Tứ quân tử
Cơn mưa vừa mới tạnh
Cành trúc ngã bên đường
Quân tử nghiêng mình xuống
Đi qua ta cúi đầu
Đông Hồ
Cành trúc ngã bên đường
Quân tử nghiêng mình xuống
Đi qua ta cúi đầu
Đông Hồ
Mai, lan, trúc, cúc là đề tài quen thuộc trong hội họa Trung Quốc. Bốn chủng loại
này đều có tính cách cao nhã. Mai nở vào mùa đông và xuân, chịu đựng lạnh lẽo.
Lan kiều diễm mảnh mai, hương thơm thâm trầm. Trúc ngay thẳng, vô tâm, đầy tiết
tháo. Cúc trải sương giá mà chẳng héo hon, có ý chí thách đố thiên nhiên. Thế
nên các văn nhân Trung Quốc ái mộ mà đặt tên cho bốn loại này là Tứ quân tử.
Mai, lan, trúc, cúc bước vào hội họa vì chúng hàm hữu ý vị tượng
trưng văn học, tiêu biểu đức hạnh của người quân tử. Đời Tống có Văn Đồng, Tô
Thức nổi tiếng về mặc trúc, Thôi Bạch với mặc mai, Trịnh Tư Hữu, Triệu Mạnh
Kiên với mặc lan, cho đến Triệu Xương, Hoàng Cư Bảo với mặc cúc.
Trúc thạch
竹石
|
|||
咬定青山不放鬆,
立根原在破巖中。 千磨萬擊還堅勁, 任爾東西南北風。 |
Trúc thạch
|
Bám chặt núi xanh chẳng buông rời,
Gốc mọc bền vững nơi vách xa. Ngàn đập muôn va vẫn cứng chắc,
Bốn bề gió cuộn mặc thổi qua.
|
Trúc mai
"Trúc là quân tử,
mai là giai nhân"
|
Tre trúc là biểu tượng của mẫu người quân tử bởi loài cây này tuy cứng mà vẫn mềm
mại, đổ mà không gẫy, rỗng ruột như tinh thần an nhiên tự tại, không mê đắm quyền
vị, vật chất. Và cũng như một người quân tử, tre và hoa tre chết đứng chứ không
rũ xuống như những loài hoa khác. Đó là hình ảnh hiếm thấy giữa đất trời.
Trúc lâm thất hiền
Nguyễn Tịch, Kê Khang, Lưu Linh
Sơn Đào, Hướng Tú, Vương Nhung, Nguyễn Hàm
Trúc lâm thất hiền, bảy nhà thơ, nhà văn Trung Quốc sống thời
kỳ cuối Ngụy đầu Tấn, thế kỷ thứ 3, ở ẩn trong rừng trúc, đánh đàn, uống rượu,
ngâm thơ, bàn triết học Lão Trang, nói chuyện huyền viễn để tỏ lòng chống đối
chế độ đen tối đương thời.
Trúc tước họa
Xưa ông trạng Mạc Đỉnh Chi đi sứ bên Tầu ...
... Từ xưa, tôi chỉ nghe nói có "Mai tước họa" (bức
vẽ cành mai chim sẻ) chứ chưa hề nghe nói đến" trúc tước họa" (bức
vẽ cành trúc chim sẻ). Nay tể tướng lại để bức trướng "Trúc tước họa",
"Trúc" là quân tử, "Tước" là tiểu nhân; làm như vậy là để
tiểu nhân lên trên quân tử, tôi e rằng cái đạo tiểu nhân sẽ ngày càng rông rỡ,
mà cái đạo quân tử sẽ ngày một tiêu tan.
Dưới chế độ Ngô Đình Diệm, tất cả các khuôn dấu của cơ quan
chính quyền, kể cả khuôn dấu của tổng thống đều có bình bụi trúc ở hình tròn nhỏ
phía trong.
Bụi trúc, nói theo cách Tầu là "Tiết trực tâm hư", có nghĩa là tiết
tháo (hoặc đoạn, khúc giữa hai mắt tre) ngay thẳng, vì dân vì nước, không xiên
xẹo; tâm có nghĩa là lòng thì trống rỗng, không có gì riêng tư cho bản thân.
"Tiết trực tâm hư" tượng trưng cho tấm lòng của người quân tử. Ông
Ngô Đình Diệm cai trị nhân dân theo cung cách của một người quân tử nên ông lấy
cây tre, bụi trúc làm biểu tượng, làm lời nhắc nhủ cho công chức, cán bộ.
BIỂU TƯỢNG TRÚC VÀ THI NHÂN
Võ Minh Hải
Từ xưa đến nay, màu xanh thẫm của những rừng trúc đã khiến
cho không biết bao nhiêu văn nhân, thi sĩ hết lời ca tụng. Thơ phú từ khúc viết
về trúc có thể nói là vô số, không thể lượng tả được. Cổ nhân quan niệm: “Ninh
khả thực vô nhục, bất khả cư vô trúc. Vô nhục sử nhân sấu, vô trúc sử nhân tục寧 可食無肉不可居無竹. 無肉使人瘦無竹使人俗” (Có
thể ăn mà không cần có thịt nhưng không thể sống mà không có trúc, không có thịt
thì chỉ khiến cho người ốm đi, không có trúc khiến cho người trở nên bình thường).
Câu nói trên đã khẳng định nhã thú thanh cao thoát tục của văn nhân sĩ đại phu
thời trước.
Trịnh Bản Kiều 鄭板橋 đời Thanh 清代 là người
cả đời chỉ vẽ trúc và làm thơ về trúc (vịnh trúc hoạ trúc 詠竹畫竹) và
đã để lại khá nhiều hảo thủ giai cú (好首佳句) viết về trúc, trong bài thơ Trúc
thạch 竹石, ông viết:
Giảo
định thanh sơn bất phóng tùng,
Lập căn nguyên tại phá nham trung.
Cán ma vạn kích hoàn kiên kính,
Nhậm nhĩ đông tây nam bắc phong
立根原在破岩中.
幹磨萬擊還堅勁,
任爾東西南北風”
Tạm dịch:
Bám chặt núi xanh chẳng buông rời,
Gốc mọc bền vững nơi vách xa.
Ngàn đập muôn va vẫn cứng chắc,
Bốn bề gió cuộn mặc thổi qua.
Ý tứ của bài thơ không ngớt lời ngợi ca khí chất hùng dũng của
cây trúc trước phong ba của cuộc đời. Các họa gia đời trước không chỉ vẽ trúc
mà còn kết hợp với những yếu tố khác hình thành một trường phái họa trúc (Trúc
tử họa thể 竹子畫體). Tô thức 蘇軾 (tức
Đông pha cư sĩ 東坡居士, một danh sĩ đời Tống 宋代) cũng
yêu trúc và thích vẽ trúc. Ông nói: “Hàn mai nhi tú, trúc sấu nhi thọ, thạch
xú nhi nghĩa 寒梅而秀, 竹瘦而壽, 石醜而義” (Mai lạnh nhưng đẹp, trúc thon
nhưng sống lâu, đá xấu nhưng lại có nghĩa), do đó người đời mới gọi chúng là
“Tam ích 三益” (ba cái có ích) và từ đó cũng hình thành một
hoạ phái lấy đá và trúc làm chủ đề chính. Nguyên Nhược Can 元若干, họa gia đời Tống cũng rất thích vẽ Tùng 松, Trúc 竹, Mai 梅, thường xưng là Tuế hàn tam hữu 歲寒三友 (Ba người
bạn mùa đông). Vì lẽ ấy, văn nhân đời sau thường lấy trúc để biểu đạt tình cảm,
ý chí của cá nhân mình, bởi họ xem trúc là loài cây tượng trưng cho sự Thanh
cao 清高, Khí tiết 氣節, Kiên trinh 堅貞 của kẻ
trượng phu.
Trúc là loại cây đã gần gũi với cuộc sống con người từ ngàn xưa, phần lớn các đồ
gia cụ ngày trước đều được làm từ trúc. Trong hội hoạ, người ta cũng thường lấy
phong thái cao khiết của trúc làm đề tài. Trong kiến trúc phong thuỷ Trung Hoa,
các nhà phong thuỷ học cũng thường xây dựng các mô hình rừng trúc trong vườn
nhà để tạo không gian tĩnh mịch, yên lặng, thư thái, còn thơ ca từ trước đến
nay thì hết lời ca tụng, tán mỹ. Tô Đông Pha làm thơ về trúc khá nhiều, thưởng
thức tác phẩn Thư Yên Lăng Vương Chủ Bạ Sở Họa Tích Chi 書鄢陵王主簿所畫析枝
của ông, chúng ta sẽ cảm thấy được tấm lòng của bậc cao sĩ đối với trúc: “Phàm
luận về họa thì lấy đường nét làm chủ, nói về thi phú thì bàn đến âm điệu du
dương, Thơ và hoạ vốn là một luật chung, tạo hoá và văn nhân ấy đều là người
sáng tạo... Trúc thon như U nhân (người ở ẩn), u hoa (hoa buồn) như
Xử nữ (con gái còn trình nguyên), con chim sẻ trên cành trúc ngang tàng
nhìn bóng sương rơi như hoa tuyết, đôi cánh như muốn bay nhưng lá trúc như muốn
ào ào phóng vượt. Đáng thương cho con mật rong ruổi, gánh bầu mật thơm oằn cả
hai vai. Ôi, người thì sâu sắc, trời thì xảo diệu thay! Ta muốn làm câu thơ nên
gởi thanh âm và tìm diệu ngữ…”
... Đâu đâu cũng có lũy tre xanh rì rào ẩn hiện.
Trong câu “Sấu trúc như u nhân, u hoa như xử nữ 瘦竹如幽人, 幽花如處女”, Tô
Đông Pha dùng hình ảnh của trúc để nhấn mạnh đến phẩm cách và lý tưởng của người
quân tử. Tao nhân mặc khách vui thích khi vẽ trúc, ngâm thơ về trúc là quá
trình cao khiết hóa phẩm cách cá nhân mình, lấy trúc để nói về ý chí con người,
tìm bạn tri âm.
Trong ngôn ngữ giao tế, người ta nhận thấy có khá nhiều mỹ từ
nói về trúc. Hình ảnh của trúc được dùng để biểu đạt khí phách cao khiết, văn
nhân yêu trúc, dùng ống trúc để cắm hoa và xem nó như một biểu tượng của cái đẹp.
Những giai cú, mỹ từ chúc tụng nhau, văn nhân, dật sĩ thường dùng trúc như một
biểu tượng, ví dụ như.
Phú quý bình an 富貴平安. Biểu tượng là Mẫu đơn 牡丹 và Trúc 竹.
Phúc thọ bình an 福壽平安. Tùng 松, Trúc 竹, Mai 梅
Bình an đại cát 平安大吉. Trúc 竹, Đại Dữu 大柚 (cây
quýt lớn)
Quân tử chi giao 君子之交. Trúc 竹, Mai 梅
Tử tôn phồn vinh 子孫繁榮. Trúc 竹, Đồng 筒 (ống trúc)
Bên cạnh đó, trúc cũng được xem là biểu tượng của sự cương
nghị, xem thường phú quý, tượng trưng cho đức trọng, khí phách hiên ngang của
người quân tử. Lời đề từ, lạc khoản cho những bức hoạ thủy mặc, các họa gia thường
sử dụng các thành ngữ, giai từ như.
Tuế hàn nhị hữu 歲寒二友. Tùng 松, Trúc 竹
Tuế hàn nhị nhã 歲寒二雅. Mai 梅, Trúc 竹
Tuế hàn tam hữu 歲寒三友. Tùng 松, Trúc 竹, Mai 梅
Tam ích hữu 三益友. Tùng 松, Trúc 竹, Thạch 石
Tứ quân tử 四君子. Lan 蘭, Trúc 竹, Cúc 菊, Mai 梅
Tứ hữu 四友. Tùng 松, Trúc 竹, Mai 梅, Cúc 菊
Ngũ Thanh 五清. Tùng 松, Trúc 竹, Cúc 菊, Thạch 石, Ba Tiêu 芭蕉
Hình ảnh Trúc từ một loài cây quen thuộc với cuộc sống đã trở
thành một biểu tượng cho khí cốt con người và cũng là đề tài quen thuộc của thơ
ca từ xưa đến nay. Với văn nhân mặc khách, hình ảnh của Trúc không chỉ là nơi để
ký thác tâm sự mà còn là biểu tượng của đạo đức, là sự biểu trưng cho tư tưởng
nhàn dật, góp phần làm phong phú thêm văn hóa ẩn sĩ - một nét đặc trưng của văn hóa phương Đông, một trường phái văn học tiêu biểu của văn học cổ điển Trung Quốc.
Trong quá trình hình thành và phát triển của trường phái này, hàm nghĩa văn hóa của Trúc đã hun đúc và dần trở thành một biểu tượng văn hóa đặc biệt, là thi liệu
tiêu biểu của văn chương cổ trung đại Trung Hoa, Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét