỗ bây giờ quay về... Mình đã trở về.
- Ồ! Cậu thật sung sướng! - Xtepan Ackađich nói tiếp, vừa nhìn thẳng vào mắt Levin.
- Tại sao?
- "Xem tướng ngựa bằng vào dấu vết. Nhìn mắt người, ắt biết đang yêu", - Xtepan Arcaditr ngâm nga. - Trước mặt cậu, có tất cả.
- Còn cậu, tất cả đã ở sau lưng cậu rồi hẳn?
- Không, nhưng cậu, cậu có tương lai; mình thì chỉ có hiện tại và cái hiện tại ấy, lúc thì trắng lúc lại đen ngòm.
- Có chuyện gì vậy?
- Mọi việc đều hỏng bét. Nhưng mình không muốn nói về mình và cũng không thể giãi bày hết mọi chuyện với cậu được, - Xtepan Arcaditr nói. à, tại sao cậu lại trở về Moxcva?... Này, lại dọn đi! - ông gọi lão già Tacta.
- Cậu không đoán ra ư? - Levin đáp, cặp mắt long lanh một ánh nội tâm chằm chằm nhìn Xtepan Arcaditr.
- Có chứ, nhưng mình nói ra trước thì không phải lối. Chỉ cần nói thế cậu cũng đủ hiểu mình đoán đúng hay không, - Xtepan Arcaditr nói và nhìn Levin với một nụ cười ranh mãnh.
- Vậy cậu thấy thế nào? - Levin nói tiếp, giọng run run và cảm thấy tất cả bắp thịt trên mặt mình giật giật. - Cậu thấy chuyện đó thế nào?
Xtepan Arcaditr đủng đỉnh uống cạn cốc rượu vang Sabli, mắt vẫn không rời Levin.
- Mình ấy à?... - ông nói. - Mình không mong muốn gì hơn thế trên đời! Đó là điều tốt đẹp nhất có thể xảy đến!
- Nhưng cậu không lầm đấy chứ? Cậu biết rõ điều chúng ta đang bàn đấy chứ? - Levin nói tiếp, đôi mắt ngấu nghiến nhìn kẻ đối chuyện mình. Cậu tin là có thể được ư?
- Phải. Tại sao lại không được chứ?
- Không, cậu có thật sự tin rằng có thể được không? Cậu hãy nói với mình tất cả những điều cậu nghĩ đi! Thế ngộ nhỡ mình vấp phải sự từ chối?... Thậm chí, mình còn tin chắc là sẽ như thế...
- Tại sao cậu lại tin là thế? - Xtepan Arcaditr nói, mỉm cười về sự xúc động của bạn.
- Đôi khi mình có cảm giác ấy. Nếu thế thì thật kinh khủng: cả đối với mình, cả đối với nàng.
- Dù sao đi nữa, chuyện đó cũng chẳng có gì kinh khủng đối với một cô thiếu nữ đâu. Tất cả các cô gái đều tự hào khi người ta đến hỏi xin cưới mình.
- Đúng, tất cả các cô gái nhưng trừ nàng.
Xtepan Arcaditr mỉm cười. Ông biết rất rõ tình cảm Levin. Ông hiểu là đối với chàng, các cô gái chia làm hai loại: loại thứ nhất gồm tất cả các thiếu nữ, trừ Kitti, các cô gái đó có tất cả các nhược điểm của con người và là những thiếu nữ rất tầm thường; loại kia thì chỉ có mình nàng: nàng không hề có nhược điểm nào và hơn hẳn tất cả loài người.
- Khoan đã, cậu lấy nước xốt đi, - ông nói, ngăn bàn tay Levin đang đẩy đĩa xốt ra.
Levin ngoan ngoãn lấy nước xốt nhưng không để Xtepan Arcaditr kịp ăn.
- Không, cậu nghe đã, - chàng nói, - cậu nên hiểu, đối với mình, đây là vấn đề sinh tử. Mình chưa bao giờ nói chuyện này với ai cả. Và mình chỉ có thể nói với cậu được thôi. Hai đứa mình hoàn toàn khác nhau: sở thích, ý kiến, tất cả đều ngăn cách chúng mình; nhưng mình biết cậu mến mình và hiểu mình, và cả mình nữa, mình cũng rất mến cậu. Nhưng lạy Chúa, cậu hãy hết sức thành thật với mình.
- Mình nói những điều mình nghĩ, - Xtepan Arcaditr mỉm cười nói.
- Nhưng mình sẽ còn đi xa hơn thế nữa, vợ mình là người đàn bà hết sức kỳ diệu. - Nhớ đến chuyện xích mích với vợ, Xtepan Arcaditr thở dài và nín lặng một lát, rồi lại nói tiếp: - Vợ mình có cái nhìn rất tinh đời, cô ta đọc thấu tận gan ruột mọi người. Hơn thế nữa, cô ta còn đoán được hậu vận, nhất là những chuyện thuộc về cưới xin. Chẳng hạn, cô ta đã nói trước là nàng Sakhovxcaia sẽ lấy Brenten... Chẳng ai tin cả, ấy thế mà lại thành. ấy, vợ mình đứng về phe cậu đấy.
- Sao kia?
- Không những vợ mình có thiện cảm với cậu, mà cô ta còn nói Kitti nhất định sẽ là vợ cậu nữa kia.
Nghe nói vậy, mặt Levin sáng ngời lên một nụ cười tưởng như sắp biến thành những giọt nước mắt xúc động.
- Chị ấy bảo thế à! - chàng kêu lên. - Mình vẫn bảo vợ cậu là một thiên thần mà. Nhưng thôi, ta đừng nói đến chuyện ấy nữa, - chàng nói và đứng dậy.
- Được, nhưng hãy ngồi xuống đã.
Nhưng Levin không thể ngồi yên chỗ được. Chàng đi đi lại lại quanh căn phòng hẹp hai ba lần, bước chân chắc nịch, mắt chấp chới để giấu những giọt nước mắt, và sau đó mới ngồi xuống.
- Cậu nên hiểu mình, - chàng nói, - đây không phải là tình yêu.
Mình đã yêu, nhưng đây không phải chuyện như thế. Đó không phải là tình cảm, mà là một sức mạnh bên ngoài xâm chiếm lấy mình.
Mình bỏ đi vì tin chắc không thể thế được, một hạnh phúc như vậy không thể có được trên đời; mình đã đấu tranh với bản thân và thấy rõ không có nàng, mình không sống nổi. Cho nên cần phải có một quyết định...
- Nhưng tại sao cậu bỏ đi?
- Khoan, khoan đã! Mình có biết bao ý nghĩ trong đầu, biết bao điều cần hỏi cậu! Cậu nghe đây. Cậu không thể biết được cậu đã đem lại gì cho mình khi nói ra điều đó đâu. Mình sung sướng đến trở thành ích kỷ: mình quên hết. Hôm nay mình được biết anh Nicolai...
Cậu biết chứ... đang ở đây... và mình đã quên khuấy anh ấy! Và mình thấy hình như cả anh ấy cũng sung sướng. Thật cứ như là điên ấy.
Nhưng có điều đáng sợ... cậu đã có vợ, cậu hẳn biết cảm giác ấy... thật kinh khủng khi ở tuổi chúng ta, với một quá khứ... không phải một quá khứ yêu thương, mà là quá khứ tội lỗi... chúng ta bất chợt đến gần một con người trong trắng, thơ ngây... thật gớm ghiếc! Làm sao tránh khỏi cảm thấy mình không xứng đáng được?
- Thôi đi, lương tâm cậu đâu có mang nhiều tội lỗi gì cho cam.
- À, dù sao đi nữa, - Levin nói, - dù sao đi nữa: "Ôn lại cuộc đời một cách kinh tởm, tôi run lên, tôi nguyền rủa và cay đắng thương cho phận mình...". Phải.
- Biết làm thế nào, sự đời vốn như vậy, - Xtepan Arcaditr nói.
- Niềm an ủi độc nhất là lời cầu nguyện này mà mình ưa thích:
Xin Chúa tha thứ cho con, không phải vì đức độ của con, mà tùy ở lòng lành của Chúa. Chính nàng cũng chỉ có thể tha thứ cho mình theo cách đó mà thôi.
Chú thích:
1. Poudre de riz và vinaigre de toilette (tiếng Pháp trong nguyên bản).
2. Một loại thức ăn lỏng nấu bằng lúa kiều mạch, rất phổ biến ở nông thôn Nga.
3. Trong nguyên bản: à la riousse, chính là: à la russe (theo lối Nga), lão già Tacta phát âm sai.
4. Nguyên văn pretanière, chính ra là: Printanière (mùa xuân).
5. Soupe printanière, turbot sauce Beaumarchais, poularde à l'estragon, macédoine de fruits (tiếng Pháp trong nguyên bản).
6. Cachel blane (tiếng Pháp trong nguyên bản).
7. Grande dame (tiếng Pháp trong nguyên bản).
Oblonxki đến quầy rượu, uống một cốc vôtka với ít cá nướng và nói vài câu với người đàn bà Pháp mặt bự phấn, toàn thân đầy dải băng, đăng ten, búp tóc giả, ngồi sau quầy, làm mụ ta rũ ra cười thích chí.
Còn Levin, chàng từ chối không uống, vì thấy ngứa mắt trước cái mụ người Pháp dường như làm toàn bằng những mớ tóc giả, phấn bột gạo và dấm xoa mặt 1. Chàng vội lảng xa mụ như lảng xa một nơi xú uế.
Tâm hồn chàng đang tràn ngập hình ảnh Kitti, và trong mắt chàng ngời lên nụ cười đắc thắng và hạnh phúc.
- Xin mời quan lớn ngồi đây ạ, chỗ này sẽ không có ai làm rầy quan lớn cả, - một lão già người Tacta nói, lão ta tóc vàng, rất khúm núm, vạt áo xoè ra trên cái mông bè bè. - Xin mời quan lớn, - lão nói với Levin cũng rất lễ độ, để tỏ lòng kính trọng Xtepan Arcaditr.
Trong nháy mắt, lão đã trải khăn bàn sạch lên trên chiếc bàn tròn có phủ sẵn khăn, kê ở dưới cây đèn vách bằng đồng đen; lão kéo mấy chiếc ghế nhung lại gần và đứng cạnh Xtepan Arcaditr, tay cầm bảng món ăn và cắp chiếc khăn, chờ sai bảo.
- Nếu các quan cần phòng riêng thì hoàng thân Golitxun và một phu nhân sắp sửa ra khỏi một phòng trong chốc lát đấy ạ. Chúng tôi đã nhận được sò tươi.
- À phải! Sò!
Xtepan Arcaditr chợt có vẻ suy nghĩ.
- Hay ta thay đổi thực đơn chăng, Levin? - ông vừa nói vừa đặt ngón tay lên bảng món ăn. Và mặt ông lộ vẻ phân vân nghiêm trọng.
- Sò có ngon không? Liệu hồn nhà anh đấy!
- Bẩm quan lớn, sò Flenxburg ạ. Chúng tôi không có sò Ôxtăng.
- Sò Flenxburg cũng được. ít ra cũng còn tươi đấy chứ?
- Chúng tôi mới nhận được hôm qua ạ.
- Cậu thấy thế nào? Ta bắt đầu bằng món sò chăng? Hay là ta thay đổi tất cả thực đơn?
- Thế nào cũng được. Mình thì mình thích xúp bắp cải và kasa 2 hơn. Những món đó không thấy có ở đây.
- Quan lớn muốn dùng xúp nấu à la riousse 3 ạ? - lão già Tacta nói, cúi xuống Levin như vú nuôi cúi xuống đứa bé.
- Không, mình không nói đùa đâu, cậu cứ việc chọn món gì cậu ưng. Mình vừa trượt băng xong và đang đói. Đừng tưởng, Levin nói tiếp, khi thấy mặt Oblonxki có vẻ không bằng lòng, cậu đừng tưởng mình không biết đánh giá đúng sự lựa chọn của cậu đâu. Mình sẽ thú vị được chén một bữa thật sang.
- Mình rất mong thế! Cậu muốn nói gì thì nói, đó vẫn là một trong thứ khoái trên đời, - Xtepan Arcaditr nói. - Vậy thì, người anh em cho chúng tớ hai tá, à mà không, chừng ấy chả đủ được, ba tá sò, một xúp rau...
- Pretanière 4, - lão già Tacta tiếp lời.
Nhưng rõ ràng Xtepan Arcaditr không muốn để cho lão ta cái thú kể tên các món ăn bằng tiếng Pháp.
- Một xúp rau, anh rõ chứ? Rồi đến cá chim với nước xốt đặc, rồi...
thịt bò quay, nhưng phải chú ý là chín tới đấy. Một gà thiến và hoa quả hộp.
Lão già Tacta, chợt nhớ Xtepan Arcaditr vốn kiểu cách hay đặt cho các món ăn những tên khác với tên trong thực đơn, nên cứ để ông ta nói, nhưng lão cũng tự dành cho mình cái thú nhắc lại tất cả thực đơn bằng những tên trong bảng món ăn: "Xúp mùa xuân, Cá chim xốt Bomarse, Gà mái ghẹ nấu rau thơm, Nộm rau quả 5... rồi tức thì, như có lò xo điều khiển, lão đặt tấm bảng món ăn có đóng bìa xuống và lấy ra một bảng khác kê đồ uống chìa cho Xtepan Arcaditr.
- Ta uống gì bây giờ nào?
- Cậu muốn gọi gì thì gọi, mình chỉ thích làm tí sâm banh, - Levin nói.
- Sao? Ngay từ đầu bữa à? Kể ra thì tại sao lại không được nhỉ?
Cậu thích nhãn hiệu trắng chứ?
- Loại nhãn hiệu trắng 6, - lão Tacta đỡ lời.
- Cho chúng tớ thứ ấy nhắm với sò. Sau sẽ hay.
- Bẩm quan vâng. Các quan ưng dùng rượu vang gì ạ?
- Rượu vùng Nuy. Không, tốt hơn là cho chúng tớ vang trắng Sabli thường uống ấy.
- Vâng ạ. Có cần dọn món phó mát của ngài không đấy ạ?
- Ừ, phó mát vùng Parmo ấy, hay là cậu thích phó mát khác?
- Không, mình thì món nào cũng thế thôi, - Levin nói, không còn đủ sức để nín cười nữa.
Lão già Tacta đi khỏi, vạt áo phe phẩy sau lưng. Năm phút sau, lão bưng ra một đĩa sò, vỏ óng ánh màu xà cừ và chai rượu trong tay.
Xtepan Arcaditr vò nhàu khăn ăn hồ bột, luồn vào áo gi lê và điềm đạm đặt tay lên bàn, bắt đầu ăn sò.
- Sò cũng không đến nỗi tồi, - ông nói, tách những con sò mềm ra khỏi vỏ màu xà cừ bằng cái dĩa bạc nhỏ, và ăn hết con này đến con khác. - Không đến nỗi tồi, - ông nhắc lại, vừa đưa đôi mắt long lanh ướt, hết nhìn Levin lại đến lão Tacta.
Levin cũng ăn sò, tuy chàng thích bánh mì trắng và phó mát hơn.
Nhưng chàng thán phục Oblonxki. Ngay cả lão Tacta, sau khi mở chai, rót rượu vang lấp lánh vào những chiếc cốc mỏng mảnh và rộng miệng, cũng nhìn Xtepan Arcaditr với nụ cười mãn nguyện ra mặt, tay sửa lại ngay ngắn chiếc cravat trắng.
- Cậu không thích sò lắm à? - Xtepan Arcaditr vừa hỏi vừa cạn cốc rượu, - hay là cậu đang có chuyện gì lo lắng? Nói cho mình nghe nào?
Ông ta muốn Levin phải vui. Nhưng Levin tuy không buồn, vẫn thấy bứt rứt khó chịu. Với điều mang nặng trong lòng, chàng thấy không thoải mái trong tiệm ăn này, xung quanh toàn những phòng riêng người ta chui vào ăn nhậu với các phu nhân, giữa những sự đi lại và náo động này; tất cả những vật phu trang như đồ đồng đen, gương, đèn hơi, những bồi bàn người Tacta, đều khiến chàng chướng tai gai mắt. Chàng sợ làm ô uế những gì đang tràn ngập tâm hồn.
- Mình ấy à? Phải, mình đang có điều lo nghĩ; và hơn nữa, mọi thứ này khiến mình khó chịu. Cậu không tưởng tượng được mọi cái đó kỳ dị đến mức nào đối với một anh nhà quê như mình đâu. Thật y như mấy cái móng tay của cái anh chàng mình gặp ở chỗ cậu...
- Ừ, mình nhận thấy là những móng tay của anh chàng Grinevitr đáng thương ấy làm cậu rất quan tâm, - Xtepan Arcaditr vừa vười vừa nói.
- Mình biết làm thế nào được, - Levin đáp. - Cậu hãy gắng một chút tự đặt mình vào địa vị một anh chàng ở nông thôn xem. ở nông thôn, chúng tôi cố sức biến bàn tay thành một công cụ làm việc tiện lợi: chúng tôi cắt ngắn móng tay, và thỉnh thoảng lại xắn tay áo lên.
Còn ở đây, người ta lại cố tình để móng tay mọc càng dài càng tốt và đeo những khuy măngsét to bằng cái đĩa rồi không thể làm được gì bằng hai bàn tay cả.
Xtepan Arcaditr vui vẻ cười.
- Nhưng điều đó chứng tỏ họ không cần làm việc bằng tay; chính là trí tuệ họ làm việc...
- Có lẽ... Nhưng, dù sao đi nữa, mình vẫn thấy điều đó là kỳ dị.
Mình còn thấy điều này nữa, cũng kì dị, là ở nông thôn, bọn mình gắng ăn cho nhanh để còn làm việc, trong khi cái đó càng lâu càng tốt; cho nên chúng mình mới ăn sò...
- Tất nhiên, - Xtepan Arcaditr tán thành. - Nhưng chính đó là mục đích của văn minh. Phải biến tất cả thành thú vui.
- Nếu như đó là mục đích của văn minh, thì mình thích là người man rợ hơn.
- Thì cậu đã là người man rợ rồi đó. Họ hàng Levin nhà cậu, tất cả đều man rợ hết.
Levin thở dài. Chàng càng nghĩ đến ông anh Nikolai, cảm thấy hổ thẹn và cau mày; nhưng Oblonxki đã chuyển sang chuyện khác, lái ngay sự chú ý của chàng về một hướng mới.
- Thế nào, tối nay cậu có đến nhà bọn mình không, mình muốn nói là nhà Serbatxki ấy? - ông nói, gạt những vỏ sò sần sùi ra, kéo đĩa phó mát lại và đưa cặp mắt long lanh nhìn chàng đầy ý nghĩa.
- Có, nhất định mình sẽ đến, - Levin trả lời, - tuy mình cảm thấy hình như quận công phu nhân mời mình không thật tình cảm lắm.
- Cậu nói gì vậy? Ngốc thế! Đó là lối kiểu cách của bà ta. Nào, cho chúng tớ món xúp, người anh em!... Đó là lối kiểu cách đại phu nhân 7 của bà ta thôi, - Xtepan Arcaditr nói. - Mình cũng sẽ đến, nhưng mình còn phải đi dự buổi tập hát ở nhà nữ bá tước Bonin. Thế mà cậu còn không tự nhân là man rợ ư? Cắt nghĩa cái việc cậu đột nhiên biến khỏi Moxcva ra sao đây? Gia đình Serbatxki cứ hỏi mình về tin tức cậu mãi, làm như mình biết rõ ngọn nguồn ấy! Mình chỉ biết mỗi điều là bao giờ cậu cũng làm cái mà chẳng ai làm cả.
- Phải, - Levin chậm rãi nói, vẻ bối rối. - Cậu nói đúng, mình là một kẻ man rợ. Nhưng sự man rợ của mình không phải ở chỗ mình bỏ đi mà ở chỗ bây giờ quay về... Mình đã trở về.
- Ồ! Cậu thật sung sướng! - Xtepan Ackađich nói tiếp, vừa nhìn thẳng vào mắt Levin.
- Tại sao?
- "Xem tướng ngựa bằng vào dấu vết. Nhìn mắt người, ắt biết đang yêu", - Xtepan Arcaditr ngâm nga. - Trước mặt cậu, có tất cả.
- Còn cậu, tất cả đã ở sau lưng cậu rồi hẳn?
- Không, nhưng cậu, cậu có tương lai; mình thì chỉ có hiện tại và cái hiện tại ấy, lúc thì trắng lúc lại đen ngòm.
- Có chuyện gì vậy?
- Mọi việc đều hỏng bét. Nhưng mình không muốn nói về mình và cũng không thể giãi bày hết mọi chuyện với cậu được, - Xtepan Arcaditr nói. à, tại sao cậu lại trở về Moxcva?... Này, lại dọn đi! - ông gọi lão già Tacta.
- Cậu không đoán ra ư? - Levin đáp, cặp mắt long lanh một ánh nội tâm chằm chằm nhìn Xtepan Arcaditr.
- Có chứ, nhưng mình nói ra trước thì không phải lối. Chỉ cần nói thế cậu cũng đủ hiểu mình đoán đúng hay không, - Xtepan Arcaditr nói và nhìn Levin với một nụ cười ranh mãnh.
- Vậy cậu thấy thế nào? - Levin nói tiếp, giọng run run và cảm thấy tất cả bắp thịt trên mặt mình giật giật. - Cậu thấy chuyện đó thế nào?
Xtepan Arcaditr đủng đỉnh uống cạn cốc rượu vang Sabli, mắt vẫn không rời Levin.
- Mình ấy à?... - ông nói. - Mình không mong muốn gì hơn thế trên đời! Đó là điều tốt đẹp nhất có thể xảy đến!
- Nhưng cậu không lầm đấy chứ? Cậu biết rõ điều chúng ta đang bàn đấy chứ? - Levin nói tiếp, đôi mắt ngấu nghiến nhìn kẻ đối chuyện mình. Cậu tin là có thể được ư?
- Phải. Tại sao lại không được chứ?
- Không, cậu có thật sự tin rằng có thể được không? Cậu hãy nói với mình tất cả những điều cậu nghĩ đi! Thế ngộ nhỡ mình vấp phải sự từ chối?... Thậm chí, mình còn tin chắc là sẽ như thế...
- Tại sao cậu lại tin là thế? - Xtepan Arcaditr nói, mỉm cười về sự xúc động của bạn.
- Đôi khi mình có cảm giác ấy. Nếu thế thì thật kinh khủng: cả đối với mình, cả đối với nàng.
- Dù sao đi nữa, chuyện đó cũng chẳng có gì kinh khủng đối với một cô thiếu nữ đâu. Tất cả các cô gái đều tự hào khi người ta đến hỏi xin cưới mình.
- Đúng, tất cả các cô gái nhưng trừ nàng.
Xtepan Arcaditr mỉm cười. Ông biết rất rõ tình cảm Levin. Ông hiểu là đối với chàng, các cô gái chia làm hai loại: loại thứ nhất gồm tất cả các thiếu nữ, trừ Kitti, các cô gái đó có tất cả các nhược điểm của con người và là những thiếu nữ rất tầm thường; loại kia thì chỉ có mình nàng: nàng không hề có nhược điểm nào và hơn hẳn tất cả loài người.
- Khoan đã, cậu lấy nước xốt đi, - ông nói, ngăn bàn tay Levin đang đẩy đĩa xốt ra.
Levin ngoan ngoãn lấy nước xốt nhưng không để Xtepan Arcaditr kịp ăn.
- Không, cậu nghe đã, - chàng nói, - cậu nên hiểu, đối với mình, đây là vấn đề sinh tử. Mình chưa bao giờ nói chuyện này với ai cả. Và mình chỉ có thể nói với cậu được thôi. Hai đứa mình hoàn toàn khác nhau: sở thích, ý kiến, tất cả đều ngăn cách chúng mình; nhưng mình biết cậu mến mình và hiểu mình, và cả mình nữa, mình cũng rất mến cậu. Nhưng lạy Chúa, cậu hãy hết sức thành thật với mình.
- Mình nói những điều mình nghĩ, - Xtepan Arcaditr mỉm cười nói.
- Nhưng mình sẽ còn đi xa hơn thế nữa, vợ mình là người đàn bà hết sức kỳ diệu. - Nhớ đến chuyện xích mích với vợ, Xtepan Arcaditr thở dài và nín lặng một lát, rồi lại nói tiếp: - Vợ mình có cái nhìn rất tinh đời, cô ta đọc thấu tận gan ruột mọi người. Hơn thế nữa, cô ta còn đoán được hậu vận, nhất là những chuyện thuộc về cưới xin. Chẳng hạn, cô ta đã nói trước là nàng Sakhovxcaia sẽ lấy Brenten... Chẳng ai tin cả, ấy thế mà lại thành. ấy, vợ mình đứng về phe cậu đấy.
- Sao kia?
- Không những vợ mình có thiện cảm với cậu, mà cô ta còn nói Kitti nhất định sẽ là vợ cậu nữa kia.
Nghe nói vậy, mặt Levin sáng ngời lên một nụ cười tưởng như sắp biến thành những giọt nước mắt xúc động.
- Chị ấy bảo thế à! - chàng kêu lên. - Mình vẫn bảo vợ cậu là một thiên thần mà. Nhưng thôi, ta đừng nói đến chuyện ấy nữa, - chàng nói và đứng dậy.
- Được, nhưng hãy ngồi xuống đã.
Nhưng Levin không thể ngồi yên chỗ được. Chàng đi đi lại lại quanh căn phòng hẹp hai ba lần, bước chân chắc nịch, mắt chấp chới để giấu những giọt nước mắt, và sau đó mới ngồi xuống.
- Cậu nên hiểu mình, - chàng nói, - đây không phải là tình yêu.
Mình đã yêu, nhưng đây không phải chuyện như thế. Đó không phải là tình cảm, mà là một sức mạnh bên ngoài xâm chiếm lấy mình.
Mình bỏ đi vì tin chắc không thể thế được, một hạnh phúc như vậy không thể có được trên đời; mình đã đấu tranh với bản thân và thấy rõ không có nàng, mình không sống nổi. Cho nên cần phải có một quyết định...
- Nhưng tại sao cậu bỏ đi?
- Khoan, khoan đã! Mình có biết bao ý nghĩ trong đầu, biết bao điều cần hỏi cậu! Cậu nghe đây. Cậu không thể biết được cậu đã đem lại gì cho mình khi nói ra điều đó đâu. Mình sung sướng đến trở thành ích kỷ: mình quên hết. Hôm nay mình được biết anh Nicolai...
Cậu biết chứ... đang ở đây... và mình đã quên khuấy anh ấy! Và mình thấy hình như cả anh ấy cũng sung sướng. Thật cứ như là điên ấy.
Nhưng có điều đáng sợ... cậu đã có vợ, cậu hẳn biết cảm giác ấy... thật kinh khủng khi ở tuổi chúng ta, với một quá khứ... không phải một quá khứ yêu thương, mà là quá khứ tội lỗi... chúng ta bất chợt đến gần một con người trong trắng, thơ ngây... thật gớm ghiếc! Làm sao tránh khỏi cảm thấy mình không xứng đáng được?
- Thôi đi, lương tâm cậu đâu có mang nhiều tội lỗi gì cho cam.
- À, dù sao đi nữa, - Levin nói, - dù sao đi nữa: "Ôn lại cuộc đời một cách kinh tởm, tôi run lên, tôi nguyền rủa và cay đắng thương cho phận mình...". Phải.
- Biết làm thế nào, sự đời vốn như vậy, - Xtepan Arcaditr nói.
- Niềm an ủi độc nhất là lời cầu nguyện này mà mình ưa thích:
Xin Chúa tha thứ cho con, không phải vì đức độ của con, mà tùy ở lòng lành của Chúa. Chính nàng cũng chỉ có thể tha thứ cho mình theo cách đó mà thôi.
Chú thích:
1. Poudre de riz và vinaigre de toilette (tiếng Pháp trong nguyên bản).
2. Một loại thức ăn lỏng nấu bằng lúa kiều mạch, rất phổ biến ở nông thôn Nga.
3. Trong nguyên bản: à la riousse, chính là: à la russe (theo lối Nga), lão già Tacta phát âm sai.
4. Nguyên văn pretanière, chính ra là: Printanière (mùa xuân).
5. Soupe printanière, turbot sauce Beaumarchais, poularde à l'estragon, macédoine de fruits (tiếng Pháp trong nguyên bản).
6. Cachel blane (tiếng Pháp trong nguyên bản).
7. Grande dame (tiếng Pháp trong nguyên bản).
Lev Tolstoy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét