Con kỳ lân cuối cùng 2
8
Con vật một màu đỏ máu, không phải thứ máu đỏ tươi từ tim
tuôn ra, mà là thứ máu đỏ bầm ứa từ vết thương kinh niên không bao giờ hoàn
toàn kín miệng. Một thứ ánh sáng kinh khủng tự nó tuôn trào ra như một thứ mồ
hôi lạ, và tiếng nó rống lên như núi lở. Sừng nó màu xám lợt như xẹo.
Trong lúc lân đối diện với nó, như một đợt sóng đóng thành
băng sắp òa vỡ. Kế đó ánh sáng từ sừng lân thoát ra, và lân quay lại chạy trốn.
Con Bò Mộng Đỏ rống lên một lần nữa, nhào đuổi theo sát lân.
Lân chưa bao giờ sợ bất kỳ một vật gì. Tuy bất tử nhưng lân vẫn
có thể bị giết bởi một quái điểu, bởi một mũi tên lạc lẽ ra nhằm bắn một con
sóc nào đó. Tuy nhiên rồng chỉ có thể giết lân mà không bao giờ làm lân quên
lân là lân, và cũng không bao giờ khiến rồng quên rằng cả khi lân chết lân vẫn
đẹp hơn rồng. Con Bò Mộng Đỏ không biết lân, tuy nhiên lân vẫn có thể cảm thấy
rằng nó vẫn cố ý tìm lân, chứ không phải nó tìm một con ngựa cái trắng. Lần này
nỗi sợ hãi phả tới làm màu trắng của lân tối xầm đi, và lân chạy, trong khi tiếng
gầm nghi ngờ của Con Bò Mộng Đỏ vang lên đầy ấp khoảng trời, trần ngập cả vùng
thung lũng sâu.
Cây cối như đâm bổ tới chặn lân, và lân tránh né chúng! Lân từng
lướt trong vĩnh cửu chưa hề vấp phải cái gì. Sau lân, cây cối bị Bò Mộng Đỏ dày
xéo gãy nát trong cuộc rượt đuổi. Bò Mộng Đỏ dày xéo gãy nát trong cuộc rượt đuổi.
Bò Mộng Đỏ gầm lên một tiếng nữa, và một cành cây lớn đập trúng vai lân mạnh đến
nỗi lân lảo đảo và ngã quỵ xuống. Lân chồm dậy ngay tức khắc, nhưng bây giờ thì
rễ cây bật lên chỗ lồi chỗ lõm rất khó chạy, dây nho như lũ rắn muốn thắt lấy cổ
lân, dây leo quấn quít đan lát giữ cây này với cây khác giữa những cành cây lớn
chết khô, giờ đây tất cả đổ xập xuống ngổn ngang trên mặt đất quanh lân. Một lần
nữa lân ngã xuống. Tiếng móng Bò Mộng đập trên đất vang thấu xương và lân kêu
lên một tiếng.
Lân đã bằng cách nào đó vùng thoát ra khỏi vùng cây đổ ngổn
ngang, và đương chạy trên khoảng đất trần, rắn của cánh đồng phẳng, xa hẳn khoảng
đồng cỏ phì nhiêu của Hagsgate. Giờ thì lân có chỗ để chạy đua, và một kỳ lân
chỉ có thể nhởn nhơ thong thả khi đã bỏ xa kẻ săn mình bỏ xa đám người ngựa mệt
nhoài. Lân lướt với tốc độ của đời sống, nhanh hơn gió, tuy nhiên, dù không
quay lại lân cũng biết rằng Con Bò Mộng Đỏ vẫn đuổi bén gót, vẫn theo sát lân
như bóng đuổi theo hình vậy, lân cảm thấy như đôi sừng xám lạnh của con quái vật
đã chờm húc vào sườn mình rồi.
Những thân cây ngô như ngả xuống làm hàng rào chặn ngang lấy ức
lân, nhưng lân dẵm cho chúng bẹp dí xuống. Cánh đồng lúa mì trở thành lạnh cóng
và đặc quánh khi gặp hơi thở của Con Bò Mộng Đỏ, rồi vướng vào chân lân như những
cụm tuyết tơi tả. Lân vẫn chạy, cất tiếng kêu than thua cuộc. Lân chợt như nghe
thấy giọng nói nhịp nhàng và lạnh lùng của chú bướm: "Tất cả kỳ lân đều đã
xuôi theo con đường này từ lâu, và Con Bò Mộng Đỏ luôn luôn dồn bén gót."
Chắc nó đã giết hết tất cả những kỳ lân đó.
Đột nhiên Con Bò Mộng Đỏ sừng sững chặn phía trước lân, đối
diện với lân, như thể nó vừa bay trên không rồi sà xuống chặn đầu. Nó chưa xông
tới ngay, mà lân thì chưa chạy. Nó xuất hiện đã to lớn kinh khủng khi nhập cuộc,
nhưng trong khi đuổi theo lân, nó càng trở thành mênh mông bát ngát, đến nỗi
lân không tài nào tưởng tượng được hết hình thù nó bây giờ. Nó như uốn mình lẫn
với vòng cong đỏ rực của khoảng trời, chân nó như những cột gió lốc, đầu nó
quay đi quay lại lẫn với vùng sáng Sao Bắc Đẩu. Hai lỗ mũi nó nhăn đi nhúm lại
thở ù ù mỗi khi nó hục hặc tìm lân, và tới lúc đó lân mời nhận ra rằng Con Bò Mộng
Đỏ mù.
Nếu như nó cứ xô tới có lẽ lân đã nhận cuộc giao đấu vô vọng
với nó, có thể nó sẽ dẫm nát lân ra từng mảnh. Nó lẹ hơn lân nhiều, thà cứ giao
đấu với nó bây giờ còn hơn bị nó bắt sống khi chạy. Nhưng Bò Mộng cứ từ từ tiến
lên, dáng điệu đủng đỉnh thanh lịch một cách nham hiểm, như thể nó không có ý dọa
dẫm lân. Thốt lên một tiếng kêu khẽ đầy thương đau, lân chạy ngược lại con đường
mình vừa chạy, qua những cánh đồng lúa gãy nát, qua cánh đồng trơ trụi bỏ
hoang, hướng về phía lâu đài của Haggard, lù lù và đen tối hơn bao giờ hết. Và
Con Bò Mộng Đỏ lại đuổi theo sau lân, bám sát lấy sự sợ hãi của lân.
Schmendrick và Molly bị bắn về phía sau như một mảnh gỗ bé,
khi Con Bò Mộng Đỏ vừa lướt tới - Molly ngã sấp xuống mặt đất nín thở, tâm trí
như loãng ra, ảo thuật gia bị hất tung vào một bụi gai, một nửa cái áo choàng
rách bươm, gai sước thấu da. Cả hai cùng nhỏm dậy, dựa vào nhau mà khập khiễng
đuổi theo, không ai nói với ai một lời.
Đường qua đám cây cối gẫy đổ bây giờ thành dễ đi cho hai người,
vì Con Bò Mộng Đỏ khi rượt theo lân đã dẵm nát để sang phẳng. Molly và ảo thuật
gia bò lồm cồm trên những thân cây lớn không những bị nghiền nát mà còn ngập một
nửa xuống mặt đất đến khi men theo những hố không rõ sâu nông bao nhiêu trong
bóng đêm thì cả hai càng phải bò thận trọng hơn nữa trên hai tay và hai đầu gối.
Không móng một quái vật nào lại có sức mạnh kinh khủng đến thế, Molly bàng
hoàng nghĩ, cả trái đất bị rung chuyển, rúm ró dưới sức nặng của Con Bò Mộng Đỏ.
Nàng nghĩ tới lân và tim nàng như muốn ngưng đập.
Khi đã ra thoát tới cánh đồng bằng, cả hai cùng thấy lân tít
đằng xa, mờ như một cụm hơi nước trắng lợt dưới ánh sáng rực của Con Bò Mộng Đỏ.
Vừa mệt, vừa sợ, Molly bàng hoàng trông lân và Bò Mộng Đỏ xoay quanh vờn đuổi
nhau như kiểu sao trời và vẩn thạch vần vụ, lao mình vĩnh viễn cô độc trong khoảng
không vô tận. Cứ như vậy hẳn là Con Bò Mộng Đỏ chẳng bao giờ chụp bắt được lân
trừ phi cái Bây Giờ bắt kịp cái Mới Đây, cái Bắt Đầu bắt kịp cái Vừa Qua. Molly
mỉm cười, nụ cười trong sáng làm sao.
Nhưng bóng Con Bò Mộng Đỏ chợt đỏ rực vừa chụp xuống bủa vây
trọn vẹn lấy lân. Lân lùi lại, quẹo sang phía khác, vươn mình chạy vút, nhưng
chỉ để lại gặp Con Bò Mộng ở chính phía đó, đầu nó cúi xuống, mõm rống lên như
sấm động. Lân quay tìm lối khác nhưng rồi vẫn phải lùi lại, tránh sự chạm trán
đối diện với Bò Mộng. Nó chỉ chặn lối lân rồi đứng yên, rõ ràng nó không cố
tình tấn công để giết lân mà chỉ kiểm soát, chặn lân ở mọi ngả, trừ một ngả.
"Nó đương lái lân về một chiều hướng," Schmendrick
nói một cách bình tĩnh. "Nếu quả tình nó muốn giết lân nó đã giết vào lúc
này. Nó đương dồn lân về một hướng như nó đã dồn tất cả những kỳ lân trước đây
về hướng đó, về hướng tòa lâu đài, về hướng Haggard, sao vậy?"
Molly nói, "Ông bạn hãy làm một cái gì đi." Giọng
Molly bình tĩnh một cách kỳ lạ, và ảo thuật gia trả lời nàng cũng bình tĩnh
không kém. "Tôi có làm được cái khỉ gì đâu."
Lân thoát chạy một lần nữa, hăm hở như không biết mệt nhưng
thật đáng thương, và Con Bò Mộng Đỏ nhường lối cho lân chạy, nhưng vẫn cương
quyết chặn lối không cho lân rẽ. Khi lân đối diện với Bò Mộng lần thứ ba như vậy
thì vô tình lân đã ở cách Molly khá gần để nàng nhận thấy hai chân sau lân run
lên cầm cập như chân một con chó đương run sợ. Lân vừa đứng lên, móng bám vào mặt
đất, hai tai vểnh về phía sau, nhưng lân không kêu lên một tiếng nào, và sừng
lân không còn tỏa ánh sáng. Lân khụy xuống khi tiếng rống của Con Bò Mộng Đỏ
làm vòm trời như rạn nứt, lân không quay lại để chạy trốn nữa.
"Mau lên đi ông bạn," Molly Grue nói. "Hãy làm
một cái gì đi."
Schmendrick quay sang nhìn nàng, khuôn mặt ngẩn ngơ một cách
tuyệt vọng. "Tôi làm gì được bây giờ? Tôi làm được gì với những thứ ảo thuật
đó. Ảo thuật mũ, ảo thuật những đồng tiền, hay ảo thuật tôi tráng đá thành trứng?
Liệu những trò đó có giải trí nổi Con Bò Mộng Đỏ, bà bạn có nghĩ thế không, hay
là tôi làm trò những quả cam biết hát? Tôi sẵn sàng làm bất kỳ cái gì bà bạn gợi
ý, vì tôi cũng muốn mình có ích lợi thực tiễn một chút."
Molly không trả lời. Con Bò Mộng tiếp tục tiến lên, và lân
thì cứ nép thấp xuống, nép thấp xuống hơn nữa đến như sắp gãy làm đôi.
Schmendrick nói, "Tôi biết phải làm gì rồi. Nếu có thể, tôi hóa lân thành
một con vật khác, một con vật hèn mọn thôi, thế là Con Bò Mộng hết chú ý. Nhưng
chỉ những ảo thuật gia thượng thặng, một thầy phù thủy cao tay như Nikos, thầy
tôi xưa, mới có khả năng thực hiện nổi điều đó. Biến hình một kỳ lân có khả
năng thực hiện nổi điều đó. Biến hình một kỳ lân - ai làm được điều đó, có thừa
khả năng xáo trộn được thời gian, xáo trộn năm, tháng, mùa như thể ta xáo trộn
những quân bài. Mà tôi thì khả năng chẳng hơn gì bà bạn; kém hơn là đằng khác,
vì bà bạn còn có thể vuốt ve lân, tôi không." Nhưng vừa lúc đó, ảo thuật
gia chợt nói, "Trông kìa. Xong rồi."
Lân đã đứng lên, rất yên lặng trước Con Bò Mộng Đỏ, đầu cúi
xuống, màu trắng bọt biển nay thành bọt xà phòng xám, gầy gò, bé mọn; và ngay cả
Molly yêu lân là thế mà cũng không muốn nhìn lân hiện ra thật trơ trẽn như kia,
mất vùng ánh sáng bao quanh. Đuôi như đuôi sư tử, cẳng hươu, chân dê, bờm xinh
lạnh như bọt nước, cái sừng bị cháy xém, đôi mắt - ôi đôi mắt! Molly nắm lấy
cánh tay Schmendrick xiết chặt.
"Ông bạn có ảo thuật," nàng nói. Nàng nghe thấy
chính tiếng nói của nàng rõ và sâu như tiếng một nữ tiên tri. "Có thể là
ông bạn không nhìn thấy ảo thuật của mình nhưng nó vẫn có đấy. Ông đã gọi Robin
Hood. Robin Hood không hề có, thế mà Robin Hood vẫn xuất hiện như thường và
thành sự thực. Thế là
ảo thuật chứ còn gì nữa. Ông bạn muốn có bao nhiêu ảo thuật
cũng có miễn là ông bạn dám thành tâm tìm kiếm nó."
Schmendrick nhìn nàng yên lặng, nhìn chằm chằm như thể ông
đương tìm ảo thuật trong chính đôi mắt Molly Grue. Con Bò Mộng tiến từ từ về
phía lân, nó không rượt đuổi nữa mà điều khiển lân bằng sức nặng hiện hữu của
nó, và lân tiến về phía trước, ngoan ngoãn, dễ bảo. Nó theo lân như tên chăn cừu
theo sau một con cừu lạc đương bị dồn về phía lâu đài Haggard với những chiếc
tháp nhọn hoắt, có biển.
"Ồ xin ông bạn," giọng Molly như vụn ra. Xin ông bạn
chú ý cho, không thể thế được, không thể để việc đó xảy ra được. Nó đương dồn
lân về phía lâu đài Haggard, và không ai còn được gặp lại lân nữa, không bao giờ
còn được gặp lại lân nữa. Xin ông bạn, ông là ảo thuật gia ông đừng để cho nó
làm vậy." Bàn tay Molly càng xiết chặt hơn nữa. "Làm cái gì đi, ông bạn!"
Và nàng khóc. "Đừng để Con Bò Mộng ngang tàng hống hách quá thế. Hãy làm
cái gì đi, ông bạn!"
Schmendrick trố mắt nhìn vào những ngón tay thít chặt của
Molly. "Tôi không thể làm được bất kỳ cái gì," ông ta nói qua kẽ
răng, "trừ phi bà bạn nới lỏng tay cho một tí."
"Trời ơi" Molly nói, "Xin lỗi ông bạn."
"Bà bạn ơi, bà bạn có thể làm tắc nghẽn đường máu lưu
thông đó," ảo thuật gia nói bằng giọng nghiêm trọng. Ông ta xoa xoa lên
cánh tay một chút, rồi tiến lên mấy bước đi vào chặn lối đi của Con Bò Mộng Đỏ,
rồi hiên ngang khoanh tay lại, cố ngẩng đầu cao lên, phải cố gắng lắm, vì thực
ra lúc đó ảo thuật gia mỏi mệt lắm rồi.
"May ra lần này," Molly nghe ông ta lẩm bẩm,
"may ra lần này. Nikos đã niệm chú - ừ Nikos đã niệm chú ra sao nhỉ? Ta
cũng không nhớ nữa. Lâu quá rồi còn gì." Giọng Schmendrick thoạt đượm một
vẻ sầu hận xa xưa lạ lùng mà Molly chưa bao giờ nghe thấy. Bỗng giọng đó chợt
tưng bừng như tia sáng vừa bắt thành lửa bắt đầu bốc lên, "Ồ nhưng biết
đâu, biết đâu, ta vẫn có thể làm được lần này chứ. Dù sao Schmendrick, người
cũng không thể đem lại cái gì tồi tệ hơn hiện trạng." Và ảo thuật gia cất
tiếng cười thật khẽ.
Con Bò Mộng Đỏ màu nâu không để ý đến bóng người cao lớn đứng
giữa lối đi, mãi khi tiến gần đến nơi, nó mới dừng lại hít hít không khí. Nó hục
hặc nơi cổ họng muốn gầm lên, nhưng rồi lại có vẻ như hoang mang lúc lắc cái đầu.
Lân cũng ngừng lại khi Bò Mộng ngừng, và hơi thở của Schmendrick như vỡ ra khi
trong thấy lân mềm yếu một cách thê thảm. "Chạy đi chứ!" ông ta thúc
giục lân. "Bây giờ thì chạy đi chứ!" nhưng lân không nhìn ông, cũng
không quay lại nhìn Con Bò Mộng Đỏ, mà chỉ cúi xuống nhìn đất.
Nghe tiếng nói của Schmendrick, Con Bò Mộng gầm to hơn, vẻ dọa
nạt hơn. Hình như nó muốn mau chóng đưa lân ra khỏi thung lũng này, và ảo thuật
gia nghĩ rằng ông đã hiểu lý do vì sao. Ngoài vùng ánh sáng tỏa ra tự Con Bò Mộng
Đỏ, ông đã có thể trông thấy hai hay ba ngôi sao vàng vọt còn sót lại trên vòm
trời, và mơ hồ một tia sáng ấm đương tới gấp. Quả thật rạng đông đương đến kia
rồi.
"Nó đâu có bận tâm đến vừng đông ló rạng,"
Schmendrick tự nhủ thầm. "Điều đó đáng nên biết lắm." Một lần nữa ông
hét lớn lên, giục lân hãy chạy trốn đi, nhưng ông chỉ nghe thấy tiếng gầm như
trống trận đáp lại. Lân tiếp tục lầm lũi tiến lên, Schmendrick phải nhảy vội
sang bên để nhường lối. Bám sát theo lân là Con Bò Mộng Đỏ, nó đương dồn gấp
lân như thể cơn gió mạnh đương thổi dồn một mảng mây mù tơi tả. Sức mạnh của Bò
Mộng lướt tới gạt Schmendrick lăn quay lông lốc sang phía khác để khỏi bị dẫm bẹp,
đôi mắt ông như bị lóa đi, đầu óc như bốc lửa. Tựa như ông ta có nghe tiếng
Molly Grue thét lên.
Quỳ trên một gối, ông thấy Con Bò Mộng Đỏ đã dẫn lân gần tới
khoảng có cây mọc. Nếu như lân biết cách vùng chạy một lần nữa - nhưng giờ đây
lân tùy thuộc vào ma lực của Bò Mộng, không tự chủ được nữa rồi. Ảo thuật gia
liếc nhìn lân lợt lạt, lạc õng giữa hai sừng Bò Mộng, trước khi bờ vai man dại
của nó che khuất hẳn. Ông cảm thấy lảo đảo, sầu đão, thất bại tơi bời, ông nhắm
mắt lại, buông xuôi lòng trong tuyệt vọng cực kỳ não nề... Vừa lúc đó như có
cái gì thức giấc trong ông - cái đó đã một lần thức giấc trong ông trước đây.
Ông hét to lên vừa sợ vừa vui.
Lần này đây ông đã đọc lời thần chú ra sao ông cũng không nhớ
rõ nữa. Những lời đó thoát khỏi miệng ông như những con phượng hoàng tự động vỗ
cánh bay đi. Và khi lời sau cùng vừa dứt thì một sự trống rỗng mênh mông ập đến
cùng với tiếng sét long trời lở đất khiến cho ông ngã sấp xuống. Mọi sự xảy đến
rất chóng, chỉ một loáng. Trước khi đứng dậy ông ý thức rằng ảo thuật chân
chính của ông đã đến và than ôi cũng đã đi mất rồi.
Phía trước, Con Bò Mộng Đỏ đứng im lặng, nó cúi xuống đánh
hơi một cái gì trên đất, Schmendrick chưa trông thấy lân. Ông cố tiến nhanh,
nhưng Molly đã nhanh chân hơn tới trước đủ để nhận ra cái Con Bò Mộng Đỏ đương
ngửi là cái gì. Molly đặt một ngón tay lên miệng như một đứa trẻ.
Dưới chân Bò Mộng, nằm sõng soài một cô gái trẻ măng. Nàng trần
truồng như nhộng, da trắng như tuyết vào một đêm trăng, mớ tóc xõa rối tung màu
bạch kim như ánh thác đổ, mặt nàng khuất trong hai cánh tay.
"Ồ," Molly nói, "ồ, ông bạn đã phù phép ra sao
thế này?" Quên mọi hiểm nguy, nàng tiến nhanh tới quỳ xuống bên cô gái.
Con Bò Mộng Đỏ quay về phía Schmendrick hục hặc cái đầu vĩ đại và mù lòa của
nó. Hình bóng nó như thu gọn lại, nhỏ nhoi, mờ nhạt khi vừng đông ló rạng mặc dầu
hình ảnh nó vừa đây còn âm ỉ cháy như dòng phún xuất thạch vừa thoát khỏi miệng
hỏa diệm sơn. Ảo thuật gia bâng khuâng tự hỏi về kích thức đích thực của nó,
màu sắc đích thực của nó khi ông ta còn đứng lại một mình.
Một lần nữa Con Bò Mộng Đỏ hít mũi ngửi cái thân hình bất động
bên dưới, muốn cố khuấy động hình hài đó bằng hơi thở giá băng của nó. Rồi
không một tiếng động nó nhảy vào lùm cây, chỉ cần tiếp thêm ba bước nhảy vĩ đại
nó đã biến khỏi mắt nhìn. Hình ảnh cuối cùng Schmendrick còn giữ được khi nó vừa
nhảy tới ven thung lũng, là một hình thù không có hình thù gì cả, chỉ là một
khoảng bóng tối xoáy cuốn, đỏ rực ta vẫn thấy hiển hiện phía trước mỗi khi ta cảm
thấy nhức nhối đến phải nhắm nghìn mắt lại. Hai sừng nó như vừa biến thành hai
cái tháp cao nhọn hoắt điên khùng của lâu đài Haggard.
Molly Grue đã nâng đầu cô gái đặt vào lòng mình và thì thầm lại
câu, "Ông bạn đã phù phép ra sao vậy?" Khuôn mặt cô gái thiêm thiếp
trong bình thản và gần như đương mỉm cười, khuôn mặt đẹp nhất Schmendrick được
thấy từ xưa tới giờ. Vẻ đẹp vừa làm ông bị thương vừa sưởi ấm lòng ông. Molly vuốt
cho mớ tóc đẹp của cô gái mượt xuống. Schmendrick nhận thấy trán nàng, khoảng
giữa đôi mắt nhắm nghiền, nổi lên một vệt chấm sẫm màu, không phải vết sẹo,
cũng chẳng phải vết tím bầm, trông tựa như một đóa hoa xinh.
"Bà bạn hỏi rằng tôi đã phù phép ra sao ư?" Ảo thuật
gia đáp lời rên rỉ của Molly. "Chỉ là dùng ảo thuật để cứu lân khỏi Con Bò
Mộng Đỏ. Thưa bà bạn đó là điều tôi đã làm, bằng thứ ảo thuật chân chính của
tôi." Bây giờ thì ông tỏ vẻ khoái hoạt không thể tả được, vừa như muốn
khiêu vũ, vừa như muốn đứng yên. Sau cùng ông bật cười nghiêng ngả tự ôm ghì lấy
mình say đắm đến mức đôi chân lảo đảo và ngã chổng kềnh bên cạnh Molly.
"Đưa cho tôi cái áo choàng ông bạn," Molly nói. Ảo
thuật gia chiếu tia nhìn vào Molly, nháy mắt. Nàng với tay giựt mạnh tấm áo
choàng tả tơi ra khỏi vai ảo thuật gia, rồi choàng kín thân thể cô gái vẫn
thiêm thiếp giấc nồng. Ánh sáng tự cô gái tỏa ra qua làn áo choàng chẳng khác
tia nắng mặt trời lấp lóe qua lùm cây.
"Chắc Bà bạn đương tự hỏi tôi sẽ làm cách nào để biến nàng
trở lại hình hài lân cũ," Schmendrick lên tiếng "Nhưng tốt hơn hết đừng
tự hỏi gì cả. Khả năng biến hóa sẽ đến với tôi khi cần thiết. Bây giờ thì tôi
hiểu điều đó lắm. Một ngày nào đó nếu quả là khẩn thiết nó sẽ đến với tôi,
nhưng bây giờ thì chưa." Rồi như không ngăn giữ được, ông nắm lấy Molly
Grue ôm ghì lấy đầu nàng trong đôi cánh tay dài ngoằng của ông. "Nhưng bà
bạn đã có lý," ông la lớn, "khả năng ảo thuật đó vẫn có kia, và nó
thuộc quyền sở hữu của tôi!"
Molly rụt đầu ra khỏi tay ông, một bên má bị chà sát đỏ ửng,
hai tai bẹp dí. Cô gái thở dài trong lòng Molly, ngưng nét cười mỉm, quay mặt về
phía mặt trời mọc. Molly nói, "Schmendrick, ông bạn ảo thuật gia tồi tệ,
ông không thấy sao."
"Thấy cái gì kia? Có cái gì để thấy đâu." Nhưng giọng
ông chợt dắn đanh lại và thận trọng, đôi mắt xanh của ông cũng thoáng vẻ sợ
hãi. "Con Bò Mộng Đỏ tới tìm bắt lân, lân phải biến thành một thứ gì khác.
Chính bà bạn yêu cầu tôi biến hóa lân - bây giờ bà bạn lo âu cái gì nào?
Molly lắc đầu, "Tôi nào ngờ ông bạn lại hóa lân thành
hình cô gái như thế này, lẽ ra ông bạn phải làm cái gì khá hơn." Nàng
không nói hết lời, nhưng nhìn đi nơi khác, tay tiếp tục vỗ về cô gái tóc bạch
kim.
"Chính phép ảo thuật tự nó chọn hình dáng, không phải
tôi," Schmendrick trả lời. "Một tên làm trò hạ cấp mới nói sắp biểu
diễn trò này, sắp biểu diễn trò nọ, nhưng một ảo thuật gia chỉ là kẻ chuyên chở,
một con lừa mang trên lưng ông chủ và đi xa tùy theo sức mình. Ảo thuật gia đọc
lời chú, nhưng pháp thuật tự chọn cách thể hiện. Nếu nó quyết định biến lân
thành hình con gái, thì đó là điều tốt nhất nên làm." Khuôn mặt ông bừng bừng
say đắm đến thành mê sảng, khiến trông ông càng trẻ thêm. "Ta là kẻ mang đồ,"
ông cất tiếng hát. "Ta là nơi trú ngụ, ta là người sứ giả đưa tin."
"Ông bạn là một tên ngốc," Molly Grue dằn giọng.
"Ông bạn có nghe tôi nói chăng? Ông bạn có nghe tôi nói chăng? "Ông bạn
là một ảo thuật gia xuẩn ngốc." Cô gái muốn tỉnh giấc nồng thì phải, hai
bàn tay cô mở ra rồi khép lại, hai hàng mi rung động như khoảng ức con chim.
Molly và Schmendrick còn đương tiếp tục chăm chú ngắm thì nàng thốt tiếng kêu
khẽ và mở mắt, đôi mắt thật khác thường, sâu thăm thẳm, tràn ngập ánh sáng bề mặt
nhưng bao hàm biết bao bí ẩn ở chiều sâu. Lẽ ra lân phải được biến thành thằn lằn,
Molly nghĩ, hay thành cá mập, hay thành con ốc sên, hay thành con ngỗng.
Cô gái vẫn nằm thẳng không cựa quậy, nàng tự khám phá ra mình
bằng đôi mắt của Molly và đôi mắt của Schmendrick. Và chỉ bằng một cử động nàng
thoắt đứng lên, chiếc áo choàng đen rơi xuống ngang lòng Molly. Trong một khoảnh
khắc nàng xoay thành vòng tròn, nhìn trừng trừng vào đôi bàn tay vô dụng giơ
cao ngang tầm ngực. Nàng hơi nhích bước đi một cách vụng về như con đười ươi
đang làm trò, khuôn mặt nàng ngỡ ngàng như thể đương là nạn nhân của một tên hề
chọc quê. Tuy nhiên nhất cử nhất động của nàng đều đẹp. Vẻ mặt kinh hoàng của
nàng như con vật sa bẫy trông càng đẹp hơn bất kỳ khuôn mặt biểu lộ niềm vui
nào. Điều đó càng là một điều kinh khủng.
"Con lừa," Molly nói. "Người sứ giả đưa
tin."
"Tôi có thể biến nàng thành lân trở lại," ảo thuật
gia trả lời, hơi khản giọng. "Đừng lo điều đó, tôi có thể biến nàng trở lại
như cũ mà."
Rực rỡ dưới ánh mặt trời, cô gái trắng nõn nhảy đi nhảy lại
trên đôi chân trẻ mạnh của mình. Chợt nàng trượt chân ngã, và ngã đau vì nàng vẫn
chưa biết cách sử dụng đôi bàn chân để đỡ cho thân mình. Molly chạy bổ tới,
nhưng cô gái vẫn nép mình trên mặt đất ngước nhìn Molly, hỏi, "Các bạn đã
làm gì cho tôi vậy?" Molly Grue bắt đầu khóc.
Schmendrick tiến tới, khuôn mặt lạnh và ướt, nhưng giọng nói
chừng mực. "Tôi đã hóa bạn thành người để cứu bạn khỏi Con Bò Mộng Đỏ. Tôi
không thể làm cách gì khác hơn. Tôi sẽ biến bạn trở lại hình cũ khi nào tôi có
thể."
"Con Bò Mộng Đỏ," cô gái thì thầm. "A!" nàng
bỗng run lên bằn bặt như bị lay động tự bên trong. "Nó mạnh quá chừng,"
nàng nói, "mạnh không biên giới. Nó lâu đời hơn tôi."
Đôi mắt nàng mở lớn. Molly tưởng chừng như Con Bò Mộng Đỏ
đương chuyển động trong đó, vượt qua những vực sâu, hung hăng như những con cá
quẫy bay trên mặt biển, rồi lại mất hút đi ngay. Cô gái bắt đầu đưa tay lên e
dè sờ mặt, rụt tay lại khi cảm thấy những đường nét mới. Khi ngón tay cong của
nàng lướt tới khoảng trán tròn nhỏ thì đôi mắt nàng nhắm lại và thốt tiếng kêu
nhỏ bi thương, tuyệt vọng như vừa bị đâm bằng dao găm vậy.
"Bạn đã làm gì cho tôi thế này?" nàng kêu lên.
"Tôi muốn chết ở đây." Nàng cấu vào khoảng cơ thể mềm của nàng, và
máu chảy ra theo ngón tay. "Tôi muốn chết ở đây! Tôi muốn chết!"
Khuôn mặt nàng không có dấu hiệu gì là sợ hãi hoặc bối rối; mặc dầu khuôn mặt
nàng có vẻ giận dữ, cử động chân tay của nàng có vẻ giận dữ, mớ tóc bạch kim của
nàng nhường như cũng giận dữ khi rủ xuống che thân thể nàng.
Molly tiến tới sát bên nàng, khẩn cầu nàng đừng tự làm mình
đau đớn, đừng gây thương tích cho mình. Nhưng Schmendrick đã nói, "Đứng
yên," hai tiếng đó được thốt ra dõng dạc như tiếng cành khô gãy. Ông tiếp,
"Pháp thuật biết nó phải làm gì, hãy yên lặng và nghe tôi nói đây
này."
"Sao người không để cho Con Bò Mộng Đỏ giết tôi
đi?" cô gái trắng ngần rên rỉ. "Sao người không để mặc tôi bị nhốt
trong chuồng như quái điểu. Như vậy còn tốt hơn là nhốt tôi vào hình hài của thế
nhân như thế này." Ảo thuật gia nhớ lại lời trách móc của Molly Grue mà
không thấy nhụt nhuệ khí, nhưng ông cũng gắng giữ bình tĩnh mà rằng, "Trước
hết, đây là một hình thể hết sức hấp dẫn. Không thể làm cái gì khá hơn được, mà
vẫn là người."
Nàng tự nhìn nghiêng nghiêng từ vai dọc theo cánh tay và những
vết cào sướt trên cơ thể. Nàng đứng lò cò trên một chân để quan sát lòng bàn
chân kia; ngước mắt cố nhìn lông mày, lim dim lé mắt để cố quan sát một khoảng
mũi, cúi xuống nhìn kỹ cả đường gân xanh trên cổ tay. Sau cùng nàng quay về
phía ảo thuật gia khiến ông phải nín thở, ông nghĩ ông đã làm ảo thuật, nhưng
ông vẫn cảm thấy nghẹn ngào làm sao ấy ở nơi cổ.
"Đúng vậy," ông nói. "Thật ra tôi có hóa bạn
thành con tê giác thì cũng vậy thôi. Hóa bạn thành người như thế này bạn mới có
dịp vào lâu đài của vua Haggard mà tìm hiểu xem đồng loại bạn ra sao chứ. Là một
kỳ lân, bạn hẳn xót thương cho số phận đồng loại bạn trước đây - trừ phi bạn
nghĩ có thể thắng được Con Bò Mộng Đỏ trong trận thư hùng thứ hai thì không kể."
Cô gái trắng ngần lắc đầu, trả lời, "Không, không bao giờ.
Nếu gặp nó lần thứ hai tôi chắc không thể chống cự lâu như lần này được."
Giọng nàng nhẹ sớt, nàng tiếp, "Đồng loại tôi đã ra đi hết cả rồi, tôi nên
đi theo thôi dù dưới hình thể nào cũng mặc. Thật ra tôi muốn ở bất kỳ hình thể
nào, hơn là làm tù nhân trong hình thể người như thế này. Là con tê giác thì
cũng xấu xí như người, và cũng trên đường tuyệt diệt đến nơi, nhưng ít ra tê
giác không bao giờ nghĩ rằng nó đẹp."
"Dĩ nhiên vậy, tê giác không bao giờ nghĩ rằng nó đẹp,"
ảo thuật gia biểu đồng tình. "Vì vậy mà nó tiếp tục là tê giác và chẳng bao
giờ được tiếp đón tại triều đình Haggard. Nhưng là một cô gái mỹ miều, nghĩa là
thoạt tiên hãy không phải là tê giác đã, một cô gái như thế mà gặp nhà vua và
hoàng tử, thì biết đâu cả vua lẫn hoàng tử chẳng cùng ra sức giúp nàng giải đáp
vấn đề đương tìm hiểu. Tê giác thì có giờ muốn tìm hiểu cái gì, nhưng một cô
gái thì có chí."
Trời nóng như đặc quện lại; mặt trời trên cao như bị nung chảy
thành một khối hung màu lông sư tử; trên cánh đồng thuộc thành phố Hagsgate này
chẳng còn gì khác ngoài tiếng gió lộng. Cô gái trần truồng với một điểm hoa trước
trán nhìn đăm đăm vào người đàn ông mắt xanh, Molly thì chăm chú ngắm cả hai.
Dưới ánh sáng ban mai, lâu đài của vua Haggard không có gì là tối tăm quái đản
cả, chỉ có vẻ bẩn thỉu và xơ xác, đường nét nghèo nàn. Đỉnh nhọn của tháp trông
chẳng giống gì sừng Bò Mộng mà lại giống chóp mũ của một anh hề.
Cô gái trắng ngần nói, "Bản chất tôi bất biến. Cơ thể
này thì tiến dần đến chỗ hủy diệt, tôi cảm thấy rõ vậy. Làm sao một vật đương
tiến lần tới cõi chết mà lại thật và đẹp cho được?"
Molly quàng tấm áo choàng của ảo thuật gia lên thân hình thiếu
nữ không phải là vì khiêm nhường hay vì lịch sự mà vì một niềm trắc ẩn nào đó,
tựa như Molly không muốn để cô gái phải tự ngắm mình.
"Để tôi kể cho các bạn nghe một truyện,"
Schmendrick nói. "Thuở tôi còn là một chú bé, tôi tới xin làm môn đồ ảo
thuật gia vĩ đại Nikos, người mà tôi đã từng nói với các bạn trước đây. Mặc dù
thầy tôi, đấng Nikos vĩ đại có thể hóa mèo thành trâu bò, hóa bông tuyết thành
cây tuyết điểm hoa, và kỳ lân thành người, mà ngài cũng không thể biến tôi
thành một tên khác hơn là tên làm những trò lăng nhăng rẻ tiền. Sau cùng người
nói với tôi rằng: "Con ơi, vụng về đến như con là độc nhất vô nhị rồi vô
năng đến như con cũng là sơn cùng thủy tận rồi, bởi vậy thầy chắc nơi con phải
cư ngụ một quyền năng nào lớn lắm mà thầy chưa biết được, chưa có cách nào khám
phá ra. Thầy nghĩ rằng chính con rồi sẽ vào đúng lúc nào đó tự tìm ra con đường
riêng đạt tới quyền năng tuyệt vời đó! Nhưng thành thực mà nói, con tất phải sống
lâu lắm mới tới được ngày đó. Vậy thầy ra phép cho con được hưởng trường sinh bất
lãi từ đây, con sẽ phải lang thang hoài lang thang hủy trên khắp nhân gian, cho
đến ngày con đạt được chính con và hiểu con là gì. Đừng cảm ơn thầy. Thầy run sợ
cho định mệnh đó của con."
Cô gái trắng ngần e dè ngó khuôn mặt trẻ măng của ông bằng
đôi mắt trong và vĩnh cửu của lân, không thốt một lời. Chính Molly lên tiếng hỏi,
"Vậy khi ông bạn tìm ra được pháp thuật của ông rồi thì sao?"
"Thì phép của thầy tôi ban cho tôi sẽ hết hiệu nghiệm,
và tôi trở lại có sống có chết như mọi người. Ngay cả những đấng phù thủy tuyệt
vời cũng có già có chết cả đấy chứ." Ông ta lắc lắc rồi lại gật gật cái đầu,
rồi như bừng tỉnh: một người đàn ông cao, gày, rách rưới, sặc mùi đất và rượu.
"Tôi đã nói là tôi già hơn vẻ bề ngoài mà," ông tiếp. "Tôi sinh
ra như một thường nhân có sống có chết, hiện tượng tạm hưởng trường sinh bất tử,
rồi đây, vào một ngày nào đó, tôi trở lại đời thường nhân có sống có chết; vì vậy
tôi hiểu được những điều mà lân không không sao hiểu nổi. Bất kỳ cái gì có sống
có chết đều đẹp - đẹp hơn kỳ lân, chính vì điểm kỳ lân đã sống vĩnh cửu lại còn
đẹp nhất hoàn vũ. Bạn hiểu tôi chứ?"
"Không!" Cô gái đáp.
Ảo thuật gia mỉm cười một cách mệt mỏi. "Bạn sẽ hiểu Bạn
cũng là người trong truyện như chúng tôi bây giờ đây, bạn sẽ phải sống với nó
dù muốn hay không. Nếu bạn muốn tìm thấy đồng loại, nếu bạn muốn trở lại thành
kỳ lân, bạn phải theo truyện thần tiên đó mà đi, mà tới lâu đài của vua
Haggard, hay bất kỳ nơi nào khác mà truyện cần sự có mặt của bạn. Truyện thần
tiên thì làm sao kết thúc cho được, nếu chưa có nàng công chúa xuất hiện."
Cô gái trắng ngần nói, "Tôi không muốn đi." Nàng
quay sang phía khác, thân hình trang trọng, mái tóc lạnh rũ xuống ngang lưng.
Nàng tiếp, "Tôi không phải là công chúa, không phải là thế nhân trong vòng
sinh tử, và tôi không đi. Ra khỏi khu rừng tôi ở, tôi toàn gặp chuyện chẳng
lành; ở lại xứ sở này, kỳ lân như tôi cũng chỉ gặp toàn những chuyện chẳng lành
mà thôi. Hãy trả lại hình thù cũ cho tôi để tôi trở về chốn cũ với rừng cây, với
hồ đầm. Truyện thần tiên của bạn chẳng ăn nhằm gì với tôi cả. Tôi là kỳ lân.
Tôi là con kỳ lân cuối cùng."
Phải chăng lân đã nói những lời này một lần, nói dưới vòm
xanh trầm lặng của cây rừng, trước đây, lâu lắm rồi? Schmendrick tiếp tục mỉm
cười, nhưng Molly Grue nói, "Hãy trả lại hình thể cũ cho nàng. Ông bạn nói
có thể làm được việc đó mà. Hãy để lân trở về chốn cũ."
"Tôi không làm được việc đó," ảo thuật gia trả lời.
"Tôi đã nói với bạn rằng tôi chưa hoàn toàn làm chủ được pháp thuật này
mà. Chưa. Chính vì vậy mà tôi cũng phải tới lâu đài, định mệnh oan khiên, ha dịp
may tối hậu chờ ở đó. Nếu như bây giờ tôi lại niệm chú để biến nàng trở về hình
thể vũ, chắc chắn tôi sẽ biến lầm nàng thành tê giác mất. Ấy là may mắn lắm thì
thế, còn như dở ẹc như mọi khi thì..." Ông rùng mình và im lặng.
Cô gái không nhìn họ nữa, mà quay nhìn lên tòa lâu đài. Nàng
không nhận thấy một cử động sinh vật nào ở phía sau bất kỳ một khung cửa sổ hay
một chòi tháp chơi vơi nào. Cũng chẳng hề thấy một chút tung tích của Con Bò Mộng
Đỏ. Nhưng nàng biết rằng quả thật nó có đấy, giờ này nó đương nằm nghỉ ngơi dưới
hầm sau tòa lâu đài, chờ đêm tối mới xuất hiện: ôi chao, sức mạnh của nó thật
kinh khủng, vô địch như bóng đêm vậy. Một lần thứ hai nàng đặt ngón tay vào khoảng
trán có cái sừng xưa.
Khi nàng quay lại thì cả người đàn ông lẫn người đàn bà đều
đã ngủ say, ai nấy ngồi nguyên chỗ cũ, miệng hé mở. Nàng tới gần họ, ngắm họ thở,
một tay nàng vẫn giữ lấy tấm áo choàng ở khoảng cổ. Và lần đầu tiên mùi biển xa
xôi theo gió thoảng tới với nàng.
9
Hai người lính canh trông thấy họ tới vào khoảng trước hoàng
hôn, mặt biển khi đó mờ mờ phẳng lặng. Hai người đương bước đều qua một trong
hai tháp nhỏ xiêu vẹo khiến tòa lâu đài trông như một thân cây khổng lồ bị bật
rễ. Từ khoảng đứng đó hai người lính có thể kiểm soát được cả vùng thung lũng của
thành phố Hagsgate cùng những đồi bao quanh, kể cả con đường viền thung lũng dẫn
lên tới cổng chính vào lâu đài.
"Một người đàn ông và hai người đàn bà," người lính
canh thứ nhất nói. Y đi vội về phía góc xa của tòa tháp. Tòa tháp này nghiêng đến
nỗi nổi bật phía sau một nửa là trời một nửa là biển, trông thật dễ sợ. Tòa lâu
đài tọa lạc ngay trên bờ một thành đá dựng đứng, bên dưới là một bãi biển nhỏ,
màu cát vàng nổi bật trên màu xanh và màu đen của đá tảng. Lũ chim biển to xù
như đương ngồi sổm trên những tảng đá và cất tiếng kêu the thé, "Nói-vậy,
nói-vậy."
Người lính canh thứ hai bước ngang qua tòa tháp nhịp đi dễ
dàng hơn. Y nói, "Một người đàn ông và một người đàn bà, còn người thứ ba
khoác chiếc áo choàng không rõ là đàn ông hay đàn bà." Cả hai người lính
canh đều mặc thứ áo giáp may lấy bằng vật liệu thô lậu, khuôn mặt họ che khuất
sau cái mũ trụ bằng sắt rỉ, tuy nhiên cứ nghe giọng nói và nhìn dáng đi thì người
thứ hai nhiều tuổi hơn, người này nhấn thêm lần nữa "Gì chứ người mặc áo
chòng đen thì đừng đoan chắc vội."
Nhưng người lính canh thứ nhất đã nghiêng mình vào khoảng ánh
màu cam của mặt biển gợn sóng, tay gãi lên mấy chiếc khuy lỏng trên bộ giáp trụ
tồi tàn, nói, "Đàn bà mà. Chẳng lẽ tôi lại lẫn."
Người kia nói, giọng châm biếm chua chát, "Ờ, là bởi vì
ngươi vẫn còn là thứ đàn ông chỉ biết đứng dạng cẳng xuông mà. Một lần nữa ta
lưu ý đừng coi người thứ ba là đàn bà vội, hãy đợi một chút, và nhìn cho kỹ."
Người lính canh thứ nhất trả lời mà không ngoái đầu lại.
"Nếu như tôi đã lớn lên mà chẳng bao giờ mơ rằng có hai điều bí mật dành
riêng cho cõi đời, nếu như tôi được lang chạ với bất kỳ người đàn bà nào mà tôi
gặp đúng như bản chất tôi muốn thế, thì tôi vẫn phải công nhận rằng sinh vật
này thật hoàn toàn khác hẳn với tất cả sinh vật tôi đã gặp. Tôi vẫn ân hận rằng
chưa bao giờ tôi làm vui lòng người, nhưng giờ đây, nhìn về phía nàng tôi lại
ân hận rằng mình chưa bao giờ làm vừa lòng chính mình. Ôi, tôi ân hận biết chừng
nào." Người lính càng vươn người ra ngoài bờ thành nhìn chằm chằm về phía
có ba khuôn mặt đương tiến tới chầm chậm. Tiếng cười khanh khách thoát ra tự
sau mũ trụ, "Người đàn bà coi đau chân và gắt gỏng. Người đàn ông coi bộ dễ
thương, mặc dầu chỉ đơn giản là là loại chuyên đi lang thang, cầu bơ cầu bất.
Có thể hắn là tên hát dạo, hay một kịch sĩ không chừng." Người đó ngừng
nói một lúc lâu, nhìn mấy người tiến gần tới dần.
"Thế còn người thứ ba?" người lính canh nhiều tuổi
hỏi. "Ánh chiều tà mê hoặc chiếu trên màu tóc lạ ra sao? Sau một khắc đồng
hồ ngắm nghía ngươi đã chán nàng chưa? Đã nhìn gần nàng hơn thì yêu lẽ ra phải
e dè giữ ý chưa?" Giọng hỏi rung lên phía trong mũ trụ như tiếng cào yếu ớt.
"Tôi chưa thể nhìn gần nàng được," lời đáp.
"Tuy nhiên nàng đương đến gần." Giọng nói bỗng nín bặt và tiếc nuối.
"Nàng là một cái gì mới, thật mới," người đó tiếp. "Cái gì ở
nàng cũng như bỡ ngỡ xuất hiện lần đầu. Trông nàng cử động kìa, trông nàng cất
bước đi kìa, trông nàng quay đầu kìa - nhất cử nhất động bỡ ngỡ mới toanh, như
thể lần đầu tiên tập làm những cử động đó. Trông cách nàng thở hít không khí
kìa, như thể trên cõi đời này không ai hiểu rằng khí trời hữu dụng đến thế. Chẳng
lẽ tôi lại bảo nàng vừa mới sinh ra hôm nay."
Người lính thứ hai nhô đầu ra khỏi tháp canh nhìn xuống ba
người bộ hành. Người đàn ông cao lớn nhận ra trước, rồi kế đến người đàn bà
nhăn nhó gắt gỏng. Mắt họ chẳng phản chiếu cái gì khác ngoài bộ giáp trụ. Vừa
lúc đó người con gái trong tấm áo khoác cũ kỹ màu đen ngẩng đầu lên, và người
lính canh lùi lại phía sau bức thành thấp, rút một chiếc bao tay bằng thiếc ra,
cô gái nhìn theo. Lát sau cô ta cùng hai bạn đồng hành đã vào vùng bóng đổ xuống
của tòa lâu đài. Người lính canh hạ tay xuống.
"Có thể nàng điên," ông ta nói, giọng bình tĩnh.
"Không có cô gái nào mới lớn lên mà trông lại giống nàng, trừ phi nàng là
thứ điên khùng. Có thể nàng sẽ làm phiền mình, nhưng điều đó còn đáng mê hơn
chán vạn những thức khác."
"Vậy nghĩa là thế nào?" Người lính canh ít tuổi hơn
ngắt lời sau một lúc im lặng. "Vậy có nghĩa là quả thực nàng mới sinh ra đời
sáng hôm nay. Nàng khùng chăng? Nào, chúng ta hãy xuống xem sao."
Khi người đàn ông và hai người đàn bà vừa tới lâu đài, hai
người lính canh đã đứng hai bên cổng lớn, hai chiếc kích cùn và cong ngáng
thành hình chữ thập, còn đoản kiếm lưỡi cong thì chặn về phía trước. Mặt trời
đã lặn, mặt biển mờ đi, bộ giáp trụ của họ nổi bật lên càng đượm vẻ dọa nạt. Ba
khách bộ hành dừng lại ngỡ ngàng nhìn nhau.
"Cho biết tên các người," giọng nói khàn khàn của
người lính canh đứng tuổi.
Người đàn ông cao lớn tiến lên một bước, nói, "Tôi là
Schmendrick, Ảo thuật gia. Đây là Molly Grue, người phụ tá của tôi - và đây là
Công nương Amalthea. 1 Ông ta hơi lúng túng khi nói đến tên đó, tựa
như đây là lần đầu ông thốt ra. Ông tiếp, "Chúng tôi tới xin yết kiến Vua
Haggard. Chúng tôi từ xa lắm tới để xin được gặp vua."
Người lính canh thứ hai đó có ý chờ cho người lính canh thứ
nhất nối lời nhưng người lính trẻ này chỉ biết chăm chú nhìn vào nàng công
nương Amalthea. Vì vậy người đó đành sẵng giọng hỏi tiếp, "Cho biết các
người tới gặp Vua Haggard về việc gì?"
Ảo thuật gia đáp, "Tôi sẽ đích thân nói chuyện đó với
Vua Haggard. Có chuyện nào nói với nhà vua lại đi nói trước với lính canh, lính
gác cửa không? Hãy đưa chúng tôi tới yết kiến vua."
"Quốc sự nào mà đến hạng phù thủy với giọng lưỡi điên rồ
như ông kia chứ?" Người lính canh thứ hai buông lời nhận xét bằng giọng ảm
đạm. Nhưng rồi ông ta cũng quay bước trở vào, và ba người xin triều yết vội vã
bước theo. Người lính trẻ tha thẩn ở lại, dáng đi của hắn giống dáng đi của
công nương Amalthea mà hắn vô tình bắt chước. Nàng đứng trước cổng giây lâu,
nhìn ra phía biển và người lính trẻ cũng bắt chước làm theo.
Người lính đi trước giận dữ gọi hắn, nhưng người lính trẻ lại
chỉ bước vào sau khi công nương Amalthea đã bước vào, vừa bước theo vừa cất tiếng
lơ đãng hát thầm.
Điều gì đã đến với ta đây,
Sao ta ngơ ngẩn suốt đêm ngày?
Chẳng rõ mình vui hay sợ hãi
Điều gì đã đến với ta đây?
Họ qua một cái sân rải cuội, quần áo phơi đã khô lạnh vướng
vào mặt họ. Qua một cái cửa nhỏ họ vào một khu tiền đình rộng, bóng tối mờ mờ,
không trông thấy trần và tường. Trong khi lết gót tiến họ chỉ gặp những cột đá
bự như cũng đương tiến ngược chiều và nghiêng thân về phía khác không để họ
nhìn. Hơi
thở cũng âm vang ở nơi này, và tiếng bước chân của những con
vật nhỏ khác rồn rập rõ mồn một như những bước chân của họ. Molly Grue đi sát
bên Schmendrick.
Sau tiền đình lớn rộng, qua một cái cửa khác, rồi tới bực
thang nhỏ. Những cửa sổ nhỏ xuất hiện không có ánh sáng. Càng bước lên, thang
càng xoáy cuộn cho đến lúc một bậc bước lên là một bậc xoáy ốc, và tòa tháp
khép giữ lấy họ như một nắm tay nhơm nhớp mồ hôi. Bóng tối như giương mắt trừng
trừng, rồi sờ mó vào họ, mùi ẩm và hôi.
Có tiếng ù ù tự chốn thăm thẳm nào. Tòa tháp rung lên như chiếc
tầu bể kéo cho chạy trên mặt đất, và từng phiến đá như rên rỉ ảo não. Ba kẻ mới
tới kêu lên một tiếng kinh hãi rồi cúi xuống bò trên bực thang rung chuyển
nhưng hai người lính canh dẫn đường ép họ đi ngay. Người lính trẻ thì thầm bảo
nàng Amalthea, "Đừng sợ, không sao đâu. Con Bò Mộng đấy." Kế đó không
còn tiếng động nào khác.
Người lính canh thứ hai chợt dừng lại, lấy chìa khóa ở chỗ dấu,
đâm chìa khóa vào khoảng tường trống. Một khoảng tường lắc lư mở. Bước theo lối
nhỏ vào, bên trong là một căn phòng thấp, hẹp có một cửa sổ và một cái ghế tít
đằng phía xa. Ngoại giả không còn gì khác, đồ đạc không, thảm trải không, thảm
treo không. Bên ngoài, ánh sáng mong manh của vừng trăng thượng tuần nhòm ngó.
"Đây là phòng thiết triều của vua Haggard," người
lính canh nói.
Ảo thuật gia nắm lấy khuỷu áo giáp của người lính canh kéo hắn
lại đối diện với mình rồi nói. "Đây là một sà lim. Đây là một nhà mồ.
Không ông vua tại thế nào thiết triều ở đây. Hãy mang bọn tôi đến gặp Haggard nếu
nhà vua còn sống."
Người lính gác vừa trả lời lẹ như gió cuốn vừa nâng mũ trụ
lên để lộ cái đầu với mái tóc hoa râm, "Chính ta là vua Haggard đây!"
Mắt nhà vua cùng màu với đôi sừng của Con Bò Mộng Đỏ. Ông còn
cao lớn hơn cả Schmendrick nữa, khuôn mặt lẩn quất niềm chua chát, không thân
ái nhưng cũng không hề lộ một vẻ gì là điên khùng. Khuôn mặt ông như khuôn mặt
con cá măng: hai hàm dài và lạnh lùng, đôi má dắn dỏi, cổ gầy còn tràn đầy sức
mạnh. Có thể nhà vua đã bảy mươi hay tám mươi tuổi trời, hay hơn nữa.
Người lính canh thứ nhất bấy giờ mới tiến lên, mũ trụ cắp dưới
nách. Molly Grue há hốc miệng ngạc nhiên, vì đó chính là khuôn mặt thân ái và bối
rối của vị hoàng tử ngồi đọc báo trong rừng, trong khi nàng công chúa lên tiếng
hát gọi kỳ lân. Vua Haggard nói, "Đây là Lir."
"Chào!" Hoàng tử Lir lên tiếng. "Hân hạnh được
gặp các bạn" Chàng cười, đôi mắt xanh thẳm tràn ngập bóng tối, đôi mắt đó
vẫn chăm chăm nhìn nàng Amalthea. Nàng nhìn lại chàng, yên lặng như viên ngọc,
nhìn chàng không chân thật gì hơn người ta nhìn kỳ lân. Nhưng hoàng tử cảm thấy
sung sướng vì đinh ninh rằng người đẹp nhìn mình chu toàn và thông suốt. Sự kỳ
diệu hình như bắt đầu khơi động đâu đây trong chàng. Vẫn tự soi mình nơi nàng
Amalthea, hoàng tử thấy chính mình cũng bắt đầu chói rạng.
"Các người đến gặp ta có chuyện gì?"
Schmendrick ảo thuật gia dặng hắng dọn giọng, khẽ cúi đầu trước
ông già có đôi mắt xám. "Chúng tôi mong được hầu hạ ngài. Danh tiếng triều
đình vua Haggard thực đã được truyền tụng sâu rộng lắm."
"Ta không thiếu hầu cận." Nhà vua quay đi, khuôn mặt
và thân thể cùng dửng dưng. Schmendrick cảm thấy một điều gì kỳ lạ phảng phất
nơi khuôn mặt màu đá mài và mái tóc màu muối tiêu của nhà vua. Ảo thuật gia nói
một cách cẩn trọng, "Nhưng chắc ngài vẫn duy trì một số tùy tùng. Nếp sống
tiết chế là đồ trang điểm quý giá nhất của một đáng quân vương, nhưng thưa
ngài, với một vị vua như vua Haggard."
"Ngươi không hiểu điều ta ưa thích," nhà vua ngắt lời,
"và như vậy rất nguy hiểm. Chỉ lát nữa ta hoàn toàn quên ngươi, không hề
nhớ đã cùng ngươi đàm thoại. Những gì ta quên không những ngừng hiện hữu, mà
chưa bao giờ hiện hữu cả." Trong khi nhà vua nói, đôi mắt ông giống con
trai ông, chiếu nhìn vào đôi mắt của nàng Amelthea.
"Triều đình của ta ư," nhà vua tiếp, "vì người
đã chọn danh từ đó, ta xin nói là triều đình ta chỉ có bốn kỵ giáp binh. Có thể
ta chẳng cần họ, vì họ cũng chẳng xứng đáng cho lắm, như mọi vật khác ấy mà.
Nhưng họ đã quen thay phiên nhau khi thì là lính canh khi thì làm bếp tại nơi
đây rồi. Vả lại dầu sao họ cũng giúp cho lâu đài này có vẻ như được canh gác
nghiêm mật bởi cả một đạo binh. Ta còn cần ai tùy tùng nữa?"
"Nhưng còn những thú vui của triều đình," ảo thuật
gia nói lớn, "âm nhạc, chuyện trò, nữ giới, suối nước phun, đi săn, kịch
nghệ, và tiệc tùng yến ẩm."
"Chẳng có nghĩa lý gì với ta cả," Vua Haggard nói.
"Ta đã từng trải tất cả, những thứ đó chẳng hề làm ta sung sướng."
Nàng Amalthea lẳng lặng đi ngang qua nhà vua, tiến tới gần
khung cửa sổ, nhìn xuống khoảng biển đêm.
Schmendrick tiếp tục lời nói cầu âu, "Chúng tôi hiểu lắm.
Vạn sự trên đời này với ngài đều nhàm chán, vô tích sự. Ngài chán hạnh phúc, ngấy
cảm giác, coi khinh những trò vui nhạt nhẽo. Đó là nỗi buồn thường tình của các
đấng quân vương, vì vậy mà không ai khoái ảo thuật gia hơn các đấng quân vương.
Chỉ ảo thuật gia mới phù thủy được cuộc đời trôi chảy, luân lưu, đổi mới hoài
hoài. Chỉ ảo thuật gia mới nắm được bí quyết của đổi thay, hắn biết rằng bất kỳ
vật nào cũng ao ước trở thành một vật khác, chính tự khuynh hướng đại đồng đó hắn
làm nên quyền uy. Với ảo thuật gia, tháng ba có thể là tháng năm, màu tuyết có
thể xanh, màu đỏ có thể xám; cái này có thể là cái kia, hay là bất kỳ cái gì ngài
nói. Xin hãy chấp nhận tôi được ở bên ngài, tôi, một ảo thuật gia."
Schmendrick quỳ xuống một gối, hai tay vung rộng. Vua Haggard
lùi ra xa, dáng điệu bứt rứt và cất tiếng lầu bầu, "Hãy đứng dậy, hãy đứng
dậy, ta cũng đã có một ảo thuật gia rồi."
Schmendrick nặng nhọc đứng dậy, mặt đỏ bàng hoàng. "Ngài
chưa hề nói cho tôi hay điều đó. Nhà ảo thuật đó tên gì, thưa ngài."
"Tên hắn là Mabruk," Vua Haggard đáp. "Ta ít
khi nói đến hắn. Kể cả những kỹ giáp binh của ta cũng không hay biết gì về việc
có hắn ngụ tại lâu đài này. Mabruk chính tiếp. "Trong những ngày qua khanh
đã thực hiện bất kỳ phép lạ nào ta yêu cầu, thành thử ra ta đâm ra chán phép lạ.
Không một việc nào là khó với tài năng của khanh, nhưng sau mỗi lần hoàn tất một
pháp thuật lạ lùng, mọi sự vẫn y nguyên, không thay đổi. Có thể là tài năng
quán thế của khanh vẫn chưa thực hiện được điều ta thực sự ao ước. Thôi thì, một
thầy phù thủy có đầy đủ khả năng đã không làm cho ta sung sướng, âu là ta thử
dùng thứ phù thủy vô năng, bất toàn xem sao. Mabruk, khanh có thể ra đi."
Vua gật đầu chào biệt nhà phù thủy lão thành.
Vẻ ôn hòa giả tạo của Mabruk biến hẳn. Cả khuôn mặt ông đanh
lại cùng đôi mắt. "Tôi không ra đi dễ dàng như vậy đâu, thưa ngài,"
ông nói rất nhẹ khẽ. "Dù là ý kiến của một vị vua do lòng trắc ẩn cho một
tên khùng cũng không khiến tôi cuốn gói ra đi một cách dễ dàng. Xin nhà vua thận
trọng, Mabruk không phải là kẻ dễ chọc giận."
Một luồng gió bắt đầu nổi lên trong căn phòng tối tăm, nổi
lên tự góc nầy hay tự góc khác, qua cửa sổ hay qua cánh cửa ra vào khép hờ,
nhưng ngọn nguồn chính phát xuất ra nó là khuôn mặt nghiêm khắc kia của Mabruk.
Ngọn gió lạnh buốt và cực mạnh, loại gió ẩm, và rít lên của miền đồng lầy, nhảy
từ chỗ nọ sang chỗ kia nhởn nhơ như một sinh vật. Molly Grue rúm người lại bên
Schmendrick bối rối. Hoàng tử Lir bứt rứt đặt tay vào đốc thanh kiếm.
Kể cả Vua Haggard cũng lùi lại một bước khi thấy Mabruk nhe
răng cười. Những bức tường quanh phòng như tan ra thành nước chảy thoát đi đâu
mất, và chiếc áo choàng lấp lánh sao của ông phù thủy già như biến thành màn
đêm mênh mông với tiếng gió hú. Mabruk không hề thốt một lời, nhưng khi gió đã
bắt đầu thổi mạnh, gió như ủn ỉn nên lời. Đôi lúc gió như kết tụ lại thành hình
thù trông thấy được.
Schmendrick cố mở miệng, nhưng nếu ông đọc lên lời phản chú
nào, lời đó bị chìm nghỉm trong tiếng gió, không nghe thấy gì và không có hiệu
lực gì.
Trong bóng tối, Molly Grue thấy nàng Amalthea quay nhìn ra
xa, vươn dài một tay những ngón giữa dài bằng nhau. Điểm lạ giữa trán nàng sáng
rực thành một bông hoa hào quang.
Thế rồi gió bỗng ngừng hẳn như chưa bao giờ có, và những tường
đá quanh phòng lại xuất hiện, căn phòng tẻ nhạt bỗng rực rỡ như chính ngọ sau một
đêm dài của Mabruk. Ông phù thủy già gần như co rúm người lại trên sàn, nhìn chằm
chằm về phía nàng Amalthea. Khuôn mặt khôn ngoan và nhân từ của ông trắng bệch
như khuôn mặt của người chết trôi, bộ râu của ông rủ xuống lơ thơ và trễ nải
như nước ao tù. Hoàng tử Lir nắm lấy cánh tay mà nâng ông lên.
"Hãy đứng dậy, ông." Lời hoàng tử dẽ dàng. "Đi
ra lối này, ông. Tôi sẽ viết cho ông một chứng chỉ."
"Ta sẽ đi," Mabruk nói. "Không phải vì sợ anh,
một đống bột nhồi vô vị - cũng không phải vì sợ vua cha anh điên khùng và vô
ơn, cũng không phải sợ tên phù thủy mới, mong rằng hắn sẽ mang lại hạnh phúc
cho các người." Đôi mắt nhà phù thủy gặp đôi mắt hau háu của vua Haggard,
và ông cất tiếng cười như tiếng dê kêu.
"Haggard, tôi không hề là của ông chút nào," nhà
phù thủy tuyên bố. "Ông đã rước định mệnh vào bằng cửa chính, mặc dầu rồi
đây nó không ra bằng cửa đó đâu. Tôi có thể giải thích rõ hơn, nhưng bây giờ
tôi đâu còn phục vụ ông. Thật đáng tiếc, rồi sẽ tới ngày chỉ có bậc thầy mới cứu
nổi ông khỏi tai họa - và lúc đó ông chỉ còn biết kêu cứu Schmendrick thôi!
Vĩnh biệt vua Haggard đáng thương, vĩnh biệt."
Tiếng cười còn vang vang mà ông đã biến rồi; không khí hài hước
khoái hoạt còn phảng phất ở các góc phòng như mùi khói, mùi bụi, mùi ẩm mốc.
"Được rồi," Vua Haggard nói trong ánh trăng xám mờ.
Ông lẹ bước tiến tới phía Schmendrick và Molly, đầu lắc lư vui vẻ. "Hãy đứng
yên," nhà vua vội nói khi thấy họ chuyển bước. "Ta muốn được ngắm
khuôn mặt của các bạn."
Hơi thở của nhà vua như mài rũa lên da mặt hai người khi ông
tuần tự ngắm họ. "Tiến tới gần hơn nữa!" Vua lẩm bẩm và ngước nhìn
trong bóng tối. "Tiến lại gần nữa - gần nữa! Ta muốn ngắm các ngươi."
"Ánh sáng, xin cho ánh sáng," Molly Grue nói. Giọng
nói bình tĩnh của nàng làm chính nàng phát sợ hơn là sự lôi đình thịnh nộ của vị
phù thủy già vừa qua. Can đảm cho chính mình thì dễ, nàng nghĩ, nhưng nếu đã biết
can đảm cho chính mình, thì rồi lòng can đảm đó sẽ đưa tới đâu?
"Không bao giờ ta cho đốt đèn ở đây bạn ạ," nhà vua
trả lời. "Đèn đóm mà làm gì?"
Vua quay đi, lẩm bẩm một mình, "Một khuôn mặt thì không
một chút gian dối, xảo quyệt, hơi điên, nhưng không điên hẳn. Khuôn mặt người
kia giống như khuôn mặt của ta, và có thể nguy hiểm. Ta đã nhìn họ ngay tự
ngoài cổng, không hiểu sao ta lại cho họ vào kia chứ. Mabruk có lý; ta đã già,
do đó trở nên khùng và dễ dãi. Ta vẫn chỉ thấy Haggard khi nhìn vào mắt
chúng."
Hoàng tử Lir hết sức bứt rứt khi thấy vua cha bước ngang qua
để tiến tới nàng Amalthea. Nàng đương quay nhìn ra phía ngoài cửa sổ, khi vua
Haggard tiến tới gần lắm nàng mới xoay lẹ người lại và cúi đầu theo một cung
cách kỳ lạ.
"Ta không đụng vào người nàng đâu," nhà vua nói.
Nàng đứng yên.
"Sao nàng thích đứng bên cửa sổ?" nhà vua hỏi.
"Nàng nhìn gì ngoài đó?"
"Tôi nhìn biển," nàng Amalthea trả lời, giọng khẽ
và run run, không phải vì sợ mà vì sức sống, như con bướm vừa nở đương rung
cánh dưới ánh mặt trời.
"À ra thế," Vua nói. "Đúng vậy, biển bao giờ
cũng tốt. Không cái gì ta ưa nhìn lâu bằng biển." Nhà vua chăm chắm nhìn
vào khuôn mặt nàng Amalthea khá lâu, khuôn mặt vua không hề có được một chút ánh
sáng nào phản ảnh trên khuôn mặt nàng - khuôn mặt của Hoàng tử Lir thì có. Hơi
thở của nhà vua cũng ẩm mốc như luồng gió của ông phù thủy già, nhưng nàng
Amalthea không mảy may phản ứng.
Chợt nhiên Vua thét lớn, "Đôi mắt nàng sao vậy? Chỉ thấy
toàn lá xanh, cây cao bóng cả, suối nước và những con vật nhỏ. Ta ở đâu đây!
Sao ta không thấy ta trong ánh mắt nàng?"
Nàng Amalthea không trả lời ông. Vua Haggard lắc lư đi quanh
rồi đối diện với Schmendrick và Molly. Nụ cười của nhà vua như lưỡi mã tấu sắc
đặt kề cổ hai ngươi. "Nàng là ai?" Vua hỏi.
Schmendrick dặng hắng nhiều lần rồi đáp, "Nàng Amalthea
là cháu gái tôi, thưa ngài. Tôi là người thân duy nhất của nàng còn lại, nên có
bổn phận săn sóc nàng. Hẳn vì thấy cách ăn mặc của nàng mà ngài thấy lạ nhưng
điều đó cũng dễ giải thích. Nguyên do trong cuộc hành trình, chúng tôi vừa bị
cướp giữa đường."
"Ông ba hoa những điều gì vô lý vậy? Áo quần nàng làm
sao?" Vua quay lại nhìn cô gái trắng muốt. Schmendrick chợt hiểu rằng nhà
vua cũng như hoàng tử, không ai nhận ra rằng cô gái trần truồng sau tấm áo
khoác. Dáng nàng Amalthea kiều mỹ tuyệt với đến nỗi chiếc áo tả tơi rách mướp
nàng khoác lên thân mình mà trông ra lại thành thứ áo vừa khít khao vừa lịch sự
cho hàng công nương, hơn nữa nàng không hề trần truồng, trái lại chính nhà vua
bận áo giáp kia trần trụi dưới mắt nàng.
Vua Haggard nói "Nàng ăn mặc ra sao, cái gì đã xảy ra với
các người, dây liên hệ giữa các người với nhau ra sao, ta đâu có cần biết. Về
những chuyện đó các người tha hồ mà nói dối. Ta chỉ muốn biết nàng là ai. Ta chỉ
muốn biết vì sao nàng phá vỡ được phép ảo thuật của Mabruk mà không cần thốt
nên một lời. Ta muốn biết vì sao trong mắt nàng ta thấy có lá xanh và những con
cáo nhỏ. Nói mau, và đừng có nói dối, đặc biệt là về những lá xanh. Hãy trả lời
ta." Schmendrick không vội trả lời ngay. Ông ta dùng toàn những lời cầu kỳ
trang trọng đấy, mà chẳng giải thích được là bao. Molly Grue thu hết can đảm,
muốn trả lời, tuy vậy nàng cũng thấy rằng không thể nói rõ sự thực cho nhà vua
nghe được. Sự hiện diện của nhà vua làm úa héo mọi lời nói, gây trắc trở mọi ý
nghĩa, uốn cong mọi thiện ý thành những hình thù chua xót như hình thù những
chiếc tháp của ông ta. May thay lúc đó chợt có tiếng ai vang lên trong phòng,
đó là tiếng nói trong ánh sáng, ngây ngô, hiền hậu của hoàng tử Lir.
"Thưa cha, cần gì phải hỏi. Nàng hiện ở đây, thế không đủ
sao?"
Vua Haggard thở dài. Đó không phải là tiếng thở dài dễ
thương, mà là tiếng thở dài đầy u ẩn, không phải là tiếng thở dài của kẻ cam chịu
đầu hàng mà là tiếng thở tập trung năng lực của con hổ đương chuẩn bị nhảy vụt
ra vồ lấy con mồi. "Cố nhiên là con có lý," ông nói. "Nàng đương
ở đây, tất cả bọn họ đương ở đây, dù sự hiện diện đó có liên hệ gì đến định mệnh
của ta hay không, ta cũng phải ngắm nhìn họ một chút. Một bầu không khí bàng bạc
của tai nạn hầu như theo họ vào đây, có lẽ đó là điều ta muốn."
Nhà vua nói với Schmendrick bằng một giọng cộc cằn. "Là ảo
thuật gia, từ nay ngươi sẽ giải trí ta khi ta muốn được giải trí. Sâu sắc hay hời
hợt là tùy theo trường hợp mà ngươi phải tự động tìm hiểu vì không bao giờ ta lại
có thể nói cho người biết là ta đương ở trạng thái nào, cần được giải trí ra
sao. Người sẽ không lĩnh lương, bởi ta biết ngươi không đến đây để được lĩnh
lương. Còn cái người đàn bà ăn mặc cẩu thả kia, người phụ tá của ngươi, hay
ngươi muốn gọi y thị là gì tùy ý, thị cũng được ở đây giúp việc ta, nếu thị muốn.
Kể từ chiều nay thị sẽ vừa là nữ lao công vừa trông nom bếp nước.
Nhà vua ngừng lại, ý muốn đợi lời phản đối của Molly, nhưng
nàng chỉ gật đầu ưng thuận. Vừng trăng không còn xuất hiện trong khung cửa sổ nữa,
nhưng Hoàng tử Lir nhận ra rằng không vì thế mà căn phòng âm u nầy bị tối hơn.
Ánh sáng mát rợi tỏa ra tự nàng Amalthea chậm hơn là luồng gió của Mabruk,
nhưng hoàng tử thừa biết rằng tiếng vậy mà còn nguy hiểm gấp bội. Chàng thấy
mình muốn làm thơ dưới vừng ánh sáng đó. Trước đây có bao giờ chàng nghĩ rằng
mình muốn làm thơ đâu.
"Nàng muốn đến hoặc đi lúc nào tùy ý," Vua Haggard
nói với nàng Amalthea. "Kể ta cũng khá điên khùng nên mới giữ nàng ở đây,
nhưng ta không quá điên khùng đến nỗi ra lệnh cấm nàng không được qua cửa này
hay cửa nọ. Niềm bí ẩn của riêng ta ta biết. Nàng cũng vậy, phải chăng thế?
Nàng đương nhìn gì?"
"Tôi đương nhìn biển," nàng Amalthea đáp lại.
"Đúng, biển bao giờ cũng tốt. Sẽ có ngày chúng ta cùng
ngắm biển với nhau." Nói đoạn nhà vua đi thong thả về phía cửa. "Thật
là kỳ dị," ông còn nói tiếp, "Vì có sự hiện diện của nàng nơi đây mà
Lir tự nhiên gọi ta bằng cha. Đây là lần đầu tiên hoàng tử gọi ta như vậy, kể từ
thuở y mới lên năm tới đây."
"Sáu chứ," Hoàng tử Lir nói. "Ngày đó con lên
sáu."
"Năm hay sáu thì cũng vậy," vua đáp, "điều đó
trước đây chẳng hề đem lại hạnh phúc cho ta, và bây giờ cũng vậy. Ta chưa thấy
có gì thay đổi nhiều với sự hiện diện của nàng ở đây." Nhà vua ra đi có lẽ
cũng êm lẹ như Mabruk vậy, và mọi người còn nghe thấy tiếng gót giày thiếc của
ông lích kích chạm vào bực thang.
Molly bước lẹ đến gần Amalthea bên cạnh cửa sổ, hỏi, "Có
gì vậy? Nàng trông gì vậy?" Schmendrick tựa nghiêng người vào chiếc ngai,
nhìn Hoàng tử Lir bằng đôi mắt xanh dài của ông. Ngoài xa, dưới thung lũng
thành phố Hagsgate; lại nghe có tiếng gầm lạnh lẽo vang tới.
"Tôi sẽ đi tìm ít đồ quân nhu cho các bạn," Hoàng tử
Lir nói. "Các bạn đói không? Phải có cái gì ăn chứ. Tôi biết nơi để thứ vải
sa-tinh đẹp có thể dùng may áo được."
Không ai trả lời hoàng tử. Đêm dầy dặc như nuốt chửng lời nói
của chàng. Nàng Amalthea không nghe chàng nói, cũng chẳng nhìn chàng nữa. Nàng
không cử động, mà sao hoàng tử thấy như nàng sắp xa cách chàng muôn trùng tuy
chàng còn đứng đó. Như vừng trăng vậy. "Để tôi giúp các bạn một tay,"
Hoàng tử Lir nói. "Tôi có thể giúp các bạn được gì nào? Để tôi giúp các bạn
một tay."
--------------------------------
Theo Thần thoại Hy Lạp, Amalthea là tên con dê đã nuôi nấng
chú bé Zeus, về sau là chúa tể các thiên thần. Amalthea cũng là tên công chúa
con vua Melissus ở đảo Crete; theo một vài thần thoại gia thì chính nàng nuôi
cậu bé zeus bằng sữa dê. Khi tác giả (Peter S. Beagle) để cho Schmendrick lấy
tên Amalthea đặt cho lân mới bị hóa thành người, chắc chắn ông có nghĩ đến
tương quan thần thoại này. (L.N.D) |
10
"Tôi có thể giúp bạn được gì nào?" Hoàng tử Lir hỏi.
"Bây giờ thì cũng chưa nhiều lắm đâu," Molly Grue đáp. "Hiện tôi
cần nước hơn cả. Trừ phi hoàng tử muốn gọt khoai với tôi thì cũng được
đi."
"Không, tôi không định nói thế. Nếu bạn muốn tôi gọt
khoai cũng được, nhưng tôi nói với nàng kia, nghĩa là cứ khi nào nói với nàng
là tôi cứ phải hỏi như vậy."
"Vậy thời xin ngài ngồi xuống đi, gọt cho tôi vài củ
khoai tây," Molly nói. "Tôi giúp hoàng tử có dịp sử dụng đôi tay một
chút."
Khoảng rửa ráy trong bếp thì ẩm ướt, còn thêm nồng nặc mùi xu
hào thối và mùi củ cải ngọt lên men nữa. Khoảng một tá đĩa sứ xếp ở góc bếp, và
một ngọn lửa rất nhỏ uốn éo dưới chiếc kiềng ba chân đương đun lửa rất nhỏ uốn
éo dưới chiếc kiềng ba chân đương đun sôi một nồi lớn nước xám. Molly ngồi gần
chiếc bàn thô sơ bên trên đầy những khoai tây, tỏi tây, hành, hồ tiêu, cà-rốt
và các loại rau khác phần lớn đã mềm nhũn. Hoàng tử Lir đứng trước Molly đu đưa
thân mình, vặn những ngón tay lớn và mềm của mình.
"Sáng nay tôi đã giết thêm một con rồng nữa," chàng
nói. "Tốt lắm," Molly đáp. "Như vậy tất cả là bao nhiêu rồi?"
"Năm. Con này tuy nhỏ hơn những con kia, nhưng thực ra lại
gây nhiều khó khăn hơn cả. Tôi không thể đi chân tới gần nó, phải cưỡi ngựa lao
tới với một ngọn giáo vì vậy con ngựa của tôi bị bỏng khá nặng. Về con ngựa
cũng buồn cười."
Molly ngắt lời. "Xin hoàng tử ngồi xuống đi, đừng vặn vẹo
ngón tay như vậy làm tôi cũng sắp sửa vặn hết mọi thứ đây." Hoàng tử Lir
ngồi xuống đối diện với Molly, rút con dao găm ở dây lưng ra, bắt đầu gọt
khoai. Molly nhìn chàng mỉm cười.
"Tôi mang dâng nàng cái đầu rồng," chàng nói.
"Lúc đó nàng ở trong phòng như thường lệ. Tôi kéo lê chiếc đầu rồng lên suốt
các bậc thang, đặt dưới chân nàng." Chàng thở dài và cắt phải ngón tay.
"Bực mình không, tôi cóc cần chuyện đó. Xách đầu rồng lên suốt dọc cầu
thang, một tặng vật uy dũng nhất của bất kỳ kẻ nào tặng cho bất kỳ ai. Nhưng
khi nàng nhìn vào đầu rồng, thốt nhiên cái đó biến thành một đống bầy nhầy những
vẩy sừng, lưỡi, mắt ứa máu, và tôi biến thành một anh hàng thịt nhà quê mang đến
tặng tình nhân một miếng thịt tươi để tỏ tình yêu. Lúc đó nàng nhìn tôi, tôi cảm
thấy xấu hổ đã giết con vật. Xấu hổ vì đã giết một con rồng!" 1 Chàng
rạch vào một củ khoai vỏ cứng làm trượt mũi dao và lại tự làm đứt tay lần nữa.
"Xin hãy gọt theo chiều tự trong ra ngoài, thì không
sao," Molly khuyên. "Hoàng tử biết đấy, theo ý khiến tôi thì hoàng tử
nên tốp việc đi giết rồng rồi mang đầu rồng về dâng nàng. Hoàng tử đã giết năm
con rồi mà không thấy nàng khoái việc đó, thì giết thêm một con nữa cũng bằng
thừa. Hãy tính làm chuyện khác đi."
"Nhưng còn cái gì trên trái đất này nữa mà tôi chưa
làm?" Hoàng tử Lir hỏi lại. "Tôi đã bơi qua bốn con sông nước tràn bờ
rộng không bao giờ dưới một dặm; tôi đã vượt qua bảy đỉnh núi chưa ai vượt nổi;
tôi đã ngủ ba đêm liền tại Chốn Đồng Lầy của Người Treo Cổ, và vượt thoát khu rừng
trong đó từng bông hoa nở có thể đốt cháy đôi mắt mình, và chim họa mi thì líu
lo tuôn ra hàng tràng thuốc độc. Tôi đã từ hôn với nàng Công Chúa nọ - phải anh
hùng lắm mới dám làm chuyện đó, bởi mẹ nàng là thứ cực dữ mà. Tôi đã khuất phục
được mười lăm hắc hiệp sĩ dựng lều đen bên mười lăm quãng sông nông thách bất kỳ
hảo hớn nào dám tới lội qua sông. Còn việc hạ đám phù thủy trong khu rừng gai,
hạ lũ người không lồ, làm cỏ lũ quỷ hiện thành hình mỹ nữ, trả lời những câu đó
hóc búa, cùng những thử thách nguy hiểm khác tôi đã làm xong từ lâu. Ấy là
không kể những việc vặt khác như chuyện quả táo thần, nhẫn thần, đèn thần, gươm
thần, thuốc nước, áo tàng hình, giày bảy dặm, ngựa biết bay, trăn biển... trăm
thứ bà dằn." Hoàng tử ngẩng đầu lên, đôi mắt xanh lơ của chàng bối rối và
buồn thảm lạ lùng.
"Và tất cả cho con số không," chàng tiếp. "Muốn
thực hiện những gì thực hiện, nhưng tôi nào có động được đến tay nàng. Vì nàng,
tôi, Hoàng tử Lir, vốn lười nhác, một thứ trò chơi, một niềm xấu hổ của cha
tôi, bỗng vùng lên thực hiện những việc kinh thiên động địa như vậy, mà nào
nàng có coi tôi ra gì đâu, rút cục tôi vẫn là thứ điên khùng dưới mắt
nàng."
Molly cầm dao bắt đầu thái hạt tiêu. "Như vậy thì nàng
Amalthea không ưa được chinh phục bằng những hành động đao to búa lớn."
Hoàng tử nhìn Molly cau mày bối rối.
"Còn có cách nào khác chinh phục người đẹp nữa
chăng?" Chàng hỏi bằng giọng nồng nhiệt. "Molly, bà có biết cách nào
khác nữa không? Làm ơn chỉ dùm tôi cái." Hoàng tử nghiêng người qua bàn, nắm
lấy tay Molly. "Tôi đã chứng tỏ đức tính hào hùng dũng mãnh, nhưng tôi sẵn
sàng trở lại lười biếng, hèn nhát, nếu bà nghĩ rằng tôi nên như thế mới dễ
chinh phục được nàng hơn. Cứ nhìn nàng thì tôi muốn vùng lên chiến đấu diệt trừ
mọi ác độc xấu xa, nhưng tôi cũng lại muốn ngồi im như tượng gỗ để sầu khổ. Tôi
phải làm gì bây giờ đây, Molly?"
"Tôi cũng không biết nữa." Molly đáp và cũng tỏ vẻ
bối rối. "Tốt, lịch thiệp, làm điều hay điều thiện. Chuyện khôi hài."
Một con mèo lông màu nửa đồng nửa tro nhảy vào lòng Molly, vừa kêu ầm ỹ vừa tựa
vào tay nàng. Muốn thay đổi câu chuyện, nàng hỏi, "Thế con ngựa của hoàng
tử ra sao? Vì sao mà buồn cười?"
Nhưng Hoàng tử Lir nhìn chăm chú vào con mèo nhỏ có chiếc tai
khoằm. "Nó ở đâu lại vậy. Mèo của bà chăng?"
"Không," Molly đáp. "Tôi chỉ cho nó ăn, đôi
lúc ôm nó chút xíu." Nàng vuốt ve khoảng cổ mảnh mai của con mèo, và nó
lim dim con mắt. "Chắc là nó sống ở đây."
Hoàng tử lắc đầu. "Cha tôi vốn ghét mèo. Ông ta thường
nói giống mèo là giống để ma quỷ trá hình mà vào nhà người ở cho được dễ dàng.
Nếu biết bà có con mèo ở đây, chắc ông ta sẽ giết nó mất." "Về con ngựa
thì sao?" Molly hỏi.
Khuôn mặt hoàng tử lại sa sầm. "Điều đó thực lạ lùng. Khi
thấy nàng không khoái chiến công đầu rồng dâng tới, tôi nghĩ rằng ít ra nàng
cũng thích nghe thuật lại việc tôi đã chiến đấu như thế nào để đạt được kết quả
ấy. Và tôi kể cho nàng nghe nào tiếng rồng phun như thế nào, đôi cánh trần trụi
của nó ra sao, mùi rồng ngửi ra sao, đặc biệt vào mỗi buổi sáng mưa rơi tầm tã,
và tả tia máu đen của nó phun ra nơi bị ngọn giáo đâm thủng ra sao. Nàng không
chú ý nghe, cũng chẳng thốt một lời nào, cho đến khi nghe con ngựa bị rồng phun
lửa làm một chân bị bỏng thì nàng bừng tỉnh, và nàng bảo phải đi thăm con ngựa.
Rồi tôi đưa nàng ra chuồng ngựa, con ngựa lúc đó đang rên la đau đớn. Nàng đặt
bàn tay lên nó, lên khoảng chân bị thương đó. Và con ngựa thôi không rên rỉ nữa.
Trời, giống ngựa bị thương, hí lên nghe kinh khủng biết chừng nào, nhưng khi tiếng
hí đó chợt nhiên ngừng bặt, mình có cảm tưởng như đương sống trong giấc
mơ."
Lưỡi dao găm của hoàng tử lấp lánh giữa đống khoai gọt. Bên
ngoài những đợt mưa lớn cứ táp nước ào ào ào ào vào các tường lâu đài, nhưng chỉ
ở khoảng rửa ráy này của nhà bếp là nghe rõ. Căn phòng lạnh lẽo, không có lấy một
khung cửa sổ, không có cả một đốm ánh sáng, trừ ngọn lửa leo lét nấu bếp. Con
mèo ngủ thiếp trong lòng Molly trông như một đống lá rụng mùa thu.
"Và rồi ra sao nữa, Molly hỏi. Khi nàng Amalthea đặt tay
vào con ngựa."
"Không có gì xảy ra cả. Không có gì." Hoàng tử Lir
thốt nhiên muốn nổi giận. Chàng đập tay lên mặt bàn, tỏi tây và rau bắn tung
tóe ra mọi ngả. "Bà có ý chờ đợi một cái gì sẽ xảy ra phải không? Đúng ý
nàng đấy. Bà có ý mong những vết bỏng sẽ khỏi tức khắc chứ gì, những vết nứt
trên da sẽ liền lại chứ gì, những khoảng cháy xém trở lại hồng hào ngay chứ gì?
Chính nàng hy vọng thế đó, chính tôi cũng hy vọng nàng làm được như thế đó. Và
khi nàng nhận ra mọi đau đớn bất hạnh của con ngựa không hề suy giảm dưới bàn
tay nàng, thì nàng vùng chạy đi nơi khác. Tôi không rõ giờ này nàng ở đâu nữa."
Giọng nói của chàng dịu dần và bàn tay chàng đặt trên bàn uốn
cong một cách buồn bã. Chàng đứng dậy, tới nhìn vào nồi nước trên lửa. "Sôi
rồi" chàng nói, "bà có thể cho rau vào đi. Nàng khóc khi thấy chân ngựa
không lành - tôi nghe thấy nàng khóc - tuy nhiên không có lệ đọng trên khóe mắt
nàng khi nàng vùng chạy bỏ đi. Không có nước mắt!"
Molly đặt nhẹ con mèo xuống sân và thu vén các thứ rau cho
vào nồi. Hoàng tử Lir ngắm người đàn bà đó đi đi lại lại quanh bàn, chân dẫm
lên mặt sàn ẩm. Nàng hát:
Chân khiêu vũ lung linh
Trăng bay trong mộng tình
Bước đi sao nghiêng ngả
Như Thần Chết trá hình
Khép lấy mộng tình say
Mắt ngước ước gì đây
Ước trẻ măng, khôn mãi
Hay lứa đôi xum vầy.
Hoàng tử hỏi, "Nàng là ai vậy Molly? Nàng thuộc hạng phụ
nữ nào mà lại nghĩ rằng mình có thể chữa khỏi vết thương chỉ bằng cách đặt nhẹ
tay vào, và khi khóc lại không có nước mắt?" Molly vẫn tiếp tục công việc
bếp nước của nàng, và tiếp tục hát khẽ.
"Người đàn bà nào cũng có thể khóc mà không rơi lệ,"
Molly nghiêng đầu đáp xéo qua vai, "và thưa hoàng tử, bàn tay của họ có thể
làm lành những vết thương được lắm, có điều là tùy thuộc loại vết thương.
Nàng là một người đàn bà, Hoàng tử có nghĩ rằng giải thích như
vậy đủ rồi chăng?"
Nhưng Hoàng tử đã đứng lên chặn lối Molly. Nàng dừng lại, chiếc
tạp-dề của nàng vướng đầy cỏ, tóc nàng thì xõa xuống mắt. Hoàng tử Lir cúi xuống
nhìn thẳng vào mặt nàng. Dáng chàng hiên ngang vì đã từng giết được năm con rồng,
trông đẹp trai nhưng vẫn ngốc nghếch khi chàng đứng đực mặt ra kia. Chàng nói,
"Bà hát. Cha tôi bắt bà làm những việc buồn nản nhất mà bà còn hát được.
Chưa bao giờ ở đây có tiếng hát, hay có mèo, hay có mùi nấu ăn thơm phức. Chính
nàng Amalthea đã mang lại những thứ đó, cũng như chính nàng đã khiến tôi bừng
sáng nổi hứng cưỡi ngựa đi tìm những thú hiểm nguy."
"Tôi bao giờ cũng là một tay nấu bếp giỏi," Molly
ôn tồn đáp. "Từng ở chốn rừng xanh mười bảy năm trời với Cully."
Hoàng tử tiếp như không hề nghe tiếng Molly nói, "Tôi muốn
phục vụ nàng, như bà, giúp nàng tìm ra cái gì mà nàng tới đây để tìm. Tôi sẽ tận
tình giúp nàng mọi việc nàng cần tới tôi. Bà làm ơn nói với nàng như vậy. Bà có
chịu nói giúp với nàng như vậy không?"
Chính lúc chàng đương nói, có tiếng bước chân êm lướt chạm
vào tia nhìn của chàng, tiếng sột soạt nhẹ của tấm áo choàng sa-tanh làm chàng
bối rối. Nàng Amalthea xuất hiện ở ngưỡng cửa. Đã một mùa qua rồi, sống ở nơi
lâu đài giá băng này của Vua Haggard mà vẻ đẹp của nàng không hề mờ nhạt hay tăm
tối đi. Trái lại mùa đông càng làm nhan sắc nàng sắc sảo hơn, người ngắm nàng cảm
thấy như vừa bị thương bởi một mũi tên ngạnh sắc không thể rút ra được. Mái tóc
bạch kim của nàng được cuốn lên buộc giữ bởi một chiếc băng xanh,và tấm áo
choàng của nàng màu tím nhạt. Tấm áo choàng không được vừa vặn với thân hình
nàng cho lắm. Về nghệ thuật vá may thì Molly hơi đuối, nhất là khi may cắt hàng
sa tanh,
Molly càng bị bồn chồn dữ. Nhưng nàng Amalthea trông vẫn đẹp,
vẫn dịu hiền làm sao dưới bộ đồ may vụng của Molly, giữa vùng đường đá lạnh
cùng mùi củ cải của nhà bếp. Có những hạt mưa đọng trên tóc nàng.
Hoàng tử Lir cúi chào nàng thật nhanh, và cong gập người,
"Chào công nương của tôi," chàng nói khẽ.
"Nàng nên che kín đầu khi đi ra ngoài vào lúc mưa gió
này."
Nàng Amalthea ngồi xuống gần bàn, và con mèo nhỏ lập tức nhảy
tới trước nàng, miệng gù gù thật êm. Nàng giơ tay ra, con mèo vội lướt đi, miệng
vẫn còn gù gù. Không phải nó sợ, mà nó không muốn nàng vuốt bộ lông hoen ố như
một con chó, nhưng nó vẫn không chịu lại gần nàng.
Hoàng tử Lir nói, giọng khản, "Tôi phải đi. Tại một làng
cách đây hai ngày ngựa có một con quỷ xuất hiện, bắt những cô gái làng ăn thịt.
Người ta bảo rằng con quỷ chỉ có thể bị hạ nếu có người biết sử dụng cái rìu lớn
của Quận công Alban. Hỡi ôi, chính Quận công Alban lại là một trong những kẻ bị
tiêu diệt đầu tiên - ông ăn mặc giả làm cô gái làng để lừa con quỷ. Thôi tôi phải
ra đi ngay đây. Nếu tôi không trở lại, xin hãy tưởng niệm tôi. Chào tạm biệt."
"Chào tạm biệt Hoàng tử," Molly nói. Hoàng tử cúi
chào lần nữa và ra đi. Chàng chỉ quay đầu nhìn lại có một lần.
"Cô thật tàn ác với ông hoàng," Molly nói. Nàng
Amalthea không ngẩng đầu lên. Nàng đương xòe bàn tay để đợi con mèo tai khoằm lại,
toàn thân nó run lên vì sung sướng, nhưng nó vẫn đứng nguyên chỗ cũ.
"Tàn ác?" nàng hỏi lại. "Sao tôi có thể tàn ác
được? Điều đó cho những kẻ có sống, có chết." Nhưng rồi kế đó, nàng ngước
nhìn lên, đôi mắt mở lớn đầy sầu hận, và gần như riễu cợt nữa. Nàng nói,
"Tử tế cũng vậy, cũng chỉ là đức tính của những ai có sống có chết."
Molly Grue bận rộn, vừa quấy súp và nêm vừa cất lời nhận định
khẽ, "Ít nhất cô cũng nên nói với ông hoàng đôi lời tử tế. Chàng đã vượt
qua những thử thách lớn lao cũng vì cô."
"Nhưng tôi phải nói với ông hoàng ra sao?" nàng Amalthe
hỏi. "Tôi chưa hề nói với chàng một lời mà chàng đã hàng ngày mang về cho
tôi nào là những đầu, những sừng, những da lột, những đuôi, những ngọc hiếm, những
khí giới lạ. Chàng còn làm thêm những gì nữa nếu tôi lại nói nữa.
Molly nói, "Chàng muốn cô nghĩ tới chàng. Hiệp sĩ hay
hoàng tử chỉ muốn có một điều là được nhớ tới. Đó đâu phải là lỗi tại chàng.
Tôi nghĩ rằng chàng đã hành động rất đúng." Nàng Amalthea quay nhìn con
mèo. Những ngón tay thuôn dài của nàng mân mê một đường chỉ trên chiếc áo khoác
sa tanh.
"Không, chàng đâu có muốn tôi nghĩ tới chàng," nàng
nói khẽ. "Chàng muốn tôi cũng như kiểu Con Bò Mộng Đỏ vậy. Tôi ngán chàng
còn hơn ngán Con Bò Mộng Đỏ nữa, vì chàng có lòng tốt. Không, tôi sẽ không bao
giờ nói một lời hứa hẹn nào với chàng cả." Dấu xinh trên trán nàng không
trông rõ trong căn bếp tối tăm này. Nàng đặt ngón tay lên đó rồi vội rụt về như
thể nàng vừa chạm vào một vết thương. "Con ngựa chết rồi," nàng nói với
mèo nhỏ. "Ta chẳng thể làm được gì nữa."
Molly đặt vội tay lên vai Amalthea. Bên dưới lần vải trơn
bóng, da nàng lạnh cứng như bất kỳ phiến đá nào trong tòa lâu đài của Vua
Haggard. Molly nói thầm, "Ồ hỡi công nương của tôi sở dĩ như thế này chỉ
vì nàng không ở đúng hình thể của nàng. Khi mà nàng trở lại hình thể cũ, vạn sự
như cũ, quyền năng của nàng, sức lực của nàng, như cũ, như cũ." Giá như
Molly lúc đó có thể bế cô gái trắng ngần vào mà ru như ru một đứa trẻ, điều mà
trước đây không bao giờ nàng dám mơ tưởng tới.
Nhưng nàng Amalthea trả lời, "Ông bạn ảo thuật gia chỉ
cho tôi cái hình người, mà không cho cái tinh thần của con người. Nếu ngày đó
tôi chết, tôi vẫn là kỳ lân. Ông phù thủy già biết điều đó. Ông ta không nói điều
gì bêu xấu Haggard, nhưng ông ta biết."
Tóc nàng tuột khỏi chiếc băng xanh, tuột nhanh xuống cổ, phủ kín
hai bờ vai. Con mèo chợt sinh động hẳn; nó nâng một chân lên đùa với mớ tóc,
nhưng rồi nó lui lại, ngồi trên hông, đuôi cong quấn lấy hai chân trước, đầu
nghiêng về một bên dáng nghi ngại. Đôi mắt nó xanh màu lá cây đốm màu vàng lộng.
"Thuở đó đã xa rồi," cô gái nói. "Bây giờ tôi
là hai - vừa là kỳ lân, vừa là cái mà Molly gọi là công
nương của tôi. Cả hai bây giờ cùng thật trong một tôi mới khổ
chứ, mặc dầu thoạt trên hình thể nàng công nương chỉ là tấm màn ảo
hóa tạm che dấu tôi. Nàng đi đi lại lại trong lâu đài, nàng ngủ, nàng bận quần
áo, nàng ăn cơm, nàng nghĩ những ý nghĩ riêng của nàng, nếu nàng không có khả
năng làm lành các vết thương, không thể trở nên trầm lặng, nhưng nàng lại có
pháp thuật khác. Đàn ông nói với nàng, thưa Amalthea công nương, và nàng
trả lời hay không trả lời. Nhà vua luôn luôn ngắm nghía nàng bằng đôi mắt xám của
ông, tự hỏi nàng là gì vậy, còn chàng hoàng tử con vua thì tự mang vết thương
lòng vì yêu nàng và cũng luôn luôn tự hỏi nàng là ai. Ngày nào cũng vậy nàng đi
ngắm biển, ngắm trời, ngắm lâu đài, ngắm sân, ngắm tháp, ngắm khuôn mặt nhà
vua. Nàng ngắm như vậy để kiếm cái gì, nàng cũng không nhớ nữa. Nàng đương đi
tìm kiếm cái gì đây, ở nơi chốn lạ lùng này? Mấy phút trước nàng biết, bây giờ
nàng đã quên rồi."
Nàng quay nhìn Molly Grue, đôi mắt không phải là đôi mắt kỳ
lân. Đôi mắt đó vẫn đẹp, nhưng bây giờ đẹp một cách khác, đẹp có tên gọi, như
cái đẹp của một người đàn bà đẹp chẳng hạn. Chiều sâu của đôi mắt ấy bây giờ có
thể thăm dò, tìm hiểu được rồi, bóng tối trong đó bây giờ có thể diễn tả được.
Molly thấy trong đó có sợ hãi và tiếc nuối, và bối rối, và chính Molly nữa.
Ngoài ra không còn gì khác.
"Những kỳ lân," Molly nói. "Con Bò Mộng Đỏ đã
dồn hết kỳ lân đi đâu mất rồi, trừ nàng. Nàng là con kỳ lân cuối cùng. Nàng tới
đây để tìm và giải phóng cho đồng loại. Đó là điều nàng muốn."
Hình ảnh biển sau huyền bí lại từ từ xuất hiện trong đôi mắt
nàng Amalthea. Đôi mắt nàng cứ thế bỗng đầy ắp biển và cũng trở thành khó hiểu
khó tả như biển vậy. Molly ngắm biển dâng tới và thấy sợ, nàng nắm chắc lấy vai
Amalthea hơn nữa. Trong khi đó sàn nhà bếp rung lên khủng khiếp. Con Bò Mộng Đỏ
trở mình trong giấc ngủ của nó, Molly nghĩ chẳng hiểu nó đương mơ thấy gì.
Nàng Amalthea nói, "Tôi phải đi tìm nó. Không có cách
nào khác, và cũng không còn mấy thời gian để mà phí phạm. Dưới hình thức thiếu
nữ như thế này, hay dưới hình thức kỳ lân, tôi phải đối diện với Con Bò Mộng Đỏ
lần nữa, dù đồng loại tôi đã chết cả và không còn cứu vớt được gì. Tôi phải đi
gặp nó, trước khi tôi quên tôi vĩnh viễn. Nhưng làm sao mà tôi tìm ra đường đi
bây giờ, tôi có một mình." Con mèo nhỏ quất đuôi và cất tiếng kêu lạ hoắc,
không phải là tiếng "gù gù" hay tiếng "meo meo".
"Tôi sẽ đi với nàng," Molly nói. "Tôi cũng
không biết đường, nhưng chắc là phải có một con đường dẫn tới đó chứ.
Schmendrick cũng sẽ đi với chúng ta. Ông ta đi trước mở đường."
"Tôi không mong đợi gì ở ông bạn ảo thuật gia,"
nàng Amalthea đáp bằng giọng miệt thị. "Tôi gặp ông ta hàng ngày làm trò hề
cho Vua Haggard, mua vui cho nhà vua bằng những vụng dại của chính mình. Ông ta
nói hiện ông không thể làm được gì hơn, chờ ngày quyền năng trở lại. Chắc là
quyền năng chẳng bao giờ trở lại với ông ta nữa. Giờ đây ông ta chỉ là một tên
hề của nhà vua."
Molly chạy tới kiểm soát nồi súp và trả lời sắc gọn,
"Ông ấy làm vậy là vì nàng đó. Trong khi nàng ấp ủ, buồn rầu và trở thành
kẻ khác, thì ông ta nhún nhảy, đùa riễu, mua vui cho Vua Haggard để nàng có đủ
thì giờ tìm ra đồng loại, nếu quả có cơ hội cho nàng tìm thấy. Nhưng rồi không
lâu đâu, nhà vua sẽ chán ông ta, như nhà vua đã chán hết mọi sự, và quẳng ông
ta xuống ngục, hay vào một nơi tối tăm nào khác. Nàng đã lầm mà coi thường ông
ta."
Giọng Molly ấp úng nhỏ và buồn, "Riêng với nàng thì
không bao giờ như vậy đâu. Tất cả mọi người đều yêu nàng."
Hai người đàn bà nhìn nhau giây lát: một nàng thì đẹp và lạ
lùng với căn bếp lạnh và thấp, một nàng thì ra vẻ thuần thục quen thuộc với
không khí bếp nước. Họ nghe thấy tiếng giày, tiếng giáp trụ lích kích. Bốn người
kỵ-giáp-binh đã tới tụ họp ở bếp.
Họ thảy đều đã khoảng bảy mươi tuổi rồi, gầy gò, khập khiễng,
mong manh như lớp tuyết mỏng, nhưng tất cả đều giáp trụ đàng hoàng kín từ đầu đến
chân, tay mang loại vũ khi cong queo cũ rích của vua Haggard.
Cả bọn ồn ào vui vẻ chào Molly và hỏi rằng nàng sắp cho ăn
gì, nhưng khi nhận thấy có thêm nàng
Amalthea ở đấy thì họ bỗng im bặt, cung kính cúi chào nàng.
"Thưa công nương," ông cụ già nhất nói, "xin cứ
sai bảo những tôi tớ của người. Chúng tôi, những kẻ già nua mòn mỏi tuổi trời,
nhưng làm bất kỳ cái gì cho công nương, dù khó khăn đến mầy. Chúng tôi sẽ được
cải lão hoàn đồng, nếu như công nương rủ lòng thương cho như vậy." Ba ông
già kia cũng lẩm bẩm lời chúc tụng.
Nhưng nàng Amalthea đáp khẽ, "Không, không, các người chẳng
bao giờ cải lão hoàn đồng được nữa." Rồi nàng đi thẳng, mái tóc tơi tả che
kín mặt, và tiếng sột soạt vang khẽ của chiếc áo sa-tanh.
"Nàng mới khôn ngoan làm sao!" người kỵ giáp binh
già nhất nói. Nàng hiểu chính nhan sắc nàng cũng chẳng thể chống nổi với thời
gian. Còn trẻ như vậy mà đã khôn ngoan, tư lự như thế thật hiếm. A, mùi súp thật
tuyệt, Molly."
"Hương vị súp quá tuyệt cho nơi chốn mốc meo này,"
người thứ hai lẩm bẩm, trong khi mọi người cũng ngồi xuống. Và ông ta nói tiếp
là vua Haggard vốn ghét thức ăn ngon, vì nhà vua cho rằng thức ăn dù ngon đến mấy
cũng không khác với số tiền và công sức làm nên nó bất quá đó chỉ là ảo tưởng,
và cứ sống như ông là chẳng bao giờ bị lừa.
Ông lính già kể chuyện đến đấy thì rùng mình, nhăn mặt.
Brraaahh! Mọi người cùng cười.
"Kiếp sau tôi sống như vua Haggard bây giờ," ông kỵ-giáp-binh
khác nói, trong khi Molly múc súp nóng vào bát của ông, "Thì đó là một
hình phạt cho kiếp này tôi ăn ở lỗi đạo."
"Vậy tại sao ông lại phục vụ nhà vua?" Molly hỏi
Nàng ngồi xuống, tì khuỷu tay lên bàn, hai bàn tay đỡ lấy cằm: tiếp, "Đã
không có lương, mà lại cho ăn càng ít càng hay. Vào những khi xấu trời nhà vua
sai các ông ra đi ăn trộm đồ của thành phố Hagsgate, vì ông ta có bỏ một đồng
xu nào để trang điểm cho căn phòng lớn của ông ta đâu. Nhà vua cấm hết mọi thứ,
từ ánh sáng đến đàn địch, từ lửa đến đàn bà con gái, từ ca hát đến tội lỗi, từ
sách vở đến trà rượu. Sao không bỏ quách nhà vua đi? Ở đây với của nợ ấy làm
gì?"
Bốn ông già nhìn nhau, họ và thở dài. Ông thứ nhất nói,
"Cũng về vấn đề tuổi tác của chúng tôi mà ra cả. Như chúng tôi bây giờ đây
còn đi đâu được nữa? Tuổi già tất nhiên ngại đi lang thang tìm công ăn việc
làm, nơi ăn chốn ở."
"Đúng thế," người thứ hai nói. "Khi đã về già,
thì hễ cứ không có cái gì phiền nhiễu mình đã là êm ấm lắm rồi. Lạnh lẽo, âm u,
buồn bực lâu dần với chúng tôi thành quen thú! ấp áp, hát hỏng, xuân tình bây
giờ lại thành phiền toái, thà sống theo kiểu Haggard còn hơn."
Người thứ ba nói, "Vua Haggard còn già hơn bọn tôi nữa.
Rồi sẽ đến ngày Hoàng tử Lir lên ngôi trị vì, mong rằng ngày đó tôi chưa từ giã
cõi đời nầy. Tôi vẫn mến yêu hoàng tử từ thuở người còn là chú nhỏ."
Molly Grue nhìn quanh những khuôn mặt già nua và nghe tiếng họ
húp súp! Và nàng chợt thấy bằng lòng rằng vua Haggard bao giờ cũng dùng cơm
riêng.
Thận trọng nàng hỏi, "Các ông có bao giờ nghe thấy nói rằng
Hoàng tử Lir không phải là cháu nuôi của vua Haggard không?" Các kỵ-giáp-binh
không tỏ vẻ ngạc nhiên khi nghe câu hỏi đó.
"Ấy, tôi biết chuyện đó," người già nhất đáp. Có thể
thế lắm, hoàng tử không có liên hệ thân thích gì với nhà vua. Nhưng điều đó có
hề gì? Thà là một người khác lạ ngoài dòng họ Haggard cai trị xứ này đi."
"Nhưng nếu hoàng tử là đứa trẻ được bắt trộm từ thành phố
Hagsgate," Molly nói lớn, "thì chàng chính là người sẽ làm cho lời
nguyền thực hiện. Và nàng đọc lại bài sấm mà Drinn đã đọc trong quán ăn ở
Hagsgate.
Thần dân triều đại lão
Haggard Yên hưởng điều may vĩnh viễn a?
Mai ngày sóng biển dâng hùng vĩ
Tháp đổ đi rồi khổ hận đa
Duy nhất, một người dân Hagsgate
Làm cho tan nát lâu đài kia.
Nhưng những ông già đều lắc đầu, nhe hàm răng xỉn như đồ giáp
trụ của họ. "Không phải là Hoàng tử Lir đâu," người thứ ba nói.
"Hoàng tử có thể giết hàng trăm con rồng, nhưng sẽ chẳng san bằng một tòa
lâu đài nào, chẳng lật đổ một ông vua nào. Không phải là bản chất của chàng.
Chàng chỉ là một đứa con luôn luôn muốn tỏ ra xứng đáng với người mà chàng gọi
là cha. Không phải là Hoàng tử Lir đâu. Có thể là lời nguyền đó ám chỉ một ai
khác."
"Và kể cả khi Hoàng tử Lir là người đó," người thứ
hai tiếp, "kể cả khi Hoàng tử Lir là người mà lời nguyền chỉ định, chàng
cũng vẫn sẽ thất bại trong việc đó, vì giữa Vua Haggard với bất kỳ định mệnh
nào, còn Con Bò Mộng Đỏ nữa."
Sự yên lặng lan ra khắp phòng và giữ nguyên tình trạng, tô thẫm
màu mọi khuôn mặt hiện diện và hầu như làm giảm cả sự ấm áp sau bữa súp ngon,
nóng. Con mèo nhỏ màu lá mùa thu ngừng gù gù trong lòng Molly, ngọn lửa nhỏ
trong bếp càng thu nhỏ lại hơn nữa, hiu hắt. Hơi lạnh ẩm của tường bếp được thể
tiến lại gần hơn.
Người thứ tư từ nãy đến giờ chưa thốt một lời nào, lúc đó mới
lên tiếng nói với Molly Grue trong bóng đêm, "Điều chính làm chúng tôi ở lại
phục vụ Vua Haggard là nhà vua không hề tỏ ý muốn chúng tôi ra đi, và điều
chính là điều mà Con Bò Bộng Đỏ quan tâm. Chúng tôi là những vật hèn mọn của Vua
Haggard, nhưng chúng tôi chính là tù nhân của Con Bò Mộng Đỏ."
Bàn tay Molly vuốt ve con mèo thì mạnh, nhưng giọng nàng thì
yếu nhỏ hẳn đi, "Con Bò Mộng Đỏ với
Vua Haggard là thế nào?"
Chính người lính nhiều tuổi nhất trả lời, "Chúng tôi
cũng không rõ nữa. Con Bò Mộng vẫn luôn luôn có ở đây. Nó phục vụ Vua Haggard
như binh đội của ông, vệ thành của ông, sức lực của ông, nguồn gốc sinh lực của
ông; và cũng có thể là người bạn tri âm tri kỷ duy nhất của ông, vì tôi chắc rằng
cứ vào dịp nào đó nhà vua lại sử dụng bực thang bí mật xuống thăm Con Bò Mộng tại
sào huyệt của nó. Còn việc nó là chủ nhà vua hay nhà vua là chủ nó thì chúng
tôi không được biết."
Người thứ tư, người ít tuổi nhất bọn, nghiêng về phía Molly,
đôi mắt ướt, đỏ, nhiệt thành, ông ta nói, "Con Bò Mộng Đỏ là một quái vật.
Nó trù tính giúp vua Haggard để rồi tới một ngày kia chính nó sẽ trở thành Vua
Haggard." Một người khác ngắt lời, nhấn mạnh rằng chính Con Bò Mộng Đỏ đã
bị yểm bùa để thành nô lệ cho Vua Haggard, bởi vậy ngày nào nó thoát được bùa yểm
đó nó sẽ giết cố chủ.
Nhưng Molly lại cất tiếng hỏi, tuy không lớn lắm nhưng cũng đủ
để khiến mọi người im lặng. "Các ông có biết thế nào là một con kỳ lân
không? Có bao giờ các ông gặp một con kỳ lân nào không?"
Chỉ duy có con mèo nhỏ và bầu không khí yên lặng là như có thấm
thía đôi chút hiểu biết về lời hỏi của Molly. Bốn người đàn ông thì nháy mắt,
nôn nao, và rụi mắt. Con Bò Mộng Đỏ lại trằn trọc, cựa mình trong giấc ngủ.
Bữa ăn bế mạc, các kỵ giáp binh chào Molly Grue và rời khỏi
nhà bếp, hai đi ngủ, hai đi vào mưa giữ phần gác đêm. Chờ cho ba người kia ra
khỏi, người nhiều tuổi nhất mới bình tĩnh bảo Molly, "Xin cẩn thận cho
nàng Amalthea. Thuở mới tới đây, nhan sắc nàng làm lộng lẫy lây cả tòa lâu đài,
như ánh trăng chiếu sáng hòn đá vậy. Nàng ở đây đã quá lâu rồi, tuy giờ đây
nàng vẫn đẹp như bao giờ, nhưng ánh sáng rỡ ràng tỏa ra tự nhan sắc nàng hầu
như giảm đi nhiều."
Ông thở dài đến thành như rên rỉ, "Tôi đã quen với loại
nhan sắc đó, nhưng chưa bao giờ tôi gặp một nhan sắc lạ lùng hơn thế. Nên cẩn
thận cho nàng Amalthea. Tốt hơn hết nàng nên rời khỏi nơi đây."
Còn lại một mình, Molly gục mặt lên bộ lông con mèo. Lửa bếp
đang lụn dần, nhưng nàng không đứng dậy để nuôi cho lửa bùng lên lớn hơn. Những
sinh vật nhỏ và lẹ chạy rồn rập ngang căn phòng nghe như tiếng nói của vua
Haggard, còn mưa rào rào đập vào tường nghe giống tiếng gầm của Con Bò Mộng Đỏ.
Như để đáp ý nàng Molly nghe thấy tiếng Con Bò Mộng. Tiếng rống của nó tưởng có
thể làm vỡ nát cả đá dưới chân nó. Molly hét lên và víu chặt một cách tuyệt vọng
lấy chiếc bàn để giữ cho nàng và con mèo khỏi bị cuốn hút đi.
Con mèo nói, "Nó đi ra ngoài đấy. Bao giờ nó cũng đi ra
ngoài sau khi mặt trời lặn để lùng bắt nốt con vật trắng tinh còn thoát khỏi
tay nó. Điều đó bà biết quá mà, đừng sợ vớ vẩn."
Tiếng gầm còn vang lại nhưng đã xa xa. Molly lấy lại hơi thở
bình tĩnh và nhìn chăm chú vào con mèo. Nàng không ngạc nhiên cho lắm; càng vào
những ngày gần đây nàng càng ít ngạc nhiên. Nàng hỏi. "Ngươi có luôn luôn
nói tiếng người như vậy không? Hay chỉ nhờ nàng Amalthea nhìn mà ngươi nói được?"
Con mèo liếm bàn chân trước của nó vẻ suy nghĩ rồi trả lời,
"Chính vì được nàng nhìn mà tôi thấy như mình nói được. Kỳ lân là thế đấy.
Nàng đẹp quá đi."
"Sao ngươi biết nàng là kỳ lân?" Molly hỏi "Và
tại sao ngươi sợ nàng vuốt ve? Ta trông thấy ngươi mà. Ngươi sợ nàng."
"Tôi ngờ rằng tôi chẳng thể nói được tiếng người lâu
đâu," con mèo đáp lại, không oán thù, "Nếu tôi là bà tôi chẳng để phí
phạm thì giờ một cách điên khùng như thế mãi. Để trả lời câu hỏi thứ nhất của
bà, xin thưa bà loài mèo chúng tôi chẳng bao giờ bị huyền hoặc bởi cái bề
ngoài. Ngược lại loài người có vẻ khoái bề ngoài. Còn về câu hỏi thứ hai của
bà." Tới đây con mèo hơi ấp úng, nó tự liếm lông một cách thận trọng và
khoái chí, không nhìn Molly, mà tự ngắm nghía những bàn chân.
"Nếu để nàng đặt tay lên tôi," con mèo nói rất nhỏ
"lập tức tôi sẽ thuộc về nàng, không còn thuộc về mình nữa, không bao giờ
nữa. Tôi muốn được nàng vuốt ve lắm nhưng không dám. Không một con mèo nào muốn
vậy. Chúng tôi để cho người vuốt ve vì điều đó giúp con người bình tĩnh - nhưng
điều đó không đúng với nàng. Được nàng vuốt ve, giá trả đắt quá, mèo nào kham nổi?"
Molly bế con mèo lên, nó gù gù nơi cổ nàng một lúc lâu khiến
nàng đã sợ rằng không khéo nó hết nói được tiếng người. May thay nó tiếp,
"Quý vị còn ít thì giờ lắm. Chẳng bao lâu nữa nàng sẽ quên hết dĩ vãng
quên nàng là gì, quên đến đây để làm gì. Như vậy là Con Bò Mộng đỏ khỏi phải
đêm đêm ra đi lùng bắt nàng nữa. Có thể là nàng sẽ lấy ông hoàng tử yêu nàng."
Con mèo húc mạnh đầu vào tay Molly, nói như ra lệnh, "Hãy làm việc đó đi,
Hoàng tử thật can đảm khi yêu kỳ lân. Một con mèo có thể khoái những hành động
hào hùng phi lý như vậy."
"Không," Molly nói, "Không, điều đó không thể
xảy ra được. Nàng là con kỳ lân cuối cùng."
"Vậy thì nàng phải làm điều mà nàng đến đây để
làm," con mèo trả lời. "Nàng phải theo con đường bí mật của nhà vua
mà xuống gặp Con Bò Mộng."
Molly giữ chặt lấy con mèo quá mạnh đến nỗi hình như nó kêu
lên một tiếng phản đối. "Ngươi có biết đường xuống đó không?" nàng hớt
hải hỏi. "Hãy nói cho ta biết, hãy nói mau cho ta biết đường đi."
Nàng đặt mèo lên bàn và buông tay ra.
Con mèo không trả lời một lúc lâu, nhưng đôi mắt nó cứ sáng dần
lên, sáng dần lên: ánh vàng như tỏa ra để che lấy màu xanh của đôi mắt nó. Cái
tai khoằm của nó vặn vẹo, và chóp đuôi của nó cũng vậy. Chỉ có thế. Giây lâu nó
mới nói.
"Khi rượu vang tự uống, khi đầu lâu cất lời, khi chuông
đồng hồ điểm đúng - chỉ có khi đó quý vị mới tìm ra đường xuống sào huyệt Con
Bò Mộng Đỏ." Nó đặt một chân lên ngực và nói thêm, "Lẽ cố nhiên đó là
một cách nói bóng gió, và cũng cần sử dụng đôi chút ảo thuật."
"Ta có thể đoán," Molly nói một cách hăng hái.
"Đó là chiếc xương sọ cũ kỹ, mục nát, gớm ghiếc đặt trên chiếc trụ đá
trong khu tiền đình rộng mênh mông cái đó mà có gì để nói. Chiếc đồng hồ treo gần
đấy toàn điểm giờ tầm bậy tầm bạ và theo hứng của nó. Bất cứ giờ nào cũng là nửa
đêm, điểm mười bảy tiếng vào lúc bốn giờ sáng, lại có khi cả tuần chẳng hề một
lần điểm giờ. Còn rượu vang - ồ, hỡi mèo, phải chăng đó là ám chỉ một đường hầm.
Người có biết đường hầm đó phải không?"
"Lẽ cố nhiên tôi biết," con mèo vừa trả lời vừa oằn
người ra ngáp. "Lẽ cố nhiên việc đơn giản nhất là tôi chỉ đường cho quý vị.
Như vậy vừa tiết kiệm được thì giờ, vừa đỡ rắc rối."
Giọng mèo lè nhè kéo dài vì buồn ngủ. Molly nhận ra rằng nó,
cũng giống như Vua Haggard, đã hết hứng thú rồi. Nàng vội vã hỏi, "Hãy nói
cho ta thêm một điều. Những kỳ lân xưa ra sao? Chúng ở đâu bây giờ?"
Con mèo lại ngáp nữa. "Gần và xa, xa và gần," nó
thì thầm. "Chúng ở trong tầm nhìn, nhưng lại xa tầm trí nhớ của công nương
Amalthea. Chúng đương tiến tới gần hơn, chúng đương lùi ra xa nữa." Nó nhắm
mắt lại.
Hơi thở của Molly nặng nhọc như thừng chão kéo qua nơi gồ ghề.
"Con khỉ, sao ngươi không giúp ta?" nàng hét lên. "Sao ngươi cứ
luôn luôn phải sử dụng lời bóng gió úp mở như vậy?"
Một bên mắt con mèo hé mở ra, vừa xanh vừa vàng lộng như ánh
mặt trời chiếu trên rừng cây. Nó nói,
"Tôi là tôi. Tôi đã nói cho bà nghe những điều bà muốn
biết theo khả năng của tôi, vì bà rất tốt với tôi.
Nhrmg t6i lit rneo, vit kh6ng con rneo nito a hilt
kY noi nito chju giai dap diu hOi cua hilt kY ai rn(lt each thiing ru(lt ng!a
ca."
Mfry diu n6i sau cung cua con rneo chirn diirn ngay vito
tifug gil gil dbu d n: n6 da thiq, ngit v&i rn(lt rniit con nfra nhiirn nua
nhiirn nua rna. Molly dt n6 len long vu6t ve. Ti ng gil gil tip tlc
trong giilc ngit. Nhrmg n6 kh6ng n6i them rn(lt liYi nito nfra.
--------------------------------
Xin nhắc lại: với Tây phương rồng chỉ là một quái vật,
không một chút cao quý gì (L.N.D.) |
11
Hoàng tử Lir đã trở lại sau ba ngày ra đi diệt con quỷ, cái
Rìu Lớn của Quận Công Alban đeo ở sau lưng, đầu con quỷ bị hạ treo lủng lẳng ở
yên ngựa. Lần này chàng không dâng chiến công lên nàng Amalthea, không hớt hải
đến trình diện nàng ngay với đôi bàn tay còn vết màu quái vật của chàng. Chàng
đã quyết định vào ngay buổi chiều hôm đó, khi nói chuyện với Molly ở nhà bếp, rằng
từ nay chàng sẽ không quấy rầy nàng Amalthea nữa, mà chỉ lặng lẽ tưởng nhớ đến
nàng, lặng lẽ phục vụ nàng một cách hăng hái cho đến chết, nhưng không bao giờ
nài nỉ được nói chuyện với nàng, mong hưởng sự cảm phục và tình yêu của nàng.
"Tôi sẽ vô danh như không khí nàng thở," chàng nói, "và hình như
sức mạnh kia vẫn giữ nàng trên trái đất." Vài phút sau chàng tiếp,
"Thỉnh thoảng tôi làm bài thơ tặng nàng, có thể tôi sẽ luồn những bài thơ
đó qua khe cửa phòng nàng, có thể tôi thả chúng ở bất kỳ đâu để may ra nàng có
dịp đọc tới. Nhưng không bao giờ tôi ký tên ở dưới những bài thơ đó cả."
"Như thế mới thật là cao quý," Molly đáp lời chàng,
và cũng cảm thấy nhẹ lòng rằng từ đây chàng không còn theo đuổi Amalthea theo
kiểu như xưa nữa. Kể cũng vui mà cũng hơi buồn. "Con gái thích thơ hơn là
rồng chết, với gươm thần," Molly góp thêm ý kiến. "Khi tôi còn là con
gái, tôi cũng vậy. Lý do tôi đi theo Cully vì..."
Nhưng Hoàng tử Lir đã ngắt lời nàng bằng giọng cương quyết,
"Không, đừng vạch đường hy vọng cho tôi, tôi phải học cách sống không cần
hy vọng, như cha tôi, và có lẽ vì thế mà sau cùng chúng ta hiểu được
nhau." Hoàng tử thục tay vào túi, Molly nghe sột soạt có tiếng giấy bên
trong. "Thật ra tôi cũng đã làm được vài bài thơ nói về hy vọng, nói về
nàng, bà có thể đưa mắt nhìn qua nếu bà muốn."
"Tôi rất sung sướng được đọc thơ đó. Nhưng hoàng tử nghĩ
sao là từ nay, thôi quách, đừng đi chiến đấu với loại hắc hiệp sĩ, và cưỡi ngựa
vượt qua vòng lửa?" Molly nói vậy để đùa, nhưng nàng cũng biết ngay rằng nếu
sự thể như vậy thì cũng đáng tiếc lắm thay. Những cuộc phiêu lưu hào hùng đó đã
làm cho chàng đẹp lên nhiều, và cũng cứu nhân độ thế nữa chứ. Và còn điều này nữa,
khi chàng đi vào hiểm nguy như vậy, chàng cho ta một cảm giác hồi hộp về sự sống
chết bất ngờ của những vị anh hùng. Hoàng tử thì lắc đầu, vẻ bối rối.
"Ồ giả sử như tôi rửa tay treo kiếm, điều đó cũng chẳng
phải dùng để khoe khoang với nàng. Nhưng sự thực là khi mình đã đi vào con đường
cứu khốn phò nguy rồi, nó thành một cái nghiệp mà mình phải đi cho trọn, không
thể phó mặc được. À bà đã đọc xong bài thơ thứ nhất của tôi chưa đấy, bà có
thích bài đó không?
"Gợi cảm lắm," Molly nói. "Nhưng này hoàng tử, bụi vần
với nỗi có được không?
"Được chứ, hơi chệch một tí, đó vần thôn, không phải vần
chính."
Vừa lúc đó Schmendrick bước tới ngưỡng cửa. Molly hỏi,
"Này ông bạn chữ gành viết thế nào? G-a-n-h- h-u-y-ề-n, hay
g-h-a-n-h huyền?"
"G-h-a-n-h huyền," Schmendrick trả lời vẻ mệt mỏi.
"Gành thì cũng như ghềnh chứ gì, mà ghềnh thì đích thị g-h-ề-n-h
huyền."
Molly múc cho ảo thuật gia một bát súp, và ông ta ngồi xuống.
Đôi mắt ông khắc khổ, mờ mịt, một bên mi giần giật.
"Tôi không thể làm trò này lâu hơn được nữa," ông
chậm rãi nói. "Không phải vì nơi gớm ghiếc này, cũng không phải vì tôi cứ
phải ngồi nghe nhà vua nói, tôi thích thế là đằng khác, nhưng vì các trò rẻ tiền
tôi làm để giải trí ông ta. Đêm qua tôi làm suốt đêm. Tôi đâu có cần để ý đến
ông ta muốn tôi làm trò quỷ thuật thứ thiệt, hay chỉ là thứ như cầu hồn, cầu cơ
bình thường. Khổ một điều kể cả những trò tầm thường đó tôi cũng vẫn cứ lầm lẫn,
thất bại. Bảo làm cái này thì rút cục ra cái nọ.
"Nhưng mà đó chính là điều ông ta muốn," Molly phản
đối lại. "Nếu ông ta muốn ảo thuật thứ thiệt thì ông ta lưu dụng ông già
Mabruk chứ." Thấy Schmendrick dướn lông mày nhìn lên, Molly vội nói thêm,
"Không phải là tôi khoái loại Mabruk thứ thiệt đó. Vả lại cũng chẳng còn
bao lâu nữa chúng ta sẽ tìm ra lối xuống sào huyệt Con Bò Mộng Đỏ. Con mèo đã bảo
cho tôi cách tìm ra đường rồi."
Molly hạ giọng xuống thành lời thì thầm và cả hai cùng đưa lẹ
đuôi mắt về phía Hoàng tử Lir; nhưng quả thực ông hoàng nầy lúc đó chẳng quan
tâm gì đến họ, chàng đương làm thơ, loay hoay lựa vần một cách khá vất vả.
Chàng khẽ đập đập cán bút vào môi vừa suy nghĩ vừa lẩm bẩm, "Thành, hừm, phải
vần với mong manh, long lanh, bập bềnh..." Chàng chọn chữ gập ghềnh và
ghi vội xuống trang giấy.
"E rằng chúng ta chẳng thể tìm ra đường được đâu,"
giọng Schmendrick bình tĩnh. "Dù là con mèo nói thật, điều mà tôi rất ngờ,
Haggard cũng chẳng để chúng ta có thì giờ nghiên cứu điều tra về chiếc đầu lâu
và cái đồng hồ. Bà bạn có thấy không, ông ta cứ càng ngày càng nhèn thêm thật
nhiều việc cho bạn, chính là để bạn hết còn thì giờ tha thẩn, dòm ngó. Bạn nghĩ
sao về việc ông ta cứ giữ lấy tôi bên cạnh, bắt làm những trò vớ vẩn rẻ tiền,
hà chẳng cùng một mục đích đó? Bạn Molly ạ, ông ta biết, tôi chắc vậy, ông ta
biết nàng là gì, tuy ông ta vẫn chưa tin hẳn đâu, nhưng khi ổng đã xác tin rồi,
ổng sẽ biết cách đối phó. Ông ta biết. Đôi khi cứ trông mặt ông thôi cũng đủ thấy
rằng tôi đoán không sai đâu."
Hoàng tử Lir đương vấp phải một vần khác, lẩm bẩm, "Chờ
mong nay thỏa nỗi niềm. Yêu nhau mãi mãi
mà thêm, càng thêm, biết tìm. Hừ, khó thực."
Schmendrick nghển người, nghiêng đầu qua bàn. "Chúng ta
không thể ở đây đợi ngày ông ta hạ thủ. Chỉ còn một đường hy vọng là phải thoát
thân ban đêm, và bằng lối biển. Có thể tôi sẽ tìm cách xoay xở được một chiếc
thuyền nhỏ. Các kỵ giáp binh thì chỉ chú trọng canh về phía kia, nơi có cổng lớn."
"Nhưng còn những kỳ lân lâm nạn trước đây nữa, nàng lặn
lội đến đây chỉ vì việc ấy, mà đích thị là những kỳ lân lâm nạn xưa đều tập
trung ở đây cả." Xem chừng Molly cũng phần nào cho rằng sự tìm kiếm kia là
vô vọng, nên nàng đâm cáu với Schmendrick. "Này, thế nào về phép ảo thuật
của ông bạn, ông bạn đã suy nghĩ tìm tòi đến đâu rồi. Liệu nàng có đến nỗi chết
trong hình hài thế nhân như vậy chăng, và ông cứ sống nhăn răng như vậy mãi
chăng? Coi bộ ông bạn còn muốn giúp Con Bò Mộng Đỏ nuốt chửng nàng nữa."
Ảo thuật gia ngồi phịch xuống, khuôn mặt lợt lạt và nhăn nheo
như những ngón tay của người thợ giặt ngâm nước nhiều. "Thực ra điều đó
không sao đâu, dù ở hình thể này hay hình thể nọ," ông như nói thầm với
chính mình. "Nàng bây giờ không là kỳ lân nữa, nhưng là một thiếu nữ trong
cõi nhân sinh có sống có chết, kẻ đã khiến anh chàng ngốc kia thở ngắn thở dài
và đương loay hoay làm thơ tặng. Có thể là rồi đây rút cục Haggard cũng cóc
khám phá được ra nàng là gì, vì nàng đã trở thành con gái ông ta. Thế kể cũng
vui." Ông gạt bát súp sang bên, chưa hề đụng tới một muỗng, và gục mặt vào
đôi bàn tay, nói tiếp, "Nếu chúng ta không tìm thấy được những kỳ lân lâm
nạn cũ, thì chắc chắn tôi cũng không thể khiến nàng trở lại hình thể cũ được.
Trong tôi có pháp thuật khỉ khô gì đâu."
"Schmendrick," Molly muốn nói thêm điều gì, nhưng ảo
thuật gia đã đứng phắt dậy và đi vút ra khỏi nhà bếp, mặc dầu không phải vì ông
ta nghe thấy vua Haggard kêu mình. Hoàng tử Lir vẫn không hề ngẩng đầu lên, tiếp
tục sửa câu gieo vần. Molly treo ấm nước trên lò lửa, sửa soạn trà cho những
người lính canh.
"Tôi làm gần xong bài thơ rồi, chỉ còn đoạn cuối,"
Lir khoe với Molly. "Bà có muốn nghe những đoạn tôi vừa sáng tác xong
chăng? Hay đợi tôi hoàn tất đã?"
"Thế nào cũng được," nàng đáp. Thế là hoàng tử đọc
nhưng Molly có tâm địa nào mà nghe đâu. May thay lúc ấy đám kỵ giáp binh bước
vào. Chàng chưa đọc hết và cũng ngượng không dám hỏi ý kiến Molly trước mặt đám
kỵ giáp binh. Khi đám lính canh đã ra đi rồi, chàng lại đương vùi đầu sáng tác
một bài khác. Mãi khuya lắm ông hoàng mới tạm rút lui về phòng ngủ. Còn lại một
mình Molly ngồi bên bàn, tay ôm con mèo lông sặc sỡ.
Bài thơ mới hoàng tử đương làm thuộc loại thủ vĩ ngâm. Trên
đường về phòng mình, hoàng tử khoái chí lắm. Chàng nghĩ, "Bài thơ đầu ta sẽ
luồn dưới khe cửa phòng nàng, còn bài thứ hai để dành đến mai." Ông hoàng
đương xét lại ý định không ký tên dưới những bài thơ sáng tác nhưng giờ đây thì
chàng có ý định sẽ dùng bút hiệu "Chàng Hiệp Sĩ Tương Tư," Vừa nghĩ đến
đó thì chàng nhận ra nàng Amalthea đương thoăn thoắt xuống bực trong bóng tối.
Khi chợt nhận ra chàng, nàng thốt một tiếng kêu nhỏ ngỡ ngàng và ngừng lại khoảng
ba bực trên cao cách chàng.
Nàng bận một chiếc áo mà một kỵ giáp binh đã lẻn xuống thành
phố Hagsgate ăn trộm được vào một đêm nào đó. Tóc nàng xõa xuống ngang vai,
chân đi đất. Bất ngờ gặp nàng như vậy, Hoàng tử Lir cảm thấy luống cuống ngượng
ngùng, đến nỗi chàng đánh rơi bài thơ và cũng quên khuấy cả mọi dự tính, chàng
còn định quay chạy đi là đàng khác. Nhưng chàng sự nhớ dầu sao mình cũng là anh
hùng, vì vậy chàng hùng dũng tiến thẳng lên, cúi chào nàng cực kỳ lịch thiệp,
"Xin chào công nương."
Nàng Amalthea nhìn chàng chăm chú trong bóng đêm, nàng thò
tay ra, nhưng chưa kịp đặt lên người chàng đã vội rụt lại. Nàng hỏi thầm,
"Ông là ai: Rukh, phải chăng?"
"Tôi là Lir," chàng trả lời, và thốt nhiên thấy sờ
sợ. "Nàng không nhận ra tôi sao?" Nhưng nàng đã quay trở lại, tiếng
bước chân nàng đi mơ hồ như tiếng chân loài thú. Ngay như dáng nàng đi, đầu cúi
xuống, trông cũng từa tựa như dáng con dê hay con hươu gì đó. Chàng nói,
"Tôi là Lir."
"Mụ già," nàng Amalthea nói. "Trăng lặn.
A." Nàng hơi rùng mình, và sau đó nàng thực sự nhận ra chàng, toàn thân
nàng còn mơ hồ run rẩy, và nàng vẫn không tiến lại gần chàng hơn.
"Nàng đương mơ," giọng chàng vẫn giữ được vẻ hùng
dũng của hiệp sĩ. "Ôi ước chi ta biết được nàng đương mơ thấy gì."
"Trước đây em đã mơ thấy điều đó rồi," nàng chậm
rãi trả lời chàng. "Em mơ thấy mình bị nhốt trong một cái chuồng, quanh em
còn nhiều những con vật khác cũng bị nhốt trong chuồng. Lại có một mụ già nữa.
Nhưng thôi, em không muốn làm phiền chàng. Em đã từng mơ như thế nhiều lần rồi."
Nàng muốn tạm biệt chàng lúc đó, nhưng chàng đã nói với nàng
bằng thứ giọng chỉ những bậc cái thế anh hùng mới có, thứ giọng âu yếm, chở
che, đùm bọc như tình mẹ thương. "Một giấc mộng mà cứ trở đi trở lại hoài
tất có ý nghĩa một sứ điệp báo trước mình một cái gì sẽ xảy ra. Xin nàng kể rõ
thêm nữa, tôi sẽ gắng tìm lời giải mộng cho nàng."
Nghe vậy nàng dừng bước hẳn, nhìn chàng đầu hơi ngoái lại, vẫn
với dáng điệu của một con vật mảnh khảnh, bỡ ngỡ, chăm chú nhìn tự trong bụi rậm
nhìn ra. Nhưng đôi mắt nàng còn là đôi mắt lạc lõng một người đương cố nhớ ra
điều gì mình đương cần. Giá như lúc đó chàng chớp mắt, có thể nàng đã rời bỏ
chàng mà đi ngay, nhưng chàng đã biết cách giữ nàng lại bằng tia nhìn thẳng,
chăm chú, như chàng vẫn nhìn thẳng như vậy để thôi miên những quái vật, giữ
chúng đứng yên bất động. Nhìn đôi bàn chân không, đi đất của nàng, tim chàng
nhói buốt còn hơn là bị sừng quái vật húc phải, nhưng quả thật chàng luôn luôn
xứng danh là một đấng anh hùng.
Nàng Amalthea thủ thỉ nói, "Trong mộng, em thấy những
toa xe đen, có chấn song sắt, có những con thú, đặc biệt có con quái vật đôi
cánh lấp lánh như kim khí dưới trăng. Có một người cao lớn với đôi mắt xanh và
đôi bàn tay rướm máu."
"Người đàn ông cao lớn có thể là ông chú nàng, ảo thuật
gia," Hoàng tử Lir vừa suy nghĩ vừa nói. "Điều đó rõ rồi. Còn đôi tay
rướm máu thì bỏ qua đi, không quan trọng, xin nàng tha lỗi cho vì đã nói vậy.
Thế nàng chỉ mơ có vậy thôi sao?"
"Em không thể kể hết cho chàng nghe được" nàng nói.
"Giấc mộng chưa hết. Chưa bao giờ hết cả." Sự sợ hãi trở lại trong
ánh mắt nàng như hòn đá rơi xuống hồ sâu: mọi sự mờ ảo và quay cuồng, và những
bóng chạy trốn tán loạn. Nàng nói, "Em đã dời bỏ một nơi dung thân tuyệt hảo,
để đi vào vùng đêm tối mênh mang. Cũng có ban ngày nữa, và em đi dưới hàng cây
giẻ gai, mưa rơi giăng mắc và xót xa. Lại có cả những cánh bướm, những tiếng dịu
ngọt, những lối đi lốm đốm, và những đường phố như xương cá, và quái vật biết
bay xà xuống giết chết mụ già. Em đương chạy và chạy hoài trong vùng lửa lạnh,
rồi em quay lại, chân biến thành chân loài thú."
Hoàng tử Lir ngắt lời, "Xin nàng đừng kể thêm gì nữa."
Giấc mộng nàng kể như biến thành hình thể âm u ngăn cách chàng với nàng. Chàng
không còn muốn tìm hiểu ý nghĩa của chúng.
"Xin nàng đừng nói nữa," chàng nhắc lại.
"Em phải tiếp tục chứ," nàng Amalthea nói, "Vì
những giấc mộng đó không bao giờ hết cả. Kể cả khi em thức giấc, đi đứng, ăn uống
em cũng không thể nói rõ cái gì là thật, cái gì là em đương mơ. Em nhớ lại cái
chắc là không hề xảy ra, và em quên cái đương xảy đến. Mọi người nhìn em như thể
em đương nhiên quen biết họ, em quả thực có quen họ trong mộng thật, và lửa
hình như bao giờ cũng lan tới gần em, kể cả lúc em đã thức giấc."
"Xin nàng đừng kể nữa," chàng nói một cách tuyệt vọng.
"Một mụ phù thủy đã xây cái lâu đài này. Kể chuyện ác mộng ở đây, ác mộng
có thể thành sự thực." Thật ra không phải những giấc mộng đó của nàng làm
chàng e ngại, chàng sợ vì trong khi nàng kể lại như vậy mà tuyệt nhiên nàng
không hề nhỏ lệ. Là một anh hùng, chàng hiểu những giọt lệ của mỹ nhân và biết
cách an ủi - thường là giết một cái gì - nhưng vẻ kinh hoàng điềm đạm của nàng
bỗng làm chàng bối rối và nhụt chí khí trong khi khuôn mặt nàng làm sụp đổ khoảng
cách danh dự mà chàng muốn giữ vững giữa hai người. Khi chàng cất lời nói nữa
thì lần nầy giọng chàng trở thành non dại, vấp váp.
"Tôi sẽ theo đuổi nàng một cách dễ thương hơn, nhưng vẫn
chưa biết cách theo đuổi ra sao cho thích hợp với nàng. Những đầu rồng, những
chiến công hiển hách của tôi làm nàng phát ngấy, nhưng tôi chẳng có gì khác để
dâng nàng. Tôi đã trở thành anh hùng từ lâu rồi, và trước khi chưa là anh hùng,
tôi chả là gì cả, hay chỉ là một thằng con trai đần độn, yếu đuối của cha tôi.
Có lẽ giờ đây tôi thành tẻ nhạt theo một thể thức mới chăng. Nhưng tôi hiện ở
đây, nàng đừng để uổng xin cho hay tôi có thể giúp nàng được điều gì, không cần
phải kinh thiên động địa, nhưng hữu ích thôi."
Nàng Amalthea mỉm cười cùng chàng, đó là lần đầu tiên nàng mỉm
cười với chàng từ khi nàng tới lâu đài này. Một nụ cười mỉm, mong manh như vành
trăng thượng tuần long lanh in ngần trên vòm trời, nhưng quả thực đã khiến
Hoàng tử muốn nghiêng người về phía đó để tự sưởi ấm cho mình, chàng còn muốn
khum khum hai bàn tay hứng lấy nụ cười mà thổi lên cho sáng thêm nữa, nếu như
chàng dám có cử chỉ đó.
"Xin chàng hát cho em nghe một bài," nàng nói.
"Cũng là một việc hào hùng lắm nếu chàng cất giọng hát ở khoảng vắng lạnh
đêm trường này, đồng thời hữu ích nữa. Xin hãy hát cho em một bài, hát lớn lên,
hãy dìm cho chết đuối mọi ác mộng của em vào âm thanh sảng khoái của chàng. Và
em có thể nhớ lại những gì em phải nhớ. Xin hãy hát ngay đi, hỡi ông hoàng của
em. Đó chẳng phải là một hành động anh hùng quả cảm quen thuộc của chàng, em biết,
nhưng điều đó làm vui lòng em biết bao."
Thế là Hoàng tử Lir cất giọng hát, giọng hát tràn đầy sinh
khí, và trông kia, dọc theo bực thang những con vật nhỏ ẩm ướt, ít khi được
trông thấy, đương tới tấp chạy về mọi ngả để tìm chốn ẩn thân. Giọng hát của
chàng như mang ánh dương quang tới. Chàng hát theo ngẫu hứng, và đây là bài hát
vui, tếu chàng sực nhớ ra để sưởi ấm và soi sáng đêm trường:
Chợt lớn lên thành chàng trai trẻ
Được các nàng vừa nể vừa ưa
Bướm ông ong bướm mây mưa
Có bao giờ nói mình ưa cô nào
Mặc cô gái má đào mơn mởn
Mặc cho tình gió rợn mưa đong
Chờ ai lòng nhủ với lòng
Duyên tình như thể gương lồng bóng hoa
Ngày tháng vẫn la đà trôi miết
Bướm hoa càng da diết phù du
Ái ân, cười nói, vui đùa
Mà sao tình vẫn hững hờ với duyên
Lòng tự nhủ thuyền quyên đến muộn
Như hoa vàng thêm đượm chiều đông
Đợi chờ vẫn đợi chờ mong
Hưởng vui vẫn chuyện bướm ong qua ngày
Rồi một buổi hương trời xuất hiện
Người tôi mơ thoắt đến cùng thơ
Phụ tình quen thói như xưa
Vàng thau lẫn lộn giấc mơ tan tành
Hỡi ơi, dẫu ân tình tuy mạnh
Thôi hư còn ương ngạnh gấp đôi
Bướm ong ong bướm quen rồi
Sở Khanh trắc nết khiến người ra đi.
Nàng Amalthea cất tiếng cười ròn khanh khách khi Hoàng tử vừa
hát xong. Bóng tối âm u như lùi xa, như chạy trốn khỏi hai người. "Thật là
hữu ích," nàng nói. "Cám ơn Hoàng tử của em."
"Tôi cũng không hiểu sao mình lại chọn hát bài
này." Hoàng tử Lir ngượng ngùng giải thích. "Một trong những người
lính của cha tôi thường hát bài đó cho tôi nghe; tôi không tin tình ý nói trong
bài ca là đúng đâu. Tôi nghĩ rằng tình yêu phải mạnh hơn thói quen và hoàn cảnh
chứ, mình có thể chờ đợi lâu đến đâu chăng nữa, khi người ước mơ tới, mình phải
nhận ra ngay là chính nàng đó." Nàng Amalthea lại mỉm cười, nhưng không trả
lời. Chàng hoàng tử tiến thêm một bước tới gần nàng.
Tự thấy cảm phục mình về cử chỉ bạo dạn đó, chàng nói khẽ,
"Tôi muốn đi vào giấc mộng của nàng ôi, nếu tôi có thể làm được việc đó, để
gìn giữ nàng, tôi muốn diệt trừ đến tận gốc tận rễ những gì ám ảnh nàng, quấy
phá nàng. Nhưng làm sao tôi vào được giấc mộng của nàng, nếu nàng không mộng thấy
tôi."
Trước khi nàng kịp trả lời chàng, nếu như nàng có ý muốn trả
lời, thì cả hai cùng nghe thấy tiếng bước chân vang lên từ những bực thang xoáy
ốc phía dưới, và giọng khàn khàn của vua Haggard. "Ta nghe thấy tiếng hắn
hát. Có cái gì làm hắn hát vậy."
Kế đó là tiếng Schmendrick ảo thuật gia của nhà vua, đáp bằng
một giọng nhẫn nhục, "Thưa ngài đó là vài khúc anh hùng ca, hoàng tử vẫn
hát mỗi khi ra đi tìm chiến thắng hào hùng, hay mỗi khi trở về với thành quả
vinh quan. Xin Bệ Hạ yên lòng."
"Hắn có chịu cất tiếng hát ở lâu đài nầy bao giờ
đâu," nhà vua nói. "Chắc là trên con đường phiêu lưu điên khùng hắn
hát luôn, vì đó là thói quen của các vị anh hùng mà. Nhưng lần này hắn lại hát
ngay ở đây, mà không phải là những khúc anh hùng ca hay những bài biểu lộ tình
tự theo truyền thống hiệp sĩ, đây là bài hát huê tình rõ ràng. Con bé ấy đâu rồi?
Ta biết chắc là hắn hát bài huê tình, dù không nghe rõ lời ca, vì ta nghe tiếng
đá chuyển động trong lòng đất dưới chân di chuyển của Con Bò Mộng Đỏ. Con bé
ấy đâu rồi?"
Chàng hoàng tử và Amalthea nhìn nhau trong bóng đêm, lúc đó
chàng và nàng như đứng sát bên nhau mặc dầu cả hai cùng không hề chuyển dịch. Họ
cùng sợ bị nhà vua bắt gắp. Phía trên họ là khoảng dẫn vào một hành lang; họ
bèn quay người, cùng chạy về phía đó, trước mặt tối mò mò. Bước chân của nàng
thì câm lặng như lời hứa câm lặng nàng vừa trao cho chàng bằng ánh mắt, nhưng
đôi ủng nặng nề chàng mang thì thực tình vang lên rang rảng như bất kỳ đài ủng
của hiệp sĩ nào vẫn vang trên sàn đá như vậy. Vua Haggard không đuổi theo. Ảo
thuật gia thì thầm, "Chuột, thưa ngài, chuột, không còn nghi ngờ gì nữa.
May thay về thứ bùa chú." Tiếng nhà vua vang dọc theo hành lang đôi trẻ vừa
chạy khuất. "Để cho chúng chạy. Với ta, chúng chạy như vậy là phải đạo."
Khi hai người ngừng chạy, đứng lại khoảng nào, họ lại nhìn
nhau.
°
Thế là mùa đông đằng đẵng cũng qua đi, không phải để sang một
mùa xuân lá xanh hoa nở gì, mà sang một mùa hạ hung tàn ngắn ngủi tại lãnh địa
này của vua Haggard. Đời sống tại lâu đài tiếp tục qua trong câm lặng, nơi đây
không ai ủ ấp một niềm hy vọng gì trong lòng. Molly Grue làm bếp, giặt giũ, lau
sàn đá, khâu vá giáp trụ, mài gươm giáo; nàng bổ củi, xay bột, tắm cho ngựa, rửa
chuồng, nấu chảy vàng bạc ăn trộm về rồi cất vào rương cho nhà vua. Sau cùng
vào mỗi buổi tối, trước khi lên giường ngủ, nàng thường còn phải đọc vài bài
thơ mới sáng tác của Hoàng tử Lir và sửa cho chàng đôi lỗi chính tả.
Schmendrick thì làm trò hề, làm ảo thuật, khi nhà vua ra lệnh.
Ảo thuật gia chán ghét những trò đó lắm rồi, ông biết nhà vua thừa hiểu vậy,
nhưng lại lấy thế làm khoái. Ông có đề nghị với Molly nên trốn thoát khỏi lâu
đài trước khi Haggard khám phá ra sự thật về nàng Amalthea, nhưng khi có thì giờ
rảnh ông cũng chẳng thiết tìm cách khám phá ra con đường hầm bí mật dẫn tới sào
huyệt Con Bò Mộng Đỏ. Hình như ông đành chịu đầu hàng, không phải nhà vua, mà một
kẻ địch nào đó già dặn hơn, độc ác hơn. Nó quả đã thắng ông sau một mùa đông
qua đi tại chốn này.
Nàng Amalthea thì vẻ đẹp cứ ngày một rỡ ràng, mặc cho đời sống
chốn nàng ở ngày một tàn bạo hơn, tăm tối hơn. Những kỵ-giáp-binh già nua run rẩy,
ướt sũng nước mưa ngoài tháp canh, hay đi ăn trộm trở về, gặp nàng giữa lối điều
cảm thấy như trẻ lại và lòng nở ra hoa. Có thể nàng mỉm cười với họ, nói với họ
đôi lời dịu dàng, nhưng khi nàng đã khuất xa, họ lại thấy tòa lâu đài đen tối ủ
ê hơn bao giờ hết với tiếng gió bên ngoài lồng lộng trong bầu trời âm u. Vì
nhan sắc của nàng nay đã là nhan sắc của thế nhân, người già chẳng tìm được
chút an ủi nào nơi đó. Họ chỉ còn có thể tự sưởi ấm bên ngọn lửa nhỏ dưới nhà bếp
kia.
Nhưng giữa nàng Amalthea và Hoàng tử Lir thì khác hẳn. Họ đi
chơi với nhau, nói chuyện ríu rít với nhau, cùng nhau cất tiếng hát say sưa vui
vẻ, cứ y như lâu đài của Vua Haggard đây là cả một khu rừng xuân xanh mướt,
ngút ngàn, với tiếng suối reo đây đó. Họ cùng nhau trèo lên những đỉnh tháp
cong queo mà họ coi như những đỉnh đồi thơ mộng, ăn giữa trời với nhau trên mặt
đá sù sì mà họi coi như thảm cỏ xanh mướt. Trên đầu họ luôn luôn là vòm trời
màu chì, nhưng họ cần quái gì. Họ lướt nhanh, lên lên xuống xuống theo cầu
thang cứ y như họ đang cùng nhau thỏa thuê bơi lột theo dòng suối. Chàng nói với
nàng những điều chàng biết, suy nghĩ về chúng rồi lại suy nghĩ phát biểu giúp
nàng nữa và nàng lắng nghe không hề phản đối. Không phải là nàng muốn lừa gạt
chàng, nhưng vì quả thực khi đứng trước tòa lâu đài và chàng, nàng không nhớ một
cái gì cả. Nàng chỉ biết khai mạc và bế mạc cuộc vui họp mặt bằng chính Hoàng tử
Lir - trừ trong giấc mơ, và những giấc mơ đó của nàng cũng tàn lụi rất mau
chóng, như chính lời chàng thường bảo.
Giờ thì họ ít nghe thấy tiếng gầm của Con Bò Mộng Đỏ ra đi
vào lúc màn đêm đã buông xuống. Nhưng đôi khi nếu chợt nghe thấy, nàng vẫn tỏ vẻ
sợ hãi rụng rời, và tường đá, và mùa đông như lại muốn bao phủ vùi rập đôi trẻ.
Vào trường hợp đó, chàng muốn âu yếm cầm tay nàng và an ủi nhưng chàng biết
nàng vẫn còn rất sợ sự đụng chạm đó.
Vào một chiều kia, nàng Amalthea leo lên đỉnh ngọn tháp cao
nhất, ngóng đợi Hoàng tử Lir về. Chàng ra đi thanh toán tên anh rể của một con
quỷ mà chàng đã hạ sát. Ấy, dạo này đôi khi chàng vẫn ra đi thực hiện một vài
cuộc mạo hiểm như vậy. Trên đầu nàng lúc đó, mây chất như núi; một màu trắng bẩn,
nhưng trời vẫn không mưa. Tít dưới xa, biển lướt rộng về phía chân trời mờ khói
theo từng vệt, chỗ thì lấp loáng bạc, chỗ thì màu lá cây, chỗ thì màu nâu như
rông, những con chim gớm ghiếc kia không chịu ngưng nghỉ, chúng bay lên bay xuống
khi thì từng hai con, quay cuồng trên sóng nước rồi lại quay về đậu vênh vang
trên bãi cát, hướng về phía lâu đài của Vua Haggard trên bờ đá cao làm điệu như
vừa cười khà khà, vừa kêu thành lời, "Nói như vậy đó, nói như vậy
đó." Thủy triều thấp, và có thể sắp dâng cao.
Nàng Amalthea bắt đầu hát. Giọng nàng đu đưa trong gió lạnh
như giọng một loài chim lạ.
"Tôi là công chúa con vua
Lớn lên với tháng ngày qua tuổi đời
Tù nhân cho cái thân tôi
Da xiềng, thịt xích, nào vơi mối sầu
Nhớ ai gió thổi bên lầu
Thương ai trăng dãi qua cầu ngẩn ngơ.
Nàng không hề nhớ là đã nghe hát bài này trước đây, lời ca
như bàn tay lũ trẻ cố níu kéo nàng trở lại chỗ mà chúng muốn được xem nữa. Nàng
cựa vai như để xua đuổi chúng.
"Nhưng ta đâu có già," nàng tự nhủ, "và ta đâu
có là tù nhân. Ta là công nương Amalthea mà Hoàng tử Lir yêu dấu. Hoàng tử đã lọt
được vào giấc mộng của ta rồi kia mà, chẳng có điều gì khiến ta phải nghi ngờ,
kể cả khi ngủ. Ta đã học được bài hát sầu đó ở đâu vậy? Ta là công nương
Amalthea, thường chỉ biết những bài hát do Hoàng tử Lir dạy."
Nàng đặt tay lên khoảng cái dấu ở giữa trán. Tiếng triều biển
dạt dào đâu đây, êm ả như vòng đai hoàng đạo; tiếng những con chim gớm ghiếc
kêu lên the thé. Nàng hơi bối rối khi thấy cái dấu vẫn còn đó.
"Kính chào Bệ Hạ," nàng nói, tuy lúc đó chẳng hề có
một tiếng động nào. Có tiếng cười phía sau và nàng quay lại nhìn nhà vua. Ngoài
bộ giáp ông còn khoác tấm áo choàng màu xám, nhưng đầu để trần. Những vết nhăn
đen trên khuôn mặt chứng tỏ thời gian đã cương quyết để lại con dấu, tuy nhiên
trông ông còn vạm vỡ hơn, man rợ hơn con ông nhiều.
"Nàng có vẻ tưng bừng thích nghi mau lẹ với hiện tại và
trì độn với dĩ vãng," nhà vua nói. "Người ta bảo tình yêu làm đàn ông
lẹ lên, làm đàn bà chậm đi. Ta sẽ bắt giữ nàng lại nếu như nàng còn say đắm hơn
nữa."
Nàng mỉm cười nhưng đáp lời: Nàng thường không biết nói sao với
ông già có đôi mắt xám lợt ấy, nàng ít khi gặp ông ta, trừ đôi khi vào trường hợp
nàng đang chia sẻ những giây phút cô quạnh nhất với Hoàng tử Lir. Vừa lúc đó có
tia lấp lánh của giáp trụ ánh lên tự đáy sâu thung lũng, và tiếng vó ngựa vấp
trượt, mệt mỏi đập trên đá. "Hoàng nam của Bệ hạ đã trở về."
Vua Haggard tiến tới đứng cạnh nàng bên bờ thành thấp, nhưng
ông không hề chú ý ngắm khuôn mặt nhỏ xíu còn ở tít dưới xa của đứa con trở về.
Ông hỏi, "Này chứ ta với nàng thì cần gì phải chú ý tới Lir nhỉ. Hắn chẳng
phải là con ta, cũng chẳng phải thuộc về ta. Ta đã mang hắn về đây từ thuở hắn
còn đỏ hỏn bị ai đó bỏ rơi, thuở đó ta nghĩ rằng chưa bao giờ mình sung sướng
chỉ vì vừa chưa bao giờ mình có con. Thoạt việc chăn nuôi hắn cũng là cái thú,
nhưng rồi niềm vui cũng chóng tàn. Cái gì đến với ta cũng chỉ cho ta hưởng những
niềm vui chóng tàn, duy có một điều cho đến bây giờ với ta cũng chưa hề trở
thành nhàm chán." Khuôn mặt độc ác của nhà vua cùng đượm vẻ nham hiểm như
cái lưới vừa bung ra để bất ngờ chụp xuống. "Lir có khám phá ra điều đó
cũng không giúp ích gì cho nàng. Mà cho đến nay hắn cũng chưa hề biết cái
đó."
Bỗng nhiên cả tòa lâu đài rung lên như dây đàn, con vật nằm ở
dưới đáy móng hầm sâu vừa cựa mình thức giấc. Nàng Amalthea dễ dàng lấy lại
thăng bằng, vì đã quá quen với điều này, và hỏi khẽ, "Con Bò Mộng Đỏ.
Nhưng tại sao ngài lại nghĩ rằng tôi đến để ăn trộm Con Bò Mộng? Tôi có vương
quốc nào đâu để giữ nó? Tôi chinh phục nó, lấy trộm nó thì dùng được việc gì?
Nó ăn chắc khỏe dữ?"
"Đừng có ngạo ta, nàng" vua đáp. "Con Bò Mộng
Đỏ cũng như chàng trai kia, cả hai chẳng hề là của ta. Con Bò Mộng Đỏ không ăn
gì cả, và cũng chẳng thể bị mất trộm. Nó phục vụ bất kỳ kẻ nào không biết sợ là
gì." Nàng Amalthea thoáng thấy vẻ tiên tri tiên giác lướt trên khuôn mặt
dài, xám của ông, lướt trên vừng trán của ông. "Đừng có ngạo ta," ông
nói. "Tại sao nàng lại giả bộ như quên mất điều nàng đương tìm kiếm, đợi
ta phải nhắc nàng chăng? Ta thừa biết nàng đến đây để tìm gì, nàng cũng thừa biết
ta có giữ thứ đó. Cứ lấy cái đó đi, có giỏi thì cứ lấy đi, nhưng đừng làm bộ đầu
hàng." Những vết nhăn trên mặt ông đều xuất hiện như những lưỡi dao sắc.
Hoàng tử Lir cưỡi ngựa trên đường về, miệng cất tiếng hát
vang. Nàng Amalthea chưa nghe rõ được lời ca của chàng. Nàng điềm đạm nói với
nhà vua, "Thưa ngài, Con Bò Mộng Đỏ đã giúp ngài chiếm hữu được những gì?
Đàn súc vật, ngai vàng, vương quốc chăng? Duy tôi chỉ ưng có một vật đó là vật
mà ngài không có quyền giữ. Tất cả kho tàng ngài có, trong đó không có chàng,
tôi thành thực chúc ngài giữ lấy mà an hưởng. Kính chào ngài."
Nàng định đi về phía cầu thang, vua đã đứng chặn đường. Nàng
ngừng lại, nhìn vua với đôi mắt đen tối như vết chân loài thú in trên tuyết. Vị
lão vương mỉm cười, nàng Amalthea thấy lạnh người giây lát vì nàng chợt tưởng
tượng thấy như nàng và nhà vua có phần nào giống nhau. Vua nói, "Ta biết
nàng. Ta gần như đoán ra ngay, khi thoạt thấy nàng từ xa lại với tên hề và người
nấu bếp của nàng. Kế đó nhất cử nhất động nàng đều tự tố cáo rõ như ban ngày. Từ
dáng đi, từ vẻ nhìn, từ cách quay đầu, từ cách thở, từ cách đứng yên bất động -
ta đều quan sát rất kỹ. Nàng làm ta ngạc nhiên một thời gian, nhưng giờ thì hết
rồi."
Ông ta ngoái nhìn ra phía biển, đi thẳng tới khoảng thành thấp,
dáng lanh lẹ dị thường, như một chàng trai trẻ. Ông nói, "Triều bắt đầu
lên. Hãy lại đây mà trông. Lại đây." Giọng nói của ông rất nhẹ, nhưng cũng
đủ khiến lũ chi gớm ghiếc trên bãi biển kia ngừng kêu. "Lại đây," tiếng
ông trở nên giữ dằn. "Lại đây, ta không đặt tay lên nàng đâu mà sợ."
Tiếng Hoảng tử Lir hát:
"Thương nàng lắm lắm nàng ôi,
Thương nàng biết thuở nào nguôi hỡi nàng..."
Chiếc đầu khủng khiếp treo lủng lẳng nơi yên ngựa của chàng
như đập theo nhịp trầm. Nàng Amalthea tới đứng bên vua.
Trời vần vũ mây, nàng ngắm nước triều dâng cao dần, những đợt
sóng nhấp nhô như muôn vàn thân cây trồi lên ngang biển. Càng gần tới bãi cát,
những đợt sống càng như khom lưng nhô cao hơn nữa rồi lao mình hung dữ lên bãi
cát, trông cảnh đó chẳng khác cảnh một đoàn súc vật vừa bị sập bẫy vội lồng lộn
nhảy qua một đoàn súc vật vừa bị sập bẫy vội lồng lộn nhảy qua một bức tường để
thoát thân, nhưng rút cục bị bật trở lại, bèn nhe răng múa vuốt cố nhảy một lần
nữa, thêm lần nữa, và cứ thế cho đến lúc chân chồn móng vỡ. Trong khi đó lũ
chim gớm ghiếc càng cất tiếng kêu the thé muôn phần rùng rợn. Nàng ngắm những đợt
sóng từ xa ùa lại màu xám và xanh như chim bồ câu, nhưng khi chúng va vào bãi
cát, vỡ tung thành bọt thì biến thành máu trắng xóa, trắng như cụm tóc của
chính nàng đương phất phơ trước mắt.
Một tiếng nói lớn, lạ lùng ngay bên tai nàng, "Đó, chúng
đó." Vua Haggard chỉ xuống khoảng bọt biển trắng xóa, rồi cất tiếng cười sằng
sặc, nhắc lại, "Đó, chúng đó. Nàng có dám nói đó không phải là đồng loại của
nàng chăng? Nàng có dám nói nàng không đến đây để tìm chúng chăng? Nàng có dám
nói nàng chỉ đến đây trú ngụ nơi đây qua một mùa đông để tìm tình yêu thôi
chăng?"
Ông ta không hề đợi câu trả lời, mà quay đi tiếp tục ngắm
sóng biển. Khuôn mặt ông đổi màu một cách kỳ dị: sự sảng khoái làm bừng màu da
xẫm, làm tròn gò má xương xẩu, làm phẳng những nếp nhăn vòng cung hai bên miệng.
"Chúng là của ta," ông nói, "Chúng thuộc quyền sở hữu của ta.
Con Bò Mộng Đỏ đã bắt chúng về từng con một, từng con một, và ta yêu cầu Bò Mộng
dẫn chúng theo đường ra biển. Còn có chỗ nào tuyệt hảo hơn để giam giữ kỳ lân bằng
biển? Con Bò Mộng Đỏ vẫn có đó, thức hay ngủ, canh giữ chúng.
Từng bị Con Bò Mộng Đỏ quần cho mất nhuệ khí, giờ đây chúng
đành cam chịu sống dưới biển. Vẫn theo nước triều mon men đến gần bờ đấy nhưng
tuyệt nhiên không dám lên khỏi mặt nước. Chúng sợ Con Bò Mộng!"
Gần có tiếng Hoàng tử Lir hát.
Yêu nàng dám tiếc gì đâu
Núi cao, biển rộng, sông sâu chẳng nề.
Nàng Amalthea bám chặt lấy bờ thành mong hoàng tử sớm tới với
nàng, vì nàng cho rằng vua Haggard điên mất rồi. Bên dưới kia vẫn chỉ là bãi biển
nhỏ, hẹp, với những tảng đá và triều dâng, thế thôi, có gì khác đâu.
"Ta thích ngắm chúng. Vui không thể tả được." giọng
của nhà vua như trẻ thơ cất tiếng hát. "Ta chắc chắn đố là niềm vui thật.
Lần đầu tiên cảm thấy vui, ta chợt nghĩ rằng ta sẽ chết. Buổi sớm đó, ta thấy
hai kỳ lân, con đực đang uống nước ở dòng suối, con cái ngả đầu lên lưng con đực.
Ta nghĩ rằng ta sẽ chết.
Ta bảo Con Bò Mộng Đỏ rằng ta cần chúng, ta cần tất cả lũ
chúng, không sót một con. Thế là Bò Mộng đi bắt chúng, cứ từng con một, từng
con một bị dẫn về. Thực ra Con Bò Mộng Đỏ chỉ biết tuân lịnh thôi. Ta bảo nó đi
bắt ong hay đi bắt cá sấu thì nó cũng tuân lệnh y như vậy. Nó chỉ cần phân biệt
cái ta muốn và cái ta không muốn, thế thôi."
Ông ta chợt quên khuấy nàng khi cúi nhìn qua bức thành thấp,
lúc đó nàng có thể lẩn đi được. Nhưng nàng vẫn đứng nguyên. Giấc mộng cũ kỹ nào
đó như chợt thức giấc bao phủ lấy nàng, dù đang thanh thiên bạch nhật. Triều biển
tiếp tục lên, sóng biển xô vào đá tan tác, và tiếng Hoàng tử Lir ca theo nhịp
vó ngựa.
"Yêu nàng lắm lắm nàng ôi,
Yêu nàng biết thuở nào nguôi hỡi nàng."
"Thưở ban đầu gặp chúng, ta còn là chàng trai trẻ."
Vua Haggard nói. "Nay thì đã già rồi, từ đó tới nay ta đã bắt nhốt biết
bao nhiêu là kỳ lân trong vùng biển dưới kia. Nhưng ta cũng luôn luôn hiểu rằng
chẳng có cái gì đáng ngự trị trong trái tim ta, bởi có cái gì vĩnh cửu đâu. Và
ta đã có lý, bằng chứng, ta mỗi ngày một già. Tuy nhiên cứ mỗi lần đứng ngắm
đám kỳ lân, thật tình ta cảm thấy như mình trẻ lại ngoài ý muốn, trở lại thuở
thanh xuân lần đầu tiên bắt gặp chúng trong rừng."
Nương theo lời nói của Vua Haggard, nàng Amalthea tự nhủ rằng
trong mộng nàng vẫn đứng và nhìn xuống bốn chân loài thú trắng phau của mình, lại
có một vệt cháy bỏng ở trên trán, vệt bỏng đó nay vẫn còn. Nhưng nước triều vẫn
xô vào bờ kia, có thấy con kỳ lân nào đâu. Nhà vua điên rồi. Ông tiếp tục nói,
"Không hiểu lũ chúng sẽ ra sao sau ngày ta qua đời. Con Bò Mộng Đỏ sẽ quên
chúng ngay tức khắc, ta biết rõ điều đó lắm, nó ra đi tìm một ông chủ mới nhưng
chúng nó biết lợi dụng lúc đó mà ùa lên bờ chăng. Ta mong rằng không, như vậy chúng
sẽ thuộc về ta vĩnh viễn."
Nhà vua quay lại ngắm nàng Amalthea, đôi mắt vừa dịu dàng vừa
tham lam y như đôi mắt Hoàng tử Lir ngày nào ngắm nàng. Ông nói. "Ngươi là
con kỳ lân cuối cùng. Con Bò Mộng Đỏ bắt trượt vì ngươi đã hóa thành cô gái như
thế này, nhưng điều đó qua mắt ta sao nổi. Ta hỏi thực ngươi làm cách nào mà
hóa thành thiếu nữ như vậy. Cái anh chàng ảo thuật gia của người chắc chắn
không làm nổi trò đó, biến kem thành bơ hắn cũng không làm nổi.
Nếu như lúc đó nàng buông tay ra khỏi bờ thành, có thể nàng
ngã khuỵu, nhưng nàng đã điềm tĩnh trả lời,
"Thưa ngài, tôi không hiểu ngài nói gì. Tôi có trông thấy
gì ở sóng biển kia đâu."
Khuôn mặt nhà vua rúm ró lại, như thể nàng nhìn ông qua làn lửa.
Ông hỏi thầm, "Có thật ngươi đã tự quên mình rồi chăng? Này, như vậy thì
thật hèn mạt như thể chính ngươi là con người vậy. Ta sẽ đích thân ném ngươi xuống
kia giữa đám đồng loại nếu ngươi tự phủ nhận như vậy." Ông tiến thêm một
bước tới nàng, và nàng nhìn ông ta với đôi mắt mở lớn, không sao nhúch nhích nổi
một li.
Tiếng triều biển ầm ầm chan hòa trong đầu óc nàng cùng với tiếng
ca của Hoàng tử Lir và tiếng than khóc trước khi chết của một người tên là
Rukh. Khuôn mặt của vua Haggard nhìn xuống khuôn mặt nàng như nhát búa sắp bổ
xuống, ông ta lẩm bẩm. "Có thể thế lắm, ta đâu có lầm. Tuy nhiên sao đôi mắt
nàng giờ đây cũng tầm thường như đôi mắt hắn - như bất kỳ đôi mắt nào chưa hề
bao giờ thực mục sở thị kỳ lân, chẳng bao giờ trông thấy gì cả ngoài cái bóng
mình trong gương. Ngươi định lừa ta đây. Sao lại có thể thế được? Ta không còn
thấy màu lá xanh trong đôi mắt này nữa."
Vừa lúc đó, nàng nhắm nghiền mắt lại, nhưng khép vào nhãn giới
nhiều hơn là những gì có thức bên ngoài. Con vật có đôi cánh đồng với khuôn mặt
của mụ phù thủy đanh ác đương lắc lư gần đó, cười nói líu lo, và con bướm chấp
cánh liệng bay chao chát. Con Bò Mộng Đỏ rượt đuổi lặng lẽ qua rừng, dùng đôi sừng
lợt lạt của nó gạt những cành cây lớn sang bên. Nàng biết lúc vua Haggard bỏ
đi, nhưng nàng vẫn chưa mở mắt.
Có thể là một thời khắc khá lâu qua đi, cũng có thể là ngay
lúc đó, nàng nghe tiếng ảo thuật gia nói phía sau, "Hãy đứng yên, xin hãy
đứng yên, mọi sự qua rồi." Nàng không rõ mình có thốt ra lời nào không.
"Trong khoảng bể kia kìa," ảo thuật gia tiếp.
"Trong khoảng bể kia kìa. Đừng nghĩ lan man mà làm gì. Chính tôi đã từng
ngồi đây ngắm triều lên mà có bao giờ thấy gì đâu. Sở dĩ Haggard bảo là thấy vì
ông ta hễ cứ muốn cái gì là thấy cái đó." Ảo thuật gia bật tiếng cười hào
hứng nghe như tiếng rìu bổ chắc nịch vào gỗ. Đừng nghĩ lan man mà làm gì. Đây
là một lâu đài phù thủy, do đó khó mà nhìn được cái gì gần gũi, chưa phải lúc -
mà bạn thì lúc nào cũng cứ chăm chăm nhìn hoài nhìn hủy." Ông lại cất tiếng
cười, lần này dịu dàng hơn, nói, "Được rồi chúng ta sẽ tìm ra chúng bây giờ.
Nào hãy theo tôi."
Nàng quay về phía ảo thuật gia mấp máy môi muốn nói mà không
thốt nên lời. Ảo thuật gia chợt chăm chú nhìn lên khuôn mặt nàng, và nói bằng
giọng lo lắng, "Chết chưa, sao khuôn mặt bạn ướt đẫm thế này. Hy vọng đó
là nước bắn vào. Chứ như nếu bạn đã nhân hóa đến mức biết không như người thì
thật vô phương - không thể có một bùa phép gì ở trên đời này mà có thể - ồ, chắc
là nước bắn vào đấy. Hãy theo tôi, bạn. Đó là nước bắn vào thì hơn."
12
Tại khu tiền đình mênh mông của tòa lâu đài, chiếc đồng hồ gõ
sáu tiếng. Thực ra lúc đó đã quá nửa đêm được mười một phút, nhưng ánh sáng nơi
đây tiếng vậy mà nhờ nhờ chỉ gọi là tối hơn khoảng sáu giờ sáng hay khoảng giữa
trưa một chút thôi. Vả lại những ai sống trong tòa lâu đài này đều nói giờ căn
cứ vào sự khác nhau trong bóng tối. Đồng hồ chỉ điểm giờ vào lúc khu tiền đình
lạnh lẽo quá muốn tìm đôi chút hơi ấm, tối tăm quá muốn tìm đôi chút ánh sáng,
khi bầu không khí nơi đây ẩm mốc và ngưng đọng, tường đá hôi rình mùi nước đọng,
vì làm gì có luồng gió nào thổi qua nơi đây. Đó là về ban ngày.
Nhưng về đêm, vì có vài loại cây giữ lấy khí nóng ánh sáng suốt
ban ngày, ủ hơi ấm phía mặt sau lá, nên sau khi mặt trời lặn đã lâu rồi, bóng tối
nơi đây vẫn còn tưng bừng, sinh động. Khi khí lạnh tràn lấn tái chiếm lại dần
khu tiền đình, những con vật nhỏ ngủ ban ngày thức giấc đi đi lại lại, kêu rúc
rích, gãi sồn sột trong các góc tối. Rồi hơi ẩm mốc bắt đầu bốc tỏa tự sâu thăm
thẳm bên dưới thềm đá. Đêm khuya đó.
"Cho một chút ánh sáng đi," Molly Grue nói.
"Làm ơn cho một chút ánh sáng được không?" Schmendrick thì thầm một
câu gì ngắn gọn và có vẻ nhà nghề. Một lúc sau chẳng thấy có gì lạ cả, chợt một
thứ ánh sáng kỳ dị nông choèn tỏa ra phủ lấy sàn đá, hàng ngàn cánh sáng lốm đốm
tỏa ra tứ phía cùng tiếng kêu the thé. Những con vật đêm đều như mang ánh sáng
của loài đom đóm. Chúng vút chạy đi, vút chạy lại, chợt hiện, chợt mất, do đó
bóng tối khu tiền đình càng trở nên lạnh lẽo.
"Trời, thà ông bạn đừng làm thế này còn hơn," Molly
nói. "Thôi, tắt đi có được không? Trông kìa, những con vật màu đỏ tía với...
với chân dài thì phải kìa."
"Không, tôi không thể tắt được nữa," Schmendrick trả
lời. "Cứ yên chí lớn mà. Cái đầu lâu đâu?"
Nàng Amalthea có thể trông thấy nó nhăn răng ở trên cột đá
kia, nhỏ như trái chanh trong bóng tối, và mờ như trăng bình minh. Nó chẳng nói
một lời nào cả từ lúc nàng từ trên tháp xuống đây.
"Kia rồi," ảo thuật gia nói. Ông rảo bước về phía đầu
lâu, chằm chằm nhìn sâu vào đôi hố mắt nứt nẻ, vụn nát của nó một hồi lâu, đầu
gật bù, miệng lẩm bẩm niệm chú. Molly Grue theo dõi, thỉnh thoảng lại liếc nhìn
nàng Amathea. Sau cùng Schmendrick bảo, "Được rồi. Chớ đứng gần quá như vậy."
"Liệu có thứ bùa chú khiến đầu lâu biết nói không?"
Molly hỏi. Ảo thuật gia vươn dài những ngón tay ra, đáp lại bằng một nụ cười đầy
thẩm quyền.
"Có những bùa chú khiến mọi vật nói được. Những tay phù
thủy đại tài đều là những vị biết lắng nghe một cách tinh tế. Họ có cách khiến
tất cả những vật sống cũng như chết nói được với họ. Là một phù thủy thì phần lớn
phải biết nhìn, biết nghe." Ông hít một hơi thở dài, chợt quay nhìn phía
khác, hai bàn tay xoa vào với nhau, tiếp, "Còn ngoại giả đều là kỹ thuật hết.
Được rồi. Nào chúng ta làm."
Ông chợt quay lại đối diện với đầu lâu, đặt một tay lên đỉnh
sọ miệng lẩm nhẩm như chuyện trò, như ra lệnh. Lời nói tuy thầm thì nhưng chững
chạc như tiếng chân của những người lính canh gặp nhau trong đêm. Nhưng đầu lâu
chẳng hề trả lời gì.
"Lạ nhỉ," ảo thuật gia thốt khẽ. Ông không đặt tay
lên đỉnh sọ nữa, tiếp tục niệm chú, lần này âm thanh lời nói rõ hơn, đượm vẻ tỉ
tê dỗ ngon dỗ ngọt. Cái sọ vẫn yên lặng, tuy nhiên Molly thoáng thấy như nó vừa
thức giấc. Trong vùng ánh sáng lấp loáng lướt nhanh của lũ sau bọ ban đêm, mái
tóc của nàng Amalthea như một bông hoa lồng lộng. Nàng đứng đó không hàm hồ, chẳng
dửng dưng, nhưng yên lặng, thứ yên lặng đôi khi gặp ở bãi chiến trường. Nàng
chăm chú ngắm Schmendrick niệm hết thần chú này sang thần chú khác trước cái sọ
trắng hếu, nó vẫn yên lặng như nàng Amalthea vậy. Lời thần chú sau bao giờ cũng
được thì thầm bằng một giọng thiết tha tuyệt vọng hơn lời thần chú trước, và cứ
như vậy lũy tiến lên, mà đầu lâu nhất định không chịu nói. Cứ như nhận xét của
Molly Grue thì đầu lâu có nghe, có hiểu đấy nhưng cố tình riễu cợt. Molly cho đến
chết cũng không thể lầm được thứ yên lặng có tình riễu cợt đó.
Đồng hồ điểm đến tiếng thứ hai mươi chín thì Molly lẫn không
đếm tiếp được nữa. Đồng hồ còn tiếp tục gõ nữa. Schmendrick thốt nhiên giơ cả
hai nắm tay lên chỉ vào mặt đầu lâu hét lớn, "Được lắm, được lắm, nói với
người thà nói với đùi gối còn hơn. Ngươi nghĩ sao, ta sẽ đấm ngươi một cái vào
mắt." Lời nói sau cùng của ảo thuật gia lạc hẳn giọng vì giận, nghe thật
thiểu não.
"Được lắm!" đầu lâu nói. "Cứ việc gầm lên mà
đánh thức Haggard dậy. Tưởng bở!" Tiếng đầu lâu nói nghe như tiếng những
cành cây chạm vào nhau trong gió thôi, ông ta đâu có ngủ nhiều, ông bạn biết đấy."
Molly thốt lên một tiếng kêu khẽ thống khoái, và cả nàng
Amalthea nữa cũng tiến gần thêm một bước. Schmendrick còn nắm chặt quả đấm, nét
mặt tiếng vậy không tỏ lộ vẻ thắng thế. Đầu lâu nói. "Hỏi đi thôi, hãy hỏi
tôi xem muốn gặp Con Bò Mộng Đỏ phải đi đường nào. Chớ lầm mà hỏi ý kiến tôi.
Tôi là tên canh gác cho nhà vua, canh gác con đường dẫn xuống sào huyệt Con Bò
Mộng Đỏ. Kể cả Hoàng tử Lir cũng không biết con đường bí mật đó, nhưng tôi biết."
Molly e dè hỏi, "Quả ông canh gác con đường đó, sao ông không báo động cho
nhà vua? Sao ông lại có ý giúp bọn tôi?
Đầu lâu cười lục cục. "Tôi ở trên trụ đá này đã quá lâu
rồi. Tôi vốn là trưởng đoàn cận vệ thân tín của nhà vua cho đến ngày ông ta chặt
cổ tôi chẳng có gì duyên cớ. Đó là vào thuở ông ta ưa đường lối tàn bạo muốn
tìm hiểu xem đó có phải là điều ông ta thực sự khoái. Sau khi đã chặt đầu tôi rồi
ông ta mới hay đó không phải là điều ông ta thích. Ông bèn đặt đầu tôi lên đây
cho giữ nhiệm vụ canh gác. Đó, trường hợp của tôi như vậy, kể ra tôi cũng chẳng
cần phải trung thành với nhà vua làm gì cho lắm."
Schmendrick thấp giọng nói, "Hãy giải giúp bọn tôi lời đố.
Hãy chỉ cho chúng tôi biết đường đi tới Con
Bò Mộng Đỏ."
"Không," đầu lâu trả lời, rồi cười như điên.
"Sao không?" Molly thét, giận dữ. "Trò chơi gì
vậy?" Xương quai hàm vàng khè của đầu lâu không hề động đậy, nhưng tiếng
cười ằng ặc còn kéo dài một lúc sau. Kể cả những con vật đêm đương đi lại tới tấp
cũng ngừng lại một lúc.
"Tôi chết rồi," đầu lâu nói. "Vâng, tôi chết rồi
và cắm trên cao trong khoảng tối để canh gác cho Vua Haggard. Tôi chỉ còn một
điều giải trí duy nhất là chọc giận kẻ sống vậy mà cũng chẳng mấy khi tôi gặp
được những dịp may đó. Thật là điều thiệt thòi cho tôi quá lắm vì thuở sinh thời
tôi vốn là tên rất ưa chọc giận thiên hạ. Thứ lỗi cho tôi nhé. Mai lại đến, biết
đâu mai tôi chẳng nói."
"Nhưng chúng tôi không có thì giờ!" Molly phân trần.
Schmendrick hích nhẹ Molly một cái, nhưng nàng đương đà nói, nàng tiến thẳng tới
gần đầu lâu nhìn vào hai hố mắt nài nỉ, "Chúng tôi không có thì giờ. Chúng
tôi tới đây đã quá muộn rồi."
"Chúng tôi không có thì giờ," đầu lâu trầm ngâm nhắc
lại. "Có thì giờ cũng chẳng hay hớm gì đâu. Vội vội vã vã, bổ sấp bổ ngửa,
cuống cuồng, vô phương cứu chữa, quên cái này, chậm cái nọ, cái quá lớn không
thích ứng được với nơi quá nhỏ, đời là như vậy chứ gì, luôn luôn so với điều
kia thì điều này là chậm. Phớt tỉnh đi."
Molly lăm le năn nỉ tiếp, nhưng Schmendrick đã nắm mạnh cánh
tay, kéo nàng sang một bên, nói lớn và lẹ, "Thôi im đi, đừng nói thêm một
lời nào nữa. Tất cả câu đố chỉ có thế thôi mà."
"Chưa chắc," đầu lâu bảo ông. "Tôi có thể nói
chuyện với các bạn bao lâu cũng được, nhưng tôi sẽ chẳng mách thêm các bạn điều
gì đâu. Ồ giá như các bạn được gặp tôi thuở sinh thời mới phải."
Schmendrick không thèm để ý nghe, mà hỏi Molly, "Rượu
vang đâu nhỉ? Để tôi nghĩ xem mình nên dùng rượu vang vào việc gì nào."
"Tôi không tìm thấy rượu," nàng bứt rứt đáp.
"Tìm khắp trong lâu đài mà chẳng kiếm ra một giọt." Ảo thuật gia nhìn
chằm chằm vào nàng trong cái im lặng mênh mông. "Tôi tìm," nàng nhắc
lại.
Schmendrick từ giơ cả hai tay lên rồi lại buông xuống, nói,
"Được, đành vậy, nếu như bạn không kiếm được ra rượu. Tôi có ảo giác,
nhưng không bột làm sao gột nên hồ, tôi chẳng thể làm ra rượu bằng không
khí."
Đầu lâu cười sằng sặc, rồi nhận xét, "Vạn sự chẳng cái
gì tự tạo, chẳng cái gì tự diệt với hầu hết các ảo thuật gia."
Tự nếp gấp ở tấm áo của mình, Molly lấy ra một chiếc bình lấp
lánh sáng trong bóng tối. Nàng nói, "Này ông bạn, có một chút nước đây, có
thể khởi sự được đó..." Schmendrick và đầu lâu cùng hướng về nàng.
"Được, đủ lệ bộ rồi đó," nàng nói lớn. "Ông bạn không làm ra được
gì mới, nhưng điều đó chẳng sao."
Nàng nhìn xéo về phía nàng Amalthea. Schmendrick cầm lấy chiếc
bình tự tay Molly, ngắm nghía kỹ càng, miệng lẩm bẩm những tiếng lạ lùng. Sau
cùng ông ta nói, "Sao không, như là bạn biết đây là thứ trò phổ thông, đã
từng một thời rất được hâm mộ, nhưng ngày nay thì cũng khá cổ lỗ." Ông múa
tay trên miệng bình, niệm chú trong không khí.
"Ông bạn làm gì vậy?" Đầu lâu cất tiếng hỏi hăng
say. "Hây, hãy làm cái đó gần tôi nè, tôi chẳng trông thấy gì cả." Ảo
thuật gia quay sang phía khác, âu yếm ôm bình vào ngực, hơi cúi xuống, bắt đầu
hát nho nhỏ, Molly có cảm tưởng như đương nghe tiếng than còn nổ lách tách
trong lò sau khi lửa tắt đã từ lâu.
"Không phải là thứ đặc biệt cho lắm," ông ta nói
"Vâng thường thôi." Molly trang trọng gật đầu. Schmendrick tiếp,
"Vẫn như mọi khi tôi làm, ngọt quá, uống sao được." Ông ta tiếp tục
niệm chú, nhỏ hơn, trong khi đầu lâu luôn luôn than phiền là chẳng trông thấy
gì, chẳng nghe thấy gì. Molly nói khẻ với nàng Amalthea điều gì, nhưng Amalthea
lơ đãng nhìn đi nơi khác, không trả lời.
Lời niệm chú ngừng bặt, Schmendrick nâng miệng bình lên môi,
thoạt hít hít ngửi, rồi nói nhỏ, "Lạt quá, lạt quá gần như chẳng có hương
vị gì. Chẳng bao giờ dùng ảo thuật mà làm nên rượu ngon cả." Ông nghiêng
bình uống, rồi lắc bình, ngắm bình chằm chằm, rồi mỉm cười dốc ngược bình xuống.
Không một giọt nước đổ ra.
"Được rồi đó," Schmendrick nói một cách tưng bừng,
liếm lưỡi khô lên môi khô và nhắc lại, "Được rồi, làm xong rồi đó." Vẫn
mỉm cười, ông giơ tay để ném chiếc bình.
"Ấy đừng - hây, hãy đợi đã!" Tiếng đầu lâu hốt hoảng
phản đối đến nỗi Schmendrick phải ngừng tay. Ông ta và Molly cùng quay lại nhìn
đầu lâu đương cuống cuồng lo mất bình rượu, dáng điệu đầu lâu rẫy nẩy, đỉnh đầu
va vào cọc đá kêu lóc cóc, giọng cầu khẩn than van, "Xin đừng ném, ông bạn
điên hay sao, ai lại ném bình rượu vang đi như thế bao giờ. Ông bạn chê thì cho
tôi."
Một suy tư thoáng hiện trên vẻ mặt Schmendrick như một áng
mây khói lướt nhẹ trên nền trời trong vắt của một ngày khô ráo. Ông chậm rãi hỏi,
"Rượu vang với bạn thì ích gì, bạn có lưỡi đâu mà thưởng thức, bạn có thực
quản đâu mà mong dẫn rượu xuống dạ dày cho các con tì con vị thưởng thức. Ông bạn
chết đã năm mươi năm, nửa thế kỷ qua như vậy liệu ông bạn còn nhớ vị rượu, còn
khoái rượu?"
"Chết đã năm mươi năm, tôi còn biết làm gì hơn?" Đầu
lâu không còn bứt rứt nữa; giọng dịu xuống. "Ông bạn ơi tôi nhớ còn kỹ hơn
bạn tưởng. Chỉ cần cho tôi một ngụm, một hớp thôi, tôi sẽ thưởng thức hương vị
rượu đến tận cùng thống khoái, ngoài sức tưởng tượng của bạn. Tôi đã có thời
gian để suy nghĩ mà. Tôi nhớ rõ hương vị rượu vang mà. Hãy đưa cho tôi bình rượu
đó."
Schmendrick lắc đầu, nhăn răng cười, rồi nói. "Ông bạn
cũng khá hùng biện đấy, nhưng tôi vẫn cảm thấy mếch lòng." Lần thứ ba, ông
ta nâng cao bình rượu rỗng lên, và đầu lâu rên rỉ nghe thật thê thảm.
Cảm thấy tội nghiệp Molly Grue cất tiếng nói, "Nhưng đó
đâu là... " Ảo thuật gia đã kịp dẵm lên chân nàng, và nói lớn "Ông bạn
hẳn phải nhớ lối vào hầm Con Bò Mộng Đỏ như ông bạn nhớ hương vị rượu vang, vậy
chúng ta có thể mặc cả với nhau được rồi." Ông mân mê bình rượu bằng hai
ngón tay.
"Được rồi!" Đầu lâu nói. "Đồng ý đấy, nhưng
cho tợp một ngụm đã. Mau lên. Trời ơi sao bây giờ tôi lại khát rượu hơn thuở
sinh thời đến thế. Cho tợp một ngụm, mau lên đi, ông bạn, rồi tôi sẽ nói tất cả
những gì ông bạn muốn biết." Xương quai hàm đầu lâu như đương trẹo trọ,
hàm răng thì rung lên.
"Cho ông ta đi," Molly nói khẽ với Schmendrick.
Nàng có cảm tưởng hai hố mắt của đầu lâu tràn ứ lệ đến nơi rồi. Nhưng
Schmendrick vẫn cương quyết lắc đầu.
"Tôi sẽ biếu ông bạn cả bình rượu này," ông nói với
đầu lâu. "Nhưng phải là sau khi ông bạn đã chỉ đường cho bọn tôi tới Con
Bò Mộng Đỏ."
Đầu lâu thở dài nhưng không còn ngần ngừ nữa. "Đường đi
qua chiếc đồng hồ kia kìa. Thế là xong nhé cho tôi uống đi nào."
"Đi qua chiếc đồng hồ." Ảo thuật gia nhìn về phía
góc xa thăm thẳm của khoảng tiền đình, nơi chiếc đồng hồ lớn được dựng ở đó,
bóng cao đen và và mỏng, trong ánh sáng chạng vạng. Kiếng trên mặt đồng hồ đã vỡ,
và chiếc kim ngắn chỉ giờ đã mất. Dưới làn kính xám mờ những bộ phận máy có thể
trông thấy đương co rút, vặn vẹo như con cá mắc cạn. Schmendrick hỏi, "Có
phải khi nào đồng hồ điểm đúng giờ, thì cửa tự mở, để lột một lối xuống bí mật?"
Giọng ảo thuật gia đượm vẻ nghi ngờ, vì đồng hồ nhỏ quá khó có thể che dấu một
lối đi.
"Tôi không biết gì hơn nữa," đầu lâu đáp. "Nếu
ông bạn có ý đợi cho chiếc đồng hồ này điểm đúng giờ, thì ông bạn cứ việc mà đợi
cho đến ngày tóc rụng răng long. Việc gì mà phải phức tạp hóa một bí quyết đơn
giản như vậy. Cứ việc mà bước qua đồng hồ, và Con Bò Mộng Đỏ ở phía bên
kia."
"Nhưng theo lời con mèo nói thì..." Schmendrick
nói, rồi tiến thẳng tới phía chiếc đồng hồ. Bóng tối làm cho người ta có cảm
giác ông ta đương xuống đồi bóng nhỏ dần, người khom xuống. Khi tới chiếc đồng
hồ ông tiếp tục đi như thể đồng hồ quả thực chỉ là cái bóng. Bỗng ông có cảm tưởng
như mũi vấp phải cái gì.
"Thực vô lý," ông ta lạnh lùng nói với đầu lâu khi
ông đã quay lại. "Ông bạn định bịp tôi hả? Có thể đường xuống Con Bò Mộng
Đỏ qua cái đồng hồ kia, nhưng còn phải biết thêm điều gì khác nữa chứ. Bạn hãy
nói rõ cho bọn tôi nghe đi, nếu không tôi đổ rượu xuống sàn cho tha hồ mà ngắm.
Tôi tưởng tượng ra mùi vị. Hãy nói mau lên ông bạn!"
Đầu lâu lại cất tiếng cười, lần này tiếng cười đượm vẻ suy tư
dễ thương. "Hãy nhớ lại những lời tôi đã nói với bạn về thời gian. Thuở
sinh thời tôi cũng như ông bạn giờ đây hoàn toàn tin tưởng rằng thời gian là một
thực thể ít nhất cũng vững chắc như thân hình của chính mình. Ta nói bây
giờ là một giờ cứ y như thể mình sờ mó được thời gian đó, ta nói hôm
nay là thứ hai cứ y như thể mình chỉ được vị trí ngày đó trên bản đồ, rồi
tôi sống vội vã từ phút này sang phút khác, ngày lại ngày; năm tiếp năm, cứ như
thể là đường di chuyển từ một nơi chốn này sang một nơi chốn khác. Và cũng y hệt
mọi người khác tôi trở thành tù nhân trong một căn nhà xây tường lợp ngói bằng
giờ, bằng phút, bằng giây, chẳng bao giờ tự giải phóng nổi, cho đến ngày chết mới
thoát ra ngoài được, vì có còn cánh cửa nào khác nữa đâu. Bây giờ thì tôi hiểu,
tôi hiểu rằng mình có thể bước qua tường được lắm chứ."
Molly chớp chớp mắt ngạc nhiên, Schmendrick thì gật gù, nói,
"Được, điều đó một ảo thuật gia có thể làm được, nhưng còn cái đồng hồ?"
"Cái đồng hồ này chẳng bao giờ gõ đúng giờ cả," đầu
lâu nói. "Haggard đã tranh đoạt được công trình đó từ lâu rồi, vào cái
ngày mà ông ta muốn giữ lấy dòng thời gian. Nhưng điều cần thiết là chính ông bạn
phải hiểu rằng mình có thể cóc cần đồng hồ. Thây xác nó muốn gõ bao nhiêu tiếng
thì gõ, hãy làm chủ lấy thời gian, tự chọn giờ điểm đúng và hợp với chính mình.
Khi mà ông bạn đã hiểu như thế rồi thì giờ nào cũng là giờ đúng và hợp với ông
bạn."
Vào đúng lúc đó, đồng hồ điểm bốn tiếng. Tiếng thứ tư chưa kịp
hết ngân vang thì có tiếng vang ầm bỡ ngỡ đâu từ phía dưới sâu sàn đá vẳng lên.
Không phải là tiếng gầm man rợ quen thuộc hàng đêm của Con Bò Mộng Đỏ vào lúc
nó ngủ mơ, đây là thứ tiếng vang bỡ ngỡ, dò hỏi, tựa như Conn Bò Mộng Đỏ vừa chợt
thức giấc vì cảm thấy có điều gì mới sắp manh nha trong đêm tối. Từng phiến đá
lát sàn vang lên mơ hồ như tiếng rắn phun, bóng tối như run rẩy, trong khi những
con vật đêm bé bỏng tẩu thoát tán loạn về các góc khuất của tiền đình. Molly biết
chắc chắn là Vua Haggard sắp tới rồi.
"Cho tôi uống rượu vang đi," đầu lâu nói. "Tôi
đã nói đủ rồi đấy." Schmendrick lẳng lặng nghiêng bình rượu, rót bình
không, vào cái miệng rỗng của đầu lâu. Tiếng uống ừng ực, tiếng thở dài khoái
trá, tiếng mút chùn chụt. Sau cùng đầu lâu "à" lên một tiếng,
"À, đó mới là rượu vang thứ thiệt. Tuyệt! Ông bạn còn hay hơn ảo thuật gia
ấy chớ. Nào, thế ông bạn đã hiểu rõ lời tôi giải thích về thời gian chưa
nào."
"Vâng, hiểu rồi," Schmendrick đáp. "Tôi cũng
nghĩ như vậy." Con Bò Mộng Đỏ lại làm vang tiếng kêu lạ lùng như lần trước,
và đầu lâu lại va xương lách cách vào trụ đá. Schmendrick nói, "Không. Tôi
không hiểu. Còn đường nào khác nữa không?"
"Có cái gì thế này?" Molly nghe có tiếng chân bước;
rồi lại thôi; rồi tiếng thở khe khẽ, thận trọng. Nàng không thể quyết đoán được
tiếng đó từ phía nào vẳng lại. Schmendrick quay lại nhìn nàng, khuôn mặt ông mờ
những xáo trộn, nghi vấn, như chiếc thông phong ám khói bên trong, cũng có chút
ánh sáng nữa nhưng là thứ ánh sáng của chiếc đèn bão đương lắc lư heo hút giữa
trận cuồng phong.
"Tôi nghĩ rằng đã hiểu," ông nói, "nhưng cũng
nghĩ rằng chưa chắc đã hiểu gì. Để tôi thử."
"Tôi vẫn còn cho đó là cái đồng hồ thật," Molly
nói. "Dầu sao cũng được đi, tôi có thể bước qua cái đồng hồ thật."
Nàng nói thế thoạt để ảo thuật gia vững tâm, nhưng khi nói xong nàng cảm thấy
toàn thân như bừng sáng và nhận định rằng nàng đã nói đúng. "Tôi biết chúng
ta sẽ phải đi tới đâu và điều đó cũng tốt như thể mình biết giờ hàng
ngày."
Đầu lâu ngắt lời nàng, "Để tôi cho các bạn thêm ít lời
khuyên, vì rượu ngon quá." Schmendrick trông ủ dột như kẻ phạm lỗi. Đầu
lâu tiếp, "Hãy đập tôi vỡ nát đi, hãy thẳng tay ném tôi xuống sàn đá cho
tan thành từng mảnh. Đừng hỏi vì sao, hãy làm thế đi." Những lời an ủi sau
cùng này, đầu lâu nói nhanh và lướt nhẹ thành lời nói thầm.
Cả Schmendrick và Molly cùng nói, "Sao? Sao vậy?" Đầu
lâu nhắc lại lời thỉnh cầu. Schmendrick hỏi, "Sao ông bạn lại nói vậy. Làm
sao chúng tôi có thể đập tan ông bạn xuống sàn đá cho được?"
"Làm ngay đi!" đầu lâu vật nài. "Làm ngay
đi!" Nhịp thở kỳ dị như tự bốn phía ùa gần tới, có thêm nhịp một đôi chân
bước.
"Không," Schmendrick nói. "Ông bạn điên rồi."
Ảo thuật gia quay lại tiến về phía chiếc đồng hồ mờ ảo. Molly nắm lấy cánh tay
lạnh của nàng Amalthea mà cùng bước theo ảo thuật gia. Amalthea bị nàng kéo
theo như một cánh diều trắng của trẻ con chơi.
"Thế cũng được," đầu lâu buồn bã nói. "Tôi đã
báo trước cho các bạn." Rồi bằng một giọng hét lớn đầy kinh hoàng, đầu lâu
hô hoán lên, "Cứu tôi với, hỡi đức vua! Lính canh đâu, tới với tôi. Có kẻ
trộm, có kẻ cướp, có kẻ bố ráp tấn công, quân bắt cóc, quân phá nhà, quân giết
người, quân làm bạc giả. Vua Haggard! Hô, Vua Haggard đâu!"
Bây giờ thì tiếng chân rầm rập vang lại từ bốn phía tiếng các
kỵ giáp binh gọi nhau ơi ới. Không một ánh đuốc được đốt lên; vì chưa có lệnh
nhà vua. Mà Vua Haggard thì hãy còn yên lặng. Ba tên ăn trộm đứng lính quýnh đó
chưa biết sẽ quyết định bề nào, há hốc miệng nhìn đầu lâu.
"Rất tiếc." đầu lâu nói. "Tôi phải làm vậy, phản
bội. Tôi phải..." Vừa lúc đó đôi hố mắt đầu lâu như thất lạc tinh thần khi
hướng về phía nàng Amalthea. Nó nói khẽ, "Ồ, không, ngươi không thể đi được,
như vậy ta phản bội quá lắm, ta không thể phản bội đến mức ấy được."
"Chạy đi," Schmendrick giục giã, y như ông đã giục
lân ngày nào khi mở chuồng gánh xiệc. Tiếng đầu lâu đã tru tréo lên, "Kỳ
lân, kỳ lân, ới Vua Haggard, kỳ lân đi xuống hầm Con Bò Mộng Đỏ kìa! Chú ý cái
đồng hồ, Haggard - nhà vua đâu? Kỳ lân! Kỳ lân kìa!"
Kế đó là tiếng nhà vua ráo rác, giận dữ, "Tên điên, tên
phản bội, chính mi đã tiết lộ chứ còn ai nữa." tiếng chân của nhà vua dồn
dập chạy tới và Schmendrick càu nhàu giận dữ, kế đó là tiếng nứt rạn, xào xạo,
rồi tiếng khối xương cũng lăn lông lốc trên nền đá cũ. Ảo thuật gia tiếp tục chạy.
Khi cả ba đứng trước chiếc đồng hồ, họ ngỡ ngàng hết sức,
không ra ngờ vực mà cũng không ra hiểu biết. Các kỵ giáp binh đã có mặt cả tại
khu tiền đình. Tiếng bước chân vội vã vang đi dội lại loạn xà ngầu tự bốn phía,
trong khi đó Vua Haggard tiếp tục la lối sỉ vả họ. Nàng Amalthea không một chút
ngại ngần, bước thẳng vào chiếc đồng hồ và biến mất, như mặt trăng biến mất sau
đám mây, sau đám mây chứ không phải trong đám mây, trăng biến mất
sau đám mây, cách xa ngàn vạn dặm.
Molly thì lẩm cẩm nghĩ rằng Amalthea là một nữ lâm thần mà thời
gian chỉ là cây cỏ. Nhìn qua làn kính mờ và lỗ chỗ, bộ phận quả lắc, bộ phận
chuông, tất cả như lắc lư, như bốc cháy. Không có cái cửa vào, chỉ là một thông
lộ rỉ của đống máy móc đương chuyển động như rong biển. Mắt Molly nhìn xa hơn nữa
chỉ thấy mờ mờ ảo ảo như mưa giăng.
Tiếng Vua Haggard gầm lên, "Giữ chúng lại! Phá cái đồng
hồ đi!" Molly quay đầu lại, định bảo với Schmendrick rằng có thể là nàng
đã hiểu ý đầu lâu định nói gì rồi; nhưng ảo thuật gia đã biến mất trước mặt
nàng, cả khu tiền đình của tòa lâu đài Haggard cũng biến mất, và nàng đương đứng
cạnh nàng Amalthea tại một nơi lạnh lẽo.
Tiếng Vua Haggard vẳng lại từ xa, rất xa, hình như không phải
là chính nhà vua nói, mà là Molly nhớ lại tiếng ông ta nói. Nàng ngoái cổ nhìn
lại thấy thêm khuôn mặt Hoàng tử Lir xuất hiện. Sau lưng hoàng tử tỏa ra một
đám sương mù lấp lánh và rung động, không có gì là giống bộ máy mòn và rỉ của
cái đồng hồ cả. Không thấy Schmendrick đâu.
Hoàng tử Lir cúi chào Molly, nhưng lại nói với nàng Amalthea,
"Nàng định ra đi một mình không cho tôi theo sao? Nàng như không có vẻ gì
nghe tôi nói."
Nàng đáp lời hoàng tử giọng khẽ nhưng rõ, "Có lẽ em phải
quay trở lại. Em không rõ làm sao em tới được đây, em không rõ em là ai, nhưng
em nên quay trở lại mới phải."
"Không," hoàng tử nói, "nàng chẳng bao giờ nên
quay lại nữa."
Nhưng hoàng tử chưa kịp nói gì thêm, Molly đã xen vào, giọng
lạ lùng kinh hãi, "Tất cả những cái đó không cần! Schmendrick đâu
đã." Hai người cùng nhìn Molly bằng một vẻ kính cẩn không bút nào tả siết.
Toàn thân Molly rung lên, "Schmendrick đâu? Các bạn không quay lại thì tôi
quay lại vậy." Và nàng bứt rứt bước quanh.
Ảo thuật gia đã tự đám mây mờ tiến tới, đầu cúi xuống như thể
ông ta đương đi ngược chiều gió mạnh, một tay giữ lấy thái dương, và khi tay đó
buông ra, một tia máu chảy nhẹ xuống.
"Không sao đâu," ảo thuật gia nói khi nhận ra máu
mình đã dính sang hai bàn tay Molly Grue. "Không sao đâu, tôi đã tưởng
không qua lọt cửa đồng hồ." Ông cúi chào Hoàng tử Lir. "Tôi còn nhớ
Hoàng tử đi bên tôi trong bóng tối. Sao Hoàng tử đi vào đồng hồ dễ dàng vậy,
chính đầu lâu đã nói là Hoàng tử cũng không biết đường kia mà."
Hoàng tử ngẩn người hỏi, "Đường nào vậy? Tôi có cần biết
gì đâu? Tôi chỉ thấy nàng chạy vào khoảng nào thì tôi theo ngay nàng vào khoảng
đó."
Tiếng cười của Schmendrick va vào các thành hầm lởm chởm như
gai đâm, giờ thì họ đã quen với bóng tối và nhận ra thành hầm thăm thẳm. Ảo thuật
gia nói. "Đúng vậy, có một vài thứ cứ theo tự nhiên mà đúng giờ đúng giấc."
Ông ta lại bật cười, lắc lắc cái đầu làm máu lại phọt ra. Molly xé một mảnh áo
của nàng để băng vết thương cho ảo thuật gia.
"Tội nghiệp những ông già đó," ảo thuật gia nói.
"Họ không muốn làm tôi bị thương, và tôi cũng không muốn làm họ bị thương.
Chúng tôi cứ né tránh nhau loanh quanh đấy, xin lỗi nhau, và Haggard thì gầm
lên và tôi va vào cái đồng hồ. Tôi biết đó không phải là cái đồng hồ thật,
nhưng tôi cảm thấy như nó có thật, điều đó mới khổ chớ. Rồi Haggard tiến tới với
thanh gươm của ông ta đâm tôi." Ảo thuật gia nhắm mắt lại để Molly băng đầu
cho, rồi lại tiếp, "Haggard, tôi bắt đầu thấy mến ông ta. Tôi còn cảm thấy
như vậy. Trông ông có vẻ kinh hoàng quá đỗi." Tiếng nói vang vọng, mờ ảo của
nhà vua và đoàn kỵ giáp binh như trở nên lớn hơn.
"Tôi không hiểu," Hoàng tử Lir nói "Sao cha tôi
lại kinh hoàng? Sao cha tôi..." Vừa lúc đó về phía chiếc đồng hồ cũ, mọi
người nghe thấy tiếng thét kinh hoàng ngoài sức tưởng tượng của con người và một
tiếng đổ bể cựa lớn. Vùng sương mờ ảo tan đi tức khắc và một vùng bóng tối câm
lặng đổ xuống bao phủ lấy mọi người.
"Haggard đã phá chiếc đồng hồ," Schmendrick nói. Thế
là hết đường quay lại rồi. Bây giờ chỉ còn một con đường đi ra, con đường của
Con Bò Mộng Đỏ." Một cơn gió nặng nề dày đặc bắt đầu nổi dậy.
13
Kể ra đường cũng đủ rộng đê cho họ đi song song với nhau,
nhưng họ lại đi theo hàng một, kẻ trước người sau. Nàng Amalthea đi trước tiên
theo ý nàng chọn. Hoàng tử Lir, Schmendrick và Molly Grue tuần tự theo sau, cứ
theo rõi ánh tóc của nàng Amalthea mà đi, trong khi chính nàng thì chẳng còn thứ
ánh sáng nào để tự soi đường cho mình. Tuy nhiên nàng đi một cách dễ dàng tưởng
như đây là con đường quen thuộc của nàng.
Cả bọn không hề xác định được vị trí là họ hiện ở đâu. Gió lạnh
thì có thực, mùi nồng nặc phả lại thì có thực, bóng tối dày đặc hơn khoảng đồng
hồ nhiều. Mặt đường là một sự thật cụ thể làm tím bầm những bàn chân, và làm ngộp
thở vào những chỗ đá, đất vụn lăn xuống hai bên đường hầm. Đến như lối đi dựng
đứng và ngoằn ngoèo, vòng vo thì khỏi còn nói chuyện mơ mộng vào đâu nữa; khi
thì dốc thẳng xuống, khi thì hơi ngược lên; khi thì vươn ra hơi chung chúc, khi
thì muốn chừng như vòng vo quành lại khoảng ngay dưới tòa lâu đài mà bên trên hẳn
là Haggard còn đương nổi giận bên chiếc đồng hồ ngả nghiên và chiếc đầu lâu run
rẩy. Một công trình phù thủy, Schmendrick nghĩ vậy, và không một công trình phù
thủy nào sau hết lại thực cả. Ảo thuật gia nghĩ tiếp rằng dầu sao đường hầm này
cũng là công trình phù thủy sau chót. Kể ra mọi sự cũng đã thực lắm rồi.
Trong khi họ đi nghiêng ngả lật đật như vậy, ảo thuật gia kể
lướt cho Hoàng tử Lir nghe những đoạn đường phiêu lưu qua. Thoạt là chuyện của
chính ông và con đường định mệnh lạ lùng của ông; kế đó là chuyện gánh xiệc xụp
đổ, và ông ra đi với kỳ lân; rồi chuyện gặp Molly Grue để cả ba lại tiếp tục cuộc
hành trình; tới thành phố Hagsgate thì gặp Drinn nghe chuyện cả thành phố với
lâu đài cùng bị phù chú. Kể tới đây, ảo thuật gia ngưng lại, chưa kể tiếp đoạn
Con Bò Mộng Đỏ xuất hiện, chưa kể tiếp đoạn đêm đó tận cùng, may mắn hay bất hạnh,
bằng lời niệm chú và một cô gái trần truồng xuất hiện bỡ ngở, lúng túng với cơ
thể mình như con bò sa lầy. Ông ta hy vọng rằng hoàng tử chú tâm về sự đản sinh
lạ lùng của chàng hơn là nguồn gốc do lai của nàng Amalthea.
Hoàng tử Lir ngạc nhiên mà rằng, "Tôi cũng đã nghe nói từ
lâu rằng tôi không phải là con của Vua Haggard, nhưng vẫn gắng sức giữ tròn chữ
hiếu. Tôi là kẻ thù bất cộng đới thiên với bất kỳ kẻ nào âm mưu phản loạn, nên
ai bảo là tôi muốn lật đổ nhà vua thì chỉ là lời nói của một mụ già lẩm cẩm.
Còn về chuyện kia, tôi không tin rằng ngày nay còn kỳ lân và Vua Haggard cũng
chẳng bao giờ nhìn thấy con kỳ lân nào. Làm sao một người đã được nhìn kỳ lân
dù chỉ một lần - không thể hàng ngàn kỳ lân theo triều biển dập dìu - như Vua
Haggard mà lại suốt đời buồn thiu như vậy. Tôi sẽ ra sao nếu như tôi cũng một lần
được nhìn thấy kỳ lân, rồi sau đó không bao giờ được nhìn lại nữa." Tới
đây, hoàng tử ngừng lại hơi lúng túng, chàng cảm thấy như câu chuyện sắp tới một
điểm sầu hận nào đó. Molly có hữu ý nghiêng tai vừa tiến bước vừa lắng nghe câu
chuyện giữa hai người, nhưng nàng Amalthea có theo dõi câu chuyện hay không thì
không rõ.
"Tuy nhiên nhà vua có một niềm vui dấu diếm đâu đó trong
đời ông," Schmendrick nhận định rõ thêm. "Hoàng tử không hề nhận thấy
một dấu hiệu nào sao - không hề nhận thấy dấu hiệu đó xuất hiện ở đôi mắt vua
sao? Tôi đã nhận thấy đó. Suy nghĩ một lát đi, Hoàng tử Lir."
Hoàng tử yên lặng, và bọn họ đi ngoằn ngoèo trong khoảng bóng
tối nham nhở bao quanh. Họ không thể biết rõ rằng họ đương đi lên hay đương đi
xuống nữa, đôi khi không rõ cả có phải là đường đi vào khúc quanh không. Chẳng
hề có một tiếng động nhỏ của Con Bò Mộng Đỏ, nhưng khi Schmendrick sờ vào khuôn
mặt ẩm ướt của mình, thì mùi Con Bò Mộng Đò phát tiết ra tự những ngón tay đó.
Hoàng tử Lir nói, "Đôi khi nhà vua đứng lên tháp, khuôn
mặt ông như thoáng có một cái gì. Không phải là một tia sáng mà là một vẻ trong
sáng. Thuở đó tôi còn nhỏ, tôi nhớ không bao giờ nhà vua nhìn tôi hay nhìn bất
cứ cái gì khác bằng tia nhìn trong sáng đó. Và tôi mơ thấy." Hoàng tử lúc
này đi rất chậm, kéo lê bước chân tiếp, "Tôi thường mơ đi mơ lại thấy mình
đứng bên một cửa sổ khoảng nửa đêm và trông thấy
Con Bò Mộng, trông thấy Con Bò Mộng Đỏ." Chàng không nói
dứt lời.
"Trông thấy Con Bò Mộng Đỏ dồn đàn kỳ lân xuống biển,"
Schmendrick nói. "Đó không phải là giấc mơ Haggard đã bắt được hết kỳ lân,
giữ chúng trôi dạt theo triều biển, lấy thế làm niềm vui lớn, nhưng vẫn còn sót
một kỳ lân." Schmendrick hít mạnh hơi thở. "Đó là nàng
Amalthea."
"Đúng vậy," Hoàng tử Lir. "Đúng vậy, tôi biết."
Schmendrick nhìn chằm chằm vào hoàng tử, giận dữ hỏi,
"Hoàng tử bảo biết là nghĩa làm sao. Làm sao hoàng tử biết được nàng
Amalthea là kỳ lân? Nàng đâu có thể nói điều đó cho hoàng tử hay, vì chính nàng
cũng không tự nhớ điều đó kia mà. Từ ngày hoàng tử chiếm ngự trí tưởng tượng của
nàng, nàng chỉ nghĩ rằng mình là một người đàn bà trong cõi nhân thế có sống có
chết." Ông ta thừa biết rằng sự thực quanh co, nói một đàng phải hiểu một
nẻo, nhưng điều đó không sao với ông lúc đó. Ông nhắc lại câu hỏi, "Làm
sao hoàng tử bảo là biết?"
Hoàng tử Lir dừng bước quay lại nhìn ảo thuật gia. Khoảng đó
tối quá, Schmendrick chỉ nhận thấy ánh mắt mát dịu tỏa ra tự cái nhìn của hoàng
tử.
"Thì cũng mãi tới bây giờ tôi mới biết nàng là gì,"
hoàng tử nói. Nhưng ngay từ ngày gặp nàng lần đầu tiên tôi đã linh cảm rằng àng
là một thứ gì lạ lùng hơn điều tôi thấy. Bảo nàng là kỳ lân, ngư-mỹ-nhân,
ma-cà-rồng, hay gì gì đi nữa cũng không làm tôi ngạc nhiên, chẳng làm tôi sợ
hãi, tôi yêu người tôi yêu, thế thôi."
"Đó là một tình cảm đáng quý mến," Schmendrick nói.
"Nhưng khi tôi hóa cho nàng trở lại hình thể kỳ lân để nàng chiến đấu với
Con Bò Mộng Đỏ giải phóng cho đồng loại."
"Tôi yêu người tôi yêu." Hoàng tử Lir nhắc lại giọng
chắc nịch.
Trước khi, ảo thuật gia đáp thêm gì, nàng Amalthea đã đứng
nép vào giữa họ, tuy rằng không ai chú ý thấy nàng lùi lại lúc nào. Trong bóng
tối nàng le lói, run lên như nước gợn và nói, "Tôi không đi xa hơn nữa."
Câu đó nàng nói với hoàng tử, nhưng chính Schmendrick đáp lời
nàng, "Không có chọn lựa nào khác, chúng ta chỉ có thể tiến tới
thôi." Molly Grue tới gần hơn, vẻ nhìn lo lắng, nét mặt bứt rứt. Ảo thuật
gia nói tiếp, "Chúng ta chỉ có thể tiến tới thôi."
Nàng Amalthea không nhìn thẳng vào ảo thuật gia, nàng nói với
Hoàng tử Lir, "Ông ta đừng biến đổi em nữa. Chàng hãy giữ đừng để ông ta
niệm chú biến đổi em nữa. Con Bò Mộng không chú ý đến người - chúng ta có thể cứ
lặng lặng tiến qua, rồi đi xa nó. Con Bò Mộng chỉ truy lùng kỳ lân thôi. Xin
chàng hãy bảo ông ta đừng biến em trở lại thành kỳ lân."
Hoàng tử Lir bẻ khục những ngón tay. Schmendrick nói,
"Điều đó đúng. Chúng ta có thể thoát Con Bò Mộng Đỏ ngay bây giờ, như trước
đây bọn tôi đã thoát nó. Nhưng như vậy là chúng ta sẽ vĩnh viễn không bao giờ
còn dịp may nào khác nữa. Như thế là tất cả những kỳ lân trên thế gian này sẽ
vĩnh viễn bị Con
Bò Mộng Đỏ cầm tù nơi đây, trừ một kỳ lân thoát nạn, nhưng kỳ
lân này sẽ chết đi. Nàng sẽ già, sẽ chết."
"Vạn vật đều có ngày tận số," nàng vẫn nói với
Hoàng tử Lir. "Vạn vật đều có ngày chết, đó là điều tốt chứ sao. Em muốn
chết theo khi chàng chết. Đừng để ông ta phù chú em, đừng để ông ta biến em trở
lại thành bất tử. Em không là kỳ lân, không là sinh vật kỳ diệu. Em là người.
Em yêu chàng."
Chàng trả lời nàng giọng êm ả, "Tôi không được rõ nhiều
về bùa chú, chỉ biết cách phá bùa chú thôi. Nhưng có điều chắc chắn dù có là
phù thủy đại tài đến mấy cũng bất lực trước hai kẻ đã cương quyết gắn bó gìn giữ
lấy nhau - huống chi đây lại chỉ là... Schmendrick. Nàng là của tôi rồi. Tôi phải
gìn giữ lấy nàng."
Sau cùng, nàng quay lại nhìn ảo thuật gia; dù trong bóng tối,
còn nhận thấy vẻ hãi hùng trong đôi mắt nàng. "Không," nàng nói.
"Không, hai ta không đủ mạnh đâu. Ông ta nhất định sẽ biến hóa em, và sau
đó chúng ta sẽ vĩnh viễn mất nhau. Em sẽ không yêu chàng nữa khi em là kỳ lân,
và chàng vẫn tiếp tục yêu em vì thế chẳng đặng đừng. Em sẽ đẹp hơn bất kỳ một vật
gì trên thế gian, và sẽ sống trường cửu."
Schmendrick bắt đầu nói, nhưng tiếng ông thốt ra làm nàng sợ
rúm người lại, "Tôi chưa có cái đó. Tôi chưa có cái đó mà." Nàng hết
nhìn hoàng tử lại nhìn ảo thuật gia giọng nói như mơn man vết thương,
"Khi ông ta biến đổi em sẽ để cho Con Bò Mộng Đỏ dồn xuống
biển với những kỳ lân khác. Như vậy ít ra em cũng được ở gần chàng."
Tất cả những điều đó chẳng cần thiết đâu." Schmendrick
nói nhẹ nhàng khiến chính ông phải tự bật cười. "Tôi ngờ rằng tôi chẳng
khiến nàng trở lại kỳ lân được đâu, dù nàng có muốn vậy. Ngay như thầy tôi xưa,
Nikos đại nhân cũng chưa bao giờ biến người thành kỳ lân - và nàng bây giờ thật
sự thành người rồi. Nàng có thể yêu, có thể sợ hãi, có thể cấm việc này, ngăn
việc nọ, và còn hơn thế nữa. Hãy để chuyện đó kết thúc ở đây. Hãy đê cuộc tìm
kiếm kết thúc nơi đây. Liệu thế giới có tồi tệ hơn khi mất hế kỳ lân không, và
liệu thế giới có thật khá hơn nếu tất cả những kỳ lân bị cầm tù kia được giải
phóng? Thêm một người đàn bà hiền thục ở cõi đời này cũng là tương xứng với một
kỳ lân mất đi. Thôi xin kết thúc nơi đây, nàng hãy cưới hoàng tử và sống sung
sướng với nhau mãi mãi."
Đường đi trở nên sáng dần, và Schmendrick tưởng tượng như Con
Bò Mộng Đỏ đương lén tới, rất thận trọng rồi bất thần nhảy xổ tới vồ thật chính
xác. Ánh gò má của Molly Grue không còn, vì nàng đã quay đi. Nàng Amalthea nói,
"Đúng vậy, ước vọng của tôi quả đúng như vậy."
Nhưng cùng lúc đó, Hoàng tử Lir thốt, "Không được."
Lời nói tự động buột khỏi miệng chàng như khi người ta hắt
hơi vậy. Đúng lúc vấn đề nguy hiểm được đặt lên giữa đường tơ kẽ tóc, giọng
chàng khi đó là giọng một chàng trai đần độn chợt lúng túng muôn vàn bởi một tặng
vật vừa vĩ đại vừa nguy hiểm. "Không được," chàng nhắc lại, lần này
tiếng nói của chàng vang lên rền rĩ, tiếng của một đấng quân vương nặng lòng sầu
hận, không phải ở điều mình ao ước mà không có, mà là ở điều mình muốn hiến tặng
mà làm sao có.
"Hỡi công nương của tôi" chàng nói. "Tôi là một
anh hùng. Đó là một nghề không hơn không kém như dệt vải, như nấu rượu. Và cũng
như mọi nghề; nó có xảo thuật của nó, phải khổ công luyện tập, và biết đường lối
thích nghi. Có cách nhận ra phù thủy và dòng nước độc có cách nhận biết tử điểm
của con rồng để hạ thủ nó một cách dễ dàng. Nhưng bí quyết đích thực của người
anh hùng là biết đến trật tự của sự việc. Anh chàng chăn chiên không thể chân ướt
chân ráo vừa vào chuyện đã cưới ngay được nàng công chúa, người dì ghẻ hiểm độc
chưa thể bị khinh miệt, trừng phạt khi chưa hề phạm một tội ác nào. Việc nào việc
nấy phải được xảy ra đúng lúc. Sự tìm kiếm không thể bán đồ nhi phế, lời tiên
tri không thể bỏ mặc đấy như thể bỏ mặc trái rơi cho thối nát đi; những kỳ lân
có thể bị mắc nạn nhưng không thể bị giam hãm vĩnh viễn như vậy. Kết thúc có hậu
không thể đặt ngang xương vào giữa chừng câu chuyện được."
Nàng Amalthea không nói gì, nhưng Schmendrick lên tiếng,
"Sao không? Ai bảo vậy?"
"Những người anh hùng bảo vậy," Hoàng tử Lir rầu rĩ
trả lời. "Những người anh hùng am hiểu trật tự câu chuyện, những người anh
hùng biết rõ điều này hơn điều kia, cũng như những người thợ mộc biết rõ mặt gỗ."
Chàng giơ tay ra, tiến thêm một bước về nàng Amalthea. Nàng không lùi, trái lại
ngẩng cao đầu lên, chính hoàng tử phải nhìn lảng về phía khác.
"Nàng đã dạy cho tôi biết nhiều," chàng nói.
"Không bao giờ nhìn nàng mà tôi không cảm thấy nức lòng về những ngọt bùi
của một thế giới hòa thuận, và những sầu khổ phải chịu đựng trong một thế giới
ung rữa. Tôi đã trở thành anh hùng để phục vụ nàng, hay phục vụ những gì giống
nàng. Và cũng để tìm ra đường lối khởi sự một cuộc đàm thoại." Nhưng nàng
Amalthea không nói với chàng một lời nào cả.
Một thứ ánh sáng trắng bệch tràn vào con đường hầm khiến mọi
người nhìn rõ được nhau, khuôn mặt người nào người nấy trắng bệch như sáp và đượm
vẻ sợ hãi. Kể cả vẻ đẹp của nàng Amalthea cũng bị dìm cho phai mờ đi dưới thứ
ánh sáng ngu đần, đói khát này.
"Con Bò Mộng đã tới," Hoàng tử Lir nói. Chàng quay
lại và bước theo triền dốc đường hầm, dáng lẫm liệt đặc biệt của một vị anh
hùng. Nàng Amalthea bước theo chàng, dáng đi thanh thoát và cao quý, đúng phong
độ của những nàng công chúa. Molly Grue đứng sát bên ảo thuật gia, nắm tay ảo
thuật gia như thể nàng vẫn đặt tay lên lân mỗi khi nàng cảm thấy cô đơn. Ảo thuật
gia cúi xuống mỉm cười với nàng, và có vẻ tự bằng lòng lắm.
Molly nói, "Hãy để nàng theo con đường của nàng. Hãy để
nàng như vậy."
"Hãy nói điều đó với Lir," ông ta đáp lời một cách
vui vẻ. "Phải chăng tôi là kẻ đã nói rằng nàng nên đứng ra đương đầu với
Con Bò Mộng Đỏ, bởi vì đó là con đường đúng đắn và thích hợp nhất? Tôi không cần
bận tâm đến việc bố trí cứu cấp cho đúng lúc, kết thúc có hậu theo đúng thường
lệ. Đó là việc của Lir."
"Nhưng ông bạn đã khiến hoàng tử hành động như vậy,"
Molly nói. "Ông bạn thừa biết điều chàng ao ước nhất đời là thấy nàng từ bỏ
cuộc tìm kiếm kia để ở lại với chàng. Lẽ ra chàng lấy đó làm toại nguyện, thì
chính ông bạn đã xui khiến, nhắc nhỏ rằng chàng vốn là anh hùng, và bây giờ
chàng đành phải hành động như những anh hùng. Chàng yêu nàng, và ông bạn đã gài
bẫy chàng."
"Tôi, không bao giờ, Schmendrick nói, "Bà bạn hãy
bình tĩnh, chàng có thể nghe thấy lời bà bạn nói." Molly cũng cảm thấy tâm
trí nhẹ bồng, muốn phát khùng vì Con Bò Mộng đến gần. Ánh sáng và mùi của nó
phát ra giờ đây như một vùng biển quánh đặc trong đó nàng dãy dụa một cách tuyệt
vọng như những kỳ lân bất tử kia. Đường bắt đầu dốc nghiêng về phía trước đi
vào vùng ánh sáng sâu thăm thẳm; xa hơn nữa Hoàng tử Lir và nàng Amalthea tiếp
tục đi tới tai họa bình tĩnh như cây nến tự thiêu lụi dần. Molly Grue tủm tỉm
cười thầm.
Nàng tiếp tục, "Tôi biết điều đó cũng lại ông bạn đầu
têu nốt. Ông bạn không thể trở thành thế nhân có sống có chết, trừ phi ông bạn
nhớ được lời thần chú khiến nàng trở lại kỳ lân. Phải thế không? Ông bạn cóc cần
điều gì sẽ xảy đến cho nàng, hay cho người khác, cho đến khi ông bạn trở thành
một ảo thuật gia thứ thiệt đâu, dù ông bạn có hóa được Con Bò Mộng thành con ễnh
ương, vì đó chỉ là thủ thuật. Hình như ông bạn không chú trọng cái gì ngoài ảo
thuật, như vậy cũng đủ xếp hạng ông bạn rồi phải không? Schmendrick, tôi cảm thấy
choáng váng, tôi phải ngồi lại đây mất."
Schmendrick phải dìu nàng đi một quãng, vì nàng cương quyết
không chịu bước. Đôi mắt xanh của ảo thuật gia cứ như rung chuông trong đầu
nàng. "Đúng vậy, tôi chẳng chú trọng gì ngoài ảo thuật. Tôi muốn tập hợp tất
cả những kỳ lân trên thế giới, như Haggard vậy, để may ra điều đó nâng tài ảo
thuật của tôi cao thêm một phân nửa sợi tóc. Điều đó đúng. Tôi không được ngay
thẳng cho lắm. Tôi chỉ thích ảo thuật." Giọng ông khắc khổ và rầu rĩ.
"Có thật thế không?" Molly hỏi, vẫn lảo đảo trong nỗi
lo sợ của nàng, và ngắm ánh sáng bập bềnh ngay bên. "Điều đó thật đáng ghê
sợ," giọng nàng cực kỳ hốt hoảng. "Có thật ông bạn thích như vậy
không?"
"Không," ảo thuật gia đáp ngay, hay chỉ chậm một
chút xíu. "Không, điều đó không đúng đâu. Làm sao tôi có thể thế được
trong khi chính tôi còn nhiều hệ lụy nhường kia, như bà bạn thấy đấy. Nhưng mà
này, bà bạn phải đi đi thôi. Nó kia kìa. Nó kia kìa."
Molly nhận ra đôi sừng của nó trước. Nàng thoạt phải che mặt,
nhưng đôi sừng lợt lạt của nó vẫn xuyên qua tay, qua mi mắt, qua tâm trí nàng.
Hoàng tử Lir và nàng Amalthea cùng đứng hiên ngang trước đôi sừng, trong khi lửa
tràn lan trên thành tường và vút lên cao trong bóng tối vô tận. Hoàng tử Lir đã
rút gươm, nhưng lửa nóng làm chàng phải buông tay và gươm rơi xuống vỡ tan như
khối băng. Con Bò Mộng Đỏ dậm chân, và tất cả mọi người đều ngã xuống.
Schmendrick đã tưởng Con Bò Mộng sẽ nằm đợi nơi sào huyệt của
nó, hay ít ra cũng ở một khoảng trống nào để còn có chỗ giao đấu. Ai dè nó lại
đứng chặn ngang lối đi như thế kia; và giờ đây thì không những nó xuất hiện án
ngữ trước mặt mọi người, mà như còn thể nhập vào hai bên tường hầm, rồi cứ thế
cao vút lên mãi. Tuy nhiên vẫn chưa có chuyện gì lạ xảy ra, nó vẫn chỉ là Con
Bò Mộng Đỏ đứng lặng phun phì phì, thở phì phì, và lúc lắc cái đầu mù lòa. Hàm
nó chẹo chọ gầm lên rền rĩ kinh hồn.
Nào. Bây giờ đã đến lúc rồi đây, dù điều ta làm mang lại đại
họa hay đại hồng phúc. Đã đến lúc phải kết thúc công việc. Ảo thuật gia từ
từ đứng lên, coi Con Bò Mộng như không có đấy, ông chỉ lắng đợi được nghe lời
vang vọng tự chính bản ngã ông bốc lên. Nhưng ông không thấy một mãnh lực nào
thức giấc trong ông; ông không nghe thấy gì ngoài tiếng gầm trống vắng như đập
vào màng tai ông. Pháp thuật không tới với ta. Ôi, thầy ta, Nikos đại nhân
đã lầm. Ta vẫn chỉ là thằng ta tầm thường.
Nàng Amalthea đã lùi lại một bước, nhưng chỉ thế thôi, nàng
điềm tĩnh nhìn Con Bò Mộng Đỏ, trong khi chân trước của nó bám chặt xuống mặt
đường, đôi lỗ mũi mênh mông của nó phun thành những cơn lốc mù mịt. Nó có vẻ bối
rối, muốn phát khùng vì nàng, không gầm thêm một tiếng nào nữa. Nàng Amalthea đứng
trong vùng ánh sáng giá lạnh, đầu hơi ngửa về phía sau để nhìn được toàn thể
nó. Không ngoái nhìn sang bên, nàng chỉ lẳng lặng đưa tay ra tìm tay Hoàng tử
Lir.
Tốt, tốt. Ta chẳng làm được cái gì cả, đành cam chịu vậy. Con
Bò Mộng Đỏ sẽ để cho nàng qua, nàng sẽ ra đi với Hoàng tử Lir. Thế cũng được chứ
sao. Ta chỉ ân hận cho đám kỳ lân bị cầm tù dưới biển. Hoàng tử vẫn chưa
nhận ra bàn tay trao gửi của nàng, nhưng trong một lúc chàng coi bộ muốn quay
nhìn sang bên, muốn đặt tay lên nàng lần đầu tiên. Chàng không hề biết bàn
tay nàng đã trao cho chàng, cả nàng cũng không hay điều đó nữa. Con Bò Mộng
Đỏ cúi đầu xuống và xông tới tấn công.
Nó xông tới thật bất ngờ, không có tiếng động, chỉ có dáng lướt
của bốn vó, và thực sự nếu nó muốn, nó có thể dẫm nát cả bốn người trong lần tấn
công dữ dội chớp nhoáng đó. Nhưng nó để cho mọi người kịp tản nép vào thành hầm,
không hề làm ai thương tích cả. Mềm như lửa nó uốn mình quay lại ngay cả nơi
không đủ chỗ để quay mình, và nó lại đối diện với tất cả mọi người. Mõm nó kề mặt
đất, cổ nó như sóng gợn, ấy là lúc nó gầm lên.
Mọi người chạy lên, nó theo riết, không vũ bão như lúc khởi sự
tấn công, nhưng đủ nhanh để giữ cho mọi người cách biệt hẳn nhau, vô phương
nương tựa vào nhau trong bóng tối hoang dại. Mặt đất nứt nẻ dưới chân nó, và mọi
người hét lên kinh hoàng, nhưng họ cũng không thể nghe thấy tiếng kêu của họ nữa.
Mỗi tiếng gầm của Con Bò Mộng Đỏ là đất đá lại đổ xuống rầm rầm, họ càng phải
bò miết như những con bọ bị đứt đoạn. Nó vẫn bám sát lấy mọi người. Qua tiếng rống
man rợ của nó, họ nghe thấy một thứ tiếng khác nữa, tiếng rên rỉ của tòa lâu
đài bị rung chuyển tận góc rễ, và đã thoang thoảng đâu đây mùi biển.
Nó biết. Nó biết rồi. Ta chỉ đánh lừa nó được một lần thôi. Lần
này thì dù là đàn bà, hay kỳ lân nó cũng dồn xuống biển như đã nhận được lệnh,
ta thì không có một pháp thuật gì khiến nó lãng ý. Haggard đã thắng cuộc.
Ảo thuật gia vừa chạy vừa nghĩ vậy, mọi hy vọng đều tan biến.
Đường bỗng rộng hẳn, mọi người cũng thấy mình đi vào một khoảng hang động, chắc
chắn là sào huyệt của Con Bò Mộng Đỏ này. Mùi hôi thối ở đây dầy đặc và lâu đời
đến nỗi đã biến thành một thứ hương vị dịu ngọt nhưng không kém phần gớm ghiếc.
Hầm một màu đỏ lòm như thể ánh sáng của nó đã bào nạo mặt tường rồi lắng đọng
thành cặn trong các khe kẽ. Kế tiếp lại một quãng đường hầm nữa rồi tới khoảng
có ánh nước mờ mờ tan vỡ.
Nàng Amalthea ngã xuống, không gượng lên được, như một bóng
hoa tàn. Schmendrick nhảy sang một bên, cố kéo theo Molly Grue với ông. Họ gặp
phải một phiến đá, nơi đây họ nép mình sát lại với nhau, Con Bò Mộng Đỏ gầm
thét ngay đấy mà không quay đầu. Nó cũng vừa ngừng lại giữa hai nhịp bước, đứng
im lìm. Chỉ còn nghe thấy nhịp thở của nó và tiếng sóng biển xa.
Nàng nằm nghiêng chân co chân ruỗi bên dưới. Nàng lết chậm,
không một tiếng động. Hoàng tử Lir đứng giữa nàng và Con Bò Mộng, chàng không
còn khí giới nhưng hai tay vẫn giơ cao như thể còn gươm và mộc. Lại một lần nữa,
trong quãng đêm trường bất tận đó, hoàng tử nói, "Không thể thế dược."
Trông chàng như điên như dại, gần như sắp bị dẫm nát. Con Bò
Mộng Đỏ không trông thấy chàng được, và có thể dẫm chết mà không biết có chàng
đứng ngáng lối đi bên dưới. Lạ lùng kinh ngạc, và tình yêu, và sầu hận ngút
ngàn lay động đến tận cỗi rễ tâm hồn ảo thuật gia lúc đó, tất cả những tình cảm
đó ùa tới cùng một lúc tràn ngập, tràn ngập tâm hồn ông cho đến khi chính ông cảm
thấy bềnh bồng trong một cái gì mênh mông mờ ảo khác hẳn những thứ đó. Ông
không tin nó, nhưng nó cứ đến với ông như đã từng đến với ông hai lần trước
đây, rồi sau đó lại bỏ ông hoàn toàn trống rỗng như thể nó chưa bao giờ tới. Đặc
biệt lần này nó tới đầy rẫy thịt da, nó tới tràn ngập lòng tay, hố mắt, nó tới
dư thừa từ bờ vai tới chân tóc, quờ đâu cũng thấy, sờ đâu cũng thấy, không còn
lo tái diễn cảnh mất hết không còn, ra đi không lại; ông thấy mình đã khóc tự
bao giờ, ông nghĩ, hay nói, hay hát, Ta đâu có biết phải rỗng như vậy để đầy
như vậy.
Nàng Amalthea nằm nguyên chỗ nàng bị ngã. Nàng đã cố gượng dậy
mà không được, Hoàng tử Lir vẫn còn đứng đó để bảo vệ nàng, giơ cao đôi bàn tay
không, chống khối hung hãn khổng lồ đương muốn đè bẹp chàng. Đầu lưỡi nhọn của
chàng thè ra dính vào một bên mép trông nghiêm trọng như một đứa trẻ vừa lấy một
cái gì để riêng ra cho mình. Nhiều năm về sau này, khi danh tiếng của
Schmendrick đã át cả danh tiếng Nikos tiên sinh, ông cũng không bao giờ thực hiện
được một pháp thuật nhỏ nào, nếu không nhớ lại hình ảnh của Hoàng tử Lir lúc đó
đôi mắt lé ngược lên vì ánh sáng và lưỡi thè ra ngoài.
Con Bò Mộng Đỏ dậm chân lần nữa, Hoàng tử ngã sấp, khi chàng
đứng lên mặt nhễ nhại máu. Cùng với tiếng gầm vang rên, cái đầu mù lòa, và béo
bệu của nó hục hặc cúi xuống trông như cán cân định mệnh nghiêng lệch. Hoàng tử
đứng hiên ngang cheo leo vào khoảng giữa hai sừng của nó, bảo là chàng có thể bị
xuyên thủng cũng được, bảo là chàng có thể bị banh cho tan xác cũng đúng, miệng
hoàng tử hơi mím lại, nhưng chàng không hề cử động. Tiếng gầm của Con Bò Mộng
càng rùng rợn khi nó cúi thấp sừng xuống.
Vừa lúc đó Schmendrick bước vào khoảng trống và đọc lên vài lời.
Đó là những lời ngắn gọn khó phân biệt. Chính Schmendrick cũng không nghe rõi,
chúng bị chìm trong tiếng gầm khủng khiếp của Con Bò Mộng. Tuy nhiên ông hiểu
thấu đáo ý nghĩa của những lời đó. Bây giờ thì ông hiểu rõ cách phải đọc chúng
ra sao, và còn thấy trước rằng ông có thể sử dụng chúng bất kỳ lúc nào, đọc
chúng lên luôn luôn trúng cách tùy nơi tùy lúc, vẫn giống nhau mà vẫn khác
nhau, thật đơn giản mà cũng thật phức tạp. Trong khi ông đọc chúng lên một cách
nhuần nhã vui tươi, ông cảm thấy tấm áo giáp hay đúng hơn tấm vải liệm bất tử tự
động rơi xuống giải phóng cho ông.
Khi vừa đọc xong lời chú thứ nhất, nàng Amalthea thốt lên một
tiếng kêu nhỏ, đắng cay. Nàng cố vươn tới Hoàng tử Lir; chàng vẫn quay lưng lại
đứng ở thế che chở cho nàng, không nghe thấy gì. Molly cảm thấy nhói buốt trong
tim, bám chặt lấy tay Schmendrick, trong khi ảo thuật gia tiếp tục đọc. Phép lạ
bừng nở, màu trắng như bọt biển, một vẻ đẹp không bờ bến tương đương với mãnh lực
không bến bờ của Con Bò Mộng - nàng Amalthea còn bám lấy hình hài nhân thế một
phút nữa, nhưng nàng thực đã không còn đấy nữa, khuôn mặt nàng chỉ lơ lửng đó
như hơi thở lơ lửng trong bầu ánh sáng mờ đục và lạnh.
Giá như Hoàng tử Lir đứng quay lại cho đến khi nàng đi rồi
thì hay, nhưng chàng đã quay lại. Chàng thấy một kỳ lân, ánh sáng kỳ lân chiếu
rọi lên chàng như chiếu vào một tấm gương, nhưng chàng lại cất tiếng gọi hình
bóng phảng phất còn lại của nàng Amalthea. Tiếng chàng gọi tưng bừng đã xóa
nhòa hình bóng cũ đó, nàng Amalthea hoàn toàn biến hẳn.
Mọi việc xảy ra vừa nhanh lại vừa chậm như trong một giấc mộng.
Lân đứng lặng đó ngỡ ngàng nhìn lại mấy người. Lân đẹp còn hơn lân xưa trong
trí nhớ của Schmendrick nữa, vì thực ra không ai giữ lâu được hình ảnh lân
trong trí bao giờ. Song le lân giờ đây không phải là lân thuở xưa, và chính
Schmendrick vẫn còn như xưa. Molly Grue tiến lại với lân nói liên hồi, lân
không tỏ vẻ gì là hiểu cả. Sừng lân vẫn còn mờ mờ như trong mưa.
Với một tiếng gầm vàng rội đập vào các vách hầm bốn bề nứt rạn,
muốn xụp xuống như tấm lều gánh xiệc, Con Bò Mộng Đỏ khởi sự tấn công đợt hai.
Lân vụt thoát khỏi hầm, bay biến vào bóng tối. Hoàng tử Lir, khi quay lại đã đứng
né sang một bên, nhưng chưa kịp lùi né thêm bước nữa Con Bò Mộng Đỏ đã lao mình
đuổi theo lân, đạp chàng ngã xuống, miệng nó há ngoác ra húc vào đầu chàng.
Molly muốn tiến tới với hoàng tử, nhưng Schmendrick đã kéo
nàng theo hút Con Bò Mộng Đỏ và lân. Không trông thấy gì, chỉ nghe thấy những
bước chân rượt đuổi vang ầm đầy ắp khu hầm. Choáng váng, ngẩn ngơ, Molly lật đật
bước theo người bạn dũng mãnh lạ lùng, ông ta không để nàng ngã nhưng cũng
không để nàng chùn chân. Trên đầu nàng luôn luôn nghe rõ tiếng tòa lâu đài rung
chuyển, đu đưa theo nhịp động đất như một cái răng lung lay. Lời ca của mụ phù
thủy vang vang trong trí nhớ nàng:
Duy nhật, một người dân Hagsgate
Làm cho tan nát lâu đài kia.
Chợt cát lún dưới chân họ, mà mùi biển chan hòa, không khí
mát lạnh, trong lành, thân ái đến nỗi cả hai cùng dừng lại và cất tiếng cả cười.
Phía bên trên hai người, lâu đài của Vua Haggard nghiêng nghiêng trên bờ đá dốc,
nổi bật trên vòm trời xám xanh buổi sớm, đây đó một vài đám mây màu trắng sữa.
Molly biết chắc là thế nào Vua Haggard cũng đương đứng tại một tòa tháp nào đó
chăm chú theo dõi họ, mà nàng không nhìn thấy. Một vài ngôi sao còn trôi nổi
kia trong khoảng trời xanh mờ sát mặt biển. Thủy triều đã rút xuống, bãi biển
trần trụi, ẩm ướt, lấp lánh màu sò hến, nhưng mặt biển xa thì vồng lên hình
cánh cung. Molly biết là nước triều đã rút đến hết cỡ.
Lân và Con Bò Mộng Đỏ đứng đối diện nhau, lân quay lưng về
phía biển. Con Bò Mộng tiến lên từ từ, không tấn công không đụng tới lân nhưng
rõ ràng cố ép lân lùi về biển. Lân không chống cự, sừng đen tối, đầu cúi xuống.
Con Bò Mộng Đỏ hoàn toàn ở thế chủ động, y như ngày nào trên cánh đồng của
Hagsgate, trước lúc lân biến thành nàng Amalthea. Cũng vào khoảng rạng đông tuyệt
vọng như thế này, chỉ có điểm khác là ngay trên bờ biển.
Nhưng lân chưa bị bại hẳn, lân lùi cho đến khi hai chân sau
chạm phải biển. Tới đó lân sực tỉnh vọt nhảy xuyên qua Con Bò Mộng như qua một
ngọn lửa cháy âm ỉ, rồi chạy dọc theo bờ biển; lẹ như tia chớp, cuốn theo hút
gió, cát tung lên vun vút. Con Bò Mộng đuổi theo liền.
"Hãy làm một cái gì," giọng Molly nói với
Schmendrick bao giờ cũng lạc đ trong trường hợp như vậy. Hoàng tử Lir đã tới đứng
sau họ. Trông chàng giống Vua Haggard. "Hãy làm một cái gì đi," chàng
nói "Ông đã là một cao thủ rồi đó khi biến nàng trở lại thành kỳ lân như vậy
- ông hãy làm một cái gì để cứu nàng, bằng không tôi sẽ giết ông." Chàng
giơ cao hai bàn tay trước ảo thuật gia.
"Tôi không thể làm được," giọng Schmendrick cực kỳ
bình tĩnh. Pháp thuật của cả thế giới cũng chẳng thể giúp gì cho nàng vào lúc
này. Nếu nàng không muốn chống cự lại Con Bò Mộng, thì nàng sẽ xuống biển với tất
cả đồng loại dưới đó. Pháp thuật hay giết người cũng chẳng thể giúp nàng được
gì hơn."
Molly nghe từng đợt sóng nhỏ táp lên cát, triều đã bắt đầu
lên. Nàng không hề thấy những kỳ lân nhào lộn trên sóng, tuy thâm tâm nàng có ý
tìm và mong là có. Nếu chẳng may quá chậm mất rồi thì sao? Nếu chẳng may những
kỳ lân đó đã bị đợt triều vừa rồi đẩy ra mãi tận một vùng biển nào thật sau và
thật xa, nơi mà không bao giờ có thuyền bè qua lại, nơi có những rồng biển, rắn
biển xuất hiện, hoặc cả một rừng rong biển kết hợp lại trôi nổi bình bồng, vào
đó là vào tử lộ. Phải, nếu tất cả những kỳ lân đều đã bị dồn cả về nơi đó thì
sao? Nàng sẽ không tìm thấy đồng loại, biết rằng nàng có chịu ở lại với ta?
"Vậy thì pháp thuật dùng để làm gì?" Hoàng tử Lir hỏi
một cách hung hãn. "Vâng, thưa ngài, phù thủy mà làm gì nếu không cứu được
kỳ lân." Chàng phải nắm chặt lấy vai ảo thuật gia để khỏi ngã xuống.
Schmendrick không quay đầu lại, bằng một giọng thoáng đượm
chút hài hước, ông nói, "Điều đó dành cho những vị anh hùng."
Bọn họ không trông thấy lân đâu vì bóng dáng Con Bò Mộng Đỏ
to lớn quá; nhưng bỗng nhiên lân từ xa ngược đường Con Bò Mộng mà chạy vút lại
phía họ. Mù lòa nhưng cũng kiên nhẫn như biển, Con Bò Mộng Đỏ vội quay lại đuổi
theo, móng chân nó đào sâu xuống thành những hố lớn trên bãi cát ướt. Khói và lửa,
nước bắn tung tóe và cuồng phong tung hoành, chưa phân thắng bại. Hoàng tử Lir
nghe chừng hiểu ý.
"Vâng, đúng vậy," chàng nói. "Công việc đó quả
dành riêng cho những anh hùng. Thật ra phù thủy thì cũng được, nhưng anh hùng mới
thực là sinh ra để chết cho kỳ lân." Chàng buông vai Schmendrick và tự mỉm
cười với mình.
"Cách lý luận của hoàng tử lầm lạc ngay từ căn bản,"
giọng Schmendrick nói đượm vẻ bực dọc, nhưng hoàng tử không màng nghe tới. Lân
vút qua sát bên họ - hơi thở của lân phơi phới một màu trắng xanh, đầu ngửng
cao - hoàng tử Lir chạy theo đường của Con Bò Mộng chạy đè lên chàng, để lại
chàng nằm sõng soài trên đất phía sau, một bên mặt vùi sâu xuống cát, một cẳng
chân đá lên trời ba lần rồi ngừng.
Chàng ngã xuống không một tiếng kêu, nhưng lân thì quay lại.
Con Bò Mộng Đỏ cũng ngừng khi lân ngừng, chỉ đứng ở thế uy hiếp, cố tình dồn
lân xuống biển. Nó bắt đầu đu đưa thân hình và tiến lên như một con chim gù
mái. Lân vẫn bất động, chăm chú nhìn vào thân hình quằn quại của Hoàng tử Lir.
Bây giờ thì tiếng triều dâng đã rầm rộ. Sóng bạc đầu rồn rập
xô tới cùng ánh bình minh rạng dần, nhưng Molly vẫn chẳng nhận thấy một kỳ lân
nào khác ngoài lân của nàng. Trên đỉnh lâu đài, màu trời đỏ tía, và trên một đỉnh
tháp cao nhất, Haggard đứng đó nổi bật rõ như một cây mùa đông. Molly có thể
trông thấy rõ vết sẹo thẳng bên miệng ông ta, thấy rõ cả những móng tay của ông
thẫm màu đi vì đã tì quá mạnh lên bờ thành thấp. Nhưng tòa lâu đài chưa thể sụp
đổ được vào lúc đó. Chỉ có Lir mới khiến được chuyện đó.
Chợt nhiên lân thét lên một tiếng, không phải là tiếng thét
thách thức của lân lúc đầu khi gặp Con Bò Mộng Đỏ, đúng hơn đó chính là tiếng
rên la nức nở, tiếng kêu thương sầu hận, không một linh vật bất tử nào lại kêu
như thế cả. Cả tòa lâu đài rung lên, và vua Haggard ngật người về phía sau một
cánh tay che ngang mặt. Con Bò Mộng Đỏ lê chân trên cát, cúi xuống, nghi ngại,
bỡ ngỡ.
Lân kêu lên một tiếng nữa, thoạt lùi lại như một nét gươm
cong. Vẻ uyển chuyển đẹp của lân làm Molly khép mi lại, khi nàng mở ra vừa lúc
chứng kiến cảnh lân nhảy xổ vào Con Bò Mộng Đỏ khiến nó phải né mình đổi hướng.
Sừng lân rực sáng rỡ ràng và rung động như cánh bướm.
Lân tiếp tục tấn công, và Con Bò Mộng tiếp tục lùi bước tuy bối
rối nhưng vẫn lẹ như cá quẫy dưới nước. Ánh sáng sừng Con Bò Mộng luôn luôn như
tia chớp, đầu đảo thật lẹ làm lân tuy tấn công mà phải loạng choạng, nhưng nó vẫn
lùi bước... lùi bước xuống phía biển như lân trước đây. Lân cứ lao tới, lao thẳng
tới bám sát lấy nó, muốn giết cho chết tốt ngay đó, nhưng nó luôn luôn lùi kịp.
Lân như lao theo một cái bóng, lao theo một tưởng niệm nào.
Con Bò Mộng Đỏ cứ thế mà lùi miết, không hề một lần giao đấu
cho đến khi lân dồn nó đến sát mức nước biển. Tới đó, nó đứng thẳng lên, sóng
biển vừa ùa tới xoáy cuộn lênh láng, quấn quít lấy chân nó, lúc rút đi cuốn
theo từng đụn cát. Nó không đấu nhưng cũng không chạy trốn, và tới lúc đó thì
lân hiểu rằng không bao giờ có thể hủy diệt được nó. Tuy nhiên lân vẫn đứng ở
thế chuẩn bị tấn công lần nữa, trong khi Con Bò Mộng như hầm hè trong cổ họng
điều gì ngạc nhiên lắm, bỡ ngỡ lắm.
Với Molly Grue thì thế giới như ngưng đọng hẳn lại, bất động
trong những giây phút băng giá đó. Cứ như thể là nàng đương đứng trên một tòa
tháp còn cao hơn tòa tháp Vua Haggard đương đứng nữa, và nhìn xuống để thấy
trên một khoảng bãi biển xám có hình một người đàn ông và một người đàn bà nhỏ,
đồ chơi trẻ con, đặt cho đứng ngắm bằng đôi mắt gắn bó về phía Con Bò Mộng bằng
đất thó và con kỳ lân xinh xẻo bằng ngà. Lại còn một con búp bê bị chôn một nửa,
và một tòa lâu đài bằng cát trên đó gắn một ông vua đứng trên một tòa tháp
nghiêng. Triều biển có thể ùa tới xóa tất cả phối cảnh trò chơi đó, để chỉ còn
lại đàn chim biển vỗ cánh phành phạch, nhảy thành vòng tròn trên bãi cát.
Vùa lúc đó Schmendrick lắc mạnh cánh tay nàng, nói,
"Molly." Tự tít ngoài xa, những vành sóng cong đương ùa tới, đó là những
vành sóng lớn chập chùng ngọn trắng mình xanh tung tóe tan thành bụi nước khi
va vào những đụn cát hay những mỏm đá, lao miết lên bãi cát thành tiếng sèo sèo
như lửa cháy. Lũ chim xáo xác bốc lên từng đàn, tiếng kêu hốt hoảng the thé của
chúng mất hút trong tiếng sóng vang ầm như rừng thông nổi gió.
Và trong màu trắng xóa, giữa màu trắng xóa của khoảng nước vỡ
lênh láng, có cơ man nào là những thân hình uốn cong giữa những đường dọc trũng
màu cẩm thạch của sóng nước, bờm của chúng, đuôi của chúng, và chòm râu lơ thơ
của những con đực rực rỡ chói lòa dưới ánh mặt trời, những đôi mắt chúng đen và
thăm thẳm lấp lánh như biển sâu - và màu sừng nữa, màu sà cừ long lanh, trông
như những cột buồm cầu vồng dựng trên những con tầu nạm bạc.
Nhưng tất cả vẫn chưa muốn bước lên đất liền khi mà Con Bò Mộng
còn đó. Chúng còn tập trung bên dưới, quẫy động, chao chát, rập rênh theo nhịp
sóng ở khoảng biển nông đó, bứt rứt, vùng vẫy, lo âu như đàn cá bị chụp lưới
kéo lên bờ. Hàng trăm con đu đưa cùng nhịp sóng xô vào những con đã tới trước.
Những con này không những phải đứng khựng lại mà còn hơi nhích lùi về phía sau.
Lân cúi thấp đầu hơn nữa, và lần cuối cùng lao cả thân mình
vào Con Bò Mộng Đỏ. Dù đó là khối thịt hay khối gió thì với sức lao đó cũng thừa
đủ làm cho nó phải bật đi như một trái ủng. Nhưng không, nó chỉ quay đi như
không hề nhận ra điều gì, và lẳng lặng bước xuống biển. Tất cả kỳ lân bên dưới
vùng vẫy dạt sang hai bên nhường lối cho nó đi. Chân nó dẫm mạnh vào khoảng
sóng vừa ùa tới lênh láng làm nước bắn tung lên thành một khoảng sương mù quay
cuồng và hai sừng nó thành hình cầu vồng, nhưng trên bãi biển, trên cao tít
thành đá bờ biển và ngược xuôi khắp vùng địa giới của Vương quốc Haggard, đất
liền như cựa mình thở phào vì vừa thoát khỏi sức nặng của nó.
Nó cứ bước từng bước dài đủng đỉnh như vậy một quãng khá dài
rồi mới bắt đầu bơi. Đợt sóng cao nhất của biển cả cũng không cao hơn hai bắp vế
sau của nó. Triều biển cũng phải né mình chạy trốn như thể tránh voi chẳng xấu
mặt nào. Nhưng rồi sau cùng, khi đã tới lúc nó buông thả thân hình xuống mặt biển,
cả một núi sóng hùng vĩ dâng lên che khuất lấy phía sau của nó, một khối phồng
căng xanh và den vừa sâu vừa mềm vừa mạnh như gió. Khối nước đó tu lại trong
yên lặng như từ chân trời bên này khép sang chân trời bên kia, một lát sau thì
hoàn toàn phủ kín hẳn khoảng lưng thoai thoải và tấm vai u của Con Bò Mộng Đỏ.
Schmendrick nâng xác ông hoàng rồi cùng Molly chạy nhanh tới khoảng sát chân bờ
đá dựng. Sóng nước đổ xuống như hàng trận mưa rào liên tiếp.
Thế là những kỳ lân dời biển cả bước lên bờ.
Molly không hề được nhìn rõ từng con, nàng chỉ thấy liên tiếp
những bước nhảy ánh sáng vun vút, và những tiếng kêu lớn chói lòa. Nàng cũng thừa
khôn ngoan để hiểu rằng không một thế nhân nào nuôi tham vọng được ngắm kỹ tất
cả những kỳ lân trên trái đất, nàng chỉ chú ý nhìn để cố tìm ra con lân của
nàng, thế thôi. Nhưng nàng chỉ thấy là kỳ lân nhiều quá và đẹp quá. Dáng quyết
liệt mù lòa như Con Bò Mộng Đỏ, Molly vùng tiến tới giơ tay đón chào.
Thật ra những kỳ lân đó có thể dẫm chết nàng như Con Bò Mộng
Đỏ đã dẫm chết Hoàng tử Lir, vì lúc đó tất cả đương say mê điên cuồng vì tự do.
Nhưng Schmendrick đã cất lời nói và kỳ lân luôn luôn kịp thời né tránh Molly,
né tránh xác Hoàng tử Lir và dĩ nhiên né tránh cả ảo thuật gia nữa - một vài kỳ
lân vút nhảy qua đầu họ - cứ như luồng sóng biển ồ ạt lao tới gặp đá tảng thì
tung lên, dãn ra rồi lại chụm lại tiếp tục cuồn cuộn miết mãi. Bốn bề bao vây lấy
Molly lúc đó ào ạt những lớp sóng ánh sáng, những làn hoa ánh sáng, lạ lùng như
thể nàng đương chứng kiến cảnh tuyết trắng bốc lửa, trong khi đó tiếng hàng
ngàn vó kỳ lân rộn rã vang rền. Molly đứng im như tượng không cười không khóc,
niềm vui hùng vĩ quá, cơ thể nàng không sao thấu triệt cho hết.
"Nhìn lên kìa," tiếng Schmendrick. "Lâu đài
đương sụp đổ."
Nàng quay lại, nhìn lên, quả thấy những chòi tháp bị sụm xuống,
vụn nát, san bằng dưới vó những kỳ lân đương băng mình qua đó, như thể chúng chỉ
được xây bằng cát và triều biển vừa dâng lên xóa tan chúng như xóa những công
trình dã tràng. Cả tòa lâu đài nhào lộn xuống từng tảng lớn nhưng trông xa thì
chỉ như từng mảng sáp xoáy cuộn, rồi xụp đổ và tan biến trong yên lặng hoàn
toàn, không để lại một chút di tích trên mặt đất, cũng như trong tâm tưởng hai
người đã được chứng kiến cảnh đó. Một phút sau, hai người cảm thấy chưng hửng,
bàng hoàng không sao nhớ rõ là mình đương đứng ở đâu và vừa nhìn thấy những gì.
Nhưng Vua Haggard, con người luôn luôn tỉnh thức nhào theo
tòa lâu đài đã được giải hoặc như một con dao rơi xuyên qua đám mây. Molly có
nghe thấy ông ta thốt tiếng cả cười một lần, như thể điều đó chính là điều ông
ta đã tiên liệu từ lâu. Ít có cái gì khiến vua Haggard phải kinh ngạc cả.
14
Khi mặt biển đã khép lại, sóng gợn muôn vàn vết chân nạm kim
cương như xưa, thì nơi đây chẳng còn một vết tích nào chứng tỏ là nơi đã từng
có kỳ lân bị nhốt. Như hệt lâu đài của Vua Haggard bị xóa đi trong trí nhớ vậy.
Duy có một điểm là Molly nhớ rất rõ những kỳ lân.
Về lân của nàng, Molly nghĩ lầm, "Lân ra đi không chào tạm
biệt như vậy cũng phải. Ta cũng đã ngớ ngẩn, ừ, ta cũng đương ngơ ngẩn trong
giây lát, có làn hơi ấm áp lùa lên má nàng, lùa vào tóc nàng như ánh xuân
quang. Và Molly quay lại. Và Molly ôm lấy cổ lân, thì thầm như trong cơn mê sảng,
"Trời ơi, bạn tôi ở lại, bạn tôi ở lại."
Molly gần như phát điên lên được, hỏi "Bạn có ý ở lại
không?" Lân đã lướt tới chỗ Hoàng tử Lir nằm sõng sượt, đôi mắt xanh của
chàng đã chết màu. Lân đứng bên chàng dáng "nắng mưa che chở" y như
chàng đã đứng trước nàng Amalthea.
"Hoàng tử sẽ được cứu sống," Schmendrick nói khẽ.
"Sừng kỳ lân là một báu vật hóa giải được thần chết." Molly nhìn sát
mặt ảo thuật gia, đã từ lâu rồi nàng chưa nhìn như vậy. Nàng nhận ra quả thực ảo
thuật gia đã đạt được pháp thuật chân truyền. Nàng cũng không thể nói tại sao
nàng biết nữa. Chỉ biết không thấy dấu hiệu của thứ vinh quang huyênh hoang,
danh dự lộ liễu. Schmendrick đích thực là ảo thuật gia như ông đã là ảo thuật
gia tự bao giờ tới nay, tuy nhiên cũng lại có vẻ là vừa mới khởi sự dựng nghiệp.
Lân đứng bên Hoàng tử Lir khá lâu, rồi mới cúi xuống dùng sừng
đụng vào chàng. Cuộc tìm kiếm của lân đã thành công quá rực rỡ, nhưng ở lân
cũng thoáng vẻ ủ-ê, sầu muộn mà Molly chưa từng chứng kiến. Molly chợt nhận ra
rằng sự tiếc nuối đó không hẳn là chỉ vì Hoàng tử Lir, mà là tiếc nuối cuộc sống
của cô gái thanh tân mà lân không thể trở lại được nữa, tiếc nuối cuộc sống của
nàng Amalthea có thể kết duyên cầm sắt với hoàng tử và sống sung sướng bên nhau
mãi mãi. Lân cúi đầu lần nữa, sừng lân chạm lướt lên cằm Hoàng tử Lir vụng về
như cái hôn đầu.
Chàng đã ngồi dậy, đôi mắt hấp háy, mỉm cười với cái gì trong
cõi xa xôi. "Cha ơi," chàng hấp tấp nói, giọng ngỡ ngàng, "Cha
ơi, con nằm mơ." Lúc đó chàng vừa nhận ra lân. Chàng vùng đứng dậy, máu lại
bắt đầu chảy trên mặt. Chàng thốt, "Tôi chết rồi mà."
Lân chạm vào người chàng lần nữa, sừng lân đặt lên khoảng ngực
chàng. Cả chàng cùng lân đều run run, Hoàng tử Lir giơ cả hai tay về phía lân,
và lân nói, "Ta nhớ chàng. Ta nhớ chàng."
"Khi tôi chết," Hoàng tử Lir cất lời, nhưng lân đã
cất bước ra đi. Không một viên đá kêu vang, không một bụi cây bị dẫm nát khi
lân phóng mình lên thành đá dựng. Dáng lân lướt nhẹ như bóng chim bay vậy. Và
khi lân quay lại với một chân làm điệu, ánh nắng rỡ ràng hai bên sườn, đầu và cổ
như quá mong manh dưới sức nặng của chiếc sừng, thì cả ba đứng bên dưới bãi biển
đều vẫy gọi, giọng giã từ se sắt. Lân quay đi rồi biến mất, Molly Grue thấy rõ
rằng lời kêu của họ đã xuyên thẳng vào tim lân như những mũi tên. Nàng nghĩ rằng
giá như nàng đừng kêu gọi như vậy thì hơn. Tội nghiệp cho lân biết chừng nào.
Hoàng tử Lir nói, "Vừa trông thấy nàng tôi đã biết là
mình chết rồi. Lần trước, khi cùng cha tôi nhìn xuống từ tháp canh, thấy nàng lần
đầu, tôi cũng cảm giác như vậy." Chàng liếc mắt nhìn lên, và thở dài. Đó
là tiếng thở dài duy nhất của một người duy nhất biểu lộ niềm sầu hận cho Vua
Haggard.
"Tôi là ai?" hoàng tử nói khẽ. "Lời nguyền cho
rằng chính tôi là kẻ phá đổ lâu đài. Điều đó quả thật tôi có bao giờ làm đâu.
Nhà vua không ưa tôi, vì tôi không phải là người ông ưa. Có phải vì tôi mà ông
chịu đổ vỡ mạng vong?"
Schmendrick đáp, "Nếu hoàng tử không tìm cách cứu lân,
nàng sẽ không bao giờ quay lại tấn công Con Bò Mộng Đỏ cho đến khi nó chịu bỏ
cuộc, bước xuống biển. Vì Con Bò Mộng Đỏ bước xuống biển mà nước biển dềnh lên
đẩy thoát tất cả kỳ lân lên bờ, và chính những kỳ lân khi được tự do, tới tấp
vượt lên thành đá dựng, đã tàn phá lâu đài. Biết rõ như vậy, hoàng tử có còn bảo
là lời nguyền nói sai chăng?"
Hoàng tử Lir chỉ lắc đầu, nhưng không nói gì.
Molly hỏi, "Nhưng sao Con Bò Mộng Đỏ lại chạy trốn nàng?
Sao nó không đứng lại và chiến đấu với lân?"
Mọi người cùng nhìn ra biển, chẳng còn một dấu hiệu nào về
nó, mặc dầu to lớn mênh mông như nó không dễ gì mà bơi mất hút ngay trong khoảng
thời gian ngắn ngủi như vậy. Nhưng dù nó có bơi sang một bờ bến nào khác, hay
hoàn toàn ẩn mình dưới biển sâu, thì cũng còn lâu họ mới biết được chuyện đó.
Nó không còn xuất hiện trên địa giới này nữa.
"Con Bò Mộng Đỏ không bao giờ chiến đấu cả,"
Schmendrick giải thích. "Nó chỉ chinh phục, nhưng không bao giờ chiến đấu."
Ảo thuật gia quay lại phía Hoàng tử Lir, đặt tay lên vai
chàng, nói, "Bây giờ thì hoàng tử là vua rồi." Ông cũng đặt tay lên
vai Molly nữa, rồi ông làm điều gì nghe như tiếng huýt sáo, và cả ba cùng bềnh
bồng bay lên không phất phơ như bông gạo, phút chốc đã cùng đặt chân trên bờ đá
dựng. Molly không thấy sợ gì cả. Pháp thuật của Schmendrick đã giúp nàng bay
lên nhẹ như một nốt nhạc thoát ra tự một nhạc khí trong tay nhạc sĩ. Không có
gì là nguy hiểm, chẳng có gì là điên khùng, nàng chỉ thấy tiêng tiếc khi được đặt
xuống, chân chạm đất.
Không một phiến đá nào hay một dấu vết nào của tòa lâu đài cũ
còn để lại. Mặt đất trên đó lâu đài được xây cũng không để lại một vết thẫm
màu. Bốn chàng trai trẻ trong bộ đồ giáp trụ tả tơi bệ rạc đương đi thất tha thất
thểu khoảng những dãy hành lang nay không còn, hoặc khoảng đất phẳng của khu tiền
đình cũ. Khi thấy Lir, Molly, và Schmendrick, họ chạy ùa lại, cười vui vẻ, rồi
quỳ xuống trước Lir và hô lớn, "Hoàng thượng muôn năm! Hoàng thượng muôn
năm!"
Lir đỏ mặt mắc cỡ muốn kéo họ đứng dậy, nói khẽ, "Đừng
quá câu nệ, đừng quá câu nệ. Xin cho tôi biết các vị là ai? Hoàng tử chú ý ngắm
kỹ khuôn mặt một người, rồi người kế tiếp. "Trời ơi, tôi biết các bạn, tôi
biết các bạn quá mà. Nhưng sao lại có thể như thế này được?"
Chàng trai trẻ đầu tiên nói, "Tâu Hoàng thượng, sự thật
là vậy đó. Chúng tôi quả là những cựu kỵ giáp binh của Vua Haggard, đã sống tại
đây qua bao năm lạnh lẽo, mệt nhọc, buồn tẻ. Chúng tôi chạy ra khỏi lâu đài;
sau khi quý vị đã biến vào chiếc đồng hồ, vì lúc đó Con Bò Mộng Đỏ gầm dữ quá,
và tòa lâu đài thì lung lay đến mức chúng tôi ai nấy đều chết khiếp. Chúng tôi
biết đã đến ngày lời nguyền thực hiện."
Chàng trai thứ hai tiếp, "Một đợt sóng biển cực lớn ào tới
cuốn lấy tòa lâu đài, đúng y như lời mụ phù thủy đã nói trước. Tôi đã trông thấy
tòa lâu đài đổ xuống từ trên mỏm thành đá dựng nhẹ như bông tuyết rơi vậy. Còn
tại sao chúng tôi không bị nước cuốn theo, chúng tôi quả tình không biết nói
sao."
Chàng khác nói, "Lạ lắm, sóng chia nhau đi vòng quanh
chúng tôi, chưa bao giờ tôi thấy những ngọn sóng lạ lùng như vậy, đúng là những
ngọn sóng ma, nóng bỏng với những ánh sáng cầu vồn. Và trong một lúc lâu tôi thấy
như thể," chàng ta dụi mắt, và mỉm cười bỡ ngỡ tiếp, "như thể là tôi
vừa mơ ngủ vậy."
Tới đó vua Lir lên tiếng hỏi, "Nhưng chuyện gì lạ đã xảy
tới với các bạn vậy. Khi tôi mới sinh ra, các bạn đã là người lớn rồi, giờ đây
các bạn trông lại trẻ hơn tôi, thế là làm sao? Phép lạ nào vậy?"
Ba chàng trai đã lên tiếng thì chỉ cười và có vẻ lúng túng,
người thứ tư đáp, "Phép lạ ban cho chúng tôi thật đó, thưa ngài. Có một lần
chúng tôi nói với công nương Amalthea rằng chúng tôi muốn được cải lão hoàn đồng,
nếu được nàng rủ lòng thương cho như vậy. Nay quả thực chúng tôi đã cầu được ước
thấy. Công nương Amalthea đâu rồi, thưa ngài? Chúng tôi muốn chạy tới giúp nàng
kể cả việc phải đương đầu với Con Bò Mộng Đỏ."
Vua Lir nói, "Nàng đã đi rồi. Hãy tìm ngựa và thắng yên
cho tôi." Lời nói của tân vương sắc gọn và háo hức. Các chàng kỵ giáp binh
tranh nhau tuân lệnh.
Nhưng Schmendrick, đứng phía sau, bình tĩnh nói, "Thưa
ngài, ngài không nên làm thế, ngài không nên đi theo nàng."
Vua quay lại, trông giống vua Haggard xưa, nói, "Thưa ảo
thuật gia, nàng là của tôi!" Ông ngừng lại giây lâu rồi tiếp, giọng nói lần
này êm đềm nhuần nhã hơn. "Nàng đã hai lần cứu tôi khỏi chết, hỏi rằng tôi
còn có cách nào đền đáp lại nàng khác hơn là chết một lần thứ ba vì nàng?"
Nhà vua nắm lấy cổ tay Schmendrick, xiết mạnh tưởng có thể bóp nát thành cám,
nhưng ảo thuật gia không hề động đậy. Chàng Lir nói, "Tôi không phải là
Vua Haggard. Tôi không hề ao ước giam giữ nàng, tôi chỉ ao ước được suốt đời
theo sau nàng hàng trăm dặm, hàng ngàn đặ, hàng năm sau, có thể chẳng hề được
nhớ mặt nàng, nhưng vẫn vui. Đó là quyền của tôi. Chuyện một anh hùng đương
nhiên đoạn kết phải có hậu, đoạn kết đó muốn bao giờ tới thì tới."
Nhưng Schmendrick đã đáp, "Đây chưa phải là đoạn kết cho
chàng hay cho nàng. Hoàng tử giờ đây đã là vua trên một lãnh địa hoang tàn mà từ
trước tới nay chỉ có sợ hãi, âu lo ngự trị. Nhiệm vụ thật sự của chàng bây giờ
mới là bắt đầu, thắng đừng kiêu; bại chớ bao giờ nản. Còn như với nàng - kỳ lân
- nàng là chuyện kể không có kết thúc, kết thúc vui hay kết thúc buồn. Nàng có
bao giờ thuộc về bất kỳ kẻ nào còn hệ lụy trong cõi sinh tử đâu."
Bằng một cử chỉ lạ lùng, ảo thuật gia ôm gọn lấy đầu ông vua
trẻ tuổi trong vòng tay, ôm như vậy khá lâu, rồi mới tiếp bằng giọng thật dịu
ngọt, "Dù sao chàng hãy vui lòng. Chưa có thế nhân nào được may mắn hưởng
ân sủng của nàng như chàng, và cũng chẳng có thế nhân nào được hưởng phúc lành
tưởng niệm kỳ lân như chàng. Chàng đã yêu nàng và phục vụ nàng - hãy bằng lòng
như vậy và lên ngôi quân vương như vậy."
"Nhưng đó đâu phải là điều tôi muốn!" Chàng Lir nói
lớn. Ảo thuật gia không trả lời chàng thêm một tiếng nào, chỉ nhìn chàng. Đôi mắt
màu xanh biếc chăm chú nhìn thẳng vào đôi mắt xanh thẫm, khuôn mặt nghiêng uy
nghi đối diện với khuôn mặt chưa bao giờ đẹp và dũng cảm như vậy. Nhà vua chớp
mắt như thể vừa nhìn thẳng vào mặt trời, rồi cúi xuống ngay và nói khẽ,
"Vâng tôi xin lĩnh ý, ở lại làm vua trên mảnh đất mà tôi thù hận, với đám
lê dân đã chịu đựng quá nhiều bất hạnh này. Ngồi trên ngôi cửu ngũ, cầm cân nảy
mực như vậy tôi cũng chẳng hoan hỷ gì hơn Vua Haggard xưa."
Một con mèo nhỏ tai khoằm không biết tự đâu nhảy ra vươn vai
ngáp nhìn Molly. Nàng cúi xuống ôm nó lên áp má, nó quờ chân lên vờn rối tóc
nàng. Schmendrick mỉm cười, và nói với nhà vua, "Chúng tôi phải ra đi bây
giờ. Chẳng hay ngài có thể đi cùng với chúng tôi từ đây đến đường ranh giới?
Chúng ta sẽ có dịp chứng kiến nhiều chuyện lạ, và hẳn là có cả dấu vết kỳ lân nữa."
Vua Lir ra lệnh đám tùy thuộc thắng yên cương cho mình. Đám
này chỉ tìm được có một con ngựa cho nhà vua, đương loay hoay không biết tính
sao thì đã thấy có hai con ngựa khác tiến theo, một con màu đen và một con màu
nâu đều yên cương sẵn sàng. Schmendrick lấy con ngựa đen, còn con nâu nhường
cho Molly.
Molly thoạt hơi sợ, hỏi ảo thuật gia, "Ngựa nào vậy, có
phải của ông bạn? Ông bạn vừa hóa chúng ra? Pháp thuật của ông bạn bây giờ tuyệt
vời đến vậy sao?" Nhà vua cũng phải thốt lời thì thầm ngạc nhiên cùng
Molly.
"Tôi tìm thấy chúng," ảo thuật gia đáp. "Nhưng
nghĩa hai chữ tìm thấy của tôi khác với cách hiểu thường tình của bạn.
Đừng hỏi tôi nữa."
Ông nâng Molly lên yên, rồi nhảy lên ngựa của ông. Cả ba lên
đường, bốn người kỵ giáp binh theo sau, đi chân. Chẳng ai ngoái cổ nhìn lại, vì
có gì để mà nhìn đâu. Nhưng có một lần Vua Lir lên tiếng "Thực là lạ lùng
cho một người sinh ra, lớn lên ở một chỗ, rồi chứng kiến mọi sự biến đổi, rồi
chợt thấy mình làm vua. Tất cả những điều đó liệu có thật không? Chính tôi có
thật không?" Schmendrick không trả lời.
Vua Lir muốn đi lẹ hơn, nhưng Schmendrick giữ cho cả bọn đi
theo một nhịp thảnh thơi và theo một con đường quanh co. Khi Vua Lir bứt rứt muốn
thúc ngựa đi nhanh hơn, thì ảo thuật gia xin nhà vua hãy đoái đến đám kỹ binh
đi bộ kia, mặc dầu suốt cuộc hành trình bọn người này tuyệt nhiên không cảm thấy
mệt chút nào. Molly thì hiểu ngay rằng thâm ý của ảo thuật gia là cố tình đi chậm
để nhà vua có dịp ngắm kỹ giang sơn của mình. Và đây cũng là một ngạc nhiên
dành cho Molly, nàng nhận thấy cảnh vật quả rất đáng được ngắm nhìn. Vì mùa
xuân đã từ từ xuất hiện trên mảnh đất khô cằn này của Vua Haggard trước đây. Nếu
là khách lạ mới tới thì chẳng thể nhận ra sự đổi thay đó, nhưng Molly thì nhận
rõ. Màu cỏ non e thẹn nhú lên thanh nhẹ như khói, những cây cằn bắt đầu đơm hoa
nảy lộc một cách thận trọng như thể quân đội cử đội thám báo đi trước dò đường,
những dòng nước trước đây khô cạn nay bắt đầu rềnh lên lấp lánh chảy, và những
con vật nhỏ tới tấp xuất hiện, tưng bừng kêu gọi nhau. Từng đợt hương vị dâng
lên: cỏ lợt và bùn đen, mật và hồ đào, bạc hà và cỏ khô và rừng táo chín mõm;
và kể cả ánh nắng chói chang ban trưa cũng vẫn lẩn quất một cái gì diụ dàng, một
hương vị gì kích thích mà Molly đã phải nhận ra rằng vẫn có đấy khắp nơi nơi.
Nàng cưỡi ngựa đi ngang bên Schmendrick, say sưa ngắm mùa xuân đến và suy nghĩ
sao mùa xuân đến với nàng chậm thế và cũng trường cửu thế.
"Những kỳ lân đã qua đây," nàng nói khẽ với ảo thuật
gia. "Có phải đó là vì kỳ lân đã qua đây, hay vì
Haggard đã bị lật đổ và Con Bò Mộng Đỏ đã khuất nẻo? Điều nào
đúng?"
"Tất cả đều đúng!" Ảo thuật gia trả lời. "Tất
cả đều đúng cùng một lúc. Đây không phải chỉ là một mùa xuân mà là năm mươi mùa
xuân; và không chỉ có hai đại họa vừa được trừ khử mà muôn vàn nhức nhối nhỏ nữa
cũng vừa được thanh toán. Bạn cứ việc, chờ mà xem."
Và ông nói riêng với vua Lir, "Đây không phải là lần đầu
tiên mùa xuân hạ cố tới thăm miền này. Đất miền này vốn phì nhiêu như vậy từ
lâu rồi, chỉ đợi có một ông vua ra vua là thức tỉnh. Ngài hãy trông đất đai
đương mềm đi trước mắt ngài ra sao kìa."
Vua Lir không nói gì, nhưng đôi mắt ông hết nhìn tả lại nhìn
hữu trong khi vó ngựa vẫn bước đều, quả thực chỗ nào đôi mắt cũng gặp được cảnh
đơm hoa kết trái. Ngay như thung lũng của thành phố Hagsgate nơi từng ghi dấu
những kỷ niệm hãi hùng mà nay cũng đã thấy bao nhiêu thứ hoa không trồng mà mọc:
loa kèn, tầm xuân, thạch lựu, phù dung... Khoảng những vết chân Bò Mộng để lại
đất trở nên xốp hẳn cây mọc xanh um.
Nhưng khi họ đi vào địa phận Hagsgate thì một cảnh đồi trệ
man rợ lạ lùng xuất hiện dưới mắt họ. Lúc đó khoảng quá trưa đã lâu rồi. Ruộng
cày hoàn toàn bị dẫm nát, tàn phá, vườn cây ăn quả, vườn nho cũng hoàn toàn bị
dày xéo san bằng đến không còn một thân cây đứng vững. Cảnh tàn phá tận tình đến
nỗi ai nấy có cảm tưởng như đích thân Con Bò Mộng Đỏ qua đây thực hiện cảnh đó.
Nhưng Molly thì nghĩ rằng sau năm mươi năm trĩu nặng những âu lo, sức tàn phá một
sớm một chiều bột phát tất nhiên phải thế, cũng như bao nhiêu mùa xuân bị kìm
hãm ở phần đất còn lại kia, khi được giải tỏa thì sự phồn thịnh tất nhiên cũng
phải thế. Đất bị dẫm nát đều nhuốm một màu tro kỳ lạ dưới ánh chiều tà. Vua Lir
cất tiếng hỏi, "Cái gì thế vậy?"
Nhưng ảo thuật gia chỉ đáp, "Xin ngài cứ tiếp tục cho ngựa
chạy, xin tiếp tục cho ngựa chạy."
Mặt trời ngả hẳn về Tây khi họ cho ngựa bước qua chiếc cổng
vào tỉnh đã bị đổ lật nhào. Họ cho ngựa đi xuôi theo đường phố ngổn ngang tắc
nghẽn với đủ thứ: bảng hiệu, đồ đạc, kiếng vỡ, mảnh tường đổ, cửa sổ, lò sưởi,
ghế, đồ bếp, mái nhà, bồn tắm, giường ngủ, bàn trang điểm. Không một nhà nào tại
Hagsgate còn đứng nguyên, những gì có thể vỡ được đều đã vỡ. Cả thành phố trông
như vừa bị những bàn chân khổng lồ dẫm nát.
Dân chúng Hagsgate đứng, ngồi lổn nhổn ở các bực cửa ngắm cảnh
đổ vỡ. Trông họ lúc nào cũng như những kẻ nghèo xác xơ kể cả thuở họ còn phú
túc. Giờ đây tai nạn xập xuống, trông họ không nghèo hơn chút nào, trái lại còn
đượm vẻ thảnh thơi nhẹ nợ. Họ không để ý thấy Vua Lir cưỡi ngựa tới, cho đến
khi nhà vua cất tiếng hỏi, "Ta đã lên ngôi vua. Điều gì đã xảy đến với các
ngươi vậy?"
Kẻ thì nói, "Thưa ngài động đất," kẻ khác lại phủ
chính, "Thưa ngài đó là một trận bão, một trận gió Đông Bắc tự biển thổi tới,
tàn phá trọn vẹn thành phố, kế đó mưa đá đổ xuống nghe như tiếng vó ngựa rộn
rã." Có kẻ lại cho rằng đó là sóng thần từ biển ào tới tàn phá, một thứ
sóng thần trắng như hoa mai, nặng như cẩm thạch lạ lùng hết cỡ ở chỗ không làm
ai chết đuối, nhưng nghiền nát hết thảy. Vua Lir lắng nghe hết lời họ nói và mỉm
cười nghiêm khắc.
Khi tất cả đã nói xong vua mới lên tiếng, "Các ngươi
nghe đây, Vua Haggard đã chết, và lâu đài của ông đã xụp đổ. Ta là Lir, đứa con
của thành phố Hagsgate này, đã bị bỏ rơi khi vừa lọt lòng mẹ. Các ngươi cố tình
bỏ rơi ta như vậy để lời nguyền của mụ phù thủy không thể thực hiện nổi."
Nhà vua chỉ tay lên khắp cảnh hoang tàn, tiếp, "Hỡi những người dân ngu đần,
cơ cực, những kỳ lân đã trở lại đó - những kỳ lân mà các ngươi đã chứng kiến
khi Con Bò Mộng Đỏ dồn xuống biển mà cố tình mắt điếc tai ngơ giả bộ không biết.
Chính những kỳ lân đó đã lật đổ tòa lâu đài, và dẫm nát thành phố này, nhưng
đích thực phải nói là chính lòng tham và sự hèn nhát của các người đã là nguyên
nhân cho tai họa."
Toàn thể dân chúng nghe xong, cúi đầu nhẫn nhục thở dài,
nhưng một bà trung niên đã tiến lên một bước và đáp đôi lời khá thông minh.
"Thưa ngài quở trách chúng tôi như vậy cũng hơi bất công, mong ngài tha lỗi
cho. Như chúng tôi thì biết làm gì để cứu kỳ lân. Chúng tôi sợ Con Bò Mộng Đỏ.
Chúng tôi còn có thể làm được gì hơn?"
"Chỉ một lời nói thôi cũng đủ," Vua Lir đáp lời họ.
"Chỉ một lời nói thôi cũng đủ. Các ngươi đã không biết điều đó."
Vừa lúc Vua Lir sắp sửa thúc cho ngựa đi, thì một giọng nói yếu
ớt, bệnh hoạn thốt lên, "Lir, hỡi bé Lir con của ta, vua của ta!
Schmendrick và Molly nhận ra kẻ đương vừa lê chân khập khiễng, vừa thở hổn hển
gọi, chính là Drinn. Hắn cố tình làm ra vẻ già nua lụ khụ.
"Ông là ai?" nhà vua hỏi. "Ông muốn gì
nào?"
Drinn bám lấy bàn đạp yên ngựa của nhà vua, gục mũi lên ủng.
"Hoàng thượng, con trai của tôi, không nhận ra tôi sao? Nhưng tôi làm sao
mà xứng đáng để Hoàng thượng nhận ra cho được. Tôi là cha của Hoàng thượng đây,
người cha đáng thương; người cha vui mừng quá đỗi. Tôi là kẻ đã đặt hoàng nhi ở
khoảng chợ đêm đông năm nào, cách đây lâu lắm rồi, để mở đường cho một định mệnh
hào hùng. Tôi đã khôn ngoan biết chừng nào, nhưng cũng đau lòng sót ruột biết
chừng nào, và cho đến nay lại được kiêu hãnh biết chừng nào. Ôi, con trai tôi,
đứa con bé bỏng của tôi." Drinn không khóc được ra nước mắt thật, nhưng nước
mũi thì có.
Không thốt một lời, Vua Lir thúc ngựa cho lùi khỏi đám dân
chúng. Già Drinn buông thõng hai tay xuống, rít lên. "Đó, có con có cái là
như thế đó. Hỡi người con vong ân kia, ngươi nỡ bỏ rơi đấng sinh thành trong
cơn hoạn nạn này ư, khi mà chỉ cần một lời nói của nhà phù thủy cưng kia là mọi
sự lại tề chỉnh đâu vào đó. Cứ việc mà khinh tôi, nếu người muốn, nhưng tôi đã
đóng trọn vai trò của tôi khiến người được như ngày nay, và điều đó hẳn người
không chối được. Ác cũng có vai trò thích hạp của ác chứ."
Nhà vua còn muốn quay đi, nhưng Schmendrick đã nắm lấy cánh
tay người, hơi nghiêng đầu nói khẻ, "Nói thế mà đúng đó, ngài cũng biết đấy.
Nhưng với ông ta với tất cả bọn họ - lẽ ra câu chuyện phải biến chuyển một cách
khác kia, và ai dám đoan chắc rằng kết cục lại có hậu như thế này. Là đấng quân
vương của họ, ngài nên cai trị họ cùng với lòng nhân như cai trị những thần dân
can đảm và trung thành khác. Quả thực họ đã đóng một vai trò trong định mệnh
ngài."
Vua Lir bèn giơ tay lên trước đám thần dân Hagsgate, và họ
hích khuỷu tay bảo nhau hãy yên lặng. Nhà vua nói, "Ta còn phải rong ruổi
nốt quãng đường này với mấy người bạn của ta đây. Nhưng để những kỵ giáp binh ở
lại giúp các ngươi xây dựng lại thành phố. Chỉ một thời gian ngắn ta sẽ trở về
giúp thêm một tay. Nếu Hagsgate chưa tái thiết, chưa hồi phục, ta chưa xây lại
lâu đài trên kia."
Đám thần dân Hagsgate than phiền một cách đắng cay rằng, lẽ
ra Schmendrick mà ra tay giúp họ bằng pháp thuật của ông thì công việc nhẹ tưa
lông hồng. Nhưng Schmendrick bảo họ rằng, "Tôi không thể giúp các bạn như
vậy, dù tôi có muốn đi chăng nữa. Thuật phù thủy cũng có lệ luật của nó chứ,
như luật tạo hóa với thủy triều lên xuống, với bốn mùa đổi thay. Pháp thuật đã
giúp quý vị phú túc một thời, trong khi các nơi khác lãnh phần bất hạnh khốn
khó; nhưng nay thì thời gian phú túc đã bế mạc, quý vị phải khởi sự đi thôi.
Đâu là đất đai bỏ hoang dưới triều Haggard đều có thể trở lại xanh tốt, phì
nhiêu. Quý vị phải trồng trọt lại những mẫu đất, gây dựng lại vườn nho, cây
trái. Nhưng xin quý vị nhớ cho một điều, tất cả những thứ đó sẽ chẳng bao giờ
lên xanh, sẽ chẳng bao giờ đơm hoa kết trái, nếu chính quý vị không tìm thấy ở
đó niềm vui, cởi mở, vô cầu."
Ảo thuật gia nhìn đám dân chúng không với lòng giận hờn mà với
lòng trắc ẩn. Ông tiếp, "Nếu tôi ở địa vị các bạn, tôi nhất định phải sinh
con đẻ cái chứ."
Kế đó ảo thuật gia hỏi Vua Lir, "Xin ngài cho biết chúng
ta sẽ nghỉ đêm ở đây, hay tiếp tục đi cho đến sáng?"
Nhà vua đã cho quay ngựa và đi ra khỏi thành phố điêu tàn.
Mãi lâu sau Molly và ảo thuật gia mới phóng lên với nhà vua, và còn lâu hơn nữa
cả ba mới dừng lại ngủ.
Cứ như thế họ đi kinh lý trong địa giới của Vua Lir ngày càng
thêm thích thú. Mùa xuân lan tràn trước họ như lửa gặp gió, cỏ non xanh rờn
chân trời, phủ kín hết những vùng trần trụi, khắp nơi đất cát tái sinh như lân
đã cải tử hoàn sinh cho Lir. Đủ các loài thú, từ loài gấu đến loài ong đều hoặc
khệnh khạng, hoặc hối hả, rong chơi giữa thiên nhiên suốt dọc được họ đi. Chim
chó từ đâu kéo về hàng đàn rợp trời, cá cũng tụ từng đàn, uốn mình rung rinh dưới
làn nước xuôi miết. Hoa dại mọc tới tấp xuôi theo các triền đồi cứ như là lũ tù
vượt ngục. Cả dải đất tưng bừng trong hồi sinh khiến cả ba khách bộ hành cùng nằm
đấy mà không ngủ được.
Dân chúng nhiều làng mà trước đây đã có lần Molly và
Schmendrick đi qua đều chào đón họ một cách thận trọng hơn, bớt nghiêm khắc
hơn. Chỉ có những người nhiều tuổi nhất trong bọn họ mới có lần được biết mùa
xuân, và phần nhiều thấy cây cỏ bỗng xanh tươi lan rộng tùm lum, họ lại đâm e
ngại rằng đó là triệu chứng của một thứ dịch thời khí. Vua Lir báo cho họ biết
là Vua Haggard đã chết và Con Bò Mộng Đỏ đã ra đi vĩnh viễn. Sau này khi đã cho
xây xong lâu đài, nhà vua mong sẽ có dịp được tiếp họ. Rồi ba người lại tiếp tục
đi. Vua nói, "Cũng phải một thời gian họ mới làm quen được với cảnh mới của
mùa xuân cỏ xanh hoa nở."
Ở bất kỳ nơi nào họ dừng bước, nhà vua cũng loan tin cho hay
là mọi băng trộm cướp đều được hưởng đại xá, mọi người hãy trở lại cuộc sống
lương thiện. Molly ước ao tin đó sớm loan truyền đến tai Cully và thuộc hạ. Quả
nhiên khi tin đó tới, cả đám thuộc hạ đều giải tán, chỉ trừ có Cully và Jack Jingly.
Đám thuộc hạ đó sau cùng này nghe nói đều là những tay hát dạo lang thang khá nổi
tiếng trong các tỉnh.
Vào một đêm kia ba người đã tới khoảng ranh giới xa nhất của
vương quốc Lir, và như thường lệ họ sửa soạn chốn nghỉ qua đêm trên cỏ xanh. Sớm
hôm sau đôi bên sẽ tạm biệt, nhà vua sẽ trở về Hagsgate. Trong bóng tối nhà vua
nói, "Các bạn đi rồi, tôi ở lại đây cô đơn lắm. Thực ra thì tôi muốn ra đi
lang thang với các bạn, vua viếc mà làm quái gì."
"Rồi ngài sẽ vui với chức vụ của mình," Schmendrick
đáp. "Những chàng trai trẻ anh dũng nhất tại các làng mạc sẽ chạy tới tìm
ngài, ngài sẽ huấn luyện họ thành hiệp sĩ, thành anh hùng. Những vị thừa hành
khôn ngoan nhất sẽ tới làm cố vấn cho ngài; những nhạc sĩ tài ba, những tay xiếc
lành nghề, những nhà kể chuyện tuyệt kỹ sẽ tìm tới ngài xin hưởng hoàng ân. Và
rồi tất nhiên sẽ có nàng công chúa xuất hiện kịp thời, có thể là nàng chạy trốn
khỏi người cha hay người anh cực kỳ hiểm độc, có thể là nàng tới xin ngài ra
tay tế độ diệt trừ kẻ thoán đoạt phụ hoàng, có thể do ngài bất chợt nghe vọng
tiếng nàng bị nhốt trong một đồn lũy tường cao hào sâu nào đó thoát ra."
"Tôi chẳng chú ý đến điều đó đâu, ông bạn," Vua Lir
nói. Qua đi giây lâu im lặng, ai nấy tưởng nhà vua đã ngủ, ông bỗng tiếp,
"Ước gì tôi được gặp nàng một lần nữa để giải tỏa hết nỗi lòng cho nàng
hay. Chắc chắn nàng không sao tưởng tượng được hết những điều tôi muốn kể. Ông
bạn đã hứa với tôi là tôi sẽ được gặp nàng kia mà."
Ảo thuật gia trả lời vua sắc gọn, "Tôi chỉ hứa với ngài
rằng ngài sẽ được chứng kiến những dấu vết kỳ lân. Thì đó ngài đã chứng kiến tất
cả rồi. Không một nơi nào khác trên cõi đời lại hên hơn vương quốc này, vì đã
được kỳ lân đi qua trong tự do. Còn về ngài, nỗi lòng của ngài, những điều ngài
đã nói ra hay không nói ra, nàng đều nhớ hết khi mọi sự đã được thuật lại thành
truyện cổ tích. Xin ngài cứ nghĩ như vậy và bình tâm." Nhà vua không nói
thêm một lời nào sau đó, và Schmendrick thì hối hận là mình đã chợt nói những
điều vừa rồi.
Giây lau, Schmendrick tiếp, "Nàng đã chạm vào ngài hai lần,
lần thứ nhất để cải tử hoàn sinh, lần thứ hai cho riêng ngài." Vua Lir vẫn
không trả lời, và ảo thuật gia cũng chẳng rõ rằng nhà vua có nghe mình nói hay
không.
Schmendrick mơ thấy lân tới đứng bên ông khi trăng vừa mọc.
Làn gió đêm phe phẩy bờm lân, và ánh trăng lấp lánh trên chiếc đầu xinh xắn trắng
như bông tuyết. Ảo thuật gia biết đó chỉ là một giấc mộng, nhưng cũng sung sướng
vô ngần được gặp lại lân. Ông nói, "Trong bạn đẹp biết chừng nào. Tôi chưa
bao giờ nói thực với bạn như vậy." Ông muốn nhỏm dậy đánh thức Vua Lir và
Molly, nhưng đôi mắt lân chợt nhìn ông như đôi cánh chim bối rối, nhát sợ. Do
đó ông hiểu rằng nếu như ông ngồi nhỏm dậy lúc đó để đánh thức hai bạn, thì
chính ông sẽ sực tỉnh giấc mơ hoa, và hình ảnh lân sẽ tan biến tức khắc. Vì vậy
ông chỉ nói, "Họ càng ngày càng yêu càng nhớ bạn, dù tôi có làm gì đi nữa."
"Chính vì vậy mà," lân trả lời, và ảo thuật gia
cũng không nhớ rõ là lân đã trả lời ra sao. Ông nằm rất yên, hy vọng sẽ nhớ rõ
được hình đôi vành tai nhỏ xinh của lân vào hồi sớm khi thức giấc. Lân tiếp,
"bây giờ ông bạn là một nhà phù thủy chính hiệu có sống có chết rồi, đúng
như ý nguyện sở cầu. Ông bạn có vui không?"
"Vui chứ," ảo thuật gia đáp và bật cười yên lặng.
"Tôi chẳng phải là Vua Haggard đáng thương đã đánh mất mọi lạc thú tình cảm.
Tuy nhiên phù thủy cũng có ba bảy đường, có phép thuật đen, có phép thuật trắng,
và loại trung gian xam xám quãng giữa, thiếu gì - và bây giờ thì tôi hiểu rằng
tất cả đều mắm-sốt như nhau cả. Hoặc giả tôi quyết định là kẻ mà người đời gọi
là thầy phù thủy tốt, thầy phù thủy khôn ngoan - thứ phù thủy ưa giúp đỡ các đấng
anh hùng, kịp thời phá hoại loại phù thủy gian tà, ngăn cấm loại quân vương bạo
ngược, giác ngộ loại cha mẹ khắc nghiệt; có thể làm ra mưa, chữa khỏi mọi chứng
bện nan y, gọi mèo tự ngọnc cây cao xuống - hoặc giả tôi chọn nghề phù thủy bào
chế ra các loại thuốc nước, hương thơm, thuốc bột, bùa ngải, với những sách phù
thủy đóng bằng da người, với căn phòng mù mịt sương khói, rì rầm lời phù chú bí
ân, nhưng như vậy để làm gì? Đời người thì quá ngắn, với pháp thuật đó tôi giúp
ích được bao nhiêu, làm hại được bao nả? Vâng, sau cùng tôi đã chiếm được quyền
năng, nhưng địa cầu thì quá lớn, quyền năng thì quá mọn, mong gì chuyện lấp biển
vá trời, mặc dầu ông bạn Lir của tôi vẫn nghĩ rằng tôi thuộc loại ghê gớm lắm."
Và ảo thuật gia lại bật cười trong mộng, lần này cười mà hơi đượm buồn.
Lân nói, "Đúng vậy. ông bạn là người, mà người thì chả
làm được cái gì lớn chuyện cho lắm." Giọng lân chợt chậm và dằn, "Ông
bạn muốn chọn thứ gì nào?"
Lần thứ ba ảo thuật gia cất tiếng cười, "Ồ, tôi ưa loại ảo
thuật tốt lành, không có gì khả nghi, vì chính đó là loại bạn thích hơn cả. Tôi
không nghĩ rằng rồi đây tôi sẽ còn được gặp lại bạn, nhưng tôi sẽ gắng làm những
điều mà tôi biết là bạn ưa. Còn bạn, bạn sẽ cư ngụ nơi nào trong cuộc đời này của
tôi? Tôi nghĩ hẳn bạn sẽ trở lại khu rừng cũ."
Lân hơi quay đi một chút, đôi bờ vai lung linh sáng, những
con thiêu thân, mối cánh, những con trùng nhỏ vô danh khác bay tới nhảy múa
trong vùng ánh sáng của sừng lân trông thật dễ thương. Con mèo của Molly thì cứ
chà xát hoài khoảng giữa hai chân trước.
"Những bạn đồng loại khác của tôi thì đã tản mát ìm về
các khu rừng cũ," lân nói. "Đi rất kín đáo, từng một một để tránh con
mắt dòm ngó của thế nhân. Tôi cũng sẽ trở về khu rừng của tôi, nhưng biết rằng
rồi đây tôi có còn được yên vui bình thản như xưa. Tôi đã qua một thời sống như
một thế nhân, và một phần nào trong cơ thể tôi cũng đã nhiễm tính chất hữu sinh
hữu diệt của thế nhân, lúc nào cũng như tràn căng nước mắt, ôm đầy ước mơ, sợ
chết, chẳng bao giờ chết. Tôi không còn giống các bạn đồng loại tôi nữa, bởi có
kỳ lân nào mà lòng đầy tiếc nuối như tôi đâu. Thật đáng tiếc."
Schmendrick dấu mặt đi như một đứa trẻ, dù ông là một ảo thuật
gia lớn. Ông nói khẽ, "Tôi thật hối hận, hối hận. Tôi đã làm điều bất hạnh
cho bạn. Có lẽ Bà Má Định Mạng, Vua Haggard và Con Bò Mộng Đỏ còn tử tế với bạn
hơn tôi."
Nhưng lân đã nhã nhặn trả lời ảo thuật gia, "Đồng loại
tôi hiện đã có mặt trên khắp hoàn vũ. Không sầu hận nào thắng được niềm vui trường
cửu đó của tôi, trừ một - Và tôi phải cám ơn ông bạn ở điểm đó chứ. Thôi nhé,
chào tạm biệt ông bạn, ảo thuật gia đáng mến: Tôi cũng gắng trở về khu rừng cũ
của tôi."
Lân ra đi không một tiếng động, nhưng ảo thuật gia đã thức giấc,
con mèo tai khoằm của Molly thì kêu lên mấy tiếng não nùng. Ông quay lại, bắt gặp
đôi mắt của vua Lir và của Molly Grue cùng mở lấp lánh dưới ánh trăng. Cả ba cứ
vậy mà thức đến suốt sáng, không nói một lời.
Vào lúc rạng đông Vua Lir đứng dậy, thắng yên cương. Trước
khi lên ngựa, ông nói với Schmendrick và Molly, "Tôi ước ao rằng sẽ có
ngày các bạn trở lại thăm tôi." Cả hai cùng đoan chắc với nhà vua là dĩ
nhiên sẽ có ngày đó, nhưng rồi nhà vua vẫn bịn rịn chưa muốn chia tay.
"Tôi mơ thấy nàng đêm qua," nhà vua nói.
Molly cũng vội vã tiếp, "Ấy tôi cũng vậy, đêm qua tôi mơ
thấy nàng!" Schmendrick toan mở miệng nói rồi lại thôi.
Giọng Vua Lir hơi khàn khàn, "Xin đem tình bạn của chúng
ta mà thề, các bạn hãy nói thực cho tôi biết, nàng đã nói gì với các bạn."
Hai bàn tay vua xiết chặt vào cánh tay của mỗi người, đôi bàn
tay vua lạnh và bứt rứt buồn.
Schmendrick mỉm nụ cười yếu ớt. "Thưa ngài, tôi thực hiếm
khi nhớ lại những giấc mộng của mình. Với tôi thì đó thường là những chuyện tào
lao, trống rỗng, chẳng có gì." Vua buông tay ra và quay lại với Molly Grue
mắt nhìn còn hối hả bứt rứt.
"Tôi sẽ chẳng bao giờ nói ra cả," Molly đáp, giọng
hơi e dè, mặt đỏ rừ. "Tôi nhớ lời nàng nói với tôi nhưng đến chết tôi cũng
chẳng nói với ai - kể cả với ngài." Khi nói vậy, nàng không nhìn vua mà lại
nhìn Schmendrick.
Vua Lir buông nốt bàn tay và nhảy lên mình ngựa hùng dũng đến
nỗi con ngựa lùi lại, cất cao hai vó trước nổi bật trên nền trời chan hòa ánh
bình minh. Vua Lier nhìn xuống Molly và Schmendrick, khuôn mặt khắc khổ, già giặn
tưởng như nhà vua đã trị vì lâu bằng Vua Haggard trước.
"Nàng không nói gì với tôi cả," Vua Lir nói.
"Các bạn hiểu chứ? Nàng không nói gì với tôi cả, không nói một lời nào cả."
Khuôn mặt nhà vua dịu đi giống khuôn mặt Vua Haggard khi chăm
chú ngắm kỳ lân dưới biển. Lúc đó ông như trở lại thuở còn là chàng hoàng tử ưa
ngồi dưới bếp với Molly. Ông nhắc lại, "Nàng nhìn tôi. Trong mộng nàng chỉ
nhìn tôi mà không nói."
Vua đã thúc ngựa phóng đi quên lời chào tạm biệt. Hai người
còn lại nhìn theo mãi cho tới khi bóng vua khuất sau đồi. Sau cùng Molly thốt,
"Tội nghiệp vua Lir!"
"Sự việc tiến hành như vậy là được lắm,"
Schmendrick đáp. "Càng là bậc đại anh hùng càng gặp nhiều gian nan, sầu hận,
nếu không một nửa sự nghiệp sẽ bị chìm trong quên lãng. Tất cả đều là thành phần
của truyện cổ tích đấy." Giọng ảo thuật gia đượm chút ngỡ ngàng, chàng
quàng nhẹ cánh tay lên vai Molly, tiếp, "Kẻ đã yêu kỳ lân chẳng thể gặp đều
bất hạnh, trái lại đó là niềm hạnh phúc thân yêu nhứt đời, tuy rằng cũng phải
trả giá bao cực nhọc mới được hưởng nó.
Ngay sau đó Schmendrick dùng đến những ngón tay đẩy khẽ Molly
và hỏi, "Nào xin bạn kể lại cho tôi hay lân đã nói với bạn những gì
nào?" Nhưng Molly chỉ lắc đầu cười ngặt nghẽo cho đến khi mái tóc nàng xổ
tung ra xõa xuống. Trong Molly lúc đó còn đẹp hơn nàng Amalthea nữa. Ảo thuật
gia nói, "Được lắm, nếu bạn không nói, để khi nào gặp lại lân, tôi sẽ hỏi
vậy." Và chàng quay lại huýt sáo gọi ngựa.
Molly vẫn không thốt thêm lời nào khi ảo thuật gia thắng yên
ngựa cho mình, nhưng khi chàng thắng ngựa cho Molly thì nàng đặt tay lên vai
chàng hỏi, "Bạn có thật nghĩ rằng chúng ta có cơ gặp lại lân? Còn một điều
tôi quên chưa nói."
Schmendrick ngoái nhìn Molly qua vai. Ánh sáng ban mai làm
đôi mắt chàng vui như cỏ dậy màu xanh, nhưng khi chàng dừng lại dưới bóng ngựa
thì đôi mắt chuyển sang màu xanh thẫm đượm chút lo âu. Chàng nói, "Chính tôi
sợ điều đó cho lân. Có thể cô bạn của chúng ta giờ đây cũng thành lang thang
như chúng ta. Đi lang thang như thế là định mệnh của thế nhân, không thể là định
mệnh của kỳ lân được. Nhưng tôi hy vọng, lẽ cố nhiên tôi hy vọng." Kế đó
chàng nắm lấy tay nàng, tiếp, "Tuy nhiên, vì bạn và tôi, chúng ta đã cùng
chọn một ngả đường trong muôn ngàn ngả đường cùng đưa về một đích, thì cũng có
thể đó là ngả đường của một kỳ lân đã theo. Có thể chẳng bao giờ chúng ta gặp lại
nàng nữa, nhưng chúng ta vẫn luôn luôn nhớ và biết nàng đã từng ở đâu. Xin theo
tôi, chúng ta cùng lên đường."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét