Thứ Sáu, 3 tháng 4, 2020

Tam quốc chí diễn nghĩa 10

Tam quốc chí diễn nghĩa 10
Hồi 55:
Huyền Đức khéo léo, nói khích Tôn phu nhân
Khổng Minh hai phen trêu tức Chu Công Cẩn
Lại nói Huyền Đức trông thấy trong phòng Tôn phu nhân hai bên giáo mác tua tủa, thị tỳ lại toàn đeo gươm đứng hầu, hồn vía rụng rời. Mụ quản gia bước ra thưa:
- Quý nhân đừng sợ hãi, phu nhân tôi từ thuở bé vốn thích nghề võ. Thường thường vẫn sai thị tỳ đấu gươm giúp vui, cho nên có quang cảnh ấy.
Huyền Đức nói:
- Đó không phải là những đồ của phu nhân chơi, ta khiếp sợ lắm, hãy bỏ đi thôi.
Mụ liền vào bẩm với Tôn phu nhân:
- Tân lang trông thấy khí giới có vẻ không an tâm, xin hãy cho cất cả đi.
Phu nhân cười tủm tỉm nói rằng:
- Chinh chiến đã quá nửa đời người, cũng còn sợ gươm giáo à?
Nói đoạn sai bỏ cả đi và bảo thị tỳ cởi gươm ra đứng hầu. Đêm hôm ấy, Huyền Đức thành thân với Tôn phu nhân, tâm đầu ý hợp lắm. Huyền Đức lại phát vàng lụa cho các thị tỳ để gây cảm tình; rồi sai Tôn Càn về Kinh Châu báo tin mừng. Từ bữa ấy yến tiệc luôn mấy hôm, quốc thái yêu mến vô cùng.
Tôn Quyền sai người đến Sài Tang, báo tin cho Chu Du biết rằng:
- Việc đó do mẫu thân ta chủ trương cả, mẫu thân ta đã đem em gái ta gả cho Lưu Bị rồi, không ngờ chuyện giả hoá thật! Bây giờ định liệu làm sao?
Chu Du được tin, giật mình, đứng ngồi không yên, liền nghĩ ra một kế, vội viết mật thư sai người dâng lên Tôn Quyền. Quyền mở thư xem, trong thư nói:
“Việc mới rồi, không ngờ xảy ra điên đảo như vậy. Nay đã chuyện giả hoá thật, phải lợi dụng việc này mà dùng kế khác mới xong. Lưu Bị đã là bậc kiêu hùng, lại có Quan, Trương, Triệu Vân làm tướng, Gia Cát Lượng bày mưu lập mẹo, chắc không phải là người chịu hèn mãi đâu. Theo ý tôi, chi bằng hãy giam lỏng hắn ở Đông Ngô. Ta sửa sang cửa nhà cho lộng lẫy, làm nhụt chí khí của hắn đi, đưa vào nhiều gái đẹp, và những đồ quý báu khiến hắn mê mải cuộc vui, nhạt tình cũ với Quan, Trương, quên Gia Cát Lượng, mỗi người một nơi. Rồi ta sẽ đem quân sang đánh, thế nào việc lớn cũng thành công. Nếu thả về ngay, e rằng giao long gặp được mưa gió, không khi nào chịu chết già trong ao tù nữa đâu. Xin chúa công xét cho kỹ”.
Quyền xem thư xong, đưa cho Trương Chiêu, Chiêu thưa:
- Mẹo của Công Cẩn cũng hợp với ý tôi. Lưu Bị xuất thân hàn vi, long đong bốn bể, chưa được nếm mùi phú quý bao giờ. Nay nếu cho hắn ở cửa cao nhà rộng, lắm tiền nhiều bạc, hầu con gái đẹp, ra vào nâng giấc, tất nhiên hắn sẽ không tưởng gì đến Khổng Minh, Quan, Trương nữa, khiến bọn đó đâm ra oán tức. Có thế thì ta mới tính được Kinh Châu. Chúa công nên theo mẹo Công Cẩn mà làm ngay đi.
Quyền mừng lắm, lập tức sai sửa sang toà đông phủ, trồng cây cối hoa cảnh cực đẹp, bày biện đồ đạc tươm tất, rồi mời Huyền Đức và em gái sang ở cả đó. Lại kén hàng chục con hát cực hay và cả đồ vàng ngọc, gấm vóc đem lại. Quốc thái tưởng là Tôn Quyền có lòng tốt, lấy làm hả dạ lắm. Quả nhiên Huyền Đức mê mải về nhạc hay sắc đẹp, không tưởng trở về Kinh Châu nữa.
Triệu Vân và năm trăm quân sĩ ở riêng một nhà cạnh đông phủ, nhàn rỗi cả ngày, chỉ ra ngoài thành phóng ngựa săn bắn chơi bời. Ngày tháng thấm thoát, đã gần hết năm. Vân sực nhớ Khổng Minh trao cho ba cái túi gấm, có dặn thoạt tiên đến Nam Từ thì mở túi thứ nhất, cuối năm, mở túi thứ hai, đến khi nào nguy cấp không có đường chạy, thì mở nốt cái thứ ba. Trong túi có mẹo xuất quỷ nhập thần, bảo toàn được chúa công về tới nhà. Nay đã sắp hết năm rồi, chúa công thì cứ ham mê nữ sắc, không trông thấy mặt lúc nào, sao không mở túi thứ nhì xem kế mà làm?
Vân liền mở túi ra xem, biết được mưu mẹo như vậy. Ngay hôm ấy, Vân đến phủ xin gặp Huyền Đức. Thị tỳ vào báo:
- Triệu Vân có việc khẩn cấp đến bẩm với quý nhân.
Huyền Đức gọi vào hỏi. Vân làm ra vẻ lo sợ, nói:
- Chúa công cứ ở trong cung thẳm, không tưởng gì đến Kinh Châu nữa à?
Huyền Đức nói;
- Có việc gì mà ngơ ngác như thế?
Vân đáp:
- Sáng nay, Khổng Minh sai người sang Tào Tháo muốn trả thù hận Xích Bích, đã khởi năm mươi vạn tinh binh đánh đến Kinh Châu. Việc nguy cấp đến nơi, chúa công phải về ngay mới được!
Huyền Đức nói:
- Ta cần phải bàn với phu nhân đã.
Vân nói:
- Nếu chúa công bàn với phu nhân, chắc phu nhân chả để cho đi. Bất nhược đừng nói, chiều nay về luôn, kẻo chậm thì lỡ việc.
Huyền Đức nói:
- Ngươi hãy ra ngoài, để ta sẽ liệu.
Vân cố giục gĩa hai ba lần, rồi lui ra.
Huyền Đức trở về gặp Tôn phu nhân liền rơm rớm nước mắt. Phu nhân nói:
- Phu quân có điều chi phiền não làm vậy?
Huyền Đức nói:
- Tôi nghĩ mình tôi, một thân nương nhờ đất khách. Khi cha mẹ còn, đã không thờ phụng được thì chớ, tết nhất đến nơi, lại không tề tựu được tổ tiên, làm cho tôi áy náy trong lòng.
Phu nhân nói:
- Thôi, phu quân đừng giấu tôi nữa. Tôi đã biết rõ cả rồi. Lúc nãy, Triệu Tử Long báo tin Kinh Châu nguy cấp, phu quân muốn về nên mượn cớ đó thôi.
Huyền Đức quỳ xuống nói:
- Phu nhân đã biết, tôi đâu dám giấu giếm? Tôi mà không về, nếu mất Kinh Châu sẽ bị thiên hạ chê cười. Tôi mà về thì lại không dứt được tình nghĩa với phu nhân. Vì thế tôi phiền não lắm.
Phu nhân nói:
- Tôi thì phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin theo.
Huyền Đức nói:
- Đành rằng phu nhân có lòng tốt như thế, nhưng quốc thái và Ngô hầu sao chịu cho phu nhân đi? Phu nhân có thương tôi, xin hãy yên tâm tạm ở lại đây, để tôi đi một mình cho tiện.
Nói đoạn, nước mắt ròng ròng.
Phu nhân khuyên giải rằng:
- Phu quân đừng phiền não nữa, để tôi nói khó với mẫu thân tôi, chắc sẽ cho tôi về với phu quân nhân thể.
Huyền Đức nói:
- Mặc dầu quốc thái cho phép, nhưng thế nào Ngô hầu cũng ngăn trở.
Tôn phu nhân ngồi nghĩ một lúc, rồi nói:
- Để đến giữa hôm mồng một tết, tôi với phu quân mượn cớ ra bờ sông tế tổ, rồi ta cùng lẻn đi cả, có được không?
Huyền Đức nói:
- Nếu được thế, tôi sống chết cũng không quên ơn phu nhân. Nhưng xin chớ để lộ chuyện ra ngoài.
Hai vợ chồng bàn định đâu đấy, Huyền Đức mật gọi Tử Long vào dặn:
- Ngày mồng một tết, người dẫn quân ra trước chực sẵn ở dọc đường. Ta lấy cớ tế tổ sẽ cùng phu nhân đi một thể.
Vân vâng lời.
Ngày nguyên đán, tháng giêng, mùa xuân, năm Kiến An thứ 15, Ngô hầu hội cả văn võ trong triều. Huyền Đức và Tôn phu nhân vào bái yết bà quốc thái.
Phu nhân thưa:
- Phu quân con nhớ đến mồ mả tôn tổ, cha mẹ, ở cả Trác Quận, ngày đêm thương cảm khôn nguôi. Nay muốn ra bờ sông tế vọng, xin cáo để mẫu thân được biết.
Quốc thái nói:
- Đó cũng là đạo hiếu, lẽ nào mẹ chẳng đồng ý. Con không được biết bố mẹ chồng, thì phải cùng với chồng con ra tế bái cho xứng đạo làm dâu con ạ!
Hai vợ chồng lạy tạ trở ra. Muốn giấu không cho Tôn Quyền biết, phu quân ngồi xe, chỉ mang một ít đồ dùng lặt vặt, Huyền Đức lên ngựa, dẫn vài tên quân kỵ mã đi theo ra thành, hội với Triệu Vân. Năm trăm quân sĩ tiền hô hậu ủng, rời khỏi Nam Từ, cấp tốc đi miết.
Hôm ấy, Tôn Quyền say quá, tả hữu vực vào nhà trong, văn võ tan đâu về đấy. Đến lúc các quan biết tin Huyền Đức và phu nhân đi, thì trời đã tối. Muốn báo cho Tôn Quyền biết nhưng Quyền lại đang ngủ say. Khi Quyền tỉnh dậy thì trời đã tang tảng sáng.
Hôm sau, Quyền nghe tin Huyền Đức trốn mất, vội vàng đòi văn võ vào bàn bạc.
Trương Chiêu nói:
- Nếu để người này chạy thoát được, nay mai tất sinh loạn, nên sai người đuổi cho mau.
Quyền sai ngay Trần Vũ, Phan Chương lựa năm trăm tinh binh, không kể ngày đêm phải đuổi kịp bắt Huyền Đức về.
Hai tướng được lệnh nhận quân đi.
Tôn Quyền giận Huyền Đức không biết ngần nào, cầm nghiên mực bằng ngọc trên án thư đập tan ra từng mảnh.
Trình Phổ nói:
- Chúa công dù có nổi trận lôi đình, tôi tin chắc hai tướng cũng không bắt nổi Lưu Bị.
Quyền nói:
- Ai dám trái lệnh ta?
Phổ nói:
- Quận chúa từ nhỏ ưa chuộng nghề võ, tính khí nghiêm nghị, các tướng đều sợ cả. Nay đã thuận theo Lưu Bị, tất nhiên đồng tâm đi với nhau. Các tướng đuổi theo, nếu gặp quận chúa, thì còn ai dám hạ thủ nữa.
Quyền giận lắm, rút ngay thanh gươm đang đeo, gọi Tưởng Khâm, Chu Thái đến bảo rằng:
- Hai tướng đem thanh gươm này đi lấy cả đầu em ta lẫn đầu Lưu Bị mang về đây. Nếu trái lệnh sẽ bị chém đầu!
Hai tướng lĩnh mệnh, lại dẫn một nghìn quân mã đuổi theo.
Nói về Huyền Đức, gò cương ra roi, đi như rút đường. Đêm hôm ấy, nghỉ tạm ở dọc đường chừng hai trống canh lại vội vàng khởi hành, gần đến đầu địa phận Sài Tang, ngoảnh lại, thấy mé sau bụi bay mù mịt, đoán chắc là có quân đuổi theo. Huyền Đức đâm hoảng, hỏi Vân:
- Quân đuổi đến nơi, làm thế nào bây giờ?
Vân nói:
- Chúa công hãy đi trước, để tôi đi chặn hậu.
Vừa qua chân núi trước mặt, một toán quân mã xông ra chẹn đường, hai tướng đi đầu quát to lên rằng:
- Lưu Bị xuống ngựa chịu trói cho mau! Ta phụng lệnh Chu đô đốc đợi ở đây đã lâu rồi!
Thì ra Chu Du vẫn có ý sợ Huyền Đức chạy trốn, nên đã sai Từ Thịnh, Đinh Phụng dẫn ba nghìn quân mã đóng đồn chực sẵn ở nơi xung yếu, hàng ngày cho người lên gò cao trông chừng, đoán chắc nếu Huyền Đức đi theo đường bộ thế nào cũng qua lối này. Khi ấy hai tướng trông thấy có một toán quân mã của Huyền Đức đi đến, liền cầm võ khí ra chặn đường.
Huyền Đức hoảng sợ, dừng ngựa lại hỏi Triệu Vân rằng:
- Trước mặt có quân chặn đường, sau lưng có quân đuổi theo, hết đường rồi, làm thế nào bây giờ?
Vân thưa:
- Chúa công chớ ngại. Quân sư có ba điều diệu kế ở trong túi gấm này. Hai lần mở trước đều đã trúng cả. Nay còn điều thứ ba, dặn lúc nào nguy cấp lắm mới mở. Chính lúc này nên mở ra xem sao.
Nói rồi, Vân mở nốt túi thứ ba dâng lên, Huyền Đức xem xong, đến ngay trước xe Tôn phu nhân khóc mà nói rằng:
- Tôi có mấy lời tâm phúc, đến đây phải thành thật tỏ bày cùng phu nhân.
Phu nhân nói:
- Phu quân có điều gì, cứ nói thực cho tôi được biết!
Huyền Đức nói:
- Trước kia Ngô hầu đồng mưu với Chu Du gọi gả phu nhân cho tôi, thực ra không phải có ý muốn tác thành cho phu nhân đâu, mà chính là định cấm tù Bị này để cướp Kinh Châu đó thôi. Khi Kinh Châu về tay rồi, họ sẽ giết tôi đi. Rõ ràng họ dùng phu nhân làm cái mồi thơm để dử tôi đó. Sở dĩ tôi không sợ chết, dám cả gan đến đây, vì biết chắc phu nhân có chí khí nam nhi, có lòng yêu thương đến tôi. Vừa rồi, thấy Ngô hầu có ý muốn hại, nên tôi nói dối là Kinh Châu có việc, để tính đường trở về. Nay được phu nhân không nỡ bỏ nhau, theo tôi đến đây. Không ngờ Ngô hầu sai người đuổi theo sau lưng. Chu Du lại cho người chặn đường trước mặt. Ngoài phu nhân ra không ai gỡ được nạn này. Nếu phu nhân không rủ lòng cứu cho, thì tôi xin chết ngay ở trước xe để đáp ơn đức của phu nhân!
Phu nhân nổi giận nói:
- Anh tôi đã không coi tôi là ruột thịt thân thiết thì còn mặt nào trông thấy nhau nữa. Thôi! Việc hôm nay phu quân cứ để mặc tôi!
Lập tức Tôn phu nhân sai đẩy xe lên trước, cuốn rèm lên, rồi mắng Từ Thịnh, Đinh Phụng rằng:
- Hai người muốn làm phản hay sao?
Hai tướng vội vàng xuống ngựa, bỏ gươm giáo xuống, bẩm rằng:
- Chúng tôi đâu dám làm phản, nguyên phụng tướng lệnh của Chu đô đốc, đóng tại đây đợi chờ Lưu Bị đó thôi.
Phu nhân giận lắm, nói:
- Thằng giặc Chu Du kia! Đông Ngô ta có phụ gì mày? Huyền Đức là hoàng thúc nhà Hán, lại là chồng ta. Ta đã nói với mẹ và anh cho vợ chồng ta về Kinh Châu rồi. Nay các người dẫn quân chặn đường định cướp đồ đạc của vợ chồng ta hay sao?
Hai tướng vâng dạ liên hồi, thưa rằng:
- Chúng tôi đâu dám thế, xin phu nhân nguôi giận. Việc này là chúng tôi phụng mệnh của đô đốc chớ có can gì đến chúng tôi đâu.
Phu nhân thét:
- Các ngươi chỉ biết sợ Chu Du, còn không biết sợ ta à? Chu Du giết nổi các người, ta đây dễ thường không giết nổi Chu Du hẳn?
Nói rồi chửi mắng Chu Du thảm hại, rồi đẩy xe tiến lên.
Từ, Đinh hai tướng nghĩ rằng mình là người bề dưới, đâu dám kháng cự với phu nhân, vả lại trông thấy Triệu Vân có vẻ căm tức lắm, nên buộc lòng phải thét quân sĩ mở đường cho đi.
Xe vừa đi được năm sáu dặm, thì Trần Vũ, Phan Chương đuổi đến nơi. Từ Thịnh, Đinh Phụng thuật lại chuyện trước. Hai tướng kia nói rằng:
- Các ngươi tha cho đi là hỏng rồi. Chúng ta phụng mệnh Ngô hầu đuổi theo bắt họ về đây!
Rồi bốn tướng họp binh làm một ra sức đuổi theo. Huyền Đức đang chạy, bỗng nghe mé sau có tiếng reo nổi lên ầm ầm, lại nói với phu nhân rằng:
- Quân mé sau lại đuổi đến thì làm thế nào?
Phu nhân nói:
- Phu quân cứ đi trước, để tôi với Tử Long đón đánh mặt sau.
Huyền Đức dẫn ba trăm quân, nhắm bờ sông đi trước. Tử Long dùng ngựa đứng bên cạnh xe, dàn quân ra đợi các tướng kia đến. Bốn tướng đến nơi, trông thấy phu nhân vội vàng xuống cả ngựa, chắp tay đứng im. Phu nhân hỏi:
- Trần Vũ, Phan Chương đến đây có việc gì?
Hai tướng bẩm rằng:
- Chúng tôi phụng mệnh chúa công, mời phu nhân và Huyền Đức trở về.
Phu nhân nghiêm nét mặt quát:
- Bọn ngươi toàn là đồ thất phu, chia rẽ anh em ta, để chúng ta không hoà thuận với nhau. Ta đã gả bán cho người, hôm nay đi về, không phải là đi theo trai. Ta vâng lệnh mẹ ta để cho vợ chồng ta trở lại Kinh Châu, dù anh ta có đến đây nữa, cũng phải theo lễ phép. Các người cậy có quân, muốn giết ta hay sao?
Tôn phu nhân mắng mỏ một chập, khiến bốn tướng chỉ đứng nhìn nhau. Ai nấy tự nghĩ rằng: Người ta với chủ mình vạn năm vẫn là anh em với nhau, mà việc này còn có quốc thái làm chủ. Ngô hầu lại là người chí hiếu, sao dám trái lời mẹ? Mai này nghĩ lại, thì muôn sự té ra chúng mình không phải cả. Chỉ bằng ta hãy làm một việc có chút tình tử tế là hơn.
Vả lại trong đám ấy không thấy Huyền Đức, chỉ thấy có Triệu Vân mắm môi trợn mắt, lăm le muốn đánh. Bởi thế, các tướng dạ ran mấy tiếng, rồi rút quân về.
Tôn phu nhân sai đẩy xe đi thẳng.
Từ Thịnh nói với các tướng rằng:
- Chúng ta hãy cùng đến trình việc đó với Chu đô đốc.
Bốn tướng còn đương do dự, bỗng thấy, một toán quân xồng xộc chạy đến, trông ra thì là Tưởng Khâm và Chu Thái.
Hai tướng hỏi ngay:
- Các ông có thấy Lưu Bị không?
Bốn người đều nói:
- Buổi sáng có qua đây, đến bây giờ đã đi xa rồi.
Tưởng Khâm nói:
- Sao không bắt trói lại?
Bốn tướng thuật lại chuyện phu nhân mắng mỏ vừa rồi. Tưởng Khâm nói:
- Chính vì thế Ngô hầu ban cho một thanh kiếm mang theo đây, truyền cho giết cô em trước, Lưu Bị sau. Hễ sai lệnh sẽ bị chém đầu!
Bốn tướng nói:
- Họ đi xa rồi, làm thế nào?
Tưởng Khâm nói:
- Hắn chỉ có một ít quân bộ, mình đi gấp cũng không được. Từ, Đinh hai tướng nên phi báo với đô đốc, sai đường thuỷ bơi thuyền tốc hành đuổi mau. Bốn chúng ta thì đuổi trên bộ. Bất kỳ đường nào, hễ đuổi kịp thì cứ việc chém phăng đi, không cho nói lôi thôi gì hết!
Đinh, Từ liền phi báo với Chu Du, còn bốn tướng dẫn quân men bờ sông đuổi riết.
Lại nói, Huyền Đức và quân sĩ rời Sài Tang đã xa, đến bến Lưu Lang, mới hơi vững dạ, đi dọc bờ sông tìm thuyền, chỉ thấy dòng sông mênh mông không một bóng thuyền nào. Huyền Đức cúi đầu nghĩ ngợi. Triệu Vân nói:
- Chúa công ở trong hang hổ trốn nạn ra đây, nay đã gần đến địa giới nhà rồi, tôi chắc thế nào quân sư cũng liệu trước, không phải lo ngại đâu!
Huyền Đức nghe xong, sực nhớ đến chuyện phồn hoa sung sướng ở Đông Ngô vừa rồi bỗng dưng ứa hai hàng nước mắt.
Người sau có thơ than rằng:
Sông này Ngô Thục kết nhân duyên,
Cửa ngọc nhà vàng bóng dáng tiên.
Thiên hạ chịu nhường cô gái đẹp,
Đổi làm sao nổi chí Lưu lang?
Huyền Đức sai Tử Long ra mé trước tìm thuyền, chợt tin báo phía sau cát bụi bay mù trời. Huyền Đức lên cao trông xem, thấy người ngựa kéo đến đông như kiến cỏ, liền than rằng:
- Chạy tất tưởi cả ngày, người ngựa mỏi mệt chưa thở được, lại có quân đuổi theo, thật là chết không còn chỗ chôn đây.
Tiếng reo mỗi lúc một gần. Huyền Đức đang luống cuống không biết tính thế nào, chợt thấy một dãy hơn vài chục chiếc thuyền mui bồng đậu ở bờ sông. Tử Long nói:
- Trời ơi! May quá, có thuyền đây rồi, xin chúa công xuống thuyền ngay để sang sông, rồi ta sẽ lại liệu.
Huyền Đức cùng Tôn phu nhân, Tử Long và năm trăm quân sĩ xuống cả thuyền. Chỉ thấy một người khăn lượt áo the ở trong khoang vừa cười vừa bước ra nói:
- Xin chúc mừng chúa công! Gia Cát Lượng chờ ở đây đã lâu rồi!
Những người giả làm lái buôn ở trong thuyền đều là thuỷ quân ở Kinh Châu cả.
Huyền Đức mừng lắm.
Một lát, bốn tướng đã đuổi kịp đến nơi. Khổng Minh cười trỏ đám người trên bờ, nói:
- Ta biết trước đã lâu rồi. Các ngươi về nói với Chu lang từ rầy đừng dùng cái kế mỹ nhân ấy nữa nhé!
Trên bờ, cung tên bắn xuống tới tấp, nhưng thuyền ra xa rồi. Bốn tướng cứ đứng ngây mặt nhìn theo.
Thuyền Huyền Đức và Khổng Minh đang đi, bỗng thấy nước sông réo lên ầm ầm. Ngoảnh đầu lại xem, thấy chiến thuyền Đông Ngô kéo đến như lá tre. Chu Du ngồi dưới lá cờ tướng, bên tả có Hàn Đương, bên hữu có Hoàng Cái, thế như ngựa bay, sao chạy, ào ào lướt tới.
Khổng Minh sai lái giạt vào bờ phía bắc, rồi bỏ thuyền lên cả bộ, xe ngựa kéo đi. Chu Du đuổi đến nơi cũng ùa lên bộ đuổi theo. Toàn bộ thuỷ quân để đi trước, Hoàng Cái, Hàn Đương, Từ Thịnh, Đinh Phụng kèm sau.
Du hỏi:
- Đây là xứ nào?
Quân sĩ bẩm:
- Trước mặt là địa đầu Hoàng Châu.
Chu Du trông theo, thấy quân mã Huyền Đức chưa đi xa mấy, liền sai quân sĩ ráng sức đuổi đánh.
Đang đuổi miết, bỗng thấy hồi trống nổi lên, một toán quân ở trong sườn núi kéo ra, đại tướng đi đầu là Quan Vân Trường. Du luống cuống, vội quay ngựa chạy. Vân Trường xốc tới, Du tế ngựa chạy chí chết. Đang chạy, Hoàng Trung, Nguỵ Diên hai bên đổ ra đánh giết, quân Ngô thua to. Du lật đật xuống được đến thuyền, thì quân sĩ ở trên bờ đồng thanh hô lớn:
Chu Du mẹo giỏi yên thiên hạ,
Đã mất phu nhân, lại thiệt quân!
Du nổi giận, nói:
- Lại phải lên bờ, quyết một trận sống mái xem sao?
Hàn Đương, Hoàng Cái cố sức can ngăn. Du tự nghĩ rằng:
“Kế của ta không thành công, còn mặt mũi nào trông thấy Ngô hầu nữa!”
Nghĩ đoạn gầm lên một tiếng, vết đau vỡ tung ra, ngã quay xuống thuyền. Các tướng xúm lại cấp cứu, thì Du đã mê man bất tỉnh nhân sự rồi.
Đó là:
Hai phen khôn quá thành ra vụng
Nay lại hờn căm, lại thẹn thùng!
Chưa biết Chu Du thế nào, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Hồi 56:
Tào Tháo mở tiệc mừng đài Đổng Tước
Khổng Minh ba lần trêu tức Chu Du
Nói về Chu Du bị Khổng Minh phục ba cánh quân của Quan Công, Hoàng Trung và Nguỵ Diên đánh cho đại bại. Hoàng Cái và Hàn Đương vội cứu xuống thuyền, thuỷ quân bị chết rất nhiều. Chu Du ngoảnh trông lên thấy Huyền Đức, Khổng Minh, Tôn phu nhân và quân sĩ đóng cả trên đỉnh núi, làm gì chẳng tức điên ruột? Vết thương chưa lành, lại vỡ tung ra, ngất nhào xuống thuyền. Các tướng cứu tỉnh, quay thuyền chạy trốn. Khổng Minh không cho quân đuổi, cùng với Huyền Đức về Kinh Châu ăn mừng, khao thưởng tướng sĩ.
Chu Du về Sài Tang, còn bọn Tưởng Khâm về Nam Từ báo với Tôn Quyền. Quyền tức lắm muốn cử Trình Phổ làm đại đô đốc, đem quân sang lấy Kinh Châu. Chu Du cũng dâng thư xin điều binh sang đánh báo thù.
Trương Chiêu can rằng:
- Việc này không nên vội. Tào Tháo vẫn lăm le muốn báo thù trận Xích Bích, vì sợ Tôn, Lưu hai nhà đồng tâm hiệp lực với nhau, cho nên chưa dám làm. Nay chúa công vì tức giận chốc lát vội vàng gây sự đánh nhau, Tháo tất nhiên thừa cơ đến đánh, nước Ngô ta sẽ nguy khốn ngay.
Cố Ung cũng nói:
- Ở đây thế nào chẳng có quân do thám của Hứa Đô. Nếu biết Tôn, Lưu bất hoà Tháo tất nhiên sai người đến câu kết với Lưu Bị. Bị e sợ Giang Đông, sẽ phải đi theo Tào Tháo. Như thế Giang Nam bao giờ mới được yên ổn? Không gì bằng sai người đến Hứa Đô, tâu xin cho Lưu Bị làm chức châu mục ở Kinh Châu. Tào Tháo thấy vậy, tất nhiên lo sợ không dám nhòm đến mặt Đông Nam, và Lưu Bị cũng không oán gì chúa công nữa. Rồi ta sẽ sai người tâm phúc, dùng kế phản gián, làm cho Tào Tháo với Lưu Bị đánh lẫn nhau, bấy giờ ta sẽ thừa cơ tính lấy, chắc chắn thắng lợi.
Quyền khen rằng:
- Nguyên Thán nói chí phải! Nhưng ai đi sứ được đây?
Cố Ung nói:
- Ở đây có một người Tào Tháo rất kính mến, có thể đảm nhận việc ấy được.
Quyền hỏi người nào.
Ung đáp:
- Hoa Hâm hiện có mặt ở đây, sao không sai hắn?
Quyền mừng lắm, sai ngay Hoa Hâm mang biểu đến Hứa Đô. Hâm lĩnh mệnh lên đường thẳng đến Hứa Đô xin ra mắt Tào Tháo. Được tin Tháo đang hội cả quần thần ở Nghiệp Quận ăn mừng đài Đồng Tước, Hâm liền đến ngay Nghiệp Quận.
Tào Tháo từ khi thua ở Xích Bích, vẫn có ý muốn đánh báo thù, nhưng còn ngại Tôn, Lưu đồng tâm hiệp lực, nên chưa dám khinh động.
Năm Kiến An thứ 15 (210) đài Đồng Tước hoàn thành, Tháo hội cả các quan văn võ ở Nghiệp Quận, mở tiệc ăn mừng.
Đài này xây trên bờ Chương Hà, toà chính giữa gọi là Đồng Tước, toà bên phải là Ngọc Long, toà bên hữu là Kim Phượng, đều cao mười trượng, hai bên xây hai cái cầu thông với nhau, trăm ngàn cửa ngõ, trong đền ngoài cửa, vàng son choáng lộn.
Hôm ấy, Tháo đầu đội mũ vàng khảm ngọc, mình mặc áo bào gấm xanh, giày kết hạt châu, ngồi chễm chệ ở tầng trên, các văn võ đứng hầu bên dưới. Tháo muốn xem các tướng thi cung tên, bèn sai người hầu cận mang một chiếc chiến bào bằng gấm Tây Xuyên, treo trên cành liễu. Dưới gốc cây dựng một cái bia, chỗ đứng bắn cách xa một trăm bước, các tướng chia làm hai đội: Người tôn tộc họ Tào mặc áo bào đỏ, còn các tướng khác mặc áo bào xanh. Ai nấy đều đeo cung cứng tên dài, cưỡi ngựa đứng sẵn chờ lệnh.
Tháo truyền lệnh rằng:
- Ai bắn trúng hồng tâm, thì được thưởng cẩm bào, nếu bắn không tin sẽ bị phạt uống một chén nước lã.
Lệnh vừa truyền xuống, trong đội áo đỏ có một tướng trẻ tuổi, tế ngựa nhảy ra. Mọi người trông xem ai, thì là Tào Hưu. Hưu phi ngựa dạo đi dạo lại hai ba vòng, rồi rút một mũi tên, giương đẫy sức cung, bắn ra một phát, trúng giữa hồng tâm. Chiêng trống nổi lên, tiếng reo mừng ầm ĩ. Tào Tháo ngồi trên cũng mừng nói rằng:
- Đó là ngựa thiên lý của nhà ta đó!
Vừa toan sai ngươi ra lấy áo bào thưởng cho Tào Hưu, thì trong đội áo xanh có một tướng tế ngựa ra kêu lên rằng:
- Áo bào của thừa tướng, nên nhường cho chúng tôi là người ngoài lấy trước, trong tôn tộc không nên tranh lấy phần hơn.
Tháo nhìn xem ai, thì là Văn Sính.
Các quan nói:
- Hãy để xem Văn Trọng bắn thế nào đã!
Văn Sính giương cung, tế ngựa, bắn một phát, cũng trúng hồng tâm. Mọi người reo mừng ầm ĩ. Chiêng trống khua vang. Sính hô lớn lên rằng:
- Đem áo bào lại đây mau!
Đội áo đỏ lại có một tướng tế ngựa ra thét lên rằng:
- Văn Liệt bắn trước, sao ngươi dám nẫng tay trên? Hãy xem ta bắn để giải hoà cho cả người đây này!
Nói đoạn, giương cung bắn một phát, cũng trúng hồng tâm. Chúng vỗ tay reo ầm cả lên, trông ra thì Tào Hồng. Hồng sắp đến lĩnh áo, lại có một tướng trong đội áo xanh chạy ra giương cung nói lớn:
- Ba anh bắn thế chưa tài, xem ta bắn đây nhé!
Chúng nhìn xem ai, thì là Trương Cáp. Cáp phi ngựa, quay lưng lại, bắn một phát, cũng trúng hồng tâm nốt. Bốn mũi tên cắm thành vòng trong hồng tâm. Ai cũng khen là tài bắn cả. Cáp nói:
- Cẩm bào phải về tay ta chớ!
Cáp nói chưa dứt lời, bỗng lại có một tướng áo đỏ tế ngựa ra nói rằng:
- Ngươi quay lưng lại bắn cũng chưa giỏi! Hãy xem ta bắn trúng hồng tâm giữa bốn mũi tên cho mà xem.
Tướng ấy là Hạ Hầu Uyên. Uyên tế ngựa ra đứng chỗ cũ bắn, cũng quay mình lại ra bắn một phát, trúng ngay vào khoảng giữa bốn mũi tên. Chiêng trống lại khua ầm ĩ. Uyên kìm ngựa, thu cung lại reo lên rằng:
- Mũi tên này đã đáng lấy áo bào chưa?
Lại có một tướng áo xanh nhảy ra gọi rằng:
- Hãy để áo gấm ấy cho Từ Hoảng!
Uyên hỏi:
- Anh còn bắn thế nào tài hơn được ta nữa, mà đòi lấy áo gấm?
- Anh bắn tin hồng tâm cũng chưa giỏi! Hãy xem ta bắn lấy cái áo gấm đây này!
Nói đoạn, Hoảng bèn giương cung đặt tên, ngắm cành liễu bắn một phát, cành liễu gãy đôi, áo bào rơi xuống đất. Từ Hoảng tế ngựa lại lấy áo khoác lên vai, lên trước đài bẩm to rằng:
- Tạ ơn thừa tướng ban áo gấm!
Tào Tháo và các quan ai cũng khen tài. Hoảng quay ngựa toan trở về, bỗng có một tướng áo xanh nhảy xổ ra gọi rằng:
- Anh mang áo đi đâu? Hãy mau mau để đó cho ta!
Chúng trông ra thì là Hứa Chử.
Từ Hoảng nói:
- Áo đã ở trong tay ta rồi, anh cướp lại sao nổi?
Chử chẳng nói chẳng rằng, xốc ngựa tới giật áo bào. Hai ngựa giáp nhau, Hoảng cầm cung giọt Hứa Chử. Chử một tay nắm lấy cung, một tay lôi Hoảng khỏi bàn đạp, Hoảng bỏ cung nhảy xuống ngựa. Chử cũng nhảy xuống theo. Hai người giằng co vật lộn. Tháo gọi hai người lên cả trên đài. Từ Hoảng trợn mày trừng mắt, Hứa Chử mím miệng nghiến rắng, hai người chỉ lăm le chực đánh nhau.
Tháo cười, bảo rằng:
- Ta chỉ nhờ sức mạnh của các ông, có tiếc gì một cái áo gấm?
Liền gọi các tướng lên hết cả trên đài, ban cho mỗi người một tấm gấm Tây Xuyên. Các tướng cùng lạy tạ. Tháo mời các tướng ngồi theo thứ tự ăn yến. Tiếng nhạc vang lừng, trên cạn dưới nước trăm thứ trò vui, quan văn tướng võ, chén thù chén tạc, vui vẻ vô cùng.
Tháo bảo các quan văn rằng:
- Tướng võ thì lấy ngựa bắn cung làm vui, uy dũng như thế đủ rồi. Còn các ông đều là những người hay chữ, đã lên đến chỗ đài cao, sao không vịnh một bài thơ hay để ghi lấy thắng cảnh này?
Các quan đều khom lưng, thưa:
- Xin tuân lệnh!
Bấy giờ, bọn quan văn có Vương Lãng, Chung Do, Vương Sán, Trần Lâm mỗi người hiến một bài thơ, bài nào cũng ca ngợi công đức Tào Tháo như trời biển, xứng đáng lên ngôi thiên tử. Tháo xem từng bài, rồi cười mà nói rằng:
- Các ông văn hay, khen ta khi quá lời. Ta vốn là người ngu lậu, khi trước cũng may mà được phong chức hiếu liêm. Sau gặp buổi thiên hạ loạn lạc, ta có làm một cái nhà mát cách thành Tiêu năm mươi dặm về phía đông. Ta cũng muốn mùa xuân mùa hạ thì đọc sách, mùa thu mùa đông thì săn bắn, đợi khi nào thì thiên hạ thái bình, mới ra làm quan. Không ngờ triều đình triệu ra cho làm điển quân hiệu uý. Ta mới đổi nguyện vọng xưa, muốn ra dẹp giặc, lập công với nước, chỉ mong sau khi ta mất đi, được để ở trên mộ chí rằng: “Mộ của quan cố Chinh tây tướng quan Tào hầu”. Ấy thế là ta mãn nguyện. Nhớ lại, từ khi ta giết Đổng Trác, quét sạch Khăn vàng, trừ được Viên Thuật, phá được Lã Bố, dẹp tan đám Viên Thiệu, Lưu Biểu, dần dần bình định được cả thiên hạ, mình làm đến chức tể tướng ngôi phú quý tưởng tột bậc rồi, còn mong gì hơn nữa? Nếu triều đình không có ta, chưa biết bao giờ người xưng đế, bao kẻ xưng vương rồi đó. Lắm người thấy ta quyền cao chức trọng, ngờ cho ta có bụng này khác, thật là lầm lớn! Ta thường nhớ Khổng Tử khen đức tốt của vua Văn Vương nhà Chu, lời xưa ta vẫn canh cánh bên lòng. Nhưng muốn cho ta bỏ binh quyền đi, ra ở chỗ đất được phong là Võ bình hầu, thì cũng không xong: vì ta không còn binh quyền trong tay, tất sẽ bị kẻ khác hãm hại. Ta mà bị hại, thì nhà nước cũng sụp đổ. Bởi thế ta không thể mến cái tiếng hão mà mang cái vạ thật, chắc các ông không ai biết nỗi lòng cho ta!
Các quan cùng đứng dậy, lạy mà nói rằng:
- Dẫu Y Doãn, Chu Công ngày xưa cũng không bằng được thừa tướng!
Người sau có thơ rằng:
Vương Mãng trong khi tôn kẻ sĩ,
Chu Công giữa lúc bị gièm pha,
Giá phỏng bấy giờ đều chết cả
Còn ai biết được chính hay tà?
Tào Tháo uống luôn vài cốc rượu, không ngờ say quá, gọi tả hữu mang nghiên bút đến, cũng toan đề chơi một bài thơ Đồng Tước. Tháo sắp hạ bút xuống viết, chợt có tin báo rằng:
- Đông Ngô sai Hoa Hâm đến dâng biểu, tâu xin cho Lưu Bị làm Kinh Châu mục. Tôn Quyền gả em gái cho Lưu Bị, chín quận trên sông Hán đã về tay Lưu Bị quá nửa rồi!
Tháo nghe nói hoảng sợ, chân tay luống cuống, quẳng ngay bút xuống đất.
Trình Dục hỏi:
- Thừa tướng đang lúc ở giữa đám quân trăm vạn, tên đạn bời bời, chưa khi nào phải sợ hãi đến thế, nay nghe thấy Lưu Bị được Kinh Châu, mà sao thất kinh vậy?
Tháo nói:
- Lưu Bị như con rồng trong đám người, xưa nay chưa được xuống nước bao giờ, nay được Kinh Châu khác nào rồng khô mà vào bể lớn, trách nào ta chẳng giật mình.
Trình Dục nói:
- Thừa tướng có biết Hoa Hâm đến đây là có ý làm sao chưa?
Tháo nói:
- Chưa biết.
Dục nói:
- Tôn Quyền vốn ghét Lưu Bị, muốn cất quấn đến đánh, lại sợ thừa tướng thừa cơ đến báo thù, cho nên dâng biểu tiến cử Lưu Bị để Bị yên lòng và để thừa tướng đừng mong mỏi gì nữa.
Tháo gật đầu nói rằng:
- Ngươi nói phải lắm!
Dục lại nói:
- Tôi có một mẹo này, khiến cho Tôn, Lưu xâu xé lẫn nhau, rồi thừa tướng sẽ thừa cơ đánh phá, chỉ một trận là diệt được cả hai tên.
Tháo mừng lắm, hỏi mẹo làm sao.
Trình Dục thưa:
- Đông Ngô chỉ trông cậy vào Chu Du. Thừa tướng nên tâu phong cho Chu Du làm thái thú ở Nam Quận; Trình Phổ làm thái thú ở Giang Hạ, còn Hoa Hâm thì cho làm quan ở đây. Như thế Chu Du tất sinh thù địch với Lưu Bị. Ta sẽ thừa cơ ở hai bên xâu xé nhau mà đánh thì có hay hơn không?
Tháo nói:
- Lời Trọng Đức hợp ý ta lắm!
Liền gọi Hoa Hâm đến đài, thưởng cho rất hậu.
Hôm ấy tan tiệc, Tháo dẫn văn võ đến Hứa Xương, tâu phong cho Chu Du làm thái thú Nam Quận, Trình Phổ làm thái thú Giang Hạ, Hoa Hâm làm đại lý thiếu khanh ở lại kinh đô. Sứ giả đưa tới Đông Ngô, Chu Du, Trình Phổ đều nhận tước phong cả.
Du lĩnh chức rồi, lại càng nghĩ cách báo thù, mới dâng thư lên Ngô hầu, xin sai Lỗ Túc sang đòi Kinh Châu.
Quyền gọi Lỗ Túc vào bảo rằng:
- Ngươi hầu chủ cho Lưu Bị mượn Kinh Châu, nay hắn dây dưa mãi không trả, còn đợi đến bao giờ?
Túc thưa:
- Trong văn khế hẹn rằng khi nào lấy được Tây Xuyên mới trả kia mà!
Quyền gắt mắng:
- Cứ nói lấy được Tây Xuyên, nay vẫn chưa thấy cất quân, còn đợi đến già à?
Túc thưa:
- Vậy tôi xin sang đòi.
Nói rồi, liền đi thuyền sang Kinh Châu.
Huyền Đức, Khổng Minh lâu nay ở Kinh Châu, tích chứa lương thảo, luyện tập quân mã, hiền sĩ gần xa quy phục rất nhiều. Sực có tin báo Lỗ Túc đến, Huyền Đức hỏi Khổng Minh:
- Tử Kính đến chuyến này có mục đích gì?
Khổng Minh nói:
- Mới rồi, Tôn Quyền tâu cho chúa công làm Kinh Châu mục, là vì sợ Tào Tháo. Tháo phong Chu Du làm thái thú Nam Quận là muốn cho Tôn, Lưu đánh lẫn nhau, hắn ở giữa kiếm lợi. Nay Lỗ Túc đến đây, tất là Chu Du thụ chức rồi, sai Túc sang đòi Kinh Châu đó thôi.
Huyền Đức hỏi:
- Thế thì trả lời làm sao?
Khổng Minh đáp:
- Nếu Lỗ Túc nhắc đến việc Kinh Châu, thì chúa công cứ oà lên khóc, khóc đến chỗ thảm thiết, tôi sẽ xin ra khuyên giải.
Bàn định đâu đấy, Huyền Đức ra tiếp Lỗ Túc vào phủ ngồi chơi.
Túc nói:
- Hoàng thúc nay đã là rể Đông Ngô, tức như chúa công tôi, tôi đâu dám ngồi.
Huyền Đức nói:
- Tử Kính là bạn cũ của ta, sao quá khiêm tốn vậy?
Túc mới ngồi; uống trà xong, Túc nói:
- Tôi phụng mệnh Ngô hầu, chỉ vì việc Kinh Châu mà đến đây. Hoàng thúc mượn Kinh Châu cũng đã lâu rồi, nay hai nhà lại kết thân với nhau, nên nể mặt nhau một chút, mau trao trả cho xong.
Huyền Đức nghe nói, ôm mặt khóc hu hu lên. Túc sợ hỏi:
- Sao hoàng thúc lại thế?
Huyền Đức cứ khóc. Khổng Minh ở sau bình phong, bước ra nói:
- Tử Kính có hiểu cớ làm sao mà chúa công tôi khóc thế không?
Túc nói:
- Tôi thật không biết.
Khổng Minh nói:
- Có khó gì mà không biết. Trước kia chúa công tôi mượn Kinh Châu có hẹn rằng bao giờ lấy được Tây Xuyên thì trả. Nhưng suy đi nghĩ lại: Lưu Chương ở Ích Châu là em chúa công tôi, đôi bên cùng là máu mủ nhà Hán cả. Nếu cất quân sang cướp lấy thành trì, e thiên hạ chê cười. Ích Châu đã không lấy được mà lại phải trả Kinh Châu thì còn chỗ nào mà ở? Mà không trả thì e mất thân tình, việc thực khó nghĩ, bởi thế mới đau lòng mà khóc.
Khổng Minh nói động đến niềm tâm sự của Huyền Đức, Huyền Đức càng đấm ngực giẫm chân, khóc ầm lên. Lỗ Túc khuyên rằng:
- Hoàng thúc chớ nên phiền não, hãy bàn với Khổng Minh thế nào cho phải thì thôi!
Khổng Minh nói:
- Nhờ Tử Kính về ra mắt Ngô hầu, xin chớ tiếc lời, hãy tha thiết bày tỏ cái tình cảnh đó mà cho khoan hạn ít lâu nữa.
Túc nói:
- Lỡ Ngô hầu không nghe thì làm thế nào?
Khổng Minh nói:
- Ngô hầu đã gả em gái cho hoàng thúc tôi, có lẽ nào chẳng nghe? Nhờ Tử Kính về nói đỡ cho khéo.
Lỗ Túc vốn là người nhân từ độ lượng, thấy Huyền Đức sầu não làm vậy, đành phải vâng lời. Huyền Đức và Khổng Minh bái tạ. Tiệc xong, Lỗ Túc từ biệt xuống thuyền, đi thẳng đến Sài Tang, thuật chuyện lại với Chu Du.
Du giẫm chân xuống đất nói rằng:
- Tử Kính lại mắc lừa Gia Cát Lượng rồi! Khi xưa Lưu Bị ở nhờ Lưu Biểu còn có bụng muốn cướp lấy Kinh Châu, huống chi là đối với Lưu Chương ở Tây Xuyên? Y cứ nói quanh mãi thế này, e lại luỵ đến ông mất! Nay ta có một mẹo này, chắc Gia Cát Lượng không sao thoát được, Tử Kính phải đi cho một chuyến nữa mới xong.
Túc hỏi:
- Xin cho tôi được biết mưu hay ra sao?
Du đáp:
- Tử Kính không phải đến Ngô hầu làm chi, cứ lại sang Kinh Châu, bảo với Lưu Bị rằng: “Tôn, Lưu hai nhà đã kết thân với nhau, thì cũng như một nhà. Nếu hoàng thúc không nỡ lấy Tây Xuyên, hãy để Đông Ngô khởi quân đi đánh lấy hộ. Lấy được Tây Xuyên rồi, thì Đông Ngô đem châu ấy làm của hồi môn, mà hoàng thúc phải trả Kinh Châu cho Đông Ngô”.
Túc nói:
- Tây Xuyên xa xôi lắm, chưa dễ đã lấy được, kế ấy của đô đốc, có lẽ không xong chăng?
Du cười nói rằng:
- Tử Kính thật thà quá! Ông tưởng tôi lấy Tây Xuyên thật cho hắn ư? Ta mượn tiếng lấy Tây Xuyên, kỳ thực là sang lấy Kinh Châu, để hắn không đề phòng trước. Quân mã ta kéo sang Tây Xuyên phải đi qua Kinh Châu, ta bắt y phải cung cấp tiền lương, Lưu Bị thế nào cũng ra khao quân ta sẽ thừa cơ giết phăng đi, rồi cướp lấy Kinh Châu. Có thế, mới rửa được hận của ta, mà gỡ luôn cả vạ cho ông nữa!
Lỗ Túc mừng lắm, lại sang ngay Kinh Châu. Khổng Minh bàn với Huyền Đức rằng:
- Lỗ Túc chắc chưa về nói với Ngô hầu, mà chỉ đến Sài Tang cùng Chu Du bày mưu lập kế gì đó để nhử ta đó thôi. Nhung hắn nói câu gì, hễ chúa công thấy tôi gật đầu, thì cứ việc nhận lời.
Bàn định xong xuôi, Lỗ Túc vào chào hỏi rồi nói:
-Ngô hầu ca tụng nhân đức của hoàng thúc lắm nên bàn với các tướng muốn cất quân sang lấy đỡ Tây Xuyên cho hoàng thúc, để đổi lấy Kinh Châu, và để làm của hồi môn. Khi quân mã đi qua, phiền hoàng thúc cung ứng đỡ cho ít nhiều tiền lương.
Khổng Minh nghe xong, gật lấy gật để, nói rằng:
- Quý báu quá! Không mấy người được tốt bụng như Ngô hầu.
Huyền Đức chắp tay cảm tạ rằng:
- Đó là nhờ Tử Kính khéo nói giúp cho đấy!
Khổng Minh nói:
- Khi nào quân mã quý quốc đi qua đây, sẽ xin ra tận ngoài xa nghênh tiếp, khao quân tử tế.
Lỗ Túc mừng lắm, ăn yến xong, từ biệt ra về.
Huyền Đức hỏi Khổng Minh:
- Thế là ý làm sao?
Khổng Minh cười ầm lên nói rằng:
- Chu Du đến ngày sắp chết đây! Mưu kế ấy đến trẻ con nó cũng biết nữa là!
Huyền Đức vẫn chưa nghe ra, lại hỏi, Khổng Minh nói:
- Đó là mẹo “mượn đường diệt Quắc”[1] khi xưa, tiếng là lấy Xuyên, kỳ thực là lấy Kinh Châu, đợi khi nào chúa công ra thành khao quân, thì thừa cơ bắt lấy, rồi đánh ùa vào thành, đó gọi là đánh vào chỗ sơ hở, lừa lúc ta không để ý đấy thôi!
Huyền Đức hỏi:
- Ta nên làm thế nào?
- Chúa công hãy yên tâm. Ta cần phải dự sẵn cung tốt để bắn hổ mạnh, móc sẵn mồi thơm để giật cá ngao. Chu Du mà đến đây, chẳng chết thì cũng ngắc ngoải.
Liền gọi Triệu Vân lại dặn kế: “Như thế, như thế… ngoài ra mặc ta bố trí”, Huyền Đức mừng lắm.
Người sau có thơ than rằng:
Chu Du lập mẹo lấy Kinh Châu
Gia Cát tài tình biết đã lâu
Vẫn tưởng Trường Giang mồi đớp gọn
Nào ngờ cá lại mắc vào câu!
Lỗ Túc trở về thuật lại với Chu Du, nói Huyền Đức, Khổng Minh mừng lắm, đã sắp sẵn để ra thành khao quân. Du cười ha hả nói:
- Gia Cát giỏi mấy thì phen này cũng mắc mưu của ta!
Liền sai Lỗ Túc về báo với Ngô hầu, và cho Trình Phổ dẫn quân tiếp ứng.
Bấy giờ bệnh tình của Chu Du tạm bình phục, thân thể đã khoẻ mạnh, Du sai Cam Ninh làm tiên phong, Du cùng với Từ Thịnh, Đinh Phụng làm đội thứ hai, Lăng Thống, Lã Mông làm hậu đội. Quân thuỷ bộ cả thảy năm vạn, kéo sang Kinh Châu, Chu Du ngồi trong thuyền, cười cười nói nói, đinh ninh là Gia Cát Lượng mắc mẹo.
Tiền quân kéo đến Hạ Khẩu. Chu Du hỏi:
- Kinh Châu có ai đến nghênh tiếp đó không?
Quân sĩ bẩm:
- Lưu Huyền Đức sai My Chúc đến hầu đô đốc.
Du cho gọi vào hỏi lễ khao quân ra làm sao? Chúc bẩm:
- Chúa công tôi đã chuẩn bị sẵn sàng cả rồi!
Du hỏi:
- Hoàng thúc ở đâu?
Chúc thưa:
- Ở ngoài thành Kinh Châu, chỉ đợi đô đốc đến để chúc rượu mừng.
Du nói:
- Nay Đông Ngô ta vì việc của nhà ngươi, phải mang quân đi đánh tận nơi xa, lễ lạt khao quân, phải cho tử tế!
My Chúc xin vâng rồi từ biệt trở ra. Du sai dâng thuyền kín cả mặt sông, lần lượt kéo đi. Gần đến Công An, cũng không thấy một chiếc thuyền, một bóng người nào ra nghênh tiếp.
Chu Du giục thuyền đi cho mau, chỉ còn cách Kinh Châu độ mươi dặm, trên mặt sông vẫn lạnh ngắt như tờ. Quân do thám báo rằng:
- Trên thành Kinh Châu, chỉ thấy phất phơ hai lá cờ trắng, ngoài ra chẳng có một ai.
Du trong bụng nghi hoặc, sai áp thuyền vào bờ, lên bộ, dẫn Cam Ninh, Từ Thịnh, Đinh Phụng và ba nghìn quân sĩ, nhằm Kinh Châu đi tới. Đến tận dưới thành, vẫn không thấy gì, Du ghìm ngựa lại sai quân sĩ gọi cửa. Quân trên thành hỏi ai? Quân Ngô đáp:
- Có Chu đô đốc ở Đông Ngô đến đây!
Nói chưa dứt lời, bỗng một hồi mõ nổi lên, quân sĩ trên mặt thành nhất tề gươm giáo dựng lên tua tủa. Rồi thấy Triệu Vân đứng trên chòi cao, gọi hỏi rằng:
- Đô đốc đến đây có việc gì?
Du nói:
- Ta thay chủ ngươi đi lấy Tây Xuyên, ngươi chưa biết à?
Vân nói:
- Quân sư tôi đã biết đô đốc dùng mẹo “Mượn đường diệt Quắc” nên sai tôi giữ ở đây. Chúa công tôi nói: “Ta với Lưu Chương đều là tôn thần nhà Hán cả, sao nỡ bội nghĩa mà cướp lấy Tây Xuyên? Nếu Đông Ngô thật sự đánh Tây Xuyên, ta sẽ xoã tóc vào ẩn trong núi chớ không chịu mất tín nghĩa với thiên hạ!”
Chu Du nghe vậy, quay ngựa trở về, bỗng thấy một người cầm cờ lệnh đến báo rằng:
- Chúng tôi dò biết có quân mã bốn mặt kéo đến: Quan Vân Trường từ Giang Lăng, Trương Phi từ Tỷ Quy, Hoàng Trung ở Công An, Nguỵ Diên thì từ con đường nhỏ Sán Lăng; bốn mặt không biết có bao nhiêu quân mã kéo đến, tiếng reo vang trời dậy đất, chúng hò hét “Chuyến này nhất bắt sống Chu Du!”
Du gầm lên một tiếng, ngã nhào xuống ngựa.
Đó là:
Một nước cờ cao, khôn gỡ được,
Mấy phen tính toán mất công không!
Chưa biết tính mệnh Chu Du phen này ra sao, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Chú thích: 
1. Đời Xuân thu, nước Tấn mượn đường của nước Ngu để đi qua cướp nước Quắc, cướp xong nước Quắc liền quay lại cướp luôn nước Ngu.
Hồi 57:
Cửa Sài Tang, Ngọa Long đến viếng tang
Huyện Lỗi Dương, Phượng Sồ quản công việc
Nói về Chu Du khí tức đầy ruột, ngã quay xuống ngựa, tả hữu cấp cứu xuống thuyền. Lại có quân sĩ bẩm rằng:
- Huyền Đức, Khổng Minh đang ngồi trên đỉnh núi trước mặt, uống rượu vui cười.
Du càng tức lắm, nghiến răng lại, nói rằng:
- Người bảo ta không lấy được Tây Xuyên hay sao, ta thề sang lấy cho mà xem!
Đang cơn tức giận, thì có tin báo em Tôn Quyền là Tôn Du đến. Chu Du mời vào, thuật rõ đầu đuôi chuyện trước, Tôn Du nói:
- Tôi phụng mệnh anh tôi đến đây để giúp đô đốc.
Du thúc quân kéo đi đến Ba Khâu, bỗng lại có người báo mé thượng lưu có Lưu Phong, Quan Bình chặn ngang sông. Chu Du lại càng tức nữa. Một lát, thấy Khổng Minh sai người đưa thư đến. Du mở ra xem, trong thư nói rằng:
“Quân sư trung lang tướng nhà Hán là Gia Cát Lượng đưa thư này cho đô đốc nước Ngô là Công Cẩn được biết:
“Tôi từ ngày chia tay với ngài ở Sài Tang đến giờ, vẫn còn lưu luyến chưa quên, nay nghe thấy ngài muốn cất quân sang lấy Tây Xuyên, tôi thiết nghĩ không nên. Ích Châu, dân thì mạnh, đất thì hiểm, Lưu Chương tuy rằng hèn đớn, nhưng giữ cũng nổi. Nay muốn thành công mà bắt quân đi khó nhọc đi đánh xa, vận tải hàng muôn dặm, tôi chắc dẫu đến Ngô Khởi, Tôn Vũ ngày xưa cũng không sao làm nổi được.
“Tào Tháo mới thua ở Xích Bích đâu đã phút chốc quên bẵng việc báo thù? Nay ngài cất quân đi đánh phương xa, Tào Tháo thừa cơ đến đánh, thì Giang Nam ra cám mất. Tôi không nỡ ngồi nhìn mà không báo trước, xin ngài soi xét”.
Chu Du xem xong, thở dài một tiếng, gọi tả hữu đem bút mực đến, viết một phong thư, sai người dâng lên Ngô hầu. Rồi họp các tướng lại dặn rằng:
- Ta không phải là không muốn hết lòng báo nước, nhưng số mệnh ta đến đây là hết rồi. Các ông nên thờ Ngô hầu cho thuỷ chung, để cùng dựng nên nghiệp lớn!
Nói đoạn, ngất đi một lúc, rồi dần dần lại tỉnh, ngửa mặt lên trời thở dài mà than rằng:
- Trời đã sinh ra Du, sao còn sinh ra Lượng?
Du kêu luôn mấy tiếng rồi mất, thọ 36 tuổi.
Người sau có thơ than rằng:
Xích Bích anh hùng nổi tiếng a!
Phong lưu tuổi trẻ bậc tài hoa
Thảnh thơi chén rượu từ lời bạn,
Thánh thót cung đàn tỏ ý xa.
Xích Bích dẹp tan muôn hổ báo,
Giang Nam riêng mở một sơn hà
Ba Khâu mệnh bạc từ đây nhé
Lệ ứa hai hàng ruột xót xa!
Các tướng đem thi hài Chu Du về quàn ở Ba Khâu, rồi sai người mang thư về báo với Tôn Quyền. Quyền nghe tin Chu Du mất liền khóc vang lên. Rồi mở thư ra xem, thì là thư tiến cử Lỗ Túc để thay mình. Đại ý trong thư viết:
“Du tôi là kẻ bất tài, may được đội ơn đãi ngộ đặc biệt, uỷ thác cho những việc quan trọng, thống lĩnh quân mã, đâu dám không dốc hết sức lực để đền đáp ơn dày? Nhưng sống chết khôn lường, ngắn dài có số, ý chí chưa đạt, thân thể đã tàn, uất hận kể sao xiết nỗi? Giờ đây, Tào Tháo ở phía Bắc, bờ cõi chưa yên; Lưu Bị ở nhờ, khác gì nuôi hổ. Việc trong thiên hạ, chưa biết thế nào? Chính lúc này là lúc kẻ làm bề tôi phải hy sinh vất vả, vua chúa phải lo lắng gian lao. Lỗ Túc là người trung liệt, gặp việc không cẩu thả, có thể thay tôi. “Con người lúc sắp chết thì lời nói thường đúng” nếu được lượng trên soi xét, tôi chết cũng không đến nỗi uổng!”
Tôn Quyền xem thư xong, khóc oà mà rằng:
- Công Cẩn có tài vương tá, chẳng may mất sớm thế này, ta còn trông cậy vào ai? Nay để thư lại tiến cử Lỗ Túc, có đâu ta chẳng nghe lời!
Ngay hôm ấy phong Lỗ Túc làm đại đô đốc, thống lĩnh cả binh mã, rồi sai người rước linh cữu của Chu Du về táng.
Lại nói Khổng Minh ở Kinh Châu, đêm xem thiên văn, thấy có một ngôi tướng tinh rơi xuống đất, cười mà nói rằng:
- Chu Du chết rồi!
Đến sáng, nói chuyện với Huyền Đức, rồi sai người đi do thám, quả nhiên như thế. Huyền Đức hỏi:
- Chu Du chết rồi, bên ấy bây giờ ra làm sao?
Khổng Minh đáp:
- Người thay Chu Du thống lĩnh binh quyền chắc là Lỗ Túc. Tôi xem thiên văn thấy tướng tinh tụ ở phương đông; vậy xin sang Giang Nam một chuyến mượn cớ viếng tang để tìm hiền sĩ về giúp chúa công.
Huyền Đức nói:
- Chỉ ngại các tướng sĩ Đông Ngô muốn hại tiên sinh!
Khổng Minh nói:
- Khi Chu Du còn sống, tôi còn chẳng ngại, nay hắn ta chết rồi, còn lo gì nữa?
Nói đoạn, sai Triệu Tử Long dẫn năm trăm quân, đem đồ lễ xuống thuyền, đến thẳng Ba Khâu viếng tang. Dọc đường, được tin Lỗ Túc đã lĩnh chức đô đốc, linh cữu Chu Du đã đưa về Sài Tang, Khổng Minh bèn đi tắt sang đó. Lỗ Túc ra nghênh tiếp tử tế. Bộ hạ của Chu Du đều muốn giết Khổng Minh, nhưng thấy Triệu Văn đeo gươm đi kèm không dám hạ thủ. Khổng Minh sai bày lễ vật trước linh vị Chu Du, thân rót rượu, rồi quỳ xuống đọc một bài văn tế rằng:
Than ôi, Công Cẩn! Chẳng may trời hại!
Thọ yểu số trời, ai không ái ngại!
Rót chén rượu này, lòng ta xót xa
Ông có khôn thiêng, chứng giám cho ta!
Viếng ông thuở nhỏ, chơi với Bá Phù
Trọng nghĩa khinh tài, nhường nhà cho nhau.
Thương ông trẻ trung, có ý cao xa,
Gây dựng nghiệp bá, riêng một sơn hà!
Khen ông sức khoẻ, trấn giữ Ba Khâu,
Cảnh Thăng mất vía, Tôn Sách yên lòng.
Thương ông trai trẻ, sánh với Tiểu Kiều
Rể tôi nhà Hán, xứng đáng trăm điều.
Thương ông khí khái, ngăn việc hàng Tào.
Trước chưa chắp cánh, dần dần bay cao.
Thương ông khôn ngoan, Tưởng Cán đến dụ,
Chén rượu thảnh thơi, Tào man mắc mẹo
Thương ông có tài, văn võ kiêm toàn,
Hoả công phá Tào, chuyển nguy thành an
Thương ông khi ấy, anh hùng ghê gớm.
Lệ tuôn hai hàng, thương ông mất sớm
Lòng thì trung nghĩa, hồn thì anh linh,
Mới ba chục tuổi, nghìn thu nêu danh!
Ruột ta rầu rĩ, thương ông tha thiết,
Trăm thảm nghìn sầu, kể sao cho xiết!
Trời mây mịt mù, ba quân xót xa,
Chủ thì sùi sụt, bạn thì lệ sa!
Lượng tôi bất tài, xin mẹo cầu mưu,
Giúp Ngô chống Tào, phò Hán yên Lưu.
Lập thế ỷ giốc, cứu giúp nhau cùng,
Kẻ mất người còn, xót ruột đau lòng!
Than ôi, Công Cẩn! Đã biệt nhau rồi!
Thôi nói chi nữa, thế là xong đời!
Hồn có khôn thiêng, soi thấy can tâm
Từ nay thiên hạ, ai kẻ tri âm?
Than ôi! Thương thay! Phục duy thượng hưởng!
Khổng Minh tế xong, gục xuống đất khóc, nước mắt giàn giụa như suối, đau đớn vô cùng. Các tướng bảo nhau:
- Người ta nói Khổng Minh không hoà với Công Cẩn, nay xem tình thương xót thế này, mới biết họ toàn nói nhảm cả!
Lỗ Túc thấy Khổng Minh thương khóc, cũng ứa nước mắt, nghĩ:
- Khổng Minh vẫn là người tử tế, chỉ vì Công Cẩn hẹp hòi, tự rước lấy cái chết đó thôi!
Người sau có thơ rằng:
Nam Dương Ngọc Long ngủ chưa dậy,
Tướng tinh lại hạ xuống Thư thành
Trời xanh trót đã sinh Công Cẩn
Trần thế sao còn nảy Khổng Minh?
Lỗ Túc đặt tiệc khoản đãi Khổng Minh. Tiệc xong, Khổng Minh từ biệt ra về, vừa sắp xuống thuyền, bỗng có một người đội mũ áo đạo sĩ, một tay nắm lấy Khổng Minh cười ha hả, nói:
- Ngươi đã làm Chu Du tức mà chết, lại còn đến viếng tang, rõ ràng coi thường Đông Ngô không còn ai nữa chăng?
Khổng Minh vội trông lại xem ai, thì là Phượng Sồ tiên sinh Bàng Thống. Khổng Minh cũng cười lớn dắt tay nhau lên thuyền nói chuyện.
Khổng Minh đưa một phong thư cho Bàng Thống và dặn:
- Tôi chắc Tôn Quyền không trọng dụng được ông, nếu có điều gì không như ý, xin hãy sang Kinh Châu giúp Lưu Huyền Đức với tôi. Huyền Đức là người khoan nhân trung hậu, tất không phụ cái học của ông.
Thống nhận lời, rồi từ biệt Khổng Minh.
Lại nói, Lỗ Túc đưa linh cữu Chu Du về đến Vu Hồ, Tôn Quyền ra đón, khóc tế trước linh vị, rồi sai hậu táng tại quê làng. Du có hai trai một gái, con trưởng tên Tuần, con thứ tên Dân, Quyền đều giúp đỡ rất chu đáo.
Lỗ Túc nói:
- Tôi tài nhỏ trí mọn, Công Cẩn tiến cử nhầm, quả thật không xứng đáng với chức vụ. Tôi xin cử một người giúp chúa công. Người này, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, mưu lược chẳng kém gì Quản, Nhạc, kế sách ngang với Tôn, Ngô. Trước đây Công Cẩn nhờ mẹo người ấy cũng nhiều, mà Khổng Minh cũng chịu là giỏi; hiện người ấy đang ở Giang Nam, sao chúa công không trọng dụng?
Quyền nghe nói mừng lắm, liền hỏi họ tên là gì?
Túc thưa:
- Người ấy ở Tương Dương, họ Bàng tên Thống, tự là Sĩ Nguyên, đạo hiệu Phượng Sồ tiên sinh.
Quyền mừng lắm, nói:
- Ta nghe tiếng người này đã lâu, nay có ở đây, nên cho mời lại chơi ngay.
Lỗ Túc mời Bàng Thống đến ra mắt Tôn Quyền. Thống đến thi lễ xong, Quyền trông thấy Bàng Thống lông mày rậm, mũi lõ, mặt đen, râu ngắn, hình dung cổ quái, có ý không bằng lòng, mới hỏi rằng:
- Bình sinh ông học môn gì là chính?
Thống thưa:
- Không câu nệ gì cả, cứ tuỳ cơ mà ứng biến.
Quyền hỏi:
- Tài học của ông, so với Công Cẩn thế nào?
Thống cười đáp:
- Tôi học khác Công Cẩn nhiều.
Quyền xưa nay ưa nhất Chu Du, thấy Thống coi thường Du, càng tỏ vẻ không bằng lòng, bảo Thống rằng:
- Ông hãy về, khi nào cần đến, sẽ cho người mời.
Thống thở dài một tiếng, rồi trở ra.
Lỗ Túc hỏi:
- Chúa công sao không dùng Bàng Sĩ Nguyên?
Quyền đáp:
- Hắn là một cuồng sĩ, dùng làm quái gì!
Túc nói:
- Trong trận Xích Bích, hắn dâng kế liên hoàn, lập được công đầu, chắc hẳn chúa công cũng đã biết?
Quyền nói:
- Hồi đó, ý Tào Tháo muốn ghép thuyền lại chứ vị tất đã là công hắn, ta nhất định không dùng.
Túc trở ra nói với Bàng Thống:
- Không phải là tôi không tiến cử ông, nhưng chủ tôi chưa nghe, xin ông hãy cố nén lòng chờ đợi.
Thống cúi đầu thở dài, chẳng nói năng gì.
Túc hỏi:
- Hay là ông không muốn ở đây nữa chăng?
Thống không đáp. Túc nói:
- Ông có tài giúp chúa yên dân, đi đâu mà chẳng đắt? Nhưng ông muốn đi xứ nào, nên nói thật cho tôi biết.
Thống nói:
- Tôi muốn sang với Tào Tháo.
Túc nói:
- Chớ nên! Ông mà sang với Tào Tháo, khác nào ném hạt châu quý vào xó tối. Ông nên sang Kinh Châu theo Huyền Đức, tất nhiên được trọng dụng.
Thống nói:
- Tôi cũng nghĩ thế, vừa rồi là câu nói đùa thôi.
Túc nói:
- Tôi xin tiến cử ông với Huyền Đức, ông sẽ giúp làm cho Tôn, Lưu hai nhà không đánh lẫn nhau, cùng chung sức phá Tào.
Thống nói:
- Đó là ý chí của tôi từ trước đến nay vậy!
Liền cầm thư của Túc, sang thẳng Kinh Châu ra mắt Huyền Đức.
Bấy giờ Khổng Minh đi kinh lý bốn quận chưa về. Nha lại vào bảo có danh sĩ ở Giang Nam là Bàng Thống đến. Huyền Đức từng nghe tiếng Thống đã lâu, liền sai mời vào. Thống thấy Huyền Đức chỉ vái dài một cái chứ không lạy. Huyền Đức thấy Thống xấu xí, cũng tỏ vẻ không vui, liền hỏi:
- Ông từ xa đến đây, khí vất vả lắm nhỉ?
Thống chưa đưa thư của Khổng Minh và Lỗ Túc vội, chỉ đáp rằng:
- Nghe tiếng ngài yêu người hiền, trọng kẻ sĩ, nên tôi cũng đến yết kiến.
Huyền Đức nói:
- Hai miền Kinh, Sở vừa tạm sắp xếp yên ổn, chưa có chức gì khuyết. Về phía đông bắc cách đây một trăm ba mươi dặm, có huyện Lỗi Dương khuyết một chức tri huyện, ông hãy làm tạm vậy, sau này cần đến sẽ xin trọng dụng.
Bàng Thống nghĩ Huyền Đức đãi mình sao bạc bẽo thế, muốn trổ tài ra cho biết, nhưng vì Khổng Minh không có mặt ở đây, nên phải gượng vâng lời, từ biệt trở ra.
Thống đến huyện Lỗi Dương, không nghĩ gì đến việc cai trị, chỉ uống rượu say khướt suốt ngày. Bao nhiêu việc tiền lương, kiện cáo, xếp cả một xó.
Có người báo với Huyền Đức, Huyền Đức giận, nói:
- Đồ hủ nho, sao dám làm rối loạn pháp luật của ta?
Lập tức gọi Trương Phi lại dặn:
- Hãy đem tuỳ tùng đến các huyện miền Nam Kinh Châu tuần sát, nếu thấy kẻ nào không công minh, không tuân giữ pháp luật thì cứ việc trị tội.
Lại sai Tôn Càn đi kèm, để có điều gì khó khăn thì giúp đỡ.
Phi lĩnh mệnh cùng Tôn Càn đến thẳng huyện Lỗi Dương. Nha lại và nhân dân đều ra nghênh tiếp, chỉ một mình quan huyện là không thấy mặt đâu cả.
Phi hỏi:
- Quan huyện đâu?
Nha lại bẩm:
- Từ khi quan huyện Bàng về nhận chức tới giờ, đã hơn ba tháng, chẳng hỏi han gì việc trong huyện cả, ngày nào cũng chỉ uống rượu từ sáng đến tối, lúc nào cũng say li bì. Hiện bây giờ cũng còn đương say nằm một chỗ, chưa đứng dậy được.
Trương Phi giận lắm, muốn bắt ngay để hỏi tội. Tôn Càn can rằng:
- Bàng Thống là người cao minh, chưa nên vội vã. Hãy vào huyện hỏi xem làm sao, nếu không phải, sẽ trị tội cũng chưa muộn.
Phi nghe lời, vào huyện, ngồi nghiêm chỉnh giữa công đường, sai đòi quan huyện đến hỏi. Bàng Thống bấy giờ mới ra, áo mũ xốc xếch, chân bước chệnh choạng, miệng còn sặc những hơi rượu.
Phi giận nói:
- Anh ta tưởng ngươi là người khá, cho làm tri huyện, sao ngươi dám bỏ hết cả việc quan?
Thống cười, nói:
- Tướng quân bảo tôi bỏ những việc gì?
Phi nói:
- Ngươi đến huyện hơn ba tháng nay, cả ngày chỉ mê man chè rượu, có coi đâu đến chính sự mà chả bỏ?
Thống đáp:
- Cái thứ huyện nhỏ này được mấy nỗi công việc, có gì mà phải coi xét? Tướng quân hãy ngồi thư lại một lát, tôi xin giải quyết đâu đấy ngay cho mà xem!
Lập tức sai nha lại đem hết công việc bỏ đọng trong ba tháng đến để phân xử. Nha lại tíu tít ôm cả một tập văn án ra. Những người kiện cáo đứng vòng quanh cả dưới thềm.
Thống mở văn án ra xem, tay thì viết, miệng thì phê phán, tai thì nghe người thưa bẩm, phải trái phân minh, không sai một sợi tơ sợi tóc nào. Nhân dân đều cúi đầu bái phục. Chưa đầy nửa buổi, bao nhiêu giấy má phê xong hết, không sót việc gì. Thống quẳng bút xuống đất, nói:
- Bỏ bê việc gì nào? Tào Tháo, Tôn Quyền ta còn chẳng coi vào đâu, huống chi một cái huyện ranh này, việc gì mà phải bận lòng!
Phi giật mình, đứng ngay dậy, xin lỗi, nói:
- Tiên sinh thật là bậc cao tài, tiểu tử có mắt mà không biết. Vậy xin hết sức tiến cử tiên sinh với anh tôi.
Thống bây giờ mới đưa thư của Lỗ Túc ra. Phi hỏi:
- Sao lúc mới đến ra mắt anh tôi, tiên sinh không đưa ngay thư này ra?
Thống nói:
- Nếu đưa ngay thì chẳng hóa ra tôi chỉ nhờ cái thư ấy để cầu cạnh ư?
Phi ngảnh lại bảo Tôn Càn rằng:
- Giá không có ông, suýt nữa bỏ mất một vị đại hiền!
Liền từ biệt Bàng Thống trở về Kinh Châu, thuật lại tài của Bàng Thống. Huyền Đức thất kinh, nói:
- Khinh đãi đại hiền, quả thực là lỗi tại ta!
Phi lại trình thư của Lỗ Túc, Huyền Đức mở ra xem, trong thư đại ý nói:
“Tài của Bàng Sĩ Nguyên không phải để làm tri huyện; phải dùng vào chức trị trung biệt giá thì mới vùng vẫy được. Nếu dùng người mà cứ nhìn mặt mũi xấu hay đẹp, e phụ mất tài học vấn của người ta, mà để người khác dùng mất, thật đáng tiếc lắm!”
Huyền Đức xem xong, còn đang hối hận, sực có tin báo Khổng Minh đã về. Huyền Đức ra tiếp vào. Khổng Minh hỏi ngay rằng:
- Bàng quân sư mấy hôm nay có mạnh khoẻ không?
Huyền Đức nói rằng:
- Vừa rồi làm tri huyện Lỗi Dương, hay rượu bỏ cả việc.
Khổng Minh cười, nói:
- Sĩ Nguyên không phải là tài tầm thường, ông ấy học giỏi gấp mười tôi, tôi đã có thư tiến ông ấy, chúa công đã xem chưa?
Huyền Đức nói:
- Nếu không có em tôi nói thì suýt nữa thiệt mất một vị đại hiền.
Lập tức sai ngay Trương Phi ra huyện Lỗi Dương mời Bàng Thống về. Thống về đến nơi, Huyền Đức xuống thềm xin lỗi. Lúc này Thống mới đưa thư của Khổng Minh ra.
Huyền Đức xem thư đại ý dặn khi nào Bàng Sĩ Nguyên đến, thì nên trọng dụng ngay lập tức. Huyền Đức mừng, nói:
- Ngày trước Tư Mã Đức Tháo có nói là “Phục Long và Phượng Sồ, trong hai người mà được một người thì đủ yên được thiên hạ”. Nay ta được cả hai, tất nhiên gây lại được cơ đồ nhà Hán.
Lập tức cử Bàng Thống làm phó quân sư trung lương tướng, cùng với Khổng Minh bàn tính mưu kế huấn luyện quân sĩ, chuẩn bị đi đánh dẹp.
Có người báo về Hứa Xương rằng:
- Lưu Bị có Gia Cát Lượng, Bàng Thống làm mưu sĩ, chiêu binh tập mã, chứa cỏ tích lương, kết liên với Đông Ngô, nay mai tất kéo quân đánh miền Bắc.
Tháo được tin, liền họp cả mưu sĩ lại bàn việc đánh miền Nam. Tuân Du thưa:
- Chu Du mới chết ta nên đánh Tôn Quyền trước, rồi sẽ đánh Lưu Bị.
Tháo nói:
- Nếu ta đi đánh nơi xa, chỉ lo Mã Đằng thừa cơ đánh úp Hứa Xương. Khi đánh ở Xích Bích đã có tin đồn quân Tây Lương đến cướp, nay phải phòng bị mới được.
Du lại thưa:
- Cứ như ý tôi, thì nên đưa tờ chiếu phong thêm cho Mã Đằng làm Chinh nam tướng quân, sai sang đánh Tôn Quyền, dụ hắn vào Hứa Đô mà trừ trước ngay đi, thì mới yên tâm xuống đánh miền Nam được.
Tháo mừng lắm, sai ngay người mang chiếu đến Tây Lương triệu Mã Đằng về.
Mã Đằng tự là Thọ Thành, dòng dõi tướng quân Phục Ba Mã Viện khi xưa. Cha tên là Túc, thời vua Hoàn đế làm chức tri huyện ở Lan Can, quận Thiên Thuỷ, sau mất quan, lưu lạc sang Lũng Tây, ở lẫn với người Khương, lấy vợ người Khương, sinh ra Mã Đằng. Đằng mình cao tám thước, tướng mạo hùng dũng, tính nết hiền hậu, ai cũng kính trọng. Cuối đời vua Linh đế, quân Khương làm phản, Đằng mộ dân quân phá tan được. Trong khoảng giữa đời Sơ Bình, Đằng được phong làm Chinh tây tướng quân. Đằng cùng với Trấn tây tướng quân Hàn Toại kết làm anh em.
Hôm ấy Đằng phụng chiếu mệnh liền bàn với con là Mã Siêu rằng:
- Ta từ khi cùng Đổng Thừa vâng mật chiếu đến nay, hẹn với Huyền Đức cùng đánh giặc. Chẳng may Đổng Thừa mất rồi, mà Huyền Đức thì thua mãi, ta lại ở xó Tây Lương hẻo lánh này, chưa có thể hợp sức được với Huyền Đức.Nay nghe Huyền Đức mới lấy Kinh Châu, ta đang muốn mở chí khí xưa, không ngờ Tào Tháo lại triệu ta, thì nên nghĩ làm sao?
Mã Siêu thưa:
- Tháo vâng mệnh thiên tử để triệu cha, nếu không đi, hắn tất trách cha là người chống lệnh. Nên nhân dịp này, vào ngay kinh đô rồi liệu kế mà giết phăng nó đi, thì chí của cha xưa mới nổi lên được.
Cháu gọi Mã Đằng bằng chú là Mã Đại thì can rằng:
- Bụng Tào Tháo hiểm độc lắm, nếu chú vào đó, sợ bị hắn mưu hại mất.
Siêu nói:
- Con xin đem hết cả quân Tây Lương, theo cha đánh vào Hứa Đô để trừ hại cho thiên hạ, có gì chẳng được?
Đằng nói:
- Con nên thống lĩnh quân Khương, giữ gìn lấy Tây Lương cho cha, còn em con là Mã Hưu, Mã Thiết và cháu là Mã Đại thì theo cả cha đến Hứa Xương. Tào Tháo thấy con ở Tây Lương, lại có Hàn Toại giúp đỡ, tất nhiên không dám hại cha đâu!
Siêu nói:
- Nếu cha có đi, thì chớ nên coi thường mà vào Hứa Đô vội. Hãy xem động tĩnh làm sao rồi tuỳ cơ ứng biến mới được.
Đằng nói:
- Cha sẽ liệu khu xử, không phải lo lắm.
Thế rồi, Mã Đằng dẫn năm nghìn quân Tây Lương, sai Mã Hưu, Mã Thiết làm tiên phong, Mã Đại đi sau tiếp ứng, từ từ kéo sang Hứa Xương. Còn cách kinh đô hai chục dặm, Đằng đóng quân lại, không vào vội.
Tháo nghe tin Mã Đằng đã đến, bèn gọi quan thị lang là Hoàng Khuê dặn rằng:
- Mã Đằng sắp sửa sang đánh phương Nam, ta cho ngươi làm hành quân tham mưu. Ngươi nên đến trại Mã Đằng trước mà khao quân, và bảo hắn rằng: Tây Lương xa xôi, chuyển vận lương thảo khó khăn, nên không thể nhiều quân mã được. Bởi thế, ta cử thêm đại binh, hiệp sức cùng đi. Ngày mai bảo hắn vào thành ra mắt thiên tử, rồi ta giao lương thảo nhân thể.
Khuê lĩnh mệnh, ra gặp Mã Đằng. Đằng đặt tiệc khoản đãi. Rượu say, Khuê nói rằng:
- Cha tôi là Hoàng Uyển, chết về nạn Lý Thôi, Quách Dĩ; tôi vẫn căm tức chưa nguôi, không ngờ lại gặp phải tên giặc dối vua thế này!
Đằng nói:
- Ai là giặc dối vua?
Khuê nói:
- Tào Tháo chớ ai nữa, ông không biết hay sau mà còn phải hỏi?
Đằng sợ là người của Tào Tháo sai người thử mình, vội vàng ngăn lại rằng:
- Tai vách mạch rừng, ông chớ nên nói xằng!
Khuê gắt lên rằng:
- Thế ông quên mất tờ chiếu trong tay áo rồi à?
Đằng thấy nói vậy, biết là Khuê thật lòng, mới đem việc kín ra nói với Khuê.
Khuê nói:
- Tháo muốn triệu ông vào thành chầu vua, không phải có bụng tử tế gì đâu, ông chớ nên vào! Ngày mai nên dẫn quân đến dưới thành, đợi khi nào Tào Tháo ra điểm quân, sẽ thừa dịp giết đi, thì việc lớn chắc xong.
Hai người bàn định đâu đó, Hoàng Khuê từ biệt trở về, trông dáng hãy còn tức giận. Vợ hỏi hai ba lần, Khuê nhất định không nói. Không ngờ vợ lẽ Khuê là Lý Xuân Hương, vốn phải lòng Miêu Trạch, em vợ cả Khuê. Trạch đang muốn lấy Xuân Hương nhưng chưa nghĩ được kế gì. Mụ này thấy chồng có dáng giận, liền nói với Trạch:
- Hôm nay, Hoàng thị lang đi bàn việc quân trở về, có vẻ tức bực lắm, không hiểu vì lẽ gì?
Trạch nói:
- Nàng nên hỏi thử rằng: “Người ta ai cũng bảo Lưu Huyền Đức là người nhân đức, Tào Tháo là người gian hùng, là ý làm sao?” Xem hắn nói thế nào?
Đêm hôm ấy, Hoàng Khuê đến buồng Xuân Hương, mụ liền buông lời khêu gợi. Khuê nhân lúc này còn say rượu, nói tuột rằng:
- Nàng là đàn bà, còn biết kẻ tà người chính, huống chi là ta? Ta muốn giết chết ngay thằng Tào Tháo đi mới hả dạ!
Mụ hỏi:
- Muốn giết thì làm kế gì?
Khuê đáp:
- Ta đã hẹn với Mã Đằng, ngày mai đến dưới thành thừa cơ giết ngay nó tại chỗ điểm binh.
Mụ đem chuyện nói với Miêu Trạch. Trạch lập tức đến báo với Tào Tháo. Tháo gọi ngay Tào Hồng, Hứa Chử, Từ Hoảng, Hạ Hầu Uyên, dặn dò mẹo mực. Các tướng vâng lệnh chuẩn bị đâu đấy. Tháo lại sai bắt cả nhà Hoàng Khuê giam lại.
Hôm sau, Mã Đằng dẫn quân Tây Lương đến cửa thành, trông ra trước mặt, thấy một lớp cờ đỏ, toàn là cờ hiệu thừa tướng, Mã Đằng tưởng là Tào Tháo ra điểm quân, tế ngựa lại gần xem sao. Bỗng nhiên một tiếng pháo nổ, rồi ở trong đám cờ đỏ, cung tên bắn ra như mưa. Lại có một tướng xông ra, là Tào Hồng. Mã Đằng vội vàng quay ngựa chạy về, thì hai bên tiếng reo ầm ầm nổi dậy, bên tả có Hứa Chử, bên hữu có Hạ Hầu Uyên, mé sau có Từ Hoảng đuổi đến, cắt đôi quân mã Tây Lương, vây chặt ba cha con Mã Đằng vào giữa.
Mã Đằng thấy thế nguy cấp, liều chết khua đao xông xáo chém giết. Mã Thiết bị tên bắn chết, còn Mã Hưu theo sát Mã Đằng, xông bên nọ, xáo bên kia, không sao ra được; hai bố con cùng bị thương nặng, ngựa lại bị tên bắn ngã gục, bởi thế bị bắt sống cả.
Tháo sai trói điệu bố con Mã Đằng và Hoàng Khuê đem vào hỏi. Khuê kêu là vô tội. Tháo gọi Miêu Trạch ra làm chứng. Mã Đằng trách mắng Hoàng Khuê rằng:
- Đồ hủ nho kia! Vì mày mà lỡ việc của tao. Tao không giết được giặc để trừ hại cho nước là do lòng trời!
Tháo sai lôi cả ra, Mã Đằng chửi mắng không dứt lời. Rồi Mã Đằng cùng Mã Khuê và Hoàng Khuê đều bị hại.
Đời sau có bài thơ than Mã Đằng rằng:
Cha con cùng tử tiết,
Trung trinh nổi tiếng nhà.
Lo nước, thân chi quản,
Trung vua, chết cũng là!
Máu thề, lời còn đó,
Tờ nghĩa, việc chưa xa.
Tây Lương dòng dõi tướng,
Không hổ tiếng Phục Ba!
Miêu Trạch xin với Tào Tháo rằng:
- Chúng tôi không muốn lấy thưởng gì cả, chỉ xin cho lấy nàng Xuân Hương làm vợ.
Tháo cười nói:
- Mày vì một con đàn bà mà làm hại mất cả một nhà chồng chị, để quân bất nghĩa này sống làm gì?
Liền sai lôi cả Miêu Trạch, Xuân Hương và cả nhà Hoàng Khuê ra chợ chém đầu. Thiên hạ ai cũng cám cảnh cho hai đứa ấy.
Có thơ than rằng:
Vì chút tình riêng hại kẻ trung.
Tình riêng chưa thoả, máu ròng ròng…
Gian hùng cũng chẳng ưa quân bạc,
Mưu tiểu nhân kia luống uổng công!
Tào Tháo sai chiêu an đám quân mã Tây Lương vào phủ dụ rằng:
- Cha con Mã Đằng làm phản, không liên can đến chúng bay, không phải sợ hãi chi cả!
Tháo lại truyền cho các tướng phải giữ chắc các cửa ải, không được cho Mã Đại chạy thoát.
Hãy nói Mã Đại dẫn một nghìn quân đi sau, quân sĩ trốn về báo tin. Đại giật mình, bỏ cả quân mã, ăn mặc giả làm lái buôn, đi cả ngày đêm trốn về Tây Lương.
Tào Tháo diệt xong bọn Mã Đằng rồi, mới quyết ý sang đánh mặt Nam. Chợt được tin báo rằng Lưu Bị luyện tập quân mã, sắm sửa khí giới, định lấy Tây Xuyên. Tháo thất kinh, nói:
- Nếu để cho Lưu Bị lấy được Tây Xuyên, thì vây cánh y to mất. Dùng kế gì để trừ đi bây giờ?
Tháo chưa dứt lời, dưới thềm một người tiến ra thưa rằng:
- Tôi có một mẹo này làm cho Tôn Quyền, Lưu Bị không nhìn ngó được nhau mà Giang Nam, Tây Xuyên về cả tay thừa tướng.
Đó là:
Hào kiệt Tây Lương vừa phải nạn,
Anh hùng nam quốc lại thêm lo.
Chưa biết người dâng kế là ai, xem đến hồi sau sẽ hiểu.
Hồi 58:
Mã Mạnh Khởi cất quân báo thù
Tào A Man cắt râu, vứt áo
Lại nói, người dâng kế là quan thị ngự sử Trần Quần tự Trường Văn.
Tháo hỏi:
- Trường Văn có kế gì hay?
Trần Quần thưa:
- Nay Lưu Bị, Tôn Quyền kết với nhau như môi với răng. Nếu Lưu Bị sang lấy Tây Xuyên, thừa tướng nên sai đại tướng đem quân ra hội với quân Hợp Phì, tắt sang đánh lấy Giang Nam. Tôn Quyền phải cầu với Lưu Bị. Lưu Bị mải lấy Tây Xuyên chắc không lòng nào cứu Tôn Quyền. Quyền không có cứu viện thì quân ít thế suy. Đất Giang Nam nhất định về tay thừa tướng. Giang Nam lấy xong, thì Kinh Châu chỉ một trận là phá được. Rồi ta sẽ dần dần lấy Tây Xuyên thế là thiên hạ bình định được cả.
Tháo nói:
- Ngươi nói hợp ý ta lắm!
Lập tức khởi ba mươi vạn đại quân, sang lấy Giang Nam, truyền cho Trương Liêu ở Hợp Phì, phải trữ sẵn lương thảo để cấp cho quân ăn.
Quân do thám báo tin cho Tôn Quyền. Quyền họp cả các tướng lại bàn bạc, Trương Chiêu nói:
- Nên sai Lỗ Túc đưa thư đến Kinh Châu, cầu cứu Huyền Đức, họp sức lại để chống nhau với Tào. Tử Kính đã làm ơn cho Huyền Đức, chắc Huyền Đức cũng phải nghe theo. Vả Huyền Đức lại là rể Đông Ngô, từ chối cũng khó. Nếu Huyền Đức giúp sức thì Giang Nam ta không lo gì nữa!
Quyền nghe lời, cho người đến bảo Lỗ Túc sang Kinh Châu cầu cứu. Túc vâng mệnh, viết thư đưa sang Huyền Đức. Huyền Đức xem xong giữ sứ giả nghỉ lại ở nhà khách và sai người ra Nam Quận mời Khổng Minh. Khổng Minh về đến nơi, Huyền Đức đem bức thư của Lỗ Túc cho xem. Xem xong Khổng Minh nói:
- Chẳng cần phải động đến quân Giang Nam, mà cũng chẳng cần phải động đến quân Kinh Châu, Tào Tháo tự nhiên không nhòm ngó đến miền đông nam nữa.
Nói đoạn, viết thư cho Lỗ Túc nói:
“Xin cứ việc nằm cao ngủ kỹ, không phải lo gì, nếu quân bắc đến xâm phạm. Hoàng thúc tôi tự khắc có kế đánh lui”.
Sứ giả đi rồi, Huyền Đức hỏi rằng:
- Tào Tháo cất ba mươi vạn đại quân hội với quân Hợp Phì rầm rộ kéo đến, tiên sinh có kế gì đánh lui được chúng?
Khổng Minh thưa:
- Xưa nay Tào Tháo chỉ lo quân Tây Lương, nay y giết mất Mã Đằng. Con Mã Đằng là Mã Siêu hiện đang thống lĩnh quân Tây Lương, tất nhiên căm tức Tào Tháo lắm. Chúa công nên viết một bức thư, kết liên với Mã Siêu, khiến hắn cất quân vào cửa ải thì Tháo còn thì giờ đâu mà sang đánh Giang Nam nữa?
Huyền Đức mừng lắm, viết thư sai người tin cậy mang đến Tây Lương.
Lại nói, Mã Siêu ở lại Tây Lương, đêm ngủ mơ thấy mình nằm trên vùng đất có tuyết, một đàn hổ đến ăn thịt, giật mình tỉnh dậy, trong bụng hồ nghi lắm, liền hợp cả tướng tá lại, nói rõ chuyện trong mộng. Có một tướng nói rằng:
- Mộng ấy là điềm dữ lắm!
Mọi người trông xem ai, thì ra hiệu uý Bàng Đức, tự là Lệnh Minh.
Siêu hỏi:
- Lệnh Minh thấy thế nào?
Đức thưa:
- Đất tuyết gặp hổ, mộng triệu xấu lắm, có lẽ lão tướng quân ở Hứa Xương có việc gì chăng?
Đức nói chưa dứt lời, có một người tất tả chạy vào, khóc lăn xuống đất nói:
- Chú và các em bị hại cả rồi!
Siêu trông ra thì là Mã Đại, Siêu giật mình hỏi cớ làm sao. Đại nói:
- Chú với quan thị lang là Hoàng Khuê mưu giết Tào Tháo, chẳng may chuyện lộ, đều bị chém đầu ngoài chợ. Hai em cũng bị hại cả, chỉ một mình tôi giả làm lái buôn, trốn được về đây!
Siêu nghe nói, khóc lăn xuống đất. Các tướng vực dậy, Siêu rít lưỡi nghiến răng lại, căm tức Tào Tháo vô cùng. Sực có tin báo Lưu hoàng thúc ở Kinh Châu sai người mang thư đến. Siêu mở ra xem, trong thư nói:
“Nhà Hán bất hạnh, Tào Tháo chuyên quyền, dối vua lừa trên, tàn hại nhân dân. Tôi là Lưu Bị, khi trước cùng với tiên quân chịu tờ mật chiếu, thề giết giặc Tháo. Nay tiên quân bị Tào Tháo giết hại, thật là một mối thù không chung trời đất, không chung mặt trời mặt trăng của tướng quân đó. Nếu tướng quân cất quân Tây Lương đánh phía hữu, tôi xin cất quân Kinh Tương đánh vào trước mặt, thì có thể bắt được nghịch tặc Tào Tháo, rửa được thù nhục, khôi phục được nhà Hán. Thư nói không thể hết lời, mong chờ tin lại”.
Mã Siêu xem xong, gạt nước mắt, viết thư gửi sứ giả đem về trước, rồi cất cả quân mã Tây Lương sắp sửa kéo đi. Sực có quan thái thú Tây Lương là Hàn Toại sai người mời Mã Siêu đến chơi. Siêu đến phủ Hàn Toại, Toại đưa tờ thư của Tào Tháo cho xem, trong thư nói: “Hễ bắt được Mã Siêu nộp đến Hứa Đô thì phong cho làm Tây Lương hầu”. Siêu lạy thụp xuống, nói:
- Xin chú trói cả hai anh em tôi lại, giải về Hứa Xương, khỏi phải đánh nhau khó nhọc!
Hàn Toại đỡ Siêu dậy, bảo rằng:
- Ta đã kết làm anh em với cha ngươi, nỡ nào hại ngươi? Nếu người cất quân đi đánh báo thù, ta giúp sức cho!
Siêu lạy tạ. Hàn Toại sai chém ngay sứ giả của Tào Tháo, rồi điểm tám bộ quân mã, nhất tề kéo đi. Tướng tám bộ ấy là Hầu Tuyển, Trình Ngân, Lý Kham, Trương Hoành, Lương Hưng, Thành Nghi, Mã Ngoạn và Dương Thu. Tám tướng theo Hàn Toại, họp với thủ hạ Mã Siêu là Bàng Đức, Mã Đại, quân sĩ cả thảy hai mươi vạn rầm rộ kéo đến Trường An.
Thái thú Trường An là Chung Do phi báo với với Tào Tháo, một mặt dẫn quân ra bày trận cự địch. Tướng tiên phong Tây Lương là Mã Đại, dẫn một vạn rưỡi quân đông như kiến rầm rộ kéo đến. Chung Do ra ngựa hỏi chuyện. Mã Đại cầm thanh đao quý xông vào đánh, chưa đầy một hiệp Do đã thua to bỏ chạy. Đại vác đao đuổi theo. Mã Siêu và Hàn Toại cũng vừa dẫn đại quân đến, bao vây thành Trường An. Chung Do lên thành coi giữ. Trường An nguyên là kinh đô Tây Hán khi xưa, thành cao hào sâu, khó phá ngay được. Mã Siêu vây hơn mười hôm, đánh không núng chút nào. Bàng Đức dâng kế nói rằng:
- Trong thành này đất sỏi nước mặn, ăn uống khó khăn, củi lại không có, nay vây mười ngày, quân dân trong ấy đói khát. Chi bằng tạm rút quân về dùng một mẹo này… thì thành này lấy được dễ như bỡn!
Mã Siêu nói:
- Kế ấy hay lắm!
Lập tức cho cờ lệnh truyền báo các đội rút lui. Mã Siêu đi đốc hậu.
Hôm sau Chung Do lên mặt thành đứng xem, thấy quân Mã Siêu rút hết cả. Do sợ có mưu kế gì, liền sai người đi thám, quả nhiên quân Siêu đã đi xa rồi, bấy giờ mới vững dạ, mở cửa thành cho quân dân ra kiếm củi gánh nước, kẻ đi người lại, rầm rập cả ngày.
Đến ngày thứ năm, quân Mã Siêu lại kéo đến, quân dân tranh nhau chạy vào thành, Chung Do lại đóng cửa thành giữ vững như trước.
Em Chung Do là Chung Tấn coi giữ cửa tây, độ chừng canh ba bỗng thấy cửa thành có một đám lửa cháy. Tấn vội vàng lại cứu, bỗng có một người giơ đao xốc ngựa tới quát to lên rằng:
- Bàng Đức ở đây!
Chung Tấn chưa kịp trở tay, đã bị Bàng Đức chém lăn xuống ngựa, rồi đánh tan cả đám quân sĩ, chặt khoá, mở toang cửa thành cho quân Mã Siêu, Hàn Toại kéo vào. Chung Do bỏ thành theo cửa đông chạy trốn.
Mã Siêu và Hàn Toại lấy được thành trì, khao thưởng ba quân. Chung Do rút về giữ ải Đồng Quan, phi báo cho Tào Tháo. Tháo thấy mất Trường An, không dám bàn đến việc đánh miền nam nữa, liền sai Tào Hồng, Từ Hoảng dẫn một vạn quân mã đi trước, và dặn rằng:
- Các ngươi ra thay cho Chung Do giữ cửa ải cho vững, trong mười ngày mà mất cửa ải sẽ bị chém cả; ngoài mười ngày thì không can gì đến các ngươi, ta sẽ dẫn đại quân đi sau.
Hai tướng vâng mệnh cất quân đi ngay.
Tào Nhân can rằng:
- Tào Hồng tính nóng nảy lắm, tôi e lỡ việc mất.
Tháo nói:
- Ngươi tải lương thảo đi theo, ta đến sau tiếp ứng.
Tào Hồng, Từ Hoảng thay Chung Do giữ vững ải, nhất định không ra đánh. Mã Siêu dẫn quân đến dưới ải, hò cả từ tổ ba đời nhà Tào Tháo ra chửi mắng. Tào Hồng giận lắm, muốn đem quân ra đánh. Từ Hoảng can rằng:
- Đó là Mã Siêu cố trêu tức để tướng quân ra đánh nhau đấy. Ta chớ nên ra, đợi khi nào thừa tướng đến, tự khắc có kế hay.
Quân Mã Siêu ngày đêm thay phiên nhau chửi bới. Tào Hồng chỉ muốn đánh, Từ Hoảng cố kìm lại không cho ra. Đến hôm thứ chín, Tào Hồng đứng trên cửa ải nhìn xem, thấy quân Tây Lương bỏ cả ngựa, ngồi chơi trên đám cỏ trước cửa ải, nhiều người mỏi mệt, nằm ngủ lăn cả ra đất. Tào Hồng liền dẫn ba nghìn quân kéo xuống. Quân Tây Lương bỏ cả ngựa, vất cả giáo mà chạy. Hồng đuổi theo. Bấy giờ Từ Hoảng đang đi kiểm soát xe lương trên ải, nghe tin Tào Hồng xuống đánh nhau, Hoảng sợ vội vàng dẫn quân theo xuống, gọi Tào Hồng trở về. Bỗng ở mé sau, tiếng reo nổi lên ầm ĩ. Mã Đại kéo quân đánh tới. Tào Hồng, Từ Hoảng vội vàng chạy về. Bỗng một hồi trống khua vang, rồi ở sau núi có hai toán quân ra chặn đường: tả thì Mã Siêu, hữu thì Bàng Đức. Tào Hồng cầm cự không nổi, mất hơn nửa quân, chọc thủng vòng vây, chạy về ải. Quân Tây Lương đuổi đánh rát quá, Hồng phải bỏ cửa ải chạy. Bàng Đức đuổi mãi ra khỏi ngoài cửa Đồng Quan, thì gặp quân mã Tào Nhân kéo đến, cứu được Tào Hồng. Mã Siêu tiếp ứng Bàng Đức về ải.
Tào Hồng mất Đồng Quan, chạy về ra mắt Tào Tháo. Tháo hỏi:
- Ta hẹn cho ngươi mười ngày, sao chín ngày đã để mất cửa ải?
Hồng thưa:
- Quân sĩ Tây Lương sỉ nhục trăm chiều, lại thấy quân nói mệt mỏi, thừa thế xuống đánh, không ngờ mắc phải kế gian.
Tháo nói:
- Hồng nó còn ít tuổi, nông nổi, Từ Hoảng, ngươi phải hiểu chứ!
Hoảng thưa:
- Tôi can mãi không được. Khi ấy tôi đang điểm xe lương trên ải, đến lúc biết tin thì Hồng đã xuống mất rồi. Tôi sợ sinh chuyện, vội vàng theo xuống, thì đã mắc mẹo!
Tháo nổi giận, quát sai đem Tào Hồng ra chém. Các tướng kêu van mãi Tháo mới tha. Hồng tạ tội lui ra.
Tháo tiến quân đến thẳng Đồng Quan. Tào Nhân nói rằng:
- Nên lập cho vững doanh trại đã, rồi sẽ đánh nhau!
Tháo nghe lời, sai chặt cây lập ra ba trại; trại tả thì Tào Nhân giữ, trại hữu thì Hạ Hầu Uyên giữ, còn Tào Tháo ở trại giữa.
Hôm sau, Tháo dẫn tướng sĩ ba trại đến trước cửa ải, vừa gặp quân mã Tây Lương cũng tới. Hai bên dàn trận. Tháo cưỡi ngựa đứng dưới cửa cờ, nhìn quân Tây Lương, người người hùng dũng, tướng tướng anh hùng; lại thấy Mã Siêu, mặt như nhồi phấn, môi tựa thoa son, lưng hổ, tay vượn, thế hùng lực mạnh, mình mặc áo giáp bạc, tay cầm ngọn giáo dài, cưỡi ngựa đứng trước cửa trận, bên tả có Bàng Đức, bên hữu có Mã Đại.
Tháo trong bụng khen thầm, xốc ngựa tới bảo Siêu rằng:
- Ngươi là con cháu danh tướng nhà Hán, sao dám làm phản?
Siêu nghiến răng lại, quát mắng:
- Bớ giặc Tào! Mày dối vua lừa trên, tội đáng chết lắm! Mày hại cha tao và em tao, thù này chẳng đội trời chung! Tao quyết bắt sống mày, nhai tươi thịt mày mới hả!
Nói xong, Siêu vác giáo xông tới. Vu Cấm ở sau lưng Tào Tháo nhảy ra. Hai ngựa giao nhau, độ tám chín hiệp, Vu Cấm địch không nổi chạy về. Trương Cáp ra đánh, được hai mươi hiệp cũng thua chạy. Tiếp đến Lý Thông, Siêu gắng sức đánh, được vài hiệp, Siêu đâm Thông chết lăn xuống ngựa. Siêu vẫy ngọn giáo một cái, quân Tây Lương kéo ùa cả ra, quân Tào thua liểng xiểng, các tướng tá cũng không sao địch nổi. Mã Siêu, Bàng Đức, Mã Đại dẫn hơn trăm kỵ binh xông vào trung quân bắt Tào Tháo, Tháo ở trong đám loạn quân, nghe thấy quân Tây Lương hô rằng:
- Thằng mặc áo bào đỏ, chính là Tào Tháo đấy!
Tháo vội vàng cởi ngay áo đỏ quăng đi. Lại nghe thấy hô:
- Thằng râu dài chính là Tào Tháo!
Tháo vội cầm thanh gươm cắt trụi cả râu. Có người biết, báo với Mã Siêu, Siêu lại sai người hô:
- Thằng nào trụi râu, đó là Tào Tháo, cứ thằng ấy mà bắt!
Tháo luống cuống không biết làm thế nào, xé ngay miếng vải cờ, quấn bịt kín cằm chạy trốn.
Đời sau có thơ rằng:
Đồng Quan thua trận chạy lao đao
Mạnh Đức hồn bay quẳng áo bào.
Ngân nỗi râu ria đều cắt trụi,
Mã Siêu nổi tiếng bậc tài cao!
Tào Tháo đang chạy bỗng sau lưng có một người cưỡi ngựa đuổi tới. Tháo ngoảnh nhìn lại, thì chính là Mã Siêu, Tháo rụng rời hồn vía. Các tướng tá thấy Mã Siêu, ai cũng bỏ chạy thoát thân, chỉ còn trơ một mình Tào Tháo. Siêu quát lên rằng:
- Tào Tháo chớ chạy nữa!
Tháo run sợ quá tuột cả roi ngựa xuống đất. Siêu đuổi đến nơi, phóng một ngọn giáo, nhưng vì Tháo chạy vòng quanh một gốc cây nên mũi giáo trúng vào thân cây. Khi Siêu rút được giáo ra thì Tào Tháo đã chạy xa rồi. Siêu tế ngựa đuổi gấp. Bỗng ở sườn núi có một tướng nhảy xổ ra, thét to lên rằng:
- Chớ được hại chủ ta! Có Tào Hồng ở đây!
Nói đoạn, vác đao xông vào chặn đánh Mã Siêu. Tháo nhân đó chạy thoát.
Tào Hồng đánh nhau với Mã Siêu bốn mươi hiệp. Đường đao Tào Hồng dần dần rối loạn, khí lực suy kiệt, may có Hạ Hầu Uyên dẫn vài chục kỵ binh đến cứu. Mã Siêu chỉ có một mình, sợ không đương nổi, liền quay ngựa trở về. Hạ Hầu Uyên cũng không đuổi theo nữa.
Tháo về đến trại, nhờ có Tào Nhân cố chết giữ vững nên không thiệt mấy quân. Tháo vào trướng, than rằng:
- Nếu ta giết mất Tào Hồng thì hôm nay tất chết về tay Mã Siêu rồi!
Liền trọng thưởng cho Tào Hồng, rồi thu thập quân mã, cố giữ doanh trại, không ra đánh nữa.
Siêu ngày nào cũng dẫn quân đến trước trại, chửi mắng thách đánh. Tháo truyền lệnh cho tướng sĩ, cấm ra khỏi trại, nếu không tuân lệnh thì chém.
Các tướng bẩm rằng:
- Quân Tây Lương dùng giáo dài cả, ta nên dùng cung nỏ để chống lại.
Tháo mắng rằng:
- Đánh hay không đánh là do ta định đoạt chớ không tại giặc. Giặc tuy có giáo dài, dễ đã đâm ngay được ta chăng? Các ngươi cứ giữ gìn cho vững, tự giặc phải lui.
Các tướng nói vụng với nhau rằng:
- Thừa tướng từ trước đến giờ mỗi lần đi trận, đều xông lên đầu, thế mà hôm nay mới bị thua Mã Siêu, sao đã nhát làm vậy?
Qua vài hôm, có quân thám về báo rằng:
- Mã Siêu mời thêm hai vạn quân tinh nhuệ đến, toàn là bộ lạc người Khương cả.
Tháo nghe tin, mừng lắm. Các tướng hỏi:
- Mã Siêu thêm quân, thừa tướng lại mừng là cớ làm sao?
Tháo nói:
- Để khi nào phá xong Mã Siêu, ta sẽ nói cho các ngươi hay.
Sau ba hôm sau, có tin báo trên ải lại thêm quân mã. Tháo càng hớn hở mừng rỡ, mở tiệc ăn mừng ở trong trại. Các tướng đều cười thầm.
Tháo hỏi:
- Các ngươi cười ta không có kế hoạch gì phá được Mã Siêu, vậy các ngươi có kế gì hay không?
Từ Hoảng thưa rằng:
- Nay thừa tướng đóng đại quân ở đây, quân giặc cũng đóng toàn quân trên cửa ải. Ở mé tây Vị Hà, tất không có người phòng giữ. Nên cho một đạo quân đi tắt lẻn sang bến Bồ Bản, chặn đường về của giặc; thừa tướng thì đem quân sang phía bắc sông mà đánh. Giặc trước sau không cứu ứng được nhau, chắc sẽ nguy khốn!
Tháo nói:
- Lời Công Minh chính hợp ý ta!
Liền sai ngay Từ Hoảng dẫn bốn nghìn tinh binh cùng Chu Linh sang đánh úp phía tây Hoàng Hà, phục ở trong hang núi, đợi quân Tào sang phía bắc sông, sẽ cùng đánh luôn một thể.
Hai tướng lĩnh mệnh dẫn quân đi. Tháo lại sai Tào Hồng ra bến Bồ Bản trước sắm sửa thuyền bè, để Tào Nhân ở lại giữ trại, còn mình thì dẫn đại quân sang qua Vị Hà.
Quân thám báo tin cho Mã Siêu biết. Siêu nói rằng:
- Tào Tháo không đánh mặt Đồng Quan, mà sắm sửa thuyền bè, muốn sang mé bắc Vị Hà, tất là chặn đường của ta. Tôi dẫn quân đến giữ bờ bắc. Tháo không sang được, nội trong hai mươi ngày, lương ở mé bờ đông hết, quân Tháo tất loạn, lúc ấy ta sẽ men bờ sông phía nam đuổi đánh, chắc bắt sống được Tháo.
Hàn Toại nói:
- Không cần phải làm thế! Cháu không nghe trong binh pháp có câu: “Quân giặc sang sông đến nửa chừng sẽ đánh” đó ư? Đợi khi quân Tào ra đến giữa sông, cháu sẽ tự mé nam đánh ập đến. Quân Tháo tất nhiên chết đuối cả.
Siêu nói:
- Lời chú hay lắm!
Liền sai người đi dò giờ giấc Tào Tháo sang sông.
Lại nói, Tào Tháo chỉnh đốn hàng ngũ, chia làm ba toán, lần lượt qua Vị Hà. Khi đến cửa sông, thì mặt trời mới mọc. Tháo cho quân tinh binh sang trước lập dinh trại, còn mình thì cùng với hơn một trăm tướng tá hộ vệ, gươm tuốt cầm tay, ngồi xem quân sĩ sang đò. Chợt có tin báo rằng:
- Ở mé sau, có tướng mặc áo bào trắng xông đến.
Quân sĩ biết là Mã Siêu, liền ùa xuống cả thuyền, tranh giành cãi cọ ầm ĩ. Tháo vẫn ngồi yên trỏ gươm quát quân sĩ không được ồn ào. Bỗng thấy người reo ngựa hí sầm sập kéo đến. Dưới thuyền có một tướng nhảy vọt lên bờ, kêu lên rằng:
- Giặc đến nơi rồi! Xin thừa tướng xuống thuyền ngay!
Tháo nhìn xem ai thì là Hứa Chử. Tháo còn nói cứng:
- Giặc đến thì mặc nó, việc gì mà sợ?
Nói đoạn, ngoảnh lại đã thấy Mã Siêu chỉ còn cách độ trăm bước. Hứa Chử vội vàng cõng Tào Tháo xuống thuyền thì thuyền còn cách bờ những hơn một trượng. Chử nhảy vọt một cái đến được. Các tướng sĩ thì nhảy cả xuống nước, níu lấy mạn thuyền, tranh nhau trèo lên; thuyền nhỏ trành đi, sắp ụp. Chử rút gươm chém lia lịa vào mạn thuyền, cánh tay rơi xuống nước rào rào, rồi sai bơi thuyền đi cho mau. Chử đứng trên mũi thuyền, cầm sào đẩy. Tháo ngồi thụp ở cạnh chân Hứa Chử. Khi Mã Siêu đến nơi, thì thuyền Tháo đã ra xa rồi, Siêu giương cung đặt tên, và sai các tướng cùng bắn ra ào ào. Chử sợ Tháo bị thương, liền dùng tay trái cầm yên ngựa che đỡ cho Tháo.
Mã Siêu xưa nay bắn không sai phát nào, mấy chục người chở thuyền đều bị chết lăn xuống sông. Thuyền tròng trành, loanh quanh ở trong dòng nước chảy xiết. Chử một mình ra sức, hai đùi kẹp lấy bánh lái mà lái, còn một tay đẩy sào, một tay thì che cho Tào Tháo.
Bấy giờ có tri huyện Vị Nam là Đinh Phi ở trên Nam Sơn, thấy Mã Siêu đuổi Tào Tháo gấp lắm, sợ Siêu hại mất Tào Tháo, liền thả cả trâu ngựa trong trại ra: ngoài đồng, trên núi, nhan nhản những trâu cùng ngựa. Quân Tây Lương thấy vậy đều quay lại tranh nhau bắt trâu ngựa, không nghĩ đến đuổi bắt Tào Tháo nữa, vì thế Tháo được thoát nạn. Khi sang đến bên kia sông, các tướng nghe tin Tào Tháo chạy nạn, vội vàng đến cứu, thì Tháo đã lên bờ rồi. Hứa Chử mặc hai áo giáp, tên cắm chi chít.
Các tướng rước Tháo vào trại, rồi sụp lạy vấn an.
Tháo cười, nói:
- Suýt nữa ta chết về tay thằng giặc ranh con!
Hứa Chử nói:
- Giá không có người thả trâu ngựa để dử giặc, thì thế nào giặc cũng qua sông đuổi theo.
Tháo hỏi người đó là ai. Có người biết là Đinh Phi, thưa với Tháo. Một lát Đinh Phi vào ra mắt, Tháo tạ ơn nói:
- Nếu không có mưu hay của ông thì tôi đã bị giặc bắt rồi.
Liền phong cho Phi làm điển phong hiệu úy.
Phi nói:
- Giặc tuy tạm lui, nhưng thế nào ngày mai cũng còn đến, thừa tướng nên tìm kế chống cự.
Tháo nói:
- Ta đã chuẩn bị đâu đấy cả rồi!
Lập tức sai các tướng đắp một con rạch ở bờ sông tạm làm chân trại. Khi giặc kéo đến, sẽ dàn quân ra ngoài con trạch, bên trong cắm đầy cờ quạt làm nghi binh. Lại đào rãnh sâu ven sông, trên che phên kín, rồi đem quân ra dử giặc. Giặc xô đến tất bị sa hố, tiêu diệt rất dễ.
Mã Siêu về nói chuyện với Hàn Toại rằng:
- Tôi sắp sửa tóm được Tào Tháo thì có một tướng cố sức cõng Tháo nhảy xuống thuyền, không biết là ai?
Toại nói:
- Ta nghe Tào Tháo kén người cực khoẻ cho làm thị vệ dưới trướng, gọi là hổ vệ quân; có kiêu tướng là Điển Vi, Hứa Chử lĩnh quân ấy. Điển Vi đã chết rồi, nay cứu Tào Tháo hẳn là Hứa Chử. Người ấy khoẻ mạnh lạ thường, ai cũng gọi là con hổ đại, nếu gặp hắn chớ nên khinh địch.
Siêu nói:
- Tôi cũng nghe tiếng hắn đã lâu!
Toại nói:
- Tào Tháo sang sông, tất đánh mé sau ta, ta nên đánh cho nhanh, chớ để thành lập thành doanh trại thì khó trừ được.
Siêu nói:
- Cứ như ý cháu, chỉ nên giữ gìn mặt bắc không cho chúng sang sông là hay hơn cả.
Toại nói:
- Có phải thế thì cháu ở lại giữ trại, để ta dẫn quân men theo bờ sông đến đánh Tào Tháo, ý cháu thế nào?
Siêu nói:
- Xin cho Bàng Đức làm tiên phong, đi theo với chú.
Hàn Toại dẫn Bàng Đức và năm vạn quân, đến thẳng Vị Nam, Tháo sai các tướng ra ngoài đường con trạch dử giặc. Bàng Đức dẫn một nghìn thiết kỵ xông vào, tiếng hò reo nổi lên, cả người lẫn ngựa đều sa xuống hố, Bàng Đức nhảy vọt một cái, lên khỏi hố, giết được mấy người, đánh ra được ngoài vòng vây. Hàn Toại bị vây chặt, Đức lại đi bộ đánh vào cứu Hàn Toại. Đang đánh, gặp bộ tướng của Tào Nhân là Tào Vinh, Đức chém một nhát chết luôn, rồi cướp ngay lấy ngựa, đánh mở một đường máu, cứu được Hàn Toại, chạy về phía nam. Sau lưng, quân Tào đuổi đánh, Mã Siêu dẫn quân ra tiếp ứng, phá tan quân Tào, cứu được hơn một nửa quân mã nữa. Đánh mãi đến chiều, mới thu quân về, kiểm điểm lại, thì mất hai tướng là Trình Ngân, Trương Hoành và hơn hai trăm người chết ở dưới hố.
Mã Siêu bàn với Hàn Toại rằng:
- Nếu để lôi thôi lâu ngày, Tào Tháo lập xong dinh trại ở Hà Bắc, thì khó lòng đánh được nữa. Chi bằng đêm nay dẫn quân đến cướp trại.
Toại nói:
- Nên chia quân làm hai cánh, cánh đi trước, cánh đi sau, để cứu ứng lẫn nhau.
Siêu tự mình làm tiền đội, sai Bàng Đức, Mã Đại làm hậu ứng, đêm hôm ấy cất quân đi.
Tào Tháo thu quân về đóng ở mé bắc sông Vị, gọi các tướng lại bảo rằng:
- Giặc thấy ta chưa lập xong doanh trại, tất đến đánh cướp. Ta nên phục quân bốn mặt, bỏ trống ở giữa, đợi khi nào giặc kéo vào, ta nổi hiệu pháo lên, bốn mặt đổ ra mà đánh, chắc là bắt được.
Các tướng vâng lệnh, bố trí đâu vào đấy cả.
Đêm hôm ấy, Mã Siêu sai Thành Nghi dẫn ba mươi kỵ binh đi trước do thám, Thành Nghi thấy không có quân mã ngăn cản, liền xông thẳng vào giữa trại. Quân Tào thấy quân Tây Lương đến, nổi hiệu pháo lên, quân phục bốn mặt đổ ra, nhưng chỉ vây được ba mươi tên lính kỵ. Thành Nghi bị Hạ Hầu Đôn giết. Mã Siêu từ mé sau, cùng với Bàng Đức, Mã Đại, chia quân làm hai đường rầm rộ kéo đến.
Đó là:
Dẫu có phục binh rình giặc trước
Cự sao tướng khỏe kéo ùa vào?
Chưa biết được thua thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 59:
Hứa Chử cởi trần đánh Mã Siêu
Tào Tháo xóa thư lừa Hàn Toại
Đêm hôm ấy, hai bên đánh nhau mãi đến sáng mới thu quân. Mã Siêu đóng quân ở Vị Khẩu, thường thường chia quân đến đánh trại Tào Tháo. Tháo sai ghép cả thuyền bè ở trong sông Vị Hà thành ba lớp cầu nổi nối liền với bờ nam. Lại sai Tào Nhân lập một trại ở cạnh sông, bố trí hàng rào xe tải lương chung quanh. Mã Siêu được tin, truyền cho quân sĩ mỗi người mang một bó cỏ và đồ dẫn hoả, cùng với Hàn Toại kéo quân đến trước trại xếp cỏ thành đống rồi châm lửa đốt cháy đùng đùng. Quân Tào địch không nổi phải bỏ trại chạy. Xe cộ, cầu nổi, đều bị cháy sạch cả. Quân Tây Lương được to, chẹn ngang Vị Hà.
Tào Tháo lập trại không được, trong bụng lo buồn, Tuân Du hiến kế rằng:
- Nên lấy đất cát Vị Hà đắp một toà thành thì mới giữ vững được!
Tháo sai ngay ba vạn quân gánh đất đắp thành. Mã Siêu lại cho Bàng Đức, Mã Đại, mỗi người dẫn năm trăm quân mã, đến quấy rối. Đất cát không chắc, quân Tào đắp xong lại đổ. Tháo không biết tính thế nào.
Bấy giờ vào cuối mùa thu, khí trời lạnh ngắt, mây đỏ dày đặc, suốt mấy ngày chưa thấy quang đãng. Tháo đương ngồi buồn trong trại bỗng có tin báo một ông cụ già xin vào ra mắt để hiến kế!
Tháo sai mời vào, thấy người ấy hình thông cốt bạc, dáng điệu gầy gò. Hỏi ra thì là người ở Kinh Triệu, ẩn náu ở núi Chung Nam, tên là Lâu Tử Bá, đạo hiệu là Mộng Mai cư sĩ. Tháo tiếp đãi tử tế. Tử Bá nói rằng:
- Thừa tướng muốn qua Vị Hà lập trại đã lâu, sao không nhân dịp này đắp thành ngay đi?
Tháo nói:
- Đất đây toàn cát, đắp mãi không xong, ẩn sĩ có kế gì hay chỉ bảo giúp cho.
Tử Bá nói:
- Thừa tướng dùng binh như thần, há lại không biết thiên văn? Mấy hôm nay mây mù dày đặc, hễ động có gió bắc là nước đông lại thành băng. Thừa tướng nên đợi lúc có gió sai quân sĩ gánh đất múc nước, trộn vào, chỉ một đêm là đắp xong được thành.
Tháo mừng lắm, hậu thưởng cho Tử Bá. Tử Bá không chịu nhận, đi ngay.
Đêm hôm ấy, quả nhiên có gió bắc thổi. Tháo sai hết thảy quân sĩ ra gánh đất, khiêng nước, khâu những túi đựng nước tưới vào, đắp đến đâu đông đến đấy. Vừa sáng thành đã đắp xong.
Quân do thám báo tin cho Mã Siêu, Siêu dẫn quân lại xem, giật nảy mình, ngờ có thần giúp đỡ. Hôm sau, triệu cả quân sĩ đánh trống tiến lên. Tháo cỡi ngựa ra cửa trại, chỉ có một mình Hứa Chử theo sau. Tháo giơ roi gọi lớn:
- Tào Mạnh Đức một mình đến đây, mời Mã Siêu ra nói chuyện.
Siêu cưỡi ngựa vác giáo xông ra. Tháo nói:
- Ngươi tưởng ta không lập nổi dinh trại, nay có một đêm, trời đã đã giúp cho ta xong rồi, sao ngươi không hàng đi cho sớm sủa?
Mã Siêu giận lắm, muốn xốc tới bắt sống lấy Tào Tháo, bỗng thấy sau lưng Tào Tháo có một tướng trợn mắt tròn xoe, tay lăm lăm thanh đại đao, kìm ngựa đứng nhìn.
Siêu đoán là Hứa Chử, trỏ roi hỏi rằng:
- Ta nghe trong đám này, có một Hổ hầu, ở đâu?
Hứa Chử vác đao thét lớn:
- Ta là Hứa Chử ở Tiêu Quận đây!
Mắt Chử nảy hào quang, oai phong thật lẫm liệt. Siêu không dám xông sang nữa, phải quay ngựa trở về.
Tháo cũng đem Hứa Chử về trại. Quân đôi bên thấy vậy, ai cũng ngạc nhiên.
Tháo bảo với các tướng rằng:
- Giặc cũng biết Trọng Khang là Hổ hầu!
Từ đó, ai cũng gọi Hứa Chử Hổ hầu.
Hứa Chử nói:
- Ngày mai tôi quyết bắt sống Mã Siêu.
Tháo nói:
- Mã Siêu khoẻ mạnh dị thường, không nên khinh địch!
Chử nói:
- Tôi tình nguyện đánh nhau với nó, chết thì thôi!
Lập tức sai người đưa chiến thư, nói Hổ hầu thách Mã Siêu ngày mai quyết chiến.
Siêu xem thư, nổi giận nói:
- Sao dám khinh nhau thế?
Bèn phê vào thư là ngày mai thề giết chết con “hổ dại”.
Hôm sau đôi bên kéo nhau ra dàn trận. Siêu sai Bàng Đức làm cánh tả, Mã Đại làm cánh hữu, Hàn Toại áp quân đứng giữa. Siêu vác giáo ghìm ngựa trước cửa trận, gọi to rằng:
- Hổ dại! Ra đây mau!
Tào Tháo đứng dưới cửa cờ, ngoảnh lại bảo các tướng rằng:
- Mã Siêu không kém gì Lã Bố khi xưa!
Tháo nói chưa dứt lời, Hứa Chử đã múa đao tế ngựa chạy ra. Mã Siêu vác giáo xông lại đánh. Hai bên đấu nhau hơn một trăm hiệp, chưa phân thắng bại, mà ngựa đã kiệt sức. Hai người đều phải trở về thay ngựa, rồi lại ra trận đánh nhau non trăm hiệp nữa, vẫn chưa ngã ngũ ra sao. Chử nổi xung lên chạy ngay về, cởi cả áo giáp và mũ, mình trần trùng trục, vác giáo tế ngựa ra quyết chiến. Hai bên quân sĩ rất sợ hãi. Đánh được ba mươi hiệp, Chử ráng sức giơ đao bổ xuống đầu Mã Siêu. Siêu tránh ngay được, đâm luôn một giáo vào giữa rốn Chử. Chử vội vàng quẳng đao, túm luôn ngọn giáo.
Hai người ngồi trên ngựa giằng nhau, Chử khoẻ quá, bẻ ngọn giáo đánh rắc một cái gãy ngay làm đôi. Mỗi người cầm nửa cán giáo gãy, giọt nhau lộn bậy. Tháo sợ Chử núng thế, sai Hạ Hầu Uyên, Tào Hồng ra đánh giúp. Bên này hai cánh quân thiết kỵ của Bàng Đức, Mã Đại thấy vậy cũng xô cả vào đánh tới tấp. Quân Tháo rối loạn. Cánh tay Hứa Chử bị hai mũi tên. Các tướng hoảng sợ rút về trại, Siêu đuổi riết đến bờ sông. Quân Tháo thiệt hại quá nửa. Tháo sai đóng chặt cửa lại, không ra nữa.
Mã Siêu về đến Vị Khẩu, nói với Hàn Toại rằng:
- Tôi chưa thấy ai đánh nhau dữ dội như Hứa Chử, quả thực là “hổ dại”.
Lại nói, Tào Tháo liệu không dùng sức đánh Mã Siêu được, thấy phải dùng mẹo mới xong. Bèn sai Từ Hoảng, Chu Linh sang mé tây Vị Hà lập trại để đánh kẹp lại. Một hôm, Tháo đứng trên mặt thành trông thấy Mã Siêu dẫn vài trăm quân kỵ đến thẳng dưới thành, đi lại như bay. Nhìn một lúc lâu, Tháo quẳng mũ xuống đất, than rằng:
- Thằng ranh này còn sống thì ta chưa biết chết chôn vào đâu đây!
Hạ Hầu Uyên nghe Tháo nói thế, trong bụng căm giận, kêu lên rằng:
- Tôi thà rằng chết ở chỗ này, thề quyết giết giặc Mã!
Nói đoạn, dẫn hơn một nghìn quân bản bộ, mở tung cửa thành kéo đi. Tháo ngăn lại cũng không được, sợ xảy ra rủi ro, vội vàng cũng lên ngựa kéo ra tiếp ứng.
Mã Siêu thấy quân Tào Tháo kéo đấn, liền đổi tiền quân làm hậu quân, hậu quân làm tiền quân, xếp hàng chữ nhất. Hạ Hầu Uyên đến, Mã Siêu đón đánh. Siêu đang đánh, liếc mắt trông thấy Tào Tháo liền bỏ ngay Uyên, xông tới bắt Tào Tháo. Tháo thất kinh, quay ngựa chạy. Quân Tào rối loạn tơi bời.
Đang mải đuổi đánh, sực có tin báo Tháo có một đạo quân, đã sang mé tây. Vị Hà, hạ trại xong rồi. Siêu giật mình, không dám đuổi nữa, lập tức thu quân về trại, bàn với Hàn Toại rằng:
- Quân Tào thừa cơ lẻn sang mé tây Vị Hà, quân ta trước sau cùng bị đánh cả, thì làm thế nào?
Bộ tướng của Hàn Toại là Lý Kham nói rằng:
- Chi bằng hãy cắt đất xin hoà, đôi bên tạm thu quân, đợi sang xuân ấm áp, bấy giờ sẽ lại liệu.
Hàn Toại nói:
- Lý Kham nói phải lắm, nên nghe.
Mã Siêu còn dùng dằng chưa quyết, Dương Thu, Hầu Tuyển cũng khuyên thêm. Bởi thế Hàn Toại sai ngay Dương Thu mang thư sang trại Tào Tháo, xin cắt đất cầu hoà.
Tháo nói:
- Ngươi hãy về trại, ngày mai ta sẽ trả lời.
Dương Thu từ biệt ra về.
Giả Hủ vào ra mắt Tào Tháo, nói rằng:
- Chủ ý thừa tướng thế nào?
Tháo hỏi lại:
- Ngươi nghĩ thế nào?
Hủ thưa:
- Phép binh tha hồ lừa dối, nên giả vờ cầu hoà, rồi dùng kế phản gián, khiến cho Hàn, Mã nghi ngờ lẫn nhau, chỉ một trận là phá được.
Tháo vỗ tay, reo lên:
- Những người cao kiến trong thiên hạ có nhiều điều hợp ý nhau thật! Mưu của Văn Hoà cũng đúng như ý ta.
Rồi sai người đưa thư cho Mã Siêu, nói:
- Đợi ta dần dần rút quân về, và trả lại cho ngươi mảnh đất phía tây Hoàng Hà.
Một mặt sai bắc cầu nổi, làm ra vẻ chuẩn bị rút quân thật.
Mã Siêu được thư, bàn với Hàn Toại rằng:
- Tào Tháo tuy bằng lòng giảng hoà, nhưng hắn nham hiểm lắm, nếu không đề phòng, e có điều lừa dối gì chăng? Vậy tôi với chú, nên thay phiên nhau: ngày hôm nay, tôi địch với Tào Tháo, thì chú địch với Từ Hoảng, ngày mai tôi địch với Từ Hoảng, thì chú địch với Tào Tháo, chia nhau phòng bị kẻo lại mắc lừa.
Hàn Toại theo đúng kế ấy.
Có người báo cho Tào Tháo biết. Tháo bảo với Giả Hủ rằng:
- Mẹo ta chắc xong!
Liền hỏi tả hữu xem ngày mai quân địch cử ai giữ về mặt mình? Tả hữu bẩm Hàn Toại.
Hôm sau,Tháo dẫn các tướng ra trại, tướng tá vây quanh, Tháo một mình oai vệ đi giữa. Quân Hàn Toại nhiều người không biết mặt Tào Tháo, tranh nhau dòm xem. Tháo gọi to bảo rằng:
- Quân chúng bay muốn xem Tào công à? Ta cũng là người, không phải bốn mắt hai miệng gì, chỉ có nhiều mưu mẹo thôi.
Quân sĩ nghe thấy cùng sợ hãi. Tháo sai người sang nói với Hàn Toại rằng:
- Thừa tướng muốn Hàn tướng quân ra nói chuyện.
Hàn Toại ra trận, thấy Tào Tháo không mặc áo giáp và cầm đồ khí giới gì cả, cũng cởi áo giáp và mặc đồ nhẹ. Hai người cầm cương ngựa đứng đối diện nói chuyện.
Tháo nói:
- Tôi khi xưa cùng với tướng quân đỗ một khoa hiếu liêm. Tôi coi tiên quân như hàng chú tôi. Tôi với tướng quân cùng làm quan triều đình, đến nay cũng đã lâu lắm rồi, không biết tướng quân năm nay bao nhiêu tuổi nhỉ?
Hàn Toại đáp:
- Tôi năm nay đã bốn mươi tuổi.
Tháo nói:
- Khi xưa ở kinh đô đều thanh xuân trai trẻ cả, ngày tháng thấm thoắt thế mà nay tuổi đã trung tuần rồi, ước gì thiên hạ được thái bình, để được vui vẻ với nhau thì hay lắm!
Tháo chỉ nói tỉ mỉ việc ngày xưa, không hề đả động đến việc việc đánh nhau chút nào. Nói xong lại cười ầm lên. Hai người trò chuyện một lúc lâu mới từ biệt nhau, quay ngựa ai về trại ấy.
Có người báo với Mã Siêu. Siêu vội vàng lại hỏi Hàn Toại rằng:
- Hôm nay Tào Tháo nói chuyện gì với chú thế?
Toại đáp:
- Chỉ nói chuyện cũ ở kinh sư thôi.
Siêu hỏi:
- Làm sao không nói gì đến việc quân?
Toại đáp:
- Tào Tháo không nói, chả lẽ ta nói một mình?
Siêu trong bụng nghi ngờ lắm, nín lặng ra về.
Tào Tháo về đến trại bảo với Giả Hủ rằng:
- Ngươi có biết ý ta hôm nay nói chuyện ở trước trận không?
Hủ thưa rằng:
- Ý ấy tuy rằng khôn, nhưng chưa ly gián được hai người. Tôi có một mẹo này, khiến Hàn, Mã phải giết lẫn nhau.
Tháo hỏi mẹo gì, Hủ thưa rằng:
- Mã Siêu là một đứa dũng phu, biết đâu được việc cơ mật. Thừa tướng nên viết một phong thư theo lối đá thảo đưa cho Hàn Toại, chỗ nào quan trọng thì xoá bỏ đi, nhưng cố ý để lộ cho Mã Siêu biết. Thế nào, Siêu chẳng đòi xem thư, thấy những chỗ khẩn yếu xoá bỏ lèm nhèm, tất nhiên nghi là Hàn Toại có tư tình với thừa tướng, nên sửa đổi đi; thế mới ăn khớp với cuộc nói chuyện bữa trước. Đã nghi thì tất phải sinh loạn, ta lại bí mật liên kết với các tướng bộ hạ của Hàn Toại, khiến hai bên ly gián lẫn nhau, chắc chắn phá được Siêu.
Tháo khen rằng:
- Kế của ngươi hay lắm!
Lập tức viết thư, sai một toán tuỳ tùng đưa sang, rồi trở về.
Quả nhiên có người báo với Mã Siêu. Siêu càng nghi lắm, đến ngay trại Hàn Toại đòi xem thư. Hàn Toại lấy thư đưa cho Siêu. Siêu thấy trong thư chỗ thì dập chỗ thì xoá bèn hỏi Toại rằng:
- Trong thư làm sao xoá bỏ lèm nhèm thế này?
Toại nói:
- Nguyên thư đưa lại vẫn thế, không biết tại sao?
Siêu nói:
- Không có lẽ Tào Tháo đưa bản nháp cho chú, đây chắc là chú sợ tôi biết rành mạch cho nên xoá đi đó thôi.
Hàn Toại nói:
- Hoặc giả Tào Tháo đưa nhầm bản nháp chăng!
- Như thế càng không thể tin được! Tào Tháo là người cẩn thận, đâu có lầm lẫn làm vậy? Tôi với chú chung sức lại để đánh giặc, bỗng dưng chú lại thay lòng thế?
Toại nói:
- Nếu cháu không tin chú, thì để ngày mai, chú gọi Tào Tháo ra nói chuyện, cháu bất thình lình nhảy ra đâm cho nó một ngọn giáo, là êm chuyện.
Siêu nói:
- Nếu được như thế, chú mới là thực bụng.
Hai người hẹn hò xong. Hôm sau Hàn Toại dẫn Hầu Tuyển, Lý Kham, Lương Hưng, Mã Ngoạn, Dương Thu tất cả năm tướng ra trận. Mã Siêu đứng núp trong cửa cờ. Hàn Toại sai người đến trước trại Tào Tháo gọi to lên rằng:
- Hàn tướng quân xin mời thừa tướng ra nói chuyện.
Tháo sai Tào Hồng dẫn ít quân kỵ ra trước trận gặp Hàn Toại. Còn cách vài bước Hồng ngồi trên ngựa nghiêng mình nói:
- Đêm qua thừa tướng tôi có nhờ thưa với tướng quân những câu gì, xin tướng quân chớ để lỡ việc!
Nói xong, quay ngựa trở về.
Siêu nghe Tào Hồng nói như thế, lập tức nổi giận đùng đùng, vác giáo nhảy xổ ra đâm Hàn Toại. Năm tướng ngăn lại, khuyên giải Mã Siêu về trại.
Toại nói:
- Cháu chớ nghi ngờ, chú thực không có bụng dạ gì đâu!
Mã Siêu bấy giờ sao chịu tin nữa, căm tức trở về.
Hàn Toại cùng với năm tướng, bàn bạc rằng:
- Việc này làm thế nào cho tỏ được lòng mình?
Dương Thu nói:
- Mã Siêu cậy khoẻ, thường tỏ vẻ khinh rẻ chúa công, nếu thắng được Tào Tháo, sao y chịu nhường nhịn. Cứ như ý tôi, không gì bằng hàng quách ngay Tào Tháo, sau này không đến nỗi mất chức phong hầu.
Toại nói:
- Ta kết anh em với Mã Đằng, nay sao nỡ bỏ tình nghĩa cũ?
Dương Thu nói:
- Việc đến thế này, không còn cách nào khác.
Toại nói:
- Vậy thì ai đi báo tin cho ta được?
Dương Thu xin đi. Toại viết mật thư, sai ngay Dương Thu đến trại Tào Tháo xin hàng. Tào Tháo mừng lắm, hứa phong cho Hàn Toại làm Tây Lương hầu, Dương Thu làm Tây Lương thái thú, các tướng khác cũng đều được phong quan chức cả. Lại hẹn với nhau đốt lửa lên làm hiệu, hợp sức lại đánh Mã Siêu.
Dương Thu từ về, thuật chuyện lại với Hàn Toại. Toại mừng lắm, sai quân sĩ chất củi khô ở sau trại, để đốt lửa làm hiệu. Năm tướng cùng đeo gươm đứng hầu. Hàn Toại định mở tiệc mời Mã Siêu đến dự rồi giết ngay tại chỗ, nhưng còn phân vân chưa quyết. Không ngờ Mã Siêu đã biết hết cả, liền dẫn vài tay thủ hạ, đeo gươm đi trước, sai Bàng Đức, Mã Đại làm hậu ứng. Siêu lẻn vào trong trướng Hàn Toại, nghe thấy năm tướng đang thì thầm với Hàn Toại, lại nghe tiếng Dương Thu nói rằng: “Việc này không nên để lâu, nên làm ngay đi!” Siêu giận lắm, tuốt gươm xốc thẳng tới, quát lên rằng:
- Bọn giặc kia! Sao dám bàn nhau để hại ta?
Ai nấy đều giật mình. Siêu vung gươm chém vào giữa mặt Hàn Toại. Toại vội giơ tay đỡ, cánh tay liền bị chém gãy đôi. Năm tướng khoa đao xúm đánh, Siêu bước ra ngoài trướng, năm tướng vây quanh đánh Siêu túi bụi. Siêu một mình vung gươm ra địch, ánh kiếm lấp loáng đến đâu, máu tươi bay toé đến đấy, chém đổ Mã Ngoạn, đâm chết Lương Hưng. Còn ba tướng bỏ chạy tháo thân cả. Siêu lại trở vào giết Hàn Toại nhưng Toại đã được tả hữu mang đi rồi.
Bỗng nhiên sau trại lửa cháy đùng đùng, quân các trại kéo ùa cả ra. Siêu vội vàng lên ngựa, Bàng Đức, Mã Đại cũng vừa đến nơi, hợp nhau đánh giết. Khi Mã Siêu dẫn được quân ra, thì quân Tào đã bốn mặt kéo lại, mé trước Hứa Chử, mé sau Từ Hoảng, tả có Hạ Hầu Uyên, hữu có Tào Hồng. Quân Tây Lương còn đánh lẫn nhau, Siêu không thấy Bàng Đức, Mã Đại đâu liền dẫn hơn trăm quân mã, đứng chẹn ở trên cầu sông Vị. Bấy giờ đã tảng sáng, chỉ thấy Lý Kham dẫn một toán quân đi qua dưới cầu. Siêu vác giáo tế ngựa đuổi theo, Lý Kham kéo lệch xệch ngọn giáo mà chạy. Sau lưng Mã Siêu, lại có Vu Cấm đuổi theo. Cấm giương cung bắn Mã Siêu, Siêu nghe sau lưng có tiếng cung, né mình tránh khỏi, mũi tên tin ngay vào Lý Kham ở mé trước ngã lộn xuống ngựa.
Siêu quay lại đánh Vu Cấm, Cấm tế ngựa chạy mất. Siêu lại trở về đóng trên cầu. Quân Tào bốn mặt kéo đến đông như kiến, quân hộ vệ đi đầu, cung tên cứ châu cả vào bắn tíu tít. Siêu cầm giáo gạt lia lịa, tên rơi tua tủa xuống đất. Siêu kéo quân kỵ mã xông vào đánh giết, nhưng quân Tào vây bọc dày lắm, không sao ra được. Đứng trên cầu Siêu reo to một tiếng, rồi đánh bừa vào mé bắc Vị Hà, quân đi theo đều bị chặn cả lại, chỉ còn độc một mình Mã Siêu, xông xáo trong trận, Siêu lại bị một mũi tên tin vào ngựa gục xuống, Mã Siêu ngã lăn ra. Quân Tào xúm đến, chực bắt. Đang khi nguy cấp, bỗng có một toán quân kéo thốc vào, đó là Bàng Đức và Mã Đại. Hai người cứu được Mã Siêu, rồi lấy một con ngựa của quân sĩ đưa Siêu cưỡi, cùng xông vào đánh giết, mở một đường máu chạy cả về phía tây bắc.
Tào Tháo thấy Mã Siêu chạy được, truyền lệnh cho các tướng rằng:
- Không kể ngày đêm, phải đuổi cho kịp Mã Siêu. Ai lấy được đầu thì thưởng nghìn nén vàng, phong hầu vạn hộ, ai bắt sống được, thì phong làm đại tướng quân.
Các tướng được lệnh, tranh nhau lập công, đuổi theo kỳ cùng mà bắt Siêu. Mã Siêu không còn tưởng gì đến người ngựa mỏi mệt, cứ cắm đầu cắm cổ chạy. Quân kỵ dần dần tan vỡ, tên nào chạy không kịp thì đều bị bắt cả. Chỉ còn Bàng Đức, Mã Đại và hơn ba chục kỵ mã, chạy thoát được về Lâm Thao, quận Lũng Tây.
Tào Tháo đốc quân đuổi mãi đến An Định, thấy Mã Siêu chạy quá xa rồi mới thu quân về Trường An. Các tướng hội họp đầy đủ. Hàn Toại đã mất cánh tay trái, thành người tàn phế. Tháo cho ở Trường An và phong làm Tây Lương hầu. Dương Thu, Hầu Tuyển cũng được phong chức liệt hầu, trấn giữ cửa Vị Hà. Rồi Tháo hạ lệnh rút quân về Hứa Đô.
Có quan tham quân ở Lương Châu là Dương Phụ tự Nghĩa Sơn lại Trường An ra mắt Tào Tháo, nói rằng:
- Mã Siêu có sức khoẻ như Lã Bố khi xưa, lại được người rợ Khương mến phục lắm. Thừa tướng nếu không nhân dịp này mà trừ ngay đi, sau này lực lượng y to lớn lên rồi, thì các quận ở Lũng Tây sẽ không còn thuộc quyền thừa tướng nữa. Xin thừa tướng đừng dẫn quân về vội.
Tháo nói:
- Ta cũng muốn lưu quân lại đánh, nhưng trong nước còn nhiều việc, phương nam vẫn chưa định xong, không thể ở lâu được. Ngươi ở đây trông nom giúp ta.
Phụ vâng lời, tiến cử cả Vi Khang làm thứ sử Lương Châu, đề phòng Mã Siêu…
Lúc sắp khởi hành, Phụ bẩm với Tháo rằng:
- Xin thừa tướng hãy để nhiều quân ở lại Trường An, phòng khi cứu ứng cho.
Tháo nói;
- Ta đã dự liệu đâu vào đấy cả rồi, ngươi không phải lo nữa.
Phụ từ biệt đi ra.
Các tướng hỏi Tào Tháo:
- Vừa rồi, lúc đầu giặc mới giữ ở Đồng Quan, đường mé bắc Vị Hà bỏ trống, sao thừa tướng không từ mặt đông Hoàng Hà đánh mặt Bằng Dực mà lại cầm cự ở Đồng Quan mãi, dây dưa ngày tháng, sau mới qua bờ lập trại?
Tháo nói:
- Khi giặc mới đến Đồng Quan, nếu ta vừa đến mà đánh ngay mặt đông Hoàng Hà, giặc tất chia quân giữ các cửa bến, thì mặt tây Hoàng Hà không sao sang được nữa. Cho nên ta tập trung nhiều quân ở Đồng Quan, khiến giặc cũng phải giữ hết cả mé nam, mà để hở mặt tây Hoàng Hà, nên Từ Hoảng, Chu Linh mới sang được. Sau đó, ta dẫn quân sang mặt bắc, cắm trại đắp thành, khiến giặc thấy ta yếu thêm kiêu căng, lơ là phòng bị. Ta lại khéo dùng mẹo phản gián, bồi dưỡng quân sĩ, nên mới phá được như vậy. Đó gọi là “Sét đánh không kịp bưng tai” là thế! Phép binh biến hoá, không cứ một đường nào.
Các tướng lại hỏi rằng:
- Thừa tướng mỗi lần được tin Mã Siêu thêm quân thì lại mừng, là ý làm sao?
Tháo nói:
- Quan Trung cách Hứa Đô xa lắm, nếu giặc cứ giữ vững những nơi hiểm yếu thì đánh đến hai năm cũng không dẹp xong. Nay địch đến tụ cả vào một chỗ này, quân tuy nhiều nhưng mỗi người một bụng, lại càng dễ làm kế chia rẽ, chỉ một trận là phá xong cả, cho nên ta mừng.
Các tướng cùng lạy mà nói rằng:
- Thừa tướng mưu mẹo như thần, không ai theo kịp được!
Tháo cười nói rằng:
- Đó cũng là nhờ tài văn võ các ngươi đấy!
Liền trọng thưởng các tướng sĩ, lưu Hạ Hầu Uyên giữ thành Trường An, bao nhiêu hàng binh đều ghép vào các đội ngũ cả.
Hạ Hầu Uyên tiến cử một người Cao Lăng, quận Bằng Dực, tên là Trương Ký, tự Đức Dung xin cho làm quan doãn ở Kinh Triệu, để cùng với Uyên giữ Trường An. Tháo rút quân về Hứa Đô.
Vua Hiến đế bày loan giá, ra tận ngoài thành tiếp đón; rồi ban chiếu phong cho Tháo được quyền khi vào chầu vua không phải xưng tên, ở trong triều không phải bước rảo, đeo gươm lên cả trên điện, cũng như Tiên Hà, tướng nhà Hán thuở xưa. Tự bấy giờ uy danh Tào Tháo lừng lẫy cả trong ngoài.
Tin ấy truyền đến Hán Trung, kinh động cả quan thái thú ở đó là Trương Lỗ.
Trương Lỗ nguyên là người ở đất Phong nước Bái. Tổ Trương Lỗ là Trương Lăng, ẩn ở núi Hộc Minh xứ Tây Xuyên, đặt ra sách đạo để dạy dỗ người ta, ai cũng kính nể. Sau khi Lăng chết, con là Trương Hành nối giữ nghiệp ấy. Nhân dân ai đến học đạo đều phải giúp năm đấu thóc; bấy giờ gọi là “giặc gạo”. Trương Hành mất, Trương Lỗ thay thế, tự xưng là “Sư quân”. Học trò thì gọi là “quỷ tốt”, người cầm đầu các nhóm học trò thì gọi là “tế tửu”, ai thống lĩnh nhiều người hơn gọi là “trị đầu đại tế tửu”, cốt giữ điều thật thà làm gốc, không được dối trá. Ai bị đau ốm gì, phải lập một đàn để cúng vái; người ốm phải ở riêng một nhà tĩnh mịch, tự xét lại lầm lỗi của mình, và thú thực cả ra, rồi mới cúng vái cho. Người coi việc cúng vái gọi là “gian lệnh tế tửu”. Phép cúng thì viết tên họ người ốm, kể tình thú tội, sao ra ba bản văn gọi là “tam quan thủ thư”. Một bản đặt lên trên đỉnh núi để tâu với trời; một bản chôn xuống đất để tâu với đất; một bản bỏ xuống nước để tâu với thuỷ quan. Khi khỏi bệnh, phải tạ lại năm đấu thóc. Lại làm ra một cái nhà gọi là “nghĩa xá”, trong nhà chứa đủ cơm gạo, củi lửa, đồ ăn, ai qua lại đó cứ vào lấy mà ăn, ai ăn nhiều quá sẽ bị trời giết.
Trong địa hạt ấy, ai phạm tội được khoan hồng ba lần, nếu không chừa mới bị trị tội. Ở xứ ấy không có quan cai trị, mọi việc đều do tế tửu coi giữ.
Trương Lỗ cứ như thế hùng cứ ở xứ Hán Trung đã ba mươi năm trời. Triều đình cho nơi này xa xôi, không thể đánh dẹp được, nên phải phong cho Trương Lỗ làm Trấn nam trung lang tướng, lĩnh chức thái thú ở Hán Ninh, chỉ phải hàng năm tiến cống mà thôi.
Khi ấy, Trương Lỗ nghe tin Tào Tháo phá được quân Tây Lương, uy danh lừng lẫy, bèn hội các quan lại bàn rằng:
- Mã Đằng ở Tây Lương bị giết, con là Mã Siêu lại mới thua, Tào Tháo tất đến xâm phạm đất Hán Trung của ta. Ta muốn tự xưng là Hán Ninh vương, mang quân ra cự nhau với Tào Tháo, các quan nghĩ sao?
Diêm Phố thưa rằng:
- Dân Hán Xuyên ta dân hơn mười vạn hộ, của giàu, lương nhiều, bốn mặt thì hiểm trở. Nay Mã Siêu mới thua, quân Tây Lương từ hang Tý Ngọ chạy vào ngụ ở Hán Trung, thêm vài vạn nữa. Tôi thiết nghĩ Lưu Chương ở Ích Châu hèn đớn lắm, chi bằng ta hãy lấy bốn mươi mốt châu ở Tây Xuyên trước làm cơ sở rồi sẽ xưng vương cũng chưa muộn.
Trương Lỗ mừng lắm, liền cùng với em là Trương Vệ bàn việc cất quân. Quân do thám vội báo tin đó vào Hán Trung.
Lại nói Lưu Chương ở Ích Châu, tự là Quý Ngọc tức là con Lưu Yên, dòng dõi vua Hán Cung vương. Khoảng năm Nguyên Hoà đời Cung Đế, Lưu Yên được phong sang ở Cảnh Lăng. Về sau, Yên làm đến chức quan mục ở Ích Châu. Đến năm Hưng Bình thứ nhất, Yên bị bệnh mất. Quan thái sử châu ấy là bọn Triệu Vị, tôn Lưu Chương lên kế vào chức của cha. Khi trước, Lưu Chương giết mất mẹ và em Trương Lỗ, bởi thế hai bên vẫn thù hằn nhau. Chương sai Bàng Hy làm thái thú Ba Tây, để chống cự Trương Lỗ.
Khi ấy, Bàng Hy dò xét Trương Lỗ định cất quân vào lấy Tây Xuyên liền phi báo với Lưu Chương. Chương vốn người nhu nhược, được tin trong bụng lo lắng lắm, vội họp các quan lại bàn bạc. Bỗng một người ngang nhiên bước ra, nói:
- Chúa công hãy yên tâm, tôi tuy bất tài, xin uốn ba tấc lưỡi, khiến cho Trương Lỗ không dám nhìn đến Tây Xuyên nữa.
Đó là:
Đất Thục mưu thần ra hiến kế
Kinh Châu hào kiệt mới ra tay.
Chưa biết người dâng kế là ai, xem hồi sau sẽ rõ.
Hồi 60:
Trương Vĩnh Niên hỏi vặn Dương Tu
Bàng Sĩ Nguyên bàn lấy Tây Thục
Người hiến kế đó là quan biệt giá Trương Tùng, tự là Vĩnh Niên, hình thù xấu xí, trán vồ, đầu nhọn, mũi tẹt, răng vẩu, mình lùn không đầy năm thước, tiếng nói oang oang như chuông.
Lưu Chương hỏi:
- Biệt giá có mưu kế gì cao giải được nạn Trương Lỗ?
Tùng thưa:
- Tôi nghe Tào Tháo ở Hứa Đô đánh dẹp trung nguyên, Lã Bố và hai anh em họ Viên đều bị diệt. Vừa đây, Tháo lại phá được Mã Siêu, thiên hạ không ai địch nổi. Chúa công nên sắm sửa đồ tiến cống, tôi xin đem sang Hứa Đô, bàn với Tào Tháo cất quân đến đánh Hán Trung để phá Trương Lỗ. Như thế, Lỗ giữ nhà chửa xong, còn đâu dám nhìn đến Tây Xuyên nữa.
Lưu Chương mừng rỡ, thu xếp vàng ngọc gấm vóc, sai ngay Trương Tùng đi sứ. Tùng bí mật mang theo một bức địa đồ Tây Thục cùng vài đầy tớ lên đường. Có người báo tin về Kinh Châu, Khổng Minh liền sai người sang Hứa Đô dò la tin tức.
Lại nói Trương Tùng tới Hứa Đô, vào nhà khách tạm nghỉ. Hàng ngày Tùng vào tướng phủ chầu chực xin ra mắt Tào Tháo. Tào Tháo từ khi đánh được Mã Siêu sinh ra kiêu ngạo, tự đắc, ngày đêm yến tiệc, ít ra đến ngoài. Chính sự triều đình đều do tướng phủ quyết định cả. Trương Tùng phải chờ đợi tới ba hôm, lại phải đút lót cho lính canh mới được dẫn vào ra mắt.
Tháo ngồi trên thềm. Tùng cúi lạy chào. Tháo hỏi rằng:
- Chủ ngươi mấy năm nay không nộp cống, là cớ làm sao?
Tùng đáp:
- Vì đường sá xa xôi, giặc cướp ngăn trở, không thể sang được.
Tháo mắng rằng:
- Ta đã quét sạch cả trung nguyên, còn trộm giặc nào nữa?
Tùng nói:
- Mặt nam còn có Tôn Quyền, mặt bắc còn có Trương Lỗ, mặt tây còn có Lưu Bị, mỗi người ít nhất cũng được mười vạn quân, sao đã gọi là thái bình được?
Tháo trông thấy Trương Tùng xấu xí, có ý hơi ghét, lại thấy ăn nói lỗ mãng, liền vung tay áo đứng dậy, đi vào nhà sau.
Tả hữu trách Trương Tùng rằng:
- Ngươi đi sứ, sao không biết giữ lễ phép, dám nói xúc phạm thế? May thừa tướng thấy người ở xa lại đây, không nỡ bắt tội, ngươi nên trở về cho mau.
Tùng cười, nói:
- Trong nước Thục ta, không có ai biết xiểm nịnh!
Bỗng một người ở dưới thềm quát lên rằng:
- Ngươi bảo nước Thục không có người xiểm nịnh, thế ở trung nguyên có kẻ xiểm nịnh à?
Tùng trông người ấy, mày nhỏ mắt xinh, mặt mũi sáng sủa. Hỏi ra thì là con quan thái uý Dương Bưu, tên là Dương Tu, tự là Đức Tổ, hiện đang làm quan chủ bạ ở phủ thừa tướng. Người ấy học rộng, biện bác giỏi, thông minh hơn người. Tùng biết Tu có tài mồm mép, muốn hỏi vặn cho tịt đi. Tu cũng cậy mình tài giỏi, coi thiên hạ không ai ra gì. Bấy giờ thấy Trương Tùng ăn nói có vẻ châm chọc, Dương Tu bèn mời Trương Tùng ra ngoài phòng sách ngồi chơi, rồi hỏi rằng:
- Từ Thục đến đây xa xôi lắm, ông đi thế có vất vả không?
Tùng đáp:
- Phụng mệnh của chủ, dẫu xông pha vào nơi nước sôi lửa bỏng cũng không dám từ.
Tu hỏi:
- Phong thổ trong Thục thế nào?
Tùng đáp:
- Thục là quận, ở phía tây, xưa gọi là Ích Châu. Sông có Cẩm Giang là hiểm; núi có Kiếm Các là cao; chung quanh hai trăm tám thôi đường, ngang dọc hơn ba vạn dặm đất. Làng mạc liên tiếp với nhau, chợ búa không quãng nào vắng, ruộng nhiều đất tốt, không lo gì nước lụt nắng to, nước giàu dân no, tiếng đàn sáo rộn ràng, vui vẻ. Thổ sản sinh ra, chứa cao tày núi, quả thực thiên hạ không đâu bằng.
Tu hỏi:
- Người ở xứ đó thế nào?
Tùng đáp:
- Văn thì có Tương Như[1] là giỏi; võ thì có Phục Ba là tài; chữa thuốc không ai hơn Trọng Cảnh[2]; xem bói mấy kẻ sánh Quân Bình[3]. Còn những người tam giáo, cửu lưu, ai ai cũng giỏi giang cả, không sao kể xiết!
Tu hỏi:
- Thủ hạ của Lưu Quý Ngọc được mấy người như ông?
Tùng đáp:
- Những người văn võ toàn tài, trí dũng xuất chúng, cùng là kẻ sĩ trung nghĩa khảng khái, kể có hàng trăm, chớ như tôi là kẻ tầm thường, có thể lấy xe mà chở, lấy đấu mà đong, biết đâu mà tính cho xuể.
Tu hỏi:
- Hiện nay ông đang làm chức gì?
Tùng đáp:
- Lạm sung vào chức biệt giá, còn sợ không nổi việc. Dám hỏi ngài làm quan gì ở trong triều?
Tu đáp:
- Tôi hiện nay đang làm chủ bạ phủ thừa tướng.
Tùng nói:
- Nghe ngài là dòng dõi trâm anh, sao không làm quan với triều đình, để giúp thiên tử, mà phải làm một kẻ nha lại ở phủ thừa tướng làm vậy?
Tu nghe nói, thẹn đỏ mặt, nhưng cũng gượng đáp rằng:
- Tôi tuy làm một chức nhỏ, nhưng thừa tướng giao cho coi việc sổ sách tiền lương, cũng là việc quan trọng. Vả lại được gần thừa tướng, sớm tối ngài còn dạy bảo cho nhiều điều có ích. Cho nên tôi cũng vui lòng nhận.
Tùng cười, nói:
- Tôi nghe Tào thừa tướng, văn thì không hiểu đạo Khổng, Mạnh; võ thì không tường mẹo Tôn, Ngô; chỉ cậy sức mạnh mà được lên cao, có tài gì mà dạy bảo được ngài?
Tu nói:
- Ông ở ngoài cõi xa, biết đâu được tài thừa tướng? Tôi thử đưa ông xem cái này thì biết.
Liền gọi đầy tớ mở tủ lấy một quyển sách đưa cho Trương Tùng xem. Tùng thấy quyển sách ấy ngoài đề bốn chữ: “Mạnh Đức tân thư”, mở ra xem hết một lượt, cả thảy mười ba thiên, toàn là phép cốt yếu về việc dùng binh.
Tùng xem xong hỏi:
- Ông bảo quyển sách này là của ai làm ra?
Tu đáp:
- Đó là của thừa tướng tham khảo cổ kim phỏng theo mười ba thiên của Tôn Vũ Tử mà làm ra. Ông khinh thừa tướng không có tài, thử hỏi quyển sách này đã đáng truyền cho đời sau chưa?
Tùng cười ầm lên mà nói rằng:
- Sách này, trẻ con nước Thục tôi đứa nào cũng thuộc lòng cả, sao gọi là “tân thư”? Đó là người vô danh đời Chiến Quốc làm ra, thừa tướng đánh cắp làm của mình, chỉ lừa dối được ông thôi!
Tu nói:
- Sách này của thừa tướng còn cất kín một chỗ, tuy làm xong nhưng chưa truyền ra đến ngoài, sao dám bảo trẻ con nước ông cũng thuộc lòng?
Tùng nói:
- Nếu ông không tin, tôi xin đọc cho ông nghe!
Tùng nói xong, đọc thuộc làu từ đầu đến cuối, không sai một chữ. Tu giật mình, nói:
- Ông mới đưa mắt nhìn qua đã nhớ được cả, thực là bậc kỳ tài trong thiên hạ.
Người sau có thơ khen rằng:
Hình dung thật cổ quái
Diện mạo lại thanh cao
Tài nói như nước chảy
Mắt liếc tựa ánh sao
Can đảm nhất Tây Thục
Văn chương bậc anh hào
Cổ kim bao sử sách
Xem qua đã thuộc làu.
Khi Tùng định ra về, Tu nói:
- Ông hãy nghỉ tạm nơi quán xá, để tôi bẩm với thừa tướng, cho ông được vào chầu thiên tử.
Tùng tạm ra ngoài. Tu vào nói với Tào Tháo rằng:
- Vừa rồi, sao thừa tướng khinh rẻ Trương Tùng làm vậy?
Tháo nói:
- Nói năng không khiêm tốn, nên ta coi thường đó thôi!
Tu nói:
- Thừa tướng còn dung nạp được Nễ Hành, há lại hẹp với Trương Tùng.
Tháo nói:
- Nễ Hành văn chương lừng lẫy đời nay, ta không nỡ giết đi, chớ Tùng có tài năng gì?
Tu nói:
- Chưa cần nhắc đến tài biện luận như nước chảy của hắn vội, lúc nãy, tôi có đưa quyển “Tân thư” của thừa tướng soạn cho hắn xem, hắn đọc qua một lượt là thuộc lòng. Thật là tay học rộng nhớ dai, trên đời hiếm có. Hắn nói sách ấy là của người đời Chiến quốc làm ra, trẻ con đất Thục cũng nhớ cả.
Tháo nói:
- Hay là người đời xưa cũng hợp ý ta chăng?
Lập tức sai xé vụn quyển sách ấy và đem đốt đi.
Tu nói:
- Người ấy nên cho vào chầu thiên tử, để cho y được biết uy nghi của thiên triều.
Tháo nói:
- Ngày mai điểm binh ở giáo trường, ngươi nên đưa hắn đến đó, cho biết lực lượng hùng hậu của ta, để hắn về nói truyền đi rằng ta nay mai lấy Giang Nam xong, thì lấy đến Xuyên.
Tu vâng lời, hôm sau cùng với Trương Tùng đến giáo trường phía tây. Tháo điểm năm vạn quân hộ vệ tinh nhuệ, quả nhiên áo mũ rực rỡ, chiêng trống vang trời, gươm giáo sáng quắc. Bốn mặt tám phương, cơ nào đội ấy, tinh kỳ phấp phới, người ngựa hăng hái, Tùng chỉ liếc mắt trông qua. Một lúc lâu, Tháo gọi Tùng đến, chỉ tay hỏi:
- Nước Thục nhà ngươi đã từng được thấy quân mã hùng dũng thế này chưa?
Tùng đáp:
- Nước Thục tôi chỉ cốt lấy nhân nghĩa trị người, chớ không thấy binh đao như thế bao giờ.
Tháo tái mặt lại, nhìn Trương Tùng, Tùng chẳng sợ hãi chút nào. Dương Tu luôn luôn đưa mắt lườm Trương Tùng.
Tháo bảo Tùng rằng:
- Ta coi đồ chuột chết trong thiên hạ như cỏ rác cả thôi. Quân ta đến đâu, dẹp phải tan, đánh phải vỡ, thuận với ta thì sống, trái với ta thì chết, ngươi có biết không?
Tùng nói:
- Thừa tướng đưa quân đến đâu, đánh là thắng, lấy là được. Tùng này đều đã biết. Xưa dẹp Lã Bố ở Bộc Dương, đánh Trương Tú ở Uyển Thành, trận Xích Bích gặp Chu Du, đường Hoa Dung gặp Quan Vũ, cắt râu quẳng áo ở Đồng Quan, cướp thuyền tránh tên ở Vị Thuỷ. Đó đều là thiên hạ vô địch cả!
Tháo nổi giận đùng đùng nói:
- Thằng hủ nho kia! Sao dám vạch những chỗ xấu của tao?
Liền quát võ sĩ lôi ra chém. Dương Tu can rằng:
- Tội Trương Tùng tuy đáng chém, nhưng tự nước Thục vào cống, nếu chém đi, tôi e mất lòng những người ở xa.
Tháo vẫn còn tức. Tuân Úc cũng can. Tháo mới tha cho tội chết, nhưng sai tả hữu đánh tới tấp đuổi ra.
Tùng ra nhà khách, thu xếp đồ đạc, ngay đêm ấy ra khỏi thành về Xuyên. Tùng tự nghĩ:
- Ta định đem các châu quận Tây Xuyên dâng cho Tào Tháo, không ngờ hắn khinh người như vậy! Trước khi đi, ta trót nói khoác trước mặt Lưu Chương, nay lại tiu nghỉu về không, chắc bị người đất Thục chê cười. Ta biết Lưu Huyền Đức ở Kinh Châu nhân nghĩa lừng lẫy, chi bằng về qua lối đó, xem thử ông ta thế nào, rồi sẽ liệu!
Nghĩ lại, liền cưỡi ngựa dẫn bộ hạ đi thẳng đến địa giới Kinh Châu. Vừa tới hạt Ảnh Châu, thấy có một toán quân mã chừng năm trăm người, một tướng đi đầu ăn mặc nhã nhặn, dừng ngựa lại hỏi:
- Có phải là quan biệt giá họ Trương đó không?
Tùng đáp:
- Phải.
Tướng đó vội vàng xuống ngựa, nói:
- Tôi là Triệu Vân, ở đây đợi ngài đã lâu.
Tùng cũng xuống ngựa, hỏi:
- Tướng quân có phải là Triệu Tử Long ở Thường Sơn không?
Vân nói:
- Chính phải. Tôi phụng mệnh chúa công Lưu Huyền Đức vì thấy đại phu đi đường vất vả ra đây hiến dâng cơm rượu.
Nói xong, sai quân sĩ quỳ xuống dâng cơm rượu, Vân mời mọc Trương Tùng rất tử tế. Tùng tự nghĩ:
- Người ta đồn Huyền Đức rộng lượng yêu khách, nay quả nhiên như thế.
Liền cùng với Triệu Vân uống vài chén rượu, rồi lên ngựa cùng đi.
Tới địa đầu Kinh Châu thì trời đã tối, Vân mời Tùng vào nghỉ ở quán trọ. Vào đến nơi, đã thấy hơn một trăm người đứng chực ngoài cửa đánh trống đón tiếp; một tướng lại trước ngựa vái chào, nói:
- Vì đại phu đi qua sứ này, tôi là Quan Vũ phụng mệnh anh tôi, ra lau quét nơi quán xá để ngài nghỉ chân.
Tùng xuống ngựa, cùng với Vân Trường, Triệu Vân vào nhà khách ngồi chơi. Một lát, cơm rượu dọn ra, hai người ân cần mời mọc, đến khuya tiệc tan. Tùng ngủ lại một đêm ở đấy.
Hôm sau, ăn điểm tâm xong, Tùng lên ngựa đi được vài dặm, lại gặp một toán quân mã, thì là Huyền Đức dẫn cả Phục Long, Phượng Sồ đi đón. Trông thấy Trương Tùng từ đằng xa, mấy người đã xuống ngựa đứng chực rồi. Tùng cũng vội vàng xuống ngựa chào hỏi. Huyền Đức nói:
- Lâu nay thấy nghe nói tiếng lớn của đại phu, như sấm rót vào mang tai, giận vì non sông cách trở, không nghe được lời dạy bảo, nay nghe ngài về Thục nên ra đây nghênh tiếp. Nếu ngài có bụng chiếu cố, xin tạm đến châu tôi, nghỉ ngơi ít lâu, để được thoả lòng mong ước, thì hân hạnh quá!
Tùng mừng lắm, lên ngựa sóng cương đi vào thành. Đến phủ đường, hai bên chia ngôi chủ khách ngồi chơi. Huyền Đức mở tiệc khoản đãi. Trong tiệc Huyền Đức chỉ nói những chuyện đâu đâu, chớ không hề đả động đến việc Tây Xuyên. Trương Tùng mới nói gợi lên rằng:
- Hoàng thúc coi giữ Kinh Châu mới có được mấy quận?
Khổng Minh đáp:
- Kinh Châu này mượn tạm của Đông Ngô, thường Đông Ngô vẫn sai người đến đòi. Vì chủ tôi là rể Đông Ngô, cho nên còn tạm yên thân ở đây thôi.
Tùng nói:
- Đông Ngô chiếm giữ sáu quận, tám mươi mốt châu, dân mạnh nước giàu, còn chưa vừa ý sao?
Bàng Thống nói:
- Chủ tôi là hoàng thúc nhà Hán, không được một châu quận nào; những kẻ khác toàn là giặc nhà Hán, thì lại cậy sức mạnh chiếm hết châu nọ châu kia, người biết nghĩ thực là không bằng lòng.
Huyền Đức nói:
- Hai ông chớ nên nói thế, ta có tài đức gì mà dám mong ước cao xa vậy?
Tùng nói:
- Ngài là tôn thân nhà Hán, nhân nghĩa lừng lẫy bốn biển. Đừng nói gì chiếm cứ châu quận, ngay việc thay thế chính thống, lên ngôi hoàng đế, cũng chưa phải là quá đáng.
Huyền Đức chắp tay tạ ơn, nói:
- Ông dạy quá lời, tôi đâu dám nhận!
Tiệc tan rồi, Huyền Đức mời Trương Tùng ở lại ba hôm, ngày nào cũng ăn yến uống rượu, tịnh không nói động gì đến việc Tây Xuyên cả.
Tùng từ tạ trở về, Huyền Đức tiễn ra ngoài mười dặm tràng đình, lại mở tiệc làm lễ tiễn hành. Huyền Đức rót chén rượu mời Tùng và nói:
- Đa tạ đại phu có lòng quý mến, ở lại chơi trò chuyện ba ngày, hôm nay chia tay nhau không biết bao giờ lại được nghe lời dạy bảo?
Nói xong, rơm rớm nước mắt. Trương Tùng tự nghĩ:
- Huyền Đức nhân từ, yêu kính kẻ sĩ như vậy, ta sao nỡ bỏ? Chi bằng khuyên ông ta lấy Xuyên thì hơn!
Rồi Tùng nói:
- Tôi cũng muốn sớm tối theo hầu hoàng thúc, nhưng chưa có dịp đó thôi. Tôi coi đất Kinh Châu này, mé đông có Tôn Quyền như hổ nhe nanh, mé bắc có Tào Tháo như kình há miệng, không phải là chỗ ở lâu được.
Huyền Đức nói:
- Tôi cũng biết như thế, nhưng chưa có chốn yên thân.
Tùng nói:
- Ích Châu hiểm trở, đồng ruộng phì nhiêu ngàn dặm, dân đông nước giàu, những bậc thông minh tài cán lâu nay thường mộ tiếng hoàng thúc. Nếu cất quân Kinh Tương kéo vào phía tây, thì nghiệp bá có thể làm nên, mà nhà Hán mới dựng lại được.
Huyền Đức nói:
- Tôi đâu dám mong như thế! Lưu Ích Châu cũng là tôn thân nhà Hán, ân đức tưới khắp đất Thục đã lâu, người khác khó lòng lay chuyển được.
Tùng nói:
- Tôi không là kẻ bán chúa cầu vinh, nay gặp ngài đây, không thể không bày tỏ nỗi lòng: Lưu Quý Ngọc tuy được Ích Châu, nhưng tính tình nhu nhược, không biết dùng kẻ hiền tài. Vả lại, Trương Lỗ ở phía bắc thường muốn xâm lấn, lòng người chia ly, chỉ mong được chúa giỏi. Tùng đi chuyến này là định đem đất dâng cho Tào Tháo, không ngờ tên nghịch tặc tự phụ gian hùng, khinh rẻ hiền sĩ, nên định đến đây gặp ngài. Ngài nên lấy Tây Xuyên trước để làm cơ sở, sau sẽ lấy Hán Trung, thu phục Trung Nguyên, phù tá thiên triều, ghi tên sử sách, công lao to lớn vô cùng. Nếu quả thật ngài có ý lấy Tây Xuyên, tôi xin hết sức giúp đỡ làm nội ứng. Chưa biết ý ngài thế nào?
Huyền Đức nói:
- Đa tạ lòng tốt của ông. Nhưng Lưu Quý Ngọc là đồng tông với tôi, nếu đem quân đến đánh, e thiên hạ chê cười.
Tùng nói:
- Đại trượng phu ở đời, nên gắng sức lập lấy cơ nghiệp, cầm roi đi trước người ta. Nếu mình không lấy thì người khác sẽ lấy, hối lại làm sao cho kịp nữa!
Huyền Đức nói:
- Tôi nghe đường Thục gập gềnh, sông núi trùng trùng điệp điệp, xe không đi lọt bánh, ngựa không chạy sóng đôi, nếu muốn lấy thì nên dùng kế gì cho được?
Tùng mới thò tay vào túi lấy ra một bức địa đồ, đưa cho Huyền Đức và nói:
- Tùng cảm ơn đức của minh công, xin dâng bức địa đồ này, cứ xem vào đây, sẽ biết hết cả đường sá nước Thục.
Huyền Đức mở ra xem, thấy trong đó ghi cả đường sá xa gần rộng hẹp, núi sông hiểm yếu, kho tàng lương thực rõ ràng từng tý.
Tùng nói:
- Minh công nên mau mau tính đi cho xong. Tôi có hai ngươi bạn rất thân là Pháp Chính và Mạnh Đạt. Hai người này thế nào cũng giúp đỡ minh công. Nếu họ đến Kinh Châu ngài nên đem việc tâm sự ra cùng bàn bạc.
Huyền Đức chắp tay cảm tạ nói:
- Ơn ông thật như núi cao sông dài. Sau này thành công, sẽ xin báo đáp xứng đáng.
Tùng nói:
- Tôi gặp được minh chúa, không thể không bày tỏ hết nỗi lòng, dám đâu mong đợi trả ơn!
Nói đoạn, từ biệt ra về, Khổng Minh sai Vân Trường tiễn đưa đến hơn chục dặm đường mới quay trở lại.
Trương Tùng về đến Ích Châu, vào gặp bạn là Pháp Chính. Chính tên tự là Hiếu Trực, quê ở quận Phù Phong, con trai hiền sĩ Pháp Chân. Tùng vào chơi kể lại với Chính rằng:
- Tào Tháo khinh rẻ hiền sĩ, chỉ có thể cộng khổ chứ không đồng cam được. Tôi đã đem Ích Châu hứa với Lưu hoàng thúc từ lâu, nay đến đây bàn bạc với anh.
Pháp Chính nói:
- Tôi chắc Lưu Chương không làm nên trò gì được, nên vẫn rắp tâm theo Lưu Huyền Đức từ lâu. Ta đã đồng tâm với nhau thì còn nghi hoặc gì nữa!
Được một lát, Mạnh Đạt cũng đến. Đạt tự là Tử Khánh, vốn là người đồng hương với Pháp Chính, Đạt vào thấy hai người đang thì thầm với nhau, mới nói rằng:
- Tôi đã biết ý hai anh rồi, các anh định dâng Ích Châu cho người khác phải không?
Tùng nói:
- Có thế thực, nhưng anh thử đoán xem nên dâng cho ai là phải?
Đạt nói:
- Phi Lưu Huyền Đức không xong!
Ba người cùng vỗ tay cười ầm cả lên. Pháp Chính bảo Tùng rằng:
- Ngày mai, anh vào ra mắt Lưu Chương thì nên làm thế nào?
Tùng nói:
- Tôi sẽ tiến cử hai anh làm sứ sang Kinh Châu.
Hai người đồng ý.
Hôm sau, Tùng vào ra mắt Lưu Chương, Chương hỏi:
- Công việc của Hứa Đô thế nào?
Tùng thưa rằng:
- Tào Tháo là giặc nhà Hán, muốn cướp lấy cả thiên hạ, không thể trông mong hắn được. Hắn đã có ý cướp lấy Tây Xuyên rồi.
Chương nói:
- Nếu vậy thì làm thế nào bây giờ?
Tùng nói:
- Tôi có một kế, khiến Tào Tháo, Trương Lỗ không dám xâm phạm đến bờ cõi ta được.
Chương hỏi:
- Kế gì?
Tùng nói:
- Có Lưu Huyền Đức ở Kinh Châu, vốn người cùng họ với chúa công. Ông ta nhân từ khoan hậu, có phong cách trưởng giả. Sau trận Xích Bích, Tào Tháo còn sợ mất vía, huống chi là Trương Lỗ? Chúa công sao không sai người sang kết liên với ông ấy để làm ngoại viện, tất chống được Tào Tháo và Trương Lỗ.
Chương nói:
- Việc này phi sai Pháp Chính, Mạnh Đạt không xong.
Chương lập tức triệu hai người vào, viết một phong thư, sai Pháp Chính sang thông tin trước, rồi mới sai Mạnh Đạt lĩnh năm nghìn tinh binh sang đón Huyền Đức vào Xuyên để giúp đỡ mình.
Mấy người đang bàn tính chợt có một người tất tả chạy vào, mồ hôi đổ ra đầy mặt, kêu lớn lên rằng:
- Nếu chúa công nghe lời Trương Tùng, thì bốn mươi mốt châu quận này về tay người khác cả!
Tùng giật mình, trông ra thì là Hoàng Quyền, tự là Công Hành, quê ở Trung Ba, hiện đang làm chủ bạ.
Chương hỏi:
- Huyền Đức là người đồng tông với ta, ta muốn kết liên làm viện trợ, sao ngươi lại nói thế?
Quyền đáp:
- Tôi đã biết Lưu Bị là người nhân từ, mềm mỏng mà hơn cả cứng rắn, anh hùng vô địch, nhân dân xa gần đều mong mỏi. Vả lại, có Gia Cát Lượng, Bàng Thống, Quan, Trương, Triệu, Hoàng làm vây cánh. Nếu mời y vào Thục, lại đối đãi như bộ hạ thì người ta không chịu, nếu đối đãi như tân khách thì chả lẽ một nước lại hai chủ? Chúa công nghe lời tôi thì Tây Thục sẽ vững như Thái Sơn, không nghe lời tôi thì chúa công sẽ bị nguy tức khắc. Trương Tùng bữa trước đi qua Kinh Châu tất nhiên có thông mưu với Lưu Bị. Xin chém Trương Tùng, tuyệt giao với Lưu Bị, thì may mắn cho Tây Xuyên lắm lắm!
Chương nói:
- Thế ngộ Tào Tháo, Trương Lỗ đến đây, thì lấy gì chống cự?
Quyền nói:
- Không gì bằng thành cao hào sâu, giữ chắc lấy thành trì, đợi lúc thái bình.
Chương mắng rằng:
- Quân giặc xâm phạm cõi, nguy cấp ở ngay trước mắt, nếu đợi đến lúc thái bình thì thật là kế chậm chạp rồi!
Liền không nghe lời Hoàng Quyền, cứ sai Pháp Chính đi sang Kinh Châu.
Lại có một người can rằng:
- Không được! Không được!
Chương nhìn ra thì là quan tòng sự Vương Luỹ. Luỹ đập đầu xuống đất, nói:
- Nếu chúa công nghe lời Trương Tùng thì tự rước lấy cái vạ vào mình đó!
Chương nói:
- Ta kết liên với Huyền Đức cốt chống Trương Lỗ, có việc gì mà nói lắm thế?
Luỹ thưa:
- Trương Lỗ xâm phạm bờ cõi, chẳng qua như cái mụn ghẻ ngoài da; nhưng mời Lưu Bị vào Xuyên, thì khác nào có bệnh trong phủ tạng. Huống chi Lưu Bị như con cú dữ ở đời, trước kia theo Tào Tháo, rồi lại muốn hại Tháo; sau nhờ Tôn Quyền, liền cướp lấy Kinh Châu. Xem tâm địa như thế, thì ở với nhau làm sao được? Nếu triệu vào đây, chắc Tây Xuyên này hỏng mất!
Chương mắng:
- Chớ nói càn! Huyền Đức họ hàng với ta, có đâu nỡ cướp cơ nghiệp của ta!
Nói rồi, sai dìu hai người ra, và sai Pháp Chính cứ việc đi sứ.
Pháp Chính phụng mệnh sang Kinh Châu, ra mắt Huyền Đức, chào hỏi xong xuôi, dâng thư lên Huyền Đức mở ra xem, trong thư viết:
“Em là Lưu Chương, xin có mấy lời kính gửi lên tôn huynh Huyền Đức tướng quân: lâu nay em vẫn khâm phục uy trời, nhưng vì đường sá gập ghềnh, chưa kịp cống hiến, rất là áy náy không yên. Em thường nghe nói: “Xấu tốt, hoạn nạn cùng cứu giúp nhau” bè bạn còn thế, huống chi chỗ gia quyến thân tộc? Nay Trương Lỗ ở phía bắc, thường muốn cất quân xâm phạm bờ cõi, em chẳng được an tâm nên cho người dâng thư này xin lĩnh ý tôn huynh. Nếu tôn huynh nghĩ đến tình nghĩa huynh đệ tôn tộc thì mang quân mã, tiêu diệt giặc cướp, giúp đỡ nhau mãi mãi, sẽ xin báo đáp xứng đáng. Thư chẳng hết lời, mong tôn huynh chiếu cố”.
Huyền Đức xem thư mừng rỡ, mở tiệc thết đãi. Rượu được vài tuần, Huyền Đức bảo tả hữu lui ra, mật bảo Chính rằng:
- Lâu nay vẫn ngưỡng mộ tiếng Hiếu Trực; Trương biệt giá thường nhắc đến tài đức của ông, nay mới được tiếp, thực là toại nguyện suốt đời!
Pháp Chính ta lại, nói:
- Tôi là một chức quan nhỏ trong đất Thục, có gì đáng kể. Nhưng tôi thiết nghĩ: “Ngựa gặp được Bá Nhạc thì mừng rỡ hí lên, người gặp được tri kỷ thì dẫu chết cũng thoả”. Lời Trương biệt giá bữa nọ, minh công còn có ý gì nữa không?
Huyền Đức nói:
- Tôi một thân nương thân nhờ đất khách, buồn bực trong lòng; thường nghĩ rằng: Con chim chích còn chiếm được một cành mà đậu, con thỏ còn biết đào cái hang ba ngách mà ở, huống chi là người ta? Tây Thục là đất giàu có, không phải tôi không muốn lấy, nhưng Quý Ngọc là người cùng họ với tôi, tôi không nỡ cướp lấy thôi!
Pháp Chính nói:
- Ích Châu là một kho tàng của trời, phi chủ có tài không giữ nổi. Lưu Quý Ngọc không biết dùng người hiền đó thôi, cơ nghiệp ấy cũng đến về tay người khác mất. Nay y đem cơ nghiệp giao phó cho tướng quân, chớ nên bỏ lỡ dịp tốt. Tướng quân không nghe có câu rằng: “Bắt thỏ đuổi trước thì được” đó ư. Nếu tướng quân có ý muốn lấy Tây Xuyên, tôi sẽ xin hết lòng giúp đỡ.
Huyền Đức chắp tay cảm tạ và nói:
- Xin hãy để tha thứ, tôi bàn bạc xem sao!
Tiệc tan Khổng Minh đưa Pháp Chính ra nghỉ nơi nhà khách. Huyền Đức ngồi nghĩ ngợi một mình. Bàng Thống bước ra nói:
- Việc đáng quyết mà không quyết, gọi là người ngu. Chúa công là người cao minh sao cũng hồ nghi lắm thế?
Huyền Đức hỏi:
- Theo ý ông thì nên thế nào?
- Kinh Châu này mặt đông có Tôn Quyền, mặt bắc có Tào Tháo, khó vùng vẫy được. Ích Châu, dân cứ hàng trăm vạn, đất rộng của giàu, có cơ làm nổi được nghiệp to. Nay may có Trương Tùng, Pháp Chính làm tay trong, đó là trời cho mình một dịp hay đấy, còn nghĩ gì nữa?
Huyền Đức nói:
- Ta nay đánh nhau với Tào Tháo, khác nào nước địch với lửa. Tháo vội vàng, ta thư thả; Tháo bạc ác, ta nhân từ; Tháo dối trá, ta thực thà; việc gì ta cũng phải khác Tháo thì mới thành công. Nếu vì một chút lợi nhỏ, mà bỏ cả tín nghĩa với thiên hạ, ta không nỡ làm!
Bàng Thống cười, nói:
- Chúa công nói cũng phải lẽ, nhưng đương lúc loạn lạc này, phép dùng binh tranh thế mạnh, không phải chỉ có một lối. Nếu cứ cố chấp, thì một bước cũng không đi được, phải quyền biến mới xong! Lấy sáng đánh tối, lấy thuận đánh nghịch đó là cái đạo của vua Thang, vua Vũ ngày xưa diệt Kiệt, Trụ vậy! Khi nào thành công sẽ phong cho Quý Ngọc một nước to khác, thì có việc gì mà chẳng tín nghĩa? Vả lại, chúa công không lấy nay thì mai cũng về tay ngươi khác mà thôi! Xin chúa công hãy nghĩ cho kỹ.
Huyền Đức bấy giờ mới nghe ra, nói:
- Thật là lời vàng đá, tôi xin ghi lòng tạc dạ!
Rồi mời Khổng Minh đến bàn bạc việc cất quân vào miền tây. Khổng Minh nói:
- Kinh Châu là nơi quan trọng, phải chia quân để giữ.
Huyền Đức nói:
- Ta cùng Bàng Sĩ Nguyên, Hoàng Trung, Nguỵ Diên vào Tây Xuyên trước. Còn quân sư nên cùng Quan Vân Trường, Trương Dực Đức và Triệu Tử Long giữ Kinh Châu.
Khổng Minh vâng lời.
Rồi đó, Khổng Minh coi giữ Kinh Châu; Quan Công trấn ải Thanh Nê, chọn đường trọng yếu Tương Dương, Trương Phi tuần tiễu ven sông bốn quận, Triệu Vân đóng ở Giang Lăng giữ Công An.
Huyền Đức sai Hoàng Trung làm tiền bộ, Nguỵ Diên làm hậu quân, còn mình thì cùng với Lưu Phong và Quan Bình đi trung quân, Bàng Thống làm quân sư, quân mã bộ năm vạn rầm rộ kéo vào miền tây.
Khi sắp đi, có Liêu Hoá dẫn một toán quân đến hàng. Huyền Đức cho ra giúp Vân Trường để cự nhau với Tào Tháo.
Mùa đông năm ấy, Huyền Đức đem quân tiến vào Tây Xuyên, mới đi được vài thôi đường, thì gặp Mạnh Đạt đến nói Lưu Ích Châu sai dẫn năm nghìn quân lại đón. Huyền Đức sai người đưa thư báo cho Lưu Chương biết trước. Chương thông tư cho các châu quận dọc đường phải cung cấp lương thực cho quân sĩ Huyền Đức. Chương định thân ra Bồi Thành nghênh tiếp liền truyền lệnh sắm sửa xe ngựa màn trướng, tinh kỳ, y giáp cho tươm tất.
Chủ bạ là Hoàng Quyên vào can rằng:
- Chúa công đi chuyến này, tất bị Lưu Bị hại. Tôi ăn lộc đã lâu, không nỡ để chúa công bị mắc mưu gian, xin chúa công hãy nghĩ cho kỹ.
Trương Tùng nói:
- Hoàng Quyền chỉ muốn chia rẽ nghĩa họ hàng chúa công, gây thêm cái oai của giặc cướp, thực là vô ích.
Chương liền mắng Quyền rằng:
- Ý ta đã quyết, ngươi sao cứ gàn thế?
Quyền đập đầu xuống đất toé máu ra, rồi bước lên cắn lấy áo Lưu Chương mà can. Chương giận lắm, dứt áo đứng dậy. Quyền nhất định không buông, bị gãy mất hai răng cửa, Chương quát tả hữu lôi ra, Quyền khóc ầm lên, ra về.
Chương sắp đi, lại có một người hô to rằng:
- Chúa công không nghe lời Hoàng Quyền, muốn đem thân vào chỗ chết à?
Nói đoạn, người ấy nằm lăn ra thềm để can. Chương trông ra thì là Lý Khôi, quê ở Dũ Nguyên, thuộc Kiến Ninh. Khôi cúi đầu nói:
- Tôi nghe: vua thì có bầy tôi can ngăn, cha thì có con cái can ngăn. Lời Hoàng Quyền là lời trung nghĩa, xin phải nghe mới được! Nếu rước Lưu Bị vào Xuyên thì khác gì rước hổ vào nhà.
Chương nói:
- Huyền Đức là anh họ ta, sao nỡ hại ta! Hễ ai còn can nữa thì chém!
Đoạn thét tả hữu lôi Lý Khôi ra.
Trương Tùng nói:
- Các quan văn ở đây, ai cũng chỉ biết đến vợ con, không chịu ra sức giúp nước. Còn những tướng võ thì cậy công kiêu ngạo, đều có ý khác cả. Nếu không chịu triệu Lưu hoàng thúc vào thì giặc đánh bên ngoài, dân phản bên trong, con đường thất bại sờ sờ ra đó!
Chương nói:
- Ngươi nghĩ phải lắm, thực rất có ích cho ta!
Hôm sau, Lưu Chương lên ngựa ra cửa Du Kiều, tên lính đến báo rằng:
- Có quan tòng sự là Vương Luỹ, tự trói mình treo ở cửa thành, một tay cầm giấy can, một tay cầm thanh gươm; nói hễ can mà không nghe, thì cắt đứt dây cho ngã chết ở đấy.
Chương sai ngưới đem thư vào xem. Đại ý trong thư viết:
“Hạ thần là Vương Luỹ, tòng sự Ích Châu, khóc đổ máu mắt xin thưa: Tôi thường nghe nói “Thuốc hay đắng miệng nhưng khỏi bệnh, lời nói ngay khó nghe nhưng lợi cho công việc”. Xưa kia vua Hoài nước Sở không nghe lời Khuất Nguyên đến họp hội thề ở Vũ Quan liền bị nước Tần hãm hại. Nay chúa công coi thường, rời khỏi thành trì, định đón Lưu Bị ở Bồi Thành, e rằng có đi mà không có về được! Nên đem Trương Tùng ra chợ chém đầu, tuyệt lời hẹn với Lưu Bị thì may mắn cho chúng dân Thục biết chừng nào! May mắn cho cả cơ nghiệp của chúa công biết chừng nào!”
Chương xem xong, nổi giận mắng rằng:
- Ta chơi với người nhân đức như gần cụm hoa lan, sao khinh ta lắm thế?
Vương Luỹ kêu to một tiếng, rồi cắt dây, ngã quay xuống đất, chết liền.
Người sau có thơ than rằng:
Treo mình khuyên can chúa
Liều chết, tạ ơn dày
Hoàng Quyền răng vừa gãy
Vương Luỹ ai sánh tày?
Lưu Chương dẫn ba vạn quân mã, đem theo hơn nghìn xe lương thực và vải lụa ra Bồi Thành đón Huyền Đức.
Lại nói, tiền quân của Huyền Đức đã đến Điếm Giang; quân đi đến đâu cũng được Tây Xuyên cung cấp lương thực. Hiệu lệnh của Huyền Đức lại nghiêm minh, quân sĩ ai xâm phạm một chút của dân là bị chém, nên nhân dân dắt già ẵm trẻ, đứng xem chật đường, đốt hương lễ bái. Huyền Đức dùng lời lẽ ôn tồn để uý lạo.
Pháp Chính nói riêng với Bàng Thống:
- Mới rồi, Trương Tùng có thư mật đến đây, nói khi đến Bồi Thành gặp Lưu Chương thì sẽ tính luôn, không nên bỏ lỡ cơ hội.
Thống nói:
- Ý định này không nên nói ra, đợi khi hai họ Lưu gặp nhau, sẽ nhận dịp giết đi. Nếu tiết lộ ra, tất bên trong sinh biến.
Pháp Chính nghe lời và và hết sức giữ bí mật.
Bồi Thành cách Thành Đô ba trăm sáu mươi dặm. Lưu Chương đến nơi, sai người nghênh tiếp Huyền Đức. Hai đạo quân đều đóng đồn trên bờ sông Bồi, Huyền Đức vào thành, ra mắt Lưu Chương. Hai bên kể lể sự tình, gạt nước mắt nói chuyện tâm phúc. Chương mở tiệc khoản đãi. Tiệc tan, ai về trại ấy nghỉ ngơi.
Chương bảo với các quan rằng:
- Nực cười cho bọn Hoàng Quyền, Vương Luỹ không biết bụng dạ anh họ ta, cứ hồ nghi xằng. Hôm nay ta được tiếp mới biết là người nhân nghĩa. Ta được ông ấy giúp cho, thì lo gì Tào Tháo, Trương Lỗ nữa. Giá không có Trương Tùng thì lỡ cả việc!
Lập tức cởi áo lục bào đang mặc và lấy năm trăm lạng vàng, sai người đem về Thành Đô thưởng cho Trương Tùng.
Khi đó, các tướng tá là Lưu Hội, Lãnh Bào, Trương Nhiệm, Đặng Hiền và toàn ban văn võ đều nói:
- Chúa công đừng mừng rỡ vội, Lưu Bị ngoài mềm trong cứng, chưa dễ mà lường được đâu phải đề phòng mới được.
Chương cười, nói:
- Các người hay lo xa lắm, anh ta có đâu lại hai lòng?
Ai nấy thở dài, trở ra.
Huyền Đức về đến trại. Bàng Thống vào ra mắt và nói:
- Chúa công có biết ý tứ Lưu Quý Ngọc trong bữa tiệc hôm nay thế nào không?
Huyền Đức nói:
- Lưu Quý Ngọc cũng là người thành thực.
Thống nói:
- Quý Ngọc tuy là người hiền hậu, nhưng tôi xem ý bọn thủ hạ của y đều có vẻ bất bình cả, chưa biết hay dở làm sao. Cứ như ý tôi thì ngày mai nên mở một tiệc mời Lưu Chương đến uống rượu, ta phục sẵn một trăm quân đao phủ, chúa công quẳng chén ra hiệu, giết y ngay tại chỗ, rồi kéo ùa vào Thành Đô, gươm không phải rút khỏi vỏ, cung không phải lên đây, chỉ việc ngồi mà cũng bình định xong cả.
Huyền Đức nói:
Quý Ngọc là anh em họ với ta, đối đãi với ta rất thành thật, vả lại ta mới đặt chân đến đất Thục, ân đức và uy tín chưa có gì. Nếu ta làm thế, thì trời không dung mà người cũng oán; mưu ấy dẫu người dùng đạo bá cũng không làm được!
Thống nói:
- Đó là mẹo của Trương Tùng đưa mật thư cho Pháp Chính, dặn rằng công việc phải tính mau không nên để chậm.
Thống nói chưa dứt lời thì Pháp Chính vào nói:
- Không phải chúng tôi đều vì lợi ích riêng đâu, đó là thuận theo mệnh trời thôi!
Huyền Đức nói:
- Lưu Quý Ngọc là đồng tông với ta, ta không nỡ làm thế.
Chính nói:
- Ngài nói sai rồi! Nếu không làm thế thì Trương Lỗ có thù Thục giết mất mẹ, tất đến đánh chiếm Thục mất. Ngài vượt suối trèo đèo, ruổi rong quân mã, mới đến được đây, tiến lên thì thành công mà rút lui thì vô ích. Nếu cứ dùng dằng mãi thì thật là thất sách. Ngài không quyết ngay, tôi sợ mưu của mình lộ ra sẽ nguy đến nơi! Chi bằng nhân dịp trời thuận người theo, mà làm ngay đi, để gây dựng cơ nghiệp cho chóng là hơn cả.
Bàng Thống cũng khuyên hai ba lần nữa.
Đó là:
Hiền chúa mấy phen ban nhân nghĩa
Lã thần rắp ý dụng quyền mưu.
Chưa biết Huyền Đức nghĩ ra làm sao, xem hồi sau sẽ rõ.
Chú thích: 
1. Tương Như: tên là Tư Mã Tương Như, nhà văn thời Tây Hán.
2. Trọng Cảnh: Trương Cơ, tự là Trọng Cảnh, thầy thuốc có tiếng thời Đông Hán.
3. Quân Bình: Nghiêm Quân Bình thầy bói thời Tây Hán.
La Quán Trung
Người dịch: Hồng Việt
Theo https://www.sachhayonline.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mười bảy và những cơn mưa đầu hạ

Mười bảy và những cơn mưa đầu hạ Tiếng thầy giảng chồng lên tiếng mưa, cứ êm êm và nhạt nhòa. Buổi đầu ở một lớp học thêm mới nên Việt Anh...