Vốn liếng mà Nguyễn Khắc Thạch bỏ ra để đến với thơ không nhiều.
Chỉ vẻn vẹn 3 tập thơ với khoảng cách thời gian khá dài: Dòng sông một bờ
(1989), Nơi ta sẽ về (1993), Mưa hai mặt (2002) nhưng ông đã tạo được giá
trị thặng dư cho thơ mình khi khảm vào thơ thủ pháp song hành, đồng đẳng đầy mê
hoặc. Mưa hai mặt là tập thơ thể hiện rõ bút lực của Nguyễn Khắc Thạch.
Một tập thơ đi về trong cái bản thể phức tạp của đời sống, tạo sinh một thế giới
hiện thực mới.
1. Ấn tượng đầu tiên khi đến với Mưa hai mặt là
tính đối lập. Roman Jakobson đã nói: "sự chồng nguyên tắc tương đương
lên chuỗi tiếp nối của các từ... tất yếu tạo ra cảm giác tính nhị nguyên, tính
đa diện" (1). Tính khác biệt, đối lập tôn vẻ đẹp câu thơ và ý nghĩa
bài thơ. Sự đối lập trong thơ Nguyễn Khắc Thạch thể hiện rõ ngay từ nhan đề: Mưa
hai mặt. Đây cũng là tên của một bài nằm trong tập thơ ấy. Mưa trong thơ
ông trở nên có linh hồn, có sự sống mang tính nhị nguyên: mưa tăm tối -
mưa sáng ngời. Nó không chỉ là nền tảng của sự tái sinh mà còn làm
nhiệm vụ thuỷ táng đất trời: “những cơn mưa tái sinh màu đất/ những
cơn mưa thuỷ táng khung trời/ để em thấy mưa là hai mặt” (Mưa hai mặt).
Nhan đề tập thơ như một sự phản ứng dây chuyền, lây lan toàn bộ tập thơ, làm nền
cho thi ảnh nước đôi toả sáng. Sự đối lập diễn ra từ cấp độ câu thơ, khổ thơ và
đến cả toàn bài thơ. Có thể thấy dạng thức ấy qua các hệ thống từ ngữ tương phản: bây
giờ - mai sau; tăm tối - sáng ngời; buồn - vui; say - tỉnh; khi cài - khi mở; dại
khờ - khôn ngoan; không - có; thiên đàng - địa ngục; hữu hình - hư vô; phía sau
- phía trước; đầy - vơi; đói - nghèo...
Hiện thực trong thơ Nguyễn Khắc Thạch đầy chông chênh. Chông
chênh từ Dòng sông một bờ: "Có một dòng sông chỉ có một bờ/ phía bờ
kia quay mặt/ dòng sông anh không qua được bao giờ", từ Nơi ta sẽ
về: "phấn son nhạt nhoà hạnh phúc khổ đau/ thời thượng văn minh máu
người như nước lả" đến Mưa hai mặt. Thực tại được nhìn bằng con
mắt của người thơ sẵn sàng "bị chém bằng lưỡi rìu ngôn ngữ", phô
trần thực chất sự hỗn loạn. Hỗn loạn từ vật chất cơm áo, từ lời ăn tiếng nói đến
đức tin, đến sự thờ phụng... Cuộc sống bị thống lĩnh và chi phối bởi đồng tiền:
Khi đồng tiền lên ngôi mục đích
thì bàn thờ chỉ là phương tiện
(Trả giá)
Đồng tiền ngự trị. Tình cảm giữa người với người chỉ là sự giả
tạo. Lời chào không còn cao hơn mâm cỗ. Những cái bắt tay thiếu sự thành tâm.
Món nợ tình cảm được quy bằng đồng tiền cỏ rác. Tất cả là những mưu tính, sắp đặt:
phía lời chào không cao như mâm cỗ
phía con người bắt tay trong mặc cả
(Cố hương)
Cánh nhà thơ xưa nay vốn nghèo. Cái họ có được chỉ là một thứ
tài sản tinh thần về lòng trung thực. Lòng trung thực giúp họ đứng vững trước
bão tố cuộc đời và giữ được nàng thơ tránh khỏi " "sóng đời
mình". Vì thế, họ chịu hệ luỵ đầu tiên cho việc "gieo thẳng thơ
trên giấy kẻ dòng": "có nỗi đau ngoài tầm nước mắt/ cánh chim cô
đơn khi vượt trước bầy đàn". Nguyễn Khắc Thạch cũng lâm vào cảnh cơ cực áo
cơm, không đất không nhà khi vận vào mình cái duyên của người thơ: "áo
cơm bờm xơm vỗ mặt/ hư danh cầm cố thi ca.../ cơn mơ đấu cờ thực tại/ nước đi
không đất không nhà.../ vợ con đánh đòn vỡ nợ/ vỡ lòng... bong bóng bay
qua". Một "tự khúc" rất thi sĩ. Không che đậy. Không
nói quá. Nguyễn Khắc Thạch dấn thân vào sự thực cuộc đời, chấp nhận tất cả trớ
trêu của thế giới thực: "Ta ngồi hóa dại đôi khi/ thèm đau lần nữa những
gì đã đau".
Trong thế giới nhập nhằng ấy, nhà thơ tìm được cái đẹp tình
người còn sót lại. Cái đẹp thẳm sâu, rưng rưng khi gói bánh chưng, bánh tét
ngày tết. Cái đẹp khi trở về với cố hương. Cố hương vẫn còn nguyên vẹn những
cánh đồng bát ngát, những cánh cò bay lả và cả những cái nắm tay cũng đầy trìu
mến: "Cố hương tôi vẫn cánh cò bay lả/ hương đồng quê thơm nắm tay
người". Đối lập giữa hai chốn, phố thị và đồng quê, Nguyễn Khắc Thạch
hướng đến một cố hương mãi mãi là kí ức xanh: “Trên cánh cò ca dao/
kí ức xanh luỹ tre làng Gióng/ cố hương tôi thăm thẳm/ sau chiều”.
Hai cực của thực tại song tuyến tạo nên cơn khát vô tận của Mưa
hai mặt: "Ngày về hoa cỏ khác hơn/ ngày về tôi vẫn là cơn khát lầm" (Gửi
Nhật Lệ). Một cơn khát nhân bản trong thế giới "những sấp ngửa đồng
tiền đè lên ngực/ những khoảng trống lương tri đến dối lừa". Đó là cái đẹp
còn lại trong thế giới "hiện thực cục cằn như kẻ đói yêu".
Bài thơ chứa đựng trong nó một hoặc nhiều hình tượng. Dưới
bàn tay tài ba của nhà thơ, các hình tượng ấy không đứng yên mà luôn lan toả với
nhiều dạng vẻ khác nhau. Trên nền tảng sự tương phản, hình ảnh thơ của Nguyễn
Khắc Thạch trở nên đa diện. Chiều là em, là tình yêu, là nỗi nhớ, là
sức sống vô tận...: "ai gọi chiều/ mà chiều nghe lòng chiều thắc
thỏm/ chiều gọi ai/ mà chiều rơi lõm bõm lời chiều/ gió cũng e chừng nẻo nhớ
dua theo/ trơ lối mòn lá đổ.../ ơi những buổi chiều những buổi chiều thậm nhớ/
muốn ôm chặt lấy chiều chiều lại ngả vào đêm" (Chiều). Ngày là
biểu tượng thời gian, là trò chơi số phận: "ngày là lưỡi hái lường
chơi/ mỗi ngày liếm một mảng đời như không/ ngày đi ngày đến lòng vòng/ đất trời
còn mánh đường cong... huống người..." (Ngày). Đêm cũng đầy
những mê hoặc: đêm của những linh hồn, đêm của sự hủy diệt, đêm của sự sống...: "Đêm
dâng nỗi thầm đau thân ngọc/ Dưới chân người vàng đá phôi pha.../ Đêm thắp nến
hàn trăng lữ thứ/ Đêm thẩm khát màu son trinh nữ/ Để tái sinh cho hủy diệt sau
cùng..." (Đêm). Mưa vừa ẩn dụ cho kiếp người, vừa là hiện thân cho
tình yêu: "Hạt mưa tan vỡ vì nhau/ Hình như mưa cũng đổi màu buồn
vui/ Mưa tăm tối, mưa sáng ngời/ Vẫn là đất khát dựng trời mà lên!" (Mưa).
Trăng là hoá thân của nhà thơ, là cái cân cân trọng lượng tình cảm: "Ta
ngồi hoá rượu thành trăng/ Khoả thân cái bóng cân bằng ghét yêu" (Gửi
trăng)...
Mỗi bài thơ trong Mưa hai mặt hầu hết đều ẩn hai hoặc
nhiều hơn hai mặt. Nhờ thế, ở Mưa hai mặt "bao giờ con người
cũng là một thực tại kép/ ước vọng thì đầy nhớ tiếc thì vơi". Và một
cái tôi kép. Một cái tôi luôn trắc ẩn, đầy mâu thuẫn, nửa muốn "vi vu
thuở trót đặt điều chờ mong", nửa muốn "thèm đau lần nữa những
gì đã đau". Một cái tôi thấu hiểu "nỗi đau ngoài tầm nước mắt" nhưng
vẫn muốn đi đến kiệt cùng sự thật: "sự thật là thanh gươm lành trong
vỏ/ nhưng rút ra rồi... nó đau đớn biết bao" để di ngôn: "nhà
hiền triết di ngôn/ tất thảy đều là không/ nhưng khốn nỗi/ ta thực chứng một đời
rằng đến cái không cũng có" (Luận đề). Đúng như lời tâm sự của nhà
thơ: "Mưa hai mặt ngoài nghĩa hai mặt của một vấn đề còn là nỗi ám ảnh
về sinh tử, luân hồi, về sự chẻ đôi của thói thường theo cơ chế nhất niệm khởi,
thiện ác phân" (2).
Hiện thực hai mặt trong thơ Nguyễn Khắc Thạch đối chọi nhưng
lại giao thoa, chuyển lưu. Người ta tung đồng xu để thử vận may, Nguyễn Khắc Thạch
lại tung vào thơ trò chơi sấp ngửa để kiếm tìm số phận của một thế giới chưa
hoàn tất.
2. Nguyễn Khắc Thạch cho rằng: "Thiền thì ngộ
mà thơ thì mê. Thiền là trở về với bản lai diện mục, còn thơ thì phiêu lưu vì
những gì mới lạ... Bởi vậy, từ khi hành thiền, tôi không có hứng làm thơ nữa" (3).
Thực ra, càng đến với cõi thiền, thơ ông càng tỏa sáng hơn. Ở Mưa hai mặt còn
là cuộc gặp gỡ giữa thơ và tôn giáo. Đây cũng là một góc nhìn khác làm nên kết
cấu Mưa hai mặt.
Nói đến thơ thiền, người ta thường nghĩ đến cái mỹ học của vô
ngôn. Thơ Nguyễn Khắc Thạch đã chạm vào cái đẹp vô ngôn ấy. Mưa hai mặt sử dụng
khá nhiều những từ ngữ mang hương vị thiền: hư vô, ngộ, thiền, Bồ Đề Đạt
Ma, chùa, thầy tu, Tây Trúc... Có thể thấy trong một số câu thơ như: "Mót
tuổi trời rụng phía hư vô", "nhục cảm cô đơn đánh tráo chân thiền",
"tấm áo mượn chùa chân thật hóa thầy tu"... Bên cạnh đó, những hình ảnh
quen thuộc của tư tưởng Phật như: ngọn nến, vầng trăng... cũng góp phần
làm cho thơ Nguyễn Khắc Thạch tiến gần tư tưởng thiền.
Thiền mở ra những lối đi thanh cao, thoát tục, nhẹ nhàng, vắng
lặng... Tĩnh nhưng không bất động mà đang chuyển biến, dịch hóa. Bài thơ Thiền nổi
bật nhất âm hưởng thiền trong Mưa hai mặt:
bên thềm hoang
thiếu phụ
thoát y nằm
ngọn nến cháy
sau vầng trăng khuyết...
Nguyễn Khắc Thạch phác thảo nên bức tranh người thiếu phụ
trong cảnh thoát y. Bức tranh vừa đối lập với thềm hoang vừa
tương đồng, cùng nhau cộng hưởng gia tăng sự yên tĩnh. Cái yên tĩnh ấy càng yên
tĩnh hơn khi nhà thơ dành một khoảng trống của không gian trên văn bản. Nhưng
cái hiện hữu ấy chỉ là phù vân. Khổ 2 đã cắt đứt nghiệp chướng, chỉ còn lại “ngọn
nến cháy/ sau vầng trăng khuyết”. Ngọn nến cháy, dù nhỏ nhoi nhưng nó
là cái đang hiện tồn, tương động. Bởi, sau vầng trăng khuyết ấy là sự đốn ngộ.
Chất thiền còn được lồng trong sự tương phản: “đầu này một
chiếc dép/ chỉ một chiếc dép đầu này/ mà đầu kia phải lệch/ mà đầu kia là cả…
không gian”. Đầu này là đầu của chốn bụi trần. Đầu kia là đầu của không gian rộng
lớn, vô lượng. Đầu của sự vận động, trôi chảy…
Bên cạnh những câu thơ mang hơi thở của thiền, chúng ta còn
thấy một số hình ảnh về Thiên Chúa như: cây thánh giá, Chúa, đức tin...
Hai nguồn tôn giáo trong Mưa hai mặt nhưng không hề gây sự áp đảo
nào, ngược lại, chúng là nền tảng để nhà thơ trình bày những triết lý của mình
và tạo nên trò chơi sấp ngửa cho tập thơ.
Đến với tôn giáo, con người trở nên thánh thiện hơn. Nhưng
khi cái bản năng bị vực dậy thì tất cả chỉ là sự giả dối. Tôn giáo lúc này trở
thành bình phong vững chắc để con người che phía gương mặt hoen rỉ. Bởi vậy, những
ham muốn thường nhật có thể phá vỡ tôn giáo:
và đâu đó cơn khát thèm xác thịt
có thể cắn rách màng trinh tôn giáo
(Thông cảm)
Đức tin không trú ngụ ở cây thánh giá đóng đinh Chúa mà nó nằm
trong lòng tin của mỗi người. Nguyễn Khắc Thạch rất thẳng thắn khi bàn về đức
tin:
khi niềm tin ta đã đóng đinh
thì cây thánh giá kia
cần chi phơi hình Chúa
(Trả giá)
Và:
Thì đủ biết vì sao
đức tin có bảo hành
và chỗ dựa có đức tin
chỉ là những gì mong manh hư ảo...
(Ý tưởng)
Cuộc hội ngộ giữa hai luồng tôn giáo mở thêm cánh cửa mới để
Nguyễn Khắc Thạch thấu suốt, chiếm lĩnh hiện thực. Đứng ở vị trí trung gian, lửng
lơ trong hàng loạt khoảng trống của sự song hành là cách ông nhận thức ngoại
biên và nội tại cuộc đời. Những cái phi lý đang dần dần ăn mòn lẽ sống của con
người.
32 bài thơ trong Mưa hai mặt đều là những cuộc vật
lộn không ngưng nghỉ của các con chữ. Lạ hoá cách đặt nhan đề, cách triển khai
nhị nguyên, lạ hoá thơ trên nền tảng tôn giáo, Nguyễn Khắc Thạch cất dấu những
cảm quan riêng về hiện thực cuộc sống. Đó cũng là cách nhà thơ gây ấn tượng khó
quên trong lòng người đọc về một thực tại kép đầy tâm trạng, đầy triết
lý: “cái chết nào sống đã lãng quên/ người sống nào chết rồi mới thấy lớn?”.
Chú thích:
Chú thích:
1. Trịnh Bá Đĩnh, Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, NXB Văn
học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 2002, tr 130.
2. Nguyễn Khắc Thạch, Đang tồn tại bằng một cuộc sống
nháp (Tiểu luận), NXB Thuận Hóa, 2009, tr 99, 100.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét