Thứ Năm, 9 tháng 4, 2020

Hình thức và ý nghĩa của hình thức trong sáng tạo nghệ thuật

Hình thức và ý nghĩa của hình thức 
trong sáng tạo nghệ thuật
Mấy chục năm trở lại đây, đời sống văn học nghệ thuật nước ta đã có những chuyển động mới. Đã xuất hiện những tác phẩm có giá trị thực sự. Đã có những cách viết khác trước, những tìm tòi mạnh dạn về bút pháp, cách sử dụng ngôn ngữ, cách tường thuật. Bên cạnh sự thay đổi về thế giới quan, về cảm hứng, những đổi mới về cách thể hiện làm cho diện mạo của văn học, hội họa, sân khấu có những nét mới, đời sống văn nghệ vì thế cũng sinh động hơn, đỡ nhạt tẻ hơn. Tuy nhiên những thay đổi này có vẻ như còn lẻ tẻ, rời rạc và không mang tính đột phá. Tình trạng ấy có gốc rễ sâu xa trong cái ngoài nghệ thuật, trong tính chất nửa dơi nửa chuột của hoàn cảnh, trong não trạng ì ạch của xã hội nhưng đồng thời cũng bắt nguồn từ chính bản thân những người trong giới sáng tác. Sự ràng buộc của những quan niệm cũ, giáo điều về sáng tạo nghệ thuật, về nội dung và hình thức đã biến kiềm hãm thành tự kiềm hãm, không hài lòng thành tự hài lòng, dẫn đến triệt tiêu và tự triệt tiêu những cái mới lạ, những cái khác mình, những cái số đông không thừa nhận. Điều này bộc lộ khá rõ trong thái độ đối với những tìm tòi về hình thức nghệ thuật trong sáng tác.
Phải nói rằng ở nước ta từ 1945 đến nay chưa lúc nào vấn đề hình thức nghệ thuật được đặt ra một cách thích đáng. Xuân Thu Nhã Tập với những thể nghiệm mới của nó được nhắc đến chủ yếu vẫn như một ví dụ tiêu cực. Về cơ bản, tư duy nghệ thuật phổ biến hiện nay vẫn là tư duy nội dung. Nội dung quan trọng hơn hình thức, nội dung quyết định hình thức, nội dung và hình thức có quan hệ lẫn nhau, nội dung thay đổi, hình thức thay đổi theo. Những cách hiểu mối quan hệ giữa nội dung và hình thức theo một quan niệm duy vật biện chứng đơn giản như vậy không những không giúp nhận thức đầy đủ mối quan hệ phức tạp giữa nội dung và hình thức trong sáng tạo nghệ thuật mà còn dẫn đến việc hạ thấp ý nghĩa của hình thức nghệ thuật, từ đó hiểu sai bản chất của nghệ thuật nói chung.
Thật ra mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong nghệ thuật phức tạp hơn rất nhiều và bản thân khái niệm hình thức nghệ thuật cũng như ý nghĩa của nó cũng không hề đơn giản. Để hiểu vấn đề này không phải chỉ cần có sự nhạy cảm thẩm mỹ mà còn cần có cái nhìn bao quát mang tính triết học, trên cơ sở gắn nghệ thuật với sự sống, sự  phát triển toàn diện của con người.
Chúng ta vẫn thường nghe nói trong nghệ thuật hình thức và nội dung quan hệ với nhau rất chặt chẽ, nội dung có thể chuyển thành hình thức, quyết định hình thức, hình thức gắn với nội dung, “có tính nội dung”. Những quan niệm này không xuất hiện ngẫu nhiên mà có căn cứ triết học, mỹ học sâu xa, đặc biệt là trong tư tưởng của Hegel.
Quả thật, có lẽ Hegel là người đầu tiên xem xét cặp phạm trù Nội dung và Hình thức một cách hệ thống. Trong tác phẩm “Bách khoa thư các khoa học triết học. Khoa học logic I”, trong phần “Học thuyết về bản chất”, Hegel dành hẳn một mục bàn về Nội dung và Hình thức. Ông viết: “Nội dung không phải là không có hình thức, trái lại, nó không chỉ có hình thức ở bên trong nómà còn có hình thức như cái gì ở bên ngoài [ngoại tại] nó. Ta có ở đây sự hóa đôi của hình thức: một mặt như là sự phản tư - trong mình, nó là nội dung; mặt khác, như là không được phản tư - trong mình, nó là sự hiện hữu ngoại tại dửng dưng đối với nội dung” (1). Hình thức là nội dung, theo Hegel, có thể xảy ra trong nhiều trường hợp:  khi nó là “sự phản tư - trong mình” như vừa nói ở trên, là “quy luật của hiện tượng” (2) cũng như khi nó không phản tư - trong mình, dửng dưng với nội dung, nhưng “trong trường hợp đó, bản thân nó cũng là một nội dung nhưng là một nội dung không - bản chất, trực tiếp và dửng dưng với nội dung đúng thực” (3). Do tính chất của hình thức và nội dung như vậy nên có “sự chuyển hóa qua lại của cái này thành cái kia, khiến cho “nội dung” không gì khác hơn là sự achuyển hóa của hình thức thành nội dung, và “hình thức” không gì khác hơn làsự chuyển hóa của nội dung thành hình thức” (4). Hegel gọi sự chuyển hóa này là “mối quan hệ tuyệt đối” giữa nội dung và hình thức và là “một trong những sự quy định quan trọng nhất” (5).
Quan niệm về nội dung và hình thức này đã được Hegel triển khai cụ thể hơn trong “Những bài giảng về Mỹ học”, khi ông xem xét nghệ thuật như một giai đoạn trong sự vận động của ý niệm và do đó, cũng chính là một “hình thức của Tinh thần tuyệt đối” (6). Chúng ta đều biết, theo Hegel, nghệ thuật, tôn giáo và triết học là những hình thức tồn tại của Ý niệm, xuất hiện trong những bước khác nhau của ý niệm trên con đường đạt đến sự hoàn thiện, đạt đến bản chất của chính mình. Trong khuôn khổ của nghệ thuật, Ý niệm cũng có những hình thức riêng, đó là “hình thức tượng trưng”, “hình thức cổ điển” và “hình thức lãng mạn” (7).
Theo cách gọi của Hegel, đây là “các hình thức của nghệ thuật” hay “các hình thức chung”, “các hình thức phổ quát của nghệ thuật”(8). Các hình thức này khi được hiện thực hóa nhờ những chất liệu khác nhau, sẽ hình thành những “loại hình nghệ thuật” khác nhau như kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, thơ ca (9). Các nghệ thuật này có quan hệ chặt chẽ với Ý niệm tuyệt đối bởi vì chúng “là sự tồn tại hiện thực của các hình thức nghệ thuật” (10) mà hình thức nghệ thuật bản thân nó không phải gì khác mà chính là sự bộc lộ của Ý niệm.
Có thể nói trong các tác phẩm triết học và mỹ học của mình, Hegel sử dụng khái niệm hình thức chủ yếu trong nghĩa nói trên, tức là trong tương quan của nó với nội dung được hiểu như Ý niệm tuyệt đối chứ không phải hình thức như một nhân tố của tác phẩm nghệ thuật, như chất liệu và hệ thống các phương tiện tổ chức nội dung cần diễn đạt. Hegel đã giải thích mối quan hệ giữa hình thức và nội dung chủ yếu là trong tinh thần ấy. Chẳng hạn. Hegel viết: “Một nội dung xác định cũng quy định cả hình thức tương ứng với nó” (11). Nội dung không chỉ quy định hình thức mà còn có thể “chuyển vào hình thức”: “Để một chân lý nào đó - Hegel viết - có thể trở thành nội dung đích thực của nghệ thuật, điều cần thiết là trong bản thân nó phải chứa đựng khả năng chuyển vào hình thức cảm quan một cách thích hợp” (12) hay nói cách khác, “chỉ ở trong một phạm vi nhất định và đạt đến một trình độ nhất định thì chân lý mới có thể tìm được sự thể hiện dưới hình thức tác phẩm nghệ thuật” (13). Theo Hegel, nội dung và hình thức có quan hệ chặt chẽ với nhau: “Nội dung và hình thức nghệ thuật thâm nhập vào nhau” (14). Những khiếm khuyết của hình thức có thể xuất phát từ nội dung: “Tính chất không đáp ứng được của hình thức cũng bắt nguồn từ tính chất không đáp ứng được của nội dung” (15). Còn nếu nội dung và hình kết hợp với nhau một cách hài hòa thì đó là một trạng thái lý tưởng: “Ý niệm với tư cách là hiện thực, khi nhận được hình thức thích đáng với khái niệm của mình, chính là lý tưởng” (16). Sự thống nhất giữa hình thức và nội dung là yêu cầu bắt buộc của tác phẩm nghệ thuật: “Trong nghệ thuật, cũng như trong mọi lĩnh vực khác, chân lý và sự vững chắc của nội dung cốt yếu phải dựa trên một việc: nội dung này tự cho thấy là đồng nhất với hình thức” (17) và “một tác phẩm nghệ thuật thiếu hình thức thích đáng thì không thể được gọi là một tác phẩm nghệ thuật” (18).
Có thể nói trong tác phẩm triết học và mỹ học của mình, Hegel sử dụng khái niệm Hình thức chủ yếu trong tương quan với khái niệm Nội dung, nghĩa là không thể hiểu Nội dung ngoài quan hệ với Hình thức và ngược lại, không thể hiểu Hình thức ngoài quan hệ với Nội dung. Trong mối quan hệ này, Hình thức có hai phương thức tồn tại: thứ nhất, nó như sự xác định của Nội dung về phương diện lịch sử, tức là sự tồn tại của nội dung trong mỗi giai đoạn vận động của mình. Khi Hegel gọi Nghệ thuật, Tôn giáo, Triết học là những hình thức của Ý niệm hay Tượng trưng, Cổ điển và Lãng mạn là các hình thức chung của nghệ thuật là ông sử dụng khái niệm Hình thức theo nghĩa đó. Thứ hai, Hình thức như cái bên ngoài, cái hữu hình của nội dung, nhưng là cái bên ngoài không dửng dưng với nội dung mà là “sự phản tư - trong mình” có cùng bản chất với Nội dung và vì vậy cũng chính là Nội dung.
Bên cạnh đó, ta thấy Hegel còn nói đến Hình thức trong một nghĩa khác, đó là hình thức không phải như hiện thân của Nội dung mà là phương tiện diễn đạt của Nội dung. “Bản thân cái cảm tính trong tác phẩm nghệ thuật - ông viết - là cái thuộc phạm vi của tinh thần, nhưng khác với ý tưởng khoa học, cái tinh thần ở đây tồn tại về bề ngoài dưới hình thức một sự vật” (19). Tính chất “sự vật” của tác phẩm nghệ thuật có được là do nó gắn với “chất liệu”: “Cho dù tác phẩm nghệ thuật không thể nào thiếu được chất liệu cảm tính, thì chất liệu này cũng chỉ được phép tồn tại như là cái vỏ và cái ngoại hiện của cái cảm tính mà thôi (20).Chính trên cơ sở này, Hegel nhiều lần nói đến sự hoàn thiện về kỹ thuật như một yêu cầu của tác phẩm nghệ thuật. Ông viết: “Chỉ khi lớn tuổi các nhà thơ dân tộc của chúng ta (tức Goethe.W, Schiller.F - L.N.T chú thích) mới dâng tặng cho chúng ta những tác phẩm sâu sắc và hoàn thiện về hình thức (L.N.T nhấn mạnh), nảy sinh từ nguồn cảm hứng thực sự” (21), hoặc: “Do bản chất của mình là có tính chất liệu và tính cá nhân, tác phẩm nghệ thuật bị chi phối bởi nhiều yếu tố cụ thể hết sức đa dạng, trong đó quan trọng nhất là thời gian và địa điểm ra đời của tác phẩm và sau đó là cá tính xác định của mỗi nghệ sĩ và trình độ hoàn thiện về kỹ thuật của nghệ thuật” (22).
Như chúng ta thấy, rõ ràng ở đây, Hegel đã đề cập đến một phương diện khác của hình thức, đến “mặt ngoài của hình thức” (23) theo cách nói của ông, tức là hình thức trong ý nghĩa là sự diễn đạt của nội dung. Tuy nhiên, Hegel đã không chỉ ra cụ thể tính chất của hình thức này và quan hệ của nó với nội dung trong tác phẩm nghệ thuật ra sao. Điều này cũng là dễ hiểu, bởi vì Hegel không phải là nhà lý luận nghệ thuật, ông là nhà triết học, mối quan tâm chủ yếu của ông là những vấn đề về triết học. Nghệ thuật được ông xem xét chủ yếu cũng dưới góc độ triết học. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà ông gọi những bài giảng về mỹ học của mình là “Triết học Nghệ thuật” hay “Triết học của sáng tạo nghệ thuật”.
Nghĩa thứ hai này của khái niệm Hình thức cũng như toàn bộ vấn đề hình thức như là một phạm trù lý luận nghệ thuật chứ không phải phạm trù triết học được đặt ra và giải thích đầy đủ và chi tiết nhất lần đầu tiên trong các công trình của trường phái Hình thức Nga. Thật ra, nói cho công bằng, đồng thời và trước các nhà Hình thức Nga một chút, phải kể đến C. Bell (1881-1964). Nếu năm 1914 được đánh dấu như thời điểm khai sinh của trường phái Hình thức Nga với việc in thành sách bài phát biểu của V. Shklovxky “Phục sinh của từ” tại một quán cà phê ở Saint - Peterburg một năm trước đó, thì cũng vào năm 1914, C. Bell xuất bản ở London cuốn sách gây tranh cãi trong thời gian dài nhan đề “Nghệ thuật”.
Trong tác phẩm nói trên, nhất là trong hai phần “Giả thuyết thẩm mỹ” (The Aesthetic Hypothesis) và “Giả thuyết siêu hình” (The Metaphysical Hypothesis), C. Bell đặt ra câu hỏi: cái gì làm cho một tác phẩm này được xem là nghệ thuật, còn tác phẩm khác thì không và sau khi quan sát các hiện tượng nghệ thuật, trước hết là nghệ thuật tạo hình, ông đi đến khẳng định: “Chỉ có một câu trả lời duy nhất có thể - đó là hình thức có ý nghĩa” (24). Hình thức có ý nghĩa (Significant form) là gì? C.Bell không có một định nghĩa thật rõ ràng. Ông viết: “Khi tôi nói hình thức có ý nghĩa là tôi muốn nói đến một sự phối hợp của các đường nét và màu sắc (trắng và đen cũng là màu) gây cho tôi những rung động về mặt thẩm mỹ” (25) và một chỗ khác: “Với ‘hình thức có ý nghĩa’, tôi muốn nói đến những sự sắp đặt và phối hợp làm cho chúng ta rung động theo một kiểu đặc biệt” (26). Như vậy, theo C. Bell “hình thức có ý nghĩa” - chứ không phải hình thức nói chung - là cái phân biệt tác phẩm nghệ thuật với không nghệ thuật và ít nhất nó phải có hai tính chất: thứ nhất, nó là những đường nét, màu sắc và sự phối hợp của các đường nét, màu sắc đó, và thứ hai, nó phải gây ra được rung động đặc biệt mà C. Bell gọi là “rung động thẩm mỹ”. Rung động thẩm mỹ khác “rung động đời sống” bình thường ở chỗ nó đưa con người vào một thế giới khác, “trong thế giới đó những rung động đời sống không có chỗ. Đó là một thế giới chỉ có những rung động với chính nó mà thôi” (27). Những rung động này do hình thức của tác phẩm gợi ra chứ không phải do những cảnh tượng được miêu tả trong tác phẩm hay những tư tưởng mang đến và do vậy, “để thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật, chúng ta không cần thứ gì ngoài cảm nhận về hình và màu và những kiến thức về không gian ba chiều” (28).
Nhưng vì sao “hình thức có ý nghĩa” lại có khả năng mang lại cho chúng ta rung động thẩm mỹ? Do bản thân đường nét, màu sắc và sự phối hợp của nó có gì đặc biệt chăng? C. Bell giải thích: “Hình thức được sáng tạo sở dĩ làm chúng ta rung động sâu xa đến vậy là do nó thể hiện rung động của chính người sáng tạo ra nó” (29). Như vậy, cái mà C. Bell gọi là “ý nghĩa” của hình thức không phải ở chỗ hình thức mang một nghĩa (meaning) nào đó, chứa đựng một nội dung tư tưởng nào đó như thoạt đầu người ta có thể nghĩ, mà là ở giá trị của nó, ở chỗ nó có khả năng gây ra một cảm xúc thẩm mỹ nhờ tích tụ được một năng lượng tình cảm mà nghệ sỹ khi sáng tác đã trút ra ở đầu ngọn bút. Chính ở chỗ này, theo C. Bell “hình thức có ý nghĩa” khác “hình thức đẹp”. Cánh bướm có thể rất đẹp nhưng nó không gây cho chúng ta một cảm xúc giống như tác phẩm nghệ thuật. “Nó là hình thức đẹp (beautiful form) nhưng nó không phải là hình thức có ý nghĩa (significant form). Nó cũng làm chúng ta rung động nhưng không làm chúng ta rung động về mặt thẩm mỹ” (30).
Quan niệm của C. Bell về hình thức, đặc biệt là khái niệm “hình thức có ý nghĩa” do ông đưa ra nhận được nhiều phản ứng khác nhau, trong đó có cả những đánh giá nặng nề. “Khái niệm hình thức có ý nghĩa tự nó rất tiếc là không xác định. - Noel Carroll viết - Nói chính xác thì nó là gì? Nhà hình thức chủ nghĩa không chỉ cho chúng ta thấy cách nào có thể phân biệt đâu là hình thức có ý nghĩa và đâu là hình thức không có ý nghĩa… Cái gì làm cho sự sắp đặt các hình này thành có ý nghĩa còn cái khác thì không? Chúng ta không biết làm sao xác định cả. Như vậy, sự mù mờ nằm ngay trong tim của chủ nghĩa hình thức. Một lý thuyết như vậy là không hữu dụng vì thuật ngữ trung tâm của nó không rõ ràng” (31).
C. Bell không phải là nhà triết học cũng không phải là nhà lý luận nghệ thuật. Ông chủ yếu là nhà phê bình nghệ thuật và kinh nghiệm sáng tạo của ông về cơ bản dựa vào hội họa và điêu khắc. Tham vọng của ông muốn đi tìm một bản chất cốt lõi, một cái gì chung nhất cho các tác phẩm nghệ thuật với việc đưa ra khái niệm “hình thức có ý nghĩa” có thể chưa thành công, tuy nhiên cảm hứng về hình thức của ông góp phần tạo một cú hích quan trọng, thúc đẩy sự vận động của tư duy nghệ thuật, dẫn đến sự hình thành và phát triển của trào lưu chủ nghĩa hình thức nở rộ cả trong thực tiễn sáng tác lẫn trong phê bình - lý luận thế kỷ XX. Bản thân khái niệm “hình thức có ý nghĩa” của C. Bell cũng đã được tìm thấy trong công trình của M. Bakhtin và cho đến nay, C. Bell vẫn được đánh giá như “kiến trúc sư buổi đầu của mỹ học phân tích đương đại… Lý luận nghệ thuật mang tính chủ nghĩa hình thức của ông đã trở thành một trong những lý thuyết kinh điển của mỹ học triết học thế kỉ XX” (32).
Đồng thời với C. Bell ở Anh, các nhà hình thức Nga như V. Shklovsky, B. Eikhenbaum, B. Tomashevxky, Y. Tynyanov, R. Jakobson, V. Propp cũng khơi dậy một phong trào tập trung vào nghiên cứu hình thức, tạo nên một trường phái được mệnh danh trong lịch sử mỹ học và lý luận văn học là Chủ nghĩa hình thức Nga. Các nhà hình thức Nga không đi sâu vào lý luận có tính chất triết học về hình thức, vấn đề quan hệ giữa hình thức và nội dung mà chú ý trước hết đến các yếu tố cụ thể của hình thức tác phẩm, đặc biệt là ngôn ngữ. Nếu những khái quát của C. Bell chủ yếu căn cứ vào nghệ thuật tạo hình thì những kết luận của các nhà hình thức Nga xuất phát từ việc khảo sát tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Nhưng tham vọng của các nhà hình thức Nga lớn hơn C. Bell. Nếu C. Bell chỉ muốn tìm câu trả lời cái gì làm cho tác phẩm nghệ thuật khác các tác phẩm khác, thì các nhà hình thức Nga đi xa hơn, muốn tạo ra một “phương pháp hình thức” mà thực chất là muốn “sáng tạo nên một khoa học văn học tự trị xuất phát từ những phẩm chất độc đáo của chất liệu văn học” (B. Eikhenbaum) và từ đó xem xét lại cả cách nghiên cứu lịch sử văn học: lịch sử văn học không phải lịch sử của các nhà văn, các tác phẩm, các trào lưu với đời sống xã hội có quan hệ với chúng, mà là sự tiến hóa của các hình thức và “sự nghiên cứu phải đi từ chức năng kiến tạo đến chức năng văn học, từ chức năng văn học đến chức năng ngôn từ” (33).
Bên cạnh việc đi sâu khảo sát thi pháp của tác phẩm thơ và truyện, nêu bật vai trò của các “mẫu hình nhịp điệu”, “chủ âm” trong thơ, phân biệt cốt truyện (syuzhet) và cách kể (fabula) trong văn xuôi, các nhà hình thức Nga, giống như C. Bell cũng nêu vấn đề: cái gì làm cho tác phẩm được xem là nghệ thuật, cụ thể là cái gì biến lời nói thành thơ, cái gì có khả năng thống nhất tất cả các loại hình nghệ thuật. Và họ cũng như C. Bell tìm yếu tố này không phải trong nội dung mà trong hình thức của tác phẩm, trước hết là trong chất liệu, trong ngôn ngữ. Nếu đối với C. Bell, đó là “hình thức có ý nghĩa” thì đối với R. Jakobson, đó là “tính văn chương” còn với V. Shklovxky, đó là thủ pháp “lạ hóa”. R. Jakobson viết: “Thơ ca là ngôn ngữ trong chức năng thẩm mỹ của nó. Như vậy, đối tượng của khoa học về văn chương không phải là văn chương, mà là tính văn chương” (34), tức là “cái làm cho một tác phẩm này thành tác phẩm văn chương” (35). Ông giải thích thêm: “Đối tượng làm việc của nhà ngôn ngữ học khi phân tích văn bản thơ ca là “tính văn chương” hay nói cách khác, là quá trình biến lời nói thành tác phẩm thi ca và hệ thống các thủ pháp mà nhờ chúng, quá trình này được hoàn thành” (36). Trong quá trình ấy, R. Jakobson đặc biệt lưu ý đến khái niệm “chức năng thi ca”. Chức năng thi ca có mặt trong tất cả hoạt động ngôn ngữ của con người, nhưng có vai trò chủ đạo trong ngôn ngữ thơ. Theo ông, sở dĩ phải nghiên cứu kỹ chức năng thi ca và tính văn chương như những đặc điểm hình thức của thơ vì “hình thức thơ ca rõ ràng thuộc vào số các hiện tượng phổ quát của văn hóa nhân loại” (37).
Nếu đối với R. Jakobson cái quyết định “tính văn chương” là vị trí của “chức năng thi ca” trong văn bản thì đối với V. Shklovxky đó là cách sử dụng ngôn ngữ bình thường làm sao để sự vật vốn đã quen thuộc hiện ra một cách mới mẻ, lôi cuốn sự chú ý. V. Shklovxky gọi đó là thủ pháp “lạ hóa” (38). “Mục đích của nghệ thuật - ông viết -  là gợi lên một sự rung động về sự vật như khi nó được cảm nhận, chứ không phải như nó vốn được biết. Thủ pháp của nghệ thuật là làm cho đối tượng thành “lạ đi”, làm cho các hình thức khó hơn, làm tăng độ khó và độ dài của sự cảm nhận bởi vì quá trình cảm nhận là quá trình có mục đích thẩm mỹ tự thân và nó cần phải kéo dài ra. Nghệ thuật là cách thưởng thức sự khéo léo của tác phẩm, còn tác phẩm thì không quan trọng” (39).
Tuy không phải không quan tâm đến nội dung của tác phẩm văn học, đến ý nghĩa xã hội và đạo đức của văn học, nhưng các nhà hình thức chủ yếu vẫn tập trung vào hình thức, coi cái được thông báo vẫn là cái ở hàng thứ hai và quan niệm rằng nếu tác phẩm lôi kéo sự chú ý với mình là do chính hình thức của nó thì ở đây hình thức đã trở thành một phần của nội dung bởi vì hình thức là một phần của cái được thông báo. Việc coi trọng ý nghĩa của hình thức nghệ thuật, nhất là đi sâu nghiên cứu các thủ pháp, đặc điểm ngôn ngữ thơ ca là một đóng góp lớn của trường phái hình thức Nga. “Trong các công trình của các nhà hình thức - M. Bakhtin viết - bên cạnh những khẳng định hoàn toàn không có cơ sở, chủ yếu là những cái mang tính khái quát, chúng ta bắt gặp rất nhiều những quan sát có giá trị khoa học… Việc nghiên cứu mặt kỹ thuật của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ nói chung lần đầu tiên đã được bắt đầu trên mảnh đất của mỹ học chất liệu ở Tây Âu cũng như ở Nga” (40).
Tuy nhiên, ở đây chủ nghĩa hình thức Nga cũng vấp phải những trở ngại rất lớn. Cái mà M. Bakhtin gọi là “những khẳng định hoàn toàn không có cơ sở” chính là tham vọng của các nhà hình thức muốn biến “phương pháp hình thức” thành phương pháp luận chung, biến thi pháp học từ một thứ “mỹ học chuyên ngành”, “mỹ học chất liệu” (chữ dùng của M. Bakhtin) thành mỹ học triết học. “Mỹ học chất liệu” của các nhà hình thức Nga, theo M. Bakhtin, hoàn toàn không có liên hệ gì với mỹ học hình thức của Kant hay Herbart, chứ đừng nói gì đến mỹ học nội dung của Hegel hay Schelling, bởi vì nó thiếu một cơ sở triết học - mỹ học chung, không biết tự giới hạn mình chỉ trong mặt kỹ thuật của sáng tạo nghệ thuật mà muốn vươn lên trở thành một lý luận có tính chất khái quát. M. Bakhtin đã phân tích bốn sai lầm có tính chất nguyên tắc và những khó khăn không thể khắc phục được của mỹ học chất liệu, đó là, thứ nhất, nó không có khả năng luận giải khái niệm hình thức nghệ thuật; thứ hai, nó không có khả năng lý giải sự khác biệt căn bản giữa đối tượng thẩm mỹ và tác phẩm nghệ thuật, giữa các bộ phận và những liên hệ trong nội bộ đối tượng này với các bộ phận và những liên hệ có tính chất chất liệu bên trong tác phẩm; thứ ba, nó thường xuyên lẫn lộn hình thức kiến tạo với hình thức kết cấu (41) và cuối cùng, thứ tư, nó không giải thích được sự tồn tại của nhãn quan thẩm mỹ ở ngoài nghệ thuật (42).
Trong công trình “Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thức trong sáng tác nghệ thuật ngôn từ” được viết năm 1924, M. Bakhtin đã trình bày khá đầy đủ quan niệm của ông về hình thức nói chung cũng như những yếu tố tạo nên hình thức của tác phẩm nghệ thuật, trước hết là nghệ thuật ngôn từ.
Lập trường xuất phát của M. Bakhtin ở đây là: hình thức phải được giải thích trong quan hệ với nội dung, không tách rời nội dung. Chúng ta bắt gặp ở ông những cách diễn đạt mối quan hệ giữa hình thức và nội dung rất gần với Hegel. Chẳng hạn, ông viết: “Nhiệm vụ cơ bản của mỹ học là nghiên cứu đối tượng thẩm mỹ trong sự độc đáo của nó… và trước hết, cần hiểu đối tượng thẩm mỹ một cách tổng hợp trong toàn bộ của nó, hiểu hình thức và nội dung trong mối tương quan tất yếu và cơ bản của chúng:hình thức như là hình thức của nội dung và nội dung như là nội dung của hình thức, hiểu sự độc đáo và quy luật của mối quan hệ tương hỗ giữa chúng” (43) (L.N.T nhấn mạnh). M. Bakhtin thường xuyên nhắc lại điều này: “Hình thức nghệ thuật là hình thức của nội dung” (44), “Nội dung chính là nội dung của một hình thức này và hình thức chính là hình thức của nội dung này” (45) hoặc “Nội dung và hình thức thâm nhập vào lẫn nhau, không tách rời nhau” (46). Như vậy, theo M. Bakhtin, hình thức không phải là cái “có tính nội dung” như một số người vẫn nói, mà là chính nội dung, một nội dung được diễn đạt trong hình thức (47).
Từ quan niệm trên, M. Bakhtin tiếp tục đi sâu diễn giải khái niệm hình thức trong sáng tạo nghệ thuật. Theo ông, hình thức có hai mặt, nó vừa là chất liệu, gắn với chất liệu, vừa là cái vượt ra khỏi giới hạn của chất liệu. “Hình thức, ông viết, một mặt thực sự là có tính chất liệu, hoàn toàn tồn tại dựa trên chất liệu và kết chặt với nó, mặt khác, về phương diện giá trị lại đưa chúng ta vượt khỏi giới hạn của tác phẩm với tư cách là chất liệu được tổ chức, là một vật” (48). Điều này gợi cho chúng ta nhớ tới câu nói của Hegel đã dẫn ở trên: “Nội dung không phải là không có hình thức, trái lại, nó không chỉ có hình thức ở bên trong mà nó còn có hình thức như cái gì ở bên ngoài [ngoại tại] nó. Ta có ở đây sự hóa đôi của hình thức: một mặt… nó là nội dung, mặt khác… nó là sự hiện hữu ngoại tại, dửng dưng đối với nội dung”. Cái mặt ngoại tại, dửng dưng đối với nội dung này, đối với M. Bakhtin chính là chất liệu chưa được tổ chức thành hình thức, chưa trở thành “hình thức có ý nghĩa nghệ thuật” hay “hình thức có ý nghĩa thẩm mỹ” (49).
Đáng chú ý là ở đây thuật ngữ mà M. Bakhtin sử dụng hầu như trùng với thuật ngữ “Hình thức có ý nghĩa” của C. Bell. Không rõ M. Bakhtin có chịu ảnh hưởng của C. Bell không (bài viết của M. Bakhtin ra đời 10 năm sau khi cuốn “Art” của C. Bell xuất bản), nhưng trong cách giải thích khái niệm này của hai tác giả, chúng ta thấy có những điểm gặp nhau. Chẳng hạn, khi giải thích về hình thức có ý nghĩa, M. Bakhtin viết: “Hình thức có ý nghĩa nghệ thuật quả thực luôn có liên quan đến một điều gì đó, có định hướng giá trị đối với một cái gì đó thông qua chất liệu kết chặt với chất liệu và không tách rời nó” (50). Ở một chỗ khác, ông viết: “Trong hình thức tôi tìm thấy mình, tìm thấy tính tích cực sáng tạo hình thức mang định hướng giá trị đang sản sinh của mình, tôi cảm thấy một cách sinh động hoạt động tạo ra tác phẩm của mình, thêm nữa, đó không chỉ trong khâu sáng tạo đầu tiên, không chỉ trong chính sự sáng tác mà cả khi quan sát tác phẩm nghệ thuật: trong một mức độ nào đó tôi phải trải nghiệm mình như là người sáng tạo ra hình thức để nói chung là làm sao có thể có được hình thức có ý nghĩa nghệ thuật đúng như bản chất của nó” (51).
Nói cách khác, “hình thức có ý nghĩa nghệ thuật” là hình thức có khả năng tác động vào người ta, làm sống dậy ở người ta cảm giác của người sáng tạo, khơi dậy tình cảm của con người: “Tôi cần phải sống với hình thức giống như thái độ định hướng giá trị tích cực của tôi đối với nội dung để tôi có thể sống với nó về phương diện thẩm mỹ: trong hình thức và bằng hình thức tôi ca hát, kể chuyện, miêu tả, bằng hình thức tôi thể hiện tình yêu của mình, sự khẳng định và niềm yêu thích của mình” (52). Muốn làm được điều đó, tức là muốn trở thành “hình thức có ý nghĩa thẩm mỹ”, hình thức phải “chứa đầy một năng lượng tư tưởng tình cảm” (53).
Điều này làm chúng ta nhớ lại giải thích của C. Bell về “hình thức có ý nghĩa”: “Hình thức có ý nghĩa - ông viết - truyền cho chúng ta tình cảm mà người sáng tạo đã rung động, còn cái đẹp thì không truyền cái gì cả” (54). Chính vì vậy, “hình thức có ý nghĩ có sức mạnh gợi nên tình cảm thẩm mỹ ở bất cứ ai có khả năng rung động với nó” (55). Rõ ràng giữa C. Bell và M. Bakhtin có những điểm chung: đó là cùng sử dụng thuật ngữ “hình thức có ý nghĩa”, cùng khẳng định năng lượng cảm xúc tính tụ trong hình thức cũng như cùng nhấn mạnh vai trò của người sáng tạo trong quá trình rung động và truyền rung động vào ngọn bút. Tuy nhiên sự khác nhau ở đây cũng rất lớn.
Khác với khái niệm “hình thức có ý nghĩa” của C. Bell, M. Bakhtin luôn luôn sử dụng khái niệm “hình thức có ý nghĩa nghệ thuật” hay “hình thức có ý nghĩa thẩm mỹ” nhằm lưu ý rằng cái “ý nghĩa” mà hình thức có ở đây không phải là ý nghĩa triết học, xã hội hay đạo đức mà là ý nghĩa thẩm mỹ - nghệ thuật. Ý nghĩa thẩm mỹ này, và đây mới là sự khác nhau quan trọng, theo M. Bakhtin, không thể tồn tại ngoài quan hệ với nội dung: “Nằm ngoài quan hệ với nội dung - M. Bakhtin viết – tức là ngoài quan hệ với thế giới và những nhân tố của nó, thế giới với tư cách là đối tượng của nhận thức và của hành động luân lý, hình thức sẽ không thể có ý nghĩa thẩm mỹ, không thể thực hiện được những chức năng cơ bản của mình” (56). Quan niệm này hoàn toàn khác quan niệm của C. Bell: “Việc thưởng thức hình thức thuần khiết, C. Bell viết, đưa ta vào trạng thái hưng phấn một cách hết sức đặc biệt và hoàn toàn tách xa những quan tâm về cuộc sống” (57). Đặc biệt, nếu đối với C. Bell “hình thức có ý nghĩa” là khái niệm trung tâm, là cái phân biệt nghệ thuật với không nghệ thuật thì với M. Bakhtin, khái niệm này không có vị trí và tầm quan trọng như vậy. Việc ông phê phán “Mỹ học chất liệu” coi hình thức là nền tảng mà chúng tôi đã phân tích ở trên, nói lên điều đó.
Đối với M. Bakhtin, hình thức nghệ thuật (cũng tức là “hình thức có ý nghĩa nghệ thuật”) có vị trí rất lớn. Tuy nhiên, Ông cho rằng  không được coi nó là tất cả và nhất là không được đánh đồng nó với chất liệu. Chính trên cơ sở sự phân biệt này, M. Bakhtin đã phát triển một tư tưởng rất có giá trị về hình thức trong sáng tạo nghệ thuật. Đóng góp của M. Bakhtin không phải là ở chỗ ông yêu cầu định nghĩa hình thức trong quan hệ với nội dung, nhấn mạnh sự gắn kết chặt chẽ giữa nội dung và hình thức, sự thâm nhập, chuyển hóa vào nhau của chúng. Điều này Hegel đã làm. Cái mới ở đây là cách giải thích cụ thể của ông về hình thức trong tác phẩm nghệ thuật.
Tương tự với quan niệm của Hegel về “sự hóa đôi của hình thức”: hình thức vừa là cái ở bên trong nội dung, vừa là cái ở bên ngoài nội dung, vừa là chính nội dung, vừa là sự hiện hữu ngoại tại, dửng dưng với nội dung, M. Bakhtin cho rằng hình thức trong nghệ thuật có hai mặt. Ông viết: “Hình thức nghệ thuật là hình thức của nội dung nhưng là một hình thức hoàn toàn tồn tại dựa trên một chất liệu, dường như dính chặt với chất liệu. Bởi vậy hình thức cần được hiểu và nghiên cứu trên hai hướng: 

1) Từ bên trong của đối tượng thẩm mỹ thuần túy (58), như là hình thức kiến tạo, tức là hình thức có định hướng giá trị, hướng tới nội dung, gắn với nội dung và 
2) từ bên trong của toàn bộ tác phẩm được kết cấu bằng chất liệu: đó là nghiên cứu kỹ thuật của hình thức” (59).
Theo M. Bakhtin, cần phân biệt đối tượng thẩm mỹ với tác phẩm nghệ thuật, hình thức với chất liệu và hình thhức kiến tạo với hình thức kết cấu. Ông cho rằng thiếu sót lớn nhất của “Mỹ học chất liệu” và các nhà hình thức là họ đã nhầm lẫn các khái niệm này, từ đó dẫn đến những sai lầm mang tính chất phương pháp luận và gặp những khó khăn không giải quyết được.
Đối tượng thẩm mỹ là gì? M. Bakhtin giải thích: đó là “nội dung của hoạt động thẩm mỹ (của quan sát) định hướng vào tác phẩm”, nó “khác với bản thân tác phẩm bên ngoài là cái cho phép cả những cách tiếp cận khác mà trước hết là sự tri nhận, tức là sự tiếp nhận cảm tính (bên ngoài) được sắp đặt bởi các khái niệm” (60). Nhưng nội dung này không phải là cái gì hoàn toàn trừu tượng: “Đối tượng thẩm mỹ là nội dung đã có một hình thức” (61). Ông nói rõ hơn: “Đối tượng thẩm mỹ như nội dung của nhãn quan  nghệ thuật và sự kiến tạo của nội dung đó… là một thực tồn hoàn toàn mới, không mang tính chất khoa học tự nhiên và cũng không mang tính chất tâm lý học và dĩ nhiên cũng không phải ngôn ngữ học: đó là một tồn tại thẩm mỹ độc đáo, hình thành trong khuôn khổ của tác phẩm nhờ con đường khắc phục tính xác định ngoài thẩm mỹ, tức tính chất chất liệu - sự vật của nó (62).
Nói một cách dễ hiểu, theo quan niệm của M. Bakhtin, đối tượng thẩm mỹ khác tác phẩm nghệ thuật. Đối tượng thẩm mỹ là nội dung của cái nhìn nghệ thuật, là cách cảm nhận cuộc sống. Nội dung này có hình thức của mình. M. Bakhtin gọi hình thức ấy làhình thức kiến tạo. Đối tượng thẩm mỹ không phải là cái gì trừu tượng, không định hình mà đã xác định nhờ nội dung của cái nhìn nghệ thuật đã có một hình thức là hình thức kiến tạo. Đối tượng thẩm mỹ này khi được cụ thể hơn trong một chất liệu thì lúc đó chúng ta sẽ có tác phẩm nghệ thuật. Cách tổ chức các chất liệu thành tác phẩm M. Bakhtin gọi là kết cấu. Hình thức kết cấu là hình thức “cấp 2”, khác hình thức kiến tạo là hình thức “cấp 1”. Các hình thức kết cấu là hình thức tổ chức chất liệu, chúng mang tính chất mục đích luận, tính chất “phục vụ” cho một nhiệm vụ nào đó và thường được đánh giá dưới góc độ thủ pháp, kỹ thuật, khác các hình thức kết cấu là những hình thức của tồn tại thẩm mỹ trong sự độc đáo của nó, “những hình thức của giá trị tâm hồn và thể xác của con người thẩm mỹ, những hình thức của thiên nhiên như môi trường sống của con người, những hình thức của sự kiện trong phương diện đời sống cá nhân, xã hội và lịch sử của nó” (63). Các hình thức kiến tạo này không “phục vụ” cái gì cả, người ta không sáng tạo ra nó cũng như không thể sáng tạo ra sự kiện. Hình thức kiến tạo quy định sự lựa chọn của hình thức kết cấu. Ví dụ, bi kịch là hình thức kiến tạo, nó lựa chọn cho mình hình thức kết cấu tương tự là kịch, hay trữ tình là hình thức kiến tạo thì chọn các bài thơ trữ tình là hình thức kết cấu. Theo sự phân loại này, châm biếm, anh hùng hóa, điển hình, tính cách là những hình thức kiến tạo thuần túy, trường ca, truyện dài, truyện ngắn là những hình thức thể loại thuộc hình thức kết cấu. Chương, khổ thơ hay dòng thơ là những đơn vị mang tính chất kết cấu thuần túy. Riêng tiết tấu, theo M. Bakhtin, có thể thuộc loại này hay loại kia: nếu chúng ta hiểu tiết tấu như cái gì bên trong thuộc tình cảm thì nó là hình thức kiến tạo, nếu hiểu nó như cách sắp xếp các chất liệu âm thanh có thể cảm nhận, tri nhận trực tiếp bằng tai thì nó thuộc hình thức kết cấu.
M. Bakhtin cho rằng một trong những sai lầm cơ bản của Mỹ học chất liệu là nó không phân biệt được sự khác nhau giữa hình thức kiến tạo và hình thức kết cấu, thường “hòa tan các hình thức kiến tạo vào các hình thức kết cấu” và “biểu hiện cực đoan của khuynh hướng này là phương pháp hình thức Nga, ở đó các hình thức kết cấu và thể loại có tham vọng ôm trọn toàn bộ đối tượng thẩm mỹ” (64). Điều tệ nhất của mỹ học chất liệu, theo ông, là “kết cấu của tác phẩm trực tiếp được coi là chính giá trị nghệ thuật, là bản thân đối tượng thẩm mỹ” (65).
Nói tóm lại, đối với M. Bakhtin, chất liệu không phải là hình thức. Hình thức chỉ trở thành hình thức khi nó có quan hệ với nội dung, là hình thức của nội dung. Chất liệu muốn trở thành hình thức phải được tổ chức lại trong một kết cấu. Những hình thức kết cấu này được quy định bởi những hình thức kiến tạo là hình thức tồn tại của bản thân nội dung cái nhìn nghệ thuật hay nhãn quan thẩm mỹ. Nhờ có hình thức kiến tạo này, nội dung của cái nhìn nghệ thuật trở thành đối tượng thẩm mỹ là một tồn tại độc lập hoàn toàn, không dính gì đến chất liệu. Chỉ khi được hiện thực hóa nhờ các chất liệu, đối tượng thẩm mỹ mới trở thành tác phẩm nghệ thuật.
M. Bakhtin chủ yếu không phải là nhà lý luận văn học hay nghiên cứu văn học. Đúng hơn, ông là nhà tư tưởng, nhà triết học. M. Bakhtin không đi sâu vào tất cả các khía cạnh phức tạp và chi tiết về hình thức của tác phẩm nghệ thuật, nhưng những quan niệm mang tính chất phương pháp luận cũng như việc phân tích một số khái niệm của ông trên đây là những chỉ dẫn sâu sắc và có ý nghĩa rất lớn trong việc nghiên cứu hình thức nghệ thuật.
Từ việc phân tích những quan niệm khác nhau về hình thức trên đây, chúng ta thấy hình thức trong sáng tạo nghệ thuật là một khái niệm rất phức tạp. Rốt cuộc thì hình thức nghệ thuật là gì, yếu tố nào là hình thức và bản chất của nó nằm ở đâu. Đó là những vấn đề vẫn đang tiếp tục được thảo luận. Có ý kiến cho rằng, trước hết, nên phân biệt hình thức của tác phẩm với hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Hình thức nghệ thuật là cái bên trong gắn với nội dung còn hình thức của tác phẩm có thể bao gồm cả hình thức nghệ thuật và hình thức vật chất của tác phẩm như bìa, giấy, chữ in đối với văn học, khung vải, giấy đối với hội họa… Vấn đề hình thức vật chất bên ngoài có liên quan đến hình thức tồn tại của tác phẩm (66). Nhưng bản thân hình thức nghệ thuật như là “cái bên trong” so với cái có tính vật chất bên ngoài đến lượt mình cũng lại có hai mặt: hình thức bên trong và hình thức bên ngoài. Đối với M. Bakhtin, có vẻ như “hình thức kiến tạo” là hình thức bên trong và “hình thức kết cấu” là hình thức bên ngoài. Khái niệm “hình thức bên trong” theo R. Wellek & A.Warren, bắt nguồn từ Plotinus và Shastesbury, về sau thường được sử dụng rộng rãi trong mỹ học Đức, tuy nhiên việc đưa ra khái niệm này chỉ làm phức tạp thêm vấn đề, bởi vì “ranh giới giữa hình thức bên trong và bên ngoài vẫn còn hoàn toàn không rõ” (67).
Để khắc phục sự đối lập giữa nội dung và hình thức như giữa cái trừu tượng và cái cụ thể, từ đó dẫn đến việc giải thích không đúng bản chất của tác phẩm văn học, các nhà cấu trúc đề nghị thay khái niệm hình thức bằng khái niệm “cấu trúc”và theo họ, ở đây chứa đựng “toàn bộ sự khác biệt giữa chủ nghĩa hình thức với chủ nghĩa cấu trúc” (68). Sự khác biệt ấy nằm ở chỗ nào? Trong bài viết “Cấu trúc và hình thức (Suy nghĩ về một công trình của Vlardimir Propp)”, Lévi - Strauss giải thích: “Hình thứcđược xác định để đối lập với một chất liệu xa lạ với nó; còn cấu trúc thì không có nội dung khác biệt, nó chính là một nội dung có thể nắm bắt được trong một tổ chức logic, được quan tâm như là một đặc điểm của hiện thực”, “Hình thức và nội dung đều cùng bản chất, có thể làm sáng tỏ được bằng một phương pháp nghiên cứu như nhau. Nội dung rút thực tiễn từ kết cấu của nó, và điều mà người ta gọi là hình thức là “sự sắp đặt thành cấu trúc” những kết cấu cục bộ mà nội dung dựa vào” (69). Theo Lévi - Strauss, “Đối với chủ nghĩa hình thức, hai lĩnh vực đó tuyệt đối tách rời nhau, bởi chỉ có hình thức là rõ ràng, còn nội dung chỉ là cặn bã không có ý nghĩa. Đối với chủ nghĩa cấu trúc không có sự đối lập ấy: không có một bên là cái trừu tượng, còn bên kia là cái cụ thể” (70).
Cùng phê phán chủ nghĩa hình thức và cùng sử dụng khái niệm cấu trúc, nhưng R. Ingarden có một cách giải thích khác về tác phẩm văn học, xuất phát từ lập trường mang tính chất Hiện tượng học (Phenomenology). Ở đây “Tác phẩm văn học được hiểu như một sản phẩm của những hoạt động sáng tạo chủ quan của tác giả, hoàn toàn mang tính cố ý thuần túy. Nhân tố ngôn ngữ, xét về mặt kiến tạo, giữ vai trò căn bản trong tác phẩm, nhưng xét về phương diện thẩm mỹ, chỉ có vai trò phụ” (71). R. Ingarden không phân tích tác phẩm dựa trên việc sử dụng khái niệm Nội dung và Hình thức mà theo “Quan niệm hai chiều và nhiều lớp” (72). Trong chiều thứ nhất, theo ông tác phẩm có ít nhất bốn lớp: 
1) lớp âm thanh của từ và những kết hợp ngôn ngữ ở một trật tự cao, 
2) lớp của những kết hợp có nghĩa xác định (nghĩa của các từ và ý nghĩa của các câu), 
3) lớp của những đối tượng được miêu tả (con người, sự vật, sự kiện) và 
4) lớp của những hình dạng mang tính chất sơ đồ (73). 

Còn chiều thứ hai là chiều nào? R.Ingarden giải thích: “Cấu trúc và những đặc tính của các lớp nói trên tạo ra mối liên hệ hữu cơ của chúng. Còn các yếu tố của các lớp này (đặc biệt là những kết hợp ngôn ngữ) thì tạo ra trong tác phẩm một chiều khác: đó là sự tuần tự của các phần và các đoạn… Như vậy, tác phẩm đồng thời vừa là nhiều lớp, vừa là nhiều đoạn” (74). Theo R. Ingarden, quan niệm của ông cho phép “giải thích được bản chất của tất cả các yếu tố của tác phẩm văn học và chỉ ra được cấu trúc độc đáo cũng như phương thức tồn tại đặc thù của tác phẩm văn học và đồng thời với nó là mối liên hệ của tác phẩm với tác giả, với người đọc và cuối cùng là thái độ của nó với thế giới hiện thực” (75)
Quan niệm về hình thức nghệ thuật của R. Ingarden, M. Bakhtin và Lévi - Strauss dù dựa trên những lập trường phương pháp luận khác nhau căn bản, vẫn có điểm chung - đó là thừa nhận vai trò của hình thức và quan hệ của hình thức với nội dung theo truyền thống Hegel, bác bỏ quan niệm chủ nghĩa hình thức theo cương lĩnh của C. Bell hay các nhà hình thức Nga. Có người gọi đó là quan điểm “Tân hình thức” (Neoformalism) (76). Quan điểm này, như chúng ta thấy, có rất nhiều điểm hợp lý. Tuy nhiên, theo Noel Carroll, quan điểm này vẫn chưa đem lại một cách lý giải căn bản về bản chất của hình thức nghệ thuật, bởi vì “cái mà chúng ta gọi là hình thức nghệ thuật của tác phẩm phụ thuộc vào quan niệm của chúng ta về nội dung của tác phẩm. Nhưng khái niệm nội dung, như nó vẫn được hiểu, lại hết sức lờ mờ” (77), thậm chí trong nhiều trường hợp “không phải tất cả các tác phẩm nghệ thuật đều có nội dung” (78).
Một khó khăn nữa là, dù vấn đề nội dung quy định hình thức, có ảnh hưởng đến hình thức được công nhận rộng rãi, nhưng cụ thể mối quan hệ đó là như thế nào, nội dung đã tác động đến hình thức bằng cách nào - đó là những câu hỏi không dễ trả lời. Ở đây có hàng loạt vấn đề đặt ra. Chẳng hạn, như chúng ta biết, khi Hgel dùng chữ Hình thức, ông ám chỉ hai nghĩa: Hình thức của sự phát triển và Hình thức của sự thể hiện. Trong trường hợp hình thức là phương thức tồn tại của nội dung (đối với Hegel, đó là Ý niệm tuyệt đối) trong quá trình phát triển của nó thì quy luật “nội dung chuyển thành hình thức” là hoàn toàn dễ hiểu, bởi vì hình thức (chẳng hạn chủ nghĩa cổ điển) không phải là gì khác mà chính là ý niệm tìm được hình thức tồn tại của mình trong giai đoạn vận động ấy. Nhưng nếu đó là hình thức như là cái bên ngoài, thể hiện cái bên trong thì trong trường hợp đó, cái bên trong chuyển thành cái bên ngoài như thế nào, quyết định cái bên ngoài như thế nào, Hegel không chỉ ra rõ. Trong công trình  dẫn ra ở trên, M. Bakhtin đã nhận thấy điều đó và đặt vấn đề: “Bằng cách nào mà hình thức vốn hoàn toàn được thực hiện dựa trên chất liệu, lại trở thành hình thức của nội dung, gắn với nội dung về mặt giá trị, hay nói cách khác, bằng cách nào hình thức kết cấu, tức việc tổ chức chất liệu thực hiện được hình thúc kiến tạo, tức là thực hiện được sự thống nhất và tổ chức các giá trị nhận thức và đạo đức” hay “Bằng cách nào mà hình thức với tư cách là sự thể hiện bằng ngôn từ thái độ chủ quan chủ động đối với nội dung lại có thể trở thành hình thức sáng tạo và hoàn kết nội dung?” (79).
M. Bakhtin giải thích như sau: “Tác giả - người sáng tạo là yếu tố tạo thành của hình thức nghệ thuật” và chính “Tính chủ động tạo sinh của tác giả – người sáng tạo và người tiếp nhận nắm lấy tất cả các phương diện của ngôn từ: nhờ chúng anh ta có thể tạo ra một hình thức có khả năng hoàn kết, hướng vào nội dung” (80). Ông phân biệt năm yếu tố của ngôn từ như là chất liệu của tác phẩm văn học (81) và trình bày quá trình bản ngã sáng tạo của nghệ sĩ và người tiếp nhận đi vào chất liệu, chuyển vào ngôn từ, trong đó, theo ông yếu tố thứ năm tức cảm giác về tính chủ động ngôn từ, cảm giác về sự tạo ra một cách chủ động âm thanh mang nghĩa là yếu tố điều khiển, là tiêu điểm của các năng lượng tạo sinh, trong nó phản ánh cả bốn yếu tố kia.
Cách giải thích của M. Bakhtin mang đậm “phong cách M. Bakhtin”, mang tính triết học nhiều hơn nghiên cứu văn học. Tuy nhiên đó là một trong những nỗ lực hiếm hoi tìm kiếm cái cách mà “nội dung chuyển thành hình thức”, hình thức bên trong chuyển thành hình thức bên ngoài, bởi vì thực ra vấn đề nội dung và hình thức đã được đặt ra từ rất lâu (82) và tính có trước của nội dung trong quan hệ với hình thức cũng đã được nói đến trong mỹ học phương Đông từ rất sớm, nhưng bản thân cơ chế của việc chuyển từ nội dung thành hình thức, từ ý ra lời ít khi được làm sáng tỏ đầy đủ. Chẳng hạn, trong tư tưởng thẩm mỹ cổ Trung Hoa chúng ta thường bắt gặp quan niệm: “Đạo là gốc của Văn”, có Đạo rồi mới có Văn hay “Ở trong lòng là chí, nói ralời là thơ”.
Nhưng từ Đạo ra văn là một quá trình vô cùng phức tạp, từ “chí” ra thơ cũng trải qua nhiều chặng, nhiều kiểu khác nhau. Chí có thể tồn tại ở nhiều dạng chứ không phải chỉ ở thơ. Vậy thì chí khi nào thì đi vào thơ và làm thế nào để thành thơ. Chính Lưu Hiệp cũng đã nhìn thấy điều đó khi ông viết: “Tình cảm khác nhau, văn cũng phải biến đổi theo những thuật khác nhau, không thể không căn cứ vào tình cảm mà lập ra cái thể của nó” (Văn Tâm Điêu Long) (83). Nhưng đây cũng vẫn là những ý tưởng chung chung, giống như khi Hegel viết: “Để cho một nội dung có thể trở thành đối tượng của miêu tả nghệ thuật, tự bản thân nó cũng phải có khả năng trở thành đối tượng của sự miêu tả này” (84). Nói như vậy để thấy những phân tích trên đây của M. Bakhtin cũng như quan niệm của ông về sự hình thành và đặc điểm của tiểu thuyết như một thể loại được trình bày trong các công trình nổi tiếng như “Những vấn đề của thi pháp Dostoievxky” có ý nghĩa rất lớn về phương pháp luận cũng như về thi pháp học trong việc nghiên cứu hình thức của tác phẩm nghệ thuật nói chung và tác phẩm văn học nói riêng.
Nghiên cứu hình thức nghệ thuật bằng cách đặt nó trong quan hệ với nội dung, như chúng ta thấy, rõ ràng là một cách tiếp cận đúng, cho phép nhận ra những đặc tính rất căn bản của hình thức cũng như những nét thuộc bản chất của nghệ thuật. Tuy nhiên, để hiểu đầy đủ tính chất, vai trò và đặc biệt là ý nghĩa của hình thức trong sáng tạo nghệ thuật, từ đó hiểu ý nghĩa của nghệ thuật đối với đời sống con người, việc tuyệt đối hóa quan hệ nội dung - hình thức và nhất là tuyệt đối hóa sự phụ thuộc của hình thức vào nội dung sẽ dẫn đến những ngộ nhận, sai lầm không phải chỉ ở phương diện lý thuyết mà cả trong thực tiễn sáng tác nghệ thuật.
Chúng ta đều biết khi nói đến ý nghĩa của hình thức nghệ thuật, điều đầu tiên thường được nhắc đến đó là hình thức phụ giúp nội dung. Phụ giúp như thế nào? Từ xưa, Khổng Tử đã nói: “Ngôn chi vô văn, hành nhi bất viễn” (Lời không văn vẻ, không đi được xa). Trong Văn Tâm Điêu Long, Lưu Hiệp cũng viết: “Sách và lời của thánh nhân đều gọi là văn chương, không văn vẻ sao được? Nước tinh lỏng thì kết thành gợn sóng. Cây tinh chắc thì nở được hoa, đó là văn phụ thuộc vào chất. Hổ báo mà không có vằn thì da vàng như của chó dê, con tê con chủy có da cứng, nhưng màu da nó phải sơn đỏ, đó là chất nhờ văn vậy” (85). Ở đây vai trò của hình thức là làm nổi bật, làm đẹp nội dung. Quan niệm này ngày nay đã trở thành phổ biến: “Cái đẹp hoàn hảo của hình thức… - V. Soloviev viết - gia tăng tác động của tinh thần được thể hiện trong nó” (86).
Nhưng bên cạnh vai trò tô điểm ấy, thực ra hình thức có một chức năng căn bản hơn nhiều, đó là đem lại cho nội dung vốn là cái mang tính tinh thần một sự tồn tại hiện thực - vật chất. M. Bakhtin giải thích điều này như sau: “Đối tượng thẩm mỹ chỉ thực tồn thông qua việc tạo ra một tác phẩm sử dụng chất liệu cụ thể (nhãn quan thẩm mỹ tồn tại bên ngoài nghệ thuật mang tính lai tạp cũng chính vì ở đây không có được sự tổ chức chất liệu một cách hoàn hảo ở một mức độ nào đó, ví dụ như khi nhìn ngắm thiên nhiên); trước khi tác phẩm này được tạo ra và độc lập tách rời với sự sáng tạo này, đối tượng thẩm mỹ không tồn tại, nó thực tồn lần đầu tiên là cùng với tác phẩm” (87). Ông còn nói rõ hơn ở một chỗ khác. Trong cuốn “Những vấn đề của thi pháp Dostoievxky”, ông viết: “Không hiểu hình thức mới của cái nhìn thì không thể hiểu đúng được những gì mà lần đầu tiên được nhận ra và được phát hiện trong cuộc sống nhờ hình thức ấy. Hình thức nghệ thuật nếu được hiểu đúng thì nó không tạo hình thức cho một nội dung đã có sẵn và được tìm thấy, mà là cái hình thức cho phép lần đầu tiên tìm thấy và nhận ra nội dung” (88).
Những ý kiến trên đây của M. Bakhtin là những chỉ dẫn sâu sắc và cực kỳ quan trọng. Nó không phải chỉ lý giải đúng bản chất của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức mà còn nâng vị trí của hình thức nghệ thuật lên một tầm cao khác, ở đó hình thức không phải có vai trò phụ thuộc mà là đồng đẳng với nội dung, sinh ra cùng một lúc với nội dung, dính liền với nội dung, không tách rời. Thậm chí nếu không có hình thức, không được diễn đạt ra bằng từ ngữ, bằng màu sắc, đường nét, âm thanh, nội dung tự bản thân nó cũng là chưa hoàn chỉnh, chưa được định hình, chưa hoàn kết. Chất liệu và cùng với nó là các thủ pháp, kỹ thuật tổ chức chất liệu không chỉ mang lại cho nội dung một hình thức bên ngoài mà còn làm cho nó trở nên đầy đủ, hoàn chỉnh. “Tư tưởng không thể hiện trong ngôn từ mà được hoàn thành trong ngôn từ” (L. Vuigodsky) (89). Không hiểu điều này sẽ không hiểu bản chất của sáng tạo nghệ thuật, không hiểu sứ mạng và khó khăn của việc tìm tòi hình thức trong sáng tác nghệ thuật.
Khó khăn nằm ở chỗ, trước hết, nghệ sĩ phải tìm cho được một hình thức mà ở đó nội dung cảm thấy nó hiện ra đầy đủ, trọn vẹn, đã “hoàn thành”. Nhưng đây là công việc không dễ, bởi vì nội dung mà nghệ sĩ muốn diễn đạt là một nội dung đặc biệt, khác các thông báo thông thường. Trong những văn bản - không nghệ thuật (văn bản hành chính, khoa học) nội dung thông báo thường mang tính chất đơn nghĩa, đã được xác định rõ ràng, đã hoàn kết, việc mã hóa thành hình thức chỉ cần đơn giản, cốt làm sao người tiếp nhận nắm được cái nghĩa cơ bản, hiểu vấn đề là được. Còn nội dung nghệ thuật thì khác, nó là thế giới tinh thần của con người, là những băn khoăn về chân lý, day dứt về thiện ác, là tình yêu cái đẹp, ước mơ hạnh phúc, khao khát tự do, hy vọng và tuyệt vọng. Nội dung nghệ thuật cũng không phải là những tư tưởng có sẵn, những tình cảm chung chung mà là những ý tưởng dang dở, những rung động không thể gọi tên, những cảm giác, ấn tượng mờ ảo. “Cảm giác và tình cảm là những thứ cá biệt còn tư tưởng là những cái chung chung” (T.S. Eliot) (90). Những ý nghĩa và tình cảm ấy như sự sống, lúc nào cũng sinh sôi, biến đổi, đa dạng, riêng tư, không kết thúc. Đem lại cho cái sinh thể riêng tư, đa dạng, luôn luôn biến động ấy một hình hài thích hợp là điều vô cùng khó khăn. Không phải ngẫu nhiên mà từ xưa Khổng Tử đã nói: “Chất thắng văn tất dã, văn thắng chất tử, văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử” (chất nhiều hơn văn thì không tránh khỏi thô thiển, văn nhiều hơn chất thì không tránh khỏi hư rỗng. Văn và chất phối hợp thích đáng thì đó mới là người quân tử vậy)” (Luận Ngữ) (91). Yêu cầu về tính thích đáng này cũng là điều mà Hegel coi là cái thuộc bản chất không thể thiếu của một tác phẩm nghệ thuật: “Một tác phẩm nghệ thuật thiếuhình thức thích đáng thì không thể được gọi là một tác phẩm nghệ thuật chính là vì lý do đó: nó không phải là một nghệ phẩm đích thực” (92).
Nhưng thế nào là “hình thức thích đáng”? Nghệ thuật đã chọn cho nội dung đặc biệt của mình một hình thức thích đáng đó là hình tượng. Các hình tượng nghệ thuật với tính chất đa nghĩa, nửa hư nửa thực là hình thức thích đáng nhất với tính chất đặc biệt của nội dung nghệ thuật. Nhưng điều đó vẫn còn quá chung chung. Hình thức phải “thích đáng” với cái gì và “thích đáng” như thế nào? Thích đáng theo kiểu “cấu trúc” phải phù hợp với “chất liệu” như các nhà cấu trúc luận chủ trương hay theo kiểu ý cao cả thì lời văn phải hùng tráng như quan niệm của mỹ học truyền thống phương Đông hay thích đáng theo cách mà các nghệ sĩ thường nói là làm sao tìm được cách diễn tả đạt nhất, thích hợp nhất điều mình muốn viết. Chẳng hạn, L. Tolstoi khi kể về công việc sáng tác của mình, đã nói: “Anh không thể hình dung là tôi khó khăn như thế nào khi bắt đầu những bước đầu tiên của công việc cày sâu trên cánh đồng mà tôi buộc phải gieo hạt. Phải nghĩ cặn kẽ và nghĩ đi nghĩ lại tất cả những gì có thể xảy ra với tất cả các nhân vật tương lai của tác phẩm sắp tới, một tác phẩm rất lớn, và nghĩ thật kỹ hàng triệu những kết hợp có thể để lựa ra trong đó 1/1000000, thật khó khủng khiếp” (93).
Cảm giác về sự khó khăn của việc tìm cho được hình thức diễn tả thích đáng điều mình muốn nói là cảm giác chung của tất cả những người cầm bút, là ám ảnh của mọi nghệ sĩ. Từ lâu, trong Văn Tâm Điêu Long, Lưu Hiệp đã nhận thấy điều đó: “Khi trí tưởng tượng bắt đầu hoạt động, hàng vạn cảnh tượng xô đẩy nhau xuất hiện trước mắt, những quy tắc hướng dẫn chẳng còn có giá trị gì, nhà văn tha hồ thả mình trôi theo đà lôi kéo của trí tưởng tượng… Đến khi cầm lấy bút, trước khi sáng tạo còn cảm thấy hào hứng tăng lên gấp bội. Đến khi hoàn thành tác phẩm lại thấy chưa diễn tả được phân nửa điều mình muốn nói” (94). Điều này cũng hoàn toàn không xa lạ với các nghệ sĩ thời nay. Họa sĩ Bùi Xuân Phái cũng từng tâm sự: “Vẽ trúng ý thích cao độ của mình không phải chuyện dễ” (95).
Vẽ trúng, viết trúng được điều mình nghĩ, điều mình muốn giãi bày đúng là một nhu cầu của người sáng tác nghệ thuật và cũng là một đòi hỏi đối với hoạt động sáng tạo hình thức, góp phần tạo nên giá trị của tác phẩm. Nhưng nếu chúng ta quan niệm hoạt động sáng tạo nghệ thuật không phải chỉ là quá trình đi từ nghệ sĩ đến tác phẩm mà còn là quá trình tiếp nhận, đi từ tác phẩm đến người đọc thì cái hay, giá trị thẩm mỹ của tác phẩm không phải chỉ nằm ở chỗ nghệ sĩ tìm được hình thức “thích đáng”, nói trúng ý nghĩ của mình, mà còn biểu hiện ở chỗ người đọc, người xem cảm thấy nhà văn, họa sĩ đã nói trúng, suy tư, cảm xúc của mình, điều mình cũng nghĩ, cũng cảm thấy nhưng tự mình không diễn tả được và cũng thấy không phải ai cũng nói hộ mình một cách chính xác, đầy đủ như vậy. Sức hấp dẫn của tác phẩm một phần nằm ở sự trùng hợp giữa kinh nghiệm sống của nhà văn và người đọc. Sự trùng hơp này có được vừa do bản thân nội dung của những kinh nghiệm sống ấy, vừa do hình thức trình bày nó, cách diễn tả nó. Đó cũng là một khó khăn nữa của công việc sáng tác nghệ thuật và do đó cũng là một tiêu chuẩn để đánh giá tác phẩm.
“Tính nghệ thuật - F.Dostoievski viết - là khả năng thể hiện tư tưởng của mình qua các nhân vật và hình tượng trong tiểu thuyết rõ ràng đến mức độc giả khi đọc tiểu thuyết cũng hiểu tư tưởng của nhà văn hoàn toàn giống như chính nhà văn hiểu nó khi viết tác phẩm của mình” (96). L. Tolstoi còn nói rõ hơn: “Tác phẩm nghệ thuật - ông viết - chỉ thực sự là tác phẩm nghệ thuật khi người tiếp nhận không thể hình dung một cái gì khác hơn như chính là cái mình đã nhìn thấy, hoặc nghe thấy, hoặc hiểu, khi anh ta trải qua cảm giác giống như là nhớ lại, rằng điều đó có lẽ mình đã gặp nhiều lần, đã biết từ lâu, chỉ có điều mình không biết cách nói, thế mà bây giờ người ta nói cho mình cái của chính mình… Còn nếu người tiếp nhận cảm thấy cái mà nghệ sỹ trình bày cho anh ta cũng có thể là khác… thì khi đó không còn là nghệ thuật nữa” (97).
Như đã nói ở trên, đây là một khó khăn rất lớn đối với việc sáng tạo hình thức trong nghệ thuật. Tuy nhiên, khó khăn ấy không dừng ở đây.
Sáng tạo nghệ thuật rõ ràng không thể tách rời việc nghệ sĩ tạo ra hình thức. Nhưng ở đây cũng có những điều cần xem xét kỹ. Đối với những “Hình thức bên trong”, hoặc hình thức mà M. Bakhtin gọi là “hình thức kiến tạo”, những nỗ lực của chủ quan nghệ sĩ hoàn toàn bị giới hạn, bởi vì theo như M. Bakhtin giải thích, đây không phải là cái nghệ sĩ có thể tạo tác, sắp xếp như đối với “hình thức kết cấu” mà chúng vốn là “những hình thức của giá trị tâm hồn và thể xác của con người thẩm mỹ, những hình thức của thiên nhiên như là môi trường sống của con người, những hình thức của sự kiện trong phương diện đời sống cá nhân, xã hội và lịch sử của nó”. Nói cách khác, hình thức bên trong chịu sự quy định trực tiếp của thế giới tinh thần của nghệ sĩ, nó là hình thức tồn tại trực tiếp của những tư tưởng - tình cảm của nghệ sĩ. Nghệ sĩ không “sáng tạo” ra nó mà chỉ thể hiện nó, hay nói chính xác hơn, là tìm cách để nó được tự thể hiện, hiện ra trong tác phẩm nhờ những “hình thức bên ngoài”: chất liệu, thủ pháp. Cách hiểu mối quan hệ giữa hình thức bên trong với nội dung như vậy rất gần với cách hiểu tương quan giữa văn học và Đạo trong mỹ học cổ Trung Hoa và Việt Nam (98). Nghệ sĩ không tạo ra Văn. Văn toát ra từ Tâm, từ Đạo, là vẻ bề ngoài của Đạo, của Tâm, gắn chặt với Tâm, với Đạo. Đạo là cái hồn, cái cốt của Văn. Đạo đổi thì Văn đổi. Tâm sáng thì văn đẹp. Trong việc tạo ra loại hình thức này, công lao không thuộc về tài nghệ, sự khéo léo của nghệ sĩ mà thuộc về cái Đạo, cái Tâm. Nói cái tài là ở cái tình chính vì vậy.
Tuy nhiên, trong nghệ thuật bên cạnh hình thức bên trong còn có hình thức bên ngoài. Những hình thức này thường không quan hệ trực tiếp với nội dung mà thông qua những hình thức bên trong, mặc dù vậy tính chất “phục vụ” (chữ dùng của M. Bakhtin) của nó đối với nội dung là hoàn toàn rõ ràng. Điều đó cũng có nghĩa là trong sáng tác nghệ thuật, nghệ sĩ phải tạo ra được những hình thức (bên ngoài) “thích đáng”, có khả năng diễn tả những điều mình muốn nói cũng như làm cho người tiếp nhận cảm thấy như được nói hộ, nói trúng ý mình. Nhưng phải chăng chức năng và ý nghĩa của việc tạo ra những hình thức bên ngoài chỉ có vậy và cái khó của sự sáng tạo hình thức cũng chỉ ở đó? Chúng ta phải xem xét kỹ hơn điều này.
Trong tác phẩm Mỹ học, Hegel viết: “… những hình tượng và âm thanh có tính cảm tính hiện ra trong nghệ thuật không chỉ vì bản thân mình và sự biểu hiện trực tiếp của mình (chúng tôi nhấn mạnh - L.N.T), mà còn để trong hình thức này có thể thỏa mãn những nhu cầu tinh thần cao nhất, bởi vì chúng có khả năng đánh thức và chạm đến tất cả những gì sâu thẳm của ý thức cũng như gợi lên tiếng vang của chúng trong tinh thần” (99). Như vậy, theo Hegel, hình thức trong tác phẩm nghệ thuật bên cạnh việc hiện ra để thỏa mãn một mục đích khác còn hiện ra cho chính nó. Thế nào là hiện ra cho chính nó, “vì bản thân mình”? Trong một chỗ khác, Hegel viết: “Do bản chất chất liệu và đơn nhất của nó, tác phẩm nghệ thuật được quy định bởi rất nhiều yếu tố bộ phận khác nhau, trong đó quan trọng nhất là thời điểm và địa điểm xuất hiện của tác phẩm, sau đó là cá tính riêng của nghệ sĩ và mức độ hoàn thiện về kỹ thuật của nghệ thuật. Để có hiểu biết cơ bản về một tác phẩm nghệ thuật nào đó và ngay cả chỉ để thưởng thức nó một cách đầy đủ, nhất thiết phải chú ý đến tất cả các mặt này” (chúng tôi nhấn mạnh - L.N.T)(100). Nghĩa là trong số “tất cả các mặt” tạo nên tác phẩm và có thể mang lại khoái cảm cho độc giả, khán giả thì “mức độ hoàn thiện về kỹ thuật” là một mặt không thể bỏ qua.
Từ ý kiến của Hegel trên đây, có thể thấy hình thức bề ngoài, cái thường gắn với chất liệu, kỹ thuật, có giá trị riêng của nó. Giá trị đó không phải lúc nào cũng phụ thuộc vào giá trị của nội dung mà nó thể hiện cũng như biểu hiện ở tính “thích đáng”, tức sự tương thích của nó với nội dung. Bằng chứng là nó có thể được coi là hoàn thiện cả trong trường hợp khi nội dung mà nó thể hiện không đáp ứng yêu cầu của nghệ thuật chân chính. Hegel cũng đã thừa nhận: “Có nghệ thuật mà xét về mặt kỹ thuật và các mặt khác có thể được coi là hết sức hoàn thiện trong phạm vi nhất định của mình, nhưng khi đối chiếu với khái niệm nghệ thuật và với lý tưởng thì không đáp ứng được - đó không phải là nghệ thuật hoàn thiện” (101). Nghệ sĩ, hơn ai hết là những người hiểu rõ giá trị đó của hình thức: “Các từ ngữ tự bản thân nó và độc lập với cái nghĩa mà nó thể hiện (tức là độc lập với ý nghĩa từ vựng của nó) có một vẻ đẹp và giá trị riêng” (C. Baudelaire) (102).
Như vậy cái khó của sáng tạo hình thức trong nghệ thuật đã rõ. Một mặt, nghệ sĩ phải đem lại cho nội dung mà mình muốn thể hiện một hình thức phù hợp với nó, mặt khác anh ta phải làm sao cho cái hình thức ấy đủ sức tồn tại “vì bản thân mình”, tức là phải thật hoàn thiện để có thể mang lại một khoái cảm thẩm mỹ riêng. Khó là ở chỗ có khi nói được ý lại không có được vẻ đẹp của lời, còn nếu chạy theo vẻ đẹp của lời thì lại đánh mất ý. Đó là một “khó khăn kép” mà không phải lúc nào người sáng tác cũng có thể vượt qua. Không phải ngẫu nhiên nhà thơ Tế Hanh tâm sự:
Đọc một bài thơ hay
Ý nghĩa đầu tiên thấy mình làm được
Ý nghĩa sau cùng thấy mình bất lực
Đó là cái bất lực mà bất kỳ người cầm bút nào cũng cảm thấy hết sức rõ rệt.
Để hiểu đầy đủ ý nghĩa của hình thức nghệ thuật và tài năng của nghệ sỹ, cần phân biệt rõ hai mặt này trong chức năng của hình thức, đặc biệt là đánh giá đúng mức giá trị của những tìm tòi, khám phá nhằm đem lại cho hình thức nghệ thuật sự mới mẻ, độc đáo, gợi lên khoái cảm thẩm mỹ cao. Các nhà hình thức không phải không có lý khi coi việc tạo ra hình thức là một yêu cầu tối thượng của sáng tạo nghệ thuật, nhìn thấy ở đây bản chất của nghệ thuật và ý nghĩa đặc trưng của nó đối với việc thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người. Nếu sai lầm của chủ nghĩa hình thức là tuyệt đối hóa hình thức thì công lao của nó cũng nằm ở đây. Nó lôi kéo sự chú ý của công chúng không chỉ vào nội dung, vào sự kiện, ý nghĩa, con người mà còn vào câu chữ, đường nét, màu sắc, âm thanh, nó muốn xem hình thức không chỉ như phương tiện truyền đạt, diễn tả mà còn như đối tượng của sự nhìn ngắm, thưởng thức. Nó muốn khắc phục một thói quen, một thị hiếu được hình thành từ lâu, đã trở thành thâm căn cố đế dưới ảnh hưởng của quan niệm: nội dung quyết định hình thức, nội dung là chính, hình thức là phụ, tức là cách tiếp nhận tác phẩm hướng thẳng ngay vào ý nghĩa, vào nội dung câu chuyện, vào tình cảm, vào chủ đề, bỏ qua sự hiện diện của câu chữ, hình ảnh, màu sắc, chỉ nhìn thấy giá trị của tác phẩm trong những cái được biểu đạt, còn bản thân cái biểu đạt thì chỉ được coi như một ký hiệu, một phương tiện, một sự vật vô hồn. Cách thưởng thức nghệ thuật như vậy hoàn toàn trái với bản chất của sáng tạo nghệ thuật và xa lạ với cảm nhận của nghệ sĩ khi sáng tác. Đối với nhà thơ, J.P. Sactre viết: “từ là sự vật chứ không phải là ký hiệu. Bản chất hai mặt của ký hiệu cho phép, khi muốn, cái nhìn có thể xuyên qua nó như xuyên qua tấm kính và hướng thẳng đến sự vật được gọi tên. Nhưng bản chất hai mặt này cũng cho phép một cách khác: hướng cái nhìn vào chính sự tồn tại hiện thực của ký hiệu và xem bản thân ký hiệu này như một sự vật. Người bình thường khi nói, ở mặt phía kia của từ, gần sát với từ; còn nhà thơ thì luôn luôn ở phía bên này (tức là ở ngoài từ - L.N.T). Đối với người bình thường, từ ngữ là những cái có tính chất công cụ và quen thuộc như vật dụng trong nhà, còn đối với nhà thơ, chúng là nguyên thủy, đầu tiên. Người nói coi từ ngữ như những quy ước hữu ích, những công cụ bị mòn dần theo thời gian, và khi không dùng được nữa thì vứt bỏ; còn đối với nhà thơ, chúng là hoa trái của thiên nhiên, cũng sinh sôi nảy nở trên mặt đất, tự nhiên như cây cỏ” (103).
Đối với nghệ sĩ, câu chữ, màu sắc, âm thanh không chỉ là chướng ngại cần phải chinh phục, vượt qua mà chúng còn là những sinh thể, những sự vật có hồn. Nghệ sĩ vật lộn với chúng, sống với chúng, buồn vui với chúng. Anh ta không diễn đạt, thể hiện ý nghĩa, tình cảm của mình trong từ ngữ, âm thanh, màu sắc mà mang cho chúng một hình hài, một tồn tại hiện thực. Quá trình sáng tạo nghệ thuật bao giờ cũng là sự kết hợp của hai dòng tình cảm khác nhau: dòng tình cảm “đời” và tình cảm thẩm mỹ.
Nhà thơ Xuân Diệu đã nói rất hay về quá trình tâm lý này của người sáng tác: “Khi tôi nói xúc cảm, tôi không chỉ nói rung động về tình cảm mà thôi, bởi vì người ta có thể rung động rất nhiều, thiết tha chân thành đến ứa lệ, nhưng ra nước mắt chưa hẳn đã là thơ, khi tôi nói xúc cảm là tôi nói rung động về tình cảm cộng với đồng thời một cơn rung động về vần điệu, hình tượng, âm thanh, một hứng thú sáng tạo vậy” (104).
“Rung động về vần điệu, hình tượng, âm thanh” chính là nội dung của “Hình thức ý nghĩa” mà C. Bell đã nói đến. Những từ ngữ, màu sắc, âm thanh không chứa đựng những rung động này không phải là hình thức nghệ thuật đích thực. Chính nhờ những rung động này, “hứng thú sáng tạo” này của nghệ sĩ mà tác phẩm mang lại cho người thưởng ngoạn một rung động đặc biệt gọi là rung động thẩm mỹ.
Đối với người bình thường, rung động thẩm mỹ không phải là dễ và lúc nào cũng có thể đạt tới. Nó phụ thuộc vào hoàn cảnh thưởng ngoạn, vào sức mạnh của “cơn rung động về vần điệu, hình tượng, âm thanh” mà người sáng tác đưa vào tác phẩm cũng như bản tính, năng khiếu của từng người. Thông thường, người ta hay hoặc chỉ có những “rung động về tình cảm mà thôi”. Ngay đối với người sáng tác, không phải ai và lúc nào cũng có được “một cơn rung động về vần điệu, hình tượng, âm thanh” thật mãnh liệt, nhấn chìm cả anh ta và do đó cuốn hút, hấp dẫn người xem, người đọc. Điều đó chứng tỏ việc sáng tạo hình thức - chúng ta muốn nói đến hình thức bên ngoài (từ ngữ, màu sắc, âm thanh…) gắn với “hứng thú sáng tạo” của nghệ sĩ và rung động thẩm mỹ của người đọc, người xem, người nghe cũng là một công việc hết sức khó khăn và có ý nghĩa rất to lớn. Cái gọi là năng khiếu hay tài năng nghệ thuật nằm chính ở đây. Nghệ sĩ khác người bình thường trước hết không phải ở cái tình, ở tư tưởng mà ở khả năng cảm nhận và làm chủ con chữ, làm chủ ngọn bút, làm chủ phím đàn, ở khả năng mang lại cảm giác về cái đẹp, sự hoàn thiện, khả năng “lạ hóa” những cái đã quen thuộc, khả năng tìm thấy những cách diễn đạt mới mẻ, độc đáo. Trong cách nói hằng ngày, chúng ta hay lạm dụng khái niệm tài năng, làm mất đi ranh giới giữa cái có thực và cái hư ảo và từ đó vô tình hạ thấp giá trị của tài năng mà thực chất là hạ thấp ý nghĩa của nghệ thuật.
Nghệ thuật ngoài ý nghĩa xã hội còn có một sứ mạng khác - sứ mạng này thậm chí còn lớn lao hơn - đó là vai trò của nó đối vớisự phát triển của con người. Nghệ thuật, theo cách nói của Hegel là một “hình thức” tồn tại và phát triển của ý niệm, tức là của nhận thức, của đời sống tinh thần của con người. Ý thức con người sinh sôi, nảy nở trong nghệ thuật. Con người lớn lên về mặt tinh thần trong nghệ thuật: tự do hơn, sâu sắc hơn, nhân văn hơn. Đời sống tình cảm của con người trở nên phong phú, tinh tế, lung linh huyền ảo hơn nhờ nghệ thuật. Nghệ thuật là mảnh đất nuôi dưỡng những phẩm chất và giá trị tinh thần mà con người tích lũy được trong quá trình trút bỏ tính chất sinh vật nguyên thủy của mình để trở thành “sinh vật có tính loài” (K. Marx), tức con người có ý thức (105).
Quá trình “người hóa” này gồm hai mặt: Hegel giải thích nó như sau: “Nhu cầu chung nhất về nghệ thuật xuất phát từ nguyện vọng hợp lý của con người muốn nhận thức về tinh thần thế giới bên trong và bên ngoài bằng cách hình dung nó như một đối tượng trong đó y nhận ra được “cái tôi” của mình. Con người thỏa mãn nhu cầu tự do tinh thần này, một mặt, bằng cách ý thức được bên trong cho mình cái đang tồn tại, mặt khác, bằng cách mang lại cho cái “tồn tại cho mình”này một hình hài và khi tự nhân đôi mình, con người làm cho cái tồn tại bên trong y trở thành cái mà bản thân mình và người khác có thể nhìn thấy và nhận thức được” (106). Nói một cách khác, con người trưởng thành và trở nên người hơn trong cả hai quá trình: quá trình phát triển của ý thức và quá trình làm cho ý thức ấy trở thành trực quan để “con người ngắm nhìn bản thân mình trong thế giới do mình sáng tạo ra” (K. Marx).
Trong thế giới do con người sáng tạo ra ấy có tác phẩm nghệ thuật. Nhờ có sáng tạo nghệ thuật, không chỉ tinh thần mà cả giác quan của con người cũng được thỏa mãn: “Phẩm chất đầu tiên của bức tranh - họa sĩ Pháp E. Delacroix nói - đó là làm sao để nó trở thành ngày hội của đôi mắt” (107). Không chỉ ý thức, tình cảm, đời sống tinh thần của con người phong phú hơn, nhân đạo hơn mà đôi mắt, lỗ tai, bàn tay cũng sắc sảo, tinh tế, thính nhạy và khéo léo hơn, các quá trình tâm sinh lý như trực giác, cảm giác, tri giác, tưởng tượng cũng phức tạp hơn, phát triển hơn. Sự hình thành và phát triển các quan năng này trực tiếp và chủ yếu là gắn với quá trình sáng tạo hình thức nghệ thuật. Điều đó có nghĩa là sáng tạo nghệ thuật, trước hết là việc mang lại cho tác phẩm một hình thức bên ngoài, có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển các giác quan và năng lực thể chất của con người, từ đó góp phần vào làm tăng “chất người” của “sinh vật có tính loài”.
Nhờ có sáng tạo nghệ thuật, tài năng của con người thể hiện trong việc chinh phục chất liệu, tìm tòi và sử dụng các thủ pháp, kỹ thuật được nâng cao. Trong quá trình ấy, người sáng tác cũng sẽ nhận được một “hứng thú sáng tạo” có khả năng mang đến một niềm vui, một hạnh phúc vô bờ. “Một người khi đã vui với niềm vui sáng tạo thì những niềm vui khác là vô nghĩa” (J.W. Goethe).
Nhờ những khám phá, tìm tòi về hình thức, những “cơn rung động về vần điệu, hình tượng, âm thanh” của nghệ sĩ, công chúng cũng sẽ được thụ hưởng một khoái cảm đặc biệt - đó là khoái cảm thẩm mỹ. Khoái cảm thẩm mỹ làm cho đời sống con người giàu thêm, nâng tâm hồn con người lên, làm cho con người cảm thấy đời sống bớt tầm thường, bớt trần tục hơn, thấy cuộc đời lung linh, huyền ảo hơn. Tiếp xúc với nghệ thuật nhiều, đôi mắt con người cũng có khả năng nhìn ra được nhiều cái đẹp hơn, đôi tai có thể lắng nghe trong từng âm thanh, từng tiếng đàn những giọng điệu khác nhau, tiếng trong tiếng đục khác nhau. Bằng cách ấy, nghệ thuật đã mở thêm một cánh cửa, một lối đi để con người đến với thế giới bao la của tiếng nói, của âm thanh, ánh sáng, sắc màu trong đời sống, trong thiên nhiên và do đó cũng mang lại cho người thưởng thức một niềm vui, một hạnh phúc giống như “hứng thú sáng tạo” của nghệ sĩ. Bằng cách ấy, những sáng tạo hình thức đã giúp vào sự hoàn thiện của con người: phát triển toàn diện thế giới tinh thần và những giác quan gắn nối nó, thân thể tinh thần của nó. Sáng tạo hình thức vì vậy không chỉ có ý nghĩa nghệ thuật, mà còn có ý nghĩa nhân văn.
Hình thức nghệ thuật có ý nghĩa rất lớn. Nhờ nó nghệ thuật trở thành nghệ thuật. Nghệ thuật không phải chỉ có hình thức. Nhưng không có hình thức sẽ không có nghệ thuật. Ý nghĩa của hình thức không chỉ hạn chế trong quan hệ của nó với nội dung. Bản thân hình thức cũng có giá trị riêng và tác động riêng.
Ngày nay, việc đề cao hình thức không còn mới mẻ nữa. Nghiên cứu hình thức trong sáng tác nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng đã khắc phục được tính cực đoan của nó, đã không còn đóng vai trò là một phương pháp luận, một “mỹ học chung” như M. Bakhtin đã từng phê phán. “Lý luận chung về các hình thức văn học gọi là thi pháp học” (Gérard Genette) và “Thi pháp học không phải là một phương pháp - như cấu trúc luận và những phương pháp khác - mà đúng hơn là một cách nhìn các sự kiện”(Tzvetan Todorov) (108). Nhưng điều đó không có nghĩa là tầm quan trọng của hình thức và việc nghiên cứu nó giảm đi.
Thực tiễn sáng tác nghệ thuật, đặc biệt là trong thơ ca và nghệ thuật tạo hình ở nước ta cũng như trên thế giới thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI cho thấy các hình thức thể hiện đã có nhiều thay đổi căn bản, táo bạo, đã trở nên đa dạng và khó hình dung hơn. Những tuyên bố ủng hộ cái mới bao giờ cũng sẵn sàng, nhưng chấp nhận nó thì không dễ, nhất là chấp nhận cho mình. Thị hiếu luôn luôn mang tính bảo thủ. Nếu thị hiếu ấy lại nhiễm sắc thái ý thức hệ thì tình trạng lại còn nặng nề hơn. Bởi vậy hiện nay ở nước ta, thái độ đối với hình thức nghệ thuật thể hiện trong cách tìm tòi, sáng tạo và cách cảm nhận, đánh giá tác phẩm đang là một thách thức lớn đối với người sáng tác cũng như công chúng. Ở đây không có giới hạn cho cái mới; chỉ có giới hạn về cái hay và cái dở. Ở đây không phải tất cả màu nào, chữ nào, âm nào cũng đều được xem là mang nghĩa, có nghĩa, có tính ngụ ý hay ẩn dụ. Nghĩa của hình thức có khi nằm trong chính nó. Ở đây không thể lấy tấm lòng thay cho câu chữ, lấy ý để thay cho lời, thay cho đường nét, màu sắc. Ở đây là chỗ của tài năng. Tài năng trong sáng tác đã khó, tài năng trong thưởng ngoạn - thưởng ngoạn màu, thưởng ngoạn chữ, thưởng ngoân âm - có lẽ còn khó hơn.
Bấy nhiêu thôi cũng đủ thấy cái khó của sáng tạo hình thức trong nghệ thuật. Nhưng chính trong cái khó này bao hàm ý nghĩa, sứ mạng của nó. Bởi vậy cổ vũ cho những tìm tòi mạnh dạn về hình thức cũng chính là cổ vũ cho sáng tạo trong nghệ thuật, cổ  vũ cho sự phát triển toàn diện, tự do của con người.
Chú thích:
(1) G.V.F. Hegel: Bách khoa thư các khoa học triết học. Khoa học Logic I, dịch giả: Bùi Văn Nam Sơn. Nxb. Tri thức, H, 2008, tr.526.
(2), (4), (5) Sách đã dẫn, tr.526, 526, 527.
(3) Sđd, tr.532, dẫn giải của Bùi Văn Nam Sơn.
(6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (16), (20), (21), (22), (23) G.V.F. Hegel: Mỹ học (bộ 4 tập, tiếng Nga), tập 1, M, 1968, tr.19, 95, 88, 89, 95, 20, 16, 16, 77, 80, 79, 44, 35, 41, 88.
(17), (18) Hegel: Bách khoa thư các khoa học triết học. Sđd, tr.529, 527-528.
(19) Hegel: Bách khoa thư các khoa học triết học. Sđd, tr.527-528.
(24), (25), (26), (27), (28), (29), (30) CLive Bell: Art, trong sách  Aesthetics: Classic Readings from The Western Tradition, Jones and Bartlett Publishers, USA, 1996, p.328-329, 330, 332, 333, 333, 338, 338.
(31) Noel Carroll (tức Monroe C.Beardsley - L.N.T chú): Phylosophy of Art, A Contemporary Introduction, Routledge, London and New York, 1999, p.118.
(32) Encyclopedia of Aesthetics, Ed. By Michael Kelly, Oxford University Press, New York, 1998, vol.1, p.251.
(33) Y. Tynyanov: On Literary Evolution (Về tiến hóa văn học), trong sách: The Critical Tradtion. Classic Texts and Contemporary Trends. Ed.by David H.Richter, New York, 1989.p.756.
(34) Literaturnoxt (tiếng Nga).
(35), (36), (37) R. Jakobson: Những công trình về thi pháp học (tiếng Nga), M. 1987, tr.275, 81, 80.
(38) “lạ hóa” dịch từ tiếng Nga “Oxtrannenie” hay tiếng Anh: “Defamiliarization”.
(39) V. Shklovxky: Art and Technique (Nghệ thuật như là thủ pháp), trong sách: The Critical Tradition: classic text and contemporary Trends, Ed. By David H.Richter, New York, 1989, tr.741.
(40) M. Bakhtin: Những vấn đề văn học và mỹ học (tiếng Nga). Nxb. Văn học, Moscow, 1975, tr.13.
(41) Hình thức kiến tạo: dịch từ tiếng Nga “Arkhitektonitseskaia forma” và Hình thức kết cấu: “Kompozitxionnaia forma”.
(42) Nhãn quan thẩm mỹ: chữ tiếng Nga: “Estetitseskoe videnie”.
(43), (44), (45), (46), 48), (50), (51), (52), (53), (56), (59), (60), (61), (62), (63), (64), (65) M. Bakhtin: Những vấn đề văn học và mỹ  học (tiếng Nga). Nxb. Văn học, Moscow, 1975, tr.70, 56, 42, 34, 24, 15, 57, 58, 14, 32, 56, 17, 70-71, 49, 20, 21, 18.
(47) Trong bài viết nói trên, M. Bakhtin có sử dụng mệnh đề “Xoderjatennaia khudojextvennaia forma”, khiến một số người dịch là “hình thức nghệ thuật có tính nội dung” và từ đó dẫn đến nói rằng: hình thức nghệ thuật không phải là kỹ thuật thuần túy mà “có tính nội dung”. Cách diễn đạt này không phải hoàn toàn sai, nhưng không chính xác về phương diện khoa học và cũng không đúng với ý của M. Bakhtin: đối với ông, hình thức không phải chỉ có “tính nội dung” mà là chính nội dung. Toàn văn câu M. Bakhtin viết như sau: “Ngôn ngữ với tính xác định ngôn ngữ học của nó không đi vào bên trong của đối tượng thẩm mỹ mà ở lại đằng sau nó, còn bản thân đối tượng thẩm mỹ thì được tạo thành từ nội dung được hình thức hóa về phương diện nghệ thuật hay là từ hình thức nghệ thuật của nội dung” (M. Bakhtin, Sđd, tr.49).
(49) Dịch từ chữ tiếng Nga: “khudojextveenno znatsimaia forma” và “Estetitsexki znatsimaia forma”.
(54) C. Bell: Art, Sđd, tr.338.
(55) Bell: Art, Sđd, tr.337.
(57) C. Bell: Art, Sđd, tr.341.
(58) “Thuần túy” ở đây, theo M.Bakhtin nghĩa là còn chưa gắn với chất liệu.
(66) Về phương thức tồn tại của tác phẩm văn chương, xem: R. Wellek & A.Warren: Theory of Literature, chapter 12: “The Mode of Existence of a Literary work of Art” (Phương thức tồn tại của tác phẩm văn học nghệ thuật), Third Edition, A Hawest/HBJ Book, New York, 1977, tr.142-158, R. Ingarden:Những công trình nghiên cứu về mỹ học (tiếng Nga). Nxb. Văn học nước ngoài, Moscow, 1962, tr.21-91.
(67) R. Wellek & A. Warren: Theory of Literature, Sđd, tr.140.
(68), (69), (70) Lévi - Strauss: Cấu trúc và hình thức, trong sách Chủ nghĩa cấu trúc và văn học của Trịnh Bá Đĩnh. Nxb. Văn học, 2002, tr.421, 397, 421.
(71), (72), (74), (75) R. Ingarden. Những công trình nghiên cứu về mỹ học (tiếng Nga),  Moscow, 1962, tr.156.
(73) “Những hình dáng mang tính chất sơ đồ” theo R. Ingarden là những hình ảnh, bức tranh ở dạng tổng quát, như sự vật nhìn từ xa, chưa rõ đường nét cụ thể. “Những hình dáng” này không đơn thuần là những cái nhìn thấy bằng mắt, nó được xác định cả bằng đặc điểm của đối tượng được quan sát lẫn hoàn cảnh xảy ra sựquan sát và cả đặc điểm tâm sinh lý của chủ thể quan sát (xem thêm R. Ingarden, Sđd, tr.28-29).
(76) Noel Carroll: Philosophy of Art, Sđd, tr.125-136.
(77) Noel Carroll, Sđd, tr.173.
(78) Noel Carroll, Sđd, tr.153.
(79) M. Bakhtin, Những vấn đề văn học và mỹ học (tiếng Nga), Sđd, tr.57, 59.
(80) M. Bakhtin, Sđd, tr.58, 62.
(81) Năm yếu tố của ngôn từ gồm: 1) mặt âm thanh của ngôn từ, tức chính yếu tố âm nhạc của nó, 2) nghĩa chỉ sự vật của từ (với tất cả những sắc thái và biến thể của nó, 3) quan hệ ngôn từ (tất cả các quan hệ và tương quan thuần túy ngôn từ), 4) ngữ điệu của ngôn từ (trên bình diện tâm lý,tức bình diện tình cảm - ý chí), khuynh hướng giá trị của ngôn từ, thể hiện tính đa dạng của những quan hệ giá trị ở người nói, 5) Cảm giác về tính chủ động ngôn từ, cảm giác về sự tạo ra một cách chủ động âm thanh mang nghĩa  (xem M. Bakhtin, Sđd, tr.62).
(82) Trong “Văn Tâm Điêu Long”, Lưu Hiệp viết: “Tác phẩm văn chương sở dĩ  phức tạp là vì nội dung và hình thức (tôi nhấn mạnh – L.N.T) đều đa dạng, người hiểu văn học thường có cái thích riêng của mình, cho nên không ai thấy được toàn diện” (dẫn theo Phương Lựu: Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc. Nxb. Giáo dục, HN, 1989, tr.77).
(83) Dẫn theo Phương Lựu: Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc. Nxb. Giáo dục, HN, 1989, tr.64.
(84) Hegel, Mỹ học, Sđd, tr.75.
(85) Lưu Hiệp: Văn Tâm Điêu Long, dẫn theo Phương Lựu: Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc. Nxb. Giáo dục, HN, 1989, tr.65-66.
(86) V. Soloviev: Bước đầu tiên hướng tới một mỹ học đích thực. Trong sách “Siêu lý tình yêu” (Phạm Vĩnh Cư dịch). Nxb. Tri thức, 2011, tập 3, tr.72.
(87) M. Bakhtin: Những vấn đề văn học và mỹ học, Sđd, tr.55.
(88) M. Bakhtin: Những vấn đề của thi pháp Dostoievxky. Nxb. Giáo dục, HN, 1993, tr.34.
(89) L.S. Vuigodsky, Tuyển tập các công trình tâm lý học (tiếng Nga), Moscow, 1956, tr.323.
(90) T.S. Eliot: The Social Function of Poetry. Trong sách “Poetry Theory and Practice”, New York, 1962, tr.133.
(91) Dẫn theo Phương Lựu: Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc. Nxb. Giáo dục, HN, 1989, tr.28.
(92) Hegel: Bách khoa thư các khoa học triết học, Sđd, tr.527-528.
(93) L.N. Tolstoi, Thư gửi A.Fet, ngày 17/11/1870 trong cuốn L.N.Tolstoi bàn về văn học (tiếng Nga). Nxb. Văn học, Moscow, 1955, tr.128.
(94) Lưu Hiệp: Văn Tâm Điêu Long. Dẫn theo: Dương Ngọc Dũng “Dẫn nhập tư tưởng lý luận văn học Trung Quốc”. Nxb. Văn học, 1999, tr.211.
(95) Bùi Xuân Phái: Tâm tư nghệ thuật. Nxb. Mỹ Thuật, 2003, tr.72.
(96) F. Dostoievski: Bàn về nghệ thuật (tiếng Nga), Moscow, 1973, tr.68-69.
(97) L. Tolstoi, Toàn tập (bộ 24 tập, tiếng Nga), Moscow, tập 22, 1985, tr.343.
(98) Trong chương Nguyên Đạo (Văn Tâm Điêu Long), Lưu Hiệp viết: “Bên cạnh con người, bất lỳ vật gì, cả động vật lẫn thực vật, cũng đều có văn của nó cả. Con rồng, con phượng lấy vẩy, lông như vẽ thêm mà báo trước điềm lành. Con hổ, con beo nhờ có bộ da vằn vện mà có vẻ uy nghi. Màu sắc tươi đẹp của mây, của ráng còn vượt tài khéo của người họa sĩ. Hoa lá của cỏ cây không chờ cái tài của người dệt gấm mới đẹp. Những điều nói trên đâu phải làtrang sức bên ngoài, mà là tự  nhiên đó vậy… Ôi! Những vật vô tri vô giác kia mà còn đẹp rực rỡ vậy, con người là cái vật có tâm, lẽ nào chẳng có vănsao? (Dẫn theo Phương Lựu: Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc. Nxb. Giáo dục, HN, 1989, tr.53) (nhấn mạnh của chúng tôi - L.N.T).
(99) Hegel, Mỹ học, Sđd, tập 1, tr.45.
(100) Hegel, Mỹ học, Sđd, tập 1, tr.41.
(101) Hegel, Mỹ học, Sđd, tập 1, tr.80.
(102) Dẫn theo R.Jakobson: Những công trình về thi pháp học (tiếng Nga). Nxb. Progress, Moscow, 1987, tr.83.
(103) J.P. Sactre: Văn học là gì? Trong sách: “Mỹ học và lý luận văn học nước ngoài thế kỉ XIX - XX” (tiếng Nga). Nxb. Đại học Moscow, 1987, tr.317.
(104) Xuân Diệu: Đi trên đường lớn. Nxb. Văn học, 1968, tr.53.
(105) K.Marx: Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844. Trích từ “C.Mác & F.Ăng-ghen tuyển tập” (6 tập). Nxb. Sự thật, 1980, tập 1, tr.120.
(106) Hegel, Mỹ học, Sđd, tập 1, tr.38
(107) E. Delacroix: Nhật ký của E. Delacroix (tiếng Nga), Moscow, 1950, tr.586.
(108) French Literary Theory Today (Lý luận văn học Pháp hiện nay), Ed. By Tzvetan Todorov, Cambridge University Press, New York, 1991, tr.9, tr.3.
 8/1/2016
Lê Ngọc Trà
Theo https://phebinhvanhoc.com.vn/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Café yêu

Café yêu Giới thiệu Nếu đã quen với những trang báo Hoa Học Trò thì cái tên Minh Nhật có lẽ không xa lạ gì với các bạn. Tuy còn khá trẻ nh...