Phần I Chương 1:
Phú uống vội bát nước vối nóng, cầm cái tăm bỏ miệng, rồi xách
cái ghế mây ra sân, để chỗ dưới gốc lựu. Chàng đứng tần ngần như lãng quên một
điều gì mà chưa nhớ ngay ra được, rồi lại đi vào nhà cầm một tờ nhật báo ra.
Chàng ngồi xuống ghế, chân bắt chữ ngũ, cổ ngửa trên thành ghế, rộng mở tờ
báo...
Cái tin một ủy ban đã làm việc suốt ngày đêm để có thể kịp gửi
những hồ sơ của chính trị phạm về cho quan Tổng trưởng thuộc địa khiến Phú sung
sướng mỉm cười một mình, cái tăm rơi xuống đất mà không biết. Chàng ngồi ngay
ngắn lên, nhìn vào bếp gọi:
- Đẻ ơi đẻ! Sướng quá, đẻ ạ!
Bà Cử lúc ấy đương ngồi đun xanh cám lợn, thấy con gọi thì
ngơ ngác quay ra đáp bằng một giọng hơi gắt:
- Cái gì thế?
Giọng chua chát của mẹ làm cho Phú hơi cụt hứng và hơi giận mẹ.
Nhưng chợt nghĩ đến cảnh bần hàn bảy năm nay nó làm cho mẹ chàng hóa cấm cảu,
khó chịu thì Phú lại động lòng thương. Chàng chạy xuống bếp, nói:
- Đẻ ạ, con chắc anh con sắp được tha!
Bà Cử ngơ ngác, trước thì còn hoài nghi, mà sau thì không tin
nữa. Bà lại quay mặt nhìn vào xanh cám, hời hợt đáp:
- Mày chỉ được cái chuyện nhảm.
Phú vẫn cười, cố làm cho mẹ tin:
- Báo đăng rồi đấy mà! Hiện quan trên đương xét hồ sơ những
người cách mệnh, để bên ấy xét rồi tha cho. Bây giờ ở bên Tây có sự thay đổi, đảng
Xã hội và đảng Cộng sản...
Phú nói đến đấy thì bà mẹ cắt đứt:
- Thôi tao không chuyện rườm!
Bực mình, Phú lại ra ngồi ghế mây ngoài sân. Chàng không biết
tìm cách nào làm cho mẹ chàng hiểu nổi. Rồi chàng thấy rằng một người đã chịu
đau khổ như mẹ chàng đến nỗi không còn tin gì nữa, không còn dám hy vọng gì nữa,
thì cũng không lạ gì. Phú ngẫu nhiên ôn lại quãng đời xưa...
Từ khi Phú còn nhỏ lắm, phụ thân của chàng, ông Cử, đã bị bắt
và bị đày đi Côn Đảo. Từ đấy, mẹ chàng vẫn can đảm sống bằng nghề quay tơ mà
nuôi nổi ba con: Minh, anh Phú, Tuất, chị Phú và Phú. Rồi anh Minh được bổ đi dạy
học, rồi chị Tuất đi lấy chồng, rồi Phú vào trường trung học. Cuộc đời đã tưởng
tốt đẹp. Công khó nhọc của bà Cử tưởng đã được đền bù... nào ngờ chưa được hai
năm nhàn hạ thì Minh bị bắt, vào năm 1930 là năm Việt Nam Quốc dân đảng vỡ lở.
Năm sau nữa Tuất góa chồng, quay về ở với mẹ với một đứa con thơ... Phú học đến
năm thứ ba trường trung học thì cảnh túng thiếu khiến chàng phải bỏ đèn sách.
Bà Cử cứ mỗi ngày một nhiều nợ thêm lên, già đi, hóa ra khó chịu thêm... Phú
không kiếm được việc làm, không biết học nghề gì cả, đành về quê nhà đóng cái
vai trí thức thất nghiệp trong hương thôn. Bà Cử từ đấy tuyệt vọng, lấy sống
làm vui, cả đến sự no ấm cũng không dám ao ước nữa.
Một phiên tòa Đề hình đã kết án giáo Minh 15 năm tội đồ. Bà Cử
không dám hy vọng đến cái thời xa lắc xa lơ kia mà coi con mình như đã chết hoặc
trước khi con mãn hạn tù, thì bà cũng đã chết.
Ngày nay...
Thốt nhiên Phú kêu anh mình sắp được tha! Như vậy kể cũng khó
tin thật. Phú chỉ còn cách cắt nghĩa cho kỹ nhưng không bao giờ bà Cử lại chịu
để cho Phú cắt nghĩa. Mỗi khi nghe thấy Phú nói đến: "Đảng cộng sản bên
Pháp" thì bà Cử lại giật nẩy mình lên đánh thót một cái và không cho Phú
được nói tiếp. Bà sợ con bà sẽ bị vạ miệng. Bà cho con bà sắp hóa dại, hoặc nói
chuyện làm quà.
Nghĩ thế, Phú tức lắm. Phú lại muốn vào bếp nói kỹ càng cho mẹ
hiểu, để mẹ có hy vọng, để mẹ đỡ khổ, để mẹ được một chút vui mừng. Nhưng chợt
một tư tưởng thoáng qua làm cho Phú vừa đứng lên lại ngồi xuống ghế. Liệu Minh
có được tha về nay mai không hay là người ta sẽ giảm hạn tù từ 15 năm xuống độ
10 năm mà thôi? Nếu vậy, có nên nói với mẹ không? Phú sợ ngộ cái ảo tưởng của
Phú sẽ làm cho Phú nói rõ thì mẹ chàng sẽ vì đó mà lại càng buồn bã hơn xưa.
Chàng nghĩ thầm: "âu là chờ bao giờ có đích xác vậy".
Gió hây hây thổi, đã có cái vẻ heo may. Nắng chiều rọi qua rặng
tre ở góc sân in lên vách nhà hình bóng một cành tre đẹp như trong những tranh
thủy mạc Tầu, lại còn rung rinh hoạt động nữa. Những mẩu lá tre úa rụng lả tả
xuống sân, trước khi rơi xuống đất cứ quay tít theo chiều một chiếc ngư lôi vừa
bị bắn ra khỏi miệng súng. Một cành lựu bị gió đẩy thỉnh thoảng lại chạm vào
tai Phú, tinh quái như một người nhân tình.
Phú nhìn lên trời, nhìn những đám mây thiên hình vạn trạng,
nhìn kỹ cả những hình tròn tròn hiện trên da trời - phản ảnh của con người mà tầm
mục quan chỉ đến được đấy thì hắt trở lại. Một cái diều vo vo những tiếng sáo
như bị treo lưng chừng mây, trông như một vầng trăng đen, khiến Phú ngẫu nhiên
có những cảm tưởng man mác buồn. Chàng bỗng tủi cho thân thế.
Phú đã 24 tuổi đầu mà còn cứ phải ăn hại mẹ, mà người mẹ khốn
khổ, nghèo xơ nghèo xác! Chàng có một khối óc sáng suốt để suy nghĩ mà không biết
để suy nghĩ vào việc gì cả. Chàng có hai cánh tay khỏe mạnh sẵn sàng làm việc
mà xã hội không thèm mượn đến, không cắt cho một việc gì cả. Sự mầu nhiệm của tạo
hóa, sự mang nặng đẻ đau của bà Cử, bao nhiêu công ăn học của Phú, ngần ấy cái
chỉ kết quả nên Phú là một người thừa... Phú thấy rằng cái xã hội như vậy phải
cải cách, không thể để thế được nữa. Cải cách? Chỉ còn có một đường là: không sợ
chết, như những người đã há sinh cả tính mệnh lẫn con khôn vợ đẹp. Há sinh thì
cũng không thể biết trước kết quả sẽ thế nào, song đã muốn thì phải há sinh...
Khốn nỗi Minh đã há sinh mất rồi, đã để lại một cảnh gia đình tiều tụy, để lại
một mẹ già chỉ còn có trông cậy ở Phú. Chàng thấy nếu không liều thì chỉ là người
hèn nhát, mà liều thì sẽ phạm tội đại bất hiếu với mẹ - thật là tiến thoái lưỡng
nan...
Phú đã sống những ngày buồn bực, cực khổ.
Nhưng nay, thời cục đã làm cho Phú được phép lạc quan. Cũng
như những người trí thức hiểu đời, Phú rất hy vọng vào Chính phủ Bình Dân Pháp.
Xưa kia Phú không bao giờ dám hy vọng đến cái hy vọng ấy, nên chi khi thấy nay
hy vọng kia đã hiện ra sự thực, thì Phú cũng vẫn phải hơi lo sợ, hơi nghi ngờ,
mặc lòng rằng không dám tin vững thì chàng khổ sở lắm, và chàng không muốn phải
nghi hoặc một phút bao giờ. Hằng ngày, những tin tức của Chính phủ Bình Dân bên
Pháp càng làm cho Phú chứa chan hy vọng. Chàng cảm thấy rằng cái "sự không
hiểu nhau" của hai dân tộc thế là không còn có nữa - Người bị chinh phục
đã có thể coi kẻ đến chinh phục như ân nhân của mình nếu mình không muốn bị một
kẻ thù khác nữa, nếu mình không muốn bị diệt chủng hoặc bị tái nô. Cái việc có
một không hai trong lịch sử nước Pháp là cuộc toàn thắng của thuyền thợ và nông
dân, làm cho Phú được dịp nhận thấy rằng cái quan niệm quốc gia của chàng là hẹp
hòi, là sai lầm, và có tội nặng nữa. Một nước Việt Nam độc lập trong đó có một
ông vua độc lập hay một ông tổng thống Việt Nam, mà tựu trung vẫn không chắc giữ
vững được bờ cõi, hoặc là vẫn để cho dân quê ngu dốt, đói khát lầm than thì quả
nhiên không khi nào bằng một nước Việt Nam hộ thuộc của một nước Pháp trọng
công lý hơn, của một nước Pháp nhân đạo hơn.
Một con gà mái vừa cục cục vừa dắt díu mười hai con gà con đến
chỗ trước mặt Phú làm cho sự mơ màng của chàng phải gián đoạn.
Phú nhìn những con gà con mới nở xinh xinh, mỗi con trông như
một cuộn nhung vàng ấy, mà thích chí quá, chỉ những muốn bắt để kề vào miệng,
hôn... Chàng tự cười mình vì đã đi mượn mấy cuốn sách dạy nuôi gà, hy vọng giúp
đỡ mẹ bằng cách nuôi gà theo phương pháp mới. Chàng lại nghĩ đến cái vườn rau một
sào do chính tay chàng trông nom tưới bón theo những phương pháp khoa học, cũng
do cái kiêu ngạo muốn giúp mẹ mà bày ra hai tháng rưỡi rồi kết quả vẫn chẳng thấy
đâu vào đâu... Phú nghĩ thầm: "Nay mai ta sẽ được gánh vác những bổn phận
nặng nề hơn, ta sẽ được góp sức vào làm những công việc vĩ đại hơn". Phú
nghĩ thế là vì cái hy vọng nếu ông toàn quyền mới mà sang nhậm chức thì nước
nhà sẽ được hưởng những sự cải cách lớn, Phú sẽ góp sức vào cuộc nâng cao trình
độ tri thức và nhân sinh của dân quê, đạp đổ những hủ tục, giáo hóa cho nông
dân có quan niệm về chính trị, truyền bá khoa học cho lan rộng, tổ chức những
chính đảng, những nghiệp đoàn... Phú nghĩ thế rồi lại phải thôi, e mình mơ mộng
nhiều quá.
Cô Tuất về, với đống quần áo và đứa bé con trần truồng đeo
sau lưng, Phú hỏi:
- Chị đã tắm cho cháu rồi? Bé ơi, ra đây với cậu.
Cô Tuất vừa đi vào nhà vừa nói:
- Ấy ông thủ ông ấy nhắn rằng cậu đọc báo xong chưa thì cho
ông ấy mượn đấy.
- Đã xong đâu, tôi vừa mượn được có một lát.
Phú lại tìm tòi trong trang báo và nét mặt lộ đầy những vẻ
sung sướng khi thấy bài phỏng vấn quan tổng trưởng Moutet của bà André Viollia.
Chàng miệt mài như người ta đọc thư của nhân tình. Bỗng ngoài ngõ có tiếng hỏi:
- Bác Phú ơi, nhật trình có gì lạ không?
Phú vẫn cúi xuống tờ báo mà đáp:
- Ông vào chơi! Thú vị lắm ông ạ, quan toàn quyền và quan thống
sứ cũng định xin đại xá cho hết thảy chính trị phạm. Thật là một tin mừng không
ai ngờ.
Ông thủ quỹ, một người đứng tuổi, vẻ mặt tỏ ra là chỉ có nho
học, tất tưởi bước nhanh vào, hỏi dồn:
- Đâu? Đâu?
Phú giơ tờ báo ra, nói:
- Đây này!
Ông thủ đọc ba phút rồi ngơ ngác như bị mất cắp:
- Lạ nhỉ! Tôi không ngờ đấy!
Phú đứng lên nhường ghế, nói một cách kiêu ngạo:
- Tôi vẫn bảo ông cứ nên tin vững ở nội các Bình Dân kia mà.
- À, đây là ảnh quan tổng trưởng mới!
- Phải, từ khi đảng Xã hội còn kém thế, quan tổng trưởng lúc ấy
chỉ mới là một ông nghị, cũng đã nhiều lần lên diễn đàn cãi cho Đông Dương.
Chúng ta có hy vọng nhiều lắm.
- Bác đã thưa chuyện cho cụ Cử nhà rõ tin rằng...
- Chưa, để đích xác hơn đã. Tôi sợ anh tôi không được về hẳn,
hoặc là chỉ được giảm hạn thì đẻ tôi lại buồn thêm. Ông thủ châu đầu xuống tờ
báo, chăm chú đọc, Phú vào nhà lấy thêm cái ghế mây nữa ra sân. Giữa lúc ấy,
ngoài ngõ có tiếng người:
- Thủ quỹ trong này đây phỏng?
- À, kìa ông lý! Ông lên quan về có việc gì lạ đấy không?
Ông lý vào, lắc đầu, thất vọng:
- Nguy lắm! Nước lên to lắm. Quan sở tại đòi riêng làng nhà
phải có ít ra là năm chục phu đi tạp dịch.
Ông thủ nói:
- Năm chục thì đào đâu ra? Làng ta còn bao nhiêu bạch đinh?
Chả nhẽ có chân tư vấn cũng phải đi hộ đê.
- Thế mới rầy rà! Lại còn bao nhiêu người vắng mặt là khác!
Quan bảo đứa nào đi vắng thì đã có vợ con chúng nó thay! Cậu Phú ạ, việc quan
tôi cứ phép công tôi làm, âu là ai không có chân tư văn tôi bắt đi ráo cả một
lượt vậy.
Phú cười khanh khách:
- Thôi thế thì tôi phải đi rồi!
- Chứ gì! Tôi chẳng nể ai cả, vì nếu thiên tư thì không xong.
Phần I Chương 2:
Bình tĩnh và khoan hòa trên một ngọn xoan, mặt giăng soi sáng
cái sân có sáu người, đem vào cho tâm hồn của sáu người sự vui vẻ, sự minh mẫn.
Ngồi nép vào ria chiếu, sau Phú, cô Tuất bóc những củ lạc luộc rồi thỉnh thoảng
với tay lại sau lưng... Thằng cu Hiền đứng ôm lấy mẹ, há mồm đớp một cách vụng
dại đáng yêu, mỗi khi đớp lại để chảy một sợi nước rãi vào cổ mẹ, và một khi được
nhân lạc lại ôm chặt lấy cổ mẹ, run rẩy hai cái chân mũm mĩm dài bằng gang tay,
miệng kêu "Ông! Ông! Ông!..." để bắt chước một ông lý cưỡi ngựa.
Trước mặt Phú là ông thủ quỹ, bác hộ lại, và anh hai Cò - một
giai làng, một kẻ vô nghĩa lý mà chỗ nào người ta cũng thấy có mặt, mà có mặt ở
chỗ nào thì người ta cũng chẳng biết là có mặt hay vắng mặt, một kẻ không được
yêu, chẳng bị ghét, cả đến bị khinh bỉ nữa cũng không, một thứ người đần độn mà
ở nhà nào có việc thì người ta cũng thấy ngồi thái thịt dưới bếp.
Ông thủ quỹ hỏi Phú về chuyện thế giới. Bác hộ lại kể những
chuyện quan trên ở phủ này sức cho dân phải uống rượu ra làm sao, ở huyện kia một
con lợn bao nhiêu chai, một con bò bao nhiêu chai... Người ta phàn nàn cho ông
lý đã lỗ mất hai trăm bạc vào vụ thuế tháng năm vừa rồi mà bây giờ lại bị giày
vò bởi cái vấn đề đê điều có lắm chuyện rắc rối. Cả hai người đều cùng một giọng
than phiền về nạn khủng hoảng kinh tế, về những sự đau khổ của dân quê, cho nên
khi thấy Phú cắt nghĩa cho nghe cái hy vọng ông toàn quyền mới sang nhận chức sẽ
có nhiều điều cải cách hay, thì ai cũng phải tạm dẹp bớt những nỗi bất bình.
Tuy nhiên bác hộ lại vẫn ra vẻ hoài nghi mà rằng:
- Bác Phú nói thế thì tôi cũng đành phải tin như thế. Đã bao
nhiêu lần tôi thấy nói ông toàn quyền này sang với ông toàn quyền kia sang! Mỗi
lần thay đổi một vị thủ hiến thì thấy ai cũng nói sẽ có sự thay đổi chính sách,
sẽ có sự cải cách chế độ, dân gian lại hy vọng... Rồi thì đâu lại hoàn đấy cả.
Ông thủ quỹ họa theo:
- Ừ, mà quả thế đấy! Ừ nhỉ! Chính tôi đây chứ phải ai? Tôi đã
bao nhiêu phen thất vọng rồi, vậy mà tôi cũng vẫn cứ còn sức hy vọng mãi, như
trăm nghìn kẻ khác đấy. Họ dứ mình y như là dứ trẻ con, mà mình thì lần nào
mình cũng tin y như trẻ con!
Trước những luận điệu như thế, Phú cũng thấy sự tín ngưỡng của
mình có bề lung lay, không dám cam đoan nữa. Chàng bình tĩnh nói:
- Phải tin chứ! Phải tin mới sống được chứ!
Bác hộ lại nói một cách hằn học:
- Những kẻ không tin thì đã đi Côn Đảo cả mất rồi còn gì!
Ông thủ quỹ nói:
- Ừ, mà người ta ai chả thế? Ai chả sống, vì hy vọng?
Phú cố hòa giải:
- Không, lần này thì tôi tưởng chúng ta không đến nỗi mơ ước
hão đâu. Xưa kia cũng đã có nhiều cuộc cải cách đấy, song chưa đến cùng dân được
là vì...
- Bao nhiêu lần cải cách rồi mà dân quê vẫn chết đói một cách
thỏa mãn lắm!
- Là vì xưa kia, bên Tây, quyền chính chưa vào tay phái Bình
Dân. Xưa kia bọn tư bản chủ trương mọi việc, tất nhiên thuộc địa đối với họ chỉ
là chỗ để lấy lợi, mà đã thế, tất nhiên dân mình phải khổ. Bây giờ đảng Xã hội
lên cầm quyền thì phải khác, vì chủ nghĩa xã hội có tính cách đại đồng, chủ
trương hòa bình, không phân biệt màu da. Trong chương trình của đảng Xã hội có
khoản giải phóng thuộc địa, cho những dân hậu tiến được hưởng công lý và tự do
để có thể cho tất cả các thuộc địa cùng với mẫu quốc hợp lại thành một khối bất
khả lá tán, cùng một mối đồng tâm ghê gớm... Có được như vậy thì nước Pháp mới
giữ mãi được cái địa vị cao trọng trong thế giới. Bằng không thì...
Ông thủ quỹ nói luôn:
- Bằng không thì ắt là có phen mất!
Ông hộ lại bàn:
- Cái đó có thể lắm. Vì nước Pháp được tiếng là có nhiều thuộc
địa béo bở cho nên những cường quốc khác lăm le thèm muốn đã rõ rệt lắm. Nếu
không giữ được lòng trung thành của dân tộc thuộc địa thì lấy gì mà chống lại với
những sự ham muốn của các cường quốc kia? Một cuộc binh đao, một cuộc xâm chiếm...
ai biết trước được sự thắng bại thế nào!
- Ừ! Ừ... Mà hiện giờ thì nước Nhật...
- Ờ! Mà nếu vậy thì ra đảng Xã hội mà có giải phóng cho thuộc
địa thì cũng là điều cần chứ chưa chắc đã phải là vì lòng nhân đạo muốn cho hậu
tiến mau bước trên đường văn minh!
Tóm lấy những lời lẽ ấy, Phú vội kết luận:
- Ấy chính vì những lẽ ấy cho nên tôi mới dám hy vọng vào ông
toàn quyền mới đấy mà! Ông này cũng có chân trong đảng Xã hội như ông Varenne
năm xưa. Đảng Xã hội cho các lối áp chế thuộc địa của phái tư bản là thất sách,
là có hại cho nước Pháp, vì những chính sách hà khắc sẽ dắt đến sự công phẫn và
sự mất thuộc địa, nên họ muốn cho thuộc địa càng được hưởng nhiều sự cải cách
thì dân đen, dân vàng càng yêu họ hơn, càng trung thành với nước Pháp hơn...
Ông thủ quỹ, bác hộ lại gật gù ra vẻ bằng lòng. Hai người đã
được yên tâm về chỗ: nên hy vọng. Riêng Phú, chàng thấy rất đáng tự kiêu ở việc
chàng bao lâu nay vẫn cứ ngấm ngầm mà giáo hóa được bọn dàn anh trong làng, làm
cho họ có một quan niệm về quốc gia, có những tư tưởng xã hội và biết rõ cái guồng
máy chính trị của xứ sở. Chàng nghĩ thầm: "Nếu người dân quê nào cũng biết
sự đời được như ông thủ quỹ và bác hộ lại này thì tương lai nước nhà trông chừng
cũng khả quan".
Sở dĩ có ý nghĩ ấy là vì mấy năm trước đây khi chàng mới về
quê ở với mẹ, thì trình độ trí thức của mấy ông đàn anh trong làng thật là thảm
hại. Trong cả một làng chỉ có độ hai chục người biết chữ, cả quốc ngữ lẫn chữ
nho, trong số ấy không có một người nào đọc mà lại hiểu nổi một tờ nhật trình
hàng ngày, cả làng chỉ có một người mua năm một tờ báo. Người ta tranh nhau đọc
báo nhưng mà đọc cái gì? Trước nhất là đọc những tiểu thuyết hoang đường quái
kiệt. Rồi đến những tin vặt, nạn xe cộ, trộm cướp, những vụ hiếp dâm. Không bao
giờ họ hiểu thế giới là gì cả. Những chữ như: hội Quốc Liên, chính phủ Xô Viết,
đảng Xã hội, Nhật đế quốc, phát xít, Hitler, Cộng Hòa v.v... đối với họ đều là
những danh từ không có nghĩa. Cho nên gặp những khi thấy nhật trình đăng những
tin đại khái như: Tưởng Giới Thạch đi tiễu trừ cộng sản... Thủ tướng
Herriot chủ trương thuyết thân thiện với nước Nga... vụ cờ đỏ ở Cao Bằng, 30
người bị bắt... Nga- Pháp đã ký hiệp ước đồng minh v.v... thì họ ngạc
nhiên, thì họ hãi hùng, thì họ kinh hoảng... Không ai cắt nghĩa cho họ hiểu cả.
Ngạc nhiên, hãi hùng, kinh hoảng mãi cũng vô bổ, dần dần họ không thèm để ý đến
những tin tức như đã kể trên. Vị lẽ ngoài những điều ấy, nhật báo cũng vẫn có
những truyện lợn đẻ ra voi, rắn đẻ ra gà, nên chi họ vẫn tranh nhau đọc báo.
Cái chính sách ngu dân đã đắc thắng một cách hoàn toàn.
Bây giờ, sự vật đã thay đổi hẳn. Nhờ có Phú, ông thủ quỹ đã
biết sung sướng khi đọc thấy những dòng: Đảng Cấp tiến, đảng Xã hội, đảng
Cộng sản ở Pháp đã hợp nhất để lập một chiến tuyến Bình dân. Ông lý trưởng đã
lo con giai cả của ông sẽ phải gọi ra lính khi thấy trên báo có tin: Nước
Đức đem quân vào phi chiến khu... Bác hộ lại đã bất bình vô cùng khi thấy
đăng: Nhật và Nga đã ký hiệp ước bất xâm phạm, vì cái chủ trương của bác
ta chỉ là thế giới chiến tranh cho hết khủng hoảng kinh tế.
Người ta bắt đầu ham đọc những bài xã thuyết chính trị, kinh
tế can hệ cho nước nhà, hoặc việc của nước ngoài.
Người ta bắt đầu khinh bỉ những chuyện hoang đường, những
chuyện quái đản, những tin chó chết, mục "Xuân thủ đàm ân"...
Người ta đã hơi hiểu những sự gì can hệ, những sự gì phù phiếm.
Sở dĩ có sự tiến bộ ấy là chỉ bởi một mình Phú nên Phú lấy chỗ
ấy làm tự hào lắm, và cũng được đền bù lại vì cả làng đều coi Phú là một bậc
trí thức.
Mối hoài bão gửi vào ông toàn quyền mới khiến ba người ngừng
chuyện, mơ màng ngửa cổ nhìn lên cung trăng. Trên không ngẫu nhiên có một đám
mây có hình một cái đầu rồng đương vờn mặt trăng là một viên ngọc. Thằng cu Hiền
kêu "Ông, ông, ông"càng to hơn trước, hình như con ngựa tưởng tượng của
nó đương phóng nước đại. Cô Tuất khoan thai vấn lại mớ tóc rối loạn trên đầu.
Trong nhà, cụ Cử vẫn ngồi làm vàng, thoăn thoắt không ngừng tay. Phú tưởng đến
sự vui của gia đình, nếu nay mai Minh được tha hẳn.
Chợt có tiếng giày kêu ngoài ngõ. Mấy người nhìn ra... Ông
chánh Mận đi vào...
- Chào các quan! Bác Phú hẳn chưa đi ngủ! à, họp đây mà!
- Chào ông chánh! Ông ngồi chơi đây! Ngắm trăng suông tuy vậy
cũng có một cái thú...
Cả bọn dọn chỗ cho ông chánh ngồi. Anh hai Cò bỏ hẳn chiếu, kều
được cái mo cau sau lưng thì lổm ngổm lùi về đằng sau rồi ngồi lên. Cô Tuất
chào qua khách một câu rồi ẵm con vào buồng với bà cụ Cử. Phú rót một chén nước,
đẩy cái điếu về phía ông chánh Mận. Ông này nhìn vào nhà, cất cao giọng:
- Lạy cụ ạ! Cụ chưa đi nghỉ...
Không ngừng tay cuốn những thoi vàng, cụ Cử thản nhiên nói với
ra:
- Không dám, chào ông, ông sang chơi.
Thế rồi bốn bề lặng im.
Sự ông chánh Mận có mặt tại đó làm cho mấy người cụt hứng.
Là vì ông chánh là người giàu nhất làng. Ông đã mãn khóa rồi,
nhưng ở xã hội ta, mỗi khi ai có được một chức gì thì sẽ giữ chức ấy được mãi
cho đến lúc chết, cũng như những ông quan vì hối lộ mà mất quan, mà phải tù,
thì cũng vẫn được gọi và vẫn cứ nhận mãi mãi là quan. Tính nết ông này thật khó
hiểu. Độc ác không ra độc ác, hiền lành không ra hiền lành. Lắm lúc hoang ra phết,
lắm lúc lại bẩn thỉu đáo để. Có khi sính làm quan, có khi rộng miệng cả tiếng mạt
sát những kẻ thích quan.
Phú không ghét ông chánh Mận vì cái vô học của ông, song vì
ông ta giàu. Thế mà mấy tháng trước đây, chàng đã phải ở vào một cảnh ngộ khó xử.
Chị Tuất đã hỏi Phú rằng "Ông Mận hỏi tôi làm vợ kế đấy thì cậu tính
sao?". Phú không dám có một ý kiến gì cả, sợ cái trách nhiệm về sau, bảo
chị cứ nghĩ cho chín rồi liệu mà quyết định. Cụ Cử kêu con gái đến lúc đã rổ rế
cạp lại thì cụ cũng chẳng nói gì vào đấy, cũng cho tùy lòng... Cụ chỉ kêu:
"Chỉ bực nỗi người ta giàu có, khó nghĩ lắm". Một đường thì thủ tiết
nuôi con mà ăn hại mẹ, một đường thì trả lại đứa con cho gia đình nhà chồng rồi
đi cải giá, sẽ làm mẹ đứa bé khác... Tuất thấy đường nào cũng đầy rẫy chông gai
nên đã để mấy tháng lưỡng lự. Mà ông chánh thì cứ giục điên, nay tin đi mai tin
về...
Thoạt đầu Phú đâm ra ghét ngọt ông chánh. Nhưng khi nghĩ người
ta giàu và hỏi chị mình, thế không đáng tội, thì chàng nguôi nguôi.
Thấy rằng nếu vồ vập ông chánh Mận là vô ý thức, lúc ấy Phú hết
sức lãnh đạm. Sau, thấy thái độ ấy có lẽ quá đáng, chàng lại phải hời hợt mà rằng:
- Kìa nước đương nóng, ông xơi đi! Thuốc đây, điếu đây... Ông
không có chuyện gì lạ đấy chứ?
Phần I Chương 3:
Cái sân gạch bát tràng là vật sở hữu hoàn toàn của chín con gà
con và con gà mẹ. Với những tiếng kêu cục cục vừa hiền từ vừa nghiêm nghị như
những câu ra lệnh cho kẻ dưới, với hai cánh buông sã xuống như tà áo buộc thắt
đáy của người đàn bà đảm đang lúc vội việc, con gà mẹ oai nghiêm đi tìm đường đời
cho lũ con nhỏ ngây thơ, ríu rít, kêu chiêm chiếp theo sau. Bầu không khí mát mẻ
dử một vài con châu chấu dại dột đã bỏ địa phận của chúng để từ nội cỏ tung
tăng nhảy vào du lịch sân gạch. Ấy thế là... con gà mẹ nghển cao cổ, lóng lánh
hai mắt, quay cổ vài ba lần để soi mắt tìm quanh như những cây hải đăng tự động,
rồi thì, sau khi rú lên mấy tiếng ương ước đầy những vẻ khát máu và tàn sát, nó
văng mình đuổi theo con bọ, nhanh nhẹn tựa hồ một khối bị ném đi... Đàn gà con
còn ngẩn ngơ đứng xúm với nhau thành một tốp, mãi cho đến khi con châu chấu đã
bị hành hạ dưới mỏ con gà mẹ thì cái đống nhung nhúc ấy cũng lại bị văng đi như
một khối khác nữa, hàng ngũ đều đặn như một đạo binh đã được thao luyện chỉnh tề.
Cuối cùng thì một vài con nghển cổ hai ba lần vì nghẹn mồi, và những con khác
chiêm chiếp kêu đòi công lý chung quanh, con gà mẹ lúng túng không biết xử trí
ra sao...
Cây chuối in bóng vào cây rơm. Cây với bóng cao bằng nhau, vì
mặt trời hình như mới mọc từ mặt đất.
Một con chào mào bay đến để điểm thêm, bằng cái đuôi đỏ, một
chấm đỏ nữa cho cây lựu. Nó kêu lên như muốn nói: "Thích tình nào!...
Thích tình nào!..." vì cây lựu là của nó, cái sân là của nó, - bốn bề là của
sự im lặng.
Con gà mẹ chỉ lúng túng có một lát rồi lại nghển cổ đập cánh
vài cái, y như bọn người quen lấy cái xoa tay khu xử những việc khó xử. Tức khắc
sự khiếu nại của những con gà con không được gì thế là hóa ra sự quên. Mẹ dắt
con đi chỗ khác bằng những lời hứa. Và những đứa con phải quên đi vì mối hy vọng
mới, cho nên lại sống thuận hòa với nhau ngay.
Phú đã dậy, còn ngồi ở bậu cửa ngắm nghía cái xã hội loài vật
ấy. Chàng nghiệm rằng nó là phản ánh của xã hội loài người, nhất là xã hội Việt
Nam. Sự nhẫn nhục, những hy vọng luôn luôn kế tiếp nhau, sự chóng quên, sự cầu
hòa, tính thủ phận: đó là những điều kiện gây nên hòa bình sau những khi có những
sự bất công đáng bất bình. Chàng thấy phải hay công phẫn, hay phản đối, phải hiếu
động như người Pháp thì mới nâng được quốc gia lên cái trình độ tiến bộ.
- Cậu Phú đã dậy chưa? Cậu Phú ơi cậu Phú?...
Tiếng gọi réo của ông lý trưởng làm tan hoang mất cả cái thú
vị của buổi sáng. Con chim chào mào bay vụt đi. Đàn gà hãi hùng rủ nhau chạy trốn.
Phú mất trầm mặc, vùng lên, ra đẩy cái cổng tre đón ông lý vào nhà. Đằng sau
ông lý, bảy tám người lạ mặt trông có vẻ lực điền cả mà không vào theo ông lý,
khiến Phú nhớ ra ngay cái việc trông đê. Tuy nhiên chàng cũng cứ hỏi:
- Có việc gì mà ông sang sớm thế?
Ông lý đứng dừng lại vì ngạc nhiên. Ông quay lại đưa mắt cho
Phú để ý đến những người đứng chờ ở ngoài hàng rào. Rồi ông hỏi:
- Thằng cháu tôi nó không bảo gì cậu? Phú cười, vỗ lưng ông
lý, nói:
- Ông hãy cứ vào trong này đã...
- Tôi vội lắm đấy. Còn phải đưa bọn phu này đi ngay cho kịp
sáng hôm nay...
Phú cuốn chiếc mành lên, giải chiếc chiếu ra phản, đi kiếm điếu
thuốc lào, ấm chén. Lúc ấy, cụ Cử cũng đã bị cái giọng gọi réo của ông lý đánh
thức dậy rồi. Cụ còn ngồi lại ở giường vấn lại vành khăn.
- Tất cả làng có hơn một trăm đinh thì hơn một chục ông có
chân tư văn, năm bảy người đi làm xa! Đào ngoáy xoay xỏa mãi cũng chưa được ba
chục. Thật rõ lôi thôi quá... Tôi mà biết trước những nông nỗi thế này thì tôi
không ra hứng lấy việc quan, việc dân... Rõ bực!
- Thế những người lạ mặt vừa rồi?
- Phu đấu làng bên cạnh đấy. Họ ở Hải Dương lên từ tháng trước
đắp nền nhà mới cho cụ án. Họ vừa nghỉ việc mấy hôm nay. Cũng may có họ, không,
chả mượn người đâu được.
- À, ra những ai không đi thì thuê họ.
- Phải. Mỗi lượt, một đồng một người; năm ngày một lượt; hết
lớp ấy tôi lại phải bắt lớp khác.
- Thế không đủ đinh thì ông làm thế nào?
- Tôi hãy cứ đem ba chục phu lên đã. Quan có quở thì tôi hãy
cứ khai bướng là tư văn không đi. Rồi có sao sẽ liệu vậy. Thế còn phần cậu thì
cậu định liệu thế nào?
- Tôi ấy à?
- Thằng cháu nó có bảo gì cậu không?
- Có. Nhưng mà tôi không có tiền...
- Chết! Cậu phải đi xoay chứ? Cậu phải cố cào cấu cho nó ra
tiền chứ? Đi vay mượn chứ!
- Ông bảo vay thì vay ai? Một đồng bạc bây giờ bằng chục bạc
lúc khác...
- Ông chánh Mận ấy!
- Chưa bao giờ tôi nghĩ đến vay tiền ông Mận.
- Cậu khái quá! Cả làng này vay ông ta chứ cứ gì một ai!
- Nhưng mà... tôi thì lại... khác. Nghe đến đấy, ông lý buồn
rũ người ra như thấy tin nhân ngãi chết. Chẳng buồn hút thuốc, uống nước, ông để
tay chống cằm. Hồi lâu ông thở dài:
- Thế cậu định để chết cho tôi hay sao! Việc là việc hữu ích
chung chứ phải tôi tư túi gì? Đấy, cậu xem, vụ thuế vừa rồi tôi đã sạt nghiệp
vì cả làng đấy!
Phú cười khanh khách:
- Ông đừng lo! Tôi không để cái chết cho ông đâu.
Ông lý trưởng lại càng lộ vẻ sốt ruột, cáu kỉnh. Ông nói như
gắt:
- Thế cậu định thế nào?
Ông lý đứng phắt lên tỏ ý giận dỗi vì không tin, Phú cũng đứng
lên lôi hai tay ông ta. Chàng không dám cười nữa, phải nghiêm nghị nói:
- Thưa ông, tôi xin đi phu.
Ông lý hắt tay Phú, nguây nguẩy:
- Tôi không nói đùa! Việc quan không phải chuyện đùa!
Phú làm ra bộ cáu kỉnh:
- Thưa ông, tôi, tôi cũng không nói đùa!
Đến đây, ông lý đứng lặng người ra, ngạc nhiên nhìn. Sau cùng
ông cúi mặt, cậy mấy hạt dử mắt. Ông lầu nhầu:
- Quái thật! Quái thật!
Vừa lúc ấy, cụ Cử hầm hầm đi ra, xỉa xói mãi vào mặt Phú:
- Đã biết chưa, hở con? Đã biết chưa? Nhục! Nhục! Bây giờ thì
mới biết cái chân tư văn là cần nhé! Xưa kia nói thì cứ cang cảng gân cổ ra mà
cãi mãi!
Phú nhớ lại lúc mẹ lấy được một bát họ năm chục bạc để định
mua cho chàng cái tư văn, chàng đã phải hết sức phản đối, hết sức công kích...
Trong hai mẹ con đã xảy ra một trận bất hòa kịch liệt, chỉ vì thương yêu nhau
nhưng mà không hiểu nhau. Phú muốn dùng tiền ấy lợp lại cái nhà mục nát, trát lại
mấy bức vách đã long lở, may cho mẹ và cho chị vài cái quần áo, trả những món nợ
vặt, mua cho thằng cháu bồ côi một cái vòng bạc... những việc tối cần. Sau những
trận cãi nhau khá kịch liệt mà chỉ kết cấu bằng nước mắt, bằng sự hờn, giận,
chàng đã phải hết sức cương quyết cho đến kỳ cùng mới chống lại được cái nạn tư
văn. Cụ Cử đã phải tấm tức nghe theo để may quần cho mình, cho con gái, lợp lại
nhà, trát lại vách - Những việc cụ cho là không cần lắm.
Đến bây giờ...
Nước lên...
Phú định đi làm phu!
Cụ Cử lại xỉa xói hai ba lần nữa vào mặt con:
- Nhục! Giời ơi! Nhục ơi là nhục!...
Phú không kịp nghĩ đến sự thất hiếu với mẹ nữa. Chàng gắt:
- Ô hay! Đẻ làm gì thế? Đi phu thì đã làm sao?
- Nhục! Sức vóc học trò! Rồi ốm! Rồi chết!
Tuy mẹ nói thế nhưng ý nghĩ của con lại trái ngược hẳn. Phú
cho việc mình đi hộ đê là một bổn phận phải gánh vác một cách sốt sắng. Dù là học
trò, chàng cũng thấy mình đủ sức vóc làm những việc nặng nhọc. Chàng lại muốn
dúng tay vào những việc chân lấm tay bùn của đồng bào dân quê để gánh vác đỡ một
phần công lao tối tăm không biết đến của họ. Được gần với cái phần tử khốn khổ
nhất của xã hội, Phú sẽ được dịp quan sát mọi điều, và mong sẽ nuôi được tấm
lòng yêu nước; vì thế chàng đã mơ tưởng đến bao nhiêu cảnh lầm than nó kích
thích mạnh vào tâm hồn chàng, nó làm cho chàng biết đến cái gì là cái há sinh.
Thành thử Phú chỉ thấy việc đi làm phu là chứa chan thi vị. Chàng cứng cỏi nói
bằng giọng một cái chiến thư:
- Ý tôi đã quyết, đẻ đừng nói gì nữa. Tôi ngồi không ở nhà
thì cũng chẳng ích gì. Cụ Cử ngồi xuống bậu cửa khóc. Ông lý trưởng ngán ngẩm đứng
lên:
- Thôi, cậu đi hay cậu vay tiền để thuê mượn thì tùy cậu đấy.
Cứ biết là chốc nữa thì cậu đã phải có mặt tại điếm. Tôi còn sang làng bên giục
nó thuê xe đánh tre đi. Xin cậu nhớ cho nếu có tiền thì là một đồng hai hào tiền
người và tiền cây tre. Bằng không thì cậu chạy bộ một cây tre rồi đem ra điếm
cho tôi. Thôi, xin phép cụ, chào cậu.
Nói rồi ông lý ra hẳn, Phú quay lại hỏi vặn mẹ:
- Đấy đẻ xem! Tôi không đi thì đẻ có chạy được một đồng hai
hào cho tôi không? Đẻ lại khóc nữa thì vô lý quá.
Cụ Cử vẫn sì sụt khóc. Phú lấy con dao rựa ra bụi tre, vén
tay áo bổ vào một gốc. Cô Tuất cũng ẵm con ra sân:
- Cậu nhất định đi phu thật đấy à?
Phú ngừng tay quay lại phân trần:
- Đấy chị xem! Dù có vay tiền được, tôi cũng không muốn đẻ lại
mắc thêm một món nợ. Chứ đừng kể là chẳng ma nào cho mình vay tiền nữa. Mà đi
phu thì đã mất danh giá gì? Việc quái gì? Mình là ông gì mà lại từ những việc bổn
phận mình phải gánh vác? Chị cứ yên tâm.
- Sức vóc cậu làm thế nào những việc của phu phen được?
- Chị mặc kệ tôi.
- Hay là...
- Sao?
- Nói với ông chánh Mận... Phú bất bình mà rằng:
- Thôi đi! Người ta hỏi chị, chị chưa thuận, tôi là ai mà lại
đến đấy vay tiền? Dù người ta đã lấy chị rồi thì tôi cũng không nên nhờ mới phải.
Phú lại quay vào chặt gốc cây tre. Cô Tuất đứng tần ngần hồi
lâu... Khiến em phải nghĩ đến việc ông Mận gạn hỏi. Ông Mận say mê cô Tuất ra mặt.
Ông nói thế trước mặt cả làng. Phú vẫn sợ, lo rằng chị mình sẽ sa ngã, sẽ... phải
lòng người ta chăng. Là vì ái tình nó hút ái tình như điện nam châm hút sắt. Đối
với lòng yêu, cái gì lãnh đạm được? Cho nên Phú vẫn lo trước khi chị mình công
nhiên nhận lời hoặc trước khi việc thành, Tuất sẽ nhẹ dạ, mà đi trò chuyện gì với
người ta chăng. Nhưng không! Tuất là gái có một, trăm phần trăm. Trong hôn sự
Tuất không thấy gì là ái tình. Bằng lòng thì sẽ lấy, không thì thôi, chứ Tuất
không có cái tính thận trọng sợ người ta khổ vì yêu mình, và do thế, tự mua cho
mình một mối tơ vương, nếu mình không lấy người ta vì những lẽ éo le khác.
Không, những cái ấy chỉ bọn gái tân thời mới có mà thôi.
Tuất lại nói:
- Tôi thương cậu quá. Đi phu khổ lắm cậu chưa biết...
Phú quay lại nhìn thì thấy ở mắt chị có hai dòng lệ. Chàng bực
mình mà rằng:
- Chị tưởng anh Minh ở Côn Đảo sướng lắm đấy hẳn? Tôi đi đắp
đê cũng chưa khổ bằng anh ấy đi đập đá! Anh ấy khổ, tôi không cần ngồi khoanh
tay sướng lấy một mình!
- Thôi thế để tôi đi thổi cơm rồi nắm cho cậu vậy.
- Phải. Ngày nào cũng thổi cho tôi hai nắm cơm và một ít muối
vừng, thế thôi. Liệu mà gửi bà Đám từ sáng sớm, ngày nào cũng vậy.
Phần II Chương 1:
Ông huyện bỏ cái nón dứa, ngồi phịch xuống cái ghế gụ kiểu Tầu,
thở hồng hộc. Ngọn đèn con dùng để châm đóm ăn thuốc lào chiếu một ít ánh sáng
vàng vào mặt quan... Một cái mặt xương xẩu, lưỡng quyền rất cao với hai cánh
râu thưa thớt vẽ ra hai vệt bóng đen võng xuống. Một cái mặt sa sầm như giời
trước một cơn mưa rào.
Lúc ấy, bà huyện đương ngồi ở sập, xắt một khoanh giò lụa.
Cách đấy vài thước, tại một cái kỷ nhỏ kê sát vào tường, một chiếc đèn măng
sông đương được Kim Dung tiểu thơ đốt cho mồi cồn thứ hai. Những làn lửa xanh
lè phì lên, liếm quanh cái bấc hình búp đa một cách huyền ảo, kỳ quái...
- Sao mà lâu thế, con? Mau lên để cậu xơi cơm chứ?
- Thưa me không biết sao mãi nó cứ không lên lửa?
- Đốt nữa đi! Nhanh lên!
- Vâng, con đương...
Vừa đến đây, lửa xanh bốc lên kín cả cái bấc sau một tiếng nổ
ục, và ánh sáng đèn vấp phải ánh sáng ở hai hàm răng ngọc và ở hai đuôi mắt tuyệt
đẹp của Kim Dung. Cả cái sắc đẹp lộng lẫy của thiếu nữ hiện ra với tất cả vẻ diễm
lệ, vẻ huyền ảo của một cái hư ảnh. Con đường ngôi thẳng băng, hai mảnh tóc đen
lay láy lòa xòa rủ xuống cái trán nở nang... với đôi má đầy đặn có nhung tơ như
của hai quả đào. Kim Dung mê man nhìn vào cái măng sông như chìm đắm trong những
điều bí mật của khoa học.
Bà huyện nhìn ra ngoài hè thấy anh lính lệ đương khoanh tay dựa
lưng vào cột mà nhìn giăng sao trên giời như một nhà thi sĩ thì bảo:
- Kìa, lệ không vào cởi giày cho quan đi à?
- Dạ.
Quan vẫn ngồi thừ người ra, mắt lim dim... Cái áo tơi sau
lưng, cái khăn trên đầu, đôi giày ống bó dưới cẳng. Lính lệ quỳ xuống đất vừa
toan tháo đôi ống ra thì quan chợt mở mắt, từ tốn giơ cánh tay ra, xua... Lính
lệ đứng lên, lại ra ngoài hè với cái cột. Bà huyện ngơ ngác nói:
- Để nó tháo giày, ông đi xơi cơm chứ? Bảy giờ rồi còn gì!
Vẫn không nói gì cả, quan đứng lên, ra sập để lại ở ghế cái
áo tơi ủ rũ nó dần dần gục xuống như một người ngủ gật. Quan ngồi ghé ở sập
nhìn vào mâm cơm. Con chim xào, đĩa trứng muối, đĩa củ cải đen, đĩa thịt gà,
bát canh rau cải, không làm cho nét mặt quan thay đổi gì cả. Bà huyện xới xong
bát cơm mới hỏi:
- Hay ông xơi một cốc rượu cao cho nó tỉnh?
Thấy chồng vẫn không đáp, bà huyện nghiêng mình mở tủ chè lấy
nậm rượu và cái cốc để ra mâm cơm. Bà vừa rót đầy cốc rượu vừa bảo con gái:
- Dung ơi Dung! Con ra quạt cho cậu vài cái đi!
Dung bỏ cái đèn, vớ chiếc quạt ở kỷ, ra ngồi sau bố, vừa che
miệng cười vừa phe phẩy mấy cái, nửa lần khân, nửa tôn kính. Mãi đến lúc ấy,
ông huyện mới nói:
- Chết mất! Khó lòng thoát vỡ đê!
Vợ cau mày nghĩ vẩn vơ hồi lâu rồi hỏi:
- Sao? Nước lên to lắm à?
Chồng vẫn nhỏ nhẻ nhai cơm một cách khó chịu như phải làm một
việc bần cùng, nét mặt vẫn đăm đăm, trí não để cả vào một ý nghĩ. Kim Dung nói
một cách rất ngây thơ:
- Sắp lụt ạ, hở cậu? Thế thì thích lắm đấy nhỉ? Từ bé đến giờ,
con chưa được trông thấy vỡ đê bao giờ đấy!
Mẹ mắng con gái:
- Im! Để cậu mày xơi cơm!
Dung vừa cười vừa cãi:
- Thì con làm gì đâu nào?
- Con nói những câu ngu dại lắm! Ngần ấy tuổi đầu rồi mà...
Vì đương ở vào cái tuổi trẻ, cái tuổi sung sướng, cái tuổi nó
làm cho người ta ở vào bất cứ việc gì, bất cứ trường hợp nào cũng có thể lạc
quan để cười đùa được. Dung cãi lại:
- Con tưởng phải lụt chớ? Thỉnh thoảng cũng phải có một tai nạn
gì xảy ra thì bọn phụ nữ chúng con mới có dịp lập chợ phiên hay đi quyên tiền để
làm việc xã hội chứ?
Thấy con gái nói thế, bà mẹ chẳng biết dạy bảo ra làm sao nữa.
Thật vậy, Kim Dung là hạng gái tân thời, có sắc, cũng đã có đi học, mà trước
khi chờ có người đến rước thì chỉ còn một cách giết thì giờ ở sự nay tìm mốt y
phục ở một tờ báo này, mai tìm một mốt đánh kem đánh phấn khác ở một tờ báo
kia. Vì lẽ bà cần quảng cáo cho con gái lắm, óc bà chỉ bận có một việc là mong
được làm thông gia với một ông quan cao chức hơn ông huyện để gia đình được
thêm thanh thế trong quan trường, nên không dịp nào có thể để Kim Dung khoe sắc
đẹp trước công chúng mà bà lại để lỡ... Sáu tháng trước ở tỉnh có mở một cuộc
quyên tiền giúp Hội bài trừ bệnh lao do bà công sứ chủ tịch thì Kim Dung đã
quyên được nhiều tiền nhất, và đã được bà công sứ hết lời ngợi khen. Do thế,
ông huyện cũng được quan trên có ý bằng lòng. Bà huyện đã mãn nguyện ở chỗ Kim
Dung cứ việc vừa ăn chơi vừa nhảy đầm cũng đã đủ giúp ích cho bố mẹ. Do thế những
bộ y phục tân thời rất kỳ lạ của Kim Dung không còn tính cách xa xỉ đàng điếm nữa
mà đã được bà huyện coi trọng như những vật thần thánh bất khả xâm phạm. Do thế,
trước kia ông huyện mắng con gái về tội lãng mạn một cách kịch liệt bao nhiêu
thì về sau ông lại im lặng một cách gan góc bấy nhiêu. Theo cái thói phép nhà
quan, việc gì lấy được lòng quan trên là được coi trọng, chẳng cứ nó trái với
sách luân lý. Vì vậy, Kim Dung càng được bố mẹ yêu chiều. Nàng không phải chỉ
là một tiểu thư, con gái một ông huyện mà thôi, nàng là một vị công chúa nữa.
Nàng muốn mặc gì thì mặc, muốn nói gì thì nói, muốn ăn gì thì ăn, muốn chơi gì
thì chơi.
Thấy cả bố lẫn mẹ đều có ý chịu mình, Kim Dung lại nói:
- Con ước rằng có lụt thì lụt cho sớm!
Ông huyện làm như không nghe thấy, đưa mắt nói với vợ:
- Lo lắm, mợ ạ. Mỗi lần nước lên một ít thì lại một lần nghiệm
thấy rằng đê đắp phần nhiều bằng cát chứ không phải bằng đất. Cái bọn thầu đê
láo thật! Chuyến này mà vỡ thì rồi nhiều người khổ.
Bà huyện chép miệng:
- Kinh tế thế này mà lại còn vỡ đường nữa thì dân quê ắt rồi
trộm cướp tứ tung.
Ông chồng ra vẻ bực mình mà rằng:
- Khi tôi nói nhiều người khổ không phải là tôi nói dân quê
mà là tôi nói hạng quan lại như tôi! Nếu mình có gan thì không kể, nhưng mình lại
không có gan, ấy khổ là vì thế! Chứ không thì giàu! Vô số người sẽ giàu về dịp
này! Mình không ăn thì mình dại!
Nói đến đấy, ông mới sợ hãi nhìn ra ngoài hiên... Không thấy
tên lính lệ đấy nữa, ông gật đầu một cái thì bà huyện kệ nệ xích lại gần chồng,
nghiêng đầu nghe nói thầm...
- Mợ tính nào là bắt phu, bắt tre, ở tỉnh thế nào người ta
cũng cho là mình gặp dịp béo bở, dù không ăn người ta cũng cho là ăn. Như thế
không ăn cũng dại. Nếu mà vỡ đê nữa thì họ lại càng tin là mình kiếm chác được
nhiều...
Bà huyện vì chưa bao giờ được làm việc quan, nhất là lại việc
quan vào những lúc vỡ đê, nên rất kinh ngạc. Bà trợn mắt, cái miệng thành ra
tròn y như một chữ o. Mãi mới lắp bắp:
- Kiếm chác?... Vỡ đê mà lại còn kiếm chác?
Ông chồng nổi nóng:
- Bẩm vâng ạ! Nếu vỡ đê thì tất có nhiều chuyện lôi thôi! Tất
rồi có thằng lý trưởng này bị cách chức, thằng chánh tổng kia được bát phẩm! Rồi
còn cứu tế, còn chẩn bần!
Mặc dầu ngu dại là giống đàn bà, khi người ta đã là vợ một
ông huyện thì người ta cũng phải thông minh trước những câu cắt nghĩa mập mờ ấy.
Bà gật gù mà rằng:
- Àà!
Chỉ có cô con gái là không hiểu nên tức khắc hỏi:
- Thế là thế nào?
- Im! Im ngay, không được nói leo vào chuyện người nhớn!
Mắng con gái rồi ông lại khẽ nói với vợ:
- Nói thế là bà đủ hiểu. Mình không kiếm chác thì cũng chẳng
yên được với họ!
Bà huyện chép miệng một cái, nghĩ ngợi đến nhăn đặc cả cái mặt.
Rồi nói:
- Thôi thế thì tùy cậu... Nghĩa là mình phải giữ gìn, ăn cho
có nhân có nghĩa thì thôi, chứ mà cứ theo đúng lời dặn của cụ Cố nhà thì cũng
không được... Ừ, mà còn bao nhiêu người chứ mình có nuốt trôi một mình được bao
giờ đâu!
Đến đây cả hai vợ chồng cùng nghĩ đến cụ Cố! Cụ Cố năm nay đã
trên bảy chục tuổi. Ra làm quan từ đời vua Tự Đức, cụ đã xin từ chức, khi thành
Thăng Long thất thủ, quyết giữ chữ trung, mặc dù cụ không vào đảng Cần Vương. Một
năm sau, nhận thấy các bạn hữu cũng lục tục kéo nhau ra làm quan, lại nhân có dịp
một ông thống sứ về tận làng triệu, cụ lại ra làm quan để theo cái thuyết tùy
thời. Các bạn hữu vẫn bảo cụ:
"Nước mất thì đã mất rồi, mà dân thì vẫn còn. Giữa lúc
này, nếu hạng sĩ phu không ra nhận cái trách nhiệm làm cha mẹ dân thì người
Pháp phải nhấc bọn thông ngôn "lục tỉnh", bọn bồi bếp lên làm quan. Cứ
để bọn ấy chiếm hết mọi địa vị trong quan trường thì thật chỉ hại cho dân, sỉ
nhục cho nước. âu là bọn khoa mục chúng ta tùy thời mà gánh vác việc nước còn
hơn". Thế là cụ ra nhận chức, bỏ mặc ngoài tai những sự hờn giận của một bọn
sĩ phu khác ngụ trong bốn chữ "làm quan với Tây". Cụ tin rằng cứ giữ
thanh liêm cũng đã là một cách giúp nước, không câu nệ vì những lời câu chấp.
Mà quả nhiên cụ cũng đã giữ được thanh liêm cho đến lúc về hưu trí với số hưu bổng
khá hậu và một cái ngũ đẳng Bắc đẩu bội tinh. Lúc còn làm quan, cụ thường khinh
bỉ những kẻ nhũng lạm, những ông quan vì nghề làm quan mà giàu. Bây giờ, đến
lúc con giai cụ lại từ chức tham tá cai trị ra làm cha mẹ dân, cụ vẫn phải dặn
con cố giữ thanh khiết cho khỏi phạm đến danh dự của cụ mà cụ bảo một cách hơi
kiêu ngạo là của cả gia tộc.
Vì lẽ nhà nho Bắc kỳ dễ không còn ai là không biết sự thanh bạch của cụ, nhất là lại cái cảnh một người Tây đen đem mõ tòa đến hỏi nợ cụ, định bỏ tù cụ, mà cụ chỉ khoan thai lấy Bắc đẩu bội tinh ra đeo vào ngực rồi ung dung đứng lên nói: "Vâng, ông là chủ nợ mà ông muốn bỏ tù, tôi cũng xin vui lòng..." để cho viên mõ tòa phải cáo lui sau khi xin lỗi rất khẩn khoản. Cụ cho điều ấy đủ làm chứng cho cả cuộc đời thanh liêm của một ông Tổng đốc và không còn sự gì vinh dự đáng khoe khoang hơn. Không hối lộ! Chỉ có thế là được nên quân tử, cụ bảo con cụ đến hàng nghìn lần rằng đừng nên phạm phải cái điều rất dễ theo ấy.
Vì lẽ nhà nho Bắc kỳ dễ không còn ai là không biết sự thanh bạch của cụ, nhất là lại cái cảnh một người Tây đen đem mõ tòa đến hỏi nợ cụ, định bỏ tù cụ, mà cụ chỉ khoan thai lấy Bắc đẩu bội tinh ra đeo vào ngực rồi ung dung đứng lên nói: "Vâng, ông là chủ nợ mà ông muốn bỏ tù, tôi cũng xin vui lòng..." để cho viên mõ tòa phải cáo lui sau khi xin lỗi rất khẩn khoản. Cụ cho điều ấy đủ làm chứng cho cả cuộc đời thanh liêm của một ông Tổng đốc và không còn sự gì vinh dự đáng khoe khoang hơn. Không hối lộ! Chỉ có thế là được nên quân tử, cụ bảo con cụ đến hàng nghìn lần rằng đừng nên phạm phải cái điều rất dễ theo ấy.
Ông huyện đã nghe theo lời khuyên bảo ấy những khi nào ông
không nghe theo không được, những khi nào ông sợ nguy hiểm, và đã không nghe
theo những khi nào ông có thể không nghe theo. Do đó, những sự bực tức, những
lúc oán giận bố mỗi khi ông tự lừa dối mình mà tưởng rằng ông không chóng giàu
chỉ tại có một sự khuyên ngăn của cụ Cố. Dần dần việc khó chịu ấy làm cho ông đổi
chương trình. Đáng lẽ chỉ ăn những món nhỏ, thì ông quyết định là cứ ăn cả những
việc lớn, miễn là ăn cho được công được việc, có nhân có nghĩa, không là ăn liều
thì thôi!
Ông huyện quyết định như thế. Ông ăn cơm thấy ngon. Vợ ông lại
nói như xui như giục ông:
- Đấy, cậu xem! Hai bát họ mỗi bát hai nghìn để chạy chọt ra
làm quan! Đã bao lâu nay, đến họ cũng chưa đóng hết! Như người ta thì đã tậu ô
tô rồi! Lắm lúc nghĩ giá cứ làm tham tá thì lại sướng mà chả đến nỗi đến lo mất
ăn mất ngủ...
Ông huyện lặng thinh trước lời trách cứ. Ông chan đầy canh
vào bát cơm, và lùa luôn mấy đũa rồi vứt bát đứng lên. Con gái ông vẫn ngồi thừ
ra, lưng dựa vào tủ chè, mơ mộng như ngồi trước một cái máy ảnh. Chợt có một hồi
gót giày tây nện vang lên.
- Lạy quan lớn ạ!
Một người to béo, mặc quần áo đi săn, lưng có đeo một khẩu
súng hai nòng, đứng sững trên thềm mà cười như lệnh vỡ... với anh lính lệ nét mặt
hoảng hốt đứng bên cạnh. Ông huyện rộ lên:
- Àà! Anh Khoát! Cơn gió nào thế, hở giời?
Người khách bước vào, không bông phèng nữa, cúi đầu chào bà
huyện:
- Lạy bác ạ! Kìa, cháu Dung... Tôi tạt vào xin ngủ trọ, mai
đi săn sớm.
- Không dám ạ, lạy bác. Đun nước đi, chúng bay.
Nói xong, bà ra hiệu cho con gái tháo sang phòng bên. Không
có đàn bà trẻ con đấy nữa, hai người bạn được phép tỏ tình thân mật ngay tức khắc.
- Thế nào, mày? Mày làm quan độ này có khá không?
- Nước chó gì! Chán chết!
- Thôi đi, đừng nói phét! Ông biết tỏng ra! Dân huyện mày nó
kêu như cháy đồi! Dù sao đi nữa thì nghề làm quan vẫn còn kiếm ăn được.
- Thế mày, độ này mày có phát tài không?
- Tối nguy! Chí nguy! Rượu thì bị rượu Fontaine hạ giá, rượu
lậu nó cạnh tranh dữ dội! Xe thì vừa rồi một chiếc lăn mẹ nó xuống sông, một
chiếc nhảy lên vồ phải đầu xe lửa! Kiện nhau mấy tháng chưa biết thua được ra
làm sao! Buôn bán cái gì cũng hỏng, chết mất, mày ạ.
- Ừ, báo cũng có đăng, tao cũng đã biết...
- Đấy, mày xem! Mày không cứu ông thì ông tự tử mất!
- Tao làm gì được?
- Quan thầy mày vừa sang bằng chuyến Henri Rivière đấy thôi.
Mày chả phất thì còn ai mới phất?
- Chưa chắc. Thế mày muốn gì?
- Ông... Ông chỉ muốn xoay một vố! Nhân vụ đê điều này, có
cái số tre đấy ắt ăn được. Mày để tao thầu cho nhé? Nhất là lụt thì ông hả quá!
Mày ạ, tao có hai nghìn tấn gạo sắp mốc, thế có chết không? Với lại bốn nghìn
bao gai mà phòng Thương mại nó không lấy nữa, chó thế. Mày thử nghĩ hộ tao xem
có cách gì làm tiền...
Đến đây, ông khách ngừng lại. Vì người lính lệ đã mang khay
nước ra. Ông tháo súng, cởi cái thắt lưng đầy những ổ đạn, tháo cả giầy ống.
Pha xong nước, người lính lặng lẽ lùi ra.
- Mày ngủ đây chứ? Khoát?
- Thì đã hẳn. Mai tao đi săn sớm. Bảo nó trông cái mô tô của
tao cho cẩn thận ở sân ngoài.
- Được. Lâu nay anh em mình chưa có đêm nào đôi hồi được vài
câu tâm sự nhỉ? Thế thì để tao phải bảo nó dọn cái món "xương khướu"
mới được.
- Thuốc phiện ấy à?
- Chứ gì nữa!
- Thế thì nhất! Người Việt Nam ở thế kỷ hai mươi này lại
không hút thì còn ra cái thể thống chó gì nữa! Bảo ngay đi thôi!
Quan nhìn về phía sau lưng, thấy con gái đứng sau rèm, ông
huyện gật lại, khẽ nói:
- Này con! Con nói với mợ bảo thằng bếp nó làm một con gà
nhé? Sửa soạn cho cậu ăn cháo đêm. Bảo mua ít nem chua nhắm rượu, trứng gà
tươi, lạp xường, ca la thầu ăn cháo, cái gì cũng phải đủ. Và gọi cho cậu thằng
lính.
Khi thằng lính vào, ông lại hất hàm một cái, ra cái hiệu lệnh
bí mật bằng cách nắm hai tay lại, để lên mồm, như người ta thổi một cái tù và
tưởng tượng.
Người lính cúi đầu, mỉm cười, lùi ra.
Phần II Chương 2:
Quãng đê chạy ngòng ngoèo theo hình một chữ ạ dài độ bốn cây số.
Nước sông đỏ ngầu đã dâng lên chinh phục đến gần mái những
thôn xã ở ngoài đê.
Giữa dòng sông, những củi rều, gỗ, cành cây, lá cây, những thứ
hoa, quả rừng rất kỳ quái, hoặc lẻ loi, hoặc bám nhau thành từng mảng mà chung
quanh có bọc bọt ngầu, trôi theo dòng nước, phăng phăng. Đủ hiểu là nước to ghê
gớm lạ thường, và nỗi lo sợ của dân quê là đáng kể từng giờ, từng phút. Quãng
đê ấy cách huyện lỵ độ chừng hai cây số, và cách Lục đầu giang độ chừng mười
tám cây. Vì lẽ là chỗ hiểm nghèo, hiểm nghèo vì thế đê lại gần huyện lỵ, nên sự
hộ đê và những cách canh phòng rất là chu đáo, nghiêm ngặt. Ba trăm người! Ba
trăm người đã đào đất, khiêng đất, đổ đất, đóng cọc tre, đan rọ, đan phên... Ba
trăm người trong số ấy thì độ sáu chục là đàn bà và trẻ con, người thì thay chồng,
thay anh, đứa thì thay bố, thay mẹ. Phú cũng có mặt trong đám người xấu số ấy,
cũng chân lấm tay bùn như họ. Từ sáng sớm cho đến chiều, cắt quãng bằng bữa cơm
trưa độ nửa giờ để nghỉ ngơi.
Dân phu đã muốn xin ngừng tay, nhưng bọn người trông nom họ
như cai lục lộ, thầu khoán Nhà nước, nhân viên sở công chính, đã bảo họ nên cố
làm cho đến tối mịt hãy nghỉ. Cơm nước? Thì cần gì cơm nước nếu ai ai cũng phải
lo nạn vỡ đê nó sẽ hại tính mệnh sản nghiệp hàng vạn người!
- Cố đi ít lâu rồi cơm nước nghỉ ngơi một thể.
Một người cai khố xanh đã cưỡi xe đạp dạo một lượt và nói thế
với bọn lính và bọn lý dịch có phận sự đốc thúc bọn phu. Thế là từ cai cho đến
lý dịch và lính khố xanh, những câu chửi rủa thô tục, những cái roi mây giơ lên
vụt xuống không tiếc tay đã gọi vào khuôn phép những kẻ nào không tuân lệnh
trên bằng sự uể oải. Chốc nữa, chỉ chốc nữa thôi, là quan huyện ra khám đê. Sợ
vạ "chôn chân" hoặc bị cách, sợ bị rầy la là chểnh mảng phận sự, bọn
lính, lý dịch và cai đã không công nhận cái đói, cái khát, cái nhọc mệt của ba
trăm phu, người lớn, trẻ con, đàn bà. Về phần phu thì đã đói lắm, và rất căm tức
sao cái bọn cai quản họ lại không biết cho đến nỗi khổ sở, cả vật chất lẫn tinh
thần, của họ. Nhưng bọn người này - Chọc gậy xuống nước - Tin vững vàng đó là
dân phu lười biếng, không có lương tâm về phận sự, nên giả cách đói khát nhọc mệt
đó thôi. Họ có một mối tín ngưỡng quái lạ: đối với dân ngu, lôi thôi là cứ đánh
bỏ mẹ.
Mặt trời gần khuất sau một dãy núi. Trên không gian, da trời
đã từ màu xanh lơ mà ngả về màu xám xịt. Những đám mây vàng, trong khoảnh khắc,
lần lượt hóa ra cá vàng, rồi đỏ ửng, rồi tía, rồi xám, rồi lại trắng toát ra,
khi mặt trăng lấp ló sau một ngọn gạo cổ thụ to như một cái bánh đa.
Trên đê, người ta chạy đi, rồi lại chạy lại. Sự tấp nập giả dối
lại ồn ào, hỗn loạn và nghiêm trọng hơn cả cái áy náy về phận sự. Thỉnh thoảng,
chỗ này, chỗ kia, một tiếng mắng chửi, một câu văng tục, một tiếng đét của cái
roi mây, những tiếng rên rỉ, hoặc kêu khóc, hoặc lầu nhầu... Trong những việc
công cộng như thế, người ta lại thấy cái tinh thần giai cấp hiện ra đến nỗi
ngang tai chướng mắt, vì một bọn người vô tích sự, nhờ tài sản hoặc chức vụ, đã
tưởng là mình có quyền, cái quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, là hành hạ
một bọn người khác đông đúc hơn, tuy có ngu dốt hơn nhưng mà vất vả hơn, hữu
ích hơn.
Đã mấy hôm nay, hàng trăm phu phen đã làm việc từ sáng sớm đến
tối mịt, dưới những sự tàn nhẫn như thế. Đêm đến, họ túm tụm nhau dưới mấy dãy
lều cọc tre mái lá, hở đằng trước, hở đằng sau, hở hai bên. Cái nhọc, cái rét,
những cơn gió phũ phàng, những hạt mưa lạnh toát, đã làm xong cái gì mà công việc
đào đất, khiêng đất, những câu mắng chửi, những cái thượng cẳng tay hạ cẳng
chân, v.v... hãy còn bỏ dở. Đó là cảnh địa ngục giữa cõi trần.
Những dân phu ấy bị đủ mọi tai trời ách đất, nạn bã rượu lậu,
nạn trộm cướp, nạn hối lộ, nạn tổng lý, đã bị dồn vào cảnh ngộ cực kỳ khốn nạn,
đã phải tranh giành nhau đến nỗi có khi gây án mạng vì một việc làm thuê gì đó
để lấy mỗi ngày ba xu, mà bây giờ vì bổn phận làm dân, đã phải mỗi người đem một
cây tre với hai cánh tay ra cứu vớt một hai sào ruộng hay cái lều gianh của họ,
hòng cứu vớt hàng nghìn vạn mẫu đồn điền của những ông chủ phưỡn bụng khác, cứu
vớt đường hỏa xa, con đường nhựa của những chiếc xe hơi hình cánh cam, hay những
cái cột dây thép mà những ông quan lớn dùng để đánh điện tín cho thân bằng cố hữu
lúc các bà lớn đẻ con, hay các cô khuê các tiểu thư hẹn với nhân tình. Trong
khi làm việc ích chung đó thì họ không làm nổi cái việc ích nhất cho họ, là cái
miếng cơm nuốt vào bụng. Quan trên đã hứa sẽ giả tiền công. Đã mấy ngày lời hứa
vẫn chỉ là lời hứa. Những người không kiếm nổi ba xu một ngày thì chết đói ấy,
đã phải lần hồi xoay xở thế nào cho có được một người làng thổi cơm ở làng đem
đến chỗ đắp đê cho mà ăn; là vì trong số ba trăm phu phen, chỉ có hai trăm là
cùng đinh của ba thôn giáp giới với đê, còn hơn một trăm là dân các làng xa năm
cây số, mười cây số, hai mươi cây số, có khi hơn thế nữa. Không một ai lại đủ
tư cách mua cơm nắm muối vừng của một mụ béo có khuyên vàng nặng trĩu ngồi bán ở
cái lều cạnh điếm ở trên đê, một mụ đầu cơ lợi dụng, bóp cổ dân nghèo, không rõ
người nhà ông thầu khoán, hay ông cán lục lộ, hay chân tay thân thuộc của ông
quan.
Đứng dưới một hố đất sét, bên cạnh một cái cột bằng đất bên
trên chỏm là cỏ xanh mà người ta để nguyên để đo xem thùng đấu đã đào sâu xuống
là bao nhiêu, Phú đứng giụi tay, cậy những cái móng tay cáu bẩn trắng xóa.
Chung quanh chàng là anh hai Cò, ông nhiêu Đơ, ông xã Đấu, với mấy người làng nữa,
những người cho rằng Phú đi làm phu hộ đê thì không những là một sự lạ mà còn
là một sự đáng vui. ở làng được kính nể bao nhiêu, ở đây Phú cũng được giúp đỡ
như thế. Không ai quên Phú có cái sức vóc học trò. Người ta đã cặm cụi làm những
việc khó nhọc để Phú cầm một cán cuốc giữ cho lấy lệ, và nói chuyện gì cho vui
chung. Thoạt đầu Phú thấy thế là đáng sỉ nhục cho lương tâm, song dúng tay vào
mới biết rằng những công việc của dân quê thì chàng không có sức nào kham nổi.
Phú cầm cái cuốc giơ lên cũng đã đủ thấy nặng và mỏi tay. Mới vài ngày mà quần
áo vải trắng của chàng đã thành ra như quần áo nâu vậy. Chàng cặm cụi, hí hoáy
được một lúc thì cái đói đã đến đánh thức cái dạ dày. Phú luôn luôn nhìn đến
gánh cơm có hai cái mo cau đậy trên. Nhưng chưa có lệnh nghỉ tay... Chàng suy bụng
mình ra bụng người, thấy cái đời người dân quê là khổ nhục, không đáng sống.
Chàng bỗng căm tức dân quê lắm, và tự hỏi: "Tại sao hàng mấy nghìn năm rồi
mà họ vẫn cứ thế mà cũng sống được?" Phú hối hận đã không đi vay tiền thuê
phu. Chàng lại cho rằng dân quê tuy vậy mà sướng, sướng ở chỗ khổ mà không biết
mình khổ. Thói quen! Đến thế nào nữa mà cũng quen đi là xong; mà hạnh phúc, nếu
không có cách khác, ắt phải kiếm nó ngay trong lòng mình. "Họ khổ nhưng họ
không thấy khổ, âu là mặc quách họ!".
Phú đương đứng ngây người ra nghĩ thế thì chợt bị một bàn tay
cục mịch đập mạnh vào vai. Quay lại, Phú thấy đó là một người cai, không biết của
sở lục lộ hay của thầu khoán, với cái áo vải vàng, cái quần nâu bó trong xà cạp,
đôi giày đen to tướng ở dưới, cái nón dứa cũ ở trên, với một cái mặt lỳ lỳ có
những vết nhăn ác nghiệt, do cái nghề nghiệp nó ảnh hưởng ra cả ngoài hình
dáng. Người ấy trỏ tay vào mặt Phú nói:
- Thằng này! Tao để ý đến mày đã nhiều! Mày chỉ vờ vĩnh thôi.
Liệu thần xác!
Điên ruột lên, Phú cự lại:
- Nhưng mà tối rồi! Ông thử trông xem! Cũng phải nghỉ tay để
còn ăn uống chứ!
- Quan chưa có lệnh cho nghỉ!
- Quan nào! Làm gì có quan nào ra lệnh nào! Nếu có quan ở đây
thì đã không đến nỗi... Chỉ có bọn các ông là bắt nạt dân quê thôi.
Người cai giơ luôn cái roi mây vụt mạnh vào Phú đánh đét một
cái rồi khoanh tay đứng nhìn. Phú nghiến răng lại, vì roi đánh trúng bắp thịt
cánh tay trái. Chàng xuýt xoa, rồi thừa lúc bất kỳ vô ý của người kia, chàng
xông lại, bàn tay phải nắm chặt dùng hết sức đấm một cái rõ mạnh vào hàm. Không
kịp đề phòng, anh kia loạng choạng về phía sau, bị một vết thương kín khá nặng.
Cái nón rơi ra, cái roi mây cũng rơi. Anh hai Cò, bác nhiêu Đơ, bác xã Đấu, vừa
ngạc nhiên, vừa kinh hoảng, đã ngừng tay làm việc để sửng sốt... Đến lúc nói được
lên tiếng rồi, người cai kia vừa nhặt nón, nhặt roi, nhảy đến mặt Phú mà rằng:
- Mẹ kiếp! Quân này giỏi thật nhỉ! Dám cả gan đánh lại người
Nhà nước phỏng! Ông thì trói cổ lại giam mày một đêm cho mày biết thân...
Nói rồi xông vào túm ngực Phú. Hai người giằng co nhau, vật lộn
nhau, chực đẩy ngã nhau. Bọn người làng của Phú bổ đến can khéo, tháo gỡ. Giữa
lúc bối rối cuống quít thì ông lý làng Phú hấp tấp chạy xuống. Nhanh trí khôn,
ông kêu to:
- Chết chửa! Sao thế, cậu giáo! Sao thế ông cai?
Rồi ông đứng vào giữa, lại nói rầm lên, cốt cho người cai kia
để ý đến chức "cậu giáo" mà ông tặng cho Phú. Khi nghe thấy rõ rồi,
người cai kia cũng hơi chột dạ, đứng ngẩn mặt ra đấy, tiến thoái lưỡng nan. Ông
lý nói thêm:
- Chết! Cậu giáo con cụ lớn tôi đấy không phải là dân ngu
đâu, ông đừng nên thế. Nếu không ngồi chễm chệ ở nhà mà lại đi làm phu hộ đê là
vì cậu ấy chơi ngông, thích như thế đấy thôi, ông đừng lấy làm lạ.
Đến đây, người cai chòng chọc nhìn kỹ Phú từ đầu đến chân. Rồi
nói:
- Sao nó lại dám đánh giả tôi mới được chứ?
Hăng hái thêm lên, Phú đáp:
- Mày đánh tao thì tao lại tha mày à?
Cuộc cãi cọ chưa kết liễu thì từ trên đê, một bác lính khố
xanh đã tập tễnh nhảy xuống. Bác ta xông xuống thùng đấu, hỏi xách mé:
- Cái gì? Lôi thôi gì, hở cái bọn này? Làm sao? Đầu đuôi làm
sao?
Không biết đối phó thế nào với cách dọa nạt gián tiếp của thầy
lý dịch của Phú, người cai kia la rầm lên:
- Cậu giáo chứ nhất là cậu cả giời! Đây chỉ biết làm phu mà
không chăm việc thì đây đánh, mà bị đánh mà đánh giả lại người Nhà nước thì...
không được!
Phú khoanh tay, hách dịch:
- Ừ, thế đấy! Muốn làm gì thì làm!
Người cai lục lộ xin với người lính khố xanh:
- Ông cứ lôi cổ nó lên quan cho tôi!
- A-lê đi! Cứ biết lên quan đã.
Nhưng chợt từ một cái điếm trên đê có một hồi trống cái tùng
tùng đưa ra. Mấy người làng của Phú cũng vội reo lên:
- A! A! Được nghỉ tay rồi! Ta cơm nước đi, anh em ơi!
Phú nói vào giữa mặt người lính:
- Đây... Phải, đây cũng ăn cơm chơi cái đã.
Ông lý trưởng thì cuống cuồng lên mà rằng:
- Thôi, tôi xin cậu giáo, cậu đừng bướng với người Nhà nước
như thế! Thôi, tôi xin khuyên hai ông, đây là cậu giáo con cụ lớn làng tôi, hai
ông đừng có quá tay quá miệng mà rồi rầy rà lôi thôi.
Không biết nghĩ thế nào, người lính bảo người cai:
- Để hỏi quan xem nên thế nào đã.
Trong khi Phú tự do ra ngồi ăn cơm nắm muối vừng với mấy người
làng thì người cai và người lính kéo nhau lên đê. Mười phút sau, ở một điếm
canh bước ra, hai người lại hùng hổ kéo xuống thùng đấu, vào lúc trời sắp tối mịt...
Lại một hồi trống dài nữa vang lên. Lý dịch, lính tráng chạy
dài trên đê ra cái lệnh rằng ai ai cũng phải xếp dọn xẻng cuốc, thúng mủng lên
cả mặt đê một lượt.
Người lính và người cai dẫn Phú vào cái điếm gạch trong có một
ngọn đèn đất để trên một cái bàn, cái bàn cạnh cái ghế, cái ghế dưới một người
đương hí hoáy viết lách. Phú đoán hẳn đó là một viên chức cán sự công chính. Quần
áo tây vải vàng, giày ống, một đôi kính cận thị trên sống mũi, một cái roi cá
đuối đeo bên lưng. Người ấy vừa viết vừa uống nước ở cái cốc sắt, nắp một cái ống
ủ nước. Sau cùng người ấy ngẩng lên hỏi:
- Cái gì?
- Bẩm quan lớn, nó đánh lại tôi, nếu quan lớn không nghiêm trị
để làm gương cho kẻ khác, thì ắt tôi không trông nom nổi, mà cái dân vùng này
cũng đã bất trị lắm.
Người tham tá lục lộ ấy nóng nẩy hỏi ngay Phú:
- Thằng này, sao mày dám đánh lại người có quyền trông nom
mày?
Thấy Phú không đáp, người ấy gắt:
- Ô hay? Mày câm hay sao?
Phú bèn nghiêng đầu khinh bỉ đáp bằng tiếng Pháp:
- Thưa ông, nếu ông là một viên chức thì ít ra tôi cũng là một
người công dân! Và tôi xin nói thẳng ngay rằng lối mày tao của ông là sai với lời
dặn của quan trên và lại tỏ ra cái tư cách của người kém giáo dục! Ông không là
quan cai trị cái chỗ này.
Người cán sự kinh hoảng lên, không ngờ một tên phu đi hộ đê
mà lại có học thức như thế, bướng bỉnh như thế. Thật là bất ngờ! Muốn giấu cái
hổ thẹn, người ấy nói với anh lính và anh cai:
- Thôi, cứ đi đi, để rồi chốc nữa thì quan huyện đến.
Rồi bảo Phú cũng bằng tiếng Pháp:
- Vâng, thế thì ông cứ đứng đấy mà chờ quan sở tại!
- Hân hạnh vô cùng.
Bên ngoài có tiếng nạt nộ lẫn nhau rất xôn xao. Quan đến thật.
Cùng đi với quan có một đoàn nha lại lính tráng. Quan vào điếm, bắt tay viên chức
lục lộ, ngồi xuống một cái ghế mây có người nhanh tay đưa ra. Một thiếu nữ ăn vận
xuềnh xoàng, đội nón Huế, đi giày kinh, cũng theo quan vào điếm.
Lời nói thứ nhất của quan là mắng con gái:
- Ô cái con bé này hay nhỉ? Ai cho đi mà đi thế?
Dung nũng nịu như quanh đấy không có ai nữa, cười trừ mà rằng:
- Thì cậu để yên con quan sát mọi sự thì đã sao!
Quan hỏi người sở lục lộ tình hình đê điều, mực nước lên xuống
một vài con số. Bên ngoài, bọn lý dịch rúc tù và, hò nhau đốt đuốc, chẻ nứa, tiếng
quát tháo, tiếng hỏi, tiếng đáp, xôn xao... Quan bảo một thầy thừa gọi các lý dịch
đến điếm nghe lệnh. Một hồi tù và rúc liên thanh. Khi có trước mặt mình một số
đông người mà người nào quần cũng ống thấp ống cao, toét mắt, khăn khố lúng ta
lúng túng, quan huyện hoặc khen ngợi, hoặc quở trách, tiếng đồng sang sảng.
- Mày khất đến bao giờ? Sao hơn trăm phu mà mày lại gọi có ba
chục? A, quân bay giỏi nhé? Ông lại cách cổ mày đi bây giờ!
Người phó tổng mặt tái xám, run lẩy bẩy, để cho Kim Dung đứng
sau lưng bố bịt mồm cả cười một cách rất đỗi ngây thơ. Cái tuổi trẻ nhìn sự gì
cũng không thấy bi đát.
- Bẩm quan lớn, chúng con chưa kịp sức cho dân gian, chỉ đến
mai là cùng, thể nào cũng phải cố sống cố chết để đúng lệnh quan lớn!
- Cái quân này không làm gương cho chúng thì dễ không xong mất!
Lính đâu?
- Dạ!
- Gọi mấy thằng phu đào ngay cho tao một cái hố ngay trước điếm
này đây
- Bẩm lạy quan lớn, xin quan lớn xét cho nỗi khổ tâm của
chúng con, thể chẳng được mà thành ra không tròn phận sự.
- Câm ngay! Im cái mồm! Mày muốn chôn chân hay mày muốn mất
cái phó tổng thì bảo ông một thể!
- Bẩm lạy...
- Im ngay! Lính đâu! Đào hố ngay, chốc nữa tao quay về mà
chưa thấy nó bị chôn chân thì chúng mày đừng có trách!
- Dạ!
- Chánh tổng Xuyên Lư, chánh tổng Quýnh Cao, chánh tổng Hội
Lãm đâu?
- Dạ! Dạ!
- Ba trăm phu thì chia làm hai bọn, một bọn ngủ đến ba giờ
đêm thì phải dậy thay bọn kia mà đốt đuốc soi chân đê cho kỹ lưỡng không có mà
mắt cáo nó xói... Canh phòng cho thật cẩn mật, trống lệnh phải điểm luôn.
- Bẩm vâng.
- Đốt đuốc tao đi khám đây.
- Đàn bà trẻ con thì thôi, tha cho chúng nó được ngủ.
Quan sắp đứng lên thì viên tham lục lộ nói mấy câu tiếng tây
trỏ Phú. Quan huyện lại ngồi xuống ghế, ra hiệu cho Phú đến đứng trước bàn. Từ
đây trở đi, Phú được cô tiểu thư chú ý đặc biệt.
- Sao mày to gan thế? Đánh lại người Nhà nước! Gớm nhỉ?
- Bẩm tại nó dã man quá sức, và đánh tôi trước.
- Tại sao thì nó mới đánh mày chứ?
- Quan lớn có trông thấy thì mới hiểu cái dã man của chúng
trong lúc chúng hành hạ dân quê.
- Tên mày là gì? Đưa xem thẻ.
Phú đưa thẻ. Quan ngẫm nghĩ rồi hỏi một câu khiến cho ai đứng
đấy cũng phải ngạc nhiên:
- Thế bao giờ ông Cử được tha?
Phú cười nhạt:
- Bẩm, ông tôi chết tại Côn Đảo đã lâu rồi.
- Giáo Minh liệu có được tha không?
- Bẩm có, tin tức riêng mà chúng tôi nhận được cũng đã đích
xác.
- Thế thầy đừng có lôi thôi sinh sự với họ nữa nhé!
Trước sự bực tức im lặng của viên tham lục lộ, ông huyện trả
thẻ thuế thân cho Phú rồi ra. Trước khi ra theo bố, Dung quay lại nhìn trộm
Phú, và Phú cũng biết rõ thế.
Phần II Chương 3:
Khi Phú mở mắt choàng dậy thì dưới chân chàng, nước mưa đã đọng
lại thành một vũng lớn. Chung quanh chàng, dưới cái lều trống trải, bốn chục
người nằm co quắp, chồng chất lên nhau mà ngủ, ngổn ngang, lổng chổng, như một
lớp cá mè, trên mặt cỏ hai lần giát tre ngăn đón sự ẩm ướt của đất, nó là một
thứ đệm gồ ghề chẳng hiền lành cho những cái lưng của bọn người ngủ. Bọn này gối
đầu vào ngực, vào lưng, vào đùi, vào cẳng nhau, dùng những cái áo tơi lá gồi phủ
một lượt lên trên làm chăn. Họ ngáy o o, mặc lòng gió thổi từng cơn ào ào, mặc
lòng khi một người tức ngực, tê đùi, mỏi lưng mà muốn trở mình thì ít nhất cũng
phải đẩy một cái đầu, quẳng một cái cánh tay, hất một cái cẳng của vài ba người
khác, nghĩa là làm cho cả bọn phải cựa cậy lục đục.
Một lần nữa, những cái thế nằm tuy có đổi mà kỳ chung sự hỗn
độn vẫn nguyên là sự hỗn độn, vì những cái đầu này lại chúi vào những cái đít
khác, cái chân của người nọ lại đặt lên một cái mặt người kia! Một giấc ngủ,
tuy vậy, cũng thần tiên. Một đống người, tóm lại, sung sướng, nếu cái ngủ là
phương pháp cuối cùng chống với cái đói.
Lúc ấy, trời đã hửng sáng. Phú đứng lên vươn vai, sau khi đắp
lại một cái áo tơi cho ông xã Đấu, người có một cái lưng lực điền mà Phú đã
dùng để gối đầu cũng như chàng đã đem cả người chàng để che chở thay cho chăn.
Việc thứ nhất của Phú, cũng như của tất cả mọi người lúc trở dậy, là xem lại
túi áo hay hầu bao có còn nguyên vẹn cái thẻ thuế thân không. Sau những khi ăn
nằm thân mật với nhau, người ta phải đề phòng sự ăn cắp, chứ không tin ai được,
mặc lòng chẳng người nào có cái gì đáng cho một kẻ khác lần lưng móc túi. Khi
thấy cái thẻ, mấy đồng xu buộc trong một cái khăn tay vẫn nguyên vẹn trong túi
áo, Phú bước ra khỏi lều.
Vì không ngủ được, Phú hóa ra trở dậy sớm nhất, tựa hồ một
người siêng năng. Nhưng những con chim nhạn lại còn siêng năng hơn Phú. Lần đầu
trong đời, Phú được dịp thích mắt khi thấy hàng trăm con chim đen ấy nhoang
nhoáng liệng như tên bay trên mặt sông, dốc đê, mặt ruộng, để hớp mồi, hai cánh
thả rộng, cái đuôi như chữ V. Phú nhớ đến những chuyện đời xưa mà cổ nhân gán
cho loài chim có thi vị ấy những cái trách nhiệm nặng nề...
Nhưng mà, kìa, từ những điếm gạch, một vài bác quyền đã bước
ra, cái roi mây đã sẵn sàng ở tay. Một hồi trống. Năm phút im lặng. Lại một hồi
trống nữa. Trong khoảnh khắc, mặt đê lúc trước vắng ngắt, nay đã lố nhố mấy
trăm con người. Lính tráng, lý dịch, cai cú, đã cắt đặt ỏm tỏi. Trước sự sung
sướng chung, người ta hò reo với nhau rằng mực nước đã rút xuống được hai gang
tay! Dân phu hộ đê, do thế, ít ra cũng đỡ khổ, dẫu là được một ngày. Vẫn phải
làm việc, điều ấy cố nhiên, nhưng sự đốc thúc hẳn không còn gay gắt tàn tệ như
ngày hôm trước. Một vài người đã bắt đầu muốn trốn về thăm nhà.
Hồi trống thứ ba đã lại bắt đầu nổi lên. Cái hiệu lệnh cho
người nào cũng phải đến chỗ người ấy, phu đào đất xuống thùng đấu, phu đan sọt
ra chỗ có những đống tre xanh... Nhưng mà, lần này, dân phu, đáng lẽ tản mát đi
mọi nơi, thì lại họp nhau lại cả một chỗ.
Người ta chợt nhớ rằng đã làm việc năm hôm. Theo lệ hộ đê xưa
nay, cứ tốp này làm việc năm hôm thì được tha về. Nhà nước lại gọi tốp khác.
Người ta nhớ lại quan trên đã nói rằng Nhà nước xử nhân đạo, sẽ trả tiền cho mọi
người. Vậy thì phải kêu ca: con không khóc, khi nào mẹ lại cho bú? Cho nên dân
phu, người lớn, trẻ con, đàn bà, khi thấy sắp được tha về mà chưa được biết tin
tức gì về công xá, đã họp nhau lại để kêu... Một vài cái roi vọt chẳng đủ họ sợ.
- Chúng tôi muốn biết quan trên có tha chúng tôi hôm nay
không?
- Để nhờ ông lý nói lên ông chánh tổng hộ!
- Rồi các ông chánh tổng nói lên quan huyện.
- Không phải đánh! Không phải chửi!
- Chúng tôi không làm gì nên tội mà phải đánh chửi như thế!
Thế là xong! Đám dân đã bắt đầu bất trị. Một vài bác lính
quay lại sợ hãi cái nhẫn tâm của mình. Bọn lý dịch ngơ ngác gọi nhau, đi tìm một
vài ông chánh tổng lúc ấy còn ngồi uống nước, hút thuốc trong điếm. Một bác lý
trưởng ra điều giỏi việc quan, gân cổ diễn thuyết:
- Các người làm gì mà nhặng lên thế? Quan trên đã có lệnh gì
đâu mà lý dịch biết được! Có tha cho về thì cũng hết hôm nay đã chứ, sao mới bảnh
mắt đã đòi về? Thì hãy cứ làm đi đã xem sao nào!
Dân hộ đê chẳng ai dám nói nửa tiếng. Họ thì thào với nhau,
xui giục nhau, cãi cọ nhau. Thấy tình hình khốn nạn ấy, Phú chạy lên hàng đầu
thay mặt họ:
- Thưa các ông lý dịch! Chỉ có bây giờ chúng tôi mới họp nhau
được, chứ nếu chia đi các ngả rồi thì ai cho chúng tôi họp nhau nữa mà kêu! Các
ông xét cho! Chúng tôi vất vả năm hôm nay rồi! Chúng tôi còn phải lo sao cho
cha mẹ, vợ con ở nhà khỏi chết đói! Nhà nước bảo có trả tiền công mỗi ngày xu
năm một người, vậy thì tiền đâu? Có thực mới vực được đạo chứ?
Người cai lục lộ đánh nhau với Phú hôm trước nói leo vào:
- Ấy cái thằng ấy nó chẳng làm được việc gì mà nó kêu la to
nhất!
Một người phu hộ đê khác nói bướng:
- Không được ăn thì bố ai làm được! Chúng tôi sợ gì? Chúng
tôi chỉ cầu vỡ đường vỡ xá thôi! Có thế may ra nhà nước mới xóa thuế, chứ hoa mầu
chúng tôi chẳng có chó gì mà chúng tôi sợ!
Người lý dịch phát cáu:
- Để chờ quan ra đây rồi nói! Ông tóm cổ mày lại để rồi mày
nói thế với quan!
Con giun xéo lắm cũng quằn, cái công phẫn của quần chúng đã bị
kích thích mạnh. Hốt nhiên có tới ba mươi người xông lên hàng đầu, sừng sộ:
- Có tóm cổ, xin tóm cổ tất cả! Ngần này người tình nguyện sẽ
nói thế!
Đâm hoảng, người lý dịch ấp úng:
- Có tha về thì cũng đến tối chứ?
- Chúng tôi kêu ngay bây giờ thì vừa!
Phú xua tay ngăn hai bên, rồi khoan thai:
- Không thể được! Nếu tha về thì các ông nên tha vào lúc xế
chiều, vì ở đây có nhiều người ở xa hàng hai mươi cây số! Đến tối thì chúng tôi
biết lần đường nào mà về! Vậy tôi xin hỏi rằng các ông lý dịch đã bắt lớp phu
khác thay cho chúng tôi chưa?
- Lý dịch khác thì ai biết đâu đấy! Các anh nói ngu lắm!
Chúng tôi ở đây là trông nom các anh, mà các anh được về thì chúng tôi cũng được
về chứ gì!
Phú chả để mất cơ hội, vội phân bua:
- Ừ! ấy thế! Mà đã thế thì các ông đừng đàn áp dân phu nữa,
mà kêu ca hộ dân phu có phải hơn không?
Ông lý trưởng làng của Phú cũng nói với các lý dịch:
- Phải đấy! Anh em ta phải nhân đó mà kêu lên quan, rồi mà
cùng về.
Đây kia một ông chánh tổng. Ông đến nói khuấy khóa, giọng lè
nhè:
- Chào ôi! Chưa được việc gì cả mà đã om xòm lên. Vẫn biết
Nhà nước có giấy sức đi là trả tiền, nhưng chưa đủ giấy má thì chưa có tiền chứ
sao? Giấy còn tư về tỉnh, rồi tỉnh mới lại tư về huyện chứ? Phải chờ đợi việc
quan là thường chứ? Thôi quan sắp ra rồi! Ai vào phận sự người ấy! Hãy cứ biết
hộ đê đi đã, bao giờ có lệnh quan hãy hay! Các người giải tán đi!
Phú nói:
- Xin cụ biết cho rằng mực nước đã xuống! Như vậy dân phu mới
dám họp nhau kêu cụ, nhờ cụ kêu lên quan cho! Chúng tôi khổ lắm rồi!
Người chánh tổng lè nhè:
- Tôi lên huyện đây! Để tôi xin kêu! Nhưng mà cứ đi làm việc
đã!
Phú quay lại nói với dân phu:
- Ấy đấy! Sự tình là thế đấy, tùy các người xử trí.
Ba trăm người ấy lầu nhầu một hồi dài. Nhưng chưa chi, độ một
trăm người đã vội giải tán đi các ngả. Một trăm người khác nữa, chột dạ, cũng
giải tán theo. Còn lại một phần ba những kẻ bướng bỉnh nhất thì bị bọn lý dịch,
lính tráng bắt giải tán bằng chửi rủa hoặc roi vọt.
Thế là, sau một lúc ỏm tỏi hỗn loạn, đâu lại vào đấy cả.
Phú lẳng lặng xuống thùng đấu với mấy người làng. Chàng lại
căm tức dân phu hơn là bọn người có phận sự cai quản họ. Phú cho rằng đối với
người trên, cùng dân phải hết sức nỗ lực, hết sức cương quyết, mới mong được việc.
Trái hẳn lại, cái hăng hái của dân quê chỉ như lửa rơm, chưa nhóm đã tàn. Như vậy
chỉ là trò trẻ, và những nguyện vọng chính đáng đến đâu rồi cũng bị khinh thường.
Đã vậy, cái thất bại bây giờ còn đẻ ra bao nhiêu cái thất bại khác về mai sau.
Dân quê! Dân quê khổ sở, bị áp chế chỉ vì thất học, mà đã thất học thì lại càng
bị áp chế cho không thể học được nữa; như vậy, biết làm thế nào cho họ hành động
nổi một việc ý thức được.
Cạnh Phú, anh hai Cò, anh xã Đấu, mấy người đàn bà... lại
chăm chỉ làm việc, tựa hồ không có việc gì xảy ra. Phú thở dài, lầm bầm:
"Nhẫn nhục ở đâu là một nết tốt, thì ở đây chỉ là một điều tai hại".
Lúc mặt trời đã lên cao quá ngọn tre, bọn phu được nghỉ tay để
cơm nước. Lý dịch và tuần tráng xúm xít nhau lại ở cái hàng cơm cạnh điếm của mụ
béo có đôi khuyên vàng. Được thả lỏng trong chốc lát, phu phen lại thấy cái cần
phải bảo nhau quyết tìm một phương kế đương đầu lại mọi áp bức. Chẳng để lỡ dịp,
Phú cầm một nắm cơm ở tay chạy vội đến một thùng đấu khác đông đàn ông nhất, cổ
động lên tiếng:
- Tôi nói thật cho các ông biết, chứ dễ thường quan đã phát
tiền cho lý dịch rồi mà bọn lý dịch tuần tráng ăn chặn của mình đi cũng nên!
Các ông không biết tự cứu lấy thân thì các ông chết!... Phải phản đối kỳ cùng
cho lòi những kẻ gian tà ra mới được.
Nói thế xong, Phú lại chạy về chỗ cũ. Từ đấy trở đi, những
câu "ăn chặn, gian lận" đã từ miệng kẻ nọ bay đến miệng người kia.
Trong chốc lát, mấy trăm người đều công phẫn, xót xa về nỗi bị bóc lột. Họ bảo
nhau lại kéo nhau lên đê... Lần này, khôn hơn, họ mang theo liền tay cả xẻng, cả
cuốc, hoặc không thì cũng một thanh tre to tướng. Đó không những là một vụ đình
công, mà còn là một vụ biểu tình. Và khi dân biểu tình lại có cả "khí giới"
trong tay thì ấy là họ dại dột tự đem thân dấn vào chỗ chết.
Sau khi cơm nước, bọn lý dịch và tuần tráng kinh hồn hoảng
vía, khi họ quay ra ngoài hàng cơm mà đã thấy dân phu xúm lại rất đông. Người
ta hoảng hốt chạy trốn. Một người lính khố xanh cắm cổ phóng xe đạp về huyện.
Hai ông chánh tổng chạy đến nỗi khăn khố xổ tung trên vai, lòng thà lòng thòng.
Dân biểu tình hò hét om xòm:
- Những đứa nào ăn chặn tiền thì sẽ biết!
- Đồ khốn nạn! Đồ ăn cướp cơm chim!
- Chúng ông cứ moi gan những quân nhũng lạm đã, rồi chúng ông
liệu!
- Rồi chúng ông trói mình nộp cửa công một thể!
- Phải làm cho quan tỉnh biết rõ mọi việc!
Phú luống cuống, không biết cách nào ngăn họ lại nữa... Cái
đám quần chúng hiền lành bình tĩnh ấy đã muốn sinh sự. Một lần cơn phẫn uất
trong đáy lòng của họ bị một lời cổ động nguy hiểm khêu nhóm lên, đánh thức họ
tỉnh một giấc ngủ mấy nghìn năm. Đáng lẽ chiến đấu một cách hòa bình, cương quyết
và khôn ngoan, thì đó là những cử động mạnh bạo một cách dại dột. Họ không còn
biết nghe lời lẽ phải trái gì. Phú thấy bối rối cả tâm trí, khi một tên cai lục
lộ và một anh tuần tráng dã man có tiếng, bị phu phen đánh cho một trận nên
thân.
Nửa giờ sau thì quan huyện ngồi trên xe nhà, đến với sáu người
lính khố xanh. Trông thấy súng ống, dân quê mới kịp hoảng sợ. Đến khi sáu cái
súng nổ chỉ thiên thị uy một lúc, cái đám dân phu đáng thương bỏ chạy tan tác,
xô đẩy lẫn nhau, giày xéo lên nhau... như một đàn ruồi ở sau mông con bò, khi bị
cái đuôi bò đập một cái.
Sau cuộc hỗn loạn, số bị thương vì xẻng của phu là bốn đứa trẻ
con, hai người đàn bà. Rồi thì... sau cùng, đâu lại vào đấy.
Trên đê, hai trăm phu khác mới đến, do một bọn lý dịch khác
chăn dắt.
Phú bị một người lính khố xanh áp giải về huyện lỵ với cái tội
cầm đầu biểu tình.
Phần II Chương 4:
Kim Dung rất ngạc nhiên vì không thấy bố ngủ trưa. Xưa nay,
thường lệ, ông huyện vẫn nghỉ đúng lối Tây phương, và vào những giờ ấy, ai có
việc gì can hệ đến đâu cũng phải chờ cho đến lúc quan thức giấc.
Từ hôm mực nước lên to, tuy việc quan có vất vả hơn thường nhật,
ông huyện cũng vẫn giữ nguyên giờ ngủ mà chỉ thay đổi cách ngủ. Đáng lẽ bỏ áo
dài vào nằm giường tây trong phòng, ngủ hai tiếng đồng hồ, thì ông để nguyên cả
quần áo, ngả mình trên cái sập gụ giữa nhà khách chợp mắt độ nửa giờ... Quả đất
có thể không quay nữa, chứ ông huyện mà không ngủ trưa thì không xong.
Vậy mà, hôm nay, cơm nước đã xong từ lâu, ông cũng vẫn cứ
nguyên lễ bộ ngồi đợi ở phòng khách. Bà huyện lo lắng hết sức, cho rằng trong
việc cai trị hẳn có sự gì lôi thôi. Bà đi ra, đi vào, luôn luôn nói: "Được
cái tiếng làm quan thì lo mất ăn mất ngủ". Dung cũng lây cái nỗi lo sợ về
cớ ấy. Nàng ngồi ở ghế bên cửa sổ, sẵn lòng chờ bố có sai bảo gì không. Nàng đã
pha sẵn ấm chè mạn sen, phòng có khách đến. Đáng lẽ Dung ra chỗ lô cốt nghe
ngóng một việc gì nhưng vì phòng khách trông thẳng ra con đường nhỏ dắt đến tận
nhà giam, nên ông bố không ngủ đi, thì nàng sẽ không được phép ra chỗ cấm ấy.
Dung nóng lòng sốt ruột hết sức, căm tức cái đồng hồ nó cứ muốn kéo dài mấy giờ
của buổi trưa ra... Mãi chẳng đến lúc ông huyện ra công đường!
Sáng hôm ấy, tình cờ lúc ra phố huyện mua thức ăn, Dung đã
trông thấy một dân quê bị giải về lô cốt giữa hai người lính. Dân hàng phố đổ
ra xem rất đông, bàn tán huyên thuyên... Để ý nhìn kỹ anh chàng bị bắt, Dung hoảng
hốt thấy rõ ràng chính đó là người thiếu niên con một cụ Cử, em ruột ông giáo,
mà lại đi làm phu hộ đê, cái người đã được bố mình tỏ vẻ kính trọng, lúc bị đòi
hỏi tại điếm, đêm trước. Trong óc Dung lúc ấy bỗng nảy nở ra một câu hỏi:
"Vì lẽ gì?" Phải, một người như thế mà bị bắt tất nhiên không thể vì
đã làm điều phi pháp nhỏ nhen như những người bị bắt trước được. Thốt nhiên
Dung băn khoăn một mối lo sợ, như lo một việc gì can hệ có dính dáng đến Dung.
Nàng đã về, và về nhà rồi mới biết rằng trong sáu thứ phải mua thì nàng đã quên
mất hai thứ thực phẩm. Cảnh tượng ấy có một sức ám ảnh ghê gớm làm cho một thiếu
nữ vô lo, vô lự, sống một cuộc đời thảnh thơi sung sướng, lương tâm nhẹ lâng
lâng, ích kỷ chẳng biết mình ích kỷ, vì không bao giờ quan tâm đến sự đau khổ của
kẻ khác, bỗng đâu hóa ra như kẻ tha thiết yêu đời.
Chẳng phải lần đầu Dung trông thấy cảnh bắt bớ.
Từ khi mới về huyện, còn đương say sưa tưng bừng ở cái chức
tiểu thư con một vị phụ mẫu, Dung đã thấy bố mình hoặc thân hành đi lùng bắt,
hoặc ký trát cho sai nha đem xiềng xích đi tìm những người nấu rượu lậu giải về
huyện; trong số ấy có khi Dung thấy ông cụ già mù lòa, hoặc bà lão tóc đã bạc
phơ, hoặc một người đàn bà toét mắt có đứa con bụng ỏng đeo sau lưng - những
người vừa đi vừa mếu máo, khóc lóc kêu oan, trông đáng thương vô cùng. Những
khi ấy, quả tim của Dung đã từng thổn thức. Nàng thấy bọn người ấy có lẽ oan thật,
mà bố nàng cứ bỏ tù thì thật là quá đỗi nhẫn tâm. Tự nhiên Dung thấy lương tâm
cắn dứt, thấy nghề làm quan của bố là một nghề xấu, thấy cái nhân loại thật quả
đầy dẫy những mối đau thương đáng bất bình. Đã có lúc Dung thấy xấu hổ là con
gái một vị quan phụ mẫu mà công việc đại khái chỉ là như thế.
Những phút trạnh lòng hiếm có ấy lại bị những lý do khác xóa
sạch, mỗi khi, tối đến, Dung thấy bố phàn nàn với mẹ về việc quan. Nào là quan
trên rầy la về trong huyện có nhiều người nấu rượu lậu quá, đến nỗi rượu tá ế ẩm,
như vậy hại cho quỹ nhà đoan, mà để công quỹ hao hụt thì cái thang công danh
kia rất khó trèo. Bị khiển trách luôn thì có khi mất quan, nếu Dung không phải
cam chịu suốt đời là con gái một ông huyện và chẳng có hy vọng gì sẽ được là
con ông phủ, con ông án. Hai nữa, nếu chẳng "việc quan xin cứ phép
công", mà lại xử nhân đạo với bọn người tuy đáng thương nhưng rất có tội
kia, thì ấy là nguy hiểm ngay cho mình, về manh áo, về miếng cơm. Dung chợt
nghĩ đến cái áo tân thời trong tủ, cái nhẫn kim cương ở ngón tay, con chim xào
trên mâm cơm, thì lại thấy bố là không làm gì đáng trách. Trông thấy một cảnh bắt
bớ đến lần thứ hai thì quả tim của Dung đã không đập mạnh nữa. Lần thứ ba, Dung
thản nhiên hẳn, thấy mọi sự chỉ là thường. Sau cùng thì nàng quen mắt đi, thế
thôi.
Nhưng lần này, việc Phú bị giam khiến Dung bất thần lại quay
trở về với những mối xúc động ngây thơ, với những cảm giác thứ nhất... Người đã
làm gì nên tội? Sao con một ông Cử, mà lại phải đi đắp đê? Gia thế người ấy
thanh bạch đến nỗi như thế nào? Liệu người ấy có được tha không? Nếu bị án, sẽ
bị độ bao nhiêu tháng tù? Nếu vào tù, ai nuôi mẹ, ai trông nom vợ?
Những câu hỏi không có câu đáp như thế khiến cho Dung quả quyết
tự nhủ; ta phải săn sóc việc này mới được. Nghĩ thế thì thấy lòng tự ái của
nàng được nâng niu lắm, vì trong đời hiện có một người mà số phận là đương ở
trong tay nàng. Là con gái một ông quan, thì cũng đã đủ là một thứ thế lực.
Dung sẽ dò hỏi, sẽ vận động hộ, nếu người bị bắt là không có tội, nếu cảnh ngộ
người ấy đáng thương... Dung sẽ khôn khéo hành động thế nào để lung lạc ông bố,
và lại cần phải giữ cho bố khỏi biết đến ý nghĩ ấy.
Dung đương nghĩ thế thì ông bố đã bảo:
- Sang phòng bên đi, con!
Đứng thập thò ngoài thềm, đó là một thiếu niên mà Dung thấy
quen mặt. Người ấy mặc áo the, đi giày ta, đội mũ tây, có một cái răng vàng
trong hai hàm răng đen. Dễ thường gặp Dung ngoài phố mấy lần người ấy đều đã có
ngả mũ kính cẩn chào, để Dung cũng phải lễ phép đáp lại, tuy chẳng hiểu người ấy
là ai cả. Dung đứng lên đem khay nước ra bàn, rồi sang phòng bên cạnh, lắng tai
nghe. Thì ra đó là một tay phóng viên nhà báo.
- Bẩm quan lớn, thấy ngài cho gọi là chúng tôi đến ngay...
- Có một tin quan trọng lắm, ông ạ. Nếu ông dùng điện thoại
mà đánh về nhà báo thì tôi chắc ông chủ báo cũng hoan nghênh hết sức... Ông ngồi
xuống đây mà chép luôn đi, tôi đọc cho.
- Bẩm xin phép quan lớn.
Tay nhà báo ngồi xuống ghế, lấy quyển sổ tay để ở bàn, lấy
bút chì hý hoáy viết... Ông huyện khoanh tay ngồi đọc như một ông giáo đọc ám tả
cho học trò.
- "Phải chăng là một đảng viên cách mệnh? Ba trăm phu
toan làm reo. Người cầm đầu cho bọn phu hộ đê là một thiếu niên trí thức cũng
nhập bọn với dân quê để tiện việc xui giục họ. Tin riêng của đặc phái viên bản
báo.
Viết xong mấy dòng ấy, tay nhà báo ngẩng đầu lên, ngừng tay
ngẫm nghĩ một lúc lâu, rồi hỏi:
- Bẩm, ngài làm ơn thuật qua câu chuyện cho chúng tôi hiểu rõ
đầu đuôi đã, thì có lẽ... tiện hơn.
Nhưng ông huyện cau mặt, xua tay một cái mà rằng:
- Thì ông cứ viết đi có được không? Xưa nay, bao nhiêu tin tức
quan trọng tôi vẫn đọc cho ông viết thì ông có phải chữa lại mấy tí đâu nào!
Thấy thế, nhà báo lại cúi đầu xuống phục tòng để cho ông huyện
đọc tiếp:
- Công việc hộ đê vẫn tiến hành rất gấp ở huyện T. thì mới
đây xảy ra một vụ bắt bớ quan trọng. Nhờ sự tận tâm về phận sự của quan huyện sở
tại là một người rất mẫn cán, quãng đê V. mới năm hôm nay đã có thêm được một
con chạch cao 50 phân tây, và do thế, dân mấy phủ huyện đã có hy vọng tránh được
thủy tai. Chẳng dè hôm vừa đây, khi mấy trăm dân phu đương tiến hành công việc
thì một người đã đứng ra xui giục họ đình công, đương đầu lại với quan sở tại.
Nguyên do dân phu có tụ họp nhau lại một chỗ đòi tiền công. Quan huyện đã phải
cắt nghĩa rằng còn đợi lệnh của quan Công sứ đã, Nhà nước tuy có hứa sẽ trả tiền
nhưng sự thật là huyện chưa nhận được tiền. Ngờ đâu đã chẳng biết nghe lời nói,
dân phu lại còn dùng đến khí giới toan đánh lý dịch, chống lại người Nhà nước...
Đến đây, ông huyện ngừng lại ba phút, hỏi ông phóng viên:
- Thế nào? Nghe xuôi đấy chứ? Ông thử đọc qua lại một lần
chúng ta nghe xem...
Phóng viên nhà báo ho khạc để dọn cổ họng. Rồi ngoan ngoãn đọc
lại những dòng đã viết. Quan gật gù cái đầu, khoái chí, lại hỏi:
- Có được không? Văn Chương gọn ghẽ, dễ hiểu...
- Bẩm vâng.
- Khúc chiết đâu ra đấy lắm đấy chứ?
- Bẩm vâng.
- Thôi thế ông cứ việc chép đi!
- "Nếu không có sự điều đình rất khôn khéo của viên tri
huyện sở tại thì ắt đã xảy ra một cuộc bạo động, một vụ đổ máu ghê gớm. Trong
khi mấy trăm dân hộ đê hung hăng vác xẻng cuốc khiêu khích lính tráng và lý dịch
đánh đập một người cai và một người tuần đến nỗi bị thương rất nặng, thì quan
huyện đã phải ra lệnh cho đội lính khố xanh bắn súng chỉ thiên để thị uá nên họ
mới chịu giải tán và lại chăm chỉ làm việc. Xét ra bọn này có người cầm đầu. Sợ
nguy hiểm về sau, ông huyện đã cho bắt giam H. V. Phú, vì tên này quả thực đã
diễn thuyết xui dân phu đình công. Ngay khi xảy ra vụ xung đột này, bản báo đặc
phái viên đã tức tốc đến tận nơi điều tra rất kỹ lưỡng... H. V. Phú vốn là con
cái một họ có tiếng là bướng bỉnh và nguy hiểm. Phụ thân của y, anh ruột y, đã
vì chống lại chính phủ mà bị đày đi Côn Đảo. Đến nay, y lại len lỏi vào đám dân
quê, cũng đi làm phu hộ đê, để nhân cái phong trào đình công này, mà làm rối trật
tự. Vậy thì H. V. Phú là người của V.N.Q.D.Đ. hay là người của Moạcou? Đặc phái
viên bản báo còn đương mở cuộc điều tra, được tin gì sẽ đăng tiếp".
Ấy thế là xong cuộc "điều tra" của ông "đặc
phái viên" kia. Ông chép xong, lại đọc cho ông huyện nghe lần nữa. Ông huyện
bảo:
- À, ông viết thêm vào hộ câu này nữa...
- Bẩm, thêm chỗ nào?
- Ấy! ấy... sau câu "giải tán và lại chăm chỉ làm việc"
thì ông viết thêm vào đại khái rằng:
"Lúc giải tán thì dân phu chạy hỗn loạn, có mấy người bị
thương là vì xẻng cuốc của dân phu va phải mà nên nỗi, chứ lính tráng không phải
đánh đập ai cả".
Chép xong đâu đấy, báo giới lại kính đọc để quan trường nghe.
Thật là ý hợp tâm đồng. Một mẩu tin vặt thế mà ngài cứ bình văn mãi, như ngâm
nga những áng thơ kiệt tác vậy.
- Bẩm, thế quan lớn lấy cung chưa?
- Dạo này tôi bận việc đê điều, bao nhiêu án từ phải để cụ lục
cụ ấy làm hộ cả đấy chứ. Này, gửi dây thép ngay đi nhé! Có kịp số báo ngày mai
không?
- Bẩm, ít ra cũng phải đến ngày kia thì báo mới có đăng cái
tin này được.
- Ở chơi đã! Uống nước đi vậy! Thuốc đây!
- Thôi, để quan lớn nghỉ trưa. Cám ơn quan lớn lắm.
Nhà báo xếp dọn giấy má bỏ túi, uống nước, hút thuốc, chào
ông huyện, rồi cáo lui. Thế là Dung lần đầu trong đời nàng, đã được biết rõ những
cái ẩn tình của một vụ bắt bớ, và cái vô lương tâm của một nhà báo.
Phần II Chương 5:
Khi thấy đồn người làng đã được "tha phu", cô Tuất vội
vàng ẵm con lên lưng, chạy thẳng một mạch ra gốc gạo. Thấy cô Tuất từ đằng xa,
ông lý đã vội từ đống người lố nhố đương đi ấy nhảy xổ ra ngoài hàng ngũ, và vẫy
tay gọi cô. Tuất không thấy em đâu, đã có ý lo, hỏi dồn:
- Cậu cháu đâu? Thế Phú nó đâu? Hở ông lý?
Trước khi nói, ông lý còn giao hẹn:
- Bác không được nói gì với cụ nhé? Đã nghe ra chưa?
Cô Tuất càng lo sợ hơn nữa, lại hỏi:
- Vâng, thế cậu cháu đâu mà bây giờ...
Ông lý trưởng giậm chân hai ba lần xuống đất, kêu bình bịch,
nhăn nhó nói như gào thét:
- Ấy thế mới khổ cho chứ! Bị quan bắt giam rồi! Chỉ được cái
bướng bỉnh hão! Đầu bò đầu bướu lắm mới chết!
- Chết nỗi, bị bắt ra làm sao?
- Bị ông huyện bắt giam tại huyện lỵ chứ còn sao nữa?
- Chết nỗi! Vì tội gì thế, ông?
- Vì tội xui dân phu biểu tình! Vì tội xui giục dân gian bất
tuân thượng lệnh! Khổ thế. Đã bao nhiêu lần tôi khuyên can cậu ấy, mà cậu ấy
không thèm nghe. Khốn nạn, biết thế thì vay tiền cho cậu ấy có được không? Sao
lại để cậu ấy đi phu đi phen làm gì đến nỗi xảy ra đến thế!
Ông lý trưởng nói đến đấy thì phải ngưng lại. Cô Tuất đã lôi
vạt áo lên lau nước mắt rồi. Những người làng đã vào làng rồi, chỉ còn trơ dưới
gốc gạo có ông lý và cô Tuất với thằng cu Hiền ngây ngô trên lưng mẹ. Cô Tuất sụt
sịt:
- Giời ơi! Nông nỗi thế này thì tôi biết nói với đẻ tôi ra
làm sao?
Cảm động, ông lý trưởng nhắc lại:
- Ấy đấy! Cho nên tôi đã dặn bác phải giấu cụ. Ấy những người
đi phu vừa về đây kia là tôi cũng đã phải dặn kỹ lưỡng lắm. Cụ hỏi cậu Phú đâu
thì bảo không biết, kẻo tự nhiên họ cũng vào mách cụ thì cụ đến chết mất.
- Liệu có hy vọng được tha không hở ông?
- Cái đó cũng chả biết chừng! Nếu cậu ấy mềm mỏng với quan
trên thì tội dẫu nặng cũng có khi được tha. Còn bướng bỉnh như cậu ấy thì có
khi không có lỗi mà cũng phải tù, phải tội.
Cô Tuất lại khóc nức nở:
- Thật là nó giết bà cụ nhà tôi đây, ông ạ. Nhờ ông tạt qua
vào nhà tôi ông kiếm cớ ông nói dối đẻ tôi hộ tôi! Chứ mà tôi trông thấy đẻ tôi
thì nói dối không thoát, thì lại đến khóc nức nở lên mất.
Ông lý trưởng đứng ngây người ra một lúc rồi nói:
- Hay là tôi nói dối cụ thế này nhé: Tôi bảo rằng cậu ấy còn
ham công việc nên ở lại huyện.
- Liệu thế đẻ tôi có tin không?
- À phải! Để tôi bảo thế này... Rằng vì biết chữ nghĩa nên cậu
Phú được quan trên mượn biên chép công phu phen. Nếu nay mai cậu ấy được tha
thì thôi, bằng mà có lôi thôi gì nữa thì ta lại liệu bài chống chế vậy.
- Vâng, tùy ông đấy. Ông vào ngay cho, cảm ơn ông.
Ông lý trưởng thụt vào trong cổng rồi, cô Tuất để con xuống đất,
ngồi phệt xuống gốc gạo. Thằng cu Hiền cứ ôm cổ mẹ mà giãy hai ống chân, miệng
"phun mưa".
Tuất nghĩ đến Minh. Những ngày Minh được nghĩ mà về thăm nhà
thì cả gia đình sung sướng, hôm Minh bị một chiếc ô tô sở mật thám lôi đi thì
bà Cử ngã lăn xuống đất ngất đi mất nửa tiếng đồng hồ...
Cô thấy rằng dễ thường rồi mà cô phải đến lấy kế ông chánh Mận
thì mới mong được yên thân. Phú bị bắt, rồi thì... sao nữa! Hay lại mấy chục
năm tù? Như vậy thì bà mẹ già kia sẽ ra làm sao? Tuất nghĩ đến gia đình đã
chán, đến thân phận lại đáng chán hơn nữa. Cô ôm con, ứa nước mắt, hậm hực...
Trong khi ấy, thằng cu Hiền vỗ vào má mẹ, hớp hớp mấy cái, đùn vào đấy một sợi
nước bọt nó chảy xuống như một sợi chỉ lòng thòng.
Ôm con vào lòng. Tuất phân vân lại thấy như thế mà đi lấy chồng
nữa thì cô sẽ có tội to. Dù sao nữa, Tuất cũng không thể nào nhẫn tâm dứt tình
với con, đem nó về trả lại nhà chồng, chỉ vì muốn no ấm. Cô tự nhủ: "Không
thể nào nữa thì cũng cứ đành mang tiếng là ăn hại mẹ vậy".
Một con trâu, bất kỳ, từ sau gốc gạo nhô ra với hai cái sừng
như sự khiêu khích, do một thằng bé con vụt đằng sau. Vì lối đi chật hẹp quá,
cô Tuất vội vàng ôm con đứng lên. Do thế, vô tình cô rảo bước về nhà, mặc lòng
năm phút trước, cô đã định tránh mặt bà Cử trong một lúc lâu nữa.
Đương đi được một quãng, thình lình cô gặp ông chánh Mận. Cô
vội cúi mặt để khỏi phải chào, nhưng ông chánh lại đứng chắn đường cô, hớt hơ hớt
hải mà rằng:
- Ấy kìa bác! Này, chết chửa, cậu Phú không biết tại sao lại
bị quan huyện bắt bác đã biết chưa?
Tuất kinh hoàng không hiểu vì ai mà ông này lại biết chuyện ấy
rồi. Cô run rẩy nói:
- Xin ông giữ kín chuyện hộ.
Nói thế xong cô mới kịp đỏ mặt, khẽ chào ông Mận và cắm cúi
bước đi.
Khi Tuất về đến nhà thì cụ Cử đương lúi húi dọn cơm. Cái mâm
gỗ đã long sơn, những cái đũa tre, bát đàn, và đĩa dưa, bát cà, bát rau khoai
lang luộc, đã làm cho thằng cu Hiền vội vàng nhoai từ trên lưng mẹ xuống giường,
lân la ngồi gần mâm cơm, rút một chiếc đũa đập vào bát lách cách. Một con mèo
già lừ lừ lượn chung quanh thằng cu Hiền mà kêu một cách buồn rầu, thảm đạm.
Con vật ấy, cái dấu tích độc nhất của những ngày vui xưa không trở lại, đã làm
cho Tuất phải chợt nhớ đến những bữa cơm ngon lành khi gia đình còn nguyên vẹn,
trong đó anh giáo Minh vẫn đem cho tất cả mọi người một làn không khí vui vẻ bằng
những câu pha trò có duyên. Hồi ấy, không nói gì đến người, cả con mèo cũng đã
sống những ngày vinh hiển lắm. Ngày nay, đem so sánh với xưa kia, thì bữa cơm của
cả một gia đình cũng không bằng bữa cơm mèo! Tuất thấy mẹ già phải lam lũ suốt
ngày để mà ăn uống mỗi ngày hai bữa những bát cơm hẩm với cà thâm, với dưa gần
khú như thế, thì đau đớn như kim đâm vào ruột. Nhất là việc thằng cu Hiền thường
nhật háo hức đòi ăn cơm và bữa nào cũng ra vẻ được ăn uống rất ngon lành, lại
càng khiến cô xót xa thương thân tủi phận lắm.
Không muốn phải có những ý nghĩ bi phẫn, Tuất bảo mẹ:
- Bà trông cháu một lát để tôi xuống bắc cơm cho.
Cụ Cử ngồi xuống giường lôi cháu về lòng đáp:
- Ừ, nhân thể tay thì đặt nồi nước vối lên bếp nhé!
Tuất chưa kịp ra khỏi thì bà mẹ lại gọi giật lại:
- Này! Quái thật! Đã tha phu rồi mà sao cái thằng ông mãnh ấy
còn chưa về như thế?
Chột dạ, Tuất đứng ngẫm nghĩ một lát, lại hỏi mẹ:
- Thế ông lý không nói chuyện gì với đẻ hay sao?
- Có, ông ấy vừa ở đây ra xong! Nhưng mà ông ấy nói lúng túng
thế nào ấy, tao nghe lõm bõm lắm. Hay là lát nữa, ăn cơm xong thì con sang bên
ông ấy hỏi lại đầu đuôi kỹ lưỡng xem sao. Chứ mà không biết tao cứ thấy máy mắt
dữ dội, ruột gan cứ như bào thế này này.
- Tôi đã gặp ông ấy rồi đẻ ạ. Đẻ cứ yên tâm! Vì Phú nó biết
chữ nghĩa cho nên quan trên lưu lại, ý chừng là để biên công xá cho phu phen gì
đó thì phải. Chứ nếu không thì nó cũng về chiều hôm nay như mọi người rồi chứ
còn gì!
Cụ Cử thở dài, chép miệng:
- Nào biết có đích thực thế không! Sao tao thấy nóng ruột lắm?
- Ấy là tại đẻ cứ hay lo xa, cứ hay nghĩ quẩn chứ gì!
Giữa lúc ấy, may sao thằng cu Hiền hết sức nhoai ra, múa cái
đũa nghênh ngang định lăn sả vào chỗ mâm cơm miệng kêu thét lên: "Mơm mơm
mơm!". Nhân cơ hội, Tuất không nói gì nữa, ù té xuống bếp.
Bữa cơm hôm ấy không ngon lành gì. Cụ Cử uể oải ăn hai lưng.
Tuất cũng ăn uống qua loa cho đỡ cồn ruột, và trong khi nhắm mắt nuốt không
trôi những thức ăn kham khổ lại còn phải trông nom cho con đừng rút đũa, đừng
đánh đổ đánh vỡ, đừng ngồi vào mâm. Mỗi khi bị lôi về lòng mẹ, thằng cu Hiền lại
phản đối bằng cách khóc thét lên, và sau khi thấy con quấy khóc, Tuất lại phải
thả lỏng nó ra để mà, ba phút sau, lại lôi nó về lòng mình. Con mèo thì cứ chạy
lượn quanh mâm cơm mà kêu om xòm, thằng cu Hiền thì cứ vừa và cơm vào mồm vừa để
rơi vãi thức ăn tung tóe dưới chiếu.
Lặng lẽ, cái tối màu xám đã úp xuống chỗ những gốc tre xanh.
Một vài con dơi đã bay liệng tứ tung ở sân, có khi bay cả vào trong nhà. Những
con ruồi đã bâu hàng đàn vào các dây thép căng ở sân để cho đàn muỗi bay ra vo
vo như tập trận. Đó là những cảnh hoàng hôn lặng lẽ và buồn tẻ ở thôn quê, những
cảnh hoàng hôn của những đêm không trăng sao nó làm liệt hẳn cuộc đời đi như
vào những giờ chết, và nó làm cho chó cắn ran lên từng hồi như sủa ma vậy.
Bị muỗi mắt đốt, chốc chốc thằng cu Hiền lại khóc thét lên. Cụ
Cử phải ru cháu bằng những câu hát qua cái giọng ê a của một bà cụ già nghe nó
buồn thảm lạ lùng. Sau khi rửa mâm bát, Tuất dọn dẹp bếp nước, rồi lên nhà đốt
ngọn đèn dầu con. Đó là những giờ để ngồi quấn những thoi vàng hồ bán được sáu
xu một man. Chập tối nào cũng vậy, hai mẹ con đều không thoát qua những phút
dài dằng dặc, những phút buồn tẻ ấy nó khiến người ta thấy cuộc đời là không
bao giờ thay đổi. Nếu có Phú ở nhà thì thường Phú cũng ngồi vào quấn vàng.
Chừng như mệt mỏi vì khóc nhiều quá, thằng cu Hiền, trong
cánh tay khẳng khiu của bà lão, được một lúc đã bắt đầu thiu thiu. Ngồi tựa
lưng vào cái cột tre, cụ Cử tuy nhiên vẫn cứ hát ru cháu:
Của đời "Ông mệ" để cho,
Làm không ăn có, của cho cũng rồi!
Của rẻ thật là của ôi,
Lấy phải dâu dại khốn tôi trăm đường!
Củi mục bà để trong rương
Ai mà hỏi đến? Trầm hương của bà!
Cùng giọt máu bác sinh ra,
Khác giọt máu mẹ mà ra khác lòng...
Công việc quấn vàng đã thấy chán, những mảnh hồ tẻ đã đóng lại
thành một cái bao tay cứng nhẵng ở đầu ngón tay, lại phải nghe những câu hát vô
tình mà có vẻ mỉa mai châm chọc ấy, Tuất thấy khó chịu. Thật vậy, những câu
phong dao mà cụ Cử hát để ru ngủ cho đứa cháu ngoại, tình cờ lại làm mếch lòng
mẹ nó. Trong những câu ngây ngô ấy có tất cả những ý vị mầu mè nói về công việc
ông chánh Mận hỏi Tuất, về việc đứa bé chỉ là cháu ngoại, nó khiến Tuất càng phải
tủi thân. Muốn cho mẹ đừng ngâm nga nữa, cô nói:
- Thôi, nó ngủ rồi, đẻ đặt nó xuống giường đi, đẻ ạ.
Vô tình, bà mẹ còn cãi:
- Đã đặt cháu thế nào được. Nó vừa chợp mắt đấy mà...
Rồi lại điềm nhiên khẽ hát:
"Cào cào giã gạo tao xem,
Tao may quần áo tao đem cho cào.
Canh rau cũng thể canh rau,
Để ai cậy thế ỷ giàu mặc ai!"
Hốt nhiên thấy đằng xa có tiếng nước réo ào ào. Cô Tuất ngừng
tay lắng tai nghe. Cụ Cử cũng thôi không hát ru nữa. Tiếng ào ào mỗi lúc một thấy
gần, một thứ tiếng kỳ quái, nhưng nghe mà đáng cho ta phải giật mình, vì tiếng ầm
ầm như gào thét, như trời long đất lở. Cô Tuất vừa kịp hỏi mẹ một câu:
"Quái lạ, cái gì thế hở đẻ?"
thì tự đầu làng, đã thấy tiếng tù và rúc liên thanh. Những tiếng
kêu inh ỏi kế tiếp nhau:
- Ối làng nước ơi! Lụt rồi, lại vỡ đường vỡ sá rồi!
- Ai có của thì mau giữ lấy của! Ai có tính mệnh thì mau giữ
lấy tính mệnh!
- Ối ông bà láng giềng hàng xóm! Chạy lụt đi! Nước đã đổ về đến
chỗ cầu Tréo rồi! Mau mau không thì chết cả lũ.
Tuất vùng đứng lên, kinh hãi, thất thanh bảo mẹ:
- Giời ơi! Chết rồi đẻ ơi! Lại lụt mất rồi! Làm thế nào bây
giờ! Chết chửa làm thế nào hở đẻ?
Tiếng kêu của người làng bắt đầu inh ỏi. Tù và của bọn tuần
tráng vẫn đổ hồi dài, nhức óc, đinh tai. Tuy trong lúc cuống cuồng cụ Cử cũng
còn đủ trí minh mẫn phán bảo con gái:
- Thì chạy lụt chứ còn làm thế nào nữa! Cơn ơi! Chết chửa! Ra
sân lấy cái chậu thau đồng, mấy cái nồi, mấy cái xanh, đem vào đây không thì
trôi hết cả bây giờ.
Theo ý mẹ, Tuất chạy đâm bổ ra sân. Cụ Cử cũng ẵm cháu đứng
lên giường, lại bảo:
- Cái bu gà ở bếp nữa! Thùng khoai bên cạnh bồ trấu dưới bếp
nữa! Mau lên, đem cả vào trong này.
Trong chớp mắt, cô Tuất lễ mễ khiêng những cái ấy vào trong
nhà rồi. Hai mẹ con trợn mắt nhìn nhau lo sợ cuống quít, vì đó chưa phải là
phương pháp chạy lụt. Quả vậy, ở nhà ông Nhiêu bên cạnh, còn tiếng quát tháo
huyên thuyên nghe rõ mồn một:
- Chú hai! Chú ba! Các chú ra cả đây, mau! Lấy thừng buộc cột
nhà lại, đóng dăm cái cọc tre ở bốn đầu nhà, mau lên, không có mà nước vào đến
nơi thì trôi mẹ nó cả nhà cửa đi bây giờ! Thằng Tẹo đâu? Con đĩ Mô đâu? Em
chúng mày đâu? Lên cả nóc hòm mà ngồi! Chết chửa! Thằng Mống đâu? Nó ở ngoài
ngõ à? Mau đi gọi nó về ngay, không mà nước cuốn đi thì chết đuối mẹ nó bây giờ!
ạ hay! Đã đứa nào đi tìm thằng Mống chưa? Con mẹ đĩ nó thì đi tìm gà, chó, bắt
cả vào trong buồng này đi. Vồ đây rồi! Đóng cọc! Hai chú ra đây đóng cọc đã!
Tiếng nước mỗi lúc một gần, tù và vẫn rúc liên thanh, tiếng
người vẫn kêu inh ỏi... Nghe thấy hàng xóm bàn soạn thế, trông về mình thì... một
mẹ, một con, mà lại còn bận ẵm đứa bé. Tuất luống cuống chỉ còn biết luôn miệng
kêu trời, vô kế khả thi. Bị đánh thức một cách bất ngờ, con gà mẹ gù gù ra vẻ bất
bình trong khi đàn gà con nghển cổ nhìn ngọn đèn dầu, kêu liếp nhiếp. Còn con
mèo nó đã nhảy tót lên một chiếc rui nhà, nằm lặng im. Sau một hồi dài những thở
dài và chép miệng, cụ Cử chỉ còn biết nói:
- Thôi, thì mẹ con ta đành liều với giời vậy! Cũng chả còn biết
chạy lụt thế nào nữa! Nếu trôi mất nhà cửa thì âu là mẹ con bà cháu ta trôi
theo dòng nước mà thôi...
Tuất hãy còn tìm cách an ủi mẹ:
- Chả lo đẻ ạ. Vỡ đê cách đây những chục cây số thì con tưởng
ngọn nước cũng chả mạnh là mấy mà sợ trôi mất nhà cửa.
Trông đến cái hòm có bốn chân cao lênh khênh vẫn dùng làm bàn
thờ, trong đó cụ Cử vẫn cất những đồ vật gì có giá trị đôi chút, Tuất lại nói:
- Thôi thì mình không bắc được sàn thì đã có cái mặt hòm đây
rồi. Hòm gỗ lim nặng, lại kê sát vách, con tưởng khó lòng mà trôi theo dòng nước
được! May mà tạm bợ yên thân vì cái hòm cũng nên.
Tuất nói đến đây thì nước đã chảy vào sân ào ào. Cũng vào
theo dòng nước đỏ ngầu, đó là những mảng bèo Nhật Bản, những rác rưởi bẩn thỉu,
những miếng củi tre củi rều nhỏ to đủ hạng, những cái nồi đất đen... Nước xoáy
vào đất, xói vào các cột tre, ào ào phá phách bốn bức vách, làm cho cái giại nứa
rung động một lúc rồi đổ lật ngửa! Nhanh chân, Tuất nhảy lên giường vì nước đã
vào trong nhà. Cả hai gian nhà ấy tròng trành nhưng may sao lại không đổ. Nước
dâng lên ngập cái giường một lúc rồi lại rút xuống, rồi lại dâng lên cao, y như
ngọn sóng ngoài bãi biển vậy. Tuất vội gài cái bu gà vào trong một gióng tre
bên trên bàn thờ, bỏ những cái đồ đồng vào trong hòm khóa chuông.
Cụ Cử đứng mãi đã mỏi chân đành chờ cho Tuất thu dọn xong thì
trèo lên bàn thờ, nghĩa là lên nắp cái hòm chân vậy.
Hốt nhiên một tiếng va mạnh đánh xoảng một cái rất dữ dội,
làm cho gian nhà gianh chuyển động như muốn đổ. Đó là một cái chum nước khổng lồ
không biết của nhà nào trôi đến đấy, vấp phải cái cột gỗ nên vỡ tan tành ra làm
mấy mảnh. Sau cái chum thì lại đến cái chuồng lợn ở sân bị làn nước nhổ lên đẩy
ùa vào cho đứng lấp thành một đống tre to tướng ngay trước cửa ra vào.
Nước dâng lên ngập cái phản.
Trong nhà lúc ấy chỉ còn cái hòm chân là ở trên mặt nước. Bập
bà bập bềnh trên giường trên phản, là những mảng bèo Nhật Bản, các thứ lá khô,
những thứ rác rưởi có bọt, với đủ trăm nghìn những cái lặt vặt như mảnh bát
đàn, mảnh nồi đất, lá tre khô, vân vân... Một thứ mùi hôi tanh khó chịu là ở nước,
vì làn nước lụt đã thấm vào những đống nước ao tù bẩn thỉu, những cống rãnh hôi
hám, những phân gio ở chuồng gà, chuồng lợn của tất cả mọi nhà trong làng, để hỗn
hợp thành một thứ nước có cái mùi lộn mửa, nó xông vào mũi ta, khiến ta choáng
váng thấy nhức đầu. Những tiếng ào ào nước réo, những tiếng kêu la gào thét,
cha gọi con, vợ réo chồng của người làng mỗi lúc càng huyên náo ghê gớm mãi
lên, khiến cho thằng cu Hiền tỉnh ngủ. Nó cũng khóc inh ỏi và làm cho trong nhà
có một làn không khí nặng nề những tính chất bi thương.
Cô Tuất ẵm con khóc lóc, chẳng biết nghĩ rằng trước một cái
thiên tai cho cả mọi người như thế thì cô không nên làm cho mẹ phải loạn mất thần
kinh.
Cụ Cử nức nở, vật mình vật mẩy:
- Giời cao đất dày ơi! Phú ơi là Phú ơi! Việc nhà thì nhác,
việc chú bác thì siêng! Mày chúi mũi mãi vào việc hộ đê để cho đê vỡ thế này! Để
cho mẹ mày ở nhà khổ như thế này!
Nhưng cụ bỗng phải im, vì một vật gì đen sì, hình như tròn
tròn, bị nước xô vào nhà, đẩy vào vách đánh bịch một cái. Rồi một tiếng kêu ủn ủn
vang lên. Cô Tuất kinh hãi mở to mắt ra nhìn...
Đó là một con lợn con độ hai tháng, không biết của nhà ai,
không biết từ đâu trôi đến. Con vật vớ được mặt phản thì ngoi ngóp cố đứng, lại
vẫy cái đuôi. Thằng cu Hiền nín khóc, từ cánh tay mẹ cứ muốn nhoai xuống để bắt
con vật.
Phần II Chương 6:
Phú đương phải trong cảnh đau đớn tự giận mình. Chàng hối hận
lắm, vì từ lúc bị bắt, chàng chỉ nghĩ đến mẹ. Làm như Phú đã làm thì thật là dại
dột vô cùng, vô ý thức vô cùng, nhất là khi anh ruột mình đã bị mười lăm năm biệt
xứ, nhất là khi mẹ già chỉ còn trông cậy vào có một mình mà thôi. Bướng bỉnh mà
làm gì? Xúi giục dân quê thì ích gì? Vì chưng cái sự khốn nạn của dân quê cũng
không thay đổi, mà mình thì lại bị bắt. Trong khi ấy, mẹ già sẽ ra sao? Phú đã
nhiều lúc ứa hai hàng lệ. Nhưng chàng cũng hy vọng rằng nếu quan trên kết án
cho "công bình" thì tội của chàng chẳng lấy gì làm to. Nhưng mãi mà
chưa thấy quan trên lấy khẩu cung! Phú thấy rằng như vậy là ông huyện đã bắt
giam trái phép, vì như trong luật đã nói, một viên tri huyện không được bắt
giam ai trong lô cốt quá hai mươi bốn tiếng đồng hồ.
Nghĩ thế rồi, Phú lại chợt nhớ đến việc hộ đê... Thật thế,
khi quan trên bận việc đê điều thì việc điều tra kia có thể ngừng trệ cũng được
lắm. Phú rùng mình lo lắng cho cái thời hạn tạm giam.
Phú sẽ bị kết vào tội gì, chàng cứ đoán qua cũng đủ biết, Phú
bị giam riêng trong một gian phòng của lô cốt, bị canh phòng một cách khá ráo
riết như vậy, thì nghĩa là người ta đã coi chàng như một chính trị phạm rồi. Một
căn phòng chật hẹp, tường quét hắc ín đen bóng nhễ nhại, chỉ có một ô cửa nhỏ để
thông không khí với bên ngoài, tối om om, đến nỗi nếu không có ba bữa cơm thì
chàng không thể biết lúc nào là ngày, lúc nào là đêm, và đã bị giam trong bao
nhiêu lâu. Mỗi khi đến giờ phát cơm thì cửa sắt vuông bị lòi ra, ba tiếng gõ
vào khung cửa, một cái mặt đầy những vẻ hung ác nhẫn tâm nhìn vào, rồi thì một
thùng gỗ vuông trong có một nắm cơm và mấy con cá mắm ươn bị nhét qua khe cửa.
Một tiếng quát: " ăn!", rồi thì cửa lại sập vào khung chốt, phòng lại
tối om...
Bữa cơm tù tội thứ nhất trong đời, Phú thấy không thể nào
kham nổi. Cá mắm thì gần thối nát, cơm thì nồng nặc những mùi vôi. Lần đầu, vì
buồn nôn quá, Phú không ăn được hết nắm cơm, và cũng không thấy đói. Nhưng đến
bữa thứ ba thì nắm cơm không còn mùi vôi, cá mắm cũng hóa ra ngon lành rồi! Rệp
và muỗi là những thứ làm cho Phú thỉnh thoảng quên mất cái êm ả bứt rứt đáng
kinh hoàng của cảnh ngục tù âm u. Đến bấy giờ Phú mới biết cái giá trị của ánh
sáng, của không khí, nghĩa là giá trị của tự do, cái điều mà xưa kia chàng
không thấy có chút giá trị nào.
Đây, đây, tiếng giày nện vang lô- cốt, Phú mừng thầm, chắc hẳn
người ta đã vào lấy khẩu cung... Tiếng khóa trong ổ lách cách, cánh cửa to bị đẩy
vào. Phú đứng lên, nhưng một làn ánh sáng kéo ùa vào phòng đã khiến chàng hoa mắt,
quáng quàng lên, tự hồ đứng không vững nữa. Khi Phú định được tâm thần rồi, thì
có hai người đứng sừng sững trước mặt chàng. Một người trạc độ bốn mươi tuổi,
da mặt đen, cái đen thiết bì, hai con mắt to nhiều lòng trắng và ít lòng đen,
dưới đôi lông mày rậm như hai con sâu róm, và trên mép, một thứ mép có đôi môi
mỏng dính như lúc nào cũng mím miệng vậy, thì có hai cánh râu cong như cái tay
lái xe đạp, nó tiêu biểu cho cả con người, về nhân phẩm cũng như về chức nghiệp.
Người ấy mặc cái áo sa hoa, đội cái khăn lượt ta, đi một đôi giày tây. Còn người
kia thì đầu không khăn, chân giẫm đất, mặc một cái áo tây cũ vải vàng, nét mặt
trông lại hung ác hơn nữa, tay cầm một tập giấy.
Phú đoán người vận áo dài là viên lục sự hay thừa phái chi
đó, còn anh kia hẳn là người loong toong... Nhưng chính người ấy lại quay cổ ra
ngoài phán một cách quyền hành lắm:
- Cho mấy cái ghế vào đây nhé!
Hai phút sau, một viên gác ngục đã đem hai cái ghế nhỏ vào
phòng. Rồi người ta lại đóng cái cửa chính, chỉ còn để ngỏ hẳn cái cửa vòng
cánh sắt. Xong đâu đấy, cả hai ngồi xuống ghế, rồi người vận áo dài khẽ nói một
cách rất ôn tồn:
- Anh nên sửa soạn đáp lại những câu hỏi của quan trên.
Nói xong, người ấy mở rộng cái bìa giấy má trên hai đầu gối,
lại lôi ở túi ra một cái bút máy, trong khi người có cái áo tây vàng bắt chân
chữ ngũ lên mà rung đùi một cách đắc chí. Đứng trước hai người, Phú khoanh tay
ra ý giữ lễ phép, nghĩ ngợi một lát rồi đáp:
- Bẩm vâng, chúng tôi cũng chỉ mong có thế. Thưa ngài, chúng
tôi bị giam quá một ngày rồi... Nếu tôi không lầm thì như thế là quá cái quyền
hạn bắt giam người của một ông tri huyện. Đáng lẽ người ta phải giải tôi lên tỉnh
tùy quyền quan trên.
Người già cười nhạt mà rằng:
- Anh đã hơi biết luật như thế, sao còn làm điều phi pháp như
thế?
Phú cãi:
- Tôi làm gì mà phi pháp?
- Thế sao anh lại xui dân phu hộ đê rằng phải có nhận được tiền
rồi đã thì mới làm việc?
Phú lại cãi:
- Chính tôi, tôi cũng kêu như thế chứ không phải chỉ xui giục
người khác kêu mà thôi. Tôi kêu vì thấy quan huyện hứa rằng Nhà nước có trả tiền
cho dân phu phen...
Người có áo tây vàng đứng lên phân vua:
- Thế là anh nhận hai tội rồi đấy nhé. Cứ biết vậy, chốc nữa
thì đừng có chối cãi.
Người già lại hỏi Phú:
- Anh cho rằng việc đòi tiền công của anh là chính đáng lắm,
có phải thế không?
Phú cứng cỏi đáp:
- Phải! Mà tôi đã làm gì thì tôi không chối cãi! Khi tôi đói
thì tôi phải muốn ăn, khi người ta đã hứa gì cho tôi thì tôi có quyền hỏi người
ta về lời hứa ấy.
Người già bất bình mà rằng:
- Ừ, thế thì anh cứ biết một mình anh thôi, chứ anh phải bảo
người khác mà làm gì?
- Một mình tôi kêu thì không ăn thua, phải nhiều người kêu
thì mới có kết quả được!
Sau khi đáp thế, Phú tưởng người lấy cung sẽ bắt bẻ chàng một
vài điều gì nữa. Nhưng không! Người ấy lặng lẽ cúi đầu hí hoáy viết trên giấy
trắng. Phú không biết vô tình đã mắc mưu. Viên lục sự già đã chép đúng những lời
hỏi của mình cũng như những câu đáp ngay thật bướng bỉnh của Phú... Thì ra đáp
như thế, Phú đã tự buộc mình vào dây của pháp luật mà không biết.
Về sau người lục sự già lại hỏi:
- Thế anh nghi cho quan huyện sở tại trẩm công xá của dân phu
hay sao mà anh lại phải cổ động rầm rĩ như thế? Anh có biết rằng làm như anh
làm, chính là thiếu lễ phép với quan trên không?
Thấy cái lòng thành thực của mình đối với nhà chức trách mà lại
bị ngờ vực như thế, Phú phát cáu, lại đáp:
- Tôi đâu dám ngờ ông huyện có cái bụng dạ tầm thường ấy,
nhưng mà tôi ngờ bọn lý dịch. Vì rằng điều không ai là không biết, là bọn lý dịch
vẫn thường bóp hầu bóp cổ và nhũng lạm, và biển thủ tiền của đám cùng đinh. Tôi
muốn quan trên đề phòng cho cùng dân cái nạn ấy chứ không có cái ý gì khác!
Viên lục sự nghe xong lại chăm chú ghi những câu hỏi đáp trên
mặt giấy. Đoạn lại ngửng mặt lên hất hàm hỏi:
- Do việc xui giục của anh mà lính phải bắn súng chỉ thiên để
thị uy, mà dân thì phải mấy người bị thương trong khi giải tán. Nhà nước buộc
anh phải chịu trách nhiệm ấy thì anh bảo sao?
- Tôi không chịu trách nhiệm về khoản ấy! Buộc tội như vậy là
thậm vô lý.
Viên lục sự lại chép nữa. Sau cùng viên ấy bảo:
- Đây tôi đọc lại anh nghe. Anh đáp thế nào, tôi chép vào
biên bản đúng như thế, không có sai một chữ. Để tôi cho anh biết cái lương tâm
về phận sự của tôi, không có mai sau anh lại kêu là người lấy cung cố tình làm
sai sự thực để anh phải tội.
Rồi viên ấy đọc lại những câu Phú đã đáp.
- Thế nào? Tôi có thuật sai không?
- Không, cám ơn ông, ông làm biên bản đúng lắm.
- Thế thì anh ký nhận vào đây hộ một chữ.
- Vâng, tôi xin ký.
Nói xong, chẳng nghĩ ngợi xa xôi, Phú ký ngay vào giấy. Thế
là xong! Chàng chẳng biết đã mắc mưu viên lục sự già, cái người suốt đời chỉ
làm cái việc nham hiểm là buộc tội mọi người bằng những câu hỏi vặn loanh
quanh. Phú không biết rằng điều cốt yếu của người lấy cung chỉ là làm thế nào
buộc Phú phải nhận cái tội có xui dân phu đình công và biểu tình thôi. Những lời
kết án gay gắt khác là để cho bị cáo không kịp nghĩ đến sự chối cãi cái tội
chính.
Phú ký xong một chữ thì người ấy mới dõng dạc nói:
- Tốt lắm! Anh là người cũng hiểu đôi chút pháp luật là lại
còn phạm luật. Để rồi nay mai anh ra tòa mà cãi. Nhưng mà tiện đây thì tôi cũng
làm phúc đọc cho anh rõ anh bị buộc vào tội gì... Nghe đây này!
Cúi xuống tập giấy, viên lục sự tìm tòi rồi đọc:
- "Hoàng Việt Hình Luật, hiện hành trong xứ nào thuộc
tòa Nam án. Điều thứ 128... Những người nào xui giục người ta bãi khóa
đình công, hay là không chịu ứng thí bất cứ là phạm cách nào, thời sẽ bị giam từ
3 tháng đến 2 năm, hay là phạt tiền từ 30 đồng đến 210 đồng. Nếu sự xui giục ấy
thành hiệu, thời sẽ bị giam từ 2 năm đến 5 năm. Những kẻ tòng phạm thì sẽ bị
nghị xử một nửa tội danh của chính phạm.
"Điều thứ 147 - Người nào dùng sự hành hung, dọa nạt,
cổ động mà xui người ta hay là toan xui người ta rủ nhau đình công cốt để bắt
buộc phải tăng lên hay là hạ tiền công xuống, hoặc là ngăn trở sự tự do của
công nghệ và làm việc làm ăn, thời sẽ bị các tội danh trên này (phạt giam từ 1
tháng đến 1 năm hay là phạt bạc từ 10 đồng đến 120 đồng, không cứ chính phạm
hay tòng phạm; và lại có thể chiểu theo điều 23 mà giao quản). Nếu tình cờ có xảy
ra tội nặng hơn thì sẽ tùy theo tình trạng sự hành hung và địa vị người bị hại
mà nghị xử nặng hơn!
Đọc xong, viên lục sự khoanh tay, hỏi Phú bằng mấy cái hất
hàm. Anh chàng áo tây thì lại vung chân một cách khả ố hơn nữa. Nhưng Phú không
đáp lại chỉ khoanh tay, đứng dựa lưng vào tường. Viên lục sự nói tiếp:
- Việc xui dân biểu tình anh đã nhận rồi. Thế là tốt lắm.
Nhưng mà sự trị an của các nhà cầm quyền không phải chỉ có thế. Xong việc kia rồi
thì bây giờ tôi có bổn phận phải hỏi cho ra rằng anh là người của một hội kín
nào, của một đảng kín nào...
Phú lắc đầu:
- Tôi chẳng ở hội kín nào cả! Không cứ phải là một đảng viên
cách mạng thì mới biết kêu đói, đòi công!
- Im! Câm mồm!
Người áo tây vàng nói leo vào:
- Ông lại dần xác ra bây giờ chứ hỗn thế à! Bố anh, anh ruột
anh đều chống lại chính phủ. Bây giờ thì đến lượt anh! Mau lên khai ra... Đừng
chối cãi vô ích. Đã bị bắt vào đây thì không ai chối cãi được! Muốn tử tế thì
mau khai ra, anh chịu mệnh lệnh của đảng nào?
- Tôi không vào đảng kín nào cả, oan tôi lắm! Buộc tội tôi đến
thế nữa thì quá lắm!
- Đừng nói thế! Tôi chỉ làm bổn phận của tôi. Anh đừng tưởng
quan trên không biết những hành động của anh trong mấy năm nay, sau khi anh bỏ
học. Anh đã cổ động cho cả làng anh ai cũng có tư tưởng phiến loạn, điều ấy, đừng
có che mắt nhà chức trách...
- Không làm gì có những chuyện ấy!
- Anh là một đảng viên cộng sản, có không? Chi bộ anh có tên
chánh Mận, người làng anh, làm thủ quỹ, có không? Tên chánh Mận muốn che mắt thế
gian, định lấy chị ruột anh để hành động mọi việc cho dễ, có không? Hôm rằm
tháng chạp năm ngoái, lão có triệu tập một phiên họp bí mật tại nhà lão, có
không?
Nghe thế, Phú khoanh tay, ưỡn ngực lên. Chàng hiểu ngay cái
dã tâm của tụi sai nha định buộc tội lương dân, những người có máu mặt, để hòng
bóp nặn, vơ vét... Chàng trừng trừng nhìn lão mà nói:
- Thưa ông, ông hỏi ra ngoài đầu đề mất rồi. Tôi có thể đáp lại
những câu hỏi vặn như thế trước mặt ông công sứ, hay ít ra cũng ông huyện.
Tức thì viên lục sự đứng phắt lên, đập vào ngực mình thình
thình thình, hết sức giận dữ mà rằng:
- Nhưng mà tao đây, hiện giờ thay quyền quan huyện hỏi cung
mày, mày có biết không? Mày có biết bố mày đây là ai không? Mày có biết rằng dù
ông huyện nào đến đây thì cũng chỉ một tay bố mày đây, làm án từ và cai trị dân
mà thôi hay không?
Đoạn lão liếc mắt ra hiệu cho anh chàng áo tây ngắn. Tên này
đứng lên, lại gần Phú, tát cho đánh bốp một cái vào hai mắt, Phú loạng choạng.
Nó đấm một cái bằng tay phải, đoạn lại đấm móc lại cái nữa bằng
tay trái. Bị hai quả đấm vào hai má, Phú ngã ngồi xuống đất...
- Muốn chết vì tra tấn hay muốn sự thực tường khai thì bảo
tao?
Nói thế rồi, nó lại túm tóc lôi Phú, bắt ngồi xuống cái ghế của
nó. Phú khặc khờ, ho lên mấy tiếng, bưng lấy mặt, choáng váng... Đến khi Phú ngồi
xem chừng đã vững thì một cái thụi vào giữa ngực lại khiến chàng ngã lăn một
nơi, cái ghế bắn ra một nơi...
Phần II Chương 7:
Từ lúc vỡ đê, nghĩa là từ buổi chiều hôm trước, tư thất của
ông huyện chưa bao giờ tấp nập rộn ràng đến thế. Những công văn, những lệnh
quan, bay đi tứ phía như mưa. Thoắt một cái, từ đê ông đã về tư thất. Lính cơ,
lính lệ, nha lại, gia nhân, chạy đi tìm ông tới tấp, loạn xạ. Đã có lúc nhà
riêng ông huyện cũng vang ầm những lệnh trên ban xuống, y như ở công đường.
Đã vậy, ông lại còn bận tiếp khách nữa. Người bạn cũ của ông
đã về huyện, để cái xe bình bịch lù lù giữa sân. Bên ngoài cũng có mấy chiếc xe
hòm của mấy ông chủ báo thân hành đi điều tra quãng đê vỡ, và được ông quan sở
tại mời về nhà tiếp đãi. Suốt ngày hôm ấy, ông huyện đã phải lo việc quan công
sứ cùng ông chánh lục lộ Bắc Kỳ về tận nơi. Ông đã bù đầu, trớn mắt, khổ sở, vất
vả, lao tâm lao lực, cũng như những ông quan sở tại khác lúc gặp nạn vỡ đê vậy.
Bởi những lẽ ấy, bà huyện và Kim Dung cũng đã đầu tắt mặt tối
như vào lúc nhà có giỗ tổ. Nào là lo cơm khách, lo nước nôi, tiếp những người
có việc cần đương đi tìm ông huyện mà không được gặp, và nhớ những lời yêu cầu
hay mách bảo của họ nữa. Vì không hiểu rõ, bà huyện đã oán chồng về chỗ đi lưu
ngay mấy ông chủ báo là khách lạ, giữa lúc việc quan đương bận rộn, nhà cửa
đương tíu tít... Ba ông chủ báo, ông nào cũng có phóng viên, thợ ảnh, tài xế
kèm theo! Vị chi hơn chục người, mà lại không ghép cùng ngồi một bàn được,
thành thử cơm nước phải tách riêng ra một mâm cho các ông tài xế. Mà các ông
cũng chạy đi chạy về tới tấp, người này đi tìm người kia, ông kia đợi ông khác
nữa, việc tiếp đãi cho khỏi sơ suất thật là khó nhọc biết bao, nguy hiểm biết
bao! Theo cái trí xét đoán của bà huyện thì "nhà báo" là một bọn người
láu lỉnh kiểu cách đáng sợ, chỉ làm cái nghề đi nói xấu thiên hạ, và "bán
nói mà ăn" nên bà lo lắng hết sức.
Kim Dung cũng nghĩ như thế.
Phải đem tài nữ công ra dùng một cách quá sức, nàng đã - như
lời bà mẹ mắng - mặt sưng mày sỉa mất cả một ngày, Dung đã không cãi nửa lời,
vì tuy mắng con thì mắng, chứ chính bà mẹ cũng thế. Vì lẽ suốt ngày nàng vẫn
băn khoăn để tâm đến người bị bắt, là Phú, nên buổi chiều, khi mọi việc đã vãn,
Dung cáo là nhức đầu để về nằm phòng riêng. Nàng muốn có một cách đặc tiểu thuyết
để cứu vớt người ấy mà chưa nghĩ ra được thì đã chợp mắt ngủ lúc nào không biết.
Đến khi chợt bàng hoàng tỉnh giấc, Dung thấy một thứ mùi thơm
khó hiểu man mác cả gian phòng mà mở mắt nhìn, thì, than ôi! Cái phòng của nàng
đã không còn là phòng riêng! Người ta đã để một chiếc bình phong che cái giường
của nàng để mà bày ở cái sập đối diện một bàn đèn thuốc phiện. Một người đương
nằm ngoay ngoáy tiêm. Dung nghển cổ, vươn tay hé diềm lụa ở bình phong nhìn
sang thì đó là bác Khoát.
Ở phòng bên cạnh, lúc ấy có tiếng nhiều người chuyện trò rất
vui vẻ. Dung đoán chừng đó là những ông nhà báo chưa đi đi cho. Nàng tự hỏi một
cách lo sợ: "Không biết họ đóng đô ở nhà này bao nhiêu lâu nữa? Nếu bố
mình cứ ân cần mời mọc mãi thì đến chết mất thôi!".
Dung đương nghĩ thế thì cánh cửa từ từ mở. Ông huyện rón rén
vào phòng một cách lén lút, lại đóng cửa lại một cách êm ả như phải làm một sự
bí mật.
- Mau lên! Nguội cả rồi đây.
- Mày hút liều nào chưa, Khoát?
- Đã.
- Chết! Không có thuốc phiện thì đêm nay tao gục mất!
- Họ sắp ra đi chưa?
- Ýhẳn còn chờ tao điều đình cho rạch ròi thì họ mới ra đi.
- Thôi hút đi đã rồi hãy nói, nguội cả rồi!
- Con bé cháu nó ngủ hay thức thế mày?
- Vẫn ngủ.
Thấy bố hỏi thế, Dung vội lặng lẽ nằm xuống, để cái quạt lên
mặt. Nàng càng lắng tai nghe thì lại càng hiểu những cái ích lợi to tát của báo
chí. Bên kia cái bình phong, hai người vẫn thì thào hỏi, đáp:
- Thế mày đã nói chưa?
- Chưa tiện dịp. Có một tờ đòi đúng một cái đỉnh thì mới chịu
đăng cái ảnh của tao lên trang nhất.
- Ảnh nào? Cái ảnh chụp mày lúc giẫm đất, mặc áo trắng dài ấy
à.
- Phải, cái lúc đương nghỉ trưa ở điếm mà đê núng ấy. Còn hai
tờ kia không có ảnh thì chỉ đòi năm chục mỗi tờ một bài tường thuật. Tổng chi họ
đòi tất cả hai trăm, nghĩa là ngót hai chục cái abonnemènts hàng năm.
- Thôi thì cố lo đi cho được công việc vậy.
- Tao cũng nghĩ thế. Nhưng chưa có tiền. Để lát nữa tao ra điều
đình bằng cách ký vào giấy mua năm rồi trả sau vậy. Có thế họ mới chịu làm to
chuyện phu hộ đê định đình công.
- Thế quan trên về xem có nói gì không?
- Có! Thằng xồm cứ chửi mãi tao là sao nhãng thì có ức không
hử mày? Mà anh chánh thì nhất định bắt hàn khẩu ngay ngày mai, trần tình thế
nào cũng không nghe. Kiếp làm quan khổ thật!
- Ừ, thế mày có nhớ cho tao cái khoản bốn nghìn cái bao gai với
hai nghìn tấn gạo sắp mốc đấy không?
- Gớm, thôi mày đừng làm khổ tao nữa! Tao làm gì được cơ chứ?
Giữa lúc ông tai nạn thế này mà bạn hữu cứ như mày thì đểu thật!
- Rõ quân vô ơn chưa! Ông thử hỏi không có ông ở đây hôm nay,
ai tiếp khách cho mày nào?
Đến đây tiếng vo vo của dọc tẩu tạm làm gián đoạn sự xích
mích của hai người bạn. Rồi lại thấy ông huyện nói:
- Bao gai thì mày về sở Công chính Hà Nội mà hỏi! Gạo thì mày
lên tòa sứ mà bỏ thầu! Hiện giờ gạo hẩm chỉ có bốn đồng một tạ, gạo của mày đã
sắp mốc thì cứ năm hào hay một đồng kém dưới thời giá thì còn ai tranh được nữa
mà sợ!
- Ừ, thôi được rồi, hút đi!
Sau đó, ông huyện lại ra phòng khách. Độ nửa giờ về sau, Dung
thấy những lời chào hỏi tiễn biệt rất ân cần vang lên. Rồi tiếng động cơ của
chiếc máy xe hơi văng vẳng lần lượt nổ ở ngoài dinh thất. Nàng nghĩ đến những sự
bất chính của các nhà báo mà ông huyện đã cắt nghĩa mập mờ lúc này thì đâm ra
nghi ngờ những cái tin tức và dư luận của họ trên mặt giấy, cho nên khi thấy họ
ra đi, Dung lầm bầm tự nhủ một cách sung sướng: "Thoát nợ!". Dung
toan ngồi lên thì ông huyện đã lại đẩy cửa bước vào.
Sau khi kéo đến điếu thứ bốn, ông huyện ngồi lên bảo bạn:
- Thôi! Tao ra đê đây! Mày có ra xem thì ra, hoặc có muốn bàn
soạn gì không, chứ đêm nay chắc tao không về ngủ được.
- Ngoài ấy chắc đông người lắm đấy nhỉ?
- Đã cố nhiên! Dân phu đương đan rọ nhồi đất vào bao gai để
mai thì hàn khẩu sớm. Lính lệ có năm thằng tao sai ra đấy cả, lính cơ có mười
thằng tao cũng sai ra đấy mất tám! Mày nên ra, tao vẫn có chuyện muốn bàn.
- Ừthì đi, chứ hút vào rồi thì còn ngủ sao được.
Hai người đứng lên, rót nước uống, hút thuốc lào một cách hăm
hở như sẽ không bao giờ được hút nữa, rồi đẩy cửa phòng bước ra.
Chờ độ năm phút, Dung cũng ngồi dậy. Nàng sang phòng khách. Một
tên người nhà ủ rũ ngồi ngủ gật trên một cái ghế tràng kỷ, dưới một ngọn đèn
măng sông đã tối một nửa búp đa, vì cạn dầu. Qua phòng khách, Dung đẩy cửa vào
buồng mẹ thì thấy mẹ đã ngủ kỹ. Nàng khêu nhỏ ngọn đèn dầu ở bàn rồi rón rén
quay ra.
Dung tìm bao diêm ở ô kéo, đốt một cây đèn hoa kỳ lên, tắt phụt
ngọn lửa ở đèn dầu xăng. Nhìn ra sân, thấy trời tối om, Dung bèn bỏ bao diêm
vào túi áo. Nàng đứng tựa cột dưới mái hiên ít lâu, lại quay vào phòng riêng
thay đôi guốc lẹp kẹp để đi vào dép dừa, Dung tự bảo: "Đi mất tám anh lính
cơ thì có hai. Một anh đã phải gác cửa dinh, ắt chỉ còn có một gác lô- cốt. Việc
trinh thám của ta như vậy là có giời giúp, ắt không nguy hiểm gì cả". Nghĩ
thế rồi nàng bạo dạn xông pha cái màn đen của đêm tối, trông thẳng lô- cốt mà
tiến. Giẫm trên cỏ ẩm ướt hơi sương, dép của nàng êm ả như đi trên nhung.
Bỗng từ xa đưa lại một tiếng "keng" khá to. Đó là
người lính cơ gõ vào một miếng sắt treo dưới hiên của cái nhà chứa súng đạn ấy,
tỏ rằng mình vẫn đủ phận sự thức đêm để canh gác 10 khẩu súng và 1200 viên đạn
của bạn đồng ngũ thuộc quyền quan huyện.
Sợ bị trông thấy, Dung vội nấp sau một cây cọ, trước khi tiến,
hãy nghe ngóng xem sao đã. Trống ngực nàng bắt đầu đập thình thình. Không thấy
gì nữa, Dung lại có can đảm, bỏ cây cọ mà lần đến một cây bàng cổ thụ cách đấy
hai mươi thước.
Lúc ấy, người lính cơ nằm trên ghế vải dưới hiên lô- cốt. Hắn
đương kéo một hơi thuốc ở cái điếu cầy.
Một ngọn đèn dầu treo ở một cột hàng hiên chiếu ra chung
quanh một vòng ánh sáng yếu ớt, nhưng về phía Dung, may sao lại bị dãy cột che
lấp.
Trông thấy ánh sáng, Dung vội nghĩ đến quần áo nàng mặc. May
sao tình cờ hôm ấy nàng lại mặc quần thâm và áo dài màu hạt dẻ. Nàng đương mừng
rỡ, lại cho sự tình cờ ấy là cũng "có người giúp" thì chợt một cánh cửa
ở lô- cốt bị đẩy, một ít ánh sáng hiện ra trong khung vuông. Dung vội vàng náu
mình sau gốc bàng.
Có tiếng nói:
- Nó ngất đi hay nó chết đấy?
- Việc gì mà nó chết! Kệ mẹ nó nằm đấy!
- Có cùm chân nó không?
- Thôi, đêm nay tha cho nó.
- Quân này, ôn con mà đã gan hơn tướng cướp!
- Gan bằng cóc tía nữa thì cũng tối mai là phải xong cái khẩu
cung.
Ló đầu nhìn, Dung thấy đó là hai người. Một người mặc áo dài,
tiếng nói đích là tiếng ông lục sự. Còn người kia mặc áo tây vàng, thì dễ thường
là anh Cạp, một tên mật thám của ông huyện, sự khủng bố của bọn phạm nhân. Tuy
hắn là tay sai của bố mình, Dung cũng ghét hắn hết sức, vì hắn nổi tiếng là tàn
ác. Dung rùng mình nghĩ đến người thiếu niên nàng định cứu vớt, hẳn đã bị hành
hạ bởi con người không có quả tim kia.
Đến đấy, cả hai cùng bước ra khỏi phòng giam, ông lục sự thì
cắp cặp giấy má, anh Cạp thì tay xách một chiếc ghế mây, tay kia bưng một cái
đèn con. Sau khi ông lục sự lách cách khóa cửa, cả hai đến chỗ anh lính cơ nằm.
- Này đây chìa khóa! Canh gác mà ngủ gật thế! Ông lục sự nói xong bèn đập cái
thìa khóa đánh chát một cái xuống thành ghế vải. Anh lính cơ hoảng hốt đứng phắt
lên, mồm kêu: "Vâng, cụ để đấy con xin!" Rồi anh ta vớ ngay dùi, lại
đập vào miếng sắt treo ngang đầu một tiếng keng, xong anh ta lại hút một mồi
thuốc lào. Sau cùng thì chờ khi ông lục sự và người giúp việc ông đi khuất sau
một cái hàng rào, anh ta lại nằm vật xuống ghế vải, quên khuấy cả chiếc thìa
khóa bỏ ở thành ghế.
Đứng nấp sau gốc bàng, căn cứ vào những điều tai nghe mắt thấy,
Dung nhận ra rằng dễ thường cái việc trinh thám suông của nàng có thể là một việc
giúp cho tội phạm vượt ngục! Ừ, nếu có thể thì sao lại chẳng giúp cho người ta
vượt ngục?
Lúc ấy, tâm hồn Dung say sưa trong cái thi vị của sự dự định,
nó có vẻ tiểu thuyết lắm, Dung cứu vớt được một người! Người ấy sẽ suốt đời nhớ
ơn Dung, phải lòng Dung, nhưng mà Dung thề trước là sẽ không yêu đâu. Do một sự
đùa nghịch của nàng, cả một gia đình sẽ thấy hạnh phúc! Thật là một cử chỉ nên
thơ! Thốt nhiên nàng nhớ lại rành mạch một truyện đoản thiên của Guy de Maupasạant
trong đó một vị công chúa Nga la tư, trong một chiếc tàu đắm, đã cứu vớt được
người đàn ông, để cho về sau người này cứ theo đuổi ân nhân của mình bằng một mối
tình đau đớn, kín đáo và ôm hận suốt đời, khi ân nhân chết. Sao Dung lại không
như vị công chúa Nga?
Sao người thiếu niên này lại không có thể nhớ ơn được như người
đàn ông tả trong truyện?
Một sức mạnh huyền bí của tiểu thuyết làm cho Dung bạo dạn
rón rén đến gần cái ghế của người lính cơ. Người ấy đã lại ngủ, Dung khẽ rón lấy
cái thìa khóa. Nàng lần đến cửa phòng giam, nó cách xa chỗ người lính ngủ đến
mươi thước. Dung mở khóa, khẽ đẩy cửa. Nàng đánh diêm...
Ngồi xệp dưới đất, tựa lưng vào tường, Phú đương thở hổn hển
bỗng phải trố mắt kinh ngạc.
Cái diêm tắt. Dung đánh cái diêm thứ hai. Như một cái máy,
Phú đứng lên. Dung trỏ tay ra cửa. Phú bước ra ngoài bậu cửa. Dung ra theo, rồi
cánh cửa lại khóa trái lại.
- Cứ đi theo tôi.
Rồi Dung dẫn Phú đi loanh quanh trong vườn. Đến một cái cổng
nhỏ, Dung mở cổng. Rồi khẽ nói:
- Vỡ đê rồi! Mau về làng mà cứu lấy gia đình. Đi đi!
Phú đứng tần ngần hồi lâu, tưởng mình đang trong mộng. Đoạn
run run kính cẩn hỏi:
- Thưa cô, cô là ai?
Dung khẽ cười mà rằng:
- Một nàng tiên xuống cứu người lâm nạn.
- Thưa cô...
- Thôi, không được hỏi gì nữa! Trốn ngay đi cho mau! Nội đêm
nay không khỏi vùng này, ắt chết! Đi!
Phú hấp tấp nói rất cảm động:
- Tôi xin nhớ ơn đến chết.
Rồi đi, đi... không trông thấy người ấy nữa. Dung đến một bờ
giếng, vứt cái chìa khóa xuống giếng. Sau cùng, nàng về phòng riêng với cái
sung sướng đã làm được một việc ghê gớm, cái sung sướng ngây thơ của những thiếu
nữ nông nổi trong một lúc cao hứng muốn chơi đùa.
Phần II Chương 8:
Ra khỏi huyện lỵ chừng nửa cây số, Phú đương lần mò trên đường
đê, trong cái đêm trường đen mù mịt, tâm thần xúc động rất mạnh vì cái việc vượt
ngục trong một trường hợp phi thường, óc còn rối loạn bởi trăm nghìn mối lo sợ
vu vơ, hai đầu gối nhức nhối như sắp rời ra, thì bỗng nghe thấy ở phía sau lưng
văng vẳng từ xa, có tiếng chân người rộn rịp giẫm trên mặt đất... Tiếng động mỗi
lúc một gần. Phú vội vàng rẽ xuống dốc đê ngồi thụp trên bãi cỏ, tưởng chừng đó
là hàng trăm tuần tráng, binh lính đi lùng bắt mình vậy.
Từ dưới dốc đê nhìn lên, thị quan cố sức chú ý, Phú thấy bên
mặt đường, dưới những vệt đen cong queo là những cây xoan mảnh khảnh, hiện ra
bóng dáng một tốp người lặng lẽ cúi đầu rảo cẳng bước đi. Đến khi tới chỗ Phú nấp,
có một tiếng người thì thào nói:
- Thôi, dừng chân nghỉ tạm đi! Đã được khối đường đất rồi.
Lại có tiếng một người đàn bà the thé:
- Về được đến sáu cột lô mét, cách xa chỗ đê vỡ rồi!
Nhưng lại có tiếng khàn khàn của một ông cụ già:
- Nhưng mà mới khỏi huyện lỵ có một thí đường đất thì cứ phải
đi nữa, kẻo không tuần tráng họ biết mình trốn phu, họ tống cả lại trình quan
thì chết cả nút!
Vốn nhanh trí khôn, biết rằng vượt ngục như mình thì thà đi lẫn
vào đám phu trốn đê còn hơn là đi chơ vơ nguy hiểm, Phú lại cố sức đứng lên nối
đuôi vào đám đông ấy.
Đó là số đông các ông già, đàn bà và trẻ con, trong lúc cuống
cuồng của quan trên, đã bị lý dịch cưỡng bách nhất loạt đi hàn khẩu, và đã thừa
cơ trốn tránh, bởi lẽ ruộng vườn nhà cửa của họ đã bị ngọn nước hủy hoại, lôi
kéo đi từ bao giờ mất rồi. Thêm vào cái vấn đề lương tâm phận sự là điều dân
quê không có, lại còn có sự mâu thuẫn của những lệnh quan truyền xuống, buổi
sáng mới thế này mà buổi chiều đã lại thế khác, cho nên họ có gan trốn tránh,
yên trí rằng chẳng trốn đi cho rảnh thì cũng đến được tha về mà thôi.
Phú hỏi ông lão già:
- Thưa cụ, cụ là người vùng nào?
Không thèm nhìn sang bên cạnh, ông lão cứ vừa thất thểu đi vừa
đáp:
- Tôi ở tổng Động Lung.
- Thế ra cụ với con là người cùng hàng huyện.
- Phải.
- Bẩm, vỡ đường vỡ sá như thế này, huyện nhà có thiệt hại lắm
không?
Ông lão, trước một câu hỏi mà ông cho là ngẩn ngơ đáng lộn ruột,
phát bẳn mà gắt:
- Nhà bác ngu lắm! Vỡ đê, ngập lụt mất cả chín tổng, thì ắt
là phải thiệt hại, chớ lại còn phải hỏi gì nữa! Nhà bác mới ở trên giời rơi xuống
đấy à?
- Thưa cụ, con làm ở đê đã năm hôm nay, nào con có hiểu gì
đâu? Chỉ biết là vỡ đê thôi, nay gặp cụ ở làng ra, con mới phải hỏi.
- Đấy thì bác trông mà xem. Chỗ nào cũng trên thì giời dưới
thì nước, cứ trắng xóa cả một lượt, thế này thì hàng vạn người đói khát hàng
tháng.
Mãi đến lúc này, Phú mới kịp nhìn ra hai bên lối đi.
Quả nhiên, một bên thì là sông, một bên thì là đồng ruộng đã
bị nước tràn vào, quãng đê chạy thẳng băng trông mảnh khảnh như một cái đũa nổi
trên mặt nước, mà bọn người trên đê thì thật chẳng khác một đàn kiến bò trên
cái đũa ấy. Nghĩ đến mẹ, chị, và cháu ở nhà, Phú lại lo lắng và hỏi:
- Thưa cụ, thế hôm mới vỡ thì nước tràn vào có mạnh lắm
không? Có trôi nhà trôi cửa đi không?
- Làng nào gần đê thì trôi, làng nào xa đê thì việc gì mà
trôi! Cứ hỏi lẩn thẩn!
Từ đây về sau, Phú lặng lẽ cùng đi như mọi người. Chàng biết
đó là một ông lão khổ sở cũng như đa số các ông lão nhà quê khác cho nên có cái
tính nết quái lạ là thản nhiên về những cái tai họa tày đình mà chỉ cấm cảu hay
cáu kỉnh về những sự chẳng đáng bực tức. Phú rảo cẳng tiến lên hàng đầu.
Thấy một người trạc tuổi với mình, chàng hỏi:
- Bác làm đê đã mấy hôm nay?
- Hai ba hôm. Vỡ đường, sốt ruột quá, không trốn về không được.
Ngừng một lát, người ấy nói tiếp:
- Nhà nước định hàn khẩu ngay để rồi phá một quãng đê nào đấy
cho nước trút bớt sang sông Thương. Nhưng mà liệu có cấy tái giá được nữa
không? Bao giờ cạn nước? Ai có tiền mua mạ? Thôi, chẳng qua chỉ khổ thằng khố
rách!
Thấy người ấy có vẻ bộc tuệch dễ dãi, Phú bèn hỏi thăm đường
đất, và biết được rằng chàng phải đi chỉ độ bốn cây số nữa thì sẽ tới chỗ một
con đê cũ, và sau khi lại đi hết con đê ấy, chỉ phải đi độ ba cây nữa thì đã về
đến làng. Vị chi tất cả chỉ còn độ bảy cây số là cùng mà thôi.
Thốt nhiên có tiếng một đứa bé kêu với mẹ:
- Bu ơi, tôi đau chân lắm, cái chỗ giẫm phải gai hôm qua bây
giờ lại nhức lắm.
Rồi một người đàn bà lại nói:
- Hãy nghỉ tạm một lát vậy, các cụ, các bà ạ.
Ấy thế là người ta cãi cọ nhau huyên thiên. Người muốn đi nữa.
Kẻ kêu phải đi nữa thì nhọc mà chết mất. Nhất là bọn trẻ con. Chúng đã độ chừng
mười lăm tuổi trở lên cả mà cứ nhai nhải đòi nghỉ khỏe nhất. Những đứa không có
mẹ, không có chú thím cùng đi đám ấy, thì chỉ cắn răng ngậm miệng, không có ý
kiến gì cả. Còn những ông lão già thì lại hăng hái cứ đi.
Phú bèn cổ động:
- Thôi cứ nghỉ chân một lát đã, các cụ ạ. Có gặp tuần tráng
thì các cụ kêu phăng rằng: ấy quan cho rằng ông già, đàn bà, trẻ con ở đấy chỉ
tổ quẩn chân người khác nên đã tha cho về, thế cũng xong! Đêm hôm khuya khoắt
thế này, tuần tráng mọi nơi thì đã dồn cả vào chỗ hàn khẩu, còn thừa người đâu
tuần phòng các điếm khác nữa mà sợ. Trên thì giời, dưới thì nước thế này, còn
ai đuổi bắt mình nữa mà sợ.
Nghe lời nói có lý, cái bọn bốn năm chục người đương lôi thôi
lốc thốc cắm đầu cắm cổ bước đi một cách buồn rầu như một đàn cừu ấy, bỗng bảo
nhau đứng dừng cả lại. Cái đói, cái khát, cái nhọc mệt, những nỗi đau đớn về sản
nghiệp bị cuốn theo làn nước, cái lo sợ về tương lai chỉ để dành cho những ngày
đói khát tối tăm, đã làm cho ngần ấy người chẳng nói chẳng rằng, chẳng một lời
than vãn, chỉ tụm nhau hoặc nằm hoặc ngồi hai bên vệ đê, trên cỏ ướt, một cách
im lặng gan góc, tựa hồ ai cũng là một triết nhân can đảm mà chịu số phận, người
này hoặc là đau đớn không nói được nữa, kẻ kia có lẽ không nói gì cả để mà đau
đớn, thế thôi!
Thấy chung quanh mình có mấy người nằm thẳng cẳng ra, Phú
cũng gập tay làm gối, co ro nằm nghiêng trên cỏ. Chàng phải ngạc nhiên hết sức ở
chỗ nhận thấy rằng lúc đi thì không sao, mà lúc nằm nghỉ thì chưa chi cả chân
tay mình mẩy lại bỗng đau mỏi như dần mà hậu môn chàng thì buốt như bị bỏng nước
sôi!
Thế là cách tra tấn dã man trong lô- cốt lúc trước lại hiện
ra một cách kinh hoàng như Phú đương thấy trước mắt...
Đêm ấy, hai chân bị kẹp chặt trong cùm sắt, lưng bị mấy trăm
con rệp hút máu cắn nhoi nhói, mặt thì bị đàn muỗi vo vo khiêu khích, Phú cứ oằn
oại, cựa cậy, xua tay đuổi muỗi, tự mình tát mình cũng đã rát cả mặt, đương bực
tức đau khổ một nghìn nỗi, thì cánh cửa bỗng bị đẩy tung ra. Hai người ban sáng
lại vào với một cái đèn dầu, một cái ghế mây và một cuộn thừng.
- Không, chúng tao đánh đập mày không ích gì cả. Không phải
đánh được mày là chúng tao sướng! Nhưng mà mày phải nói, phải thú nhận hết mọi
tội, phải tố cáo những kẻ đồng đảng, nghĩa là phải cho biết những điều mà chúng
tao có quyền được biết! Nghe không?
Rồi họ lặng lẽ tháo cái cùm nặng nề dưới chân sàn lim để Phú
phải đứng lên. ý nghĩ thứ nhất của chàng là sai nha đã làm trái phép, đương đêm
không có mặt quan trên, lại đi lấy khẩu cung ở lô cốt một cách lẩn
lút như thế.
Còn đương ngẫm nghĩ thì một cái đá rất mạnh vào bụng đã khiến
Phú ngã lăn chiêng, lặng người đi, vì đầu chàng va mạnh vào thành sàn lim, Phú
khặc khừ đáp:
- Tôi không có gì cung xưng nữa, các ông đã có quyền tra khảo
thì cứ việc mà tra khảo.
Họ bèn bắt Phú cởi quần ra mà ngồi lên ghế mây. Họ trói giật
cánh khuỷu chàng vào với thành tựa của ghế. Họ lại bắt Phú xoạc chân ra để cho
họ trói hai chân Phú vào hai chân của cái ghế mây.
Sau cùng, họ để cái đèn dầu dưới cái ghế, giữa chỗ ngọn khói
đen chạy thẳng lên hậu môn của Phú. Như vậy, họ đã có cách tra khảo cực kỳ hiểm
độc, mà lại không để thương tích gì ở mình mẩy kẻ bị tra khảo, nghĩa là họ có đủ
chứng cớ chối cãi tội ác của họ trước mặt quan trên, nếu những ngược hình trong
một nơi kín đáo như thế mà lại đến tai chính phủ hay quan trên.
Khi họ mới để cây đèn dưới cái ghế, Phú đã toát mồ hôi như những
khi sốt rét nằm kín mít trong chăn.
- Thế nào? Bao giờ mày mới chịu nhận cái tội làm hội kín? Bao
giờ mày mới xưng những tên đồng đảng?
Phú lắc đầu.
Tên áo tây vàng cúi xuống khêu to ngọn đèn. Hơi nóng và khói
đen bốc lên, chạy thẳng vào hậu môn của Phú theo cái lối "tọng vào ruột".
Phú thét to một tiếng thảm đạm vô cùng thì họ lại vặn nhỏ ngọn lửa. Phú không
giữ được nước mắt nữa, biết mình thế là hèn nhưng không tài nào giữ được cho khỏi
hèn, rên rỉ kêu la:
- Giời ơi! Oan tôi lắm các ông ơi!
- Này gan với ông!
Nói xong vẫn ngồi xổm dưới chân Phú, tên áo ngắn lại đưa tay
ra khêu to ngọn lửa. Lần này Phú không kêu được nữa, bị nó trói chặt vào ghế,
mà thân thể run bắn lên đến nỗi rung cả cái ghế, rồi đầu chàng ngả về một bên
như chết.
Họ lại vặn nhỏ ngọn đèn.
Đứng khoanh tay trước mặt Phú, viên lục sự già, cái bút máy
gài tai, bình tĩnh nói:
- Tao chờ mày khai thì tao làm nốt biên bản.
Lúc ấy, mười phần hiểu biết, Phú chỉ còn có một. Nhưng chàng
giả vờ làm người chết ngất xem bọn kia có quay trở lại với lương tâm loài người
của họ không. Cho nên khi được cởi trói, bị một bàn tay phũ phàng lay vào vai,
Phú vẫn nằm nhắm mắt, đành phải để cả mình cùng cái ghế ngã và đổ lăn xuống đất.
Cái đau vì ngã còn hơn cái ghê gớm để lửa và khói hun nấu hậu môn. Trước cái
ngã ấy, người lục sự nói:
- Thôi hoãn vậy. Cứ như thế thì đêm mai nó cứ trông thấy cái
đèn cũng đủ cung xưng hết, tội gì rồi cũng phải nhận.
Rồi họ tháo lui.
Rồi cửa ngục bị khóa trái.
Rồi cửa ngục lại mở.
..............................
Sau khi ngẫm nghĩ hồi lâu, Phú tự nhủ một cách quả quyết:
"Được rồi, nếu ta bị bắt lần nữa thì ta cứ khai là con gái ông huyện mở cửa
ngục cho ta ra xem sao!" Cái tiếng oanh thỏ thẻ ấy chính là tiếng của người
con gái đã nũng nịu nói câu: "Thì cậu để yên cho con quan sát mọi sự thì
đã sao!" Lúc bị ông huyện gắt mắng ở điếm, khi Phú bị lính dẫn đến trước mặt
viên tham tá lục lộ về tội đánh người Nhà nước. Phú cho thế là một cách gỡ mình
chính đáng, vì nếu muốn kết tội Phú, trước hết ông huyện hãy buộc tội con gái
ông. Biết đâu chẳng chỉ vì thế mà thoát tù tội.
Phú nghĩ đến đây, vui vẻ quá, quên cả đau, vươn vai đứng lên
giục:
- Thôi đi chứ, các ông, các bà! Ngồi nghỉ đến bao giờ nữa?.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét