Hồi 21:
Hộ Pháp hóa nhà cứu Ðại Thánh
Linh Kiết cho phép bắt Huỳnh Phong
Nói về Huỳnh Phong đang ngồi trong động không biết tính mưu
chi.
Xảy thấy tiểu yêu vào báo rằng:
- Hổ tiên phuông bị Hòa Thượng đập chết, kéo thây bỏ trước động
môn, lại muốn hành hung phá cửa.
Huỳnh Phong giận quá nói rằng:
- Hòa Thượng nầy không biết phải, ta chẳng ăn thầy nó, nó lại
giết tướng ta. Thiệt đáng giận lắm. Ta thuở nay nghe danh Tôn Hành Giả, mà chưa
biết mặt làm sao. Nay ra trận thử coi, có phải là chín đầu tám đuôi không cho
biết. Tiểu yêu phải đồng tâm giết nó, mà báo oán cho Tiên phuông.
Nói rồi nai nịt hẳn hoi, xách chĩa ba ra trận.
Hành Giả ngó thấy tiểu yêu ra trước. Chủ động theo sau, thiệt
tướng vạm vở lắm!
Chủ động hét lớn rằng:
- Tôn Hành Giả ở đâu?
Hành Giả giơ thiết bảng đáp rằng:
- Tôn ngoại mi ở đây, không thấy sao mà hỏi?
Huỳnh Phong coi lại rõ ràng, thấy Hành Giả không đầy bốn thước,
bộ tướng như khỉ già.
Liền cười ngất nói rằng:
- Tội nghiệp thì thôi, ta tưởng Hành Giả là diện mạo đường đường,
oai phong lẩm lẩm, không dè ròm rỏi như bệnh lâu năm!
Hành Giả cười rằng:
- Mi là thằng không có mắt, tuy không ngoại kháu người mà mạnh
lắm, nếu đập cán chĩa nhằm đầu một cái, thì cao thêm sáu thước hẳn hòi.
Huỳnh Phong day cán chĩa đập đầu Hành Giả một cái.
Hành Giả đứng nhóng dậy, cao gần một trượng rõ ràng.
Huỳnh Phong hét lớn rằng:
- Tôn Hành Giả đừng làm phép điểu ta, hãy đánh cho biết sức.
Nói rồi đâm một chĩa. Hành Giả đưa thiết bảng đở liền. Hai
người đánh hơn ba mươi hiệp chưa thấy hơn thua.
Hành Giả nổi nóng, bứt lông bỏ vào miệng nhai nhỏ phun ra, miệng
la biến biến! Biến ra trăm ngàn Hành Giả, cầm thiết bảng vây phủ Huỳnh Phong.
Phép ấy gọi là Thân họa thân.
Huỳnh Phong đánh không lại, hớp gió hướng Ðông Nam thổi ra.
Xảy có trận gió vàng vụt tới. Những Hành Giả biến ra đó, bị
gió vàng thổi tống lên trời.
Hành Giả sợ mất lông, liều dùng mình thâu lại. Thâu lông rồi
lướt tới đánh đùa. Bị Huỳnh Phong thổi vào mặt một hơi, Hành Giả nhắm con mắt
mà chạy chết.
Còn Huỳnh Phong thâu gió trở về.
Khi ấy Bát Giới thấy gió vàng, tối tăm trời đất.
Bát Giới nhắm mắt nằm mọp bên núi, không dám cất đầu lên.
Giây lâu gió lặng rồi, nghe Hành Giả vừa đi vừa hét, Bát Giới
mở mắt ra, thấy Hành Giả ở hướng Tây đi lại.
Bát Giới bái mà nói rằng:
- Anh ở đâu về đây? Thiệt trời gió lớn quá!
Hành Giả khoát mà nói rằng:
- Gió dữ thiệt! Thuở nay ta mới thấy gió lớn như vầy! Tiểu
yêu Chúa động đánh với ta đặng ba mươi hiệp. Ta hóa phép Thân họa thân. Chúa động
thất kinh thổi ra gió ấy. Ta cũng biết hô phong hoán võ, mà không từng gió độc
như vầy. Ðứng chẳng vững chân nên phải chạy.
Bát Giới nói:
- Nếu cự không lại nó, thì làm sao mà cứu thầy?
Hành Giả nói:
- Sự cứu thầy thủng thẳng sẽ tính. Không biết đây có thầy thuốc
nhãn khoa hay không? Lo thuốc trị con mắt cho ta đã.
Bát Giới hỏi:
- Con mắt anh sao đó?
Hành Giả nói:
- Ta bị Chúa động thổi vào con mắt cay xé, bắt chảy nước mắt
hoài! Nếu không trị cho mau, để tới hết thấy đường thì khó lắm.
Bát Giới nói:
- Anh ôi! Ðã ở trong rừng, lại thêm trời tối, sợ không nhà mà
ngủ đở, biết đâu mà kiếm nhãn khoa!
Hành Giả nói:
- Thiếu chi là chỗ ngủ, nhắm chừng Chúa động chưa dám hại thầy
ta, mình kiếm nhà ngủ đở đêm nay, rạng ngày tính cứu thầy mới đặng.
Bát Giới nghe lời, dắt ngựa gánh đồ, đồng ra đường cái.
Xảy nghe tiếng chó sủa gần gần.
Bát Giới thấy xa xa có xóm dựa rừng, và bóng đèn nhấp nháng.
Hai người đi lần tới kêu cửa.
Ông chủ nhà cất tiếng hỏi:
- Ai?
Hành Giả bái mà nói rằng:
- Chúng tôi là học trò Ðường Tăng, ở miền Ðông Ðộ qua Tây
Phương lạy Phật thỉnh kinh, đi ngang núi nầy bị Huỳnh Phong đại vương bắt thầy
tôi vào động, phần trời đã tối xin ông cho tôi tá túc một đêm.
Ông già ấy nói rằng:
- Vậy thời mời hai thầy vào đây mà nghỉ.
Hai anh em gánh đồ và dắt ngựa vào nhà, trà nước nghỉ ngơi.
Giây lâu dọn cơm chay thiếc đãi.
Anh em ăn uống xong xả. Ông già dọn chỗ nghỉ ngơi.
Hành Giả nói:
- Ngủ không đặng đâu mà sửa soạn, xin ông nói giùm một chút,
đây có thầy bán thuốc con mắt hay không?
Ông già ấy hỏi:
- Ông nào đau con mắt?
Hành Giả nói:
- Tôi không dám dối ông, thiệt người tu hành thuở nay không bệnh
con mắt. Bởi bữa nay đánh với Chúa động, bị thổi gió độc, làm cho con mắt xốn
xang, nên mới hỏi thăm thuốc.
Ông già nói:
- Bạc ác thì thôi! Ông tu hành sao còn nói dối, Huỳnh Phong đại
vương thổi gió độc. Không phải gió Ðông, Tây, Nam, Bắc, không phải gió Xuân, Hạ,
Thu, Ðông. Ấy là gió Tam mụi thần phong, ở trong lỗ mũi, lỗ miệng và lỗ con mắt
bay ra, thiệt là độc quá!
Hành Giả hỏi:
- Gió ấy ra thể nào?
Ông già nói, gió ấy như vầy:
Ðã làm trời đất tối
Lại thêm quỷ thần kinh
Gặp núi non cũng sập
Nhằm người phải bỏ mình
Nếu thầy bị gió nầy, lẽ nào còn sống đặng? Trừ ra thần tiên
phật thánh, mới vô sự mà thôi.
Hành Giả nói:
- Thiệt quả như lời, chúng tôi tuy không phải thần tiên, song
thần tiên còn sau chúng tôi nữa, nên nó thổi không chết, ngặt một điều con mắt
xốn xang.
Ông già nói:
- Cứ theo lời ấy, thì ông không phải người thường. Song chốn
nầy không ai bán thuốc con mắt. Tôi có gặp ông tiên truyền phương thuốc dán, gọi
là Tam hoa cửu tử cao. Trong ấy có ba thứ bông và chín thứ hột. Trị các thứ
nhãn phong.
Hành Giả nghe rõ, bái mà nói rằng:
- Xin ông cho tôi một chút?
Ông già ấy đưa thuốc dán biểu Hành Giả thoa vào. Dặn đừng mở
ra, ngủ đến rạng ngày thì hết.
Bát Giới trãi chiếu kêu Hành Giả lại nằm.
Hành Giả không mở mắt ra, cứ rờ hoài rờ hũy.
Bát Giới cười rằng:
- Bớ ông thầy bói, cây gậy của thầy đây nè.
Hành Giả nói:
- Thằng ăn trộm hay kêu ngạo, mi tưởng ta đui thiệt hay sao?
Bát Giới nằm bụm miệng cười sục sục một hồi, Bát Giới ngủ trước,
còn Hành Giả ngồi tới canh ba. Con mắt êm rồi mới ngủ.
Rạng đông Hành Giả thức dậy, dụi con mắt, khen rằng:
- Thiệt là thuốc tiên, con mắt muốn tỏ hơn khi trước. Ngó tư
bề không thấy nhà cửa, có liễu cao hòe lớn mà thôi, thấy hai anh em ngủ trên
đám cỏ.
Bát Giới thức dậy hỏi rằng:
- Anh ngồi tưởng giống gì đó?
Hành Giả nói:
- Em hãy nhướng con mắt lên mà coi.
Bát Giới ngó quanh quất, thất kinh ngồi dậy hỏi rằng:
- Con ngựa mình ở đâu?
Hành Giả nói:
- Vậy chớ vật gì buộc nơi gốc cây đó?
Bát Giới hỏi:
- Còn gánh đồ ở đâu?
Hành Giả nói:
- Vậy chớ giống gì trên đầu nằm?
Bát Giới nói:
- Ông chủ nhà tệ quá. Dọn đồ đi mà không kêu chúng ta. Theo ý
tôi bàn, chắc là trốn nợ. Sợ xóm riềng hay mà cản, nên đi lúc canh ba. Còn mình
ngủ như chết, người dở nhà mà cũng không hay. Thiệt là tệ lắm.
Hành Giả cười ngất mà nói rằng:
- Ðừng có nói bậy, hãy coi tấm giấy trên nhánh cây.
Bát Giới gở lá thiệp, có bài thơ tứ tuyệt như vầy:
Non yêu ai dám đến làm nhà,
Hộ Pháp Già Lam biến hóa ra
Giúp thuốc cho người đà sáng mắt,
Gắng cóng trừ quỷ chớ dần dà.
Hành Giả nói:
- Mấy chú thần vặt. Từ khi ta đặng Long mã, không rảnh mà kêu
tên. Nay lại hiện hình làm lối!
Bát Giới nói:
- Anh hay buông lời cao cách, thần nào lại chịu anh kêu tên?
Hành Giả nói:
- Ngươi không biết, để ta nói cho mà nghe: Hộ Pháp, Già Lam,
Lục Ðinh, Lục Giáp, Yết Ðế, Công Tào, đều vâng lệnh Quan Âm bồ tát, theo bảo hộ
thầy. Từ ngày ở núi Xà Bàn, ta có kêu cho biết đủ thiếu. Sau có em giúp việc,
chẳng cần dùng các thần ấy, nên chẳng kêu tên.
Bát Giới nói:
- Chư thần đã vâng lệnh Phật mà phò hộ, nên chẳng dám hiện
hình. Người mới hóa nhà giúp thuốc cho anh, còn trách móc sao phải. Hãy lo tìm
phương thế mà cứu thầy.
- Ðây đến động Huỳnh phong gần lắm. Em hãy coi đồ và giữ ngựa,
để ta đi dọ tin thầy, đặng tranh đua với nó.
Bát Giới nói:
- Phải, anh hãy thăm tin cho chắc thầy sống thác. Giả như thầy
thác thiệt, thì chúng ta lo việc làm ăn. Bằng thầy hãy còn, thì hết sức hết
lòng bảo hộ.
Hành Giả nạt rằng:
- Ngươi đừng nói bất lợi, nghe ra như tiếng rủa thầy. Thôi đừng
nói xàm, ta đi đó.
Nói rồi nhảy một cái, đã tới động Huỳnh phong. Thấy trong còn
ngủ mê nên chưa mở cửa, Hành Giả niệm chú, hóa ra một con muỗi bông, hai cẳng
có rằn có rực, bay vào trong động, thấy tiểu quỷ đương ngủ mê.
Chúa động dậy kêu hết thảy, rồi nói rằng:
- Chúng bây coi cửa nẻo cho tử tế. Sợ trận gió thổi Hành Giả
không chết, chắc là tìm đến chẳng không.
Hành Giả nghe rồi, bay ra thấy cửa khóa chặt lắm. Liền chun lỗ
hở ra ngoài. Thấy vườn rộng mênh mông, giữa vườn có cây trụ. Trên cây trụ ấy có
trói thầy mình.
Hành Giả thấy thầy khóc thảm thiết, liền đậu trên đầu mà kêu
rằng:
- Bớ thầy, bớ thầy.
Tam Tạng biết tiếng nói rằng:
- Ngộ Không ôi! Ta trông gần chết đi mà thôi, ngươi ở đâu mà
kêu ta đó?
Hành Giả nói:
- Tôi ở trên đầu thầy, xin thầy chớ nóng. Bữa nay tôi quyết bắt
cho đặng yêu quái mà cứu thầy ra. Thôi tôi đi đó. Nói rồi kêu ve ve bay vào động,
thấy Huỳnh Phong ngồi chính giữa mà điểm binh yêu.
Lại có Tiểu yêu vào báo rằng:
- Tôi đi tuần đến cụm rừng, thấy hòa thượng mỏ dài tai lớn.
May tôi chạy lẹ, bằng không đã bị bắt rồi. Còn ông hòa thượng khỉ hôm qua đi
đâu không biết.
Huỳnh Phong nói:
- Có khi bị gió thổi chết rồi, bằng không thì đi viện binh chỗ
khác.
Tiểu yêu nói:
- Nếu gió thổi nó chết, thì chúng ta may biết dường nào. Lại
e còn sống đi viện thần binh nào ta cũng không sợ. Hành Giả đậu trên trinh,
nghe rõ rất mừng. Liền bay ra xa xa, hiện hình về kêu Bát Giới.
Bát Giới hỏi:
- Anh thám nghe tin làm sao đó? Tôi ở đây mới rượt tiểu yêu.
Hành Giả cười rằng:
- Em thiệt có tài lắm!
Liền thuật câu chuyện cho Bát Giới nghe, rồi nói rằng:
- Nó đã khai tên, ngặt không biết Linh Kiết bồ tát ở đâu mà
thỉnh.
Anh em đương bàn luận, xảy thấy ông già đi ngoài đường.
Bát Giới ngó thấy, nói với Hành Giả rằng:
- Lời tục nói: Muốn thông việc dưới núi, thì hỏi kẻ đi đường.
Anh hỏi thử ông già, họa may có biết chăng?
Hành Giả cất thiết bảng, chạy ra đường cái, bái ông già mà
nói rằng:
- Chúng tôi đi thỉnh kinh, thầy tôi rủi bị yêu bắt. Xin ông
làm ơn chỉ giúp, ông Linh Kiết bồ tát ở nơi nào?
Ông già ấy nói:
- Ông Linh Kiết ở hướng Nam, cách ba ngàn dặm, có hòn núi tên
Tiểu Tu Di. Trong núi có kiểng chùa, là chỗ Linh Kiết bồ tát ở. Các ông đi thỉnh
kinh của ngài hay sao?
Hành Giả nói:
- Không phải thỉnh kinh của ngài, thiệt cậy ngài một chuyện.
Song không biết ngỏ nên phải hỏi đường.
Ông già ấy chỉ hướng Nam mà nói rằng:
- Cứ đi như nầy thì tới.
Gạt Hành Giả ngó theo phía đó, ông già ấy hóa gió bay đi.
Hành Giả ngó lại thấy bên đường có một miếng giấy có đề bốn
câu thơ rằng:
Nói lại Tề Thiên đặng rõ tình,
Ông già ấy thiệt Lý trường Canh,
Phật cho nhà gã Phi long trượng,
Linh Kiết đem truyền máy phật binh.
Hành Giả cầm thiệp dạy lại, Bát Giới nói rằng:
- Anh ôi! Chúng ta mấy bữa rày rủi quá, hay thấy qủy ban ngày.
Ông già hóa gió là ai vậy?
Hành Giả đưa thiệp cho Bát Giới.
Bát Giới xem lá thiệp rồi hỏi rằng:
- Lý Trường Canh là ai đó?
Hành Giả nói:
- Ấy là danh hiệu ông Thái Bạch kim tinh.
Bát Giới nghe rõ, quỳ lạy thinh không mà nói rằng:
- Ân nhân tâu cứu tôi năm xưa, phải không ắt chẳng còn tánh mạng.
Hành Giả nói:
- Em đừng ló đầu ra, hãy trốn trong rừng mà coi đồ giữ ngựa.
Ðặng ta đi tìm Phật cứu thầy.
Bát Giới nói:
- Tôi biết mà! Tôi đà học phép rùa, cứ nhịn thua rút cổ. Anh
đi lo việc ấy cho mau.
Hành Giả dùng phép Cân đẩu vân, nhảu qua chánh Nam một cái.
Thấy có hòn núi, hào quang chiếu sáng lòa. Nhắm nghía cảnh chùa tốt lắm: Hương
bay ngui ngút, chuông gióng thanh tao, Hành Giả đi tới chùa, thấy thầy đạo sĩ
đương niệm Phật.
Hành Giả bái và hỏi:
- Ðây phải là chùa Linh Kiết bồ tát chăng?
Ðạo sĩ đáp rằng:
- Phải, mà tìm có chuyện chi?
Hành Giả nói:
- Xin ông làm ơn vào bạch cùng bồ tát rằng: Tôi là học trò Ðường
Tăng Tam Tạng, tên tôi là Tôn Ngộ Không, khi trước có làm Tề Thiên Ðại Thánh,
nay có chuyện cần cấp, xin vào ra mắt bồ tát bây giờ.
Ðạo sĩ cười rằng:
- Danh hiệu nhiều quá tôi có nhớ ở đâu!
Hành Giả nói:
- Thôi ông nói tắt như vầy: Tôn Ngộ Không là đệ tử Ðường Tăng
xin vào ra mắt.
Ðạo sĩ vào báo, Linh Kiết sửa áo mão ra tiếp nghinh. Rước
Hành Giả vào ngồi, truyền đệ tử đem trà ra đãi.
Hành Giả:
- Tôi có chuyện cần cấp không rảnh mà uống trà. Thầy tôi bị
Huỳnh Phong bắt rồi, nên đến nhờ ơn Bồ tát.
Linh Kiết Bồ Tát nói:
- Phật Như Lai có cho ta hai phép, là Phi Long trượng, với Ðịnh
Phong châu đặng ở đây mà trấn nó. Khi trước ta đã bắt đặng, lại dung cho nó tu
hành, ngày nay nó phạm đến lịnh sư, làm cho ta mang tội.
Nói rồi lấy hai phép, đằng vân đi với Ngộ Không.
Khi tới núi Huỳnh Phong, Linh Kiết biểu Hành Giả rằng:
- Tôi ở trên mây, Ðại Thánh xông vào khiêu chiến, dụ nó ra khỏi
động, thì tôi bắt tức thì. Ðã có Ðịnh Phong châu ở đây, chắc nó làm gió vàng
không được.
Hành Giả y lời xách thiết bảng xông vào phá cửa.
Tiểu yêu vào phi báo.
Huỳnh Phong nổi giận nói rằng:
- Con khỉ nầy vô lễ quá! Thế nầy dung nó chẳng đặng rồi. Ta
ra trận, quyết thổi cho nó chết.
Nói rồi cầm chỉa ba ra cửa động, nhảy đâm Hành Giả tức thời.
Hành Giả liền đánh lại.
Ước chừng ít hiệp, Huỳnh Phong day mặt về hướng Tốn, mà hớp
gió Ðông Nam, xảy thấy Linh Kiết ở trên mây, quăng gậy Phi Long xuống, hóa ra
con rồng vàng tám móng, chụp đầu Huỳnh Phong đập vào núi, liền hiện nguyên hình
là con chuột lông vàng nghệ.
Hành Giả giá thiết bảng muốn đập óc cho rồi, Linh Kiết cản rằng:
- Ðại Thánh đừng giết nó. Nguyên nó là con chuột cống, tu dưới
chân núi Linh Sơn. Song nó uống dầu lưu ly trước bàn Phật, nên đèn ấy lu hoài,
nó sợ Phật Kim Cang bắt nó cầm tù, nên trốn xuống làm yêu làm quỷ. Bây giờ ta bắt
đặng, phải nạp cho Phật Tổ xử phân. Nếu giết tư là vô lễ.
Hành Giả nghe nói liền tạ ơn.
Linh Kiết bay về Tây độ.
Nói về Bát Giới ở trong rừng lấp ló dòm hoài.
Xảy thấy Hành Giả về tới.
Bát Giới mừng rỡ hỏi rằng:
- Chẳng hay công việc ra thể nào?
Hành Giả thuật các chuyện, rồi nói rằng:
- Nay hai anh em mình đi tới động Huỳnh Phong, mà cứu sư phụ.
Bát Giới nghe nói mừng quá, đồng vào động Huỳnh Phong.
Những là thỏ đế, chồn hôi, nai chà, gấu ngựa, đều bị Ðinh ba
đập chết cả bầy.
Ðồng ra sau vườn, mở dây cho Tam Tạng.
Bát Giới mừng rỡ dọn cơm nước đãi thầy, Hành Giả thuật các
chuyện cho thầy nghe.
Tam Tạng cám ơn hết sức.
Thầy trò ăn uống xong xả, đồng ra động tức thì.
Ba thầy trò nhắm hướng Tây thẳng tới.
Hồi 22:
Bát Giới cự chiến sông Lưu Sa
Mộc Tra vâng phép thâu Ngộ Tịnh
Nói về ba thầy trò đi ít ngày khỏi Huỳnh Phong lãnh, đi đường
thẳng, hết Hạ qua Thu. Trời Tây sao lửa thấy lờ mờ, liễu ủ tiếng ve kêu réo rắt.
Ngày kia đi tới mé sông hết đường đi bộ.
Xảy thấy sông sâu thăm thẳm, sóng bủa tưng bừng.
Tam Tạng ngồi trên ngựa nói rằng:
- Sông rộng mênh mông lại không có thuyền đò đưa đón. Biết
làm sao qua tới mé sông?
Hành Giả nhảy lên mây che tay dòm xuống.
Trở về thưa lại rằng:
- Thầy ôi! Thiệt khó qua lắm!
Tam Tạng hỏi:
- Từ đây qua mé bao xa?
Hành Giả nói:
- Xẹt ngang qua chắt tám trăm dặm.
Bát Giới nói:
- Sao anh nhắm chắt như vậy?
Hành Giả nói:
- Con mắt ta ban ngày coi thấu việc dữ lành ngàn dặm. Khi nãy
trên mây ngó xuống thấy sông sâu chẳng biết bao nhiêu, chớ bề mặt chắc là tám
trăm dặm.
Tam Tạng thở ra quay ngựa lại. Xảy thấy trên bờ có tấm bia
đá.
Thầy trò thấy trong bia đá có ba chữ cổ tự lớn, là "Lưu
Sa hà".
Lưu Sa rộng tám trăm,
Nước sâu ba ngàn tầm
Lông ngỗng trôi không nỗi,
Bông lan rớt cũng trầm.
Ba thầy trò đương coi bia, xảy nghe sóng bủa ầm ầm, dưới nước
trồi lên một con yêu quá dữ.
Có bài thơ làm chứng như vầy:
Ðầu đỏ chờm bờm tóc rối nhăng,
Tròn vo cặp mắt chói như đăng,
Màu chàm còn kém màu da mặt,
Tiếng sấm không bằng tiếng nói năng,
Mình bận áo lông vàng có sọc,
Lưng đeo dây nịt trắng từ lằn,
Sọ người chín cái mang đầy cổ,
Gậy báu cầm tay bộ dữ dằn.
Con quái ấy chạy xốc lên bờ lại chụp Tam Tạng.
Hành Giả ôm thầy chạy hoảng. Bát Giới để gánh xuống, vác cào
cỏ đập đùa.
Con quái ấy giơ gậy báu ra đỡ, hai người đánh ẩu đả tại mé
sông Lưu Sa, hai mươi hiệp không phân thắng bại.
Còn Hành Giả ôm thầy Tam Tạng, ngồi coi Bát Giới đánh yêu,
Hành Giả ngứa nghề, cứ xăng tay áo dằn lòng không đặng, lấy thiết bảng bạch rằng:
- Xin thầy ngồi đây, không hề chi mà sợ, để tôi trợ chiến với
Bát Giới giết con thủy quái mới xong.
Nói rồi nhảy vào giơ thiết bảng đập đại, con quái ấy kinh hãi
liền nhảy xuống sông. Bát Giới dặm cẳng nói rằng:
- Ai biểu anh đánh tiếp? Nó đã đuối tay hết sức, nội năm ba
hiệp nữa, tôi bắt sống như chơi, tại anh hành hung nó trốn mất biết đâu mà kiếm?
Hành Giả cười rằng:
- Không nói giấu chi em. Từ khi đánh con Huỳnh Phong đến nay,
hơn một tháng không từng múa gậy, nay thấy em đánh với nó, hay biết dường nào,
nên ngứa nghề nhảy vô thử sức. Không dè con quái ấy nhát quá, bại tẩu xuống
sông, bây giờ biết làm sao cho đặng.
Nói rồi đồng trở lại với thầy.
Tam Tạng hỏi:
- Bắt đặng yêu quái hay không?
Hành Giả bạch rằng:
- Con quái ấy dở quá, nó nhảy xuống sông rồi.
Tam Tạng nói:
- Ðồ đệ ôi! Con quái ở sông nầy đã lâu, chắc lặn lội hay lắm.
Hành Giả nói:
- Phải! Nếu chúng tôi bắt đặng nó, thì chẳng giết làm chi. Biểu
nó đưa thầy qua sông cho khỏi, ngặt tôi chưa quen thủy tánh, nên đánh dưới nước
không hay.
Bát Giới nói:
- Lão Trư năm trước là Nguyên soái Thiên hà, nên từng quen thủy
tánh. Song ngại bà con dòng họ nó trợ chiến với nhau. Còn tôi có một mình cự
sao cho lại?
Hành Giả nói:
- Như ngươi xuống nước chẳng khá đánh lâu. Trá bại dụ nó lên
đây, thì có ta tiếp cứu.
Bát Giới nói:
- Phải.
Liền cổi giày ra, tay cầm đinh ba nhảy xuống sông, rẻ nước mà
đi tới đáy.
Nói qua con quái ấy, thua về đương thở dốc.
Xảy thấy nước rẻ làm hai, coi lại là Bát Giới.
Con quái ấy giá gậy đón đầu lại nạt rằng:
- Hòa Thượng nầy đi đâu đó?
Bát Giới đưa đinh ba ra đở, và hỏi rằng:
- Ngươi là yêu tinh chi đó, mà dám đón đường ta!
Con quái ấy nói:
- Bởi ngươi chẳng biết ta. Chớ ta không phải yêu ma quỷ quái,
cũng không phải hạ tiện vô danh. Ngươi hãy nghe ta nói:
Tu hành thần thánh chầu Hoàng Thượng,
Phong chức Quyện Liêm ban bửu trượng
Làm bể lưu ly tưởng chết tươi,
Nhờ ơn Xích Cước xin đày bướng
No thời xuống nước kiếm nơi nằm,
Ðói lại lên bờ tìm thịt hưởng
Chín cái sọ người dấu tích đây,
Gặp mi ăn tái không chờ nướng
Bát Giới nghe nói nổi giận mắng rằng:
- Ngươi không có con mắt, tưởng dễ ăn thịt ta hay sao? Thế mi
tưởng ta là tướng chạy, hãy coi cho biết đinh ba.
Nói rồi liền đập. Hai người đánh đồng lực.
Ban đầu còn đánh dưới sông, Bát Giới dẫn lần lần lên mặt nước,
đồng đứng trên ngọn sóng, đánh đặng hai giờ.
Khi ấy Hành Giả đứng trên bờ ngứa nghề hết sức.
Xảy thấy Bát Giới trá bại, con quái ấy rượt theo.
Gần tới mé sông, Hành Giả nín không đặng nữa, nhảy ra đập một
cây thiết bảng. Con quái ấy không dám cự, liền lặn xuống sông.
Bát Giới giận quá nói rằng:
- Tánh hay làm khỉ, phải rán tề tỉnh một chút thì tôi gạt nó
lên bờ. Anh sẽ chặn nó dưới mé sông, thì bắt mới đặng. Bây giờ báo hại nó thất
kinh lặn mất, một đời cũng không dám ló lên!
Hành Giả cười rằng:
- Thằng khùng, đừng có ngầy ngà, để thưa cho thầy rõ.
Nói rồi đồng trở lại, thuật các việc cho thầy nghe.
Tam Tạng nói:
- Bây giờ biết tính làm sao!
Bát Giới nói:
- Anh phải tính làm sao mới được?
Hành Giả nói:
- Bây giờ trời đã tối, để tôi đi xin cơm cho thầy ăn. Ngủ một
đêm rạng ngày sẽ tính.
Nói rồi lấy bình bát nhảy lên thinh không, một chút trở về
dâng cơm cho sư phụ. Tam Tạng thấy Hành Giả về mau quá, liền kêu mà hỏi rằng:
- Ngộ Không, thầy trò ta hãy đến nhà cho cơm đây mà hỏi thăm
cách thế qua sông nầy, còn hơn cự với con quái ấy.
Hành Giả cười rằng:
- Nhà ấy xa quá chừng! Cách hơn bảy ngàn dặm. Người chưa từng
thấy con sông ấy, mà bày cách thế làm sao?
Bát Giới hỏi:
- Bảy ngàn dặm đường, sao anh đi mau dữ vậy?
Hành Giả nói:
- Lão Tôn có nghề cân đẩu vân hay lắm. Nhảy một cái tới 10
muôm 8 ngàn dặm đường. Giá bảy ngàn dặm mà bao xa, nhảy vừa vừa cũng tới.
Bát Giới nói:
- Anh nhảy xa như vậy, thì cỏng thầy nhảy đại qua sông. Công
hơi đâu đánh với con yêu cho mệt?
Hành Giả nói:
- Ngươi cũng biết đằng vân, sao chẳng cỏng thầy mà bay thử?
Thầy là thai phàm xác thịt. Nặng hơn hòn núi Thái sơn. Chúng ta cỏng rồi đằng
vân sao nổi? Lời xưa nói: Dầu đở Thái sơn như hột cải, khó đem phàm tục khỏi
vòng trần. Những phép thâu đường, phép dời núi, ta đều biết hết. Bởi vì phần thầy
phải chịu hoạn nạn, đi xứ nầy cho đến xứ kia. Anh em mình tuy bảo hộ thầy, chớ
thế khổ não cho thầy cũng không đặng. Dầu cho anh em mình đến Tây Phương cầu khẩn.
Phật cũng không phát kinh. Vì cớ nầy:
Bằng thỉnh đặng như chơi, thì coi ra không quý.
Phải để cho thầy dày công cực khổ, mới thỉnh đặng kinh.
Bát Giới nghe nói liền dạ.
Thầy trò ăn cơm đở đói rồi ngủ tại mé sông phía Ðông.
Rạng ngày Tam Tạng hỏi rằng:
- Ngộ Không, bửa nay ngươi tính làm sao đó?
Hành Giả thưa rằng:
- Tôi không biết tính làm sao, phải sai Bát Giới ra đánh nửa.
Nói rồi biểu Bát Giới rằng:
- Sư đệ phải đi một chuyến nữa. Ta không nóng nảy đâu. Ðợi dẫn
nó lên bờ cho xa, ta chận phía mé sông thì bắt đặng.
Bát Giới vâng lời, vác đinh ba nhảy xuống.
Con quái ấy giá gậy mà nói rằng:
- Ngươi đừng xông tới, coi gậy ta đây nè?
Bát Giới đưa đinh ba ra đở, rồi nói rằng:
- Cây gậy tang của mi đó, hay chi lắm mà khoe?
Con quái ấy nói:
- Mi không biết gốc tích cây bửu trượng của ta, hãy nghe cho
rõ.
Nói rồi ca rằng:
Nhành quế cung trăng thành khí giới,
Ðặt tên bửu trượng trừ yêu quái,
Ngươi Ngô Cang đốn rất cân phân,
Thợ Lỗ Ban làm không trễ nải
Muốn nhỏ muốn to ý nhiệm mầu,
Biến dài biến vắn người kinh hãi
Có đâu vô dụng thể Ðinh ba,
Cào cỏ xong rồi vung liếp cải.
Bát Giới nghe ca mắc cở, cười và nói rằng:
- Ðồ chết bụi, khéo nói lẻ. Thứ cào cỏ vung liếp cải thây nó,
e đập nhằm một cái, chảy máu theo chín lỗ chân răng.
Con quái ấy nổi xung, giơ gậy liền đập.
Ấy là:
Bát Giới Sa Tăng chưa kết nghĩa,
Ðinh ba Bữu trượng lại làm quen.
Hai người đánh đặng ba mươi hiệp, sức cũng cầm đồng, Bát Giới
trá bại chạy lên bờ, con quái ấy đuổi theo gần tới mé.
Bát Giới nói:
- Mi giỏi lên đất liền đánh thử sức mới biết thấp cao?
Con quái ấy nói:
- Mi gạt ta lên bờ, cho có người trợ lực. Mi giỏi thì xuống mặt
nước mà đánh với ta! Thiệt con quái ấy khôn lắm, không chịu lên bờ, cứ đứng dưới
sông nói dằn quay với Bát Giới.
Khi ấy Hành Giả thấy con quái ấy khôn quá, không chịu lên bờ.
Liền tính kế rằng:
- Ðể mình làm như diều xớt gà, ắt là bắt nó đặng.
Tính rồi nhảy lên không trung, bay xuống mà nắm đầu tóc.
Con quái đang cải lẩy với Bát Giới nghe tiếng gió gần mình,
ngước mặt ngó lên thấy Hành Giả trên mây bay xuống.
Con quái thất kinh hồn vía lặn tuốt xuống sông.
Hành Giả nhảy xuống đất, đứng lơ láo rồi nói rằng:
- Em ôi, con quái ấy khôn quá, không chịu khỏi nước, anh em
ta biết tính làm sao? Bát Giới nói:
- Khó chịu lắm! Khó chịu lắm! Tôi rán đã hết hơi mẹ đẻ, mà
đánh cũng cầm đồng. Có xuống nữa cũng vô ích.
Nói rồi hai người về bạch tự sự với thầy.
Tam Tạng nghe nói châu mày mà than rằng:
- Gay trở như vầy, biết làm sao mà qua sông nầy cho đặng?
Hành Giả thưa rằng:
- Xin thầy đừng phiền não. Bát Giới bảo hộ thầy, đừng tranh
đua với nó. Ðể ta qua Nam Hải đi thỉnh Quan Âm.
Bát Giới nói:
- Phải, phải. Anh gặp Bồ Tát bạch giùm cho tôi rằng: Ngộ Năng
cám ơn thầy điều độ, nay đà theo sư phụ đi thỉnh kinh.
Tam Tạng dặn rằng:
- Ngươi đi thỉnh Bồ tát, rồi trở lại cho mau, kẻo nhọc lòng
ta trông đợi.
Khi ấy Hành Giả dùng phép Cân đẩu vân, bay qua Nam Hải. Nửa
giờ đến núi Phổ đà, vào rừng Tử trước, cậy Du thần vào bạch với Quan Âm.
Nhằm lúc Phật Bà đương xem sen dựa mé ao với Bỗng Châu long nữ,
nghe báo, liền về ngự tòa sen.
Ðòi Hành Giả vào hỏi rằng:
- Ngươi đến có chuyện chi?
Hành Giả bạch rằng:
- Thầy tôi đến xóm Cao lão, thâu đặng một người đệ tử gọi là
Trư Ngộ Năng. Lại đặt hiệu là Bát Giới. Nay đi khỏi Huỳnh Phong lãnh, lại tới
Lưu Sa hà. Sông ấy nước yêu sâu 3.000 dặm đàng. Bề ngang tới 800 dặm, không
thuyền đò chi hết, thầy tôi khó nổi qua sông. Vả lại có thủy quái làm hung. Ngộ
Năng đánh ba lần cầm cự. Nên đến cầu Bồ Tát, đưa thầy tôi qua khỏi sông Lưu Sa.
Quan Âm nói:
- Cũng tại con khỉ nầy hay làm phách, không nói chuyện thỉnh
kinh đó chăng?
Hành Giả bạch rằng:
- Ngộ Năng đánh với nó dưới sông, chuyện ấy chắc không nói tới.
Tôi dốc bắt cho đặng nó, mà biểu đưa thầy tôi qua sông.
Quan Âm nói:
-Con quái ấy là Quyện Liêm tướng quân phải đọa, đà thọ phép với
ta. Biểu ở đó mà chờ Ðường Tăng tới nơi, sẽ theo làm đệ tử. Phải ngươi nói việc
thỉnh kinh cho rõ, thì nó sẽ quy y.
Nói rồi kêu Huệ Ngạn đến.
Quan Âm lấy cái bầu đở trong tay áo, đưa cho Huệ Ngạn mà dặn
rằng:
- Ngươi đi với Ngộ Không đến mé sông Lưu Sa, kêu bớ Ngộ Tịnh
thì nó đi lên. Trước đem nó tới quy y với Ðường Tăng, rồi biểu nó lấy chín cái
sọ người ta kết dính nhau vuông vức, để trái bầu chính giữa hóa ra thuyền phép
cho Tam Tạng qua sông.
Huệ Ngạn vâng lời đi với Hành Giả.
Nói về Bát Giới xa xa ngó thấy Hành Giả đi với Mộc Tra, liền
dắt thầy ra nghinh tiếp.
Bát Giới tạ ơn Mộc Tra.
Hành Giả nói:
- Chúng ta lo đi kêu tên ấy cho mau, rồi thủng thẳng sẽ nói
chuyện.
Tam Tạng hỏi:
- Kêu ai?
Hành Giả thuật chuyện lại.
Tam Tạng nghe rõ, quỳ lạy về hướng Nam.
Lại làm lễ Mộc Tra mà nói rằng:
- Xin Tôn Giả làm ơn đi cho kiếp kiếp.
Huệ Ngạn cầm bầu đỏ, bay đến giữa sông, cất tiếng cả kêu rằng:
- Ngộ Tịnh, Ngộ Tịnh, người thỉnh kinh đi tới đã lâu, sao
ngươi không chịu phép? Con quái ấy đương lặn dưới đáy nước, xảy nghe người kêu
tới pháp danh, lại nghe nói có người thỉnh kinh tới, liền trồi lên mặt nước,
xem thấy Mộc Tra, mừng rỡ bái chào mà rằng:
- Tôi trễ sự tiếp nghinh, xin Tôn Giả miễn chấp. Còn Bồ Tát ở
đâu?
Huệ Ngạn nói:
- Thầy ta không đến, sai ta tới dặn ngươi rằng: Phải theo làm
đồ đệ Ðường Tăng, và lấy chín cái sọ kết bè vuông vức, để trái bầu này chính giữa,
làm thuyền phép mà đưa thầy.
Ngộ Tịnh hỏi:
- Người thỉnh kinh ở đâu?
Huệ Ngạn chỉ và nói rằng:
- Vậy chớ ai ngồi trên bờ đó?
Ngộ Tịnh nghe nói, nhảy lên bờ quì trước mặt Tam Tạng mà nói
rằng:
- Ðệ tử có mắt không ngươi, nên thấy thầy mà không biết, lở lầm
xúc phạm, xin thầy mở lượng biển rộng thứ dung.
Nói rồi liền lạy.
Tam Tạng hỏi:
- Mi thiệt tình chịu theo đạo Phật sao?
Ngộ Tịnh nói:
- Bạch thầy! Ðệ tử trước đã vâng lời Bồ Tát, lấy tên sông làm
họ, và đặt pháp danh gọi là Sa Ngộ Tịnh, lẻ nào nay chẳng theo thầy!
Tam Tạng nói:
- Như vậy thì Ngộ Không đưa dao cạo cho ta.
Hành Giả đưa dao.
Tam Tạng cạo sạch trơn tóc đỏ.
Sa Ngộ Tịnh lạy thầy xong xả, rồi lạy kêu Hành Giả là anh cả,
Bát Giới là anh hai. Tam Tạng thấy Ngộ Tịnh lạy giống thầy chùa, nên kêu là Sa
Tăng.
Huệ Ngạn nói:
- Thôi, người tu một thầy như anh em một nhà, việc lễ nghi chế
bớt. Hãy lo làm phép thuyền cho kíp mà đưa thầy.
Sa Tăng không dám dần dà, cổi xâu chuổi bồ đề, mà làm thuyền
Bác Nhã. Ðể bầu đỏ chính giữa, thỉnh Tam Tạng xuống thuyền, bên hữu có Ngộ Tịnh,
bên tả có Ngộ Năng, đồng bay theo bảo hộ, ở trên cao thì có Mộc Tra, Hành Giả dắt
ngựa và gánh đồ, đằng vân theo sau rốt, gió êm sóng lặng thuyền chạy đường tên,
chẳng bao lâu đà đến bờ.
Tam Tạng bước lên mé, trong mình không lấm ướt chút nào.
Thầy trò day mặt về Nam Hải lạy tạ Quan Âm.
Tam Tạng tạ ơn Huệ Ngạn.
Huệ Ngạn thâu bầu hồng trở về Nam Hải, chín cái sọ tiêu mất,
hóa chín ngọn khói bay tan.
Bốn thầy trò lấy làm lạ lùng, đồng nhắm cỏi Tây đi tới.
Hồi 23:
Tam Tạng chẳng quên đạo
Tứ Thánh thử lòng thiền
Nói về bốn thầy trò đi dọc đàng bày cạn nguồn lòng mối đạo,
chuyện trò vui đẹp, chẳng chút ngại ngùng, mãng xem cỏ nội hoa ngàn, bóng ác dường
thoi đưa, ba thu đã gần lụn.
Ngày kia trời tối, Tam Tạng nói với đồ đệ rằng:
- Mặt trời chen lặn, biết nhà nào ngủ đỡ một đêm?
Hành Giả thưa rằng:
- Người tu hành thì uống nước suối, ăn trái cây, ngủ ngoài
sương, nằm dưới nguyệt, chỗ nào cũng là nhà hết thảy, hỏi thăm xóm làm chi?
Bát Giới nói:
- Anh đi không, thì thong thả hơn hết, chẳng hề thương kẻ nặng
nề, cái gánh đồ nầy, có một Lão Trư ra sức. Anh theo làm học trò lớn, để tôi
làm chức trưởng công, tôi biết tánh anh muốn làm tiên, chẳng hề gánh vật, còn
ngựa của thầy mập quá, để cho tôi gởi gánh đồ.
Hành Giả nói:
- Ngươi tưởng nó thiệt là ngựa hay sao? Ấy là Thái Tử thứ ba,
con vua Long vương Tây hải, bởi vì phạm tội, nhờ Quan Âm xin với Ngọc Hoàng, dạy
nó phải biến ra con ngựa kim, mà chở thầy cho tới Tây Phương Phật, ai có phần nấy,
ngươi còn xeo nó hay sao?
Sa Tăng nghe nói hỏi rằng:
- Nó là rồng thiệt sao anh?" Hành Giả nói:
- Phải.
Bát Giới nói:
- Thiên hạ đồn rằng: Rồng thì có phép thần thông, phun mây vượt
biển, sao mà đi chậm như thường?
Hành Giả nói:
- Ðể ta biểu nó nhảy sải cho ngươi coi.
Nói rồi giá cây thiết bảng, hào quang chiếu sáng đỏ trời, con
ngựa sợ đánh nhằm nó, liền chạy bay như tên bắn, Tam Tạng gò cương không lại,
phải ôm cổ nó mà nằm. Chạy tới cụm rừng ngừng lại, Tam Tạng mới thở ra hơi, ngó
thấy trong rừng có xóm, mừng rỡ nói rằng:
- Các đồ đệ, đây có nhà người, hãy ghé vào mà ngủ đỡ.
Hành Giả ngó lên trời. Thấy mây lành che phủ, rạng chói đỏ trời.
Biết là Tiên Phật hiện ra, ngặt thiên cơ không dám lậu.
Liền nói xuôi rằng:
- Tối rồi, may lắm, thầy trò vào đó mà ngủ nhờ.
Tam Tạng liền xuống ngựa. Thấy nhà lầu: Rèm che sáo phủ, cột
vẽ rường soi.
Bát Giới trầm trồ rằng:
- Chắc là nhà giàu lớn.
Hành Giả bước tới, Tam Tạng cản rằng:
- Chẳng nên, chẳng nên; mình là người tu hành phải giữ phép
luật. Ðợi có ai ra cửa, sẽ xin cho vào đó mà ngủ nhờ.
Cùng nhau ngồi trước ngỏ hèn lâu, không thấy ai ra hỏi.
Hành Giả nóng quá, bước vào cửa ngỏ mà xem, thấy ba căn nhà
trở mặt về hướng Nam, trong treo một bức sơn thủy. Trước có một cái bàn độc sơn
đen. Trên bàn để cái lư đồng rất lớn.
Cột có đôi liễn xuân rằng:
Gió đưa tơ liễu trời vừa tối,
Tuyết đượm bông mai cảnh gặp xuân.
Trước nhà khách để sáu cái ghế da. Có bức bình phong che gió.
Hành Giả đương nhắm nhía, xảy nghe có tiếng giày.
Thấy có đàn bà chừng ba mươi tuổi, bước ra hỏi tiếng dịu dàng
rằng:
- Chẳng hay ai ở đâu mà lén vào nhà đàn bà góa?
Hành Giả hãi kinh nói rằng:
- Tôi là sãi Ðại Ðường bên Ðông Ðộ, vâng chiếu chỉ qua Tây
Phương lạy Phật thỉnh kinh. Bốn thầy trò tôi đến đây, mặt trời chen lặn, nên
vào xin phép cho chúng tôi ngụ đỡ một đêm.
Người đàn bà ấy cười và hỏi rằng:
- Còn ba thầy nữa ở đâu? Xin mời vào luôn thể.
Hành Giả cả kêu rằng:
- Xin mời sư phụ đi vô.
Tam Tạng biểu Bát Giới, Sa Tăng dắt ngựa gánh đồ vào cửa.
Người đàn bà ấy bước ra nghinh tiếp, Bát Giới lén xem nhan sắc
như vầy:
Trâm cài lược giắt kể đôi từng,
Châu ngọc tai đeo chiếu sáng trưng,
Son phấn chẳng dồi coi cũng đẹp,
Người đàn bà ấy mừng rỡ, rước bốn thầy trò vào nhà, mời ngồi
theo thứ tự.
Xảy thấy con đầy tớ gái, bưng kỉ vàng chén ngọc và một mâm
trái cây mùi lạ ngọt ngào, trà ngon thơm ngát.
Người đàn bà ấy xăn tay áo rộng, bưng trà trao đủ bốn thầy.
Lại truyền dọn cơm chay thết đãi.
Tam Tạng chắp tay hỏi rằng:
- Chẳng hay bà họ chi? Và xứ nầy gọi là xứ gì; xin cho tôi biết.
Người đàn bà ấy đáp rằng:
- Ðây thuộc về phương Tây gọi là Ðông Ấn độ. Còn tôi họ Giả,
chồng tôi họ Mạc. Cha mẹ chồng tôi mất sớm, vợ chồng tôi coi sóc gia cang. Sự
nghiệp muôn vàng, ruộng vườn ngàn khoảnh. Vợ chồng tôi có ba đứa con gái, không
đặng chút trai, chồng tôi bỏ mình năm xưa, nay đà mãn phục. Không bà con chi hết,
mẹ con tôi giữ gìn gia tài. Muốn gã con lấy chồng, lại sợ không ai coi sự nghiệp.
Nay gặp bốn thầy trò ghé lại, bốn mẹ con tôi đương đóng cửa kén chồng. Không biết
đại sự có hoan hỉ hay không? Xin cho tôi biết?
Tam Tạng nghe nói, giả điếc làm câm. Cứ lim dim ngồi tưởng Phật.
Người đàn bà ấy nói rằng:
- Tôi có ba trăm dãy ruộng gò, ba trăm dãy ruộng bưng, ba
trăm ngôi vườn thanh hoa đẳng vật. Dê heo vô số, trâu ngựa cả bầy, đồng cỏ trái
cây hơn bảy chục sở, lúa gạo ăn chín năm không hết, hàng lục mặc mười năm có
dư, bạc vàng dùng mãn đời cũng không thiếu. Kể chi nữ trang y phục nệm gấm màn
thêu. Nếu bốn thầy trò bằng lòng ở đây, thiệt hưởng phước thanh nhàn khoái lạc.
Tội gì chịu cực mà đi không tới Tây Phương?
Tam Tạng cứ làm thinh không nói.
Người đàn bà ấy nói rằng:
- Ngày sanh tôi là giờ dậu, ngày mồng ba tháng tám, năm Ðinh
hợi. Chồng tôi lớn hơn tôi ba tuổi. Tôi năm nay đã bốn mươi lăm, con gái lớn
tôi tên Chơn Chơn, đặng hai mươi tuổi. Con giữa tên Ái Ái, mười tám tuổi. Con
gái út tên Liên Liên, mười sáu tuổi, đều chưa có nơi nào. Tôi tuy xấu xa, chớ
ba đứa nhỏ đều xinh tốt. Nghề nữ công cũng chẳng thua ai. Bởi chồng tôi không
có con trai, nên cưng chúng lắm. Cho ba đứa ăn học, đều biết làm thi phú văn
chương. Tuy ở sơn lâm, mà không thô tục. Tài có sắc cũng có, xứ quê người chẳng
quê; nhắm cũng xứng đôi với mấy thầy lắm. Nếu bằng lòng ở đây mà để tóc, thời
làm chủ cái nhà nầy. Lại được mặc hàng lụa, ăn thịt thà, chẳng hơn đi Tây
Phương, thì mặc vải bô, ăn cực khổ?
Tam Tạng ngồi trơ trơ, như vịt nghe sấm, tợ ếch mắc mưa, cứ lộn
thinh con mắt. Còn Bát Giới nghe nói giàu sang thì mê, nghe nói nhan sắc cũng
muốn, ngứa nghề nóng họng, ngồi trên ghế không yên, khác nào trong nệm có dồn
kim, cứ nhỏm lên nhỏm xuống.
Dằn lòng chẳng đặng, bước lại vỗ Tam Tạng mà nói rằng:
- Thầy không nghe bà chủ nói hay sao? Ngồi lim dim giả điếc.
Lẽ nào người nói phải mà làm cách chẳng chịu trả lời?
Tam Tạng giựt mình, trợn mắt và xí một tiếng.
Bát Giới lui về chỗ.
Tam Tạng nói rằng:
- Mi là nghiệp chướng. Người tu hành lẽ nào nghe giàu sang mà
dời chí, thấy sắc mà động lòng?
Người đàn bà ấy cười rằng:
- Tội nghiệp thì thôi! Ði tu hành mà có ích chi đó?
Tam Tạng hỏi:
- Vậy chớ bà ở thế lại có ích chi?
Người đàn bà ấy nói rằng:
- Vậy thầy nghe tôi nói việc sung sướng cả đời. Xin đọc bài
thơ làm chứng.
Thơ rằng:
Xuân đồi đồ mới dạo xem hoa,
Hạ thưởng sen xanh mặc nhổ nha
Thu có rau thơm và thịt sốt,
Ðông thì nệm ấm với dầu thoa
Tư niên ngủ kỹ không mãi,
Cả kiếp ăn ngon mặc tốt mà
Trút cạn nguồn tình vui một bữa,
Khá hơn tìm tõi kiếm Di Ðà.
Tam Tạng nói:
- Bà hưởng vinh hoa phú quý. Có ăn có mặc, con cái đầy nhà.
Bà gọi là tử tế cũng phải. Còn tôi tu hành lại có ít theo tôi. Hãy nghe thử bài
thơ thì biết.
Thơ rằng:
Tu hành theo phận chí không nguôi,
Trăng gió phường kia dạ phủi rồi
Ngoài thể tham lam là thể tục,
Trong mình đạo đức biết mình vui
Gắn cóng cầu Phật xin qua đó,
Mở lối từ bi trở lại thôi
Gẫm kẻ ở trần ăn mặc sướng,
E sau đọa xuống chốn tanh hôi.
Người đàn bà ấy nghe nói nổi giận đáp rằng:
- Thầy này thiệt vô lễ. Nếu tôi không vị tình ở Ðông Ðộ, thì
chắc đuổi ra ngoài. Tôi thiệt tình muốn dâng sư phụ quý khoái lạc cho mấy thầy,
thầy lại nói biếm tôi như vậy! Dầu thầy mắc thọ phép tình nguyện không ưa việc
thế thời thôi. Còn đệ tử của thầy, cũng cho đỡ một người làm rễ. Có đâu nói gắt
như vậy?
Tam Tạng thấy người ấy giận dữ, liền nói xuôi rằng:
- Thôi, Ngộ Không ở lại.
Hành Giả bạch rằng:
- Tôi từ bé đến lớn không biết việc đời. Xin nhượng cho Ngộ
Năng là người thông thạo.
Bát Giới nói:
- Anh đừng trao gánh cho tôi, thủng thẳng luận bàn mới đặng.
Tam Tạng nói:
- Hai đứa bây không chịu, thì để Ngộ Tịnh lại cho.
Sa Tăng bạch rằng:
- Tôi nhờ ơn Bồ Tát dạy biểu tu hành. Tôi tình nguyện theo thầy,
chớ không tham phú quý. Có giết thì chịu, chớ không làm trái lẽ như vậy.
Người đàn bà ấy thấy ai nấy không chịu liền bước vào trong,
đóng cửa bỏ bốn thầy ở ngoài, không trà nước chi hết.
Bát Giới than thở rằng:
- Thầy không thạo việc, nói một lời bất lợi biết dường nào?
Phải chi thầy nói lòng vòng, cũng đặng ăn no ngủ ấm. Rạng ngày chịu không chịu,
ai lại ép ai. Chẳng hơn không có cơm ăn, chịu một đêm sao nổi?
Sa Tăng nói:
- Thôi anh ở lại mà làm rễ cho xong.
Bát Giới nói:
- Em đừng trao gánh cho ta, thủng thẳng tính đi tính lại đã.
Hành Giả rằng:
- Không nói dài vắn chi hết. Như ngươi chịu ở lại, thì thầy
làm xui với người ấy cho rồi. Ngươi làm rễ nhà giàu mặc sức ăn ngon bận tốt. Chắc
dọn tiệc đãi họ, thầy trò ăn một bữa cũng no. Còn ngươi ở lại đây, thì lương
toàn vô hại.
Bát Giới nói:
- Anh luận cũng cao, song không khỏi tiếng này: Ra trân rồi về
trần. Ðể vợ còn cưới chồng.
Sa Tăng nghe nói hỏi rằng:
- Nói vậy nhị ca đà có vợ hay sao?
Hành Giả nói:
- Em không hay việc ấy. Nguyên là con rễ ông Cao Thái Công ở
nước Ô Tư Tạng, bị ta bắt được mới theo. Vả lại Quan Âm có độ trước, nên cũng
chẳng đã, phải bỏ vợ theo thầy. Nay cũng lâu ngày muốn bỏ thầy mà cưới vợ. Bát
Giới ngươi lạy ta vài lạy, thì ta tính dùm chuyện đó mới xuôi.
Bát Giới đáp rằng:
- Ðừng có nói xàm. Ý ai cũng như nấy, muốn bắt tôi chịu xấu một
mình. Lời thường rằng: Thầy chùa đắm sắc, như ma đói thèm cơm. Ai lại gan dạ
nào mà nói tốt. Ðiều muốn làm lớn thì làm láo, nói ra thì sợ chúng cười. Ðến
nay, dầu đèn cũng không, cơm nước cũng vắng. Người ta rán một đêm còn được, báo
hại con ngựa nhịn cỏ, mai đi sao thấu đường xa. Thôi, để tôi dẫn nó đi ăn ba miếng.
Nói rồi mở cương ngựa dắt đi một nước.
Hành Giả nói nhỏ với Sa Tăng rằng:
- Ngươi ngồi đây với thầy, ta theo coi nó đi đâu cho biết.
Nói rồi ra khỏi nhà khách, dùn mình biến ra con chuồn chuồn đỏ,
bay theo Bát Giới coi chơi. Thấy Bát Giới dắt ngựa gặp cỏ không cho ăn, cứ dắt
ra phía sau đứng đó. Xảy thấy người đàn bà dắt ba đứa con gái, đứng coi bông cúc
nơi cửa sau.
Bát Giới dắt ngựa đi trờ tới, ba nàng kia bước trái vào
trong.
Người đàn bà ấy hỏi rằng:
- Thầy đi đâu đó?
Bát Giới buông dây cương bước tới, bái và nói rằng:
- Thưa mẹ, tôi đi cho ngựa ăn.
Người đàn bà ấy nói:
- Thầy ngươi không biết tính, ở nhà ta thì sung sướng, chẳng
hơn đi tới Tây Phương?
Bát Giới cười rằng:
- Mấy người ấy vâng lệnh vua Ðường đi thỉnh kinh, nên không
dám ở đây. Song tôi còn ngại lắm. Sợ mẹ chê tôi mỏ dài tai lớn, không chịu gả
con.
Người đàn bà ấy nói:
- Ta không chê đâu. Bởi vì nhà không có đàn ông, miễn đặng một
người cầm lái. Song ngại vì ba đứa nhỏ, sợ tánh con gái hay chê.
Bát Giới thưa rằng:
- Xin mẹ nói dùm với mấy cổ: Ðừng chê mập chê ốm. Tuy thầy
tôi tốt mã, song cũng chẳng đặng mà ham, chớ như tôi diện mạo xấu xa, mà có ích
lắm.
Người đàn bà ấy hỏi rằng:
- Ngươi có tài chi, thì nói cho ta nghe thử.
Bát Giới ca rằng:
Tuy vấn sanh tướng xấu, Song cũng có tài năng
Ðào giếng chừng ba khắc. Câu mưa nội nửa ngày,
Giữ nhà hơn chó sủa: Cào đất quá trâu cày,
Trăm việc đều thông cả: Siêng năng ít ai tày.
Người đàn bà ấy nghe nói khen rằng:
- Giỏi như vậy thì xong lắm. Song ngươi về thưa lại với thầy.
Nếu thầy ngươi bằng lòng thì ta bắt rễ.
Bát Giới nói:
- Thầy ấy không phải cha mẹ chi tôi, mà phải thưa đi thưa lại,
ưng không là tại nơi tôi.
Người đàn bà ấy nói rằng:
- Như vậy thì xong lắm, để ta tính lại với con ta.
Nói rồi bước vào đóng cửa.
Bát Giới không cho ngựa ăn cỏ, cứ việc dắt về.
Chẳng ngờ Hành Giả bay theo nghe đủ các việc, liền bay về hiện
hình như cũ, thưa với thầy rằng:
Tam Tạng nói:
- Ngựa thì phải dắt mới đặng, nếu buông khơi thì nó chạy đi.
Hành Giả cười, rồi thuật hết các việc.
Khi ấy Bát Giới về tới, buộc ngựa xong rồi Tam Tạng nói:
- Ngươi thả ngựa ăn cỏ rồi chưa?
Bát Giới nói:
- Chẳng có cỏ non nên không thả ngựa.
Hành Giả nói:
- Không thả ngựa mà có quần ngựa hay không?
Bát Giới nghe hỏi biết chuyện lậu rồi, làm thinh không nói lại,
ngồi ngoẻo đầu nhiều mỏ thở ra.
Giây lâu nghe tiếng mở cửa, những thế nữ cầm hai cặp đèn sáp,
một cái lư hương, tiếng ngọc len ken, mùi thơm bát ngát, người đàn bà ấy dắt ba
người con gái ra kêu mà nói rằng:
- Chơn Chơn, Ái Ái, Liên Liên mau ra mắt Ðường Tăng ở Ðông Ðộ.
Ba nàng ấy ra làm lễ, coi lịch sự như tiên.
Có bài ca làm chứng:
Mày như kiểng chẩu, mặt tợ phấn dồi
Sắc sảo đành ngiêng nước, nết na dễ động người
Liễu dịu dàng chân bước, huê chúm chím miệng cười
Nếu không Tiên nữ vì trần đọa thì cũng Hằng Nga xuống thế
chơi.
Tam Tạng chắp tay cúi mặt, Sa Tăng nhắm mắt day lưng.
Hành Giả làm ngơ không ngó tới, có một mình Bát Giới coi
không nháy mắt, nhìn muốn rớt tròng, mất vía, bay hồn, bấm gan tím ruột, liền bỏ
nhỏ rằng:
- Chào các tiên cô giáng hạ, thôi, mẹ biểu mấy cổ lui vào.
Ba nàng ấy đều lui vô hết, để lại một cặp đèn.
Người đàn bà ấy hỏi rằng:
- Bốn thầy trò, ông nào thương con tôi mà bằng lòng ở lại?
Sa Tăng nói:
- Chúng tôi đà nhứt định, người họ Trư ở lại đã xong.
Bát Giới nói:
- Em đừng đổ án cho anh, để tính đi tính lại.
Hành Giả nói:
- Còn tính nổi gì nữa? Ngươi đã giao ước tại cửa sau rồi, bây
giờ thầy làm Nam chủ hôn, ta đứng trưởng tộc. Sa Tăng làm mai, chẳng coi lịch
làm chi, nay là ngày thiên ân tốt lắm, hãy lạy thầy vài lạy, rồi đi làm rễ cho
mau.
Bát Giới nói:
- Ðừng nói chơi không đặng, có đâu làm trái lẽ như vầy?
Hành Giả nói:
- Ngươi đừng có chối, miệng kêu mẹ đà chẳng biết mấy lần,
chuyện gì mà nói chơi không được? Mau mau vào trong cho ta ăn đám cưới.
Nói rồi tay mặt kéo Bát Giới, tay trái kéo áo người đàn bà ấy
nói rằng:
- Thôi, mẹ vợ dắt chàng rễ vào trong.
Người đàn bà ấy hối đầy tớ gái dọn cơm chay thiết đãi ba thầy.
Tam Tạng, Hành Giả, Sa Tăng ăn no rồi ngủ.
Còn người đàn bà ấy dắt Bát Giới đi không biết mấy phòng, Bát
Giới nói:
- Thưa mẹ, tôi đã đói lòng, xin ghé phòng nầy một chút.
Người đàn bà ấy đáp rằng:
- Ðây là kho lúa và hà để cối xay, chớ nhà bếp còn cách xa lắm.
Bát Giới nói:
- Thiệt nhà nhiều ngăn nắp quá!
Ði quanh co hơn một buổi, mới tới phòng nằm.
Người đàn bà ấy nói rằng:
- Nay nhằm ngày thiên ân, nhập phòng tốt lắm. Ngươi làm lễ
cho mau.
Bát Giới nói:
- Mẹ nói phải lắm, xin mẹ ngồi ngay bàn án ngó ra, đặng tôi lạy
một lần luôn thể. Người đàn bà ấy cười rằng:
- Bợ thì muốn cưới cho mau, mà tiếc từ cái lạy! Tuy vậy cũng
đặng, khỏi mất công nhiều lần.
Nói rồi ngồi lên, Bát Giới cúi đầu làm lễ.
Lạy rồi hỏi rằng:
- Thưa mẹ, tính gả người thứ mấy cho tôi?
Người đàn bà ấy nói rằng:
- Chuyện ấy chưa nhất định, muốn gả con lớn thì sợ con giữa
nó phiền, muốn gả con giữa thì sợ con út nó giận. Bằng gả con út, chắc hai đứa
nó hờn, nên chưa định chắc.
Bát Giới nói:
- Thưa mẹ, nếu sợ phàn nàn xin gả cho tôi hết thảy, thì khỏi
lo việc ghen tuông. Người đàn bà ấy nói rằng:
- Không lẽ ba đứa con, mà có một thằng rễ?
Bát Giới thưa rằng:
- Nói như mẹ thì người ta không có hai ba vợ hay sao? Rất đổi
là vua Nghiêu còn gả hết hai con cho ông Thuấn. Tôi khéo ở lắm, chẳng hề bỏ
phép công bình?
Người đàn bà ấy nói:
- Không đặng, ta đưa cái khăn vuông cho ngươi đội, chụp con
nào thì con ấy phải ưng, ấy là lối bói thiên hôn đó.
Bát Giới nghe lời lấy khăn che mặt, rồi nói rằng:
- Xin mẹ kêu mấy cổ ra đây.
Người đàn bà ấy nói rằng:
- Chơn Chơn, Ái Ái, Liên Liên. Ra cho rể mới choàn thiên hôn
mà kết duyên gá nghĩa.
Nói rồi nghe ba nàng đều dạ, đeo vàng ngọc khua rổn rảng, mùi
xạ hương bay bát ngát. Lòng mừng khấp khởi, chụp trước rồi chụp sau. Chụp chẳng
đặng người nào, té ngiêng rồi té ngửa! Rán sức đổ mồ hôi hột, té đập mặt u đầu!
Chụp cột nầy rồi ôm cột kia, đụng vách nầy nhào vách nọ!
Mệt ngồi thở dốc và nói rằng:
- Mẹ ôi! Ba cô ấy qủy quyệt quá! Chụp không nhằm biết tính
sao?
Người đàn bà ấy nói:
- Không phải nó qủy quyệt đâu, ấy là mắc nhượng cho nhau, nên
không đứa nào chịu hết.
Bát Giới nói:
- Mấy cô không chịu, thì mẹ chịu cho rồi.
Người đàn bà ấy nạt rằng: Ðừng nói bậy nà! Mi là bộ mặt heo,
nên đụng đâu muốn đó. Không chừa nhạc mẫu hay sao? Bởi ba đứa con ta đều khéo
léo, dệt ba cái áo lót mồ hôi bằng gấm đều có nhận hột trân châu. Như người bận
áo nào vừa, thì gả đứa ấy.
Bát Giới nói:
- Xong lắm, xong lắm, nếu bận đặng ba cái, thì gả hết cho
tôi!
Người đàn bà ấy vào phòng lấy một cái áo đưa ra.
Bát Giới xem qua mừng lắm, bèn cởi trần mà mặc áo vào. Bận rồi
nhào xuống đất; coi lại là dây buộc riết mình, chớ không phải áo, nó riết gần
gãy ba sườn, thở không muốn đặng. Coi lại bốn mẹ con đi mất chẳng còn.
Nói về thầy trò Tam Tạng ngủ tới hừng đông, Tam Tạng mở mắt
ra thấy mình ngủ trong rừng tòng bá, không biết nhà cửa đâu mất, lấy làm lạ
lùng!
Tam Tạng thất kinh, dậy kêu đồ đệ, Sa Tăng nói với Ngộ Không
rằng:
- Anh ôi! Không xong rồi! Chúng ta đã gặp quỹ!
Hành Giả biết trước, cười chúm chím mà nói rằng:
- Tuy là ngủ trong rừng tòng, mà vui quá sức. Song không rõ
Bát Giới bị hành tội ra thể nào?
Tam Tạng hỏi:
- Nó bị tội chi?
Hành Giả cười rằng:
- Bốn mẹ con người đàn bà hồi hôm đó, chắc là Tiên Phật hiện
ra mà thử chúng ta. Nên nửa đâm biến mất. Còn Bát Giới phải mắc nạn chẳng sai.
Tam Tạng nghe qua, liền lạy thinh không mà niệm Phật.
Xảy thấy trên cây tòng bay xuống một lá thiệp.
Sa Tăng lấy đem cho Tam Tạng.
Trong lá thiệp có tám câu thơ rằng:
Lê Sơn lão mẫu tu hành
Vị tiếng Quan Âm thỉnh xuống trần
Cậy Phổ Hiền kia làm thục nữ,
Ép Văn Thù nọ giả gia nhân
Thánh Tăng giữ phép đà trọn đạo,
Bát Giới tham hoa muốn gãy lưng
Từ ấy sắp sau chừa các lỗi
Bằng quen thói cũ khó thành thần.
Hồi 24:
Vạn Thọ sơn, Trấn Nguơn cầm cố hữu
Ngũ Trang am, Hành Giả trộm nhơn sâm
Ba thầy trò đương đọc bài kệ, xảy nghe trong rừng có tiếng
kêu lớn rằng:
- Sư phụ ôi! Cứu tôi với! Từ rày sắp ới tôi không dám nữa
đâu.
Tam Tạng hỏi:
- Phải Ngộ Năng kêu đó phải không?
Sa Tăng thưa:
- Phải.
Hành Giả nói:
- Em đừng nói tới nó làm chi, chúng ta đi cho rãnh.
Tam Tạng nói:
- Tuy nó khờ dại mặc lòng, song vị tình Bồ Tát ngày xưa, cứu
nó một phen kẻo tội nghiệp.
Sa Tăng gánh đồ, Hành Giả dắt ngựa. Ba thầy trò đồng vào rừng
kiếm.
Nói về thầy trò vào rừng, thấy Bát Giới bị trói dưới gốc cây,
kêu la vang rên siết! Hành Giả cười rằng:
- Chàng rễ ôi! Sao chừng nầy chưa dậy mà lạy thầy, và tạ mai
nhơn trưởng tộc? Hỡi còn giả ngộ hay sao? Ủa! Nói vậy thì mẹ vợ với vợ trói
chàng rễ mà khảo đó chăng?
Bát Giới thấy Hành Giả kêu ngạo, thì hổ thẹn trăm bề! Ðau cho
mấy cũng không la, phải cắn răng mà chịu đỡ.
Sa Tăng thấy tội nghiệp quá, nên chẳng nỡ lòng, liền để gánh
đồ, lại mở dây cho Bát Giới.
Bát Giới hổ thẹn không dám ngó lên. Liền quỳ lạy thinh không,
chẳng biết ai mà vái. Hành Giả hỏi:
- Ngươi biết vị nào hiện ra mà thử đó chăng?
Bát Giới nói:
- Tôi hôn mê bất tỉnh nên không biết ai.
Hành Giả đưa lá thiệp ra.
Bát Giới coi càng hổ thẹn.
Sa Tăng thấy Bát Giới mắc cỡ, nực cười nói cợt rằng:
- Nhị ca cũng khá lắm mới cảm động bốn vì Bồ Tát, giúp việc
hôn nhơn.
Bát Giới nói:
- Sư đệ đừng nhắc chuyện đó làm chi nữa. Từ nầy sắp tới chẳng
dám làm nhăn, cứ quảy gánh theo thầy cho tới Phật.
- Nói như vậy mới phải.
Hành Giả thỉnh thầy lên ngựa, dắt ra đường cái đồng đi.
Ăn gió nằm mưa, trèo non lặn suối, xảy thấy hòn núi rất cao.
Thiệt là,
Hoa nở hoa tàn đầy đãnh núi,
Mây qua mây lại quảng đầu non.
Tam Tạng ngồi trên ngựa mừng rỡ nói rằng:
- Ðồ đệ, ta từ đi Tây Phương đến nay thấy nhiều non nước,
không thấy núi nào cảnh tốt như vầy, có khi gần tới chùa Lôi Âm. Phải sửa sang
cho đàng hoàng, mà ra mắt Phật Tổ.
Hành Giả cười rằng:
- Sửa soạn chi gấp vậy?
Sa Tăng hỏi:
- Thưa đại ca đây tới Tây độ còn cách bao xa?
Hành Giả nói:
- Kể từ Ðông Ðộ qua Tây độ cách mười muôn tám trăm dặm đường.
Nay đi mười phần mới đặng một.
Bát Giới nói:
- Biết đi mấy năm cho tới.
Hành Giả nói:
- Ước sức hai em đi hơn mười mấy ngày cũng tới. Còn ta thì một
ngày vừa đi vừa về năm chục lần, mà mặt trời chưa lặn. Chớ như thầy thì hết đợi
hết trông!
Tam Tạng hỏi:
- Ngộ Không, ngươi nói ta đi mấy mươi năm mới tới?
Hành Giả nói:
- Thầy đi từ nhỏ cho tới già, già rồi trẻ lại một ngàn lần
như vậy cũng chưa tới Tây Phương. Phải chi thành tâm, ngó lại Tây pương gần tới.
Sa Tăng nói:
- Chỗ nầy tuy không phải chùa Lôi Âm, song cũng chỗ thần tiên
chi đó?
Hành Giả nói:
- Phải. Ðây là non tiên cảnh thánh, chúng ta đi chậm chậm mà
xem hoa.
Nói về trong núi Vạn Thọ, có am Ngủ trang. Trong am ấy có một
ông tiên, tên là Trấn Nguơn Tử, hiệu riêng là Dữ Thế Ðồng Quân. Trong vườn có một
vật báu. Nguyên trước khi mới có trời đất, thì sanh ra cây nầy. Gọi rằng Thảo
huờn đơn, lại kêu là nhơn sâm quả. Ba ngàn năm mới nở bông, ba ngàn năm mới có
trái, ba ngàn năm nữa trái ấy mới chín cây. Gần cả muôn năm, mới có ba mươi
trái. Hình như con nít mới đẻ ba ngày, có đủ tay chân, ngủ quan không thiếu. Nếu
ai có phước, hửi một cái sống đặng ba trăm sáu mươi năm, ăn đặng một trái thì sống
bốn muôn bảy ngàn tuổi.
Ngày kia Nguơn Thỉ thiên tôn mời Trấn Nguơn lên cung Di lạc
mà nghe giảng đạo. Các tiên nhóm lại rất đông. Còn Trấn Nguơn đại tiên có bốn
mươi tám người đệ tử tu luyện gần thành,đồng dắt theo nghe giảng, để hai người ở
lại coi động, là hai đứa học trò nhỏ hơn hết, tên Minh Nguyệt với Thanh Phong.
Thanh Phong đã đặng một ngàn ba trăm hai mươi tuổi.
Minh Nguyệt mới một ngàn hai trăm tuổi mà thôi.
Khi Trấn Nguơn đại tiên gần đi có dặn rằng:
- Ta đi rồi ít ngày, có người quen của ta là Ðường Tam Tạng
ghé đây. Nguyên ở Trường An vâng lệnh đi thỉnh kinh Tây độ, đừng thấy thầy sãi
mà đem dạ dễ ngươi. Phải hái trái nhơn sâm mà đãi Tam Tạng.
Hai đạo đồng thưa rằng:
- Người không đồng đạo thì chẳng bàn luận làm chi, ấy là lời
Khổng Tử. Mình theo đạo Lão Tử, sao lại quen với thầy chùa?
Trấn Nguơn đại tiên nói:
- Chúng bây không biết. Thầy ấy nguyên là đệ tử thứ nhì của
Phật Tổ, ở tại Tây Phương, hiệu là Kim Thiền tử năm trăm năm trước ta đi coi hội
Vu Lan, có quen biết với nhau, như tình bằng hữu. Nay tuy Kim Thiền tử đầu thai
làm Tam Tạng, ta lẽ quên cựu ngãi hay sao? Song đem trái nhơn sâm cho Tam Tạng
ăn, đừng cho lũ đồ đệ hay; vì chúng nó là học trò ăn cướp.
Hai tiên đồng vâng lệnh, đều ở lại giữ am.
Nói về bốn thầy trò Tam Tạng đương dạo núi non, ngó thấy
trong vuông tre có lầu đài rực rỡ. Ði lần tới cửa ngỏ, coi tợ cảnh tiên cõi phật.
Thiệt là:
Lặng lẽ rất yên lòng đạo đức,
Trống không chi nhộn việc người đời.
Tam Tạng xuống ngựa, ngó bên tả cửa núi, có một tấm bia.
Trong bia có mười chữ lớn rằng:
Vạn thọ sơn phước địa, Ngủ trang quán động thiên.
Nghĩa là:
Ðất sanh non Vạn thọ, Trời trổ viện Ngũ trang.
Tam Tạng thấy chữ Viện, liền nói với học trò rằng:
- Ðây là am viện của đạo sĩ, cũng như kiểng chùa Thiền. Hãy
đi vô mà coi thử? Hành Giả nói:
- Phải.
Bốn thầy trò đồng bước vào. Thấy đôi liển dán cửa ngỏ rằng:
Trường sanh bất lão thần tiên phủ,
Dữ thiên đồng thọ đạo nhơn gia.
Nghĩa là:
Còn mãi không dời nhà đạo đức,
Sống hoài chẳng thác viện thần tiên.
Hành Giả cười rằng:
- Ông đạo nầy hay nói lối. Trên cửa cung Ðâu Suất là chỗ ông
Thái Thượng, cũng không viết liển xất như vầy.
Bước vào cửa trông thấy hai đạo đồng ra nghinh tiếp. Thưa rằng:
Xin mời vào nghỉ.
Tam Tạng thấy hai đạo đồng, tinh thần tợ nước, cốt cách khác
thường. Liền mừng rỡ đi theo vào am ấy. Thấy giữa am thờ bức tượng, có hai chữ
Thiên Ðịa mà thôi. Ðể lư hương vàng trên bàn án đỏ.
Tam Tạng thấp hương làm lễ, rồi hỏi hai đạo đồng rằng:
- Am Ngủ trang ở cỏi Tây Phương. Sao chẳng thờ Tam Thanh Tứ đế,
các vị tinh quân? Lại thờ chữ Thiên Ðịa?
Tiên đồng cười chúm chiếm mà rằng:
- Tôi không dám nói giấu sư phụ Thầy tôi thờ chữ Thiên là phải
còn thờ chữ Ðịa là vì tình. Có lẽ nào thờ mấy ông ấy!
Tam Tạng hỏi:
- Vì cớ nào vậy?
Tiên đồng nói:
- Tam Thanh là bằng hữu của thầy tôi. Tứ Ðế thầy tôi cũng
quen lắm. Còn mấy vị sau là kẻ dưới tay của thấy tôi, mà phụng thờ sao phải?
Hành Giả nghe qua cười dài rồi nói rằng:
- Tưởng có một mình Lão Tôn hay nói ma, chẳng ngờ đồng lữ
cũng vậy!
Tam Tạng hỏi:
- Vậy chớ lịnh sư ở đâu?
Thanh Phong thưa rằng:
- Thầy tôi đi nghe Nguơn Thỉ giảng kinh, vì có giấy mời hôm
trước.
Hành Giả nghe nói cứ việc cười hoài.
Tam Tạng biểu ba người đi ra gánh đồ và dắt ngựa vào. Rồi mượn
nồi vút cơm khô mà ăn đở.
Ba người ấy đi hết.
Thanh Phong dâng trà cho Tam Tạng.
Minh Nguyệt hỏi rằng:
- Thầy phải hiệu là Ðường Tam Tạng, qua thỉnh kinh bên phật
hay chăng?
Tam Tạng nói:
- Phải! Sao Tiên đồng biết đặng tên tôi?
Thanh Phong nói:
- Khi thầy tôi ra đi có dặn rành... Nên tôi mới biết. Vậy xin
thầy ngồi nghĩ, đặng tôi hái trái đem dâng.
Nói rồi hai đồng tử vào phòng. Một người cầm cái móc vàng, một
người bưng cái chậu đỏ. Trong chậu lót nhiều khăn tơ lụa cho êm. Ðồng ra vườn
nhơn sâm mà hái. Thanh Phong cầm móc vàng leo lên cây giựt xuống.
Minh Nguyệt đứng dưới gốc, giơ chậu đỏ hứng hai trái nhơn
sâm.
Hái rồi đem ra dâng cho Tam Tạng mà nói rằng:
- Chúng tôi ở Sơn lâm cồn cạn không có vật chi mà đãi thầy.
Xin dâng hai trái nầy, cho sư phụ dùng mà uống nước.
Tam Tạng ngó thấy hai trái ấy, thì run lập cập và ngồi dang
ra xa ba thước, mà nói rằng:
- Bạc ác thì thôi! Năm nay mùa màng đặng lắm, làm sao đến nỗi
ăn thịt người? Ðó là hai đứa con nít mới sanh chưa đặng ba ngày. Sao lại biểu
tôi ăn mà uống nước? Thanh Phong nghe nói nghĩ thầm rằng:
- Ông Hòa Thượng nầy thai phàm mắt thịt, nên không biết trái
nhơn sâm.
Minh Nguyệt thưa rằng:
- Trái nầy gọi là nhơn sâm quả, ở trên cây sanh ra.
Tam Tạng rằng:
- Ðừng có nói xàm. Lẽ nào cây lại sanh người đặng? Không ai
ăn mà ép, hãy dẹp cho mau.
Hai người thấy Tam Tạng một hai không chịu ăn, túng phải bưng
vào phòng mà thương nghị.
Thanh Phong nói:
- Ðường Tăng không biết trái nhơn sâm. Thôi, anh em mình chia
nhau mà hưởng. Minh Nguyệt nói:
- Phải. Bởi vì trái nầy để dành lâu không được. Nếu lâu nó hết
giải, thì chết cứng như thây ma, ăn chẳng ngon mà lại không bổ. Tại thầy ấy vô
phước, nên anh em mình mới đặng nhờ.
Nói rồi mỗi người ăn một trái.
Nói về Bát Giới nấu cơm trong nhà bếp, cũng dựa bên đạo
phòng, lóng tai nghe hai người đồng tử hối nhau: Lấy móc vàng mâm đỏ mà hái
nhơn sâm.
Sau lại nghe nói:
- Ðường Tăng không biết trái nhơn sâm. Thôi, anh em mình chia
nhau mà hưởng. Bát Giới nghe nói thèm chảy nước giải, ước phải chi có một trái
mà ăn.
Xãy thấy Hành Giả dắt ngựa tới, buộc trên nhánh cây.
Bát Giới ngoắt lia ngoắt lịa.
Hành Giả bước tới, Bát Giới nói rằng:
- Ðây có một món bữu bối, anh biết hay không?
Hành Giả hỏi:
- Bữu bối gì ở đâu?
Bát Giới nói:
- Anh biết nhơn sâm quả hay không?
- Tuy ta chưa thấy, mà nghe người nói: Nhơn sâm quả là Thảo
huờn đơn, nếu ăn nó thì sống lâu lắm. Mà ở đâu có bây giờ?
Bát Giới nói:
- Hai đạo đồng dâng hai trái cho thầy. Thầy không biết là
trái nhơn sâm; chẳng hề động tới. Hai thầy khốn nạn quá. Phải chi thầy không hưởng,
thì nó hiến cho mình. Té ra hai đứa đem nhơn sâm vào phòng, nuốt ọt với nhau hết
trọi! Chúng ta không đặng một miếng, cũng nên hái trộm mà ăn.
Hành Giả nói:
- Chuyện ấy dễ như chơi, để ta đi hái.
Nói rồi liền chạy.
Bát Giới niu lại nói rằng:
- Tôi nghe nó nói phải lấy móc vàng mới hái đặng, mình phải sắm
cho sẳn sàng. Hành Giả nói:
- Ta hiểu rồi.
Liền tàng hình vào phòng, không thấy đạo đồng ở đó. Ngó quanh
ngó quất. Thấy trên song có móc một cây móc vàng dài ước chừng hai thước, lớn bằng
ngón tay cái mà thôi. Trên có cái vòng bằng nhung, dưới cán có củ tỏi, chắc Kim
bích là vật nầy. Vì có vòng để móc vào mà giựt. Lấy rồi ra cửa sau ra tới vườn
huê, đi khỏi vườn huê tới vườn rau cải, đi khỏi vườn cải thấy có cửa ngăn. Mở cửa
ngăn ra, thấy một cây Ðại thọ.
Thiệt là: Cây thơm bát ngát, lá rậm diềm dà, coi cho kỹ thì
lá như lá chuối, cây cao ngàn thước, đo giáp vòng 70 thước dư.
Hành Giả đứng dưới gốc ngó lên thấy nhánh bên nam có một
trái, coi như đứa con nít, sau đuôi có cuốn dính trên nhánh cây. Chân tay đều cử
động. Lắc đầu nhăn mặt, nghe xa xa như tiếng khóc la.
Hành Giả mùng quýnh nói:
- Thiệt ta chưa từng thấy!" Nói rồi nhảy dựng lên cầm
móc vàng mà giựt. Thấy rụng xuống một trái, nhảy bổ theo liền. Kiếm hèn lâu
không đặng.
Hành Giả nói:
- Dầu nó có cẳng, chạy cũng nội khoản nầy. Vì cớ nào mà kiếm
hoài không đặng! Chắc là Thổ Ðịa giữ vườn, không cho ta hái trộm, nên lén giấu
đi.
Nghĩ rồi liền bắt ấn, niệm thần chú ám tự, thâu Thổ Ðịa tức
thì.
Khi ấy Thổ Ðịa đến làm lễ hỏi rằng:
- Ðại Thánh đòi tiểu thần tới, có dạy chuyện chi?
Hành Giả nói:
- Ngươi há không biết Lão Tôn là ăn cướp tổ hay sao, năm xưa
ta ăn trộm bàn đào, uống vụn ngự tửu, lại ăn cắp thuốc Linh đơn, chẳng ai dám
chia của tang với ta hết thảy. Giá gì nay ta lén hái một trái nhơn sâm quả, mà
ngươi chặn lận của ta? Vả chăng trái ấy ở trên cây, chim cũng ăn, dầu ta ăn một
trái lại can chi? Cớ sao ta mới làm rớt xuống đây, lẽ nào ngươi giựt ngược?
Thổ Ðịa nói:
- Xin Ðại Thánh miễn chấp tiểu thần, sự ấy rất oan cho tôi lắm!
Bửu bối ấy là vật Ðịa tiên, còn tôi là quỷ tiên lấy làm sao đặng? Chẳng những
là cầm không đặng, thiệt vô phước chưa đặng hưởng lần nào.
Hành Giả nói:
- Nếu ngươi không lấy. Cớ gì rớt xuống liền mất đi?
Thổ Ðịa nói:
- Ðại Thánh biết nó là vật trường thọ. Mà chưa rõ nó có kị
ngũ hành.
Hành Giả nói:
- Nó kị những vật gì?
Thổ Ðịa nói:
- Trái nầy gặp hơi vàng thì rụng, cây đụng đến thì khô, gần lửa
thì cháy đen, rớt xuống đất thì lặn mất. Nên phải dùng đồ vàng mà móc nó, nếu để
gần hơi cây thì mất nước, ăn cũng không hay, nếu muốn ăn thì để nó vào đồ sành,
chế nước lạnh vào thì tan ra nước mà uống. Tuy đất nầy bốn muôn bảy ngàn năm, cứng
hơn sắt, dùi khoan không phủng, mà nó chun xuống như chơi. Bởi vậy ăn nó thì sống
lâu lắm.
Hành Giả không tin lời ấy, lấy thiết bảng đập xuống đất, nghe
kêu một tiếng, thiết bảng dội lên mà đất không có dấu!
Hành Giả nói:
- Kỳ lắm, kỳ lắm! Làm ngươi bị rầy oan rầy ức, thôi ngươi trở
về đi.
Thổ Ðịa vâng lời biến mất.
Khi ấy Hành Giả tính ra kế. Liền cầm móc leo lên, một tay móc
nhơn sâm một tay kéo áo ra hứng, bọc đặng ba trái, chạy riết về trù phòng, nói
với Bát Giới rằng:
- Của nầy không phải của riêng, nếu ăn lén Sa Tăng thì dở lắm.
Hãy kêu một tiếng cho mau!
Bát Giới ngoắt Sa Tăng vào nhà bếp.
Hành Giả dở bọc hỏi rằng:
- Em biết vật gì đó hay không?
Sa Tăng nói:
- Ấy là nhơn sâm.
Hành Giả nói:
- Thiệt hay lắm, em đã biết trái nhơn sâm, khi trước ăn tại
đâu mà rõ?
Sa Tăng nói:
- Tôi tuy chưa ăn nó, mà hồi làm Quyện Liêm đại tướng, thường
thấy các tiên ngoài biển đem dâng cho Ngọc Hoàng, song chưa ăn đặng. Ðại ca cho
tôi xin một chút, đặng nếm cho biết mùi!
Hành Giả nói:
- Không cần xin một chút làm chi, cứ ba anh em mỗi người một
trái.
Bát Giới lấy một trái, nhấp vào cái rồi nuốt, lật đật không kịp
nhai.
Liền hỏi rằng:
- Sư huynh sư đệ, hai người ăn nó ra làm sao?
Hành Giả nói:
- Ngươi ăn trước hết thảy, còn trở lại hỏi ai.
Bát Giới nói:
- Tôi ăn mau quá, chẳng biết có hột hay không? Tôi nhấp sơ rồi
nuốt trọng. Anh ôi! Hễ làm ơn thì làm ơn cho trót. Kiếm thêm một trái nữa, tôi
ăn thủng thẳng cho biết mùi.
Hành Giả nói:
- Bụng ngươi tham không cùng, biết bao nhiêu cho đủ? Mình
cũng có phước lắm mới ăn đặng một trái nầy. Thôi thôi đã đủ rồi, đừng có đòi nữa.
Nói rồi đứng dậy lấy Kim bích quăng vào lỗ song.
Còn Bát Giới cứ cằn nhằn cẳn nhẳn nói hoài, cũng có bấy nhiêu
chuyện.
Vừa lúc hai đạo đồng trở lại đạo phòng, nghe Bát Giới cằn nhằn:
- Ăn trái nhơn sâm uổng miệng quá! Phải được một trái nữa ăn
mới biết mùi.
Thanh Phong nghe nói nghi rằng:
- Minh Nguyệt! Em nghe hòa thượng mỏ dài nói đó không? Giống
gì mà phải được một trái nữa ăn mới biết mùi. Khi thầy đi có dặn rằng: Phải
phòng lũ học trò ăn cướp. Có khi nó hái trộm nhơn sâm chăng.
Minh Nguyệt ngó ngoái lại nói rằng:
- Không xong rồi anh ôi! Cây kim bích sao rơi xuống đất? Mình
ra vườn xem thử thể nào.
Hai người đi ra thấy cửa vườn đã mở, coi đếm lại còn có hai
mươi hai trái.
Minh Nguyệt nói:
- Nó hết thảy là ba mươi trái, thầy hái hai trái chia nhau mà
ăn, lại còn hái hai trái mà đãi Tam Tạng, thì còn hai mươi sáu trái rõ ràng sao
mất hết bốn trái, chắc là các sãi trọc ăn cắp rồi. Thôi cứ vô nhiếc Ðường Tăng
thì ra mối.
Nói rồi hai người vào chỉ mặt Tam Tạng mà mắng trọc ơi trọc hỡi
hơn một hồi, Tam Tạng nghe không hết mới hỏi rằng:
- Chuyện chi mà Tiểu đồng rầy dữ vậy?
Thanh Phong nói:
- Thiệt là ngươi điếc, người ta mắng nhiếc mà không nghe, ăn
vụn trái nhơn sâm, mà không cho người ta nói!
Tam Tạng nói:
- Tôi có biết trái nhơn sâm ra làm sao! Xin chớ nói oan mang
tội.
Minh Nguyệt nói:
- Tôi đem cho thầy ăn thầy nói in đứa con nít, mới đó đã quên
lững hay sao?
Tam Tạng nói:
- Mô Phật, thấy trái đó đà thất kinh hồn vía, tôi nào dám động
tới đâu, xin đừng nói tôi ăn vụn vật nầy mà mang tội.
Thanh Phong nói:
- Tuy thầy không ăn, ngặt học trò thầy nó ăn vụng.
Tam Tạng nói:
- Có khi phải đó. Thôi đừng có rầy, để tôi hỏi lại, như quả
nó ăn cắp, bắt nó lạy mà chịu lỗi với hai ông.
Tam Tạng liền kêu ba người đồng lên biểu.
Sa tăng nói:
- Không xong rồi, chắc sự nhơn sâm đã lậu!
Hành Giả nói:
- Mắc cở chết đi mà thôi! Chịu tiếng ăn vụng, xấu hổ biết dường
nào, chi bằng chối phứt cho xong, không tang án gì mà sợ?
Bát Giới nói:
- Phải phải, ai chịu án ăn vụn làm chi.
Ba anh em bàn luận rồi, đồng đi ra một lượt.
Hồi 25:
Trấn Nguơn tiên bắt thầy Tam Tạng
Tôn Hành Giả phá viện Ngũ trang
Nói về ba anh em đến trước đền, Tam Tạng hỏi rằng:
- Ðồ đệ! Trong am nầy có trái nhơn sâm, mà đứa nào ăn cắp?
Bát Giới nói:
- Tôi thiệt không biết.
Hành Giả đứng chúm chiếm Thanh Phong nói:
- Ai cười thì nấy ăn vụng.
Hành Giả hét rằng:
- Trời sanh cái bộ miệng ta vui vẻ, mới ngó tưởng là cười. Chớ
ai biết nhơn sâm ra làm sao mà ngươi nói nhận diện!
Tam Tạng nói:
- Ðồ đệ, mình là người tu hành, chẳng nên nói dối, ăm làm chi
những vật sau lưng! Như có ăn lỡ rồi, thì lạy người ta mà chịu lỗi. Ðể chối cãi
làm chi.
Hành Giả thấy thầy nói phải, liền thưa thiệt rằng:
- Chuyện nầy không phải tại tôi. Bởi Bát Giới thấy hai người
đạo đồng ăn, nên biểu tôi kiếm mà nếm cho biết, tôi hái ba trái về chia ba người
ăn. Bây giờ biết làm sao mà liệu?
Minh Nguyệt nói:
- Ăn vụng của người ta hết bốn trái, mà thầy còn nói không phải
học trò ăn cướp hay sao?
Bát Giới nói:
- Mô Phật, hái trộm bốn trái mà đem về có ba trái mà chia. Ðã
dính tay hết một trái. Coi ai nặng tội hơn?
Bát Giới cứ cằn nhằn như vậy mãi.
Còn hai đồng tử hỏi ra quả tang chánh án, càng mắng nhiếc hơn
xưa.
Hành Giả tức mình, trợn mắt tròn vo, nghiến răng trèo trẹo.
Nghĩ rằng:
- Hai thằng nhỏ thiệt đáng ghét quá chừng. Ðể ta làm tuyệt hậu,
báo hại cho chúng nó hết ăn trái nhơn sâm.
Nghĩ rồi, nhổ một cái lông sau ót, biến ra Ngộ Không giả đứng
cùng Bát Giới, Sa Tăng, còn mình xuất thần ra vườn nhơn sâm, cầm thiết bảng nhảy
dựng lên, đập nhơn sâm rụng hết phân nữa. Rồi chuyển thần lực xô trốc gốc cây
nhơn sâm.
Thiệt là:
Nhơn sâm trốc gốc bầy trơ rễ,
Ðạo sĩ nhăn răng chịu chết thèm.
Hành Giả xô ngã cây nhơn sâm, coi lại không còn một trái. Vì
thiết bảng có bịt vàng nên đụng nhằm thì rụng. Khi ngã xuống đất thì nhập thổ,
nên còn cây lá mà thôi. Hành Giả nói:
- Như vậy mới hết tức mình.
Nói rồi hiện về như cũ.
Nói về hai đồng tử mắng một buổi trọn, mấy thầy trò làm thinh
mà chịu.
Thanh Phong nói:
- Minh Nguyệt, ta coi các hòa thượng chịu lì không nói lại.
Có khi không phải hái bốn trái chăng, thế tại lá rậm che khuất nên đếm sai một
trái. Hãy ra coi lại, kẻo mắng hiếp người ta.
Minh Nguyệt nói phải.
Hai anh em đi tới cửa vườn, thấy cây nhơn sâm trốc gốc gãy
nhánh, rụng là hết trái. Hai người chết điếng.
Hai đạo đồng nhào xuống đất kinh hãi nhưng biết làm sao cho đặng.
Hai người chắc lưỡi than dài.
Thanh Phong nói:
- Cây thuốc tiên chết rồi, thầy về hỏi trả lời sao đặng?
Minh Nguyệt nói:
- Xin sư huynh đừng kinh hãi. Nhắm không ai vô đây? Chắc là
hòa thượng mặt nhiều lông, làm ra công chuyện đó. Nếu cãi lẫy với nó, ắt là
đánh lộn chớ chẳng không, mình có hai anh em, cự sao lại bốn hòa thượng. Chi bằng
chịu lỗi, gạt nó như vầy: Nhắm chừng nó nấu cơm đã xong, ta đem đồ ăn cho nó. Ðợi
ngồi mâm thì đóng cửa. Cầm lại đó mà đợi thầy về. Thầy xử lẽ nào tự ý.
Thanh Phong khen phải, đồng mừng rỡ trở vào.
Khi ấy Thanh Phong, Minh Nguyệt đến lạy Ðường Tăng mà chịu lỗi
rằng:
- Khi nãy anh em tôi nói xúc phạm nhiều lời, xin sư phụ miễn
chấp.
Tam Tạng hỏi:
- Vì cớ nào mà chịu lỗi?
Thanh Phong nói:
- Trái nhơn sâm chẳng hề mất. Bởi lá rậm nên coi chẳng phân
minh. Tôi mới đếm lại rõ ràng còn nguyên hiện.
Hành Giả nghe nói lấy làm lạ nghĩ rằng:
- Cây trái đã tang hoang, sao lại nói còn nguyên hiện. Hay là
cây ấy, có phép cải tử hoàn sanh?
Tam Tạng nói:
- Như vậy thì mình dọn cơm mà ăn!
Bát Giới đi dở cơm đem dọn.
Hai tên đồng tử bưng phụ đồ ăn, lại nấu một bình trà ngon mà
hờ đó.
Bốn thầy trò mới cầm đũa, hai đồng tử đóng cửa khóa liền.
Bát Giới cười rằng:
- Phong tục ở đây lạ lắm, ai đời ăn cơm còn sớm, mà đóng cửa
bao giờ?
Minh Nguyệt nói:
- Phải, phải. Ăn cơm rồi sẽ mở cửa.
Thanh Phong mắng rằng:
- Sãi trọc chết thèm ăn vụng, là một tội rồi, sao lại dám cả
gan xô gãy cây nhơn sâm, làm mất giống linh trong ám báu, hỡi còn nói lẻ hay
sao? Hoặc đầu thai kiếp khác, mới đi tới Tây Phương, chớ kiếp nầy hết kể.
Tam Tạng nghe nói, thất kinh nghẹn họng, buông đũa thôi ăn.
Hai đồng tử đóng ba vòng cửa, mắng hơn một buổi, rồi vào
phòng khóa cửa nghỉ ngơi.
Còn Tam Tạng tức tối, nhiếc Ngộ Không rằng:
- Thằng mặt khỉ tới đâu cũng gây họa. Ðã ăn vụng lỡ thì người
ta mắng nhiếc cũng phải nghe, có lẽ nào lại hại cây người cho tuyệt giống, nếu
chuyện nầy chúng kiện, dầu ông già mi làm quan xử đoán cũng không lẽ vị tình.
Hành Giả nói:
- Thôi mà, thầy đừng có ngầy lắm! Trời tối hai đứa nó vào
phòng hết, đợi nó ngủ mình sẽ trốn mà đi.
Sa Tăng nói:
- Anh ôi! Ba vòng cửa nó khóa hết, lại giấu chìa khóa rồi, mở
làm sao cho đặng? Hành Giả cười rằng:
- Không cần gì hết. Lão Tôn có phép thần thông.
Bát Giới nói:
- Ai không biết anh có phép? Anh hóa ra đỉa bò cũng được, hóa
ra muổi bay cũng như chơi, ngặt chúng tôi không biết làm sao, phải giơ đầu mà
chịu tội.
Tam Tạng nói:
- Nếu nó không đem chúng ta ra hết, thì ta niệm thần chú ngày
xưa, coi nó chịu nổi không cho biết.
Bát Giới nghe nói hỏi rằng:
- Thưa thầy, thần chú chi ngày xưa?
Hành Giả nói hớt rằng:
- Bởi em không rõ. Cái niền trên đầu ta, nguyên Quan Âm Bồ
Tát truyền cho thầy, thầy gạt ta đội lên, nó dính vào thịt. Hễ niệm thần chú
thì niền ấy bóp lại gần bể đầu, nhờ phép thầy trị ta mới đặng. Thầy đừng niệm
làm chi cho mệt, bề nào tôi cũng đem ra.
Coi lại trời đã khuya rồi, đạo đồng ngủ hết, Hành Giả nói:
- Bây giờ phải thời đi lắm.
Nói rồi cầm thiết bảng chỉ lên ống khóa, làm phép giải tỏa mở
các cửa tức thì.
Tam Tạng lên yên, Sa Tăng dắt ngựa.
Bát Giới gánh đồ hành lý đồng theo Ðại Thánh ra khỏi viện Ngủ
trang.
Khi ấy Hành Giả nói:
- Khi tôi làm Tề Thiên đại thánh cỏi tiên, tôi đặt vận ăn cuộc
với Tăng trưởng thiên vương. Tôi ăn đặng ít con buồn ngủ, gọi là Hạt thóa
trùng. Hễ cho đậu trên con mắt thì buồn ngủ. Ðể tôi trở lại cho hai thằng nhỏ
ngủ một tháng cho biết chừng.
Nói rồi đến cửa phòng bắt hai con buồn ngủ quăng vào lỗ song,
giống ấy cứ kiếm con mắt người ta mà đậu. Hai người ngủ như say như chết, rồi
Hành Giả chạy theo Tam Tạng.
Ðêm ấy ngựa đi không ngừng vó, tới trời sáng mới dừng.
Tam Tạng nói:
- Trời đã sáng rồi, thầy ngồi dựa cội cây mà nghỉ.
Tam Tạng xuống ngựa ngồi dựa cội tòng, còn Bát Giới, Sa Tăng
đặt lưng liền ngủ. Còn Hành Giả nhảy thót lên cây.
Nói về Trấn Nguơn đại tiên nghe Nguơn Thủy giảng kinh xong xả,
liền dắt đệ tử về am, thấy cửa mở khắp nơi, đèn hương tắt hết. Trước sau không
thấy bóng người! Vào đến thấy cửa phòng đóng chặt, hai đạo đồng nằm ngủ li bì!
Còn học trò vỗ cửa mà kêu không dậy! Cạy cửa ra kéo hai trò xuống. Cũng mê man
như say.
Trấn Nguơn cười rằng:
- Tiên đồng hay quá! Thánh tiên thì tinh thần no đủ, không hề
ngủ khi nào, chắc cũng bị ai khuấy chi đó, mới ngủ vùi như vậy.
Nói rồi truyền đệ tử múc nước, niệm chú rồi phun nước vô mặt,
hai trò ấy tỉnh liền. Thanh Phong, Minh Nguyệt ngó thấy thầy về động, đồng quỳ
lạy thưa rằng:
- Người quen lớn của thầy là sãi Ðông Ðộ mới qua, thiệt là một
bầy ăn cướp. Rõ ràng là chánh đảng, chớ không phải lâu la!
Trấn Nguơn đại tiên cười rằng:
- Chuyện chi dữ vậy?
Thanh Phong Minh Nguyệt thuật chuyện lại, và tức mình quá
khóc ròng.
Trấn Nguơn đại tiên nổi giận nói rằng:
- Nín đi, đừng khóc, bởi chúng bây không biết họ Tôn; thần
thông quảng đại, năm xưa làm phản thiên cung, chúng bây có biết mặt người hại
cây báu hay không?
Thanh Phong thưa:
- Biết.
Trấn Nguơn đại tiên nói:
- Biết mặt thì đi theo ta. Còn các trò sắm sửa dây roi, đặng
ta bắt đem về khảo. Các tiên đồng vâng lệnh sửa sang.
Khi ấy Trấn Nguơn đại tiên bắt Minh Nguyệt Thanh Phong, đằng
vân theo Tam Tạng.
Ði hơn một ngàn dặm ngó không thấy Ðường Tăng.
Ngó ngoái trở lại phía Ðông, Minh Nguyệt Thanh Phong ngó thấy
Tam Tạng, liền thưa rằng:
- Ðường Tăng ngồi dựa cội tòng kia kìa.
Trấn Nguơn đại tiên nói:
- Ta đi quá hơn chín trăm dặm, phải không ngó lại, thì kiếm
không ra!
Nói rồi biến ra ông đạo sĩ đi đường, tay cầm cái phất chủ.
Ði đến cội tòng nói lớn rằng:
- Tôi chào thầy đó.
Tam Tạng đáp lễ vừa rồi, đạo sĩ hỏi:
- Thầy ở đâu đến đây?
Tam Tạng nói:
- Tôi ở Ðông Ðộ Ðại Ðường vâng chỉ đi thỉnh kinh bên Phật.
Ðạo sĩ làm bộ kinh hãi hỏi rằng:
- Thầy có đi ngang núi tôi chăng?
Tam Tạng nói:
- Không biết núi thầy ở gọi là núi chi?
Ðạo sĩ nói:
- Am Ngũ Trang tại núi Vạn Thọ.
Hành Giả nói hớt rằng:
- Không biết, không biết, chúng tôi cứ đường thẳng mà đi.
Ðạo sĩ điểm mặt Hành Giả mà cười rằng:
- Con khỉ nầy nói giấu ta sao đặng. Mi đến am ta, ăn trái
nhơn sâm cho đã, rồi lại giết gốc nhổ cây, mi trốn cả đêm nay, hãy còn chối phức!
Ðố ngươi đi đâu cho đặng, phải bắt đền cây nhơn sâm cho ta.
Hành Giả nghe nói nổi xung, giơ thiết bảng liền đập.
Ðạo sĩ nhảy lên trên không hiện ra hình thiệt, Hành Giả nhảy
theo đập hoài.
Trấn Nguơn đưa phất chủ đỡ mãi, liền giũ tay áo một cái, thâu
bốn thầy trò và ngựa với gánh đồ, liền bay về am.
Kêu học trò đem dây ra cho sẳn, bắt từ người trong tay áo đưa
ra, mới thấy còn nhỏ như hình hát bội đem ra ngoài lớn như người ta.
Truyền buộc bốn thầy trò vào bốn gốc cột, đóng nọc buộc con
ngựa tại căn giữa, gánh đồ để một bên, bảo học trò lấy roi da ra, đánh hòa thượng
một hồi, vì sự Huờn đơn thảo.
Khi ấy học trò vào lấy roi da rồng nhún nước, rồi thưa rằng:
- Ðánh người nào trước?
Trấn Nguơn đại tiên nói:
- Ðường Tăng Tam Tạng là thầy cả, mà không biết dạy học trò,
thì cứ thầy đánh trước.
Hành Giả hét rằng:
- Thầy nói sai lắm! Tôi hái trộm, tôi ăn vụng, tôi xô gãy cây
nhơn sâm sao lại không đánh tôi, để ăn hiếp thầy cả.
Trấn Nguơn đại tiên cười rằng:
- Con khỉ nầy thiệt gan ruột quá chừng, thôi bây đánh nó trước.
Tiểu tiên nói:
- Thưa thầy, đánh mấy chục roi?
Trấn Nguơn đại tiên nói:
- Ðánh ba chục mà thôi.
Hành Giả thấy roi lớn quá, trợn con mắt coi đánh tại đâu, chẳng
ngờ cũng đánh đích. Hành Giả biến ra da sắt mà chịu đòn, đánh ba chục roi thì
trời mới đứng bóng, Trấn Nguơn đại tiên biểu đánh Tam Tạng, vì tội dạy không
nghiêm để học trò gian ác. Hành Giả nói:
- Thầy nói hiếp quá! Hồi tôi ăn cắp thầy tôi cũng không hay.
Ví dầu có tội chi, tôi là phận học trò xin chịu thế, có đánh bao nhiêu nữa thì
đánh tôi đi.
Trấn Nguơn đại tiên khen rằng:
- Con khỉ yêu tuy là gian xảo, mà cũng có hiếu nghĩa với thầy.
Vậy thì y theo lời nó xin, đánh thêm ba chục nữa.
Tiểu tiên vâng lệnh đánh y số mới thôi.
Tôn Hành Giả không biết đau chút nào. Dòm sau đít sáng trưng
như mặt kiếng.
Khi ấy trời gần tối Trấn Nguơn đại tiên nói:
- Thôi, đem roi ngâm nước một đêm, để mai sẽ đánh nữa.
Ðệ tử vâng lệnh. Rồi đâu đó về phòng.
Còn Tam Tạng khóc ròng than rằng:
- Tại chúng bây làm nhăn, mà báo ta mắc nạn. Bây giờ mới tính
làm sao?
Tôn Hành Giả nói:
- Ðừng có cằn nhằn, đợi họ ngủ rồi sẽ trốn nữa.
Ðêm khuya ai nấy ngủ hết.
Tôn Hành Giả biến hình nhỏ, vuột dây ra.
Trước mở trói cho thầy, sau mở cho Sa Tăng Bát Giới. Tam Tạng
cỡi ngựa, Sa Tăng gánh đồ.
Hai người mở cửa động đi trước.
Còn Tôn Hành Giả biểu Bát Giới, đốn bốn cây dương, trãi nhánh
xong xả, đem vào buột vô bốn gốc cột như cũ.
Tôn Hành Giả niệm thần chú, rồi cắn lưỡi chảy máu phun trên bốn
khúc dương.
Hóa ra hình bốn thầy trò, không sai một mảy. Hỏi cũng biết
đáp lại như người. Xong rồi Tôn Hành Giả với Bát Giới đóng cửa động như thường,
nhảy ra chạy theo Sa Tăng, Tam Tạng.
Ðêm ấy ngựa không ngừng vó, người chẳng nghỉ chân.
Ði tới sáng trắng, Tôn Hành Giả thấy thầy ngủ gục trên lưng
ngựa.
Sợ rủi ro té xuống mà khó lòng. Nên kiếm thạch bàn dựa bóng
cây, thầy trò đồng nghỉ.
Rạng ngày Trấn Nguơn đại tiên kêu học trò thức dậy.
Ăn cơm mai xong rồi, Trấn Nguơn truyền học trò lấy roi đánh bốn
sãi mỗi người ba chục!
Tiểu tiên vâng lệnh. Xách roi ra nói với TamTạng rằng:
- Bữa nay đánh ngươi trước.
Giả Tam Tạng hỏi:
- Ðánh tôi sao?
Tiểu tiên đánh ba chục.
Rồi lại nói với Bát Giới rằng:
- Bây giờ đánh Hòa Thượng mỏ dài.
Bát Giới hỏi:
- Ðánh tôi phải không?
Tiểu tiên cũng đánh y số.
Rồi nói:
- Bây giờ đánh Hòa Thượng mập.
Giả Sa Tăng cũng nói y như vậy.
Tiểu tiên đánh thẳng tay.
Rồi đánh tới giả Tôn Hành Giả.
Thì Tôn Hành Giả thiệt đương ngủ vùng phát lãnh giựt mình nói
rằng:
- Không xong! Không xong! Ta ngỡ là hôm qua đánh đã hai lần
sáu chục. Bữa nay nó chừa ta. Nên dùng máu lưỡi mà hóa bốn thầy trò. Ai dè nó
đánh ta, đau lưỡi quá chịu sao cho nỗi.
Nói rồi thâu phép, hết run hết rét tức thì.
Còn Tiểu tiên mới đánh giả Tôn Hành Giả ba roi, coi lại không
phải bốn thầy trò, thiệt bốn gốc dương liễu. Liền vào thưa tự sự với thầy.
Trấn Nguơn đại tiên cười hả hả nói rằng:
- Tôn Hành Giả là một con khỉ yêu nghiệt. Ðã trốn thì thôi ta
cũng kiếm. Sao lại đem dương liễu hóa mình chịu thế, khi ta không biết hay sao.
Nói thiệt dung mi không đặng.
Nói rồi đằng vân ngó xuống. Thấy thầy trò đi lại hướng Tây.
Trấn Nguơn đại tiên kêu lớn nói rằng:
- Tôn Hành Giả chạy đi đâu cho khỏi? Phải bắt đền cây nhơn
sâm cho ta.
Bát Giới nghe kêu lớn, kinh hãi nói rằng:
- Chủ nợ đà theo đệ!
Tôn Hành Giả nói:
- Xin thầy gói hai chữ từ bi lại. Ðể anh em tôi cầu siêu độ
cho thầy ấy, thì đi đến Tây phương.
Tam Tạng run lập cập, chưa kịp trả lời.
Ba anh em đằng vân áp đánh.
Khi ấy Trấn Nguơn đại tiên đưa phất chủ ra đỡ. Rồi cũng giũ
tay áo, bắt như xưa. Ðem về bắt Tam Tạng ra biểu cột tại gốc hòe. Còn Bát Giới
Sa Tăng cột vào hai cây đại thọ. Có một mình Tôn Hành Giả thì trói dộng đầu tại
cây cau. Truyền đệ tử lấy mười in vải.
Tôn Hành Giả xem thấy cười rằng:
- Bát Giới! Ông đại tiên tử tế lắm. Ðem vải may áo cho bọn
mình, còn dư xé khăn lau miệng nữa.
Nói về Trấn Nguơn đại tiên truyền đệ tử lấy vải vấn cùng mình
bốn sãi. Chừa từ cổ sắp lên.
Tôn Hành Giả cười rằng:
- Tưởng là may áo, không dè đại liệm!
Khi ấy các tiểu tiên vấn rồi hết, Trấn Nguơn truyền đem sơn sống
sơn chín, tô ngoài vải dày mo. Rồi bảo đem chảo lớn nấu dầu cho sôi, quyết nấu
Tôn Hành Giả mà báo cừu cây nhơn sâm.
Tôn Hành Giả nghe nói mừng thầm rằng:
- Mình lâu tắm gội xót ngứa lắm. Sẳn dịp nấy tắm chơi luôn thể,
song nghĩ lại Ðại tiên phép nhiệm, không biết có bùa chú ếm chăng, dầu mình chẳng
hề gì, e thầy với hai em phải chết.
Nghĩ rồi ngó bốn phía, thấy con sư tử đá bên mái tây. Liền
lăn đến đó, cắn lưỡi chảy máu; phun thạch sư tử mà biểu rằng: "Biến biến".
Thiệt biến như hình Hành Giả, còn Tôn Hành Giả tàng hình ẩn trên mây.
Giây phút Tiểu tiên vào thưa rằng:
- Chảo dầu đã sôi rồi.
Trấn Nguơn đại tiên truyền quăng Tôn Hành Giả vào vạc dầu nấu
cho rục.
Bốn tiên đồng khiêng Tôn Hành Giả không nổi, phụ thêm bốn người
nữa, đỡ cũng không lên.
Lần lần tới mười hai người cũng không nổi, các tiên đồng nói
rằng:
- Con khỉ nhỏ mà nó nặng quá tay, miết xuống đất như sắt!
Nói rồi áp lại cộng hai mươi người, rán hết hơi khiêng mới nổi.
Quăng vào chảo nghe một cái cảng!
Dầu văng phỏng mặt các tiên đồng.
Người chụm lửa la lớn rằng:
- Lủng chảo rồi; chảy dầu lai láng.
Coi lại con thạch sư tử nằm trong chảo, không biết Tôn Hành
Giả biến đi đâu!
Khi ấy Trấn Nguơn đại tiên ra xem, thấy vậy nổi nóng nói rằng:
- Con khỉ khốn nạn nầy, thiệt là vô lễ dám diễu trước mặt ta,
đã trốn khỏi thì thôi, sao lại hại cho bể chảo; thôi thôi bỏ nó đi cho rảnh.
Thay chảo khác, nấu dầu Tam Tạng mà báo cừu cây nhơn sâm.
Nói về Tôn Hành Giả ở trên mây nghe nói như vậy, liền hiện xuống
trước mặt Trấn Nguơn đại tiên, bái mà nói rằng:
- Ðừng có nấu dấu thầy tôi, để tôi chịu thế.
Trấn Nguơn đại tiên mắng rằng:
- Mi là con khỉ yêu nghiệt, sao hại lủng chảo ta.
Tôn Hành Giả cười rằng:
- Nếu ông không nấu dầu tôi, thì sao đến nổi lủng chảo ngã lò
tắt bếp. Phải tại tôi hay sao? Thiệt tình tôi cũng muốn vào chảo mà tắm dầu. Ngặt
mắc đại tiện thốn tới, sợ làm bậy trong chảo, nữa sau ông nấu đồ ăn không ngon.
Nay xuất cung (đi đại tiện) đã sạch sẽ rồi, nên vào thế cho thầy, kẻo oan và tội
nghiệp.
Trấn Nguơn đại tiên nghe nói nổi giận cười gằn, liền bắt Tôn
Hành Giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét