Hồ thùy dương
Tập truyện cổ tích
Tại Nam bộ châu Á có một bán đảo nhỏ tên Oa-ly-đà, núi non hiểm
trở dân cư phần đông tụ tập ở miền đồng bằng phía Đông Nam ngay sát bờ biển.
Tại miền Bắc Oa-ly-đà ngay chính giữa khoảng núi non trùng điệp
rừng cây sầm uất, có một cái hồ thật rộng, xung quanh mọc thuần một thứ cây
thùy- dương, vì vậy người Oa-ly-đà gọi là Hồ Thùy Dương.
Các ông già bà cả xứ Oa-ly-đà trước đây vẫn thường kể cho con
cháu nghe về sự tích cái hồ đó, lời các cụ kể mộc mạc. Về sau các thi sĩ Oa-
ly-đà bèn kể lại thành khúc trường ca phổ nhạc, lời thơ chải chuốt bóng bẩy với
nhiều tình tiết tỉ mỉ. Rồi vào những đêm xuân mở hội có trăng tròn, người ta vừa
gẩy đàn vừa kể hoặc vừa hát chodân chúng nghe. Thường thường dân chúng tụ tập để
nghe chuyện từ lúc trăng rằm vừa nhô cao lên khỏi dãy núi ngoài khơi. Dân chúng
lặng yên nghe lời ca, nghe tiếng đàn, nhiều khi cùng vỗ tay giữ nhịp đồng ca với
thi sĩ hoặc đứng lên làm điệu bộ hợp với lời thơ. Đêm dài thành ngắn. Khi câu
chuyện vừa chấm dứt, dân chúng ra về thì trăng rằm thường cũng vừa kịp lặn, vừng
đông hơi ửng hồng, cỏ hai bên đường đẫm sương. Những hình ảnh đó như nhắc nhở
dân chúng nhớ lại biết bao tình tiết trong câu chuyện kể thâu đêm vừa qua. Khúc
nhạc-thi này chia làm ba hồi rõ rệt như sau:
HỒI THỨ NHẤT
TRUYỆN CON CHÓ SÓI ĐUÔI XÒE
TRÊN NÚI LI-BIÊNG
Ngày xưa khoảng Hồ Thùy Dương này là một khu rừng quế tuyệt đẹp.
Thân quế cao vút, cành quế ẻo lả rủ xuống như cánh tay của bầy tiên nghiêng
múa. Tới mùa xuân năm kia có một con sói về đó ở. Nguyên nó là một con sói tu
luyện lâu ngày đã thành tinh, hiện hình người, đi trên hai chân, duy cái đuôi vẫn
còn. Sở dĩ con sói tu luyện được như vậy vì nó là con sói dị tướng lông ba sắc,
đầu đen mình hung hung đỏ, và đặt biệt đuôi trắng xòe ra như bông lau.
Trước đây hồi còn tu luyện trên núi Li-biêng, một ngọn núi cao
quanh năm tuyết phủ miền cực Bắc, con sói có lần thấy một khối đá bị nước soi
mòn để lộ bên trong thỏi ngọc quý dài như chiếc đũa, óng ánh màu biếc. Nó bèn
đem thỏi ngọc đến Hang Trời.
Hang Trời là một động đá thông suốt hai bề, hình hàm rồng.
Chính là nơi tụ tập khí thiêng của trời đất. Gió từ bốn phương rừng núi lùa lại
ngát hương. Ánh sáng mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao ngày đêm phản chiếu lấp
lánh muôn mầu trên thành thạch nhũ khiến bất cứ giờ nào tại nơi đây cũng có một
màu ánh sáng huyền ảo lân lâng đạc biệt của chốn thần tiên. Ngay giữa động Hang
Trời có một phiến đá phẳng màu trắng trong. Phiến đá này trước đây chỉ là một
phiến đá thường. Tục truyền, sau lần Thượng Đế giáng lâm an tọa trên đó qua mấy
ngàn năm sau nó biến thành trắng phau và hầu như trong suốt như vậy. Do linh
tính đặc biệt của loài yêu, con sói đuôi xòe đem thỏi ngọc đến đặt ngay chính
giữa phiến đá. Nó biết rằng chờ ba trăm năm sau, thỏi ngọc sẽ thu hút tinh khí
mặt trời ban ngày, trăng sao ban đêm, cùng hương gió bốn phương của núi rừng để
biến thành chiếc đũa vạn năng.
Ba trăm năm qua. Con sói đã tu luyện hiện được thành hình người
nhưng nó chưa thể sử dụng được chiếc đũa vạn năng vì nó chưa thành
người thật, mà còn là loài sói với cái đuôi xòe đằng sau.
Vẫn với linh tính loài yêu, con sói đuôi xòe biết rằng nó cần
phải uống máu hai giống người khác nhau thì cái đuôi của nó mới biến đi được.
Nhưng nó không dám tự mình đi vồ hai giống người kia vì nó biết chiếc đũa
vạn năng sẽ mất hết linh ứng dưới tay một kẻ phạm tội hung ác. Nó chợt
nghĩ ra được một quỷ kế, không tự tay giết ai mà vẫn có đủ máu hai giống người
để uống cho đuôi xòe biến đi. Lập tức nó từ giã đỉnh núi Li-biêng đằng vân bay
mãi… bay mãi xuống miền Nam. Tới khu rừng quế nước Oa-ly-đà, nó xem kỹ hình thế
rồi quyết định dừng lại.
Sở dĩ con sói đuôi xòe chọn rừng quế này làm nơi thi hành xảo
kế vì ngang qua khu rừng có con đường lớn đưa ra biển, các giống người ở giữa đại
lục vẫn mượn con đường này để liên lạc thông thương cùng các giống người khác ở
ven đại dương.
Con sói đuôi xòe dùng phép biến dãy núi đá ven rừng thành một
động lớn gồm hai động nhỏ bên trong. Con sói ngồi gọn vào một hốc đá ngay chính
giữa động (nó cần ngồi thế để dấu cái đuôi xòe) và hiện thành hình một vị đạo
sĩ râu tóc bạc phơ ngồi chắp tay trước ngực tham thiền. Nó thường cất giọng hiền
từ nói cho từng người vào thăm động biết nó chỉ là một đạo sĩ đã từ lâu xa lánh
cõi đời và thích tìm những nơi rừng sâu núi cao để tu luyện. Lữ khách đã nhiều
kẻ dừng chân ngủ lại một đêm trong động, nhưng con sói với linh tính đặc biệt của
nó, biết rõ họ đều là những người hoặc đã phạm tội giết người hoặc tính tình
điêu ngoa phản trắc. Con sói cần những tâm hồn thật trong trắng thì xảo kế của
nó mới thành tựu được. Bỗng một chiều kia nó nghe bên ngoài cửa động có tiếng
hát rằng:
Ta đi nhặt những ánh sáng cuối cùng của ngày tàn
Nhưng ta chỉ nhặt được toàn lá rụng
Lát nữa các vì tinh tú sẽ đốt sáng vòm trời
Ta sẽ cho ngựa đi vào đồng sao chơi vơi
Giữa cảnh núi cao hùng vĩ rừng rậm mênh mông
Ta vẫn vui ca, quên đói mệt không chút hãi hùng
Ôi! Há là ăn cá cứ phải cá lớn sông Đường?
Há rằng lấy vợ cứ phải công chúa Huyền Phương?
Tiếng hát vừa dứt thì khách cũng vừa buộc ngựa xong và bước
vào động. Tay khách cầm một gióng lau già. Khách hầu như không hề để ý đến sự vật
quanh mình, ngồi phệt ngay dưới hốc đá chỗ sói tham thiền và bắt đầu khoét
gióng lau thành ống tiêu.
Vừa rồi nghe giọng khách hát, sói biết ngay khách thuộc giống
người phương Tây. Nay nhìn mái tóc đen, vừng trán cao, đôi mắt xa xôi của
khách, sói đoán ngay khách một thi sĩ. Qua lời ca ngậm ngùi và giọng ca đầy
thương nhớ, sói biết thêm thi sĩ đương bị thất tình. Nhưng điều làm sói mừng
hơn cả chính vì nó biết thi sĩ còn giữ nguyên tâm hồn trong trắng.
Chàng thi sĩ thất tình phương Tây vừa khoét xong gióng lau
thành ống tiêu bèn thổi lên mấy tiếng. Tiếng tiêu nghe thật êm đềm mà lại mang
máng như ca lại lời ca ban nãy:
Ta đi nhặt những ánh sáng cuối cùng của ngày tàn,
Nhưng ta chỉ nhặt được toàn lá rụng…
Sói đánh tiếng:
- Chà, thi sĩ thổi ống tiêu tuyệt diệu!
Lúc đó khách mới ngửng lên nhìn sói và cười hồn nhiên hỏi lại:
- Sao lão trượng biết tôi là thi sĩ?
Sói vẫn chắp tay trước ngực làm vẻ tham thiền đáp:
- Vì lão là đạo sĩ.
- A… thì ra lão trượng là đạo sĩ. Đạo sĩ thường biết rõ và
tiên tri được mọi việc!
- Chính vì vậy mà lão biết thi sĩ đang bị thất tình. Thi sĩ để
rơi ống tiêu, mặt cúi xuống vẻ ngậm ngùi:
- Công chúa Huyền! Công chúa Huyền Phương! Sói tinh ranh gợi
chuyện:
- Công chúa Huyền Phương một thế giai nhân! Thi sĩ bỗng lắc đầu:
- Còn nhắc đến công chúa Huyền Phương làm chi nữa!
Sói cất giọng dịu dàng:
- Sao người không kể rõ đầu đuôi câu chuyện cho lão nghe? Lão
sẽ tìm cách giúp.
Thi sĩ vui sửng sốt:
- Nếu được thế thì còn gì bằng! Giọng Sói càng dịu dàng:
- Người hãy kể lại chuyện đó cho lão nghe.
Thi sĩ bèn kể rằng:
- Thưa đạo sĩ tôi quê ở nước Bàng Quận cách đây chừng tám
trăm dặm về phía Tây. Dòng vua nước tôi từ xưa tới nay, hình như đã do thần
tiên định trước, vị nào cũng chỉ sinh hạ được một hoàng tử để nối ngôi và một
công chúa tuyệt thế giai nhân để kén Phò mã. Qua đời vua này sang đời vua nọ,
các công chúa tuyệt thế giai nhân đó đều kén chồng bằng hai cách: Bất cứ kẻ
nào, không kể sang hèn, hễ dùng dao ngắn nhảy xuống một hồ đá xây giữa cung vua
mà giết được mười con thuồng luồng lớn, hoặc một mình dùng mác xông vào giết được
mười con hổ lớn nhốt trong hầm đá dưới cung vua, kẻ đó được kết duyên cùng
nàng. Công chúa sẽ ở vậy suốt đời nếu các dũng sĩ rủi không thoát khỏi những
nhánh tay mềm nhưng khủng khiếp của lũ thuồng luồng hoặc bị táng thân trong miệng
lũ cọp đói. Riêng với công chúa Huyền Phương đã có mười ba dũng sĩ chết như vậy.
Thưa đạo sĩ gần đây tôi được giáp dung nhan công chúa, tôi thấy dù thân tôi có
tan ra khói ra nước thì khói nước đó cũng phải được rót vào đôi mắt của công
chúa mới siêu sinh đi được. Tôi sức yếu chỉ biết ngâm thơ và ca hát, làm sao giết
được hổ dữ, giết được thuồng luồng? Vì vậy tôi bỏ nước ra đi ngao du, ước ao có
thể vui với cảnh đẹp đường xa mà quên nỗi ước mơ tuyệt vọng. Sự tình là thế làm
sao mà đạo sĩ giúp tôi cho được?
Giọng Sói ôn tồn:
- Người hãy tiến tới gần lão!
Thi sĩ làm theo lời Sói.
- Người có thấy gì dưới chân lão không?
- Thưa lão trượng đó là chiếc đũa ngọc thì phải.
- Đó là chiếc đũa vạn năng, người hãy cầm lấy dùng thử
theo ý muốn.
Thi sĩ cầm chiếc đũa thần đi xuống. Ra cửa động chàng chỉ vào
một hòn đá lớn rồi hỏi:
- Hỡi hòn đá xù xì không rêu này, ta muốn biết tâm sự của mi
làm sao mà đượm vẻ cô quạnh?
Thốt nhiên tự trong tảng đá có tiếng văng vẳng truyền qua đũa
ngọc rồi thoát ra:
- Thưa thi sĩ, tôi chỉ ước ao có người trồng cho cụm hoa tím
bên mình, vì…
Quả thực chiếc đũa ngọc của đạo sĩ là chiếc đũa vạn năng!
Thi sĩ bỏ mặc câu chuyện dở dang chạy vụt vào động, quỳ trước đạo sĩ ân cần xin
giúp cho chàng lấy được nàng công chúa tuyệt thế giai nhân.
Con sói cũng vui mừng không kém. Nó nói:
- Nhưng thi sĩ có nhận lời giúp lão một việc chăng?
- Xin đạo sĩ cho biết ngay!
- Trước khi ta cho thi sĩ mượn chiếc đũa vạn năng để
làm bảo bối giết chết lũ thuồng luồng hay đàn hổ dữ, thi sĩ hãy dùng kim này –
(con sói giơ lên một chiếc kim dài đen nhánh) – chích vào cánh tay cha hay mẹ,
hay anh chị em, hứng cho lão chín giọt máu vào hồ rượu này. (Con sói giơ lên hồ
rượu nhỏ.)
Nhìn cái kim đen thi sĩ thấy rợn người. Chàng hỏi lại.
- Thưa đạo sĩ, nhỡ khi lấy xong chín giọt máu người thân của
tôi bị mệnh hệ nào thì sao?
- Thi sĩ quên chiếc đũa này là chiếc đũa vạn năng rồi
sao?
Thi sĩ cúi đầu suy nghĩ rồi nói:
- Đạo sĩ cho tôi dùng thử chiếc đũa thần một lần nữa.
- Xin cứ tự nhiên!
Ra ngoài cửa động, nhớ lại lời hòn đá khi nãy, thi sĩ leo cao
lên sườn núi tìm được một cây hoa tím và bẻ một cành đã khô chết. Chàng mang
cành khô đó về đặt trên hòn đá, dùng chiếc đũa vạn năng chỉ vào rồi nói:
“Cành hoa tím, hãy sống lại để ngày đêm bầu bạn cùng đá!” Lập tức cành khô nẩy
mầm thành một cây hoa xinh xắn, rễ non bám lấy kẽ đá, đồng thời thi sĩ nghe
truyền lên đũa thần tiếng văng vẳng của hòn đá:
- Đa tạ thi sĩ vạn bội! Đa tạ thi sĩ vạn bội! Không còn thắc
mắc gì nữa thi sĩ trở vào động đá nhận lời giúp đạo sĩ việc lấy máu người thân
và giục đạo sĩ đưa mình lên đường tức khắc.
Con sói cần chờ nạn nhân thứ hai nữa, nên lựa lời dùng kế
hoãn binh:
- Lão xem số mệnh thi sĩ trong những ngày gần đây còn gặp nhiều
gian nan lắm. Chi bằng hãy ráng ở lại động với lão đợi cho những ngày tai nạn
qua đi rồi hãy lên đường.
Thi sĩ nghe bùi tai ở lại. Con sói đuôi xòe bảo chàng tự chọn
lấy một trong hai động nhỏ làm nơi ở tạm. Chàng chọn động nhỏ bên phải. Rồi trong
khi chờ đợi, ngày ngày chàng leo núi qua rừng đi khắp cảnh đẹp trong vùng. Dưới
mắt các khách qua đường khác chàng là một đạo hữu của đạo sĩ.
Một hôm thi sĩ chợt chú ý đến phiến đá cũ. Chao ôi, một sự
thay đổi lạ lùng đã khiến thi sĩ không nén nổi lòng bồi hồi: hòn đá trước đây
xù xì gớm ghiếc nay rêu phủ xanh mướt như nhung. Rễ cây hoa tím đã bám khắp các
kẽ đá. Từng cụm lá cây run rẩy theo gió và những đóa hoa tím xinh xinh đua nở
như những nụ cười tươi tắn dịu dàng của người vợ hiền.
Trông cảnh âu yếm của tạo vật, thi sĩ chạnh lòng nhớ đến vẻ
quốc sắc thiên hương của công chúa Huyền Phương và tự hỏi thầm chẳng biết đến
bao giờ đạo sĩ mới đưa mình lên đường. Thi sĩ vô tình rút ông tiêu bên mình đưa
lên miệng thổi. Tiếng tiêu bùi ngùi đượm bao niềm thương nhớ.
Chợt có tiếng nói sang sảng:
- Có thế chứ! Trên đời này có bao giờ thiếu người thổi ống
tiêu.
Người vừa nói là một trang thanh niên anh tuấn, đôi mắt sáng
như sao, nước da rám hồng.
Thoáng nhìn thi sĩ cũng nhận được ngay tráng sĩ đó là giống
người ở các quần đảo miền Đông.
Tráng sĩ, giọng thân mật và đầm ấm vô cùng, vừa tiến lại vừa
nói lớn với thi sĩ:
- Xin ngài cứ thổi ống tiêu cho tôi được nghe nhờ. Đã mười
năm nay tôi không được nghe tiếng tiêu.
Thi sĩ mời người bạn mới ngồi lên một phiến đá phẳng ngay gần
mình rồi nói:
- Tôi sẵn sàng thổi ống tiêu để quý hữu nghe nhưng dám hỏi chẳng
hay quý hữu có phải tự ngoài biển Đông qua đây?
Tráng sĩ chợt nhìn về phía biển vẻ căm hờn uất hận:
- Phải, tôi ở quần đảo biển Đông lại đây. Tôi trốn ra đi phen
này quyết kết nạp anh hùng bốn phương kéo về giết hết lũ bạo tàn tại xứ sở tôi.
- Quê hương quý hữu bị giặc xâm lăng?
- Quê hương là của dân lành, người cùng giống nắm quyền cai
trị mà tàn bạo thì cũng coi như quân xâm lăng!
- Xin quý hữu kể lại đầu đuôi câu chuyện cho tôi nghe, may ra
tôi có cách giúp.
Tráng sĩ miền Đông vui lòng thể theo lời yêu cầu của bạn, kể
rằng:
- Thưa quý hữu, quê hương tôi là một quần đảo hiền hòa với những
rừng cây bát ngát. Đồng bào tôi chất phác như rừng, quảng đại như biển, hòa thuận
như chim khuyên. Ban ngày, đàn ông chúng tôi rủ nhau ra biển lặn xuống đáy, len
lỏi trong rừng san hô giữa đàn cá muôn màu để kiếm hạt trai, trong khi đàn bà
con gái trồng bông, cấy lúa hay dệt vải ở nhà. Ban đêm, nhất là những đêm trăng
sáng, tất cả nam nữ chúng tôi kéo nhau ra bờ biển thổi ống tiêu bằng trúc, gõ
trống căng bằng da hải cẩu, vừa ca hát vừa nhảy múa theo nhịp sóng vỗ. Cuộc sống
thần tiên đương kéo dài theo chuỗi ngày vui bất tận thì tại kinh đô xảy ra cuộc
biến loạn: Một tên gian thần xảo quyệt hung ác kết nạp được một số đồng đảng đã
âm mưu giết mất vị anh quân của chúng tôi rồi chiếm đoạt ngai vàng. Từ khi tên
gian thần cùng đồng đảng lên nắm quyền cai trị, chúng cấm chúng tôi ca hát, cấm
thổi ống tiêu và cấm nhảy múa. Chúng bắt chúng tôi họp lại thành từng đoàn thay
phiên nhau hoặc lặn xuống biển mò hạt trai hoặc khuân đá xây những lâu đài hùng
vĩ, nền cao trăm bực, nóc sát ngọn cây rừng, để dùng làm nơi cung điện cho
chúng ở. Trong mười năm qua chúng tôi ngày đêm phải làm tận lực như nô lệ đã
xây được mười tòa lâu đài như vậy và còn phải tiếp tục xây nhiều nữa… Chúng tôi
không được mở hội ăn mừng điềm lành, điềm tốt để tạ ơn Thượng Đế mà chỉ được mở
hội ăn mừng ngày kỷ niệm đăng quang của tên bạo chúa hoặc ngày kỷ niệm hoàn
thành của từng tòa lâu đài lũ chúng ở. Ngay trong dịp mở hội đó, chúng tôi cũng
không đươc thổi ống tiêu, không được gõ trống, không được nhảy múa mà chỉ được
cầm đèn kết hoa đi diễu quanh cung điện tên bạo chúa, cao lời ca ngợi công ơn hắn
đã dựng những kỳ công hùng vĩ cho xứ sở.
Nói đến đây tráng sĩ miền Đông vùng đứng dậy cười gằn:
- Chúng bắt chúng tôi làm việc không kể đêm ngày để dựng lên
những lâu đài đồ sộ bằng đá mà chúng quý hơn tiếng tiêu, câu ca, điệu múa của xứ
sở. Chúng tôi ai nấy muốn vằm chúng ra làm muôn ngàn mảnh, hỏi chúng có ơn gì?
Thi sĩ miền Tây nắm lấy tay tráng sĩ miền Đông kể lại tỉ mỉ
chuyện đạo sĩ và chiếc đũa vạn năng, rồi kết luận:
- Tôi có thể giúp được quý hữu. Xin hãy theo vào động yết kiến
đạo sĩ ngay bây giờ.
Sói vẫn ngồi nguyên chỗ cũ. Nó lặng nghe tráng sĩ miền Đông kể
xong tình đầu câu chuyện rồi hỏi:
- Vậy người muốn lão giúp gì? Tráng sĩ hăm hở nói:
- Xin đạo sĩ cho tôi mượn chiếc đũa vạn năng, tôi sẽ
dùng đũa thần bắt sống tên gian tặc phản nghịch cùng bè lũ đồng đảng của nó.
Tôi sẽ xích cổ từng tên bằng xích sắt, nhốt từng tên vào cũi sắt, cho khiêng từng
tên bỏ vào từng lâu đài. Ban đêm chúng tôi sẽ mở hội ăn mừng, thổi ống tiêu, ca
hát và nhảy múa quanh chúng để tỏ rằng chúng tôi đã thắng. Ban ngày chúng tôi
cùng đi làm việc như xưa rồi về nghỉ chân nhàn nhã dưới mái nhà cũ lẩn dưới
hàng cây xanh, để tỏ cho chúng biết chúng tôi không thèm ở trong những khối đá
nặng nề mà chúng kiêu hãnh. Chúng tôi tiếp tục nhảy múa cho đến khi lũ tàn bạo
chết rũ trong cũi sắt. Da thịt chúng sẽ rữa nát trơ xương nhưng bên dưới đầu
lâu của chúng vẫn còn vòng xích sắt của chúng tôi cùm nơi cổ.
Con Sói đuôi xòe nói:
- Nhưng tráng sĩ phải giúp ta một việc…
Nó chưa kịp nói hết tráng sĩ miền Đông đã ngắt lời:
- Tôi sẵn sàng về nhà chích lấy chín giọt máu người thân của
tôi dâng lên đạo sĩ.
- Được lắm, tráng sĩ hãy ở tạm động nhỏ bên trái đợi ngày lão
giúp xong thi sĩ, lão sẽ quay về đua người lên đường.
Ngay tối hôm đó nó báo cho thi sĩ miền Tây biết là sáng sớm
hôm sau nó sẽ đưa thi sĩ về quê hương thực hiện mộng đẹp của chàng với công
chúa Huyền Phương. Cả đêm hôm đó thi sĩ không sao ngủ được. Thi sĩ ra ngồi bên
hòn đá rêu và cây hoa tím thổi ống tiêu dìu dặt. Thi sĩ muốn ứng khẩu đọc một
bài thơ ca ngợi tình yêu trong vạn vật nhưng không hiểu sao khi nhìn vì sao hiu
hắt xa xôi trên đầu núi, chàng lại ngâm lên bài thơ cũ, tuy chàng biêt bài thơ
đó nay không còn hợp thời hợp cảnh:
Ta đi nhặt những ánh sáng cuối cùng của ngày tàn
Nhưng ta chỉ nhặt được toàn lá rụng
Lát nữa các vì tinh tú sẽ đốt sáng vòm trời
Ta sẽ cho ngựa đi vào đồng sao chơi vơi
Giữa cảnh núi cao hùng vĩ rừng rộng mênh mông
Ta vẫn vui ca, quên đói mệt, không chút hãi hùng Ôi!
Há là ăn cá cứ phải cá lớn sông Đường?
Há là lấy vợ cứ phải công chúa Huyền Phương?
Đêm đã hầu tàn, trời gần về sáng, theo lời yêu cầu của Sói,
thi sĩ ra đứng trước cửa động tự bịt kín mắt. Sói đằng vân đưa thi sĩ về tới
khu rừng quê hương thì hạ xuống, rồi tìm ẩn trên vòm cây cao mà nói xuống rằng:
- Thi sĩ hãy tháo khăn bịt mắt! Lão để sẵn dưới gốc cây chiếc
kim đen, chiếc hồ rượu và chiếc đũa thần. Đêm nay thi sĩ để chiếc kim đó lên đầu
giường, chờ người thân ngủ say rồi hãy lấy kim ra chích cho lão chín giọt máu hứng
vào hồ rượu. Xong xuôi người cấp tốc đem lại đây đặt hồ rượu máu xuống đổi lấy
đũa thần mà toàn quyền sử dụng.
Khi thi sĩ mở mắt ra, quả nhiên nhận thấy dưới gốc cây chiếc
kim dài đen nhánh, chiếc hồ rượu và chiếc đũa thần lấp lánh tỏa hào quang màu
biếc. Chàng theo đúng lời đạo sĩ cúi xuống cầm kim và hồ rượu rồi vội vã theo
đường quen về nhà.
Cha mẹ thi sĩ đã mất từ sớm. Dưới mái gia đình chàng chỉ còn
người em gái thùy mị tuổi mới mười lăm và người lão nô trung thành.
Cả hai thấy chàng về bất ngờ cùng reo vui hớn hở.
Hồi đó đương vào mùa cá, lại biết tính tiểu chủ đặc biệt
thích món này nên lập tức người lão nô chèo thuyền ra sông Đường gần đấy quăng
một mẻ lưới, kéo lên được con mè cực lớn và vô số cá thờn bơn nhỏ. Cô em gái vội
vàng đem con cá lớn sông Đường vào bếp làm bữa ăn thịnh soạn dâng lên anh xơi.
Thi sĩ đã thay cha mẹ âu yếm săn sóc em từ nhỏ, nay nghĩ đến
việc sắp dùng cây kim dài đen nhánh chích lấy máu đứa em mồ côi đó hứng vào hồ
rượu, chàng thấy rợn người. Nhưng, nghĩ đến chiếc đũa vạn năng thi sĩ
thấy yên lòng ngay. Chàng sẽ là chàng dũng sĩ thứ 14 nhảy xuống hồ giết thuồng
luồng hay xông vào hầm giết mãnh hổ. Oai hùng biết bao! Rồi được vua kén làm
phò mã. Vinh quang biết bao! Được sánh duyên cùng công chúa Huyền Phương. Còn
diễm phúc nào bằng?
Tối hôm đó thi sĩ đã lén để chiếc kim dài đen nhánh dưới gối
đứa em gái dịu hiền rồi ngồi sang buồng bên chờ đợi. Tới khuya, bỗng tiếng người
em gái thét lên kinh hoảng. Nàng kể với anh:
- Em mơ thấy một con chó sói ba sắc đầu đen, mình hung hung
và đuôi trắng. Thấy em, nó nhỏ một cái lông đen trên gáy rồi hung hăng xông lại.
Thi sĩ khuyên giải em mấy câu rồi trở về phòng, bán tín bán
nghi.
Một lát sau cô em đã ngủ, hơi thở đều đều.
Thi sĩ cũng gục mặt lên bàn ngủ thiếp. Hình như có gió lùa lộng
vào phòng. Hình như chàng thấy có bóng cha mẹ lướt qua. Sực tỉnh, chàng đứng dậy.
Vừa lúc đó tiếng em gái nói mê: “Ta có cha mẹ trông nom, có Trời che chở mày giết
ta sao được?”
Thi sĩ rùng mình ngồi xuống. Chàng ngồi như vậy lâu lắm.
Chợt có tiếng gà gáy báo sáng. Lần này chàng vùng dậy cương
quyết. Chàng chỉ còn nghĩ đến chiếc đũa thần, nghĩ đến ngày vinh quang được kén
phò mã. Một tay cầm hồ rượu, chàng tiến thẳng đến giường em, rút chiếc kim dưới
gối, nhắm mắt thích mạnh vào cánh tay em. Chui qua làn da, mũi kim như có sức
hút cứ thế tiến ngập vào thớ thịt. Thi sĩ thấy người em gái uốn người lên, miệng
há muốn thét mà không thành tiếng, đồng thời một giọt máu theo kim rỏ ra. Giọt
máu bỗng thành một bong bóng máu phồng to… phồng to… lên mãi chật cả gian nhà.
Thi sĩ hãi hùng thấy chính mình cũng bị ngập trong bong bóng máu ấy. Nhưng kỳ lạ
thay, khi giọt máu rơi vào hồ rượu, tự nhiên nó trở lại gọn nhỏ như thường.
Chín lần máu nhỏ ra, chín lần thi sĩ thấy mình ngập trong biển máu bóng loáng.
Không thấy máu chảy ra nữa, chàng rút kim và trấn tĩnh định thần nhìn kỹ thấy
xác cô em gái đã cứng lạnh, nước da xám ngoét. Hốt hoảng, chàng cầm hồ rượu chạy
vội tới bờ rừng để lấy đũa thần cứu em. Chàng thấy bước chân mình trở nên nhún
nhẩy quái đản như bước chân của loài đười ươi say mật hoa rừng. Khi chuyển mình
ngoái cổ nhìn lại phía sau chàng tự thấy toàn thân mềm oặt như mình con trăn lớn.
Lúc qua suối, nước suối trong vắt bỗng như đông lại biến
thành tấm gương lớn và khi nhìn xuống, ôi kinh khủng! Chàng nhận thấy bóng
chàng toàn máu, quần áo nhầy nhụa máu, mặt mũi nhễ nhại máu, khiến mầu đen của
mớ tóc càng thêm kinh rợn. Chàng lội nhanh qua suối và hãi hùng thấy như bóng
dưới nước là con quỷ đỏ rượt theo vồ mình. Tới rừng, chàng vui mừng thấy dưới gốc
cây vẫn còn chiếc đũa vạn năng óng ánh màu biếc.
Đặt hồ rượu xuống, chàng vồ lấy chiếc đũa. Than ôi! Mầu biếc
óng ánh vụt tắt. Chàng linh cảm thấy mình đã mất tất cả. Dù sao chàng cũng cầm
đũa chạy vội về. Qua suối chàng nhắm mắt lại để khỏi nhìn thấy bóng con quỷ máu
in hình dưới nước.
Tới nhà, chàng dùng đũa niệm lời chú, ước mong cải tử hoàn
sinh cho em. Nhưng ánh sáng biếc của đũa không còn, khí thiêng cũng hết, thi thể
người em gái vô tội vẫn cứng lạnh nằm nguyên trên giường.
Đau đớn, thất vọng, hối hận chàng chạy ra khỏi nhà, theo ngược
đường bờ suối. Cỏ bên bờ suối lóng lánh muôn ngàn giọt sương sớm và ghê rợn
thay, trong từng giọt sương nhỏ xíu như vậy chàng cũng thấy phản chiếu đủ và rõ
cả thân hình đẫm máu của chàng.
Chàng chạy miết mải tới một khoảng cao kia, xung quanh có những
thác bạc réo lên như tiếng hàng trăm con ngựa hí.
Tới đó chàng thi sĩ khốn nạn của chúng ta nhắm mắt lại rồi
gieo mình xuống vực!
Hai ngày sau cũng vào giờ này, tráng sĩ miền Đông cũng ở vào
tình trạng đó. Tráng sĩ miền Đông mồ côi mẹ từ nhỏ và chàng đã mắc mưu con sói
đuôi xòe về quê giết cha. Chàng chạy như điên như cuồng qua bãi biển cát trắng
chói lòa. Chàng nhắm nghiền mắt lại bởi bãi cát trắng khi đó cũng như biến
thành gương soi bóng máu của chàng. Chàng hối hả leo lên một mỏm đá thấp nhô ra
biển. Chàng lấy con dao sắc chích sâu vào cánh tay rồi đâm đầu xuống biển. Máu ở
cánh tay chàng loang ra gọi đàn cá mập xô lại.
Khi thi sĩ miền Tây gieo mình xuống vực cũng như tráng sĩ miền
Đông đâm đầu xuống biển, con sói đuôi xòe vẫn bay lơ lửng trên đầu họ. Nó đã sà
xuống rất kịp lúc để lượm lại chiếc đũa vạn năng. Bây giờ thì đuôi nó đã
biến hết. Nó có thể hiện thành hình ông già như cũ, đi đi lại lại ngay giữa đám
đông mà không còn điều gì nghi ngại nữa.
HỒI THỨ HAI
TRUYỆN MỘT ÔNG HOÀNG
ĐI TÌM THUỐC TRƯỜNG SINH BẤT TỬ
Cùng một lúc với thời kỳ con sói đuôi xòe tu luyện trên núi
Li-biêng, tại miền bờ biển cực Nam có giòng vua Cát Hiền trị vì quần đảo Triết
Mông.
Quần đảo Triết Mông cách xa nước Oa-ly-đà nhiều lắm, nên chi
thời dân chúng Triết Mông bị chinh chiến hoặc gây chinh chiến sang các nước lân
cận, dân chúng Oa-ly-đà tuy có biết tin mà ít chịu lây ảnh hưởng tai hại.
Khi con sói đã thành tinh hiện hình người đi trên hai chân
thì Triết Mông đương ở dưới triều đại vua Cát Hiền Đệ Thất. Song vua Cát Hiền Đệ
Lục anh hùng xuất sắc bao nhiêu thì vua Cát Hiền Đệ Thất ngù ngờ vụng dại bấy
nhiêu. Chẳng bao lâu các nước nhỏ lân cận trước đây vẫn thần phục Triết Mông đều
bỏ lệ triều cống hàng năm, mà các nước lớn thì có ý dòm ngó. Đã tưởng Triết
Mông không sao tránh khỏi nạn binh đao! May sao lúc đó Hoàng tử Hạc Miên, vừa tới
tuổi trưởng thành, dùng tài biện thuyết, trong củng cố được nội bộ, ngoài giữ vững
được uy thế cho Triết Mông.
Tương truyền hoàng hậu đã có sắc đẹp tuyệt trần lại khôn
ngoan rất mực, khi người mới thụ thai có nằm mơ thấy mình được đi thuyền trên một
hồ rộng tựa biển rồi thấy một điểm trắng như tuyết từ xa lướt lại và lớn dần. Định
thần nhìn kỹ thì đó là một con hạc. Chim thần sà xuống thuyền và hoàng hậu nhận
thêm thấy trên lưng hạc có một tiên nữ khuôn mặt hao hao giống ngài. Nàng tiên
cất tiếng thân mật nói:
- Chị đã có mang Hoàng tử, chẳng hay chị có điều gì mong ước
xin cho em rõ.
Hoàng hậu mang máng nhớ trước đây mình cũng ở thiên đình với
nàng tiên cưỡi hạc. Nghe nàng hỏi vậy hoàng hậu nghĩ tới những nụ cười ngớ ngẩn,
những lời nói vô duyên của vua Cát Hiền Đệ Thất, bèn đáp:
- Xin người giúp tôi cho Hoàng tử ra đời với vẻ thông minh
dĩnh ngộ, với tài ăn nói sắc sảo có duyên.
Con hạc vù bay, hoàng hậu giật mình tỉnh dậy, lòng lâng lâng
như vẫn còn ngồi trong con thuyền lướt trôi trên hồ rộng. Tới ngày mãn nguyệt
khai hoa, quả nhiên hoàng hậu sinh hạ một hoàng tử mắt sáng, mũi cao, trán rộng.
Hoàng hậu đặt tên con là Hạc Miên.
Hạc là giống chim lớn tụ tập rất nhiều ở quần đảo Triết
Mông. Hằng năm cứ vào mùa đông thì giống chim này từ phương Bắc bay về quần đảo
này nhiêu không biết cơ man nào mà kể để lánh rét.
Miên là một giống cá đặc biệt thường đi từng đôi thơ thẩn
hết khoảng biển này sang khoảng biển khác, hễ gặp con cá lớn nào đương đuổi bắt
đàn cá bé, lập tức chúng phun ra chất mực đen ngòm và bỏng nhẫy để đuổi con cá
lớn đi nơi khác mà cứu đàn cá bé. Bởi vậy thường cá Miên tới đâu các loài cá
con quây quần xúm xít quanh đấy.
Đặt tên con là Hạc Miên, hoàng hậu với một linh tính thần
tiên, có ý muốn hoàng tử sau này lớn lên sẽ khôn ngoan như chim Hạc biết lúc
nên ở, lúc nên đi và quả cảm bao dung như đôi cá Miên biết che chở cho lũ cá yếu
kiếm ăn quanh mình.
Nếu vua Cát Hiền Đệ Thất càng về già càng ngu độn thì trái lại
hoàng tử Hạc Miên càng trưởng thành càng thông minh dĩnh ngộ và tài ăn nói hoạt
bát tưởng có một không hai trong lịch sử các đấng anh quân. Mặc dầu hoàng tử
chưa lên ngôi cửu ngũ mà linh hồn của triều đình Triết Mông hầu như quy tụ cả
nơi người. Nhờ tài biện thuyết của hoàng tử mà các lão thần đem hết tài trí ra
gìn giữ giang sơn Triết Mông. Nhờ tài biện thuyết của hoàng tử mà các thần tử
trẻ tuổi khác không dám tính chuyện nổi loạn cướp ngôi báu, trái lại đồng lòng phù
tá các vị lão thần để cùng đối phó với các nước lớn bên ngoài đương nuôi dã tâm
xâm lăng.
Đúng năm hoàng tử đến tuổi trưởng thành, Trời làm hạn hán. Đồng
mạ cùng các hoa màu khắp nơi phơi mình khô xác. Lửa trời gay gắt ngay từ vừng
đông vừa rạng. Qua ba tháng liền trời trong xanh thăm thẳm không gợn một sợi
mây. Nhiều vùng đã thấy từng đàn chuột đói hàng ngàn con nhô ra khỏi các cống
rãnh hang hốc, ngơ ngác đi tìm thức ăn. Một nạn đói khủng khiếp trùm lấy đe dọa
dân chúng Triết Mông. Các nước cừu địch nắm lấy thời cơ đó, cùng nhau liên kết,
chuẩn bị gây chiến. Nạn can qua tới độ nguy kịch nhất, không biết bùng ra lúc
nào. Hoàng tử Hạc Miên cho lập đàn cầu đảo giữa trời. Văn võ triều thần đứng ở
hai bên tả hữu. Dân chúng vòng trong vòng ngoài nắm tay nhau rất có thứ tự quây
lấy đàn tràng. Hoàng tử đã ăn chay nằm mộng từ ba ngày trước, tới hôm đó, người
tắm rửa sạch sẽ rồi đăng đàn ba lần vào các buổi sáng, trưa, chiều, ứng khẩu đọc
ba bài văn khác nhau kêu gọi thần linh. Giọng người sang sảng thiết tha, lời
người lâm ly thành khẩn đến nỗi bách quan và dân chúng đứng dưới đều thấy mủi
lòng. Rừng cây xung quanh cũng như rủ lá.
Tới chiều có cơn gió mát từ ngoài khơi thổi vào. Khi bóng tối
bảng lảng đổ xuống thì bắt đầu thấy những tia chớp loang loáng về phía trời
Đông. Một điểm đen xuất hiện vào đúng khoảng phân cách trời và nước. Gió thổi
ngày một mạnh, điểm đen đó bủa rộng ra khắp trời như một cái lưới khổng lồ mà
các thần linh tung ra để chụp lấy quần đảo Triết Mông. Từ tất cả mọi điểm ở
chân trời, những đợt sóng nhấp nhô ào tới. Đúng nửa đêm, trời đổ cơn mưa. Mua
rơi tầm tã trong bảy ngày liền. Rừng cây như được tắm gội cho sạch bụi bặm, nõn
lộc xanh mướt trổ ra. Đồng mạ, hoa mầu hồi sinh cùng dân chúng. Tới ngày thứ
tám, khi những tia nắng vàng óng đầu tiên le lói tỏa ra thì cây cỏ cũng như
sinh lực của thần dân Triết Mông tựa hồ đua nhau vươn mình lớn gấp.
Các nước cừu địch không dám tính chuyện xâm lăng quần đảo Triết
Mông nữa. Cũng kể từ đây, uy danh hoàng tử Hạc Miên nổi dậy như sóng cồn. Hoàng
tử bèn dùng tại biện thuyết khích lệ thần dân thành lập một đạo quân quyết tử,
rồi dùng đoàn quan quyết tử đó đi chinh phục mấy nước nhỏ lân cận để thị uy. Đạo
quân quyết tử tới đâu, địch thủ tơi bời đến đấy. Thực là đạo quân bách chiến
bách thắng!
Đã có lần hoàng hậu cho triệu hoàng tử vào cung. Ngài giảng lại
hai chữ "Hạc Miên" rồi khuyên hoàng tử đừng nên hành động ngược với ý
nghĩa đẹp của tên đó. Đương đà hiếu thắng, hoàng tử tâu lại:
- Kính xin Mẫu hậu yên lòng, nước nhà vừa thoát cơn nguy nan,
con cần chinh phục một vài nước nhỏ để dùng làm phòng tuyến tự vệ. Khi đoàn
quân quyết tử chiếm xong nơi nào, chúng đều phải tuân theo nghiêm lệnh không hề
làm điều gì hại đến dân chúng nơi đó. Như vậy tưởng Mẫu hậu chẳng phải lo ngại
điều chi nữa.
Kể từ đấy hoàng tử càng dùng lời nói khéo để đoàn quân quyết
tử xả thân trong những trận chinh phục khác.
Có ba vị hoàng tử của ba nước nhỏ bị bắt về Triết Mông làm
con tin. Có những nàng công chúa không coi hoàng tử là kẻ quốc thù, trái lại
quá mê say lời nói cùng phong độ hiên ngang của hoàng tử, các nàng còn nguyện
xin theo về cung hầu hạ. Tại những nước này, hoàng tử thường dùng lời nói khéo
mua chuộc vài vị cận thần, mật ước với họ nếu triều đình nước đó sinh lòng kia
khác thì họ lập tức cho người mang mật thư đến Triết Mông báo tin. Nhờ vậy
hoàng tử đã nhiều lần đem quân rất kịp thời đến trừng trị những nước mưu toan
thoát khỏi nền đô hộ Triết Mông. Hoàng tử lại kết liên với một nước lớn nhất rồi
dùng kế ly gián nước lớn này với các nước lớn khác. Hoàng tử lại giả danh đi thăm
thân thiện các nước lớn xa hơn, tới nước nào, dùng tài nói của mình gây chia rẽ
nội bộ tại nước đó. Hoàng tử đã thành công khắp nơi. Uy thế thống trị Triết
Mông vì vậy thêm vững mạnh bội phần. Các đồ tiến cống lụa là châu báu hàng năm
mang đến Triết Mông không biết bao nhiêu mà kể. Các thiếu nữ Triết Mông được
tuyển làm cung nữ, cùng các công chúa ở các nước khác theo về đều hết lòng phụng
thờ hoàng tử. Tuy nhiên hoàng tử chưa hề sủng ái ai đến mức quyết định ngôi
hoàng hậu sau này.
Tới ngày kia, trong một buổi họp văn võ bá quan, không hiểu
sao hoàng tử nghĩ đến ngày mình chết. Ngài tự hỏi: “Ta chết đi, hàng bầy tôi
nghiêm kính kia cùng chết theo ta ư?”
Buổi trưa hôm đó, ngài đi qua kho tàng, nhìn từng dãy nhà lụa
là gấm vóc, từng dãy nhà kim ngân châu báu. Ngài tự hỏi: “Ta chết đi lụa là, gấm
vóc, vàng bạc, châu báu chết theo ta ư?”
Chiều tối hôm đó vì mải suy nghĩ, ngài đi lạc vào Huyền Cung,
nơi các mỹ nữ của ngài ở. Bầy cung nữ vẫn ước mơ vua, nhan sắc chợt rực rỡ như
sao băng, nụ cười mừng đón, khóe mắt ân tình. Ngài tự hỏi: “Ta chết đi, cung tần
mỹ nữ cùng chết theo ta ư?”
Hôm sau hoàng tử dậy từ sớm ra vườn Ngự Uyển. Vừng Đông ửng hồng,
mây trời man mác, gió sớm nhẹ nhàng, hương hoa thanh khiết… Ngài muốn thét lớn:
“Ta chết đi, trời đất cùng chết theo ta ư? Sự nghiệp ta sụp đổ tan tành ư?”
Một vị quan đại thần nội cung bước tới sụp lạy vấn an.
Hoàng tử hỏi:
- Khanh biết chăng nơi nào tìm được thuốc tràng sinh bất tử?
- Tâu Hoàng Tử, thần không hề được nghe nói đến nơi nào có
thuốc tràng sinh bất tử - Viên đại thần đáp.
Hoàng tử thẫn thờ suy nghĩ. Vị đại thần nói:
- Tâu Hoàng tử, thần biết tại ngọn núi cao nhất miền Tây có một
đạo sĩ tu hành đắc đạo, xin Hoàng tử tới đó tìm hỏi may ra đạo sĩ biết cách luyện
linh đan tràng sinh bất tử.
Ngay hôm đó, hoàng tử đem theo một số bộ hạ tới miền Tây, hỏi
thăm đường thổ dân, tìm được tới ngọn núi cao nhất, khi lên đến gần đỉnh thì trời
vừa tối. Thấy một dòng suối trong, lấp lánh có ánh sáng dưới đáy, hoàng tử bèn
một mình lội ngược dòng… Đi được một quãng khá xa, suối bỗng mở rộng thành hồ,
trên bờ thấp thoáng bóng một thảo lư, ánh sáng thần tiên từ đáy nước bốc lên chập
chờn soi sáng cả vùng. Lần bưới tới thảo lư nhìn vào, hoàng tử thấy một cụ già
tiên phong đạo cốt đang ngồi xếp bằng tròn trước một chiếc kỷ nhỏ chăm chú đọc
sách. Thấy người lạ vào, đạo sĩ điềm nhiên ngẩng nhìn, khuôn mặt thực phúc hậu.
Hoàng tử kính cẩn xưng danh và ngỏ ý xin đạo sĩ chỉ giáo cho
cách luyện thuốc trường sinh bất tử. Đạo sĩ nói:
- Nếu người đến hỏi về nước biển, về chim rừng, về những kho
báu chứa trong lòng núi, về các vì tinh tú trên cao thì lão trả lời được; còn về
linh dược tràng sinh bất tử lão không rõ lắm. Lão chỉ biết tại dãy núi Yến Tử
ngoài biển Đông có một đạo sĩ đã hai trăm năm mươi tuổi, sống trong hốc đá với
chim yến; vị đó lúc tham thiền có thể giao cảm với trời đất, người thử tìm tới
đó hỏi xem.
Hoàng tử kính cẩn cảm tạ và từ giã đạo sĩ xuống núi, trở về
kinh đô lấy thêm tùy tùng. Mấy người thuyền chài già thuộc đường được vời tới
làm hướng đạo. Rồi hoàng tử cùng đoàn người thẳng tới biển Đông, dùng hai chiến
thuyền lớn vượt sóng ra khơi. Qua ba ngày sóng êm hoàng tử tới dãy núi Yến.
Hoàng tử phân thành từng khu chỉ định cho từng toán. Sau đó lũ người hăm hở sục
sạo khắp các hang hốc xa gần. Đã ba ngày nhọc công tìm kiếm, vào động nào họ
cũng chỉ thấy chim yến sào sạc bay ra, tịnh không thấy bóng một đạo sĩ nào cả.
Sang ngày thứ tư cuộc tìm kiếm vẫn vô hiệu quả. Đêm hôm đó hoàng tử nằm thao thức
đến khuya lắm, đắn đo chưa biết sớm mai nên về hay nên ở. Từ quanh núi mơ hồ vọng
lại tiếng sóng dạt dào xô vào thành đá. Chợt có tên quân đến báo tin lạ: tại
phía Đông Nam mãi tít trên ngọn núi cao nhất dẫy Yến Tử, mặc dầu khuya khoắt, vẫn
có tiếng chim bay ra bay vào đều đều. Hoàng tử vội cùng bộ hạ đi ngay.
Tới nơi, lắng nghe tiếng vỗ cánh, hoàng tử thấy như có hai
đàn chim yến bất tận: một từ ngoài khơi bay vào, một từ hang núi bay đi. Người
bèn cho đốt đuốc rồi dẫn đầu toán tùy tùng lần theo tiếng chim yến leo mãi lên,
cắm cúi leo mãi lên… Đường càng cao càng hiểm hóc. Tới điểm kia thấy có luồng
gió lạ hút ánh đước xuống dưới, không ai tiến thêm được một bước nào nữa. Định
thần nhìn kỹ ai nấy rùng mình: đã mạo hiểm leo lên một mỏm đá cheo leo nhô hẳn
ra biển. Ánh đuốc bùng lên rực rỡ, nhưng ánh sáng chỉ tỏa xuống tới nửa chừng.
Tít thẳm bên dưới là đáy vực một mầu đen ngòm. Triều biển theo dòng hẻm xô vào
rồi bị cuốn xoáy hun hút, tiếng nước vật vã mãnh liệt và nghẹn ngào. Hơi lạnh bốc
lên quấn lấy đoàn người như tấm vải liệm. Tất cả ánh đuốc vụt tắt ngấm! Rừng,
núi, biển, trời chìm trong bóng tối. Vạn vật tựa hồ sắp bị hút xuống đáy vực hết
cả. Mọi người bám chặt lấy mỏm đá, rễ cây rồi ai nấy nằm phục xuống đợi sáng.
Hơi lạnh và sức hút bớt dần, họ thiếp đi trong tiếng cánh vỗ nhẹ lướt, tiếng
chiêm chiếp êm đềm của đoàn chim yến vô hình bay ra bay vào đâu đây.
Hoàng tử thức giấc đầu tiên với gió sớm. Khoảng vực cùng mặt
biển mênh mông ở tít dưới xa hơi gọn sóng, rất mực thanh bình. Từng con chim yến
từ ngoài khơi bay vào, lẹ như lá rụng, mỏ xinh có ngậm một cái gì. Rồi cứ mỗi khi
một con đậu xuống lại có một con bay đi. Cảnh đó vừa ngoạn mục vừa kỳ lạ. Hoàng
tử đoán chắc phía ngoài cùng phải có một hốc đá nhỏ nào. Trời rạng dần. Các kẽ
đá, rễ cây trông đã rõ. Hoàng tử tìm lối leo ra đầu mỏm. Cách đi tuy nguy hiểm
nhưng không đến nỗi khó khăn như khi còn đêm tối.
Lát sau tới đích, nhìn xuống quả nhiên hoàng tử thấy ngay bên
dưới có một động nhỏ, lối vào khá phẳng. Lũ chim yến thay nhau tới lui như thoi
dệt. Chúng thấy có bóng người mà không hề xao động. Bây giờ thì hoàng tử nhận thấy
rõ: từng con bay vào mỏ có ngậm hoặc một thứ quả rừng nhỏ, hoặc một bông hoa
xinh, hoặc một nhánh cỏ thơm và những con bay đi thường ngậm những thứ gì như cỏ
rác vàng úa.
Hoàng tử men xuống… Vừa đặt chân tới cửa động, mắt người bỗng
sáng lên vì vui mừng: bên trong người thấy một vị đạo sĩ râu tóc trắng như tuyết
đương ngồi trên một bệ đá tham thiền. Những con chim yến bay tới đặt hoa quả
trước mặt đạo sĩ hoặc thả nhánh cỏ thơm vào một chiếc lư đồng đen nhỏ trong đó
bốc lên những ánh lửa xanh rất đều ngọn. Tĩnh tọa ở vị trí này, đạo sĩ quả là
ngồi đối diện với cái bao la của vũ trụ và ở trên cả cái thanh bình lẫn cái
phong ba của đại dương.
Đạo sĩ hé mở mắt. Hoàng tử vội xụp xuống lạy mà rằng:
- Kẻ phàm tục này đến quấy rối ngài thế này thực là quá bạo,
chỉ dám mong ngài mở lượng ban cho linh đơn trường sinh bất tử.
Đạo sĩ cất giọng êm ả trong khi mớ tóc chòm râu của người phơ
phất theo cơn gió thoảng từ ngoài lùa nào:
- Ta không có linh đơn trường sinh bất tử. Đã sinh vào cõi sống
chết sao lại muốn vượt khỏi luật tồn vong?
Hoàng tử buột miệng thở dài. Đạo sĩ khẽ gật đầu:
- Phải, ta biết, chỉ vì người quá nghĩ đến uy quyền và ngọc
ngà châu báu nên thèm khát trường sinh bất tử. Ngươi hãy trông cỏ thơm cháy
trong lư đồng. Cỏ thơm từng nhánh cháy đi… lửa còn mãi mãi…
Hoàng tử tần ngần chẳng biết nói sao.
Đạo sĩ cúi đầu suy nghĩ, ngẩng nhìn, rồi lại cúi đầu.
Hoàng tử hồi hộp chở đợi.
Đạo sĩ bỗng gật gù ngẩng nhìn hoàng tử một lần nữa chăm chú
hơn rồi chỉ về phía góc động nói:
- Ngươi hãy rót lấy một bát nước mang lại đây. Hoàng tử vội
vã làm theo lời. Khối nước nhỏ lẫn vào màu bát ngọc cũng trở thành vàng lộng
như ráng chiều. Mang bát nước lại đặt trên bệ đá, hoàng tử hồi hộp nhìn đạo sĩ
mở nắp một chiếc bình nhỏ xíu cũng một màu ráng chiều. Đạo sĩ thận trọng
nghiêng tay như để trút thuốc vào bát nước. Đã đứng gần lại chăm chú nhìn mà
hoàng tử cũng không nhận thấy gì.
Thấy đạo sĩ thận trọng đậy nắp bình lại, hoàng tử đành rụt rè
nói:
- Dám thưa đạo sĩ, bình ngọc của ngài đã hết thuốc.
Đạo sĩ mỉm cười:
- Ngươi muốn tìm mầu sắc của thuốc ư? Thuốc cùng màu với Trời
Đất nên nhìn không ra! Ngươi muốn chính tay cầm được thuốc ư? Thuốc nhỏ và tinh
vi nên lọt khỏi tay người. Hãy bưng bát nước lên rồi uống một hơi!
Hoàng tử ngoan ngoãn làm theo lời. Đạo sĩ tiếp:
- Gặp nhau đây âu cũng là tiền duyên! Uống linh dược của ta
người có thể ngồi tham thiền lâu bao ngày củng được. Nếu bỏ được tư dục thì ngồi
như vậy ít lâu sẽ có lúc hồn ngươi giao cảm với hồn vạn vật; ngươi sẽ thông suốt
lẽ sống chết huyền bí của Đất Trời mà biết tu lấy thánh đức, như vậy có khác
chi bất tử? Thôi ngươi khá rút lui, thành đạt hay không từ nay là do ngươi.
Hoàng tử sụp lạy rồi rút lui. Ngoài cửa động không còn bóng một
con chim yến nào nữa. Hoàng tử nhẹ nhàng leo lên đỉnh mỏm đá, lần theo lối cũ.
Đoàn tùy tùng đương xôn xao hốt hoảng, họ tưởng người đã rơi mất tích xuống đáy
vực. Người tươi cười ra lệnh quay về.
Khi xuống tới chân núi, mọi người ngẩng nhìn lên chỉ thấy cây
đá chấp chùng vòi vọi, chịu không thể định rõ mỏm cao ở về phía nào. Chính
hoàng tử cũng không hiểu sao mọi người đã leo lên rồi lại trở xuống bằng đường ấy
được.
Kể từ lúc xuống thuyền, suốt ba ngày liền trên biển, hoàng tử
không hề chợp mắt ngủ mà tinh thần dường như minh mẫn thêm lên bội phần. Nhìn
mây bay, hoàng tử tưởng như mình đương đứng trên bè mây đó và trôi ngược lên
Thiên Đình. Nhìn xuống biển, hoàng tử tưởng như mình đương rẽ nước đi thẳng xuống
Thủy Cung.
Khi đã về tới kinh đô, mấy lần hoàng tử leo lên đỉnh ngọn
tháp cao nhất hoàng cung định ngồi tham thiền theo lời khuyên của đạo sĩ, nhưng
mỗi khi hé mắt, ánh lấp lánh của những chòi vàng mái bạc quanh hoàng cung xói tới
khiến người thấy lòng bàng hoàng, dạ bứt rứt, ngồi không yên.
Sau cùng hoàng tử quyết định đi kinh lý khắp nước chư hầu một
lần nữa rồi sẽ về tham thiền.
Đúng vào năm hai chàng thi sĩ và tráng sĩ mắc mưu con sói
đuôi xòe giết em, giết cha rồi tự vẫn, Hoàng tử Hạc Miên tuần du tới nước láng
giềng Bàng Quận và lần này được nghe tiếng đồn về sắc đẹp nghiêng nước nghiêng
thành của Huyền Phương công chúa. Hoàng tử định tiện đường thẳng sang Bàng Quận
du thuyết, chẳng may bị viên võ tướng trấn biên ải nước đó cương quyết khước từ. (Bàng
Quận cách Triết Mông quá xa nên uy tín của hoàng tử tới đây không đủ để tướng
trấn ải kia phải nể sợ.)
Lập tức Hoàng tử Hạc Miên trở về nước và mặc dầu đã sắp tới
ngày vua cha làm lễ chính thức truyền ngôi báu cho, người vẫn cương quyết đem
đoàn quân quyết tử ngày đêm vượt đèo cao, rừng sâu, sông rộng đến đánh phá Bàng
Quận. Đoàn quân tiến vào tận kinh đô bắt sống được toàn thể hoàng gia trong đó
có Huyền Phương công chúa. Ôi! Buổi gặp gỡ đầu tiên đó làm sao nói hết được mối
tình thăm thẳm như trời cao, dài như sông, rộng như biển của hoàng tử trước sắc
đẹp mê hồn của Huyền Phương công chúa. Hoàng tử đã tự nghĩ thầm – y hệt thi sĩ
dạo nào: “Dù thân ta sau này có tan ra khói ra nước thì khói nước đó cũng phải
được rót vào đôi mắt của Công chúa Huyền Phương mới siêu sinh đi được.”
Vốn đã biết lệ kén chồng của công chúa, hoàng tử ngầm sai người
thân tín nhân lúc hỗn quân hỗn quan mang thịt tẩm thuốc độc ném vào hầm nhốt lũ
hổ đói và mang bột thuốc độc rắc xuống hồ thuồng luồng. Kế đó Hoàng tử tỏ thái
độ rất vồn vã với hoàng gia Bàng Quận, nói rằng mình sở dĩ đem quân đến chỉ cốt
trừng trị tên võ tướng vô lễ ngoài biên ải chứ thực không có lòng thù oán nào
khác.
Mấy tên cận vệ hốt hoảng chạy lại báo tin với vua Bàng Quận
là lũ hổ đã chết gục trong hầm và lũ thuồng luồng đã chết nổi trên hồ.
Công chúa Huyền Phương ôm ngực lảo đảo rồi khuỵu xuống, Hoàng
tử Hạc Miên hết lời ngọt ngào khuyên giải công chúa cùng toàn thể hoàng gia.
Người giải thích đấy là điềm Trời muốn nhà vua từ nay bãi bỏ lệ kén phò mã cổ
truyền. Rồi người ngỏ ý xin cưới công chúa Huyền Phương để nàng lên ngôi hoàng
hậu Triết Mông. Vì cảm phục tài dũng của hoàng tử, công chúa Huyền Phương ưng
thuận, tuy nàng tự cảm thấy sức khỏe sa sút đi nhiều. Ngày hôm sau hoàng tử cho
rút đoàn quân quyết tử về nước. Công chúa Huyền Phương sụp lạy từ biệt vua cha
cùng hoàng hậu rồi lên ngựa với hai hàng nước mắt ròng ròng.
Hoàng tử thúc ba quân ngày đêm đi gấp để kịp về thụ lễ đăng
quang và tấn phong Công chúa Huyền Phương làm hoàng hậu. Ngày đó sẽ chói lòa
vinh quang và tràn ngập hạnh phúc. Ngày đó phải là một ngày huy hoàng vào bực
nhất trong đời hoàng tử và trong lịch sử Triết Mông. Nhưng nhan sắc Công chúa
Huyền Phương sao mong manh và ủ ê như cây hoa bật rễ? Càng xa xứ Bàng Quận,
công chúa càng lả dần. Tới Triết Mông, nàng mê man bất tỉnh. Sang ngày hôm sau,
ngày Hoàng tử Hạc Miên thụ lễ đăng quang với đế hiệu Cát Hiền Đệ Bát, thì nàng
công chúa bạc phước cũng hồn lìa khỏi xác. Cái chết của nàng có sức nặng làm
xiêu đổ ngai vàng. Nhìn thi thể Công chúa Huyền Phương liệm bằng lụa nõn đặt gọn
trong quan tài trầm hương, hoàng tử thấy tất cả sự nghiệp, tất cả bá quan văn
võ, tất cả người đẹp ở Huyền Cung cùng vĩnh viễn khuất sau nắp trầm hương. Còn
lại chỉ là cái trí thuật đơn bạc, gian ác, tàn nhẫn của người khi dùng đoàn
quân quyết tử chinh phục nước này, dùng xảo mưu chia rẽ nước nọ.
Ôn lại những lời tung hô hàng ngày của đoàn quân quyết tử, của
văn võ bá quan, hoàng tử thấy đấy chẳng qua là tiếng rống của đàn bò, tiếng la
của đàn cừu. Ôn lại những lời xưng tụng của các vua chư hầu, hoàng tử thấy đấy
chính là những lời rủa trá hình.
° ° °
Chịu lễ thọ phong xong vua Cát Hiền Đệ Bát trở về ngồi trong
thâm cung tịch mịch. Khi gà vừa gáy sáng, ngài chợt thấy sống trong một cảnh đất
trời nghi ngút và có tiếng Thần Linh giảng dạy:
“Cái chết của Huyền Phương với người giờ đây rầm rộ tựa núi lở
cát bay! Mai đây ngươi sẽ thấy núi lở cát bay lôi cuốn theo cả cỏ cây muôn thú
để mở rộng lối cho tầm mắt ngươi được gặp cả biển lẫn trời.”
Vua Cát Hiền Đệ Bát biết rẳng mình còn có thể kịp thời hành động
theo lương tri. Vừng đông vừa rạng, ngài quỳ xuống trước nguồn ánh sáng, tự
nguyện từ nay ngài chân thành chỉ biết tuân theo lời dạy của lương tri. Để cởi
mở hết mọi dây oan khiên, ngay hôm đó ngài thả ba hoàng tử con tin về nước.
Ngài miễn lệ triều cống cho tất cả các nước chư hầu. Ngài hạ lệnh triệt thối
binh đội Triết Mông ở khắp các nơi về, và giải tán đoàn quân quyết tử. Đoàn
quân này là điểm tội lỗi nặng nề sỉ nhục theo lời tự phán quyết của ngài.
Ít lâu sau, Thượng hoàng băng hà, ngài bèn xin phép Mẫu hậu
nhường ngôi báu cho một vị đại thần hiền đức; ngài quyết xa cảnh hoàng cung
chòi vàng mái bạc, lên núi cao, kiếm một hốc trông ra biển rồi xếp đá thành bệ
ngồi tham thiền. Triều thần biết vậy có sai mấy tên thị vệ đến thường xuyên chầu
hầu nhưng tuyệt nhiên cựu đế không hề sai bảo điều gì. Có một sớm tinh sương
kia, thấy một lão thần hấp tấp leo lên động, cựu đế nhắm mắt tĩnh tâm biết lão
thần đến báo tin Mẫu hậu từ trần. Ngài còn rõ hơn nữa là Mẫu hậu đã từ trần
trong hoan hỷ vì thấy con mình đã biết bỏ đường tà, noi theo đức sáng. Ngài xuống
bệ ra ngoài cửa động quỳ bái vọng về hoàng cung và khấn rằng:
“Trăm lạy Mẫu hậu, xin Mẫu hậu xá tội bất hiếu trước đây cho
con. Giờ đây con mới xứng đáng với tên người đặt.”
Từ đấy ngài lấy hiệu là Hạc Miên Đạo sĩ. Qua một tuần trăng
ngồi tham thiền, người thấy linh hồn thoát khỏi ngục xác thịt để có thể trong
giây lát đi vào một đường mây trắng xóa có hàng ngàn vạn vì sao châu tuần. Ngài
đương mải vui vì biết mình sắp đạt đạo thì một vị lão thần khác hốt hoảng tới
quỳ lạy dưới bệ đá mà tâu với ngài là hầu hết các nước lớn xa gần Triết Mông đều
thi nhau chiêu binh mãi mã, chỉnh đốn ba quân dự bị, chiếm các nước nhỏ mà
tranh ngôi bá chủ để thế chân Triết Mông. Sau cùng, vị lão thần tha thiết thỉnh
cầu ngài hạ sơn ngõ hầu cứu thiên hạ và xã tắc Triết Mông.
Ngài xuống núi, đi suốt ngày đêm tới các nước bất kỳ lớn nhỏ,
chủ chiến hay chủ hòa. Ngài trở lại dùng tài du thuyết thuở xưa, nhưng lời nói
và mục đích có khác nhiều. Tới nước nào ngài cũng thực tình bầy tỏ hết những
mưu cơ của ngài trước đây nào khi dùng đoàn quân quyết tử để chinh phục, nào
khi dùng kế liên minh để chia rẽ. Ngài kết luận: "Mình đi chiếm nước người
thì cũng có khi người đến chiếm nước mình, nhưng con cháu bao giờ quên được ông
cha dòng giống, bao giờ quên được tiên tổ? Cứ suy mình mà hiểu người: Khi địch
còn mạnh, mình nguyền rủa bằng tiếng tung hô, khi địch suy yếu mình không bỏ lỡ
thời cơ dành lại giang sơn của tiền nhân. Rút cục còn để lại chăng trên đất nước
nhau chỉ là đống xương trắng của lũ quân quyết tử chết xa quê hương." Lời
ngài nói không đanh thép như xưa nhưng nồng nàn chân thực đi thẳng vào lương
tri người nghe. Không một vị quốc vương nước lớn cũng như nước nhỏ nào nghe qua
mà không tỉnh ngộ và ra lệnh bãi binh tức khắc.
Mọi việc xong xuôi ngài trở về động đá. Qua một tuần trăng nữa,
người thấy hồn mình đôi khi được ngợp trong một biển ánh sáng. Có lần ngài định
thần chú mục nhìn tên cận vệ ở tít cánh rừng xa vung rìu đốn cây; người bỗng
thét lên một tiếng. Tên cận vệ gần đấy vội chạy lại thì thấy lưng ngài ngập vết
búa nhưng không chảy máu, trong khoảnh khắc vết búa đó liền lại.
Qua ba tuần trăng nữa, ngài thấy núi, sông và biển cả nhỏ xíu
dưới chân, linh hồn như hút được những ánh sáng vòi vọi của tinh tú trên trời.
Thính giác của ngài như bắt được những thanh âm diệu huyền của Thiên Đường và
những nghẹn ngào u uất của Địa Ngục. Ngài thấy rõ hồn mình đã giao cảm được với
hồn Vũ Trụ. Lời nói của thế nhân bỗng lạc hẳn âm thanh khiến ngài không thể
dùng chúng để diễn tả nguồn thiêng linh diệu đó. Quanh động, cỏ cây gỗ đá thẩy
đều tràn đầy sức sống để cùng ngài giao cảm. Muôn dân lành ngàn dặm quanh miền
bờ biển Cực Nam được vui trong thanh bình để phát triển tình giao hảo, đều nhớ
ơn cứu sống của ngài. Họ đồng tình suy tôn ngài là: Hạc Miên Thánh đế.
Vừa lúc đó vị lão thần sứ giả nước Oa-ly-đà đến rập đầu khóc
xin cầu cứu trước bệ đá của ngài.
HỒI THỨ BA
ĐOÀN QUÂN THÁNH THIỆN
VỚI NHỮNG TẤM GƯƠNG PHẢN TỈNH
Trở lại chuyện con sói đuôi xòe sau khi uống máu hai giống
người, đuôi nó biến hết. Nó hiện thành hình ông già như cũ, đi đi lại lại ngay
giữa đám đông mà không còn điều gì nghi ngại nữa. Nhưng đó chỉ là bề ngoài, sự
thực đuôi đó không mất, đuôi đó vẫn còn, đuôi đó chỉ thụt vào trong xuyên ngược
lên bụng khiến lúc đi, lúc đứng, lúc ngồi con sói thấy vướng víu khó chịu vô
cùng: nó vẫn là sói như thường và chưa hề sử dụng được chiếc đũa vạn năng.
Nó trở về động cũ trong khu rừng quế miền Bắc Oa-ly-đà, ngồi
lên bệ đá tập trung tư tưởng khiến máu hai giống người nung nấu trong mạch, cái
đuôi lẩn ngược trong bụng tan dần. Nó thấy bớt khó chịu nhưng đồng thời, tai hại
thay, hơi nó thở trở thành hôi thối nồng nặc, vừa tanh như máu vừa khăm khẳm
như mùi thịt rữa, lông nó rụng xuống hóa thành những giòi, những bọ. Uế khí
xông ra sặc sụa tới năm dặm vùng quanh. Bộ hành qua đó nếu không rảo bước tất
sinh nhôn ọe, đôi khi ngã xuống bất tỉnh và có thể bỏ mạng nếu không được các bạn
đồng hành khác kịp thời khiêng đi. Chẳng bao lâu rừng quế cao đẹp tàn lụi đi
nhường chỗ cho một giống cây lùn thấp gai góc chi chít, không có lá. Xung quanh
động Sói ở giòi bọ sinh sôi nẩy nở kể hằng hà sa số; những con sống bò lúc nhúc
leo lên nhau thành từng đống lớn, những con chết rữa ra thành một bãi lầy. Ánh
sáng chiếc đũa vạn năng tắt ngấm. Kể từ đó mọi người bảo nhau lánh xa
khu rừng yêu quái.
Con sói đâu có chịu cô độc trong rừng gai giữa bãi lầy giòi bọ!
Nguyên do sau khi cảm thấy đuôi cứng tan thành máu trong người, con sói tuy biết
mình vĩnh viễn không bao giờ còn sử dụng được chiếc đũa vạn năng nữa,
nhưng linh tính loài yêu của nó càng thêm mẫn huệ và nẩy thêm tài lạ: Vẫn ngồi
tham thiền, nó phóng tâm nghĩ đến kẻ nào lập tức biết hết những ham muốn thầm
kín của kẻ đó. Nó quyết tâm biến Oa-ly-đà thành giang sơn của riêng nó, toàn thể
dân Oa-ly-đà thành dân của nó. Sau một đêm tham thiền, nó tìm ra được một quỷ kế
sâu độc nhất, chu toàn nhất. Thoạt tiên nó đi bắt một lũ trăn rừng biến chúng
thành một bầy thiếu nữ; bắt một bầy khỉ, vượn, đười ươi, đông có hàng trăm, biến
chúng thành lũ đầy tớ chuyên việc băng đèo, vượt núi đến các khu rừng lân cận
kiếm hoa quả mang về, hoặc ban đêm lần vào trong dân gian ăn cắp thực phẩm và
vàng bạc; sau cùng nó triệu tập một lũ sói con biến chúng thành lũ trai gái nhỏ
lanh lẹ có tài nhảy múa nhào lộn.
Dân chúng Oa-ly-đà cùng các khách bộ hành từ trong đại lục
phía Tây đi ra biển Đông chợt nhận thấy bao quanh phía trước khu rừng gai là một
khu rừng hoa hồng. (Xa khu rừng gai thì mùi hôi thối cũng bớt, các loài hoa có
thể mọc được.) Đi quanh khu rừng hoa đó người ta thấy cứ cách một dặm lại gặp một
hàng nhà quay lưng vào nhau từ chân khu rừng gai đến luống hoa ngoài cùng. Có
những cô gái dịu dàng da trắng mắt đen ngày ngày tỉa lá bắt sâu. Các cô rất mến
trẻ con, em nào lân la vào vườn đều được các cô niềm nở ngắt hoa cho cầm.
Nhưng cả vùng bỗng xôn xao vì có rất nhiều trẻ em bị mất
tích. Rồi một ngày kia chính mắt một bà mẹ thấy các cô gái chuyền tay nhau đưa
đứa con của mình đến chiếc nhà trong cùng. Bà hốt hoảng chạy bổ vào, các gian
nhà đều trống không, mùi hôi tanh từ khu rừng gai xông ra nồng nặc. Dân chúng tỉnh
ngộ biết đó là vườn hoa yêu tinh. Mọi người tụ hội lại, kẻ vác dao búa, người
vác cung tên xông vào phá nhà. Họ nhổ bật các cây hoa, mùi tanh lợm thoát lên từ
lòng đất và thêm điều lạ là rễ cây hoa nào cũng thấy vương một đám lông thú ba
mầu: đen, trắng và hung hung. Đoàn người nổi giận tiến sát rừng gai, dùng tên dẫn
hỏa bắn vào như mưa cho đến khi họ không chịu được mùi hôi thối nữa mới ra về,
để hôm sau lại tụ tập và hành động như vậy. Họ quyết làm dữ những mong cứu lấy
đàn con cháu và đuổi được loài yêu cho rừng gai trở thành rừng quế.
Một buổi chiều, đúng lúc họ đương làm dữ thì vẳng nghe có tiếng
trẻ con reo hò. Lũ trẻ xuất hiện ra cửa rừng. Chúng thoạt nắm tay nhau vừa la
hét vừa nhảy múa. Nhận ra lũ con cháu mất tích, các bậc cha mẹ chạy đến gọi,
nhưng càng gọi chúng càng reo hò lồng lộn. Khi chúng ngừng lại thì chao ôi, mọi
người mạnh ai nấy chạy: lũ trẻ đã biến thành đàn sói đi trên hai chân. Ít lâu
sau khoảng rừng hoa biến nốt thành rừng gai. Dân cư lại một phen lủi ra xa,
khách bộ hành lại một phen tìm đường mới nối đại lục với bờ biển: họ tránh mùi
hôi thối, họ tránh khu rừng yêu tinh.
Chẳng bao lâu lại một cánh đồng hoa mới xuất hiện, luống
ngoài cùng sát gần những thôn làng đông dân cư. Lại một số người chưa rõ sự
nguy hiểm để con trẻ lai vãng vào xem hoa rồi bị mất tích. Dân chúng lại một
phen phẫn nộ hùa nhau đến phá cánh đồng hoa nặng mùi xú uế, các cây hoa nhổ bật
gốc đều thấy có lông thú ba màu. Họ cũng mang tên lửa và đao búa đến để bắn phá
rừng gai cho đến một chiều kia lũ trẻ đột nhiên xuất hiện quay cuồng nhảy múa rồi
biến thành lũ sói đi trên hai chân. Một lần nữa khu rừng hoa mở rộng thành khu
rừng gai. Một lần nữa dân cư quanh vùng dời đi nơi khác, và khách bộ hành tìm
đường giao thông mới xa vùng hôi tanh. Lại cánh đồng hoa khác xuất hiện ngay
bao bọc lấy khu rừng gai mà diện tích đã rộng lên gấp bội.
Mối nguy hiểm đã được truyền đi khắp Oa-ly- đà, không một ai
dám để trẻ con lai vãng khu rừng hoa. Nhưng sao cứ sau mỗi đêm lại có một số
khá lớn trẻ con bị mất tích? Các trai tráng phải họp lại cắt phiên nhau thức
canh và đi tuần. Một đêm kia, khi thấy một cơn gió lạ thổi tới, toán người canh
tắt vội đèn, nằm rạp xuống. Từ xa bóng một lũ người cao lớn dị thường, dáng đi
khệnh khạng nhưng bước tiến nhanh và nhẹ vô cùng. Thì ra đó là một đoàn đười
ươi! Lũ đười ươi lẹ vút qua tường, khuất sau các nhà. Chỉ một loáng đã thấy
chúng nhảy ra, mỗi con dưới nách có cắp một đứa trẻ. Chúng nhảy nhẹ, chúng bắt
trẻ nhanh đến nỗi lũ trẻ không kịp khóc và cha mẹ chúng cũng không hay biết chi
cả.
Tin đàn đười ươi ma xuất hiện vào nửa đêm tới các thôn xóm bắt
có trẻ em được lan đi rất chóng. Dân cư quanh vùng vội vã bỏ tất cả nhà cửa, ruộng
nương của cải lại mà chạy tuốt xuống sâu miền Nam Oa-ly-đà: họ cần cứu lấy đàn
con họ. Lập tức khu rừng hoa cũ biến thành khu rừng gai. Lập tức sát với các
làng mạc đông dân cư xuất hiện rừng hoa đẹp mới. Không ai mắc mưu nữa. Đêm đến
dân làng cắt canh, đánh trống, đánh chiêng, đánh cồng, đánh mõ nhưng đười ươi vẫn
xuất hiện bất ngờ để khi vút ra đi mang theo lũ trẻ thơ vô tội.
Lại một phen dân chúng bỏ quê hương xóm cũ. Lại một phen bờ
cõi rừng gai mở rộng, rừng hoa hồng mới thành hình. Ôi! Những bông hồng nhung,
những bông hồng sắc đỏ như máu nay đã thành một ám ảnh kinh hoàng cho dân chúng
Oa- ly-đà đáng thương! Kinh đô Oa-ly-đà xôn xao. Nhà vua thiết lập đại trào bàn
mưu tính kế chặn bước tiến của khu rừng hoa giết người. Đại binh Oa-ly- đà được
cập tốc cử đến vây quanh rừng hoa. Qua một đêm rừng hoa biến thành rừng gai,
mùi xú uế xông ra nồng nặc, rồi chiều chiều lũ trẻ con đông hàng vạn ào ạt xuất
hiện nhảy múa quay cuồng để một lát sau hiện thành đàn sói tiến lên hung hăng nạt
nộ. Đoàn quân đâu có sợ vì họ vừa đông vừa có khí giới. Tuy nhiên họ cũng không
hề dùng cung tên mà bắn, hoặc dùng gươm giáo mà chém mà đâm vì họ biết đoàn sói
con đó là lũ trẻ vô tội. Họ chỉ lùi lại khi không thể chịu được hơn nữa mùi xú
uế của khu rừng gai. (Mùi đó bao giờ cũng mỗi ngày một nồng nặc
hơn.) Hễ đoàn quân lùi, khoảng đất trống đó tức khắc biến thành rừng gai.
Có một buổi sớm kia, khi bình minh vừa hé, đoàn quân thấy từ
viên nguyên soái qua các hàng thượng tướng, trung tướng, tiểu tướng đến tì tướng
đều mỗi người ôm một mỹ nhân cùng nằm lõa lồ giữa trời. Việc đó không phải chỉ
xẩy ra có một lần mà tái diễn luôn. Lòng kính nể cấp trên mất đi, đoàn quân bắt
đầu vô kỷ luật từ đấy và sức chịu đựng mùi xú uế của họ giảm đi rất nhiều. Có
khi trại quân vừa thiết lập xong, họ đã tự động nhổ cọc để lùi.
Một tình trạng tương tự xảy ra tại kinh đô. Dân chúng bắt quả
tang một vị đại thần nhận lễ đút vàng bạc của một người khách lạ; một vị khác bị
bắt quả tang thông dâm với vợ một tên hạ quan dưới quyền mình, một bà đại thần
đa dục bị bắt quả tang nằm say đắm trong tay một viên tham tán quân vụ. Kho đụn
nhà vua tự nhiên hao hụt: rõ ràng có người ăn cắp! Thú tính tham vàng bạc, tham
sắc dục được đà phát triển đến cực độ ở các nhà quyền quý. Trong triều, nhà vua
không còn dám tin ai, các quan đại thần nghi kỵ lẫn nhau, dân chúng thì khinh
các quan đại thần ra mặt. Đoàn quân tiếp tục nhường đất khiến một phần nửa Oa-
ly-đà đã biến thành rừng gai. Các bậc hiền sĩ danh thần xót nước thương nòi,
lòng đau như cắt mà không sao tìm được mưu kế gì khả dĩ cứu vãn tình thế nguy
ngập đó. May sao, vừa lúc phương danh Thánh đế Hạc Miên tự miền cửa Nam lan tới.
Một vị lão thần tới tâu trước bệ ngọc xin nhà vua kíp viết một bức thơ cầu cứu.
Và – như chúng ta đã biết – vị hiền thần đáng kính đó đã lặn suối trèo đèo tìm
lên được động cao, rập đầu khóc xin cầu cứu trước bệ đá của Thánh đế Hạc Miên.
Thánh đế lên đường tức khắc. Tới nơi ngài không rẽ vào kinh
đô Oa-ly-đà mà đi thẳng ra trận tuyến. Ngài trèo lên một ngọn núi cao gần đấy,
chọn một phiến đá phẳng giữa giòng suối ngồi tham thiền. Và ngài đã biết hết
nguyên ủy! Trong khi mải suy cứu cách đối phó với sói, ngài cúi nhìn dòng nước
trong suốt và giật mình thấy khuôn mặt thẫn thờ của mình hiện bên dưới như
khuôn mặt của kẻ khác. Chính vì vậy ngài chợt tìm ra được một diệu kế… Trở về
kinh đô Oa-ly-đà, ngài yêu cầu nhà vua cho triệu hồi ngay tất cả cấp tướng
ngoài trận tuyến về để cùng hội họp với bách quan trong một buổi đại triều. Khi
đã đông đủ, nhà vua lo lắng hỏi Thánh đế nguyên do tai nạn của Oa-ly- đà. Thánh
đế giải thích:
- Đây là hành vi tác quái của con sói tu luyện thành yêu. Nó
đã từng uống máu hai giống người để biến cái đuôi đi. Mùi hôi thối trong khu rừng
gai xông ra chính là mùi lông của nó rữa nát thành giòi bọ.
Một viên đại tướng hỏi:
- Cây hoa nào nhổ lên cũng thấy có túm lông ba sắc, dám xin
Thánh đế cho biết đó phải chăng là lông sói?
Thánh đế gật đầu đáp:
- Chính thị! Con yêu quỷ quyệt này biết thừa không ai có thể
nhất đán vào sống ngay trong rừng gai, nó bầy ra rừng hoa vừa để trang điểm
phía ngoài vừa để vực dần cho nạn nhân quen với mùi hôi thối. Đó, công dụng những
túm lông sói ba mầu nhét dưới gốc hoa!
Một vị đại thần khác hỏi:
- Dám xin Thánh đế chỉ giáo cho biết quỷ kế con yêu và chuyện
nó bắt cóc các trẻ con.
- Nó dự định biến dần toàn thể Oa-ly-đà thành khu rừng gai.
Nó dự định bắt cóc dần hết các trẻ Oa-ly-đà. Nó biết không thể hóa người thành
sói có đuôi nhưng nó tin rằng sau khi những người già và những thanh niên
Oa-ly-đà hoặc chết đi, hoặc trốn đi thì bầy trẻ đó lớn lên với bầy sói, nhảy
múa với bầy sói, rồi tâm tính cũng chắc khác gì sói. Khi đó đời đời nó sẽ là
chúa tể một tiểu thế giới người sói.
Vua và bách quan rùng mình. Một vị đại thần khác hỏi:
- Dám xin Thánh đế cho biết vì sao lũ trẻ quay cuồng nhảy múa
một lúc thì biến thành sói?
- Con sói đã khiến lũ trẻ quay cuồng theo lũ bộ hạ của nó để
lũ trẻ không kịp nhận ra cha mẹ. Lũ trẻ quay cuồng cho đến khi tâm thần thác loạn
thì bị Sói phù phép cho hiện thành đàn sói con nạt nộ cha mẹ, cô, dì, chú, bác.
Sói muốn những người ngày vì vậy hoảng sợ mà hết hy vọng cứu đàn con cháu, có
biết đâu chỉ một lát sau lũ trẻ trở lại nguyên hình, tuy tâm hồn còn u mê vì
nhiễm uế khí khu rừng gai.
Vua Oa-ly-đà quỳ xuống trước Thánh đế, giọng nói gần như
khóc:
- Xin Thánh đế ra tay tế độ cứu nước kẻ bạc đức này khỏi hiểm
họa diệt chủng; Xin Thánh đế rủ lòng thương cứu lấy những trẻ nhỏ vô tội bị u
mê trong uế khí.
Thánh đế ôn tồn đáp:
- Tôi đến đây cũng chỉ để giúp Ngài có vậy. Hiện tôi có đủ
cách đánh bại mưu kế hiểm độc của con sói, nhưng riêng tôi không đủ mà phải
chính Ngài cùng toàn thể bách quan văn võ của ngài cùng giúp tôi.
Bách quan cúi đầu kính cẩn:
- Xin Thánh đế cứ truyền để chúng tôi được tuân lệnh!
Thánh đế tiếp:
- Tôi cần nói rõ hơn về con sói.
Vua và triều thần im lặng chờ nghe. Tiếng Thánh đế tuy vẫn giữ
được êm đềm mà nghe sao thấm thía:
- Các vị có biết vì đâu các vị không chống nổi con sói? (Ngài
im lặng nhìn mọi người giây lâu mới tiếp.) Nguyên do ngoài tài bầy mưu
thân chước quỷ con sói còn một phép lạ: Nó có thể ngồi nguyên trong rừng gai,
phóng tâm đi mà biết được địch thủ ham muốn gì, rồi nó dùng phép thần thông cho
địch thủ được thỏa mãn những ham muốn đó giữa công chúng. Những vị hiếu sắc được
ôm những mỹ nữ lõa lồ giữa trời. Các vị có biết đâu những mỹ nữ đó thuần là giống
trăn rừng? Những vị khác ở kinh đô được thỏa lòng dục với vợ các viên hạ quan.
Việc đó chính là do sói sai đười ươi nửa đêm vượt từng bắt cóc mỹ nhân đem đến
dâng cho. Những vị khác thích vàng ngọc châu báu thì được dịp vơ vét vàng ngọc
chấu báu có biết đâu vàng ngọc châu báu đó đều do đười ươi lấy cắp trong kho
vua rồi hiện thành khách lạ đem đến biếu. Các vị có biết chăng Ngọc hoàng Thượng
đế khi cho loài người xuống trần, Ngài chỉ có một bát máu để phân phát đều cho
tất cả. Máu đó chính là hoa màu ngoài đồng, vàng bạc châu báu trong kho. Các vị
có biết chăng nếu máu tụ lại nhiều ở một người thì ngàn vạn người khác thiếu
máu. Những người nhiều máu tưởng mình hồng hào tươi đẹp, rực rỡ, có biết đâu
qua con mắt thiếu máu của ngàn muôn triệu kẻ khác họ chỉ là những hình ác quỷ đứng
giữa một thế giới vàng vọt, ghê tởm.
Cả triều thần bẽ bàng cúi mặt. Mấy viên tướng mím chặt miệng,
răng cắn vào môi máu chảy ròng ròng mà không biết. Thánh đế tiếp:
- Bởi vậy tất cả những người có chút tà tâm đều bị con sói
làm nhục trước dân chúng và đánh bại. Lòng các vị, nhiều người cũng muốn thành
lang sói thì làm sao mà diệt được nó là loài lang sói thật đã thành tinh? Trái
lại, con sói vẫn phóng tâm đi mà không hại được các vị mảy may, nếu các vị giữ
được lòng thánh thiện. Khi đó việc diệt con sói lại dễ dàng như cầm giáo mác đến
đâm chém một con vật mù, tứ chi vụng dại. Điều đó rồi đây các vị sẽ có dịp chứng
kiến!
Cả triều thần bách quan văn võ vẫn im lặng, nhưng khuôn mặt mọi
người đều hơi ngẩng lên, hy vọng. Giọng Thánh đế dịu dàng hơn:
- Xin các vị tướng sĩ trở về trận tuyến, giữ cho lòng thánh
thiện và dạy cho ba quân biết giữ lòng thánh thiện. Các vị sẽ thấy tự nhiên mùi
hôi thối của khu rừng gai không bợn đến các vị và con sói không chiếm thêm được
một tấc đất nào nữa của Oa-ly-đà. Tại kinh đô, xin các vị đại thần hành sự
trong thánh thiện để chiếm lại lòng mến phục của muôn dân. Xin Đức vua mở kho
đem hết lụa là, kim ngân, châu báu giúp đỡ các gia đình nghèo lập nghiệp. Xin Đức
vua thu xếp cho một nơi tĩnh và rộng, đưa tới đó ba chục nhạc sĩ cùng ba trăm
trẻ em: nửa trai nửa gái. Xin Đức vua cho làm ngay ba trăm tấm đồng đánh bóng
như gương, bề cao bằng đứa trẻ. Qua một tuần trăng nữa chúng ta có thể đuổi được
con sói ra khỏi Oa-ly-đà.
Tới đây bách quan theo gương vua cùng sụp xuống lạy trước
Thánh đế. Nước mắt nhà vua thấm đẫm vạt áo bào. Nước mắt quan văn thấm đãm vạt
áo xanh, nước mắt quan võ rơi lên bộ giáp rồi lăn tuột xuống nền đá hoa cung điện.
° ° °
Tại Minh Viễn Lâu - (lầu cao để Vua tới ngắm phong cảnh) - rộng
và tĩnh, Thánh đế yêu cầu ba mươi nhạc sĩ dạy cho ba trăm trẻ em hát đều những
khúc ca dịu dàng thanh thoát mà trước đây các em vẫn được nghe mẹ ru. Được
Thánh đế giảng dạy cho biết nghĩa lý cao xa của lời thơ giản dị, giọng các em nức
nở khi hát những đoạn gọi cảnh cha già,mẹ yếu và lũ con thay phiên nhau hầu hạ
sớm hôm.
Một tuần trăng qua…
Tới ngày dự tính, ba trăm em nhỏ mặc toàn đồ trắng – Đoàn
quân thánh thiện của Thánh đế – dời kinh đô đi bốn ngày liền thẳng tới trận
tuyến. Cùng đi với các em là số đống gấp năm những bậc phụ mẫu có con cháu nạn
nhân ở khu rừng gai. Quân lính trấn thủ được lệnh rút lui, nhừng chỗ cho đoàn
người mới. Các bậc phụ mẫu thoạt được xếp hàng đầu đối diện với khu rừng gai.
Buổi chiều, theo như thường lệ, đoàn trẻ con xuất hiện với vũ
khúc ma quỷ. Chúng ngoắt quay tả, ngoắt quay hữu, ào ạt tiến lên phía trước,
lùi lại phía sau, tung mình lên cao, cong người nhào lộn… thoắt biến thành sói
đi trên hai chân. Theo lệnh Thánh đế các bậc cha mẹ lùi về phía sau. Đoàn
quân thánh thiện tiến bước với những gương đồng và lời đồng ca nổi lên.
Đoàn sói con đứng sững trước một thành dài gương đồng bóng loáng. Chúng nhìn
hình ảnh sói phản chiếu trong đó, thoạt ngơ ngác… Chúng quay nhìn phía sau: khu
rừng gai. Chúng quay nhìn bên hữu: núi chiều nhuộm ánh hồng. Chúng quay nhìn
bên tả: gần đấy màu xanh óng ả của con sông gợn sóng, xa hơn màu tím xẫm của mặt
biển chập chùng. Tiếng đồng ca như hòa vào ánh sáng rồi tỏa rông ra…
Lũ sói con nhìn lại gương đồng, rùng mình hiện thành hình người
như cũ. Có tiếng reo vui đằng xa. Gương đồng không xếp liền hàng ngang mà xoay
lại thành hàng dọc, chiếc nọ sau chiếc kia với những khoảng cách đủ cho đứa trẻ
có thể lách qua mà chạy về phía cha mẹ. Nhưng dáng chúng vẫn còn bỡ ngỡ. Chúng
cúi đầu suy nghĩ rồi lại nhìn cảnh vật xung quanh. Sương đã bắt đầu nhẹ tỏa
trên mặt sông mặt biển, ánh hồng cuối cùng của ngày tàn còn nhuộm đỉnh trời
cao. Lúc đó lũ trẻ mới bớt vẻ bàng hoàng và chú mục về phía cha mẹ đương vẫy
chúng ở bên kia hàng gương đồng. Lời đồng ca cũng vừa đến đoạn vang lên nức nở:
Tình mẹ rộng như biển cả Tình mẹ sáng như sao trời Con hỡi,
nhìn về đây phía mẹ Con nhìn đi đâu xa xôi?!
Tiếng hát thiết tha phiêu phiêu theo gió chiều… tỏa rộng ra
khơi… vút lên cao gặp mây ngàn… vút lên cao nữa gặp mấy vì sao vừa mọc… Lũ trẻ
bỗng khóc òa, lao mình qua Đoàn quân thánh thiện, lách giữa những gương đồng
chạy miết về phía có những cánh tay đương dang rộng chờ đón chúng.
Đằng xa đời ươi, khỉ, vượn, trăn… lũ lượt theo nhau bỏ khu rừng
gai, cùng tiến về dãy núi cao, mãi đằng xa… xa tít phía Tây. Tiếng đồng ca vẫn
vang lên tưng bừng giữa vùng ánh vàng huyền ảo của một buổi chiều hiền và rộng
để ca ngợi sức sống nhiệm mầu. Khi ánh vàng tắt đi núi, sông, biển chìm dần vào
bóng tối… Lời ca trở lại êm ả như dòng thời gian man mác đến gột rửa một lần cuối
cùng những buồn tủi của người con, những nhớ nhung của cha mẹ. Lời đồng ca vừa
rứt, trời bỗng tối sầm. Một tia chớp lóe ra cùng với đám mây đen kịt xuất hiện
sừng sững trên đỉnh núi Tây. Thánh đế ra hiệu cho Đoàn quân thánh thiện quỳ
xuống theo mình. Sau đó ngài đứng dậy quay lại nói cho tất cả mọi người rõ:
- Thượng đế vẫn dung tha Tật Ác. Bởi là Đấng Chí Tôn. Ngài biết
Tật Ác trong đời chỉ làm tăng thêm các vẻ đẹp của điều Thiện và khuyến khích
con người càng ham noi theo điều Thiện. Lần này Thượng Đế nổi giận vì Tật Ác muốn
tranh quyền Ngài cai quản nguồn thiêng.
Thánh đế ra lệnh cho Đoàn quân thánh thiện xếp những
gương đồng theo rìaa khu rừng gai rồi tất cả mọi người lui ra thật xa… thật xa…
Mây đen đã tỏa ra để phủ nặng xuống khu rừng. Nước trút xuống thành thác… muôn
ngàn tia chớp sáng lóe như những nhát búa thần bổ xuống, như những đường gươm
thần xiên ngang. Sấm sét xé màng tai, sấm sét gầm thét lời thịnh nộ, sấm sét
như núi trời lở xuống để lấp biển. Cơn lôi đình của Thượng Đế càng hùng vĩ uy
nghiêm càng gieo niềm tin vững chắc vào lòng người, tin ở lẽ chí công, chí minh
của Đấng Chí Thiện. Sớm hôm sau, khi thức giấc, mọi người thấy khoảng rừng gai
chiếm nửa Oa-ly-đà biến mất. Người ta đi ngược lên tìm khu rừng quế cũ và dẫy
núi đá xưa. Cả khoảng đó bị sét đánh hoắm xuống thành vực, có chỗ sâu tới mười
trượng; rồi mưa ngàn đổ xuống nước ngập thành hồ.
Một trăm năm sau xung quanh hồ mọc thuần một giống thùy
dương, vì vậy người Oa-ly-đà gọi là Hồ Thùy Dương.
Những đêm trăng sao vằng vặc, hồ biến thành tấm gương lớn phản
chiếu cả vòm tinh tú; ngay cả những đêm trời tối đen như mực, mặt hồ cũng lấp
loáng bốc lên những đợt hào quang. Người ta bảo đó là ánh sáng của những mảnh vụn chiếc
đũa vạn năng. Những lúc đó, mặt hồ có sức hút kỳ thú đến nỗi du khách, trong một
khoảnh khắc xuất thần nhập hóa, tưởng như vừa được rót hồn mình vào vũ trụ.
° ° °
Đó là khúc nhạc thi ba hồi kể lại sự tích Hồ Thùy Dương giữa
khoảng núi non trùng điệp, rừng cây sầm uất miền Bắc xứ Oa-ly-đà. Dân chúng lặng
yên nghe lời ca… nghe tiếng dân… cùng vỗ tay giữ nhịp đồng ca với thi sĩ hoặc đứng
lên làm điệu bộ phù hợp với lời thơ.
Đêm dài thành ngắn! Khi câu chuyện vừa chấm dứt, dân chúng ra
về thì trăng Rằm thường cũng vừa kịp lặn, vừng đông hơi ửng hồng, cỏ hai bên đường
đẫm sương.
Những hình ảnh đó như nhắc nhở dân chúng nhớ lại biết bao
nhiêu… biết bao nhiêu tình tiết trong câu chuyện kể thâu đêm vừa qua.
TRẠNG ĐI SỨ
Sau khi nghe quan đại thần họ Lưu vừa đi sứ nước Nam về thuật
lại mọi việc, vua Tàu đập tay lên long án:
- Chuyến này sứ nước Nam tới đây đáp lễ, các khanh khá vì ta
tìm kế làm nhục hắn một phen cho hả.
Quan đại thần họ Lưu cúi thưa:
- Muôn tâu Thánh thượng, thần đã giao thiệp nhiều với bầy tôi
An Nam quốc vương nên biết khó mà làm nhục được họ. Về tài ứng đối họ vô cùng mẫn
tiệp. Lấy lễ mà xử thì họ cũng lấy lễ xử lại. Nếu mình giở thái độ giảo lá, họ
vẫn giữ được điềm đạm, nhưng trả miếng tức khắc khiến mình không há miệng trách
họ vào đâu được. Đến mưu trí của họ, như chuyện chọi trâu thực chẳng biết đâu
mà lường 1 .
Các vị cận thần khác tâu:
- Xin Thánh thượng an tâm, sứ An Nam ở nước họ khác, tới đây
khác. Dù nhanh trí, dù tinh khôn đến đâu, hắn cũng sẽ bị chúng thần làm nhục.
Nghe vậy vua Tàu yên tâm, cho bãi chầu.
° ° °
Một tháng sau Trạng nước Nam tới Tràng An, vào nhà công quán,
ở đó Trạng đã thấy có sứ Miến Điện, sứ Triều Tiên và sứ Mông Cổ.
Sứ Miến Điện tuy không là hòa thượng nhưng cũng sùng đạo Phật,
người hiền lành, thực thà, tay luôn luôn lần tràng hạt. Sứ Mông Cổ có vẻ ngốc
nghếch, bộc tệch. Duy có sứ Triều Tiên là thông minh nhưng lại quá đạo mạo.
Tính tình ba sứ đều khác hẳn với Trạng.
Nghe Trạng kể những chuyện ứng đối tương tự như câu:
Trướng nội vô phong, phàm tự lập
Hung trung bất vũ, thủy trường lưu 2
Thì sứ Mông Cổ thích chí cười hô hố, sứ Miến Điện suy nghĩ một
lát rồi mới mủm mỉm, còn sứ Triều Tiên vẫn trầm mặc ngồi yên một góc, chẳng nói
chẳng rằng.
Ngay buổi chiều hôm sứ nước Nam tới, vua Tàu có sai một viên
quan trong Viện Hàn Lâm đem đến công quán bốn chiếc bánh. Ông Hàn này đặt bánh
trên bàn, chào bố sứ rồi khoanh tay ngồi từ tại trong một góc phòng. Sứ Miến Điện
ngồi nguyên chỗ cũ tay lần tràng hạt; sứ Mông Cổ nhìn bánh, nhìn ông Hàn Tàu rồi
nhìn các sứ thần bạn như muốn hỏi xem: “Ý họ định gì?”; sứ Triều Tiên điềm đạm
cúi đầu suy nghĩ. Trạng ra ngồi bên bàn, thủng thỉnh bóc bánh ăn hết cái này
sang cái khác cho kỳ hết. Ông Hàn Tàu bèn tiến tới xòe bốn ngón tay ra trước mặt
Trạng. Trạng xòe hai bàn tay đưa ra tám ngón trước ông Hàn Tàu. Ông Hàn Tàu gật
đầu chỉ vào bụng. Trạng liền nắm tay đưa ra phía trước mặt.
Đến đấy ông Hàn vái chào bốn sứ rồi ra về. Vua Tàu ngồi đợi ở
điện Thái Hòa. Ông Hàn về tâu chuyện lên vua rằng:
- Muôn tâu Bệ hạ, khi thần đặt bánh lên bàn, sứ An Nam coi
như của Bệ hạ ban nên xơi hết. Hạ thần bèn đưa bốn ngón tay ra, ý nói: “Tứ
di lai triều” (Bốn giống dân đến chầu), sứ An Nam đưa ngay tám ngón tay ra đối
lại: “Bát man tấn cống” (Tám giống người đến cống). Hạ thần chỉ vào bụng,
ý nói người nước ta đều là “Hung trung binh giáp” (Trong bụng chứa đầy
binh giáp), sứ An Nam bèn nắm tay đưa ra đối lại rằng dân nước hắn “Chưởng
thượng kinh luân” (Trên tay gồm hết kinh luân). Xét ra trong bốn sứ đến triều
kiến quả thực chỉ có sứ An Nam là mẫn tiệp hơn cả.
Trong khi đó ở nhà công quán, sứ Miến Điện vẫn lần tràng hạt,
sứ Triều Tiên càng đăm chiêu suy nghĩ, sứ Mông Cổ chạy lại hỏi Trạng:
- Vừa rồi hai vị đối đáp gì với nhau vậy? Trạng điềm nhiên trả
lời:
- Có gì đâu, ông Hàn Tàu thấy tôi ăn hết cả bốn cái bánh thì
giơ tay ra hiệu: “Sao ông ăn cả bốn cái bánh như vậy?” Tôi giơ tám
ngón để đáp: “Đến tám cái tôi ăn cũng hết nữa là.” Ông Hàn chỉ vào bụng
ý nói: “Ông ăn cả như vậy không sợ vỡ bụng hay sao?” Tôi giơ nắm tay
ra đáp: “Thứ bánh nhỏ bằng nắm tay như vậy thì có gì mà vỡ bụng.” Ông
ta thấy tôi nói có lý nên rút lui.
Tên thị vệ Tàu đứng đấy – tiếng là để hầu, kỳ thực để do thám
– bèn mật báo về triều cho vua hay. Vua Tàu lập tức triệu quan đại thần họ Lưu
tới hỏi ý kiến.
Vị này đáp:
- Muôn tâu: Sứ An Nam chắc là thấy sứ Mông Cổ ngộc nghệch nên
mới giải thích đùa như vậy; hạ thần e rằng trong cuộc đối đáp bằng cử chỉ đó, sứ
An Nam còn có ý nói nhiều điều nữa mà chúng ta chưa hiểu hết. Biết đâu đó không
là một bài thơ tiếp lời ta mà bàn về “tứ thời bát tiết”? Chẳng lẽ ta
hỏi lại thì còn gì là thể thống?
° ° °
Thấm thoắt Trạng ở Tràng An vừa được một tháng. Chưa thấy vua
Tàu chính thức vời bốn sứ vào để bàn về mọi nghi thức giao hảo. Tuy mới một
tháng qua mà Trạng đã thêm hai lần bị thử tài.
Lần thứ nhất:
Tự nhiên có một viên quan trong Viện Hàn Lâm đến nhà công
quán tìm Trạng rồi hỏi dựng đứng một câu:
- Chúng tôi được nghe nói ngài vẽ giống vật khéo và nhanh lắm
phải không?
Biết là họ định thử mình đây, Trạng đáp liền:
- Dạ, khéo thì biết thế nào là cùng, nhưng nhanh thì nhất định
tài tôi khó ai bì kịp.
Quan Hàn Lâm mỉm cười cáo biệt. Hôm sau Trạng được vua Tàu mời
vào điện Thái Hòa, ở đấy đã có một họa sư tài ba nhất nước Tàu chờ Trạng để
cùng thi vẽ nhanh. Hẳn quý vị độc giả còn nhớ kết quả: Trạng của chúng ta đã
nhúng cả mười ngón tay vào nghiên mực ngoáy thành mười con giun trên tấm lụa bạch
khi tiếng trống vừa dứt.
Khi Trạng trở về công quán, vua Tàu mới nói với quần thần:
- Điều hớ là mình không định trước phải vẽ con vật nào.
Quan đại thần họ Lưu – (Xin nhắc lại: tức là vị đại thần đã
đi sứ nước Nam và đã từng chạm trán với Trạng) – lên tiếng:
- Muôn tâu, thì bao giờ họ chẳng nhằm đúng vào điểm hớ để
mình không nói vào đâu được. Cứ như cách thức họ đem nghé ra chọi trâu khi xưa
thì mưu cơ của họ chẳng biết đâu mà lường được. (Quan đại thần họ Lưu có vẻ
bị ám ảnh nhiều về việc chọi trâu.)
Một vị lão thần khác nói:
- Muôn tâu Thánh thượng, thần đã có cách ra cho hắn một đề
thơ:
Quan đại thần họ Lưu vội nói:
- Ấy chớ, thi ca là sở trường của nước họ. Vị lạo thần gạt đi
một cách cương quyết.
- Xin cứ yên tâm! Xin cứ yên tâm! Tôi đã có cách.
Ngày hôm sau, lại một quan Hàn Lâm khác đến công quán đúng
lúc Trạng và sứ Triều Tiên đang trổ tài họa thơ. Sứ Triều Tiên lộ vẻ thán phục
Trạng lắm, không còn giữ thái độ lạnh lùng như xưa nữa.
Quan Hàn lên tiếng hỏi Trạng:
- Nghe nói, quan Trạng ngài giỏi về thi văn lắm, có thật thế
chăng?
Trạng đáp:
- Chúng tôi chỉ gọi là biết làm thơ đúng niêm đúng luật một
chút mà thôi.
Sứ Triều Tiên trách Trạng quá nhũn nhặn! Lại đem cả những bài
thơ vừa xướng họa ra đưa cho ông Hàn Tàu xem.
Ông Hàn nói:
- Sớm mai tôi xin đến đây rước hai ngài vào điện Thái Hòa để
Hoàng thượng cùng chúng tôi được dịp thưởng thức văn tài của các quý ngài.
Quả nhiên sớm hôm sau ông Hàn tới đón Trạng cùng sứ Triều
Tiên tới điện Thái Hòa yết kiến vua Tàu. Khi ai nấy đã an tọa, một tên thị vệ ở
trong chạy ra đánh vào chiếc trống lớn, chỉ dùi lên trời rồi lẳng lặng đi vào.
Trạng biết đó là cách ra đề, nhưng vẫn chưa hiểu ý họ định
nói gì. Liếc nhìn sứ Triều Tiên. Trạng thấy ông này có vẻ hiểu, đương gật gù cấu
tứ rồi viết câu đầu. Trạng chặc lưỡi ngoằng vội lên tờ hoa tiên bốn dòng tứ tuyệt
rồi dâng lên vua Tàu. Lúc mang lên nộp Trạng có đi qua chỗ sứ Triều Tiên vỗ vai
ông ta rồi chỉ vào bài thơ của mình cười, tỏ ý Trạng đã làm bài đó trong một
lúc thi hứng sung mãn vô cùng. Nộp xong Trạng trở về, tì khuỷu lên bàn, tay đỡ
lấy cằm, đôi mắt xa xôi… Hình như Trạng muốn tức cảnh nghĩ thêm một bài nữa.
Trong khi đó vua Tàu, mặt rồng hớn hở, mở tờ hoa tiên ra đọc.
Nhà Vua hơi cau mày suy nghĩ rồi kín đáo vẫy mấy vị cận thần lại hỏi khẽ điều
gì. Các vị cận thần cùng châu vào bài thơ, cùng nhíu lông mày, rồi cùng lắc đầu.
Vua Tàu đành cho vời Trạng lên – cùng một lúc với sứ Triều
Tiên nộp bài – rồi nói:
- Chữ khanh viết thảo, trẫm không sao đọc nổi. Trạng kính cẩn
tâu:
- Dạ! Tâu Bệ hạ, nếu vậy để thần xin viết lại chân phương.
Rồi Trạng viết.
Vua Tàu cùng quần thần so bài thơ thất ngôn bát cú của sứ Triều
Tiên với bài tứ tuyệt của Trạng, đều nhận rằng tứ thơ vịnh “Tràng An đại cổ” vần
Thiên 3 của cả hai đều sâu sắc nhưng lời thơ của
Trạng bay bướm hơn nhiều.
Khi hai sứ thần đã dời khỏi điện Thái Hòa trở về công quán,
quan đại thần họ Lưu chợt vỗ đùi nói lớn:
- Chúng ta lại mắc mưu sứ An Nam rồi.
Nhà vua và các vị đại thần khác thẩy đều ngạc nhiên nhìn Lưu
công. Ông này nói:
- Muôn tâu Thánh thượng. dù thông minh đến mấy cũng không thể
nghe dứt tiếng trống mà hiểu ngay đầu đề rồi lại làm xong ngay bài tứ tuyệt.
Cách viết thảo đó chẳng qua là hoãn binh chi kế để tìm tứ thơ của sứ An Nam.
Lúc đó quần thần mới ngẩn người tỉnh ngộ và vua Tàu khen mãi
quan đại thần họ Lưu tinh ý.
Tới một sớm kia khi Trạng thức dậy thấy công quán có vẻ nhộn
nhịp khác thường. Ra bao lơn nhìn xuống, quanh nhà công quán đều có lính ngự lậm
mặc quần áo đỏ, nẹp xanh, vây kín. Lát sau, viên hành tẩu bộ Lễ tới đệ lên một
phong thơ trong đó đại ý nói: Xin bốn sứ thần hãy chuẩn bị tiếp quan Đại thần bộ
Lễ, có lẽ sắp tới. Lính thị vệ vẫn canh gác nghiêm chỉnh mà bốn sứ chờ mãi chẳng
thấy quan Đại thần bộ Lễ tới. Trạng nghi rằng họ lại định giở trò gì để thử
thách mình đây.
Ngồi xếp bằng tròn ngay ngắn, mặt nhìn thẳng, dáng thực
nghiêm chỉnh, Trạng cất giọng sang sảng ngâm thơ. Giọng Trạng lúc bổng vút như
ngọn trúc đêm trăng, lúc trầm trầm mang mang buồn như suối vang lên từ đáy vực,
nhiều lúc giọng ngân dài ngậm ngùi kiên nhẫn. Các sứ lắng nghe và nhìn Trạng chan
chứa cảm tình. Sứ Miến Điện ngừng lần tràng hạt, bâng khuâng. Sứ Triều Tiên lắng
nghe rồi cúi xuống suy nghĩ như muốn phân tích giọng ngâm để tìm hiểu ý nghĩa
bài thơ và tâm trạng của Trạng. Sứ Mông Cổ sán lại gần gạn hỏi ý nghĩa bài thơ.
Trạng chỉ cười.
Có gì đâu, tiếng là bề ngoài đọc thơ trang trọng, kỳ thực phần
nội dung chỉ là bài thơ cũ của Trạng ỡm ờ đùa cô hàng bánh. Số là, hồi vừa thi
rớt Trạng nguyên, Trạng có ghé vào nghỉ chân ở một quán bánh vùng kế cận kinh
đô. Cô hàng đon đả mời chào. Trạng ngồi xuống ăn liền, vì đang khi đói bụng. Ăn
xong đứng dậy cám ơn rồi đi thẳng. Bị cô hàng níu áo lại đòi tiền, Trạng làm bộ
ngạc nhiên:
- Chết chưa, tôi cứ yên chí là cô có lòng tốt mời nên mới dám
ăn. Trong túi tôi hiện nay không có một đồng nào thì lấy gì mà trả cô bây giờ?
Thôi thì xin làm một bài thơ tạ ơn vậy.
Đoạn ứng khẩu đọc liền:
Đang khi nắng cực 4 đói lòng thay,
Thiết đãi ơn cô có bụng này.
Giờ biết lấy gì mà tạ lại,
Xin quỳ hai gối chống hai tay.
Chính là bài thơ mà vừa rồi Trạng ngồi rất nghiêm chỉnh cao
giọng ngâm vang công quán. Bị xứ Mông Cổ gạn hỏi mãi Trạng nói thực:
- Bài này ông không thể thưởng thức nổi. Sứ Mông Cổ ngạc
nhiên hỏi:
- Vì sao vậy?
Trạng đáp:
- Vì ngôn ngữ nước tôi có điểm đặc biệt là cách nói lái. Ngôn
ngữ nước nào không có cách nói đó thì không sao thông cảm nổi cái hay của loại
thơ văn trên.
Thấy sứ Mông Cổ có vẻ tiếc hận, Trạng vỗ vai an ủi:
- Thôi để kiếp sau tiên sinh xin với Ngọc Hoàng cho đầu thai
sang nước Nam chúng tôi, tự khắc được dịp thưởng thức lo gì.
Lúc đó vẻ mặt sứ Mông Cổ mới vui vui lên được một tí.
Mặt trời đã đứng bóng. Quan Đại thần bộ Lễ vẫn chưa thấy tới,
mà cơm nước cũng chẳng thấy gì. Bốn sứ đói cồn ruột.
Lát sau viên hành tẩu bộ Lễ tới xin lỗi, nói có lẽ đến chiều
quan Đại thần mới tới được.
Theo sau viên hành tẩu là ba tên thị vệ, một tên cầm cái trống
khẩu, một tên cầm cuộn giấy – thứ giấy bồi dầy – và tên thứ ba bưng mâm cơm.
Khi mở lống bàn ra… Chà! Cơm muộn là phải, toàn những sơn hào
hải vị xếp chật mâm. Tên thị vệ mở cuộn giấy ra trước bốn sứ để xin ý kiến.
Trên tờ giấy trắng rộng đó có ghi bảy chữ nét mực rất đậm:
“Chỉ hắc, mặc bạch, hữu thị phù?” 5
Dùng giấy, trắng mực đen để hỏi điều ngược đời “giấy
đen, mực trắng” thì ai mà chịu!
Cả bốn sứ đọc xong cùng lắc đầu. Viên hành tẩu lẳng lặng đi
khỏi.
Lập tức tên thị vệ cuộn tờ giấy lại cùng tên cầm trống ra
theo và tên thứ ba bưng mâm đi nốt.
Trạng gật gù biết ý vua Tàu định thử gì rồi.
Kể ra thì cả bốn sứ cùng đói meo, nhưng Trạng vốn ở đất nghèo
nhịn đói quen nên nằm khoèo ngâm thơ trân, giọng vàng vẫn sang sảng. Toàn là những
bài của Trạng làm, nào bài “Chơi phố Hiến”, nào bài “Đề tượng Bà Banh”, nào những
bài “Lỡm cô hàng nước”, “Ghẹo cô hàng cau”, “Giễu quan thị” v.v… Trạng không
quên ngâm cả bài sỏ thầy giáo thụ:
Này lời giáo thụ gửi về quê
Nhắn nhủ bà bay chớ ngứa nghề…
Được cái ở nơi đất nước non người này vì ngôn ngữ bất đồng
nên kể cả những bài “nhảm” nhất, ở bên nước nhà chỉ dám đọc thầm, Trạng cũng lớn
tiếng ngâm tràn cung mây. Cao hứng đến quên cả đói. Trạng tự nhận là ít khi
ngâm thơ hay và được ngâm “hả” đến thế. Lũ lính canh, bỗng giạt sang hai bên –
lúc đó trời đã về chiều – viên hành tẩu bộ Lễ tới xin lỗi rằng: Quan Đại thần
còn bận việc triều chính nhưng thế nào ngày mai cũng sẽ tới, không biết lúc
nào.
Theo sau viên hành tẩu vẫn ba tên thị vệ, vẫn mỗi tên phụ
trách một thứ như ban trưa.
Khi tên thị vệ mở cuộn giấy hỏi ý kiến Trạng “chỉ hắc, mặc
bạch, hữu thị phù?” Trạng gật đầu đồng ý.
Viên hành tẩu tỏ vẻ vui mừng mời Trạng ra ngồi bên mâm tiệc.
Sứ Mông Cổ gật đầu theo sứ nước Nam và cũng được mời ra ngồi
bên mâm tiệc.
Sứ Miến Điện tự tại lắc đầu, còn sứ Triều Tiên lắc đầu một
cách công phẫn hơn. Cả hai cùng quay lưng về bàn tiệc tỏ vẻ khinh bỉ.
Khi Trạng cùng sứ Mông Cổ bắt đầu cầm đũa thì tên thị vệ thứ
hai đánh trống khẩu vừa nhảy cẫng quanh phòng như muốn “hổ huê” người ăn. Sứ
Mông Cổ gắp đều, mặc kệ. Trạng thì vừa nhấm nháp vừa gật gù nghe trống có vẻ
“thú” trò chơi đó lắm. Tên thị vệ vừa nhẩy vừa gõ trống được một lúc thì mệt, tự
thấy chán nên thôi. Trạng cũng vừa ăn xong. Có mấy quả lê, quả đào dùng làm đồ
nước, Trạng không ăn nhưng nhón cất vào túi.
Sứ Mông Cổ sau khi cơm no, tửu say lên giường ngủ liền. Trong
khi sứ Miến Điện ngồi lần tràng hạt, sứ Triều Tiên tiến đến trách Trạng:
- Ông gật đầu nhận là “giấy đen mực trắng” rồi ra ngồi hưởng
tiệc như vậy, có phải là thái độ của đại nhân quân tử chăng?
Trạng đáp:
- Nếu tiên sinh hiểu đạt nhân là người thấu suốt lý lẽ, quân
tử là người lãnh nhiệm vụ dìu dắt, giáo huấn thế nhân thì tôi quả là đại nhân
quân tử. Tôi sẽ dạy cho vua Tàu sáng lẽ “còn mất, được không”.
- Tiên sinh gật đầu nhận là giấy đen, mực trắng rồi ngồi dự
tiệc mà là dạy vua Tàu sáng lẽ “còn mất, được không”?
- Chính thị!
- Xin tiên sinh chỉ giáo cho ngu này được rõ điều đó.
Trạng ân cần cầm tay sứ Triều Tiên mời ngồi xuống bên mình rồi
hỏi:
- Tiên sinh hẳn biết truyện quân Nguyên trước đây ba lần bị
thảm bại ở nước tôi?
- Điều đó tôi có biết.
- Như vậy có phải người nước tôi “uy vũ bất năng khuất”chăng?
- Đúng!
- Sau ba lần chiến công oanh liệt như vậy mà vua nước tôi,
khi viết thơ cho Nguyên Thế Tổ, vẫn dùng lời lẽ cực kỳ nhũn nhặn.
Trạng rút ra một tờ hoa tiên, chấm bút vào nghiên, thảo vội mấy
dòng, đưa cho sứ Triều Tiên rôi nói:
- Đây là mấy câu mở đầu tờ Quốc thư đó.
Sứ Triều Tiên cầm lấy, đưa mắt đọc và hơi nhíu lông mày.
Nguyên mấy dòng đó Trạng nhớ được và ghi lại như sau:
“An Nam thế tử vi thần Trần Nhật Tuyên hoàng khủng bách bái,
muội tử phục tội, thưởng ngôn vu thượng thiên quyến mệnh, Hoàng đế bệ hạ thánh
chỉ…” 6
Giọng Trạng hơi đượm buồn – đó là lần đầu tiên sứ Triều Tiên
nhận thấy thế – Trạng nói:
- Xin tiên sinh chú ý, Đức vua nước tôi không xưng là “tiểu
thần” mà nhũn hơn xưng là “vi thần”.
Sứ Triều Tiên lắc đầu:
- Tôi thực không hiểu.
- Số là tiên sinh không rõ hết những cảnh tàn ác man rợ của
quân Nguyên mỗi lần kéo sang trả thù. Có những làng chúng vây kín rồi giết hết
đàn ông từ đứa trẻ sơ sinh đỏ hỏn đến cụ già tám, chín mươi gần kề miệng lỗ. Ở
nước tôi, vua và trăm họ thương yêu nhau như cha con. Khi nguy biến, vua tôi và
thần dân cùng nằm gai nếm mật chịu đổ máu mà giữ gìn xã tắc. Đến khi có thể hòa
hoãn thì vua chịu nhẫn nhục để thần dân sớm được yên ổn làm ăn. Lẽ kinh quyền
đó đã khiến một nước nhỏ như nước tôi đương đầu với một nước lớn gấp trăm lần
là Trung Quốc mà vẫn không bị họa diệt vong. Lúc cần chết, chúng tôi sẵn sàng
liều chết, nhưng không bao giờ chúng tôi chịu chết uổng.
Sứ Triều Tiên lộ vẻ bàng hoàng, nhưng vẫn chưa hiểu thái độ
Trạng trong việc gật đầu nhận “giấy đen mực trắng”, bèn ướm hỏi:
- Vậy lẽ kinh quyền ấy tiên sinh dùng để dạy vua Tàu suốt lẽ “còn
mất, được không” ra sao?
Trạng đáp:
- Hẳn tiên sinh thừa hiểu họ bày trò vừa rồi là muốn xem mình
đối phó có ngang tàng không. Họ đâu có đợi ở mình thái độ “Bá Di, Thúc Tề
bất thực Chu túc” 7 như vậy. Nước chúng tôi nghèo, thiên tai
nhiều, hạn hán, lụt lội xảy ra luôn. Những năm mất mùa đói kém, có khi hàng tháng
chúng tôi chỉ ăn cháo cầm hơi mà đạo lý vẫn nghiêm minh. Sở dĩ lúc nãy tôi ngồi
vào ăn là đã có ý sẽ đối phó như thế này… (Trạng ghé bên tai sứ Triều Tiên
nói thầm.)
Sứ Triều Tiên vùng đứng dậy chắp tay vái Trạng:
- Tôi đã quá thô thiển mà hiểu lầm tiên sinh, dám xin tiên
sinh thứ lỗi cho.
Sứ Miến Điện ngừng lần tràng hạt. Trạng tiến tới dịu dàng
nói:
- Bên nước chúng tôi cũng sùng đạo Phật như bên quý quốc. Hẳn
tiên sinh nhớ truyện Thái tử Tất Đạt Đa sau ba lần hỏi đạo bèn bắt đầu tu khổ hạnh?
Sứ Miến Điện gật đầu. Trạng hỏi tiếp:
- Hẳn tiên sinh nhớ chuyện: vì Ngài hành xác thân quá đáng mà
rồi chết ngất. Khi tỉnh dậy Ngài mới nhất định ăn uống như thường để giữ thân
mà tìm đạo giải thoát?
Sứ Miến Điện gật đầu. Trạng hỏi tiếp:
- Hẳn tiên sinh nhớ chuyện: khi ấy có một thiếu nữ thấy Ngài
nằm dưới gốc cây liền đem sữa đến dâng. Ngài dùng sữa xong, sức lực bình phục,
rồi xuống sông tắm rửa sạch sẽ. Chính vì vậy Ngài giác ngộ thành đạo dưới gốc Bồ
Đề?
Sứ Miến Điện gật đầu liền mấy cái. Trạng tiếp:
- Tiên sinh thử nghĩ xem, để thân chết đói thì đạo có còn
không? Đức Phật có nói “Tàng thức của người ta ai câu thúc nổi.” Tiên
sinh còn sống thì vua Tàu cấm sao được tiên sinh nghĩ trong tàng thức rằng: “Giấy
vẫn trắng, mực vẫn đen?” Hãy nói tiên sinh quyết nhịn đến chết đi nữa, lão
vua Tàu hắn cần gì? Sao tiên sinh không điềm nhiên gật đầu ngồi vào mâm ăn rồi
chúng ta sẽ làm như thế này… (Trạng ghé vào tai sứ Miến Điện nói thầm.) Thế
có phải vua Tàu phục chúng ta biết mấy!
Tới đây, sứ Miến Điện cũng vội vàng đứng dậy vái Trạng rồi
nói:
- Chính tiên sinh đã soi sáng cho tiểu đệ. Dám mong tiên sinh
xá cho tôi ngu muội ban chiều.
Trạng thò vào túi lấy ra hai quả lê, hai quả đào dùng làm đồ
nước ban nãy đưa biếu hai người và nói:
- Xin hai tiên sinh dùng tạm mấy thứ này cho đỡ đói lòng rồi
chúng ta bắt tay vào việc.
Khi hai sứ ăn xong, Trạng truyền thị vệ đi lấy cho Trạng một
tấm nhiễu bạch lớn, một bút đại tự và mực tàu.
° ° °
Sáng hôm sau viên hành tẩu lại tới báo tin quan Đại thần bộ Lễ
sẽ tới trong ngày. Vẫn ba tên thị vệ theo sau, mỗi tên phụ trách một thứ.
Khi tên thị vệ mở cuộn giấy với dòng chữ “Chỉ hắc, mặc bạch,
hữu thị phù?” ra, tuần tự bốn sứ cùng gật đầu rồi cùng vui vẻ ra ngồi bàn
tiệc.
Viên hành tẩu toan đưa mắt cho tên thị vệ đánh trống “hổ huê”
bốn sứ thì cũng vừa nhận thấy có một bức trướng lớn bằng nhiễu trắng treo trong
cùng. Ông ta tiến vào mấy bước đọc rõ hai dòng lớn nét chữ vừa gân guốc, vừa sắc
góc, vừa bay bướm, chữ của Trạng:
Tàng thức mang mang, Thùy năng câu thúc. 8
Viên hành tẩu vái dài bốn sứ rồi rút lui. Tên thị vệ không
dám đánh trống nữa.
Viên hành tẩu đi thẳng về triều tâu rõ mọi việc. Vua Tàu đưa
mắt nhìn quan Đại thần họ Lưu.
Vị này khẽ cúi đầu cung kính rồi lại nhìn Vua, ý nói:
- Thần đã đoán trước kết quả như vậy!
Nhà Vua suy nghĩ một chút rồi quay sang quan
Lễ bộ Đại thần phán:
- Khanh khá đến nhà công quán thăm bốn sứ thần, cùng họ định
nghi thức giao hảo và báo rằng ngày mai Trẫm thết yến bốn sứ ở điện Thái Hòa
trước khi để bốn sứ về nước.
Phán xong, nhà Vua đưa mắt nhìn quan Đại thần họ Lưu lần nữa.
Vị này lại cúi đầu cung kính rồi ngẩng nhìn
Vua, ý muốn tâu lại:
- Thần vẫn nghĩ như vậy là thượng sách!
--------------------------------
Sứ Tầu mang theo sang một con trâu đực cực lớn, cực khỏe, cực
dữ, thách ta tìm trâu chọi lại. Trạng cho vạch một vòng tròn giữa bãi, hẹn hễ
trâu nào chạy khỏi vòng đó là thua. Rồi Trạng cho “xuất quân” một con nghé
đói sữa mẹ. Chú nghé chạy ra cứ nhè háng con trâu đực húc mà tìm vú khiến con
này phải cố chạy ra khỏi vòng để tránh. Trạng vỗ tay reo: “Trâu Tàu thua rồi!” |
|
Đây là truyện Trạng lẻn vào nằm trong mùng bà Thị Điểm. Vế
trên của bà Điểm giiễu Trạng: “ Trong màn không gió sao cột buồm dựng?” Vế
dưới của Trạng lỡm lại: “ Trong bụng không mưa sao nước chảy hoài?” |
|
Tên thị vệ đánh vào cái trống lớn ý nói đầu đề là: Tràng
An đại cổ (cái trống của Tràng An), chỉ dùi lên trời ý nói: thơ vịnh lấy
vần Thiên. |
|
Nắng cực: tiếng nói lái. |
|
Nghĩa là: “Giấy đen mực trắng, có thế chăng?” |
|
Dịch nghĩa: Thế tử nước An Nam, vi thần là Trần Nhật
Tuyên sợ hãi, trăm lạy xin cam tội chết, dâng thơ tâu Hoàng đế bệ hạ chịu mệnh
trời xét cho… |
|
Bá Di, Thúc Tề phản đối nhà Chu dùng bạo lực diệt Trụ,
không thèm dùng thóc nhà Chu, trèo lên núi Thủ Dương hái rau vi ăn, rồi cũng
chết đói ở đó. |
|
Nghĩa là: Tàng thức người ta mênh mang, Kẻ nào mà câu
thúc nổi. |
DẠ LÝ LAN PHU NHÂN
Năm Giáp Thân (1344) niên hiệu Thiệu Phong thứ IV đời Trần Dụ
Tông, tại kinh đô có mở hội xem hoa vào dịp lễ Nguyên Tiêu, nhà nào nhà nấy
treo đèn kết hoa, cảnh tượng thực là rực rỡ, dân chúng từ các phường lân cận đổ
về kinh kỳ dự hội đông như nước chảy.
Sao lại có một thư sinh, dáng tư lự, thơ thẩn đi ra khỏi kinh
thành?
Chàng thư sinh đó, nguyên họ Đặng, quê ở Trưòng An (Ninh
Bình). Cha chàng trước đây làm quan Thái thú ở Hồng Châu (Hải Dương), bị quan
trên vây hãm, hạ nhục cả nhà. Sau một năm giam cầm, ông uất mà chết ngay trong
ngục. Vừa khi đó có một viên quan họ Lý đổi về Hồng Châu. Lý công vốn người
cương nghị chuyên coi về hình án. Vừa tới nhậm chức, ông xét lại bản án họ Đặng
và rõ ngay nỗi oan khuất, vì vậy Đặng sinh cùng mẹ được thoát cảnh ngục trở về
quê. Mùa xuân năm Quý Mùi, Đặng sinh xin phép mẹ lên du học kinh sư. Việc ăn
tiêu giữa chốn phồn hoa đô hội quá tốn kém, nên mới sang đầu xuân năm sau, vừa
một năm qua, tiền lưng đã hầu cạn. Vì vậy trong khi mọi người hớn hở chảy về
kinh đô vui xuân, chàng ngược dòng dân chúng mà thơ thẩn đi sâu vào các vùng
quê lân cận. Cứ như vậy chàng đi khỏi kinh đô chừng năm dặm, gặp một trang trại
thật rộng, gần như bỏ hoang, Bên cạnh trại là một xóm nhà thưa thớt, chung
quanh có lũy tre bao bọc. Trại cùng xóm nhà đều ở sát bờ sông Nhị.
Đặng sinh vào nhà một bà cụ già trong xóm hỏi chuyện, được biết
nơi đây thuộc phường Tiên Lập, và trại hoang trước kia là nhà dưỡng lão của
quan Thị lang họ Phùng, Khi vị này bị đổi đi làm quan Thái thú tại trấn Tuyên
Quang thì dinh cơ đó được bán cho một viên quan trong xóm. Thương gia này bận
việc phương xa, nay đây mai đó luôn, nên trại tuy mua đã trên mười năm rồi mà
chẳng hề tu sửa gì cả. Cụ già nói thêm cho Đặng sinh biết thương gia mới từ
phương xa về được mấy ngày, có lẽ mai lên đường sớm.
Đặng sinh ngỏ ý muốn đến tìm thương gia để thuê trại đó, vì
chàng nghĩ mình nên chọn ở nơi này thanh vắng xa chốn kinh kỳ, vừa để dùi mài
kinh sử vừa đỡ tốn kém trong việc chi tiêu. Chàng kính cẩn cúi đầu chào bà cụ,
toan quay ra, chợt thấy bóng một nữ nhân vừa khuất dạng sau vườn dâu gần đấy. Đặng
sinh linh cảm rằng mỹ nhân đứng nhìn trộm từ lâu, khi thấy chàng sắp quay ra mới
vội lẩn đi, chàng chỉ thoáng kịp thấy vạt áo màu thiên thanh của nàng phất lại
phía sau. Tuy chưa nhìn rõ mặt, nhưng Đặng sinh tự nhiên thấy lòng xúc động. Điều
này khiến chàng tin rằng nàng đẹp lắm.
Chàng băn khoăn tự hỏi: "Quái, nơi thôn dã này sao có
người con gái mặc màu áo quyền quý thế?"
Đặng sinh bèn nán lại, khéo gợi chuyện, được biết thêm về gia
thế bà cụ gồm chồng và một đứa con trai đã lớn, ngày nào cũng thả thuyền đánh
lưới theo ven sông từ sớm đến sẩm tối mới về, còn bà cụ ở nhà chuyên việc trồng
dâu, chăn tằm, dệt cửi. Không thấy bà cụ nói có con gái, mà muốn hỏi thêm e bất
tiện, Đặng sinh đành cúi chào bà cụ rồi đến thẳng cuối xóm tìm thương gia để
thương lượng việc thuê trại.
Có lẽ thấy vẻ chàng khôi ngô tuấn tú, rõ ra người hậu vận
thành đạt lớn, thương gia ân cần mời chàng đến ở trại vừa đèn sách học hàng vừa
trông nom giúp, không hề đòi tiền thuê.
° ° °
Đáng lẽ ngay hôm sau chàng cùng tiểu đồng dời kinh sư đến chốn
ở mới, nhưng bị anh em đồng song giữ lại đến đêm xem đốt cây bông bên bờ sông,
rồi thết tiệc tiễn biệt tại một quán treo đèn kết hoa rực rỡ nhất kinh đô. Tiệc
tan, chàng say mèm phải vịn một người bạn mà về. Vừa ra khỏi quán chàng thoáng
thấy tà áo màu thiên thanh lướt qua. Đúng là tà áo người con gái vườn dâu!
Chàng vội đứng thẳng người nhìn theo, tiếc thay vì quá say, đầu
váng, mắt hoa, chỉ lờ mờ nhận thấy bóng người con gái áo thiên thanh có quay lại
nhìn chàng rồi lẩn vào đám đông.
Hôm sau Đặng sinh cùng tiểu đồng đến trại phường Tiên Lập từ
sớm. Cảnh trại bỏ hoang bấy lâu thực tiêu điều. Tường, hiên ẩm mốc; hồ bán nguyệt
trước sân, nước váng màu rêu với vài tầu sen tàn tạ. Quamh nhà những đào, những
mai lá trút tơi bời. Giây bìm từ các bờ giậu leo vương khắp ngả với những chùm
hoa tím mới nở, còn bỡ ngỡ với nắng gió đâu xuân. Duy mấy cây mai trước cửa là
bớt tiều tụy vì đương mùa hoa nở, cây nào cây nấy trắng xoá đến đầu cành. Khoảng
đầu hồi cánh tả trông ra bờ sông có nhiều loại hoa khác đang mọc chen nhau như
tường vi, thạch lựu, hồng cẩm, kim tiền; chính giữa là một cây cao hơn cả, lá
xanh biếc, hoa lốm đốm trắng như hoa ngâu. Đặng sinh vạch cành, rẽ lá tới nơi
nhận ra đó là cây dạ lý lan, cành lá sum sê rủ sát đất. Đứng bên cây dạ lý lan,
chàng nhìn thấy thửa vườn dâu bên kia xóm, nơi lần đầu tiên chàng gặp tà áo màu
thiên thanh. Chàng tự hứa thầm, khi nơi ăn chốn ở đã yên tất, chàng sẽ gặp mỹ
nhân bằng được.
Cùng tiểu đồng nỗ lực dọn dẹp đúng một ngày, chỗ ở mới tạm được
quang đãng đôi chút. Chàng thu xếp phòng học bên gian trái, trước mặt có cửa sổ
nhìn ra hồ bán nguyệt.
Vừa chập tối hương dạ lý lan toả đến ngạt ngào. Đêm hôm đó, mở
tập ‘‘Tình Sử’’ đọc đến mấy câu thơ đắc ý, chàng tưởng như hương dạ lý lan bốc
lên từ những chữ quý giá đó, và chàng mơ đến một khuôn mặt mỹ nhân ‘‘nhân
diện đào hoa tương ánh hồng’’.
Hai ngày sau Đặng sinh học khuya hơn. Trăng hạ tuần lên được
một lát, chàng rời phòng học, đi quanh ra dãy hành lang giữa, bước xuống thềm.
Có cơn gió thổi mạnh. Mấy đóa hoa mai rụng xuống nền cỏ gần
chỗ chàng đứng. Khi chàng cúi xuống nhặt một bông, chợt có tiếng dế nỉ non như
ai oán đâu đây.
Lòng thơ lai láng, chàng trở về phòng lấy bút thảo mấy vần cổ
phong, rồi cất tiếng ngâm, giọng trầm và buồn:
Cành hoa lả lướt, chừ như tơ mong manh
Trước sao óng chuốt, chừ giờ sao tan tành!
Hoa rơi trên cỏ, chừ gió lốc làm xe
Than khóc năm xưa, chừ tiếng dế bên hè.
Cùng lúc giọng ngâm vừa dứt, một bóng người – mà là người con
gái mặc áo thiên thanh – xuất hiện ngay trước cửa sổ.
Bốn mắt ráng nhìn nhau không chớp.
Tiết xuân ấm áp, ánh trăng muộn màng nhưng tươi đẹp, người
con gái xuất hiện tuy bất ngờ nhưng vẻ nàng diễm lệ hệt như chàng đã tưởng tượng
trong mấy ngày gần đây, bởi vậy chàng coi như nàng đã là người quen thuộc.
Nàng vẫn đứng yên đối diện, nét yêu kiều lồ lộ. Có lẽ nàng chỉ
khẽ cử động là đã thành khúc múa nghê thường rồi.
Chàng đứng dậy quờ tay ra khung của sổ... Nàng lùi về phía
sau.
Chàng rảo bước đi quanh tới gian giữa... Nàng vùng chạy!
Và khi chàng ra tới ngoài, đứng vào chỗ nàng đứng, thì quanh
thềm chỉ còn tiếng lá xao xác. Bóng giai nhân hầu như tan thành ánh trăng quạnh
quẽ đương trải trên vườn khuya. Chàng tiến mấy bước ra đầu hành lang: Những cây
hoa kim tiền, tường vi, thạch lựu, hồng cẩm ngả nghiêng, mờ nhạt, lẫn lộn; duy
cây dạ lý lan cao vút thành một khối đậm vừa chững chạc, vừa uyển chuyển dưới
làn gió nhẹ đẫm sương khuya. Mùi hoa dạ lý lan đồng thời thơm sức nực.
Đặng sinh bèn xuống thềm tiến về phía đó. Bốn bề vắng lặng, tịnh
không có bóng ai! Nhìn vào gốc da lý lan, chàng chỉ thấy cành cây bốn phía rủ
xuống sum sê. Chàng đành quay về phòng ngồi lặng lẽ cho đến khi quá mệt ngủ gục
trên bàn.
Ngày hôm sau Đặng sinh thơ thẩn cả buổi sáng bên cây dạ lý
lan. Lắm lúc chàng thần người như muốn nhập điệu vào hồn cây mà tìm cho ra
nguyên ủy việc mỹ nhân xuất hiện, khi định thần lại vẫn chỉ thấy cành lá xanh
um, trắng điểm muôn đoá hoa ngà nhỏ xinh. Tịnh không một mùi hoa thoảng đến. Hồn
hoa còn mải vui tận chốn non bồng nước nhược nào! Nhân thấy cành lá đằng
Đông có phần rậm rạp, Đặng sinh tiến lại gần. Chàng chỉ thấy
cành lớn cành nhỏ bị dàn bìm hoa tím đè trĩu xuống. Dây bìm còn lan xuống đất
che kín một khoảng cỏ lớn nữa. Một vài cành gai khô vương vãi đó đây.
Buổi chiều, Đặng sinh thẳng đường vào xóm qua nhà bà cụ, nghe
có tiếng dệt cửi, nhìn sang vườn dâu không có bóng ai. Tiếng dệt cửi bỗng ngừng.
Đặng sinh nhíu lông mày toan tiến lên, rồi không hiểu sao lại thôi. Chàng lẳng
lặng quay về. Kể từ ngày đến kinh kỳ du học chàng đã được nghe kể biết bao chuyện
lạ lùng.
Nào chuyện chàng lái buôn ở Thiên Trường (nay là phủ Xuân Trường,
Nam Định) dan díu với một tuyệt sắc giai nhân tại một nơi lầu hồng gác tía. Tới
khi vị đạo sĩ trao cho một tấm bùa thì, ôi ghê rợn, chàng thấy mình nằn dưới gốc
cây ngọc lan gần nhà mồ trong có quàn chiếc áo quan bên trên đề mấy chữ: ‘‘Linh
cữu của Lan nương’’.
Nào chuyện chàng thư sinh ở phủ Thường Tín, xứ Sơn Nam, đêm
đêm ngồi học, thường có ba giai nhân đến chọc ghẹo tự xưng là họ Đào, họ Liễu,
họ Lý. Chàng đã từng cùng với ba nàng hưởng niềm hoan lạc, mười phần thoả mãn.
Rồi một đêm kia cả ba nàng cùng đến khóc mà vĩnh biệt chàng. Đêm đó mưa to gió
lớn, sấm sét rung chuyển giời đất. Sớm hôm sau chàng thư sinh ra thăm vườn thấy
dàn thiên lý, cây đào, cây liễu bị sét đánh bật gốc, hoa lá tơi bời khắp vườn.
Lúc đó chàng mới biết từ lâu mình đã làm bạn với những con tinh của cây hoa.
Còn biết bao nhiêu chuyện lạ lùng quái đản khác.
Đặng sinh nghĩ đến chuyện mình, nghĩ đến cây dạ lý lan cao
vút, nghĩ đến hương dạ lý lan thơm ngát đưa vào phòng lúc chập tối...
Đêm hôm đó Đặng sinh cắm cúi đọc kinh ‘‘Xuân Thu’’ để khỏi
suy nghĩ vẩn vơ...
Trăng lên muộn...
Nhưng... khi trăng vừa nhô lên khỏi lùm cây phía trước, Đặng
sinh bỗng rùng mình. Vì ánh trăng chênh chếch cùng lùa vào với làn gió mạnh làm
tắt ngọn đèn dầu, đồng thời một bóng người in lên bàn, che khuất trang sách: Mỹ
nhân xuất hiện!
Đặng sinh giữ được bình tĩnh ngay, từ từ ngước mắt. Mỹ nhân vẫn
mặc áo thiên thanh, đăm đăm nhìn chàng, đôi mắt dịu hiền mà say sưa.
° ° °
Đặng sinh biết lắm, chàng chỉ khẽ làm dáng động đậy là mỹ
nhân biến thành ánh trăng như đêm qua. Chàng lẳng lặng cúi xuống, cố dẹp băn
khoăn, xao xuyến và nhận thấy đôi tay búp măng ngà ngọc của mỹ nhân vịn ở thành
cửa. Chàng đưa tay nắm lấy. Mỹ nhân để yên. Lòng ngưỡng mộ dạt dào, chàng vô
tình đứng dậy nhưng chưa kịp ngẩng đầu, mỹ nhân đã rút tay chạy ra phía hành
lang, chàng thấy như mỹ nhân vút về phía cây dạ lý lan.
Chàng rảo bước tới nơi, ngơ ngác nhìn quanh, chỉ thấy cành lá
sum suê đưa đẩy theo chiều gió, xung quanh lặng ngắt.
Đêm hôm sau chàng rắp tâm ngồi chờ người đẹp.
Trăng muộn đã nhô khỏi lùm cây. Âm thầm và cô đơn như chàng.
Mỹ nhân không lại. Đặng sinh vẫn ngồi nguyên, tựa án thiu thiu. Tiếng gió đêm
thoảng, hoa lá rụng nhiều khi khiến chàng thức giấc, tưởng đấy là hơi thở nhẹ,
là bước chân lén của nàng. Hy vọng mỏng manh của đêm đợi chờ nhạt nhoà dưới anh
bình minh. Tia nắng vàng đầu tiên như xuyên thẳng vào trái tim Đặng sinh khiến
chàng nhói buốt. Suốt ngày hôm đó chàng hết ngồi lại nằm, dáng thất thểu bơ phờ,
rõ là người ốm tương tư. Nhưng, chiều đến khi hương dạ lý lan toả ngát trong
phòng, chàng bắt đầu tỉnh táo.
Chàng nghĩ: Đêm nay – đêm Hai mươi - phải đầu giờ Tý trăng mới
lên. Rồi ngồi chờ. Chàng cố mở quyển sách trước mặt làm vẻ chăm chú nhìn nhưng
kỳ thực không đọc. Khoảng giữa giờ Hợi, chàng ngẩng nhìn ra ngoài. Bốn bề tối
đen như mực; một ngôi sao lấp lánh ở chính Đông như thiên sứ báo tin vui. Chàng
khêu lại bấc ở đĩa đèn dầu và khi vừa cúi nhìn trang sách, chàng cũng vừa giật
mình trong hồi hộp, trong vui mừng vui sướng: Đôi tay ngà đã thấy vịn trên bờ cửa
sổ, cổ tay bị màu vải thiên thanh che lấp. Đặng sinh ngẩng nhìn với một dáng điệu
quen thuộc và đầy vẻ trách móc. Mỹ nhân hầu như thấu hiểu nỗi lòng chàng nên
cũng nhìn lại âu yếm thiết tha bội phần. Đặng sinh nắm lấy tay nàng sợ vùng biến
mất, mà giữ chặt đôi tay mềm mại, thanh tú thì quả không nỡ nào.
Giọng chàng cất lên như êm như mơ:
- Nương tử có lòng hạ cố đến đây, xin đừng quản ngại. Tôi
theo học đạo Nho, ngày ngày đọc sách Thánh hiền, quyết giữ tình cho vằng vặc
như trăng rằm sáng tỏ. Nương tử hãy dừng gót ngọc cho tôi đàm đạo đôi lời.
Rồi cầm lòng không đậu, chàng đứng dậy. Quả nhiên nàng rút vội
tay, vùng chạy. Đặng sinh không quành theo lối giữa như mọi khi mà băng mình qua
khuôn cửa sổ hẹp. Mỹ nhân thoăn thoắt theo lối mòn chạy về phía cây dạ lý lan.
Chàng rượt theo nhanh như vừa mọc cánh. Tới nơi nhìn quanh, chàng thấy phía
cành um tùm bên Đông như có tiếng động khả nghi.
Chàng định thần nhìn kỹ khoảng đó. Vẫn là những cành dạ lý
lan trĩu cành toả sát đất, với những cây bìm ngổn ngang. Tay chàng quờ phải một
dây bìm lớn, tiện thể kéo lại phía mình và nhận thấy cả khối bìm dưới đất cùng
xê dịch với tiếng cọ xát của những cành lá gai khô. Chàng kéo mạnh thêm chút nữa,
thấy hiện ra một miệng hố. Trái tim như ngừng đập, chàng tưởng sắp được chứng
kiến cảnh một con chồn thành tinh trắng toát đuôi xoè nhẩy vọt từ dưới hố lên.
Nhận thấy có gì thấp thoáng ở dưới, chàng kéo mạnh thêm. Cả miệng hố lộ ra sau
cùng với một bóng người ở dưới. Chàng tiến lại. Tuy hố ngập đầy bóng cây chàng
cũng nhận ra nàng. Nhìn bóng giai nhân luống cuống ở bên dưới, nỗi vui mừng của
chàng không biết lấy chi so sánh cho cân. Nàng không phải là yêu tinh. Nàng là
người thật! Lần này quyết nàng không thể chạy thoát đi đâu được nữa... Chàng
cúi xuống giơ tay cho nàng vịn rồi kéo lên.
Không! Không! Quả thực nàng không phải là ma. Chàng ôm vội lấy
nàng trong vòng tay.
Vẻ vô cùng hốt hoảng, nàng lùi lại cố vùng hai tay ấn chàng
ra xa và... – Ôi! Lần đầu tiên từ ngày gặp gỡ, chàng được nghe tiếng nàng nói với
chàng bằng một giọng nghẹn ngào xúc cảm:
- Xin chàng chớ quên lời nói ban nãy: Chàng là người theo đạo
Nho, ngày ngày đọc sách Thánh hiền, lòng chàng đẹp như gương nga, cao quí như
sen hồng.
Ngượng ngùng, Đặng sinh cố nén nỗi lòng bồng bột, chỉ khẽ nắm
lấy tay nàng hỏi:
- Nàng phải chăng là người con gái tôi thoáng thấy bên vườn
dâu bà cụ hàng xóm?
Nàng gật đầu.
Chàng dắt nàng ra khỏi gốc cây dạ lý lan um tùm, hỏi tiếp:
- Nàng có phải là con gái bà cụ? Nàng lắc đầu:
- Vậy nàng từ đâu đến đây, vì sao lại ở nhà bà cụ?
Tiếng nàng rất khẽ trong đêm khuya tĩnh mịch, Đặng sinh cố lắng
tai nghe:
- Thiếp họ Lý, quê ở Đông Ngạn thuộc Kinh Bắc. Cha thiếp từng
làm quan coi về hình án ở Khoái Châu rồi Hồng Châu.
Đặng sinh nhớ ngay ra viên quan họ Lý bèn hỏi:
- Có phải phụ thân nàng về nhậm chức ở Hồng
Châu vào đầu mùa thu năm Quý Dậu (1333)?
Nàng gật đầu.
Đặng sinh ôm chặt lấy hai cánh tay nàng, vẻ vô cùng thâm cảm:
- Thế thì chính phụ thân nàng đã giải tỏ hàm oan cho thân phụ
tôi. Chính nhờ thân phụ nàng mà những người còn lại trong gia đình tôi khỏi phải
vùi oan mạng trong ngục thất.
Đặng sinh yêu cầu nàng nói tiếp chuyện nàng. Tiếng người con
gái hiền thục làm bóng tối bâng khuâng của vườn khuya bớt vẻ âm thầm mà thêm hương
vị say sưa:
- Năm thiếp mười ba tuổi thì cha thiếp mất. Thiếp theo mẹ về
Kinh Bắc ngụ tại quê nhà. Vì thiếp thông hiểu chữ nghĩa và âm luật, năm sau được
tuyển vào cung theo hầu Hoàng hậu. Mỗi khi mở tiệc vui thiếp thường được Hoàng
hậu cho đến chầu hầu. Thường khi gặp dịp Vua lãng ngâm, thiếp ngầm giúp Hoàng hậu
ứng khẩu nối tiếp câu thần, vì vậy rất được Hoàng hậu khen ngợi. Nguyên thiếp từng
kể với Ngài thuở ấu thời có thầy số tiên đoán rằng đến năm mười sáu tuổi thiếp
sẽ kết duyên cùng một bậc tài mạo phong tư rất mực, bước thanh vân sớm hiển đạt
hơn người, Hoàng hậu hứa khi thiếp đến tuổi đó sẽ cho về quê... Sang năm nay
thiếp vừa đôi tám. Vào ngày Thượng nguyên, Đức vua cùng Hoàng hậu cho bày tiệc
rồi thả thuyền chơi trên sông Nhị. Thuyền trôi dần xuống tận bến Đông Bộ Đầu.
Lúc ngược về thiếp được lệnh cùng mấy cung nhân múa hát hầu bàn tiệc. Về khuya
gió bỗng xoay chiều thổi mạnh. Sóng sông lớn, thuyền bỗng tròng trành, thiếp vô
ý trượt chân từ mạn thuyền ngã xuống, bị nước cuốn băng không kịp cứu. Theo con
nước thiếp dạt vào cụm lau gần bờ. May sao gặp được khúc sông đương bồi nước
nông, thiếp tuy loạng choạng mà cũng lên được bờ, rồi tìm vào một gia đình
trong xóm. Thiếp không muốn trở lại nơi cung cấm, bèn nói thác với mọi người là
nhân đầu năm, xuống tìm người nhà ở Đông Bộ Đầu không gặp, khi ngược thuyền về
chẳng may bị ngã.
Thiếp phải ở nán lại nhà bà cụ mấy ngày, định sớm hôm sau sẽ
tìm đường về Đông Ngạn quê nhà. Buổi chiều hôm đó, đứng nấp ở vườn dâu thấy
chàng về đây, rồi dự định thuê trại vắng vẻ này để dùi mài kinh sử, thiếp tự
nhiên nảy ý lạ kỳ, bèn xin cụ bà cho ở lại vài ngày nữa, nói thác là để lên
kinh sư dò tìm một người thân khác mà hiện nay chưa biết ở phường nào. Rồi ngay
chiều hôm ấy thiếp lần sang trại này. Thiếp để ý đến cây dạ lý lan xanh tốt.
Thiếp nhận thấy dưới khoảng cành lá um tùm nhất của cây dạ lý lan có cái hố
sâu. Y hẳn là hố mà trước đây gia nhân quan Thị lang họ Phùng đào để đánh bẫy
giống cáo hay vào trại để bắt gà. Thiếp bèn kéo dây bìm cùng ít cành cây khô lấp
kín mặt hố. Ngay đêm hôm đó thiếp lẩn theo dân chúng đến kinh sư xem hội hoa
đăng và gặp chàng cùng các bạn đồng song ở quán rượu. Rồi chàng cùng tiểu đồng
dọn đến trại này. Hai hôm sau thiếp cố ý xuất hiện bất ngờ, như một hồ ly tinh
trước cửa sổ phòng học, để trêu chàng.
Đặng sinh ngắt lời:
- Ngộ tôi đưổi kịp, bắt được nàng thì sao? Nàng đáp:
- Thiếp nghĩ trong khi chàng phải chạy quanh lối cửa giữa,
thì thiếp đã kịp chạy tới gốc dạ lý lan để ẩn mình dưới hố kín.
Đặng sinh nói:
- Ngay sớm hôm sau buổi gặp gỡ bên cửa sổ, tôi có lần vào
trong xóm.
- Thiếp biết chàng có đến!
- Lúc đó trong nhà có tiếng dệt cửi.
- Chính thiếp đương dệt cửi giúp bà cụ. Thoáng thấy chàng,
thiếp ngừng vội để lẩn vào buồng.
- Sao quý nương lại làm vậy?
- Thiếp cũng không hiểu.
- Vì sao nàng lại có ý đêm đêm xuất hiện bất ngờ trước phòng
tôi?
Mỹ nhân cúi xuống không đáp.
Chàng khẩn khoản thiết tha hỏi đi hỏi lại nhiều lần, mãi sau
nàng đành chịu thổ lộ:
- Thiếp vẫn không quên lời thầy số tiên đoán, nên khi gặp
chàng lần đầu được trộm ngắm dung nhan ngọc bội, thiếp tự thấy như duyên trời
đưa lại để thiếp không còn là bông hoa vô chủ nữa.
Ngặt vì thân gái, lẽ đâu thiếp dám tỏ tình với chàng. Tâm
linh sai khiến thiếp tìm cách xuất hiện như hồn hoa, như hồ ly, những mong sự gần
gũi đó mà tiền duyên sáng tỏ, biết đâu chẳng có dịp khắng khít giải đồng.
Đặng sinh nghĩ thầm: "Ta vẫn nghe con gái Kinh Bắc có tiếng
là đẹp, đa tình và thông minh, nay mới được gặp thật quả như lời."
Ngay lúc đó trăng hạ tuần vừa nhô khỏi lùm cây, long lanh như
gương bạc.
Chàng cúi xuống, thiết tha nói bên tai nàng:
- Đôi ta không mối lái mà gặp nhau, quả thực duyên trời. Ngay
từ khi mới thoáng thấy áo thiên thanh, lòng tôi đã nặng u hoài. Sau này tôi quyết
tìm người mối lái để cùng nàng kết duyên cầm sắt đến già. Giờ đây bướm đã gặp
xuân, xin nàng chớ ngại chút tình keo sơn gắn bó.
Nói đoạn, chàng vừa định ôm lấy người đẹp thì nàng vội quỳ xuống,
mặt hoa đẫm lệ mà rằng:
- Được đấng quân tử thương đến hoa hèn, có khác chi chốn thâm
u cùng cốc được ánh xuân quang soi tới, nhưng thiết nghĩ từ xưa thiếp vẫn phòng
thu khoá kín, nhụy thắm còn phong, sau này quả được chàng đoái thương đón thiếp
theo nghi lễ thì đạo tòng phu thiếp há chẳng thẹn cùng chàng trong đêm đuốc hoa
hay sao?
Đựng sinh nghe lời hoa ý gấm bèn buông tay để nàng về. Sáng sớm
hôm sau chàng sang xóm cũ tìm người yêu và khuyên nàng trở lại cung thất kể sự
tình với Đức vua cùng Hoàng hậu rồi xin về quê. Như vậy sẽ không lo mắc tội khi
quân sau này.
Nàng vâng lời. Cả hai cúi đầu tạ ơn bà cụ rồi thẳng đường lên
kinh sư.
Ngay hôm sau người con gái họ Lý gặp được Đức vua và Hoàng hậu.
Nàng tâu lại chuyện ngã xuống sông, may dạt vào bờ lau, rồi lên nương nhờ tại một
gia đình phường Tiên Lập và gặp gỡ Đặng sinh. Nàng cúi xin Đức vua cùng Hoàng hậu
cho về Kinh Bắc thăm mẹ rồi cùng Đặng sinh kết tóc se tơ...
Thấy cặp tình nhân ngộ nghĩnh đáng yêu, Vua cùng Hoàng hậu định,
rồi cho lịnh nàng cung nhân họ Lý về Kinh Bắc, Đặng về Trường An, cả hai cùng
đón mẹ lên kinh sư. Hoàng hậu sẽ làm chủ hôn lễ.
Đúng ngày cưới, Đức vua ban cho hai vợ chồng một đôi chiếu
dát trúc, mười hũ rượu hạt hạnh cùng trăm cây bạch lạp để làm lễ tơ hồng.
Tuy son phấn tình nồng mà bút nghiên không hề lãng chí, hai
năm sau chàng trai họ Đặng đỗ Thái học sinh. Lập tức chàng được nhà vua cho phụng
nhậm chức Đông Lộ Yên Phủ sứ ngay tại kinh sư.
Quan Đông lộ bèn điều đình với người thương gia ở phường Tiên
Lập mua lại căn trại cũ. Những khi việc quan nhàn rỗi, quan Đông lộ thường cùng
phu nhân về đó xướng hoạ để ca ngợi những cảnh mây chiều, gió sớm, trúc biếc,
hoa vàng. Những bài thơ như vậy nhiều lắm không sao kể xiết. Để kỷ niệm cuộc hạnh
ngộ xưa, quan Đông lộ thường gọi đùa phu nhân họ Lý là Dạ Lý Lan phu nhân. Chẳng
bao lâu thành tên thật.
Ngày Đinh Hợi tiết trọng xuân, năm Mậu Tý (1348) Dạ Lý Lan
phu nhân mặc áo thiên thanh đến chùa Tháp Bảo Thiên dâng hương lễ Phật. Trước cảnh
nắng mới chan hoà, mồ hôi làm thẫm màu áo, nhìn cánh bướm chập chờn như say
hương xuân muộn, phu nhân bỗng thấy sầu xuân nặng chĩu, tự nghĩ: ‘‘Bốn mùa thay
đổi khiến giang sơn như viên ngọc bích họ hoà muôn màu kỳ diệu, lẽ nào cứ để hồn
thơ của chồng ta bị giam lỏng mãi trong áng lợi danh, mà phụ tình với bao nước
tú non kỳ?!’’
Ngay năm đó, quan Đông lộ dâng sớ xin Vua cho được từ quan, rồi
cùng phu nhân dùng mái chèo thẳng về thăm quê nhà, trước khi đi du ngoạn khắp
các danh lam thắng cảnh, mở hồn thơ vô tận hoà với sông biển mênh mông hay với
gió núi trăng ngàn.
TRÁI TIM LỬA
MẤY LỜI NÓI ĐẦU:
Phải chăng ông cha chúng ta đã có lần chiếm được địa bàn núi
Thái Sơn, rồi bị nòi Hán chiếm lại, và khi lui về lưu vực sông Dương Tử, lại bị
nòi Hán tiếp tục uy hiếp?
Phải chăng ông cha chúng ta đã có một ngày kia bị đồn vào một
thế đau đớn phải phân đôi đoàn thể, một nửa ở lại chống trả Hán tộc đến giọt
máu cuối cùng, một nửa theo đường chim Hạc đi tìm ánh sáng miền Nam?
Gian nan lắm! Khổ cực lắm!
Ánh sáng vô biên nào đã dẫn dắt, đã sưởi ấm đoàn người trong
khoảng ngăn cách đêm trường của những khu rừng già âm u, những dãy núi
hùng vĩ?
Ánh sáng vô biên nào nhỉ? Ánh sáng vô biên nào thế?
- Dạ thưa ánh sáng của một trái tim... Trái Tim Lửa!
Đây là giải đất chứa chan nắng vàng của một dân tộc miền Nam.
Nơi đây trai gái vui hòa làm việc bên nhau tạo nên một nếp sống đặc biệt thi vị.
Một đời sống đầy trời, đầy ánh sáng, đầy trăng sao và đầy sức mạnh. Cây cỏ phồn
thịnh như nuôi dưỡng cho trí tưởng tượng của họ thêm phong phú. Họ có những câu
phong dao thi tứ sao mà dạt dào, những truyện thần kỳ, tình tiết sao mà huyền ảo!
Có những đêm hè đom đóm tự đâu bay về rất nhiều, lũ trẻ con
thường tụm năm, túp ba nắm tay nhau vừa nhảy theo vòng tròn vừa hát bài đồng
dao truyền lại từ đời Thượng cổ như sau:
Hai tay hai gậy
Bước nhạy leo nhanh
Rừng núi gập ghềnh
Vượt theo chim Hạc
Cô, dì, chú, bác
Thất lạc sau lưng
Ta bước không ngừng
Theo ông Đom Đóm.
Ô này anh em ơi!
Hạc đi thì Hạc lại về
Theo ông Đom Đóm mưa thuận gió huề
ta ở lại đây.
Sao lời đồng dao lại gọi đom đóm bằng "ông" một
cách kính cẩn như vậy? Đó là một câu chuyện phiêu lưu thần kỳ khá cảm động.
Sự tích như sau:
Mấy ngàn năm trước, dân tộc này chưa tới đây. Hồi đó bộ lạc của
họ còn tụ trên thượng lưu một con sông mà màu nước trông xa lắm khi như lẫn với
màu cỏ trên bờ, họ quen gọi là dòng sông Dương Liễu. Họ bị khổ sở rất nhiều về
sự tàn bạo của một bộ lạc lớn ở bên kia sông hàng năm thường sang quấy nhiễu. Họ
đã chiến đấu rất anh dũng đấy, nhưng số lượng quân địch quá nhiều khiến cái chết
của họ hầu thành vô ích như gió thổi qua nhà trống.
Những mong cho dân chúng được yên thân, vị Thủ lãnh quyết định
dời bộ lạc xuống miền trung lưu dòng sông Dương Liễu. Nhưng ông đã làm một việc
thất sách! Giữ miền thượng lưu ông còn giữ được ưu thế đánh chặn quân địch khi
chúng đương sang sông; địch quân nay đã chiếm miền thượng lưu, chúng được lợi
điểm đất liền để thừa thế tràn xuống miền trung lưu. Một lần nữa, vị Thủ lãnh
đành phải dời bộ lạc xuống hạ lưu Dòng- sông-xanh. Nơi đây phía Đông là cánh đồng
lầy mênh mông ngăn họ với biển, phía Nam là một miền rừng núi trùng trùng điệp
điệp.
Trèo lên mà nhìn thì miền rừng núi này chạy thẳng tắp đến tận
chân trời rồi mất hút vào đó, nó cũng vô tận như biển cả vậy.
Khi bộ lạc di cư tới đây thì gặp một đàn hạc lớn từ cánh đồng
lầy cất cánh bay đi. Đàn hạc đông đến nỗi toán đầu đã khuất vào chân trời mà
toán sau vẫn còn từ đồng lầy tung cánh bay lên nối tiếp.
Một viên tướng trẻ tuổi thuộc hàng thủ lãnh của bộ lạc đứng lặng
nhìn cảnh đó với một vẻ chú ý đặc biệt. Đã mấy lần ông giương cung bắn và những
con hạc trúng tên rơi xuống, nhưng điều đó không hề làm hại đến kỷ luật, trật tự
của đàn hạc bay đi. Từ đấy viên tướng trẻ tuổi thường có vẻ đăm chiêu suy nghĩ
như đương toan tính một dự kiến quan trọng nào.
Qua mùa đông rét như cắt thịt tới một ngày đầu xuân ấm áp,
trên trời xanh, trong nắng vàng, mọi người thấy chim hạc trở lại từng đàn tưng
bừng. Nhưng cùng với ánh nắng đầu xuân, quân địch tràn xuống để chiếm nốt miền
hạ lưu. Toàn thể bộ lạc kháng cự kịch liệt và đẩy lui được chúng. Sau đó quân địch
còn tràn xuống mấy lần nữa. Chúng đều bị thất bại. Nhưng càng thất bại chúng
càng trở nên hung hãn bội phần, bởi vậy sau mỗi lần đẩy lui được chúng, số tổn
thất của bộ lạc càng nặng nề.
Lúc đó vừa cuối thu, chim hạc lại về tụ tập tại cánh đồng lầy
trước khi cất cánh thành hàng bay về phương Nam. Viên tướng trẻ tuổi bèn đến
bàn với vị Thủ lãnh nên lợi dụng lúc quân địch không dám tấn công vào mùa đông
mà dời cả bộ lạc theo chim hạc về Nam.
Vị Thủ lãnh không nghe.
Ý kiến đó truyền rất mau đi khắp bộ lạc. Mọi người bàn tán
sôi nổi. Sau đó ít ngày bộ lạc chia làm hai phe. Một phe cương quyết ở lại chiến
đấu đến cùng mong giữ lấy miền hạ lưu dòng sông Dương Liễu, một phe theo viên
tướng trẻ tuổi quyết vượt núi rừng tiến về phương Nam để bảo tồn nòi giống. Những
người ra đi vẻ mặt âm thầm nhưng dáng đi cương quyết và hùng dũng. Họ ca
câu: “Chân cứng… đá mềm.” Họ mang theo những hạt cỏ lưu ly để đánh dấu
đường. Thứ cỏ này khi mọc lên, ban đêm hoặc trong bóng tối, lá sẽ phát ra ánh
sáng. Họ ân cần hẹn những người ở lại: khi nào không thể chống nổi kẻ địch thì
lần theo đường cỏ lưu ly mà tìm về phương Nam.
Những người trẻ tuổi thay phiên nhau theo viên tướng đi trước
để phá cây dọn đường. Những người nhiều tuổi, đàn bà và trẻ con đi vào khoảng
giữa. Toán đi sau cùng hộ vệ gồm toàn những người trẻ còn lại. Họ có nhiệm vụ
nâng đỡ những người yếu sức. Đến chặng nghỉ nào, đoàn người trẻ tuổi ùa nhau
vào sâu hai bên rừng săn thú, đào củ mài cùng hái quả cây bột gạo nạo ra lấy bột
nướng thành bánh.
Càng đi vào sâu, rừng càng rậm, đất càng lầy. Có khi đi hàng
mấy ngày trời trong rừng tối mới thoát ra để gặp được một thung lũng nhỏ với
chút ánh sáng yếu ớt, liền sau đó đoàn người lại chui vào rừng.
Tiến, tiến mãi! Nơi núi cao thì đá tai mèo lởm chởm, nơi thấp
thì bùn ngập có khi đến ngực. Nhiều khi không săn được thú, họ đành ăn củ mài
trừ bữa, trường hợp củ mài cũng không, đoàn người đành ăn củ chuối cầm hơi. Họ
tiếp tục vượt hết khu rừng này sang khu rừng khác. Lòng náo nức buổi đầu khi ra
đi đã suy giảm nhiều. Nhưng viên tướng trẻ tuổi vẫn dẫn đầu băng băng! Lòng hy
sinh của Người hầu như không bờ bến, niềm hy vọng của Người tràn ngập ở khóe mắt
và lòng tin tưởng của Người vững như núi. Mỗi khi nghe tiếng Người truyền lệnh
vang lên sang sảng, đoàn người cảm thấy ấm lòng và tiếp tục tiến… tiến mãi.
Đã có những đứa trẻ bị sâu rừng đốt chết. Đã có những cụ già
đuối sức chết vùi thân dưới lớp bùn lầy. Đoàn người ra đi cơ hồ thấy lòng nặng
trĩu u sầu, chán nản… Viên tướng dẫn đầu dáng điệu cương quyết mà thân yên, vì
ông đặt bao hy vọng vào sức sống tràn trề của nửa đoàn thể theo ông quyết tiến
về phương Nam lập quốc.
Và mọi người tiếp tục tiến… tiến mãi… Có những khu rừng rậm họ
phải đi mất nửa tháng mới ra khỏi. Đã có những người lớn lên cơn sốt rồi chết
vùi dập trong bụi cây, toán hậu vệ đi qua mà không biết. Đoàn người bắt đầu
nghi ngờ trí sáng suốt của viên tướng và một thiểu số tự hối đã quá dại dột
theo một tên điên. Tiếng thì thầm truyền qua các cửa miệng…
Viên tướng vẫn điều khiển đoàn người dẫn đầu, ra công phá cây
dọn đường.
Đã có những người chết vì dịch tả, cùng các bịnh thời khí
khác. Đoàn người vừa đi vừa nguyền rủa gần như công khai, “Thằng điên cầm
đầu.”
Núi tiếp núi…
Rừng tiếp rừng…
Như không bao giờ hết!
Viên tướng vẫn dẫn đầu, giữ vững hướng tiến về phương Nam. Những
người già đã chết hết. Trẻ con chỉ còn lơ thơ một vài đứa vào hạng sức vóc vạm
vỡ. Những người đàn bà trẻ và khỏe đều đã có mang. Mọi người lặng lẽ đi, lòng
căm hờn uất hận “Thằng điên cầm đầu..." Bỗng một ngày kia, trong
lúc đang đi dưới rừng rậm, họ nghe văng vẳng có tiếng chim hạc kêu ở trên cao.
Tiếng kêu xa dần ngược với chiều họ đi. Ai nấy đều biết đã sang tiết xuân. Những
người đàn bà ôm mặt khóc nức nở, vì họ nghĩ: chim hạc giờ đây đang tiến về quê
hương, mà họ thì càng ngày càng xa quê hương để tiến về một phương trời vô định.
Lửa căm hờn bốc cháy ở tia mắt những người đàn ông, chính đã
nhóm khởi từ những giọt nước mắt của những người đàn bà. Vừa lúc đó họ ra khỏi
rừng để tiến vào một thung lũng tương đối rộng hơn mọi thung lũng mà họ đã gặp.
Tất cả mọi người bảo nhau dừng lại. Viên tướng truyền lệnh thúc giục họ đi.
Một thanh niên hầm hầm tiến lên nói:
- Ông là một tên điên! Chúng tôi ngu dại mà theo ông. Biết
nông nỗi thế này chúng tôi đã ở lại để được chiến đấu bên Thủ lĩnh, dù có chết
cũng còn hả lòng hả dạ và không xấu hổ là đã bỏ nhau trong cơn nguy biến.
Đôi mắt viên tướng vẫn ngời tia sáng tin tưởng ở kết quả viên
mãn sau cùng. Ông nhìn đoàn thể như muốn truyền cả hy vọng tràn trề nơi ông
sang họ. Ông nói bằng một giọng vô cùng thiết tha:
- Một nửa anh em chúng ta đã ở lại hy sinh chiến đấu. Vì họ
mà chúng ta đủ thì giờ vượt khỏi miền rừng núi này. Tất cả mọi người phải đi
ngay! Phương Nam ấm áp phì nhiêu đương chờ chúng ta. Núi rừng này sẽ hoàn toàn
ngăn cách chúng ta với quân địch hung bạo. Tất cả mọi người nghe tôi hãy đi
ngay! Đi ngay!
Tiếng đàn bà nức nở. Một chàng trai trẻ khác tiến lên nói:
- Hết khu rừng này đến khu rừng khác, hết đèo này sang đèo
khác, chúng tôi còn theo ông, chúng tôi sẽ vùi thân đến người cuối cùng.
Viên tướng thét lên:
- Phải đi ngay! Tôi vẫn giữ vững hướng đi về Nam. Rừng núi
tuy trùng điệp nhưng không phải là bất tận, phải đi ngay để sớm tới đích. Ở lại
miền thung lũng bùn lầy này mới là tự sát.
Tiếng đàn bà càng nức nở, và những người bụng mang dạ chửa ngồi
thụp xuống. Tất cả trai trẻ bảo nhau nhất quyết không đi. Viên tướng gầm lên
như hổ, mắt quắc sáng ra lệnh đanh thép bắt họ phải đi. Một thanh niên trong
đoàn tiên phong, sẵn con dao phạt cây lăm lẳm trong tay bèn nhân lúc ông đi
ngang qua, vung lên rồi bổ thẳng xuống. Đường dao đi hơi chệch nhưng cũng trúng
đích. Một mảng sọ bắn ra xa. Lưỡi dao còn phập sâu vào bả vai!
Viên tướng ngã xuống, máu chảy như suối, đầu hướng về cố
hương nhưng mắt vẫn nhìn về phương Nam, sáng lên những tia lửa cuối cùng tràn
ngập hy vọng. Ông cố nói với mọi người bằng một giọng thật dễ dàng:
"Anh em hãy bầu một người khác thay tôi! Chắc chắn đường
không còn bao xa nữa."
Nghe giọng nói đầm ấm, thuần thục, ai nấy đều thấy rõ viên tướng
hoàn toàn tha thứ cho kẻ cố tình giết ông, và ý chí quyết liệt cuối cùng của
ông vẫn là tiến về phương Nam.
Gần đó có một hố đá. Người ta mang thi thể ông đặt xuống rồi
phủ đất lên. Cũng có nhiều người thấy hối tiếc việc đau thương vừa qua và hầu hết
đều ngầm nhận thấy rằng tiếp tục đi về phương Nam là phải, nhưng không một ai
có đủ tin tưởng và nghị lực đứng lên cầm đầu. Những người đàn bà đều đã ngồi thụp
cả xuống bên gốc cây. Tiếng khóc rền rỉ. Mọi người đành quyết định ở lại thung
lũng đó, phá rừng vỡ nương.
Mùa thu tới có tiếng chim từ xa vọng lại, nhịp nhàng và ngân
nga. Mọi người ngẩng đầu lên. Một vạn lý trường thành trắng phau đang di động
trên trời: đã tới mùa chim hạc về Nam! Điều này càng nhắc họ nhớ tới vị thủ
lãnh trẻ tuổi cùng lời trối trăng:
“Anh em hãy bầu một người khác thay tôi! Chắc chắc đường
không còn bao xa nữa.”
Bây giờ họ càng thấy thái độ cương quyết của ông là đúng. Nơi
thung lũng bùn lầy nước đọng, quanh năm sương muối, bốn bề rừng núi âm u này quả
không phải là nơi sinh cơ lập nghiệp được. Không khí quá nghẹt ngào về mùa hạ
và buốt thấu xương về mùa đông khiến sức chịu đựng của họ suy giảm đi rất nhiều.
Bệnh mê sảng, bệnh kiết lỵ, bệch dịch tả… thay phiên nhau hoành hành. Đến mùa
xuân năm sau, nghĩa là mùa chim hạc từng đàn trở lại đất Bắc, thì số người sống
sót so với lúc khởi hành chỉ còn một phần tư. Thực đáng thương! Thấy chim hạc
bay về Bắc, họ biết là mùa xuân tới, còn cuộc đời họ trong thung lũng này làm
gì có mùa xuân. Tuy biết vậy mà không ai đủ tự tin, đủ kiên nhẫn đứng lên cầm đầu
để tiếp tục tiến về Nam. Một buổi chiều kia họ thấy có mấy người từ trong rừng
nhô ra, vun vút tiến lại gần. Thì ra đó là những chiến sĩ đã ở lại chiến đấu
bên vị Thủ lãnh để cố giữ lấy miền hạ lưu dòng sông Dương Liễu. Cả một đoàn thể
hầu như bị tận diệt. Dòng sông xanh đỏ ngầu máu và chất ngập xác những kẻ chiến
bại. May mắn mấy người này lọt khỏi vòng vây địch, lẩn vào rừng rồi theo vệt
ánh sáng của lá cỏ lưu ly tới đây. Trong số đó có một người bị kiệt sức, ngã xuống
ngất lịm, đến tối thì tắt thở. Đoàn thể cho đem chôn ngay. Người mang xác nạn
nhân đi đầu để ý thấy phía trước mặt có một khoảng sáng lấp lánh. Tiến lại gần
cả bọn nhận ra đó là một vũng nước trong phản chiếu ánh sao trên trời. Tiện thể
họ đào sâu thêm khoảng đó định để làm huyệt chôn người xấu số. Chợt nhát cuốc của
họ vấp phải đá. Có bộ xương người lộ ra. Bới thêm đất họ thấy khoảng dưới lồng
ngực bộ xương một khối rắn hình trái tim có phát ra những tia sáng chói lọi và ấm.
Đến lúc đó một người trong bọn mới nhận ra là họ đã đào lầm mả viên tướng thủ
lãnh.
Sau khi đã lấp lại mả, và chôn người mới chết ở một nơi khác,
họ mang trái tim lửa về.
Thật ra, trong thâm tâm, mọi người đều đã quá chán cảnh thung
lũng này, một cảnh chỉ có bùn lầy lội mà chẳng có sông cho mát mắt; bốn bề núi
rừng vây kín như bưng mà chẳng có một chút chân trời cho thoải mái tâm hồn. Thấy
trái tim sáng chói mang về họ cho là điềm lành. Họ quyết định dời khỏi thung
lũng ngay hôm sau, cử một người đi đầu cầm trái tim soi sáng.
Họ tiếp tục tiến về Nam!
Càng tiến sâu về Nam rừng càng rậm, càng nhiểu thú dữ cùng rắn
độc. Đoàn người điềm nhiên vung dao thẳng tiến. Những người đàn bà can đảm ôm
chặt con thơ trong lòng, thoăn thoắt bước nhanh. Trước họ vẫn là đoàn người đi
đầu để phá cây dọn đường. Sau họ vẫn là đoàn người hậu tập với nhiệm vụ hộ vệ
nâng đỡ những người rủi ro gặp nạn trên đường trường, tất cả tiến theo ánh sáng
của trái tim lửa! Vượt hết khu rừng này sang khu rừng nọ, càng đi càng dẻo
chân, đoàn người tưởng như không còn bao ngày nữa họ sẽ thoát khỏi miền rừng
núi quái gở này để nhìn thấy cánh đồng đầy ánh sáng của phương Nam. Họ bỗng
chui vào một khu rừng rậm ngoài sức tưởng tượng của con người. Họ phải thường xuyên
cúi khom người xuống mới đi được. Rễ cây chằng chịt, gai góc mọc đầy bốn phía,
rắn rết hầu như lúc nhúc dưới lần lá mục.
Họ đi trong hãi hùng như vậy đã bao nhiêu ngày qua mà vẫn
chưa tới cửa rừng để gặp một thung lũng khác như thường lệ.
Có những quãng đường họ phải bò rạp xuống lần theo rễ cây chằng
chịt mà tiến. Lắm khi họ yên lặng, rùng mình rụt vội tay lại vì đáng lẽ vịn vào
rễ cây họ đã vịn nhầm phải một khúc mềm mà họ biết là trăn rừng.
Rừng càng rậm rạp bội phần rồi kín như bưng. Đoàn người có cảm
tưởng như đương đi vào Địa Ngục. Ánh lửa của trái tim vẫn chập chờn dẫn đầu
trong bóng tối của rừng sâu.
Lại mấy ngày nữa qua. Rừng càng sâu hun hút, ánh sáng trái
tim lửa càng tăng phần rực rỡ. Nhưng, những bước chân nhẫn nại nhất, can
trường nhất cũng đã thấy rã rời. Ở họ hy vọng một mảnh đất phì nhiêu chan hòa
ánh sáng hoàn toàn tiêu tan. Họ hô gọi nhau dừng lại. Ai nấy tự nhủ thầm:
"Lần này ngày tận số thực đã đến!"
Đa đoan thay con Tạo! Một nửa đoàn thể đã bị tận diệt dưới
dòng sông xanh, nay đến lượt nửa đoàn thể ra đi bị chôn sống dưới rừng!
Bỗng trong bóng tối đen kịt có tiếng thét căm hờn:
- Nó là tên phù thủy gian ác! Chính linh hồn nó đã dẫn chúng
ta đến đây để trả thù cái chết của nó!
Ai nấy đều biết “nó” đây ám chỉ viên tướng thủ lãnh. Lời nói
dứt, người đi đầu ném mạnh trái tim lửa xuống đất. Một số người xô
vào định giầy xéo cho kỳ nát trái tim. Nhưng gót chân đầu tiên vừa chạm tới,
trái tim bỗng tóe ra bốn phía thành muôn ngàn con đom đóm. Những con đom đóm đó
bay về phía trước, tụ lại thành hình một trái tim lớn có một cái đuôi ánh sáng
rực rỡ chiếu về phía mọi người như thể một vì sao chổi vừa tự trên trời rụng xuống.
Mọi người lấy làm lạ tiến lên thì đàn đom đóm như chạy trốn.
Họ hăm hở tiến nhanh hơn, ánh sáng cũng tiến nhanh. Ánh sáng chập chờn trong
bóng tối thăm thẳm của rừng càng như thôi thúc, như khiêu khích, như hấp dẫn,
như thôi miên. Đoàn người khi đó chỉ còn biết miết mải đuổi theo trái tim
lửa nửa mê, nửa tỉnh. Chợt đàn đom đóm vút bay nhanh về phía xa rồi tóe ra
bốn phía, phút chốc mờ biến đâu mất cả. Mọi người chạy ồ lên. Họ thấy đường dễ
đi dần, chân đã được dẫm lên đất khô. Rồi một tiếng thét vui mừng:
- Ánh sáng!
Và tiếng khóc nức nở.
- Ánh sáng phương Nam đây rồi.
Một lát sau đoàn người đã ra khỏi rừng. Trước mặt họ, cả một
cánh đồng phù sa mênh mông chào đón, khoảng giữa có con sông cuồn cuộn chảy,
màu nước đỏ hồng. Xa xa thấp thoáng rặng núi đá màu trắng loang lổ. Và xa hơn nữa
họ thấy sóng nước nhấp nhô của một mảng biển. Họ ngầng nhìn trời: màu trời xanh
thẳm, đây đó một vài đám mây bạc trôi lững lờ. Quả thực họ đã tới nơi mong ước!
Đây là ánh sáng phương Nam! Đây là đồng ruộng phương Nam!
Đây là núi, rừng, sông, biển phương Nam!
Miền rừng núi khủng khiếp phương Bắc kia suýt nuốt sống họ!
Nhưng nắm được cơ sở phương Nam, thì khu rừng đó chẳng còn gì là nguy hiểm.
Trái lại, sau đó họ đã từng hàng ngày tiến sau vào rừng đốn gỗ mang về làm nhà.
Họ đã tiến sâu vào rừng để săn hươu nai làm lương thực, bắt sống trâu rừng, mèo
rừng, chó rừng mang về uốn nắn, nuôi dạy thành giống vật trong nhà. Họ đã cùng
với một thiểu số dân bản xứ kết hợp lại thành một bộ lạc mạnh. Qua bao gian
nguy, thử thách, cùng những lỗi lầm đáng tiếc, chí anh hùng lòng quả cảm ngày
nay càng ngời sáng trong tâm hồn cương nghị mà thanh tao của họ. Những người
đàn bà đã ôm con vượt rừng rậm núi cao đó nay thành những người vợ hiền mà trí
minh mẫn, đức nhẫn nại, và tài tháo vát khó có đàn bà nơi nào bì kịp.
Bây giờ thì họ ít còn thấy ốm đau nữa. Họ đã dạn dày sương
gió lắm rồi. Bệnh mê sảng cũng như các bệnh dịch ngày nay thực khó mà lay chuyển
nổi cơ thể vững chắc như cột đồng của họ. Con cháu họ kể từ đấy cũng thừa hưởng
được ưu thế về thể chất đó.
Họ cầy ruộng, gieo lúa.
Lúa ngập bờ xanh. Lúa trĩu bông vàng.
Họ quăng lưới dọc theo dòng sông, ven theo bờ biển. Sông dài
biển rộng tỏ ra rất đại lượng với họ. Mẻ lưới kéo lên, gọng vó cong trĩu và những
con cá lớn uốn mình rẫy lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Cây họ trồng lớn lên xanh như rừng với những trái thơm ngọt
ngào, trái chua quyến rũ…
Có tới hàng trăm loài hoa màu sắc khác nhau, hương thơm khác
nhau không ai trồng mà mọc khắp nơi nơi.
Bộ lạc ngày một phồn thịnh. Dòng sông đỏ, đời này sang đời
khác cần cù chở phù sa về cánh đồng miền Trung châu.
Họ tiếp tục mở rộng mãi bờ cõi ven theo biển. Một ngàn năm
sau, bộ lạc đã thành quốc gia. Một ngàn năm sau nữa, quốc gia này đã tiến tới
điểm cùng tột của mẩu đất liền nhô ra biển. Đến nay lịch sử dân tộc tính ra đã
bốn ngàn năm có lẻ rồi, trong khoảng thời gian đó biết bao phen họ vừa mở mang,
tu sửa bờ cõi vừa chống nhau với kẻ thù cũ. Nguyên là người phương Bắc sau khi
chiếm hết dòng sông Dương Liễu bèn cử đại quân phá gấp một đường xuyên qua rừng,
định tràn xuống thôn tính nốt miền Nam. Để đối phó lại, lần nào cũng vậy, thoạt
đầu họ tránh về những nơi hẻo lánh đợi một thời gian sau, khi đoàn quân miền Bắc
đã chết vãn đi vì bệnh sốt mê sảng, vì kiết lỵ, vì dịch hạch, dịch tả, lúc đố họ
mới từ bốn mặt ùa ra đánh một đòn quyết định khiến quân địch tơi bời, mảnh giáp
chẳng còn, mạnh ai nấy kiếm một đường máu mà lủi về nước. Các cụ già gọi kế đó
là “dĩ dật đãi lao”, dùng ưu thế nơi mình quật lại kẻ địch bị nhược điểm “thủy
thổ bất phục”.
Các thi sĩ, cầu kỳ hơn, giải thích rằng: Dân tộc họ đến được
miền Nam là theo ánh lửa thiêng của trái tim, còn kẻ địch tràn xuống miền Nam
là theo tiếng gọi của lòng dục nhơ bẩn. Như vậy địch thắng sao nổi họ?
Và cứ mỗi mùa hè, ban đêm, nhìn đom đóm bay trên cánh đồng,
người dân tưởng như sắp được gặp hồn viên tướng thủ lãnh, một đấng anh minh,
kiên nghị đến chết rồi mà trái tim với bao dũng cảm và tình yêu còn soi sáng
cho đồng loại vượt khỏi núi rừng âm u.
Trong khoảng im lặng hoàn toàn của canh khuya, những ánh đom
đóm như thốt ra thành âm thanh êm ả, nhịp nhàng. Có đêm hè đom đóm bay về nhiều
vô kể, sáng ngời như cả một mảnh vũ trụ sao vừa rụng xuống. Đến khi khối ánh
sáng mênh mông ấy bay ra giữa sông cho ánh nước phản chiếu thì thực cả một cảnh
huyền ảo như hư, như thực. Người dân chợt thấy đêm hè tràn ngập hồn thiêng, hồn
thiêng của những người chết trên dọc đường Nam tiến, hồn thiêng của cả một nửa
đoàn thể ở lại chặn địch để bị tận diệt dưới dòng sông Dương Liễu. Những hồn
thiêng đó về đây vào những đêm hè này, mở hội hoa đăng, mừng đàn con cháu, qua
bao gian lao nguy hiểm đã lập được một giang sơn bền vững tại một nơi có đủ biển,
núi, sông, đồng ruộng và ánh sáng.
CÁNH ĐỒNG XANH
Tôi cùng người yêu rời khỏi phòng hòa nhạc mang theo thế giới
âm thanh ra ngoài đường, định vào thăm thế giới màu sắc của anh bạn. Quá tin ở
“tay trong tay nắm vững”, mải vui nhìn nhựa đời chan hòa, vừa tới cửa triển
lãm, tôi lạc mất người yêu!
Niềm vui thơ ấu cùng nụ cười ngợp hào quan vụt tắt. Không
khóc mà nghẹn ngào nơi cổ. Thoáng có dáng ai thon thon nghiêng nóm ngả người,
thoáng có đôi mắt đẹp nào đen láy hoang vu, thoáng có đôi bàn tay nào hiền nhỏ,
trắng muốt và ngỡ ngàng trong nắng nhòa. Đi giữa đường trưa mà sao gió trăng hờ
hững, vẫn chạm vai người đô hội mà sao hoa cỏ ngậm ngùi? Tôi còn đứng giữa dòng
đời mà tưởng như đã về nằm thao thức mấy đêm trường chờ mong nửa cuộc đời thất
lạc.
Tôi bước vào phòng triển lãm cô độc vô cùng. Nhưng tôi bắt đầu
mở hết giác quan để thăm dò các bức tranh của bạn.
Ánh sáng xanh biếc của hàng trăm chiếc đèn lần theo dọc tường
mà sao vẫn âm u? Có lẽ ánh đèn bị át bởi những đường ánh sáng đan nhau, thoát
ra từ những bức họa gần nhất.
Thoạt tiên tôi vào khu ấn tượng, sắc màu hòa hợp, cành cây
nghiêng ngả thổi gió vào hồn.
Tôi sang khu biểu tượng. Ở đây màu sắc đương cựa mình muốn
thoát khỏi lý trí để tìm cách hòa mình vào siêu hình.
Tôi bước sang khu trừu tượng: muôn vàn đường ánh sáng giao
nhau trên những cửa sổ của tâm hồn.
Sang khu siêu thực, tôi thấy bớt choáng váng. Tâm hồn tôi trầm
tĩnh hơn khi ngắm bức họa một nông phu chợt nhỏ bé, nằm giữa rừng hoa cỏ vút
cao như những rừng cổ thụ. Tôi ngắm bức họa một người đứng giữa không trung,
trước hai trang sách lớn trắng xóa không có chữ, bên dưới là hình đám đông
nghiêng ngả. Tôi ngắm bức họa một người đàn bà mặc váy có gai, ngồi trên một
chiếc xe bánh vuông, đằng sau có con hươu sao, cổ đương bốc cháy.
Tôi trở về cô quạnh, nghẹn ngào. Trong trạng thái nửa mơ, nửa
tỉnh tôi thấy mình biến thành một hoàng tử của thời xưa, đi lang thang trên một
cánh đồng xanh, một màu xanh thơ ngây và gặp một đôi trai gái dắt tay nhau đi
trong ân tình. Họ bước khoan thai, nhịp nhàng. Họ không nhận thấy tôi, hình như
họ mải nhìn một cái gì vô hình. Thốt nhiên họ reo cười vì họ gặp trên đường đi
một cụm hoa tầm xuân. Tôi thoáng thấy đôi má người con gái ánh đỏ màu ráng chiều,
đôi mắt thì đen láy thơ ngây như mắt chim khuyên. Nhớ câu ca dao đã thuộc thuở
nào:
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiết lắm thay
Chợt đôi trai gái – đúng lúc họ cúi xuống nhìn hoa – biến
thành hai bông tầm xuân.
Tiếng cười khanh khách! Họ đã trở lại thành người và quanh
vào một lối mòn đất đỏ, dưới hàng thông cao vút.
Tôi theo họ – đúng hơn, tôi theo tiếng cười khanh khách của
người con gái – mỗi khi họ dừng lại cúi xuống ngắm cụm hoa nào, lập tức họ biến
thành thứ hoa đó.
Tôi theo tiếng cười đi sâu vào một cánh đồng xanh khác có người
nông phu đương vừa cất tiếng hát hồn nhiên vừa miết mải cuốc đất làm mùa. Quanh
tôi mùi hương cau quyện với hương lúa, hương tre thành một hương phấn đồng quê
thanh khiết vô ngần.
Sau một lúc làm việc mệt, người nông phu quẳng cuốc ra giữa
ruộng, lại nằm xoài trên bãi cỏ gần đấy. Đôi trai gái đã khuất nẻo nào mất rồi.
Không còn nghe thấy tiếng hát cùng tiếng cười trong trẻo, tôi thấy cô đơn. Tôi
muốn tiếp tục được nghe tiếng người. Tôi tiến nhanh về phía bờ cỏ, định bụng
làm quen với người nông phu, nhưng khi tới nơi chỉ thấy bãi xanh bát ngát, ánh
sáng xuyên qua cỏ non thành từng vùng hào quan xanh lồng lộng. Các hoa cỏ xinh
như những tiểu thiên thần đương đùa với gió. Tôi biết rằng người nông phu đã biến
thành một trong những hoa cỏ đó. Nhìn ra thửa ruộng đương làm dở, cái cuốc vẫn
còn kia.
Tôi ngao ngán tiến theo đường dốc, leo lên sườn núi tới trước
một cửa động có ông già kỳ dị, vẻ mặt chán chường. Tôi toan quay trở về cánh đồng
xanh nhưng thấy hình động là lạ bèn ở lại ngắm. Cả một vùng cao ngất, đá xếp
thành từng lớp xòe ra, lấp lánh như vẩy rồng. Xung quanh động, phần ngoài cùng
là khoảng đá màu nâu tía, phần dưới là đá bạch ngọc, rờn rờn tỏa hào quang. Đứng
chính giữa động nhìn vào thấy các nhánh dài cẩm thạch nối nhau vào sâu thăm thẳm,
xung quanh tua tủa hiện lên hình những kim lớn trong suốt, đầu có nạm vàng. Ánh
sáng lùi vào sâu để rồi mờ dần trong một vũ trụ kỳ ảo khác. Có mùi hương lạ
phiêu diêu, có tiếng gì trong như tiếng hạc. Tôi tiến lên hỏi ông cụ xem có được
vào động chăng? Ông cụ trao cho một chiếc đèn lồng, ánh sáng tỏa ra tự một viên
ngọc, gọi là “đèn sao” và nói cho tôi hay ai cũng vào thăm Động Hoa Quỳnh được,
nhưng phải ra bằng lối khác.
Tôi cầm đèn lách qua khe nhỏ những kim trong suốt đầu nạm
vàng, đồng thời phải lấy tay rẽ những lá gai cỏ sắc bên dưới mới tiến được vào
động. Tiếng hạc trong văng vẳng trước đây và biến thành một thứ tiếng hỗn loạn
như thác vỡ bờ. Tôi muốn lùi ra, nhưng mũi nhọn của lá gai cỏ sắc hướng vào
trong động cả nên đành dùng ánh sáng cây đèn lồng tìm lối ra cửa khác. Rõ ràng
tôi vào một thế giới kỳ lạ. Trong tiếng ồn ào tôi đã phân biệt được tiếng cười
tiếng nói. Ánh sáng thanh thiên bạch nhật không còn, chỉ còn ánh sáng lờ mờ của
thạch nhũ làm nền cho hằng hà sa số những điểm sáng nhỏ khác tụ nhau thành từng
khoảng. Sao trên trời cũng chỉ nhiều đến thế là cùng. Tôi tiến tới một vùng chấm
sáng gần nhất. Thì ra đó là những ngọn đèn lưu ly như ngọn đèn tôi cầm. Tôi thấy
một đám đông hình người hư ảo. Xung quanh đám đông và trên các thạnh nhũ rũ xuống,
đều có treo đèn lưu ly. Đứng chính giữa đám đông là một người đàn ông không ra
già, không ra trẻ, đầu bù tóc rối, mặt mũi hốc hác, tay cầm một cuốn sách.
Thấy tôi cầm đèn tới, ông rẽ đám đông tiến lại nói:
- Bạn vừa ở chốn thế nhân vào đây? Ha ha, hay lắm! Bạn hãy nhập
bọn này nghe tôi đọc thơ, lời thơ muôn thuở, sáng như sao băng.
A! – tôi nghĩ thầm – thì ra vĩ này là thi sĩ!
Vốn có cảm tình với thi sĩ, tôi giơ tay ra nắm lấy tay người,
nhưng chỉ thấy mình nắm vào khoảng không.
Thi sĩ cười, rồi giải thích:
- Tôi và tất cả những người yêu thơ đây không còn hình hài nữa,
cho nên những ngọn đèn lưu ly đều để xung quanh hay treo trên nhũ đá. Nhưng nguồn
cảm hứng cũng như tình yêu thơ của chúng tôi bất diệt. Bạn hãy nghe đây.
Thi sĩ mở sách đọc cho tôi nghe một bài thơ. Cứ dứt mỗi câu,
đám đông đồng thanh nhắc lại, nghe như bài thánh ca. Lời thơ thanh cao nhưng ý
thơ lơ lửng giữa từng mây. Tôi nghe không thấy một câu nào bắt nguồn ở cuộc đời.
Tôi nghĩ thầm: Mình nhập bọn này, theo ngọn đèn lưu ly trên
nhũ đá, rồi linh hồn thoát xác, rồi vĩnh viễn nghe lời thơ vẽ mây gió trong
không, vẽ trăng sao trên trời, thì chẳng hóa buồn lắm ru!
Và tôi xách đèn đi vội như chạy.
Tôi sang vùng đèn lưu ly khác. Ở đây có một triết nhân râu
tóc bạc phơ nằm trên một quyển sách lớn. Vừa lúc đó, ông mở sách viết thêm một
dòng tư tưởng rồi cao giọng đọc, tiếng sang sảng. Đám đông lớn tiếng đọc theo rồi
rì rầm nhắc đi nhắc lại cho kỳ đến thuộc lòng. Thoáng thấy tôi, triết nhân vắt
chân chữ ngũ, vẻ mặt càng thêm kiêu kỳ.
Ông hất hàm hỏi:
- Người ở chốn thế nhân vừa tới kia, hãy nhập bọn môn đồ mà học
lấy những tư tưởng hoa gấm của ta.
Tôi thưa lại:
- Dám hỏi ngài ngồi đây thì làm sao mà tư tưởng của ngài giúp
ích cho đời được?
Triết nhân đáp:
- Tư tưởng ta siêu thời gian, siêu không gian. Ta nghĩ ở đây,
nhưng luồng tư tưởng đi thẳng về cuộc đời. Mai đây tất cả thế nhân đều thuộc
lòng từng trang sách của ta.
Tôi xách đèn lẳng lặng ra đi sang một vùng ánh sáng khác. Ở
đây mọi người đều ăn mặc tề chỉnh đứng xúm quanh một người dáng uy nghi chững
chạc hơn cả.
Người đó giơ tay về phía tôi nói bằng một giọng nghiêm trọng:
- Hỡi người ở chốn thế nhân vừa tới kia, hãy dừng đấy, vuốt lại
nếp quần, xốc lại tấm áo cho tề chỉnh. Người không biết rằng người đương tiến
vào khu vực của Đạo Đức?
Tôi nghĩ thầm: Ở chốn thế nhân, cảnh người cha lam lũ người mẹ
cực nhọc để nuôi con hay cảnh những trẻ thơ lam lũ để nuôi cha mẹ tàn tật, còn
đẹp gấp ngàn vạn lần khu Đạo Đức này.
Tôi lẳng lặng xách đèn đi sang vùng đèn lưu ly khác. Tôi gặp
một ông già mắt sáng quắc đứng trên một chồng sách dầy, tay cầm một quyển khác
đang viết dở.
Thấy tôi đến ông vẫy tay gọi:
- Người ở chốn thế nhân vừa lên kia, hãy kể lại cho ta nghe
những việc vừa xảy ra nơi người ở. Ta chép sử muôn đời của nhân loại.
Tôi thưa lại:
- Dám hỏi, ngài chỉ việc ngồi đây mà ghi được sử muôn đời của
nhân loại?
- Chứ sao! Mỗi đồ đệ quanh ta đều có mang vết tích của thời đại.
Có tiếng hô “Đả đảo! Muôn năm!” ở gần đấy. Sử gia
chú ý lắng nghe rồi nói với các môn đệ:
- Các con ơi, bao giờ xã hội nhân loại được tổ chức khéo như
thế thì mới có hòa bình vĩnh cửu được.
Tôi đi vội sang phía đó để xem gương mẫu của
"hòa bình vĩnh cửu".
Khu vực ánh sáng lưu ly này rộng mênh mông. Ở đây người ta
phân chia ra từng toán nhỏ để học tập. Một toán học về cách sử dụng từ ngữ mâu
thuẫn. Tôi nghe loáng thoáng những tiếng:
- Hãy bảo vệ hòa bình bằng chiến tranh!
- Hãy giết tất cả để bảo vệ sự sống!
- Hãy đề cao lãnh tụ để phục vụ nhân dân.
- v.v…
Một toán khác đương tập diễn thuyết. Họ vung tay đá chân, họ
quay sang tả, quay sang hữu, họ phùng mang trợn mép ghép những lời mâu thuẫn
thành một bài diễn văn.
Một toán khác tập cười. Một toán khác tập khóc. Một toán khác
tập giận dữ.
Đúng vào khoảng giữa đám người mênh mông đó là một tên to đầu,
mắt sâu, râu rậm. Tay hắn cầm một chùm còi. Hắn đưa mắt kiểm soát. Thỉnh thoảng
hắn rảo bước tới một toán, chỉ dẫn chỗ sai lầm và bắt tập lại. Nhiều khi hắn vừa
tới gần một toán nào, mọi người trong toán đó cùng giơ tay hô “Muôn
năm!” để hoan nghênh hắn. Tôi thấy hắn giật mình, dừng lại ngơ ngác một
giây, rồi mới đi. Tôi thừa biết hắn giả vờ thế. Hắn nhìn tôi một cách rửng rưng
chứ không có thái độ chèo quéo như những người tôi đã gặp trên.
Hắn bỗng vuốt râu mép, lẩm bẩm (hắn đứng ở xa thế mà tôi cũng
nghe rõ):
- Đời là thế đó, rồi chúng bay phải gia nhập nơi này hết các
con ạ!
Rồi như để tỏ uy quyền của chính hắn, hắn đưa chùm còi lên miệng.
Một tiếng còi the thé. Ai nấy ngừng mọi công việc học tập. Chờ đợi.
Hai tiếng còi ngắn gọn vang xé bầu không khí. Lập tức cả đám
người mênh mông cùng giơ tay lên hò vang trời: “Muôn năm!”
Ba tiếng còi ngắn gọn vang lên. Cả đám đông cùng giơ tay hô đều: “Đả
đảo!”
Hắn thay còi khác, thổi một tiếng dài. Cả đám đông lẳng lặng
cúi đầu. Những tiếng thở dài cùng thoát ra một lúc nghe như gió tự Âm ti thoảng
lên. Hắn thay cái còi khác, tiếng còi lanh lảnh liên tiếp như tiếng tiền đồng
gieo xuống một mâm thau. Lập tức đoàn người hung hăng khoa chân, múa tay, phùng
má, trợn mép làm điệu như chửi rủa ai. Bọt mép sùi trắng xóa nước dãi bắn ra
như mưa. Tôi hoảng hốt sờ lại người, thấy vẫn khô ráo mới yên lòng.
Một tiếng còi lành lảnh khác kéo dài, lập tức đoàn người vỗ
tay, co chân, nghiêng người vừa ca vừa nhảy theo một nhịp liên hoan…
Đó là cái xã hội trật tự gương mẫu cho nhân loại theo lời giới
thiệu của sử gia. Tôi xách đèn sang khu có bầu không khí êm tĩnh hơn. Đó là khu
tôn giáo. Những người cầm đầu các giáo phái thay phiên nhau đứng lên thuyết phục
tín đồ. Cuộc tranh chấp trên giáo lý nhiều khi đưa đến xô xát lớn. Những lúc đó
thì tiếng ồn ào của khu này có thể to gần bằng khu “xã hội gương mẫu”.
Còn nhiều khu đèn lưu ly nhỏ khác, nhưng vì đã quá mệt mỏi
tôi chẳng thiết tạt vào thăm họ nữa. Tôi nghĩ cái động của bao ngành trí thức này
đâu phải là nơi mình dừng chân để chết đi ở đó. Tôi tìm ra khỏi động để trở về
với cánh đồng xanh, thầm ao ước các vị thi sĩ, triết nhân, sử gia cũng làm như
vậy. Cái kiêu hãnh nặng nề, ngu muội đã xui họ ở lì vĩnh viễn nơi đây, kết nạp
môn đồ mà xưng hùng xưng bá. Đến tên đầu đảng cầm còi cũng kiêu hãnh đặt bản
doanh trong động, thực mỉa mai thay!
Tiến theo một lối mòn rộng dần, tôi đã thấy cửa ra. Cánh đồng
xanh ban nãy hiện lên trước cửa động, êm ả như tình quê hương. Thành thử lối ra
cửa động cùng một hướng với lối vào. Có một đôi Tiên đồng - Ngọc nữ đương vừa
múa vừa ca. Họ bỗng dừng lại, nhường lối cho hai vị thánh nhân, kẻ trước người
sau vội vã bước vào. Xa tít ngoài cửa động có một thánh nhân khác đầu đội hoa
sen, hai tay từ tại chắp trước ngực. Tôi tiến lên hỏi Tiên đồng - Ngọc nữ xem
hai vị vừa vào là ai, và vị đứng ngoài là ai. Tiên đồng cho biết hai vị tối cao
pháp chủ vào động để ngăn các tín đồ xô xát, còn vị đứng ngoài xa chỉ là đứng
chờ các đạo hữu vừa vào.
Vừa lúc đó hai vị thánh nhân đi ra, bước nhanh như gió. Tôi
chỉ thoáng nhận thấy vị sau cùng hình như một tay cầm quyển kinh, tay khác cầm
thanh bảo kiếm. Khi ba vị gặp nhau thì một vùng hào quang xuất hiện, cả ba cùng
nắm tay nhau đi vào rồi biến mất. rõ ràng các đạo lý đều quy về một mối.
Tiên đồng - Ngọc nữ tiếp tục múa hát. Tôi điềm nhiên lách người
tiến ra mong chóng thoát khỏi động, trở về cánh đồng xanh, nghe lại tiếng cười
của đôi trai gái cùng tiếng hát của bác nông phu. Tôi vừa nhô khỏi cửa động, một
luồng gió mãnh liệt như dòng thác vô hình quật tôi ngã sóng soài trở lại. Tôi đứng
dậy kinh hoàng. Tiên đồng nhìn tôi mỉm cười hỏi:
- Người tưởng ra khỏi động dễ dàng lắm sao?
- Dám hỏi đó là cơn gió gì mà mãnh liệt vậy?
- Đó là sức hút thường xuyên của Động
Hoa Quỳnh.
- Sao các vị thánh nhân ra vào dễ thế?
- Người có phải là thánh nhân chăng?
Tôi chợt tỉnh ngộ nhưng nghĩ thầm: Tuy không phải là thánh
nhân nhưng tôi quyết sẽ trở về cánh đồng xanh.
Tiên đồng hỏi:
- Người muốn nghe chuyện tôi chăng? Đương lúc mệt mỏi cần nghỉ
để lấy sức, lại được Tiên đồng kể chuyện cho nghe thì còn gì bằng. Tôi ngoan
ngoãn ngồi xuống.
° ° °
Tại nước tôi – lời Tiên đồng – kể từ ngày lập quốc, đã mấy
ngàn năm qua, chỉ có một dòng vua trị vì: dòng vua Hồng Quang. Theo sử sách ghi
chép thì dòng vua Hồng Quang là con cháu Mặt Trời. Tương truyền hồi mới khai
thiên lập địa, Mặt Trời, Mặt Trăng ít khi gặp nhau. Thảng hoặc có đôi khi chạm
mặt thì cũng chỉ lướt qua mà không hề ai để ý đến ai. Trái đất thuở đó nấu nung
như một khối lửa nghẹn ngào không biết bao giờ nguôi.
Có một ngày kia Thần Mặt Trời mặt đỏ gay, mồ hôi mồ kê nhễ nhại,
đến trước Ngọc Hoàng Thượng Đế tâu rằng:
- Muôn tâu Thượng Đế, xin ngài cho con dừng bước. Phải lừng lững
đi mãi trên con đường vinh quang bất tuyệt con thấy mệt mỏi quá chừng.
Ngọc Hoàng gật đầu, suy nghĩ, rồi nói:
- Ta hiểu con lắm: Đi trên đường vinh quang mà cô độc, thực
là một hình phạt chứ đâu có là vinh dự!
Ngọc Hoàng đưa mắt nhìn Hằng Nga đẹp lạnh lùng trong mây bạc,
bèn gả cho Mặt Trời. Từ đấy đôi bên tháng tháng gặp nhau một lần vào buổi trăng
tròn. Mặt Trăng xa Mặt Trời, sầu muộn vào những đêm hạ tuần. Mặt Trăng e thẹn
nhưng sáng ngời hy vọng chờ buổi gặp mới vào những đêm thượng tuần. Đức Thái Tổ
dòng vua Hồng Quang chính là do tinh hoa Mặt Trời, Mặt Trăng kết tụ mà sinh ra.
Tôi thay vua cha lên ngôi báu từ năm 12 tuổi, là vua Hồng Quang thứ mười ba.
Tôi cố giữ vẻ cực kỳ uy nghi đạo nạo, vì tự nghĩ mình là dòng dõi Mặt Trời.
Chân tôi bước nặng nề. Lũ quần thần ngu si kính cẩn thì thầm
bảo nhau:
- Bước chân đi của Hoàng đế dòng dõi Mặt
Trời làm rung chuyển cả trái đất.
Lời tôi nói oang oang như xói vào tai. Lũ quần thần ngu si
kính cẩn thì thầm bảo nhau:
- Tiếng nói của Hoàng đế dòng dõi Mặt Trời nghe như tiếng
khánh vàng.
Sau tám năm trị vì, tôi vừa 20 tuổi xuân. Đời sống kiêu kỳ giả
dối càng làm bước chân tôi thêm nặng, giọng nói thêm oang oang. Linh hồn tôi
vùng vẫy đòi thoát khỏi xác.
Một ngày kia tôi đương đi bách bộ ngoài sân điện Thái Hòa, bỗng
đứng sững lại. Hồn tôi đã thoát xác tiến ra phía bờ sông gặp bông hoa tầm xuân
vừa hé nở. Tôi gọi hồn hoa và đóa tầm xuân hiện thành giáng một thiếu nữ nhỏ
bé, thướt tha, kiều diễm. Chúng tôi nô giỡn bên bờ con sông sáng ánh sao, rồi
đưa nhau vào ruộng dâu tận hưởng niềm hoan lạc.
Nàng vin cành dâu, chỉ con sông xuôi dòng lấp lánh nói với
tôi: “Tình chúng ta cùng thiên nhiên hòa hợp, con chúng ta đã là thi sĩ ngay từ
trong lòng mẹ.”
Rồi chúng tôi chia tay.
Tỉnh lại, được triều thần tâu cho hay là tôi đã xuất thần
trong ba ngày liền, xác tôi đứng nguyên như tượng đá giữa sân điện, quần thần
phải thay phiên nhau đến quỳ túc trực xung quanh.
Sau giấc mơ êm ái, bước chân tôi vẫn nặng nề, giọng nói vẫn
oang oang chói tai. Rồi một hôm vào buổi thiết triều, tôi lại xuất thần. Hồn
tôi đi ngược lên thượng lưu con sông và gặp bông cúc vàng vừa nở. Hồn hoa hiển
hiện thành một thiếu nữ yêu kiều dáng cao và thon. Nàng theo tôi ra bờ sông vừa
đi vừa cất tiếng hát trong trẻo. Tôi nương theo nàng mà cùng vui hát, giọng tôi
trở lại thanh dần. Tôi uốn mình múa theo nàng, bước tôi đi nhẹ nhàng dần. Rồi
chúng tôi lạc vào một bãi dâu. Tôi giữ nàng lại, cùng nhau tận hưởng nhiềm hoan
lạc.
Nàng vịn một cành dâu, chỉ con sông xuôi dòng lấp lánh, nói
thoảng bên tai tôi: “Tình chúng ta cùng thiên nhiên hòa hợp, con chúng ta sẽ
thông minh, đĩnh ngộ và hồn nhiên trở thành thi sĩ của ca dao.”
Rồi chúng tôi chia tay. Tỉnh dậy, tôi thấy mình vẫn uy nghi
ngồi trên ngai vàng, xung quanh, quần thần thay phiên nhau túc trực từ ba ngày
qua, kính cẩn thì thầm bảo nhau:
- Đức Hoàng đế dòng dõi Mặt Trời xuất thần nhập diệu để suy
tìm quốc kế dân sinh.
Vào dịp này quần thân tuyển nhiều cung phi để tùy tôi chọn
Hoàng hậu. Thân thể lũ phi tần nặng nề, ô trọc làm tôi khinh ghét. Họ đâu có
thơm và nhẹ như hồn hoa. Tôi dậm chân quát tháo. Trái đất dường như rung chuyển.
Quần thần càng muôn phần khiếp phục và các cung nữ len lét nép mình bên lối tôi
qua.
Năm đó nước tôi không còn mưa thuận gió hòa. Mùa xuân mà mưa
nhiều, như thể thần linh muốn quở trách tôi là ông vua nhu nhược. Mùa hạ nắng
nhiều, như thể tôi là ông vua tàn bạo. Mùa thu gió nhiều, như thể tôi là ông
vua u mê. Mùa đông rét nhiều, như thể tôi là ông vua đê hèn bội bạc…
Cho đến một ngày kia tôi gặp được Hoàng hậu Hái dâu (Tiên đồng
hướng về Ngọc nữ, khẽ cúi đầu) kể nốt câu chuyện.
Ngọc nữ kể rằng:
- Tôi sống ở miền có đồi, có ruộng và có rừng. Người dân làm
công việc đồng áng trong sáu tháng liền. Sang sáu tháng sau, đời sống họ khác hẳn:
ngày, chèo thuyền đánh cá; tối, trai gái đốt đuốc tìm gặp nhau trên bờ. Người
con trai tiến lên trước, người con gái dập tắt đuốc. Người con gái ưng ý thì dập
đuốc theo. Rồi hai người ngồi xuống bắt đầu hát đối. Nếu qua lời ca mà đôi bên
tâm đầu ý hợp thì thành vợ chồng. Tôi là con gái hái dâu, đêm trước có gặp một
bà tiên. Bà trao cho tôi một cái vòng cổ tết bằng dây leo, một bên cài bông tầm
xuân, một bên cài bông cúc vàng. Bà tiên dặn tôi: "Ngày mai con đi hái dâu
sẽ gặp Vua dòng Mặt Trời. Nếu được Đức vua vời về cung, con sẽ làm như thế… như
thế." Quả nhiên hôm sau, Đức vua cùng quần thần tuần du qua đấy. Đức vua
chợt dừng lại, lặng yên suy nghĩ, nhìn tôi xách giỏ hái dâu. Quần thần cho là
Ngài ưng ý bèn bắt tôi theo về làm cung phi.
Đêm đầu tiên, Ngài đến với tôi, nhưng khi vừa nắm tay tôi thì
Ngài xuất thần. Tôi quàng vội vòng dây leo vào cổ rồi niệm chú hóa thành con bướm
bay theo hồn vua. Vòng dây leo cũng trở thành nhỏ xíu mà tôi vẫn mang theo ở cổ.
Hồn vua tiến đến đóa tầm xuân bên sông. Một dáng yêu kiều nhỏ
nhắn bước ra.
Tôi bay tới lấy chiếc hoa tầm xuân ở vòng dây leo thấm hết
sương đêm đọng ở đóa hoa tầm xuân bên sông vừa nở. Dáng hoa yêu kiều vụt biến,
Đức vua kêu lên đau thương. Nhưng, mặt rồng lại hớn hở ngay vì chính tôi khi đó
vừa biến thành nàng Tầm Xuân. Tôi cùng Đức vua nô giỡn bên sông. Sau đó tôi
cũng vin cành âu nhìn con sông xuôi dòng, lấp lánh ánh sao và nói: “Tình chúng
ta cùng thiên nhiên hòa hợp, con chúng ta đã là thi sĩ ngay từ trong lòng mẹ.”
Tối hôm sau Đức vua có đến với tôi, nhưng cũng đúng khi nắm
tay tôi thì Ngài xuất thần. Tôi vội đeo vòng dây leo, niệm chú hóa thành bướm
bay theo. Đức vua ngược lên thượng lưu dòng sông tìm đến bông cúc vàng hàm tiếu
để rồi cùng múa hát với hồn hoa. Tôi lại lấy bông cúc vàng ở vòng dây leo thấm
hết sương đêm ở bông cúc vàng hàm tiếu. Sau một tiếng kêu ngạc nhiên, Đức vua
trở lại vui mừng nhảy múa, vui ca cùng tôi. Ngài vẫn tưởng tôi là nàng tiên cúc
vàng. Rồi sau đó tôi cũng say sưa vin cành dâu nhìn dòng sông lấp lánh ánh sao
và nói với quân vương: “Tình chúng ta cùng thiên nhiên hòa hợp, con chúng ta sẽ
thông minh đĩnh ngộ và hồn nhiên trở thành thi sĩ của ca dao.”
Tới đêm thứ ba, Đức vua có đến. Tôi đeo vòng dây leo để lộ
bông hoa tầm xuân về phía trước. Đức vua cùng tôi nô đùa trong phòng mà cùng tưởng
như đương nô đùa bên sông.
Tôi xoay vòng dây leo, để lộ bông cúc vàng trước ngực. Đức
vua cất tiếng hát trước rồi cùng tôi nhảy múa…
(Tới đây cả hai Tiên đồng, Ngọc nữ cùng nhìn nhau mìm cười.)
Tiên đồng kể cho tôi nghe nốt đoạn kết:
- Từ đó bước chân tôi nhẹ nhàng, giọng tôi thanh thanh. Tôi
thường múa hát trước quần thần và quần thần cũng theo tôi múa hát. Chúng không
còn kính cẩn thì thầm với nhau. Hình như chúng quên rằng tôi là Hoàng đế dòng
dõi Mặt Trời và tôi thấy khuôn mặt chúng ngày một sáng sủa đáng yêu chứ không
ngu muội như trước nữa. Chúng tôi sinh hạ được một hoàng tử mà tình ca ngày một
phong phú cùng thảo mộc. Con cháu tôi kế tiếp nhau trị vì, còn chúng tôi được
Ngọc Hoàng cho đến đây canh Động Hoa Quỳnh.
° ° °
Dứt câu chuyện, cả hai lại vui ca nhảy múa. Tôi thấy lòng sảng
khoái. Cánh đồng xanh hiện ra xanh hơn bao giờ hết trước cửa động. Vẳng như có
tiếng cười trong trẻo của đôi trai gái đi dưới rặng thông xa. Vẳng như có điệu
ca bát ngát của người nông phu ngừng cuốc đất. Tôi vùng chạy vút, hy vọng, bất
chợt thoát được ra ngoài cửa động. Dòng thác gió vô hình lạnh như băng, rắn như
thép, dữ dội như mãnh thú hất ngược tôi lại, đầu đập vào đá…
Hình như tôi tỉnh dậy, nhưng dù tỉnh dậy thì tôi vẫn thấy rằng
mình còn bị giữ trong Động Hoa Quỳnh. Dù tỉnh dậy tôi vẫn thấy rõ rằng trước
đây tôi đã từng sống trên cánh đồng xanh với đôi trai gái yêu nhau, với người
nông phu thơm phức hương đồng.
Nhớ lại lời Tiên đồng hỏi tôi trong mộng: “Người có phải là
thánh nhân chăng?” Và tự kiểm soát:
Trước những kẻ thù cưỡng hiếp tư tưởng nhân loại, tôi vẫn còn
gầm thét như con thú bị thương, mặc dầu trong thâm tâm tôi vẫn tin rằng tư tưởng
nhân loại, như ngọn lửa kia, chỉ bị uốn mình trước cơn lốc, mà bao giờ ngọn
cũng bốc lên cao. Tôi còn nhiều dục vọng lắm!
Tôi vẫn phải cắn răng mới nhẫn nại nổi để khỏi khinh những gì
là giả dối, ti tiện, tầm thường, ích kỷ. Tôi còn hẹp hòi lắm!
Tôi phải luôn cố gắng lắm mới giữ được quân bình trong lòng để
nhớ rằng con người không phải vạn năng mà tha thứ cho đồng loại. Tôi còn thiển
cận lắm!
Tôi vẫn dè dặt khép lòng trước người lạ, e sợ con mắt soi mói
của họ đốt cháy những gì là tế vi của linh cảm. Tôi còn nhu nhược lắm!
Tôi lao mình đến giữa những người thân, nằm êm ấm như những
người lính bị thương và mở tung cửa sổ tâm hồn, thái độ cuồng nhiệt tưởng như
trong đời chỉ còn mấy người đó là tri kỷ, tri âm. Tôi còn lạc lầm nhiều về bản
ngã!
Từ thuở xa xưa tôi dời khỏi cáng đồng xanh, cầm ngọn đèn trí
thức đi vào động suy tưởng. Tôi biết lắm, vào cái động quyến rũ đẹp như hoa quỳnh
này đâu có phải là một lỗi lầm. Tiếc thay, vào dễ mà ra khó. Từ trước tới nay,
tôi vẫn có huyễn tượng đã xóa được “cái tôi” bằng tư tưởng vị tha, bằng thái độ
nhũn nhặn, bằng hành động mềm dẻo, để trở nên thanh thoát, nhẹ nhõm. Tôi đã nhầm!
Tôi còn nặng nề lắm… nặng nề lắm!
Trời ơi! Tôi nhớ cánh đồng xanh, tôi nhớ tiếng cười của đôi
trai gái, tôi nhớ tiếng hát của người nông phu hiền hòa, tôi nhớ cảnh những người
đó cúi xuống hoa cỏ thì biến thành hoa cỏ.
Tôi nhớ cánh đồng xanh!
Tôi nhớ cánh đồng xanh!
Kìa, may sao, người yêu tôi đã lại! Nàng khóc từ xa và bước
nàng lật đật. Tôi biết nàng sẽ hờn giận bắt đền sao đã để lạc nàng giữa đám
đông. Nàng gục đầu xuống vai tôi, khóc rưng rức được một lúc khá lâu mà vẫn
chưa vợi nỗi sầu hiu quạnh.
Tôi nhắm nghiền mắt lại. Tuy chỉ có hơi thở người yêu ấm má,
mà rõ ràng tôi nghe thấy tiếng nàng: “Tình yêu chúng ta cùng thiên nhiên hòa hợp,
con chúng ta sẽ thông minh đĩnh ngộ và hồn nhiên trở thành thi sĩ của ca dao.”
Tôi ôm chặt nàng vào lòng, vừa nắm lấy đôi tay nàng trìu mến
như nắm tay ân nhân vừa thiết tha áp môi trên má nói khẽ với nàng:
- Em yêu dấu, anh là Mặt trời em là Hằng Nga, anh là Tiên đồng,
em là Ngọc nữ, anh là Hoàng đế Hồng Quang, em là Hoàng hậu Hái dâu. Em hãy đưa
anh về cánh đồng xanh. Chúng ta cùng trở về cánh đồng xanh!
ĐOÀN QUÂN XUNG PHONG
I
Mùa xuân năm 2002, sau khi Khối Nhân loại Giác ngộ đã diệt
xong bốn triệu quân xung phong Bắc Á, các sử gia thế giới bèn họp nhau lại để
ghi chép và phê phán thế kỷ trước.
Tất cả sử gia đều đồng ý mệnh danh thế kỷ 20 là “Thế kỷ
của những kẻ sợ sự thật.”
Người có tiền thì dùng tiền mua chuộc để khỏi phải nghe sự thật;
người có cường quyền thì dùng cường quyền khủng bố để khỏi phải nghe sự thật;
người không có tiền và không có cả uy quyền thì đi vay tiền, vay uy quyền mà
mua chuộc, mà đàn áp để khỏi phải nghe sự thật. Cho nên nhân loại tính đến gần
cuối thế kỷ 20 sau Thiên Chúa, đã có trên ba ngàn năm kinh nghiệm thực sự để
suy ngẫm mà kết quả lịch sử vẫn sao vào những lầm lẫn cũ, y như chiếc xe được dẫn
dắt bởi một lũ lão nô lẩm cẩm đã đui lại điếc.
Xét bề ngoài – chỉ bề ngoài thôi – lời phê phán trên không
oan chút nào. Phần tiền bán thế kỷ 20 các đế quốc Tây phương tràn sang Đông
phương ngự trị bằng sức mạnh, sử dụng kẻ bị trị như súc vật, nhưng phàm những
người mà coi người như súc vật thì chính những người đó biến thành súc vật
nhanh hơn. Thấy rõ nguy cơ đó, một thi sĩ Đông phương đương thời có nói: “Thế
giới ngày nay là trong tay Tây phương. Tây phương sẽ tàn phá nó nếu Tây phương
không dùng nó cho một công cuộc sáng tạo tốt đẹp của nhân loại.”
Thuyết giai cấp đấu tranh, nhân danh cuộc sáng tạo đó, hoạt động
trên khắp hang cùng ngõ hẻm của thế giới và đạt được thắng lợi lớn vào mấy năm
đầu hậu bán thế kỷ 20. Thế giới phân đôi làm “Thế giới được giải
phóng” của phe giai cấp đấu tranh và “Thế giới tự do” của phe đế
quốc cũ.
Để kịp thời đối phó với địch thủ, các đế quốc vội nới bàn tay
sắt cố lấy lòng các nước bị trị mà giữ họ về phe mình, nhưng họ chỉ nới tới mức
vừa đủ để các nước đó biến thành vệ binh cho họ về quân sự cũng như về kinh tế.
Hội nghị đủ loại mở liên tiếp. Các lãnh tụ của hai phe vượt hàng ngàn vạn dặm đến
để nghe nhau… nói dối. Họ dối người, họ dối mình nhưng rất thành thực ở điểm
chia nhau thế giới sao cho công bình.
Trong buổi giao động này, Thế giới tự do sống trong
một bi hài kịch có một không hai trong lịch sử nhân loại tính đến ngày đó.
Không một nước nhược tiểu nào được hoàn toàn độc lập liền trong hai tháng. Dưới
áp lực vị kỷ của hai phe lớn, các nước nhược tiểu buộc lòng phải ngả - hoặc làm
như ngả - sang một phe. Các đế quốc bên phe Thế giới tự do có kỹ thuật
cao, có tinh thần trách nhiệm, có tinh thần kỷ luật… nghĩa là có đủ những vật
liệu của công cuộc sáng tạo, tiếc thay vì tinh thần họ nặng nề vị kỷ nên tài
năng sáng tạo ở họ không có.
Trước đây, Tây phương tự kiêu vì mình có tài tung roi da một
cách hào hoa, rồi khi quất mạnh xuống da thịt Đông phương thì đường roi vừa
nhanh, vừa mạnh lại vừa trúng đích. Cả một nghệ thuật tuyệt luân! Đông phương
thì tự tìm thấy vẻ đẹp của cơ hàn chịu đựng, vẻ đẹp của một mầm sen bị dìm xuống
đáy bùn, bị đầy đọa giữa cát sỏi nhưng vẫn ý thức được rằng mình ôm trong lòng
một mầm hương sắc cao quý mà bất chấp thời gian, bất chấp sức nặng của bùn hôi,
của cát sỏi, chẳng cái gì trên đời này có thể hủy diệt nổi.
Gìn giữ và phát triển được trọn vẹn tinh hoa cao đẹp của Đông
phương chỉ còn một số người văn nghệ. Mà phía Tây phương chân thành đi tìm tinh
hoa Đông phương cũng chỉ còn một số người văn nghệ.
Bên Thế giới được giải phóng thì sự bẩn thỉu bộc lộ
đến mức lõa lồ. Đảng bảo gì dân chúng phải nghe vậy. Hôm nay Đảng hùng hồn biện
luận điều này là chân lý, dân chúng đồng ý một cách vui vẻ; ngày mai vẫn điều
đó được Đảng chứng minh ngược lại, dân chúng vội vàng đồng ý một cách vui vẻ
hơn. Hôm nay tên lãnh tụ này được coi là mặt trời của mặt trời, là ánh sáng của
Đảng, là vị cứu tinh của nhân loại, dân chúng bèn ăn uống, thở hít, thức ngủ
trong bầu không khi kính cẩn thường xuyên vị lãnh tụ chói lọi đó; ngày mai bị hạ
bệ hay bị thủ tiêu, vẫn hắn bị Đảng tố cáo trước dân chúng là trên khát máu,
tên điên khùng, tên phá hoại, tên tay sai của đế quốc, dân chúng vội vàng họp
mít-tinh, biểu tình tuần hành, hô khẩu hiệu, làm kiến nghị đả đảo tên khát máu,
điên khùng, phá hoại, tay sai.
Chẳng còn gì là tình cảm!!! Chẳng còn gì là nhân cách!!!
Tại sao một chính thể nhơ nhớp lõa lồ như vậy vẫn đứng vững
được trên một phần thế giới và tiếp tục quyến rũ nhân tâm ở các phần thế giới tự
do khác?
Đáng lẽ Thế giới tự do với trí sáng suốt tầm thường
nhất chỉ cần vừa mỉm cười vừa chiến đấu cũng thừa thắng nổi cái ngu tầy trời đó
mà cứu nhân loại ra khỏi cơn ác mộng cực kỳ khủng khiếp nhưng cũng cự kỳ khôi
hài, trái lại vì đâu Thế giới tự do đã không thắng mà còn bị lấn đất?
Tại vì trước cái ngu khủng khiếp này, người ta lợi dụng nhiều
cái ngu nhỏ khác để đối phó lại, đúng như câu mỉa mai của danh sĩ nọ: “Thế
giới được giải phóng tung hết sức cầm thú của mình ra uy hiếp đối
phương. Thế giới tự do đem những hình thù nửa người nủa thú, chân tay
kềnh càng ra dọa lại.”
Sự phản bội của cường quyền ghê gớm đến nỗi những người tự trọng
đều thấy rùng mình sởn gáy trước bất cứ danh từ cao đẹp nào dù những danh từ đó
gợi những tư tưởng nhân đạo, bác ái, công lý.
Một câu nói chán chường, không biết của ai, rất được phổ biến: “Thế
kỷ này là thế kỷ cường quyền 'sủa' ra văn hoa, vì vậy các cha đẻ ra văn hoa là
các văn nghệ sĩ tự thấy bị xúc phạm bèn rút lui về thôn dã để nghe tiếng chó sủa
chim kêu là những tiếng kêu thật còn sót lại trong tạo vật và để được sống với
những người dân quê bị dập vùi hắt hủi nhưng còn giữ nguyên được vẻ trong trắng
của tâm hồn.”
Một sự giả dối mênh mông trùm lấy toàn thể thế giới ngột ngạt.
Con người đóng cửa trước nhau nên càng ở những đám đông ồn ào, càng hô chung một
khẩu hiệu bắt buộc, cá nhân càng cảm thấy niềm cô độc chua chát riêng mình.
Đó là bề ngoài của nhân loại. Còn bề trong?
– Bề trong nhân loại, con người có ham tiến hóa, có thiết tha
quyết khắc phục mọi khó khăn mà tìm hướng vươn lên hay cũng nhầy nhụa như bề
ngoài? – Chúng ta hãy quay về với nước Việt Nam vì câu trả lời phát xuất ở đây.
Khách quan: nước Việt Nam ở vào vị trí gặp gỡ của mọi nền văn
minh Đông Tây.
Chủ quan: nước Việt Nam vẫn đặc biệt có khả năng dung hòa được
mọi mâu thuẫn, đồng hóa được mọi văn minh nên thoát được mọi câu thúc mà vượt
lên cao nhìn thấy hướng tiến tới.
Vào mấy năm đầu hậu bán thế kỷ 20, khi các đế quốc vừa nới
bàn tay sắt, người Việt Nam cũng sa vào những lầm lẫn thường tình. Họ cũng kết
hợp thành bè đảng; họ cũng chủ trương nhồi sọ ngu dân để dễ xách động quần
chúng trong các cuộc tranh chấp.
Người dân Việt Nam đã trải qua những ngày điêu linh ê chề dưới
ách lũ người cố thực hiện tham vọng bằng mọi phương tiện.
Rất nhiều thanh niên nam nữ Việt Nam – cả thiếu nhi nữa – đã
qua một thời bị chết uổng vì tai bay và gió hoặc vì bị lợi dụng trong những vụ
tranh chấp vô đạo.
Khoảng mươi năm đầu hậu bán thế ký 20 toàn dân Việt Nam đã có
một thời thấy những bom, những súng, những dao găm được phủ bằng hoa, bằng gấm
để che dấu thâm ý giết người tập đoàn hay ám sát cá nhân của lũ người cố tình
đui điếc trước tương lai dân tộc, trước tiếng gọi thiết tha của tổ quốc.
Nhưng, chỉ trong một thời gian ngắn tâm hồn giầu thương yêu đầy
cao cả của dân tộc đã là động cơ chính thúc đẩy họ vùng thoát khỏi vực thẳm tội
lỗi. Ý thức sáng suốt của dân tộc giúp họ nhận định rõ: bám lấy danh vọng, vơ
vét cho đầy túi tham để mặc dân lầm than, khổ cực, hèn hạ thì sự giàu sang đó
không những chỉ làm ung thối tâm hồn mình còn làm ruỗng nát cả lũ con cháu thuộc
dòng giống mình nữa. Ý thức sáng suốt của dân tộc giúp họ nhận định rõ: chỉ có
cánh tay của Đạo Đúc mới ôm rộng được toàn dân, mới tô điểm được cho giang sơn
của tiên tổ, mới gìn giữ lâu bền được hạnh phúc cho dân tộc.
Nghĩ đến công lao của ông cha đã gây dựng lịch sử, họ thấy tủi
hổ cho thái độ hèn hạ, hẹp hòi, thiển cận vừa qua của họ đã vô tình tiếp tay
cho đế quốc giữ chân dân tộc quằn quại trong vũng bùn nô lệ.
Sự biết kịp thời hồi tâm do trí sáng suốt, lòng cương trực thừa
hưởng của ông cha đó đã giúp họ hòa vào dân tộc mà đạt được thế quân bình giữa
cá nhân với đoàn thể. Rồi từ thế quân bình này họ tiến rất nhẹ nhàng sang thế
quân bình giữa quốc gia với quốc tế.
Sau hai mươi năm trường vừa chiến đấu với bản thân vừa chiến
đấu với những lực lượng phá hoại bên ngoài, người dân Việt đã hoàn thoàn “vượt
vực” ngoi lên bờ vinh quang.
Tia hạnh phú đại đồng đầu tiên lóe lên từ đấy. Là một dân tộc
trưởng thành trong phong ba trong khổ cực, là một dân tộc phải thường xuyên chiến
đấu với cuộc sống để thể hiện cuộc sống của chính mình nên các tư tưởng của họ
đề ra không trừu tượng khô khan, trái lại rất linh động, rất giàu nhân tính, rất
sát với thực tế mà không kém trữ tình. Họ luôn luôn giữ được nụ cười bất diệt
nên mặc dầu cuộc chiến đấu có khắc khổ gian lao, mỗi khi vui với đời họ vẫn giữ
được phong thái rộng lượng của ông già vui với đàn con trẻ.
Trong lúc thế giới đương rối ren, họ nắm được bí quyết tự lực
về kinh tế để thoát ly mọi áp lực bên ngoài.
Đúng vào lúc thế giới rối ren nhất, một họa sĩ nước họ tung
ra hình ảnh đầu tiên của tin tưởng: đó là bốn bức bích họa lấy sự thành hình của
trái đất làm hình ảnh tượng trưng cho sự tiến triển của nhân loại.
Bức thứ nhất: Trái đất mới chỉ là khối lửa hình thù hung hãn
văng ra từ mặt trời. Hấp dẫn lực bên trong vẫn vo tròn khối lửa và đồng thời dìu
cho khối lửa chuyển vận nhịp nhàng trong vũ trụ.
Bức thứ hai: Trái đất vừa nguội hoang sơ với cảnh núi lửa
phun, bề mặt ngổn ngang nham nhở. Hấp dẫn lực vẫn chăm chỉ giữ cho trái đất tự
xoay, vẫn chăm chỉ dẫn trái đất đi theo nhịp nhạc của trăng sao khiến vừng trán
nóng hổi của trái đất dịu dần trong hơi mát thăm thẳm của vũ trụ.
Bức thứ ba: Hấp dẫn lực đã thành công ở đợt thứ nhất với khối
lửa bất kham, trái đất biến thành một hạt châu vô giá, xanh mởn với núi rừng, lấp
mặt đất tự xếp thành mấy câu phỏng theo bài cổ thi của một thi hào Đông phương:
Cây cối là những nỗ lực không ngớt của trái đất
Để nói với vòm trời lắng tai nghe
Màu lơ của da trời
Ao ước màu xanh non của mặt đất 1
Gió giữa cả hai
Thở dài.
Bức thứ tư: Giữa vòm tinh tú, điểm xanh của trái đất nhũn nhặn
dự vào dịp xuân tuyệt vời của vũ trụ trong đó hấp dẫn lực là một sự thực hằng cửu.
Sau bốn bức bích họa, một thi sĩ Việt Nam viết một tập thơ ca
ngợi ý thức trường cửu đã hoạt động không ngừng để vo tròn hạnh phúc của nhân
loại. Nội dung tập thơ đại ý như sau: “Bề ngoài của nhân loại đầy rẫy những
bạo tàn phản bội; bề trong ý thức trường cửu luôn luôn hướng con người về lý tưởng
quân bình, nhân đạo. Bề ngoài nhân loại nặng mặc cảm chia rẽ Đông Tây; bề trong
ý thức trường cửu luôn luôn hướng con người tìm đến nhau, kết hợp với nhau, bổ
khuyết cho nhau giúp nhau nới rộng phạm vi tinh thần mà trùm lấy cả nhân loại
cùng vũ trụ.”
Cùng thời với Họa sĩ và Thi sĩ, một chính khách Việt Nam lên
cầm quyền với bản tuyên ngôn ngắn nhất và dị kỳ nhất:
“Hãy câm miệng và hành động!
"Hoạt động của người đời phân chia làm muôn nghìn ngả mà
chẳng bao giờ thoát khỏi căn bản vun sới tâm hồn. Danh từ ngôn ngữ chỉ là những
chai rỗng; rượu linh thiêng sở dĩ có thực là do tư tưởng chí thành của ta rót
vào.
"Hãy câm miệng và hành động!”
Với lãnh tụ, cuộc cách mạng tinh thần của Việt Nam hoàn
thành! Lãnh tụ quả đã hành động gương mẫu! Trong quân đội cũng như trong guồng
máy hành chính lúc bấy giờ ai nấy hoàn toàn biết ghê tởm óc kết bè lập đảng làm
hèn hạ cá nhân, làm lụn bại tổ quốc. Mọi người tùy theo tuổi tác hay nghề nghiệp
kết hợp lại sống với nhau trong tình đoàn thể trong sạch, quảng đại, thân ái.
Sau một năm chấp chính, Lãnh tụ có tới gặp Thi sĩ. Dưới đây
là câu chuyện thân mật của hai người:
LÃNH TỤ – Tôi đến xin anh một khẩu hiệu. THI SĨ – Anh khuyên
người ta “Hãy câm miệng và hành động!” thì tôi đã câm miệng rồi, anh
còn hỏi khẩu hiệu làm gì?
LÃNH TỤ – Khẩu hiệu đó chỉ là một phản ứng thô tục nhất thời
để đối phó với một giai đoạn lịch sử bẩn thỉu. Tôi muốn anh tìm giúp một khẩu
hiệu khác thanh nhã hơn khả dĩ dùng mãi mãi sau này.
THI SĨ – Sao anh không lấy ngay câu tục ngữ của dân ta: “Thật
thà là cha quỷ quái”?
LÃNH TỤ – Phải đấy! Thật thà là cha quỷ quái! Được
lắm, từ nay tôi sẽ lấy khẩu hiệu “Thật thà là cha quỷ quái!”
° ° °
Bốn bức bích họa Việt Nam có được quốc tế chụp để phổ biến; tập
thơ của Thi sĩ có được phiên dịch ra đủ các thứ tiếng; chính sách “Thật
thà là cha quỷ quái” của lãnh tụ có được chính giới quốc tế nhắc nhở,
nhưng trên thực tế ảnh hưởng của ba người còn quá hời hợt. Tuy hai phe không
dám gây một cuộc đại chiến thự sự bằng bom nguyên tử nhưng những cuộc chiến
tranh bộ phận bằng khi giới cổ truyền vẫn tiếp tục không ngừng hết nơi này qua
nơi khác. Đã có một nhà bác học thở dài mà rằng:
“Các bệnh tật hiểm nghèo khoa học đã đẩy lui, duy có bệnh
nghiện chiến tranh của loài người, khoa học đành chịu!”
Sau mấy năm miệt mài tận tụy, Thi sĩ xây dựng một hệ thống lý
luận đơn giản và phổ biến mà khi viết ra thành sách ông lấy nhan đề: “Chân
lý đưa nhân loại đến tình bằng hữu.”
Cơ quan “Bằng hữu quốc tế” lập tức cho in tập lý luận đó ra
hàng ngàn triệu bản bằng đủ các thứ tiếng.
Dư luận thế giới xao xuyến một độ, những kẻ cầm súng tự thấy
ngượng. Người ta đã ngỡ súng đạn rồi đây chỉ còn dùng trong các cuộc săn bắn
tiêu khiển. Nhưng chỉ sau đó một năm chiến tranh bộ phận lại nổi lên như cũ
theo kiểu dây chuyền, tắt chỗ này bùng lên chỗ khác và tại nơi nào cũng vậy cả
hai bên tham chiến đều tuyên bố là họ chiến đấu cho… “Chân lý đưa nhân loại
đến tình bằng hữu!”
Các triết nhân thế giới cam nhận một sự hiển nhiên và tìm
cách lý luận như sau: “Chiến tranh là một cuộc thử lửa, chiến tranh kích
thích lòng yêu nước, chiến tranh khiến con người bớt ngu độn thêm phần sắc sảo
trong mưu cơ v.v… Tóm lại chiến tranh là cần – nếu không phải là rất cần – cho
sự tồn tại có ý nghĩa của nhân loại.”
Một cụ già Việt Nam làm nghề chài lưới ở ven biển thốt ra câu
than phiền cho thế giới bên ngoài:
“Hừ! đến con chó cũng không nỡ ăn thịt chó nữa là…”
Một nghệ sĩ Trung Đông hấp hối trên giường bệnh bỗng vùng dậy
la lớn:
“Ta sẽ giữ mộng đẹp của ta cho đến ngày phán xét cuối cùng để
trình với Thượng Đế. Ngày đó Thượng Đế chỉ còn căn cứ vào mộng đẹp mà định
Thiên Đường.”
Rồi chết!
Chàng họa sĩ Việt, tác giả bốn bức bích họa, cũng qua đời vào
năm này. Rất bình thản!
Ngày tháng kế tiếp nhau qua… Mỗi lần sang xuân mới, thế giới
lại hối hả treo đèn kết hoa, các chính khách lại được dịp trao đổi lời chúc tụng
đúng nghi thức, nhưng sự thực không khí tinh khiết mùa xuân mới không đủ rửa sạch
những cặn bã nhơ bẩn của cường quyền, niềm hy vọng hồi hộp trong tạo vật đương
trổ thành hoa búp không đủ thoa dịu đau thương của những người dân bị phản bội
liên tiếp.
Chính Thi sĩ cũng tự cảm thấy thất bại trước Lịch sử. Trước
khi từ giã thủ đô để về quê, Thi sĩ có gặp Lãnh tụ và nói:
- Tôi tạm ngừng viết sách và làm thơ. Tôi xin phép anh lui về
quê để đợi thời.
Lãnh tụ cúi chào bạn:
- Vâng, xin anh bình tĩnh nghỉ ngơi một dạo, còn mười năm nữa
thì chúng ta sang thế kỷ 21; mong rằng nhân loại sẽ đổi mới vào dịp này.
Thi sĩ về đến đầu làng gặp một người con gái nhan sắc như
hoa:
Thi sĩ hỏi:
- Em đi đâu? Người con gái đáp:
- Em đi dự thi hoa khôi. Thi sĩ nói:
- Sao trên trời, hoa dưới đất có bao giờ tìm cách khoe rằng
mình đẹp? Em hãy quay về!
Người con gái vâng lời.
Vừa khi đó có tin cả hai phe cùng tìm ra được phương pháp
dùng kính pa-ra-bô-lic thu vũ trụ tuyến. Họ lại điều chỉnh được trường độ làn
sóng vừa vặn để làm nổ bất cứ phi cơ nào mang bom nguyên tử từ mười ngàn cây số
xa. Đồng thời cả hai bên đã cho phóng lên không trung một số hành tinh nhân tạo
cỡ lớn mang đủ máy móc tinh vi để có thể quan sát ngoài tầm súng những căn cứ
chiến lược của nhau. Một cuộc đại chiến chỉ còn có nghĩa là một cuộc tự sát cho
cả đôi bên! Bởi vậy cả đôi bên đều đồng ý hủy hết võ khí nguyên tử. Các hành
tinh nhân tạo có nhiệm vụ kiểm soát bằng cách phóng vũ trụ tuyến đã được điều
chỉnh xuống mọi lãnh thổ. Đến nước ấy thì người ta buộc lòng phải thành thật và
không một nước nào của hai phe dám vi phạm hiệp ước mà làm bom nguyên tử lậu nữa.
Các loại phi cơ chiến đấu cũng đều bị hủy. Các nước chỉ được quyền xúc tiến
ngành sản xuất phi cơ dân sự. Nhanh như chiếc lò xo bị ép lâu ngày, nhân loại
sang trang sử mới vùng lên tìm ánh sáng của tình bằng hữu chân thật.
Thi sĩ vội vã rời quê hương trở lại thủ đô.
Tới lúc đó mọi người mới có dịp suy nghĩ về bốn bức bích họa
Việt Nam, về những bài thơ và tập lý luận “Chân lý đưa nhân loại đến tình
bằng hữu” của Thi sĩ, về khẩu hiệu cách ngôn “Thật thà là cha quỷ
quái!” mà Lãnh tụ cho nêu lên.
Đến lúc đó mọi người mới bình tâm mà nhận thấy bao dằn vặt của
lương tâm, bao khổ ải về vật chất, bao tàn bạo núi xương sông máu chẳng qua họ
là nạn nhân của chính họ.
Khoa học vô tội! Con người đã không dùng khoa học để đạt tới
nguồn sáng tạo thanh cao mà tìm hiểu cao sâu về tâm linh, mà phát triển những
giá trị thiêng liêng tiềm ẩn; họ đã nhầm dùng khoa học để thỏa mãn thị dục đê
hèn biến sức mạnh khoa học thành sức mạnh phá hoại; khiến qua bao năm trường họ
đã phải đối phó ê chề thê thảm với những phát minh cũ và giật mình mỗi khi được
tin một phát minh mới ra đời.
Nay tỉnh ngộ lại, Người mới khám phá ra Người và – đúng như lời
thi sĩ tiên đoán – Đông Tây hớn hở tìm đến nhau không mặc cảm, không chia rẽ.
Đông phương giúp Tây phương phá vỡ thành quách tối tăm của vật chất; Tây phương
giúp Đông phương nắm vững trạng thể biến hóa bên ngoài của vũ trụ. Họ nắm tay
thân ái, nhủ với nhau là họ đã thắng một trận giặc cuối cùng mà bãi chiến trường
là nội tâm, mà kẻ địch là lòng tư dục. Nếu sống trong bẩn thỉu mà con người còn
chịu đựng được thì cách sống thanh cao cởi mở kia càng dễ trở thành thói quen.
Chẳng bao lâu sự giao hòa giữa các nền văn mình trở nên thường xuyên và sự
thông cảm những màu sắc địa phương chỉ cần chút cố gắng là thành tựu. Lẽ cố
nhiên trong đời sống riêng tư, nhân loại không thoát khỏi những mâu thuẫn nhỏ
làm giao động thất tình; hỉ, nộ, ai, lạc… chính những điều đó gây thi vị cho cuộc
đời gìn giữ sắc thái đặc biệt quyến rũ của kiếp người và nhân loại càng không
ngừng tiến gấp trên con đường tư tưởng thênh thang theo tiếng gọi dị kỳ của ý
thức trường cửu.
Đó là vào mấy năm cuối thế kỷ 20!
Trong khi đó duy Liên bang Bắc Á – ngay sát biên giới Bắc Việt
Nam – là còn đứng ngoài lề cuộc thức tỉnh tưng bừng. Lãnh tụ nơi này còn quá
trìu mến ngôi Bá chủ Liên bang mà hắn mới đạt tới chưa được bao lâu.
Trọng theo nếp sống cởi mở, vả tin có phương pháp kiểm soát
nguyên tử năng nên Khối Nhân loại Giác ngộ rất yên lòng chờ ngày Liên bang Bắc
Á tự hủy chế độ đảng trị cùng bức màn sắt.
Căn cứ vào những tin tức lọt qua bức màn sắt thì Bắc Á ngày
nay cũng tuyệt nhiên không còn biểu tình, không còn cả tiếng hô “Muôn
năm!” nữa. Các thanh niên nam nữ, sau một thời gian phục vụ ở trại của Đảng
chừng vài năm, lại được trở về gia đình sống cuộc đời cá nhân hết sức tự do.
Hình như nhân cách nơi đây cũng được trọng vọng không kém gì bên Khối Nhân Loại
Giác Ngộ.
Vào năm cuối cùng thế kỷ 20, Liên bang Bắc Á cho sơn lại tất
cả các cầu biên giới. Hàng ngàn chiếc cầu được sơn cùng một kiểu: một nửa đỏ về
phía Liên bang và một nửa xanh về phía các nước Khối Nhân Loại Giác Ngộ. Mặc dầu
những người dân Liên bang không bao giờ lên cầu chơi, nhưng những người dân bên
Khối Nhân loại Giác ngộ vẫn có thể ra đến giữa cầu mà ngắm dòng sông, miễn là đừng
bước quá vạch sơn xanh.
Đầu thu năm đó Thi sĩ về miền biên giới thăm quê. Đời sống
khoa học ngày nay đã vượt xa – quá xa – đời sống cũ, nhưng màu quan tái tiết
tháng Bẩy vẫn giữ vẻ “rừng thu từng biếc chen hồng” của cổ thi Việt
Nam. Gió lạnh ngập ngừng tiến vào thành sương bạc như cò muốn lắng nghe xem
phía sau hoa lá đương thì thào gì về những niềm bí ẩn của mình.
Về tới quê, Thi sĩ gặp lại người con gái tuyệt sắc dạo nào đã
nghe mình ở lại không đi dự cuộc thi tuyển lựa hoa khôi. Nàng chưa lấy chồng.
Nàng đợi Thi sĩ. Hai người làm lễ hứa hôn và loan báo cùng thân bằng cố hữu rằng
đúng đến Ba mươi Tết năm đó hôn lễ sẽ chính thức cử hành. Tin vui này lập tức
được truyền đi khắp nước.
II
Chiều Ba mươi Tết năm Kỷ Mão…
Mới hơn một tháng trước đây Đông phương cùng Tây phương đón mừng
thế kỷ mới theo Tây lịch thì chiều nay Tây phương lại cùng Đông phương làm lễ
tiễn đưa chiều cuối cùng thế kỷ cũ theo âm lịch. Cả hai cuộc lễ cùng tưng bừng
và thành khẩn như nhau.
Tại các nước Tây phương, nam nữ thanh niên cùng đổ ra đường
khiêu vũ theo điệu nhạc tưng bừng ở các máy phóng thanh. Họ khiêu vũ trên các
đường rộng, trên các công trường, ở các vườn hoa ven sông… Mỗi lần nhạc dứt,
các chàng trai khẽ nghiêng mình, các cô gái khẽ nhún người, đồng thời máy phóng
thanh báo cho mọi người biết “vị trí thời gian” của năm cũ.
- A lô! A lô! Chúng ta còn một giờ ba mươi tư phút nữa thì
sang thế kỷ 21!
- A lô! A lô! Chúng còn đúng một giờ nữa thì sang thế kỷ 21.
Bên các nước Đông phương, trai gái không khiêu vũ ngoài trời,
nhưng khắp nơi đều treo đèn kết hoa và dân chúng đủ cả nam, phụ, lão, ấu cùng đổ
ra ngoài đường, đi trên các đại lộ, gặp nhau trên các vườn hoa hay dưới hành
lang các đền đài miếu mạo và máy phóng thanh, đặt khắp nơi, sau mỗi bài hát
cũng báo cho dân chúng hay “vị trí thời gian”:
- A lô! A lô! Chúng ta còn nửa giờ nữa thì sang thế kỷ 21.
Riêng với người dân Việt Nam, đêm Giao thừa này còn ghi thêm
một ý nghĩa tưng bừng, họ ăn mừng ngày thành hôn của Thi sĩ với người con gái đồng
hương.
- A lô! A lô! Chúng ta còn đúng năm phút nữa thì sang thế kỷ
21.
Có hai bóng người một trai, một gái âu yếm dìu nhau lên cầu
biên giới tiến ra giữa rồi cúi xuống nhìn dòng sông: đó là Thi sĩ và người vợ mới
cưới.
Để kỷ niệm ngày cưới Thi sĩ tổng kết tư tưởng cố hữu của Đông
phương trong một bài thơ đề tặng người yêu chung thủy. Bài thơ đó sau này được
các nhà văn học thế giới diễn nôm na ra như sau:
Chúng ta hãy ca ngợi mùa thu viên mãn
Chúng ta đừng coi rẻ mùa đông hiu quạnh
Mà đem so với mùa xuân tưng bừng thành hai vẻ đối chọi.
Trong thực thể vũ trụ
Hai vẻ dị đồng đó quấn quít bổ trợ cho nhau
Vì có sự chết mà tiết điệu của sự sống Giữ được vẻ trường cửu
trong vũ trụ Thế giới càng cũ
Càng phong phú trong sinh thành:
Và sự im lìm tiều tụy của mùa đông kia Chính là để sửa soạn
Cho cuộc tái sinh óng chuốt của mùa xuân năm sau.
Thi sĩ cúi nhìn dòng sông lấp lánh, lắng nghe tiếng nước xoáy
dưới cầu giây lâu rồi kéo người yêu sát vào mình hơn nữa.
Chàng nói:
- Chỉ ba phút nữa anh sẽ ôm em sang mùa xuân mới của một thế
kỷ mới.
Nàng nép vào vai chàng nói khẽ:
- Đáp lại tình yêu của chàng, lời em bất lực! Cả hai cùng chợt
ngửng lên nhìn hai vì sao lạc để lại hai vệt sáng dài trên vòm trời thăm thẳm.
Thi sĩ mỉm cười ghé xuống nói thầm bên tai người yêu:
- Hai vì sao mải nhìn hạnh phúc của đôi ta mà trượt chân ngã
xuống vực.
Tiếng chuông tiếng trống từ các đình chùa miếu mạo vang lên rồi
đổ dồn… Bồi hồi xao xuyến.
Thi sĩ vòng tay ôm lấy người yêu mà cúi xuống hôn nàng trong
khi tiếng đồng ca vang lên khắp kinh thành ven sông quê hương. Nhớ lại ý của
người xưa ,Thi sĩ nói thầm bên tai người yêu:
- Anh đã hôn em giữa hai thiên niên kỷ!
Chợt một loạt nổ vang rền. Tiếng súng, không phải tiếng pháo!
Thi sĩ cùng người yêu ngã khuỵu. Tiếng súng liên thanh từ phía cầu Liên bang tiếp
tục nổ sang. Tiếng súng dứt, một đoàn người – quân lính thì phải – rầm rộ tiến
ùa lên cầu cùng với tiếng hô “Xung phong”. Thi sĩ còn đủ tỉnh trí thu
chút lực tàn, ôm xác người yêu lách qua thành cầu và gieo mình xuống dòng sông
để tránh sự giầy xéo của những gót sắt. Ôm người yêu chìm trong nước lạnh nhưng
Thi sĩ vẫn cho là mình đã rơi vào hơi thở mát dịu của mùa xuân.
Vì có sự chết mà tiết điệu của sự sống
Giữ được vẻ trường cửu trong vũ trụ.
Nhịp cầu biên giới rung chuyển hãi hùng dưới gót giầy của một
đoàn quan đông vô kể. Tiếng súng nổ rên không ngớt. Tiếng thét thất thanh, cùng
tiếng rên la nghẹn ngào của những nạn nhân luôn luôn bị chìm trong những đợt
hô “Xung phong” rùng rợn. Sau đợt hô xung phong, thường tiếp đến những
tiếng nổ kinh thiên động địa rồi tiếng hô lớn: “Yang Chủ tịch muôn
năm!” – Yang là tên viên Chủ tịch Liên bang Bắc Á.
Yang Chủ tịch muôn năm! Yang Chủ tịch muôn năm!
Tiếng hô “Muôn năm” dõng dạc và thành kính đó vang
lên liên tiếp. Riêng điều đó đã là một sự lạ cho không riêng gì Việt Nam mà cả
khối nhân loại đã quen sống trong tinh thần tự trọng. Thường thường họ chỉ dùng
tiếng hô đó trong vài trường hợp cực kỳ hạn hữu để bầy tỏ nỗi lòng cực kỳ quý mến
trước một nhân vật cực kỳ đạo đức nào.
Rồi ánh đèn tắt ngấm. Có tiếng hô bắt những người dân ở đâu
phải đứng nguyên đấy.
Ngày hôm sau cả kinh thành biên giới đã phấp phới bóng cờ ngự
trị của Liêng bang Bắc Á. Cùng đêm Giao thứa đó, quân Liên bang đã tiến sang
biên giới khắp miền Đông Nam Á.
Một tuần sau người dân Việt được biết thêm họ đương phải chống
đối với mũi dùi mạnh nhất của lực lượng Liên bang. Rõ ràng Chủ tịch Yang nhằm
chiếm Việt Nam trước nhất. Trên khắp mặt trận khác quan Liên bang có tiến nhưng
rất chậm.
Hai tháng sau lực lượng Liên bang lấy xong Bắc Việt và khởi sự
tiến chiếm Trung Việt.
Chiến thuật của lực lượng Liên bang tại Việt Nam cũng như tại
khắp Đông Nam Á giống hệt nhau. Khi muốn chiếm một kinh thành nào, bộ tham mưu
của họ chia kinh thành đó ra từng khu rồi thoạt dùng Đoàn quân Xung phong với hỏa
lực cực mạnh chiếm lấy một khu làm đầu cầu. Sau đó vẫn nhờ đoàn quân cảm tử khu
vực chiếm đóng sẽ lan dần cho đến khi họ hoàn toàn làm chủ thành phố.
Nếu đôi bên dàn thành trận tuyến, lực lượng Liên bang sẽ dùng
Đoàn quân Xung phong phá vỡ mặt trận chủ lực trước rồi đánh tỏa ra thanh toán nốt
các mặt trận phụ. Tiếng hô “Xung phong!” thoạt vang lên từ hậu tuyến,
rồi đoàn quân xuất hiện, ào ạt tiến lên rất nhanh, hết đợt này đến đợt khác,
súng liên thanh ở tay xả đạn không ngớt cho tới khi họ phá được hết hàng rào
dây thép gai, xông được vào tận trong đồn, đâm bổ vào bất cứ thứ chướng ngại vật
gì, ngã gục xuống, tức thì bộc lôi nổ tung xé màng tai, rung chuyển cả vòm trời.
Cùng với tiếng nổ là tiếng hô bao giờ cũng rất rõ: “Yang Chủ tịch muôn
năm!”
Những lớp đi mở đường đó không bao giờ còn lại một người sống
sót!
Chính quân đội Việt Nam đã từng có truyền thống anh dũng về
cách sử dụng bộc lôi cảm tử mà cũng phải lắc đầu lè lưỡi chịu thua Đoàn quân
Xung phong Liên bang. Cứ như vậy chỉ mới bốn tháng qua mà lực lượng Liên bang Bắc
A đã chiếm xong cả miền Trung Việt. Chiếm xong nơi nào, dân chúng bị tước hết
vũ khí và chỉ được hoàn toàn tự do tại nơi cư trú. Mọi giao thông giữa vùng bị chiếm
với vùng còn kháng chiến đều bị ngăn cấm triệt để. Kẻ nào vi phạm bị xử bắn tức
khắc. Trong khi đó các đoàn xe sơn đỏ chở Đoàn quân Xung phong vẫn ngày đêm
liên tiếp vượt biên giới, theo các đường lớn nhất tiến ra các mặt trận.
Sau một thời gian chiến đấu, đoàn quân Việt nhận thêm thấy có
ba điều đặc biệt:
Điều thứ nhất: Đoàn quân Xung phong tiến nhanh và hăng đến nỗi
có kẻ rõ ràng bị nhắm bắn vỡ đầu, toang ngực mà vẫn xông tới được hàng chướng
ngại vật để gục ngã cho bộc lôi nổ.
Điều thứ hai: Kể cả những kẻ bị trúng đạn nhiều nhất khi ngã
xuống vẫn hô đều và rất rõ: “Yang Chủ tịch muôn năm!” cùng với tiếng
bộc lôi nổ. Toàn thể dân Việt phải tự hỏi không hiểu chủ tịch họ Yang đã áp dụng
thứ ba tuyên truyền gì mà huấn luyện được đoàn người phục vụ cho tham vọng lỗi
thời của hắn trung thành tới mức xuẩn động như thế?
Điều thứ ba: Địch quân đã rắc lên các xác rách nát của Đoàn
quân Xung phong một thứ bột hóa học khiến qua một đêm xương thịt đó biến thành
bùn. Chỉ những người tử trận trong đội quan chiếm lĩnh trận địa mới được chôn cất
thật sự.
° ° °
Khi Đoàn quân Xung phong chiếm xong mấy đồn tiền tuyến của
Nam Việt thì ai nấy thấy rõ chiến lược của đối phương: Thanh toán Việt Nam
xong, gọng kìm Đông Nam này sẽ tiến lên để gặp gọng kìm Tây Nam. Tới lúc đó trọn
khối Đông Nam Á nằm gọn dưới uy quyền Chủ tịch Yang.
Đã qua bao ngày đêm quên ăn quên ngủ mà Lãnh tụ Việt Nam chưa
tìm được mưu kế gì khả dĩ chặn đứng được bước tiến mãnh liệt của Đoàn quân Xung
phong. Tuy cơn nguy biến ngày càng trầm trọng, mảnh đất còn lại ngày bị thu hẹp
dần nhưng không một phút nào vị lãnh tụ đạo đức đó nản lòng thoát trí buông
xuôi niềm tin. Linh tính như truyền nhủ Lãnh tụ phải luôn luôn thức tỉnh mà nắm
lấy cơ hội thuận tiện. Lãnh tụ bao giờ cũng đi sát với đoàn quân nghênh chiến,
không bỏ sót một chi tiết trong trận giao tranh cho tới khi thế yếu, mặt trận bị
phá vỡ, ông mới cùng tàn quân rút về đồn lũy sau để chuẩn bị một cuộc nghênh
chiến mới.
Tới một trận chiến đấu kia, sau những tiếng bộc lôi long trời
lở đất kèm theo những tiếng “Yang Chủ tịch muôn năm”, Đoàn quân Xung phong
tiến lên liên tiếp đã mở xong lối cho đoàn quân chiếm lĩnh trận địa, nhưng đoàn
quân thứ hai này đã bị tổn thất nặng nề vì một số quân Việt còn nán lại tận dụng
hỏa lực trước khi rút lui hẳn.
Theo như thường lệ, Lãnh tụ cùng với mấy người hầu cận dừng lại
ở một khoảng rừng khuất để quan sát địch quân rắc bột hóa học lên xác Đoàn quân
Xung phong và chôn cất những xác tử trận khác. Lần này, tại một góc khuất cuối
chiến trường, Lãnh tụ thấy có một sĩ quan địch ôm xác một nạn nhân bé nhỏ – một
nữ quân nhân thì phải – giáng điệu tần ngần. Sau khi đã tự tay đào huyệt chôn cất
xác đó xong, viên sĩ quan còn đứng quyên chỗ cũ thờ thẫn như mất hồn không biết
rằng trời đã chập choạng tối và các cơ ngũ chiếm đóng đã lập trại xong xuôi. Ba
người hầu cận Lãnh tụ không bỏ lỡ dịp may, tiến lẩn theo đường khuất, bất chợt
nhô lên giơ súng vây chặn lấy ba phía để bắt cóc.
Viên sĩ quan lẳng lặng tiến theo chẳng hề tỏ vẻ kháng cự. Cho
đến khi gặp Lãnh tụ, cho đến khi cùng Lãnh tụ đi về hậu tuyến, cho đến khi ngồi
cùng mâm vừa dùng cơm vừa nói chuyện với Lãnh tụ, viên sĩ quan đó vẫn giữ
nguyên vẻ chán chường. Đó chính là một ủy viên quan trọng của Đảng có chân
trong Bộ Tham mưu Khoa học, và biết tường tận mọi việc thực hiện mọi âm mư của
Chủ tịch Yang.
Khi nghe Lãnh tụ hỏi ý kiến về nếp sống hiện thời của người
Việt cùng Khối Nhân loại Giác ngộ thì viên sĩ quan đáp:
- Chúng tôi rất khâm phục nếp sống của các ông… Lãnh tụ ngạc
nhiên hỏi lại:
- Thế sao các ông lại khởi hấn?
- Không phải chúng tôi mà là chủ tịch họ Yang! Viên sĩ quan bật
lên tiếng cười mai mỉa:
- Yang Chủ tịch muôn năm!
Càng ngạc nhiên, Lãnh tụ hỏi:
- Nếu chỉ một Chủ tịc Yang chủ chiến, sao hắn huấn luyện nổi
một Đoàn quân Xung phong cảm tử, trung thành đến mực ấy?
Lại một tiếng cười mai mỉa, tiếp theo một lời căm phẫn:
- Gọi đó là đoàn quân súc nô thì đúng hơn!
Rồi không đợi Lãnh tụ hỏi thêm, viên sĩ quan kể hết sự thực về
Đoàn quân Xung phong và câu chuyện tình lỡ dở của riêng ông. Lời kể của viên sĩ
quan về Đoàn quân Xung phong đại ý như sau:
"Sau khi đã hạ hết đối thủ và nắm được quyền lãnh đạo
Liên bang Bắc Á, Chủ tịch Yang vẫn tự cho mình có đủ những đức tính nhẫn nại
thâm trầm, sâu sắc của người Đông phương để làm bá chủ toàn thể Á châu. Sau một
năm nắm chính quyền, ngày đó – cách đây hai mươi năm – Chủ tịch Yang có cử một
số thanh niên đảng viên cuồng tín nhất đi du học với lời dặn ân cần: 'Liên bang
Bắc Á trong
15 năm nữa sẽ không chịu kém một nước nào về kỹ nghệ nguyên tử.
Đảng trông cậy ở các đồng chí.'
"Năm năm sau Chủ tịch Yang cử thêm một toán du học sinh
nữa ra ngoại quốc trong số đó có viên sĩ quan này.
"Năm 1990, vừa lúc Liên bang Bắc Á xây dựng xong một
cách cực kỳ hoàn mỹ kỹ nghệ chiến tranh nguyên tử thì thế giới tìm ra vũ trụ
tuyến và năm 1991 cho phóng lên không trung một số hành tỉnh nhân tạo cỡ lớn
mang đủ máy móc tinh vi để vừa kiểm soát những căn cứ chiến lược, vừa ngăn ngùa
mọi âm mưu chiến tranh bằng cách bí mật chế tạo bom nguyên tử. Nhân loại tìm đến
nhau với tình huynh đệ tưng bừng như trống rong cờ mở.
"Mộng bá chủ Á châu tan vỡ, Yang đành tìm cách giữ cho vững
những gì còn trong tay. Đó là lý do vì sao bức màn sắt quanh Liên bang Bắc Á vẫn
được duy trì.
"Lòng tự phụ về đức tính thâm trầm của Đông phương xui
Yang tìm quỷ kế nắm quyền cai trị cả Á lẫn Âu. Khoa học không được phép làm bom
nguyên tử thì khoa học sẽ giúp Yang thực hiện mộng bá chủ kia bằng một mưu cơ
thật tinh vi.
"Nhân loại tự trọng sống trong tự do, dân chủ hoàn toàn,
Yang cũng hoàn toàn để cho nhân dân Bắc Á được hưởng tự do, dân chủ trong lãnh
vực Liên bang. Cũng không biểu tình, không biểu ngữ, không hô khẩu hiệu một
cách xuẩn động, nghĩa là không một chút dấu vết cưỡng hiếp tinh thần, khai thác
quần chúng. Người ngoại quốc nào được phép đến thăm các kinh thành lớn nhỏ của
Liên bang đều công nhận điều đó.
"Nhưng, tại một miền núi non trùng điệp khoảng trung tâm
Bắc Á, Yang cho lập một kinh thành bí mật lấy tên là kinh thành Khoái Lạc. Bộ
tham mưu khoa học của Yang (trong đó có viên sĩ quan) tập trung ở đó. Những căn
nhà cao đầy đủ tiện nghi, những đường phố lớn, những bể tắm, những vườn hoa… được
xây dựng, bố trí đều một lúc trong từng khu phố. Đồng thời Chủ tịch Yang ra sắc
lệnh: 'Tất cả nam nữ thanh niên trong Liên bang từ 18 đến 30 tuổi phải qua ba
năm phục vụ Đảng; sau đó sẽ được cấp giấy chứng nhận để trở về nguyên quán sống
hoàn toàn tự do cho đến trọn đời.'
"Toán người ra đi phục vụ đầu tiên là những nam nữ đảng
viên trung tín nhất. Lần này công cuộc phục vụ có khác những lần trước. Các nam
nữ đảng viên được đưa đến kinh thành Khoái Lạc. Họ vẫn người nào làm nghề nấy
khiến các vật dụng cùng thực phẩm có thể sản xuất đều, đủ cung phụng cho cả
kinh thành gồm hai triệu nam nữ có mặt. Họ chỉ làm việc nửa ngày, còn nửa ngày
về chiều thì trai nào gái ấy, từng cặp rủ nhau ra bể bơi, ra công viên, đến các
nhà giải trí… Khắp nơi từ cách kiến trúc bên ngoài đến nội dung tiêu khiển bên
trong đều chủ mục đích gợi tình dục.
"Trai gái tới đây chỉ có nhiệm vụ chính: sản xuất con
cho Đảng.
"Trong ba năm phục vụ, người con gái cố thụ thai ba lần.
Người nào thụ thai rồi được đưa sang một trại riêng để các bác sĩ chăm nom cho
đến ngày sinh nở. Chàng trai ở lại sẽ được Đảng chỉ định cho gặp người đàn bà
khác của lớp mới đến. Đủ thời hạn ba năm phục vụ Đảng, trai gái muốn trở về hay
ở lại thêm tùy ý. Nhưng kẻ trở về có quyền thành lập gia đình với người mình muốn,
con cái từ đấy sinh ra mới là con của mình.
"Đảng sẽ làm gì những hài nhi sinh ở kinh thành Khoái Lạc?
– Đảng áp dụng tất cả những tiến bộ của khoa học để nuôi những hài nhi đó theo
phương pháp “đốt giai đoạn” tại một trại khác tuyệt đối bí mật với dân chúng và
với cả những đảng viên thường. Năm lên hai tuổi, chúng đã có thể lớn bằng những
trẻ lên tám và được đưa lên bàn mổ để bác sĩ giải phẫu lấy tim thật ra thay vào
một trái tim giả làm bằng thứ cao su nhân tạo. Trái tim này được đặt hắc-lờ ở bụng
khoảng giữa hai xương cụt là nơi ít bị nhắm bắn. Năm lên sáu, những đứa trẻ đó
cao lớn lực lưỡng bằng những thanh niên mười chín, hai mươi tuổi, nhưng sự thật
đó chỉ là những xác sống vừa đủ trí nhớ và trí khôn để sử dụng khẩu liên thanh
xông vào nơi chỉ định. Chúng không hề có ý niệm gì về sự sống hay sự chết!
Trong hai năm liền – từ năm lên sáu đến năm lên tám – chúng được chuyên huấn
luyện về động tác vừa chạy thực nhanh vừa xả súng về phía trước mỗi khi nghe khẩu
lệnh 'xung phong' hô lớn qua máy phóng thanh.
"Năm lên bảy, nghĩa là một năm trước khi có thể ra chiến
trường, các bác sĩ dùng thuốc tê rạch mông chúng, khâu dấu dưới thịt một cuộn
dây phóng thanh tự động nhỏ xíu đã thu sẵn lời hô 'Yang Chủ tịch muôn
năm.' Khi chúng ngã xuống, bộc lôi nổ, chỗ khâu cũ bị rách, cuộn dây phóng
thanh tự động sẽ tung ra với lời hô trên để uy hiếp tinh thần đối phương. Đoàn
quân Xung phong sẽ từng đợt… từng đợt như vậy tiến lên cho kỳ đến khi lực lượng
kháng chiến của đối phương bị phá vỡ tơi bời, đoàn quân người thật mới tiến lên
chiếm lĩnh trận địa, thu dọn chiến trường.
"Đều đều mỗi năm kinh thành Khoái Lạc có thể sản xuất
cho Đảng hai triệu hài nhi, đêm Giao thừa năm vừa qua, đạo quân vượt biên giới
Đông Nam Á chính là đạo quân xung phong trong lứa tám tuổi đầu tiên viên. Theo
Yang, thế giới ngày nay đã hoàn toàn bị cấm sản xuất bom nguyên tử, vậy không một
nước nào thắng nổi chiến thuật tấn công bằng Đoàn quân Xung phong.
"Còn về chiến lược, Yang sẽ theo chiến lược vết dầu
loang. Thoạt chiếm Việt Nam rồi toàn thể Đông Nam Á. Biên giới ngăn cách hai thế
giới vẫn là bức màn sắt nhưng dân chúng các nước bị chiếm vẫn hoàn toàn được hưởng
tự do. Chính sách này cốt tránh sự nổi loạn bên trong và sự can thiệp bên
ngoài. Chỉ cần dùng mánh lới tuyên truyền quyến rũ thanh niên các nước bị trị tới
phục vụ Đảng tại kinh thành Khoái Lạc là đủ. Khi nào dư luận thế giới đã yên,
Đoàn quân Xung phong sẽ bất ngờ xuất hiện chiếm nốt miền Tây Á, cứ như vậy rồi
Đông Âu, rồi Bắc Âu, rồi Tây Âu, nghĩa là cả khối đất liền Âu Á sẽ nằm trọn dưới
uy quyền của Chủ tịch Yang. Chiến công vĩ đại đó, cổ kim danh nhân chưa ai thực
hiện nổi, Yang quyết thực hiện trong mười năm, kể từ ngày khởi hấn. Yang cầm bằng
là kẻ kế vị sẽ bất lự, đế quốc sẽ tan rã, nhưng ít nhất Yang cũng đặt được một
mốc cao cả về võ công khả dĩ tên Yang được tô đậm nét vàng son trong cuốn sử
nhân loại muôn đời sau này."
Tố cáo xong chiến lược chiến thuật của Chủ tịch Yang, viên sĩ
quan kể tiếp đến câu chuyện tình của ông, giọng buồn rầu ngao ngán:
“Chúng tôi gặp nhau, yêu nhau ngay đợt phục vụ đầu tiên tại
kinh thành Khoái Lạc. Đức con đầu lòng của chúng tôi trong thời gian được nuôi
bằng sữa mẹ lớn lên mũm mĩm, kháu khỉnh. 'Đứa con của Ái tình!' – chúng tôi vẫn
thì thầm với nhau như vậy. Tiếc thay chúng tôi không được giữ nó lâu hơn một
tháng. Nó thuộc về Đảng, vĩnh viễn thuộc về Đảng. Biết làm thế nào? Tôi cùng
người yêu chia tay, quyết tránh sự bị ghép thành đôi trong kinh thành Khoái Lạc.
Rồi người yêu của tôi đẻ thêm hai lứa nữa với hai người tình bất đắc dĩ khác.
Vì một tai nạn sảy ra lúc lâm bồn lần thứ ba, nàng mất năng lực thụ thai. Sau
thời gian phục vụ Đảng, chúng tôi tìm gặp nhau, chính thức nối lại duyên xưa,
chúng tôi muốn cùng nhau có một đứa con của tình yêu, nhưng không được, chúng
tôi chỉ còn biết ôn lại hình ảnh đứa con đầu lòng đẹp như tiểu thiên thần ngày
nay đã bị giải phẫu thay tim giả đặt ở dưới bụng và được nuôi theo phương pháp
đốt giai đoạn, lớn bồng lên như một quái thai và ngu độn hơn cầm thú. Nhưng điều
làm chúng tôi đau đớn chính là sự sa đọa của cả dân tộc kể từ ngày kinh thành
Khoái Lạc được thiết lập. Thú tính được thả lỏng, được khuyến khích nếp sống
dâm ô vô đạo ngày nay còn muôn phần đồi bại so với phong trào khuyến khích 'hộ
lý' khoảng giữa thế kỷ 20. Nhiều thanh niên tình nguyện ghi tên xin gia hạn phục
vụ Đảng.
"Tất cả vẻ đẹp tế vi của tình trai gái mơn mởn thanh
xuân, tất cả vẻ đẹp huyền bí của đêm tân hôn hồi hộp quyến rũ không còn, vì ai
nấy tự biết: Trước khi thành vợ chồng, họ đã qua thời kỳ phục vụ Đảng tại kinh
thành Khoái Lạc. Thi ca mất nguồn cảm hứng cao khiết nhất: Ái tình. Rồi đây
lòng kính mến của con cái đối với cha mẹ còn gì, khi chúng được biết cha mẹ
chúng ngày xưa cũng đã từng phục vụ Đảng như vậy? Yang sẽ làm bá chủ giải đất
liền Âu Á, nhưng dân tộc tôi mất hết đạo lý và biến thành một loại người súc vật
còn ghê tởm hơn loại người súc vật cuồng tín 'Đảng trên hết' khoảng giữa thế kỷ
20 mà lịch sử đã kết tội là lũ quẻ quặt lý trí, đui mù tình cảm.”
Tới đây viên sĩ quan bỗng ôm mặt khóc như một đứa trẻ:
- Tôi tố cáo tất cả những bí mật đó không phải chỉ để cứu các
ông mà chính là để cứu chúng tôi trước hết.
Lãnh tụ ôn tồn hỏi thêm:
- Thế còn người đàn bà tử nạn ông chôn cất chiều qua, phải
chăng đấy là người bạn trăm năm của ông?
Viên sĩ quan gật đầu, giọng nức nở:
- Niềm an ủi thân yêu cuối cùng của tôi bị mất! Lãnh tụ đứng
dậy, nắm lấy tay viên sĩ quan, giọng ân cần hơn:
- Sau này ông có thể làm lại cuộc đời tình ái với một người
đàn bà trong sạch bên thế giới chúng tôi, hoặc trung thành với kỷ niệm cũ,
nhưng giờ đây ông hãy chứng kiến chúng tôi tiêu diệt Đoàn quân Xung phong!
Trời vừa hửng sáng… Một mặt Lãnh tụ cho đánh điện mời toàn thể
lãnh tụ Khối Nhân loại Giác ngộ đến họp tại thủ đô miền Nam nước Việt, một mặt
ông lập tức cho triệu tập các tướng tá Việt và đề ra chiến thuật ngăn triệt
Đoàn quân Xung phong. Ngay buổi chiều đó tất cả các đồn tiền tuyến được lệnh
chôn ba bãi mìn án ngữ phía trước. Ba bãi mìn được ngăn cách nhau bởi ba đợt cọc
sắt thấp đủ để Đoàn quân Xung phong vấp ngã. Chiến thuật đơn giản này của Lãnh
tụ đã thành công rực rỡ. Đoàn quân Xung phong khi tiến lên thoạt chết gục khá
nhiều từ xa vì bãi mìn thứ nhất, rồi vấp ngã trên cọc sắt. Các lớp cọc chôn rất
sâu, bộc lôi tuy nổ mạnh mà không làm tung đi mất chiếc nào. Trong khi đó các
súng máy lia sát mặt đất để đường đạn hoặc xuyên qua bụng phá vỡ tim giả (trong
trường hợp này bộ máy tuần hoàn bị phá tận gốc, người lính xung phong chỉ loạng
choạng tiến thêm vài bước nữa là ngã) hoặc xuyên phá vỡ xương đùi, xương chân
(trong trường hợp này người lính xung phong ngã gục ngay tại chỗ). Trong năm
ngày đầu, không Đoàn quân xung quanh nào tiến được tới bãi mìn thứ hai, và cũng
theo chiến thuật chớp nhoáng, đoàn quân Việt đã chiếm lại phần đất Nam bộ bị mất.
Trong những trận giao chiến. quả nhiên họ nhận thấy cứ mỗi tên lính xung phong
gục ngã cho bộc lôi nổ thì lại có tiếng hô “Yang Chủ tịch muôn năm” thoát
ra từ khoảng hậu môn. Nhiều khi chiếc đùi bị văng lên cao thì tiếng “Yang
Chủ tịch muôn năm” cũng từ cao vẳng xuống như một tiếng vang. Trên khoảng
mông các bắp đùi nguyên vẹn tìm thấy, quả có viết khâu bị rách, đôi khi họ nhặt
được cả sợi dây phóng thanh tự động đã sổ tung.
Các lãnh tụ thế giới tới họp. Lãnh tụ Việt Nam trình bày hết
những bí mật vừa khám phá được. Lãnh tụ Việt Nam mời họ đến tiền tuyến chứng kiến
chiến thuật phá vỡ Đoàn quân Xung phong. Hội nghị giải tán, các lãnh tụ Đông
Nam Á trở về nước để kíp phổ biến chiến thuật Việt Nam, các lãnh tụ khác trở về
nước để kịp chuyển một phần kỹ nghệ thời bình sang kỹ nghệ chiến tranh chuyên sản
xuất mìn, súng liên thanh và đạn dược vì khối Đông Nam Á, theo lời dự đoán của
Lãnh tụ Việt Nam, cần phải được trang bị gấp các thứ đó đủ để đối phó với một đạo
quân xung phong khổng lồ chừng bốn triệu “người súc vật”.
Lời dự đoán đó không sai. Chủ tịch Yang đã dùng cả hai triệu
quân xung phong lứa thứ hai và các đoàn xe chở quân xung phong màu đỏ tới tấp…
tới tấp vượt các biên giới, tiến ra tiền tuyến.
Sau mỗi lần buộc lòng phải rút lui vì quân tiếp viện đến
không kịp Bộ Tham mưu Liên bang lại cho đoàn phi cơ trực thăng mang dấu Hồng thập
tự tới vãi bột hóa học xuống khắp nơi nào có hình hài Đoàn quân Xung phong.
Càng những trận về sau sự chống giữ càng khốc liệt. Những đợt
quân xung phong – không biết đợt thứ mấy trăm – giầy xéo lên những xác chết trước
mà tiến; rất nhiều khi chúng đã tiến tới bãi mìn và đợt cọc sắt thứ ba nghĩa là
đợt chướng ngại vật cuối cùng, nhưng không bao giờ chúng tiến được tới đồn vì
đường đạn đan nhau rất dầy, rất hiểm ác, luôn luôn quét sát mặt đất. Rút cục lại
đoàn phi cơ trực thăng địch đến vãi bột hóa học xuống bãi chiến trường trước
khi lực lượng Liên bang rút lui về phòng tuyến mới, đợi đoàn quân tiếp viện mới.
Đoàn quân Việt khi chiếm lại đất đã phải dẫm lên một bãi lầy thịt xương chưa
phân hóa kịp. Cũng may họ được biết đó là đạo quân nửa người nửa ngợm nên bước
giày của họ tiến lên chẳng căm giận mà cũng không xót thương; họ chỉ thấy hơi
khôi hài khi ôn lại cảnh cứ một tên quân gục xuống, bộc lôi nổ, lại có tiếng
hô “Yang Chủ tịch muôn năm” thoát lên từ hậu môn. Thêm một điều nữa:
cũng chính vì giải pháp vãi bột hóa học để phân hóa xác chết của địch mà giải đất
Trung Viện, vốn xưa cằn cỗi, về sau cày cấy được, số hoa mầu thu hoặc tại nơi
này không kém gì tại các trung châu phì nhiêu sông Nhị Hà miền Bắc và sông Cửu
Long miền Nam.
Khi đoàn quân Việt phản công tới cố đô Thăng Long thì số lượng Đoàn quân Xung phong không còn là bao. Chẳng bao lâu lực lượng chiếm đóng của Liên bang rút lui khỏi biên giới toàn thể các nước Đông Nam Á. Đó là vào giữa mùa xuân năm 2002: chinh chiến kéo dài hơn mười ba tháng.
Suốt dọc đường biên giới bao vây quanh Liên bang Bắc Á, quân
đội các nước thuộc Khối Nhân loại Giác ngộ đều cho chôn mìn, cắm cọc sắt chuẩn
bị đối phó nếu Đoàn quân Xung phong xuất hiện. Họ không hề xâm nhập vào nội địa
Bắc Á, họ chỉ dùng vô tuyến truyền thanh và vô tuyến truyền hình tố cáo với
nhân dân Bắc Á tham vọng lỗi thời của Chủ tịch Yang và bày tỏ mối nguy cơ của một
cuộc sống trong đó đạo lý bị phá hoại tận gốc, khiến rồi đây chỉ một thế hệ nữa
qua, tình vợ chồng không có, lòng hiếu kính của con đối với cha mẹ không còn,
nhân dân Bắc Á sẽ thấy rằng thế giới họ sống hoàn toàn là thế giới của một loại
súc vật mặt người.
Thế giới Giác ngộ tin rằng với cách chuẩn bị đề phòng như vậy,
với cách tuyên truyền thành khẩn như vậy dân chúng Bắc Á sẽ tự động nổi dậy lật
đổ Yang mà bầu người đạo đức khác biết sáng suốt thuận theo bước tiến của lịch
sự.
Trong khi chờ đợi, các sử gia thế giới họp nhau lại để ghi
chép và phê phán thế kỷ 20. Nhưng, trước khi bắt tay vào việc các vị học giả đó
có tới Việt Nam dự lễ đặt viên đá đầu tiên cho công trình tạc tược Thi sĩ tại một
công viên lớn nhứt giữa thủ đô.
Từng đoàn… từng đoàn… con gái Việt tươi như hoa xuân, thùy mị
như mây nổi, tiến tới đặt những vòng hoa quanh nơi dựng tượng. Đám hương sắc mỗi
người một vẻ đó đã từ lâu chẳng hề đi dự hội tuyển hoa khôi! Lần này, họ tự
chia thành từng đội nhỏ bảo nhau đến vun trồng trăm hoa, tô điểm cho khu vườn rộng.
Rồi đây mùa nào hoa nấy, hương thơm thanh bình và tinh khiết sẽ tỏa ra tượng
trưng cho tư tưởng nhân hòa bác ái muôn đời của Thi sĩ, của con người đã suy tư
trong bao đêm trường để tìm ra “Chân lý đưa nhân loại đến tình bằng hữu” của
con người với một trực giác siêu phàm đã nhận thấy – ngay từ buổi loạn ly đen tối
nhất – hướng tiến của nhân loại theo tiếng gọi của Ý thức Trường Cửu.
Hai điêu khắc gia chính làm đầu não cho công trình tạc tượng:
một Việt, một Âu. Giúp việc hai người này là năm trăm điêu khắc gia khác của đủ
các nước.
Pho tượng thành hình lần lần. Từng nét mặt… từng đường gân
tay… từng nếp áo… xuất hiện như đường đi uyển chuyển của tương lai. Quanh pho
tượng vĩ đại có những đường lẩn để mắc đèn, ban đêm bật lên thành một vùng hào
quang bao lấy từ đầu đến chân pho tượng. Bên dưới là bệ. Phần trang trí của bệ
được vẽ bằng sơn màu có lân tinh khiến ngay cả trong những đêm mưa bão các màu
sắc vẫn không kém phần rực rỡ so với ánh hào quang bên trên của pho tượng. Phần
trang trí đó vẽ cảnh một dải bờ bể hình chữ S có cát vàng ối với những luồng
sóng lấp lánh đương chuyển mạnh lại, cồn lên thành từng khối lớn tựa như có gặp
vách đá ngầm dưới đáy biển. Trên khoảng cát vàng sóng biếc đó là dòng chữ xanh
thẫm ghi câu cách ngôn Việt Nam mà Thi sĩ đã có lần nêu lên cùng Lãnh tụ để làm
phương châm hành vi: “Thật thà là cha quỷ quái.”
Chú thích:
1. |
Ý thơ của Tagore. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét