Gìn vàng giữ ngọc
I. Em chắc chị còn nhớ mười lăm năm trước đây, hồi gia đình nhà ta ở Cầu Giấy, ngoại ô Hà Nội, và chị là cô gái vừa đôi tám tuy đã biết trang điểm mà còn quanh quẩn dưới gối cha mẹ. Dạo đó em mới lên tám. Phải, em lên tám, Linh bên hàng xóm, hơn em hai tuổi, lên mười. Chị còn nhớ Linh chứ? Trước đấy đã nhiều lần chị quàng cho Linh chiếc khăn xanh để gọi Linh là “Cô bé quàng khăn xanh”, và cho em chiếc khăn đỏ để gọi em là “Cô bé quàng khăn đỏ”. Ba, me và cả chị nữa chỉ cho em chơi với Linh thôi, vì Linh thùy mị hiền lành, ăn nói lễ phép. Hễ thấy em chạy nhảy tơi tả là ba me hay chị mắng: “Con gái gì mà như con trai, sao chả trông gương Linh cũng là con gái mà lúc nào nó đi đứng cũng dịu dàng!” Em động nói to cười lớn là đã bị mắng: “Con gái gì mà như con trai, sao chả bắt chước Linh cũng là con gái mà nó ăn nói thùy mị bao nhiêu!”
Cả nhà quý Linh; còn em, khỏi phải nói, em quấn quít bên Linh
suốt ngày; Linh hầu như cũng chỉ biết có em, chỉ chơi với em.
Chị còn nhớ chứ, ngày ba Linh đổi đi Thanh Hóa, em và có lẽ cả
Linh nữa, chẳng bao giờ lại ngờ rằng có ngày hai đứa phải xa nhau. Một tuần trước
đó, ba me Linh vẫn thường nhắc chuyện “sắp ra đi” với ba me chúng ta bằng giọng
buồn rầu. Em không một giây thắc mắc, em đã hiểu thế nào là xa nhau đâu. Rồi một
buổi chiều, em ngồi chơi búp-bê với Linh ở góc phòng khách, em thấy bàn ghế nhà
Linh đi đâu hết, chiếc đồng hồ trẩm cầm vẫn treo trên tường đi đâu mất, chỉ thấy
ở góc cửa ra vào, sát tường, tới bốn năm chiếc va-li lớn xếp chồng lên nhau. Em
và Linh mừng rằng bớt đồ đạc đi như vậy càng dễ đùa nghịch. Buổi tối lúc em đã
lên giường buồn ngủ ríu mắt thì ba mẹ Linh sang nói với ba me đại ý: “Trông hai
đứa lũn cũn chơi với nhau mà thương, giả sử được đổi đi gần đây chúng tôi dám
xin phép hai bác mang cháu cùng đến ở với cháu Linh ít lâu, đỡ tội nghiệp!”
Sớm hôm sau, như thường lệ em chạy sang nhà Linh. Cửa đóng!
Em gọi Linh, không thấy Linh thưa mà cũng chẳng thấy ai thưa. Lúc đó em mới nhận
thấy thêm trước cửa có chiếc khóa lớn mạ kền. Me cũng vừa đến âu yếm dắt em về
và nói:
- Linh đi từ năm giờ sáng với ba me Linh rồi con ạ. Sáng nay
con ăn gì nào, con ăn bánh sữa nhé?
Me nói với ba:
- Dễ bây giờ tàu đến Phủ Lý rồi ba nó nhỉ, liệu mấy giờ thì đến
nơi?
Ba đáp:
- Phải hơn mười giờ mới tới Thanh Hóa được!
Rồi mấy lần nữa em chạy sang nhà Linh, chiếc khóa mạ kền vẫn
đó. Em hỏi mẹ liệu trưa Linh có về không; mẹ lắc đầu bảo còn lâu. Em hỏi mẹ còn
lâu là đến bao giờ, me đáp là Tết. Trí óc non nớt của em dạo đó nhắc em nhớ lại
là bao giờ cũng phải chờ lâu lắm mới có một lần Tết, nên khi nghe me trả lời “đến
Tết” em rụng rời. Quả nhiên đến trưa em vẫn thấy chiếc khóa mạ kền treo nguyên
chỗ cũ. Em về nằm vật trên giường, quay mặt vào tường. Me nói thầm với ba vừa
đi làm về:
- Nó nhớ Linh đấy, thương quá! Em thấy nghẹn cổ.
Mẹ hỏi:
- Con nhớ Linh phải không?
Nước mắt giàn giụa, em không trả lời, càng nép vào tường và
mím chặt hai môi lại để khỏi bật khóc.
Me ngồi xuống, với tay kéo em quay lại, ôm em lên lòng và
trong khi em gục vội lên vai òa khóc, me yên lặng vuốt tóc em.
Hình như hôm đó trời nhiều mây thì phải vì ánh sáng âm u. Và
nhiều gió nữa. Ba ra xoa má em rồi âu yếm nói:
- Lớn lên con sẽ biết đời còn nhiều biệt ly con ạ! Em chưa hiểu
lời ba nói nhưng có điều em cảm thấy chắc chắn: em biết sợ cô độc từ đấy.
(Về sau em được chị cho biết theo như thơ của ba me Linh gửi
về thì Linh cũng úp mặt vào thành ghế tầu hỏa tấm tức khóc suốt từ Hà Nội đến
Thanh Hóa.)
“Đời còn nhiều biệt ly con ạ!” Quả có thế, càng lớn em càng
hiểu lời ba. Biệt ly với cô giáo, biệt ly với bạn cùng lớp cùng bàn, biệt ly với
người thân yêu: ngày chị lên xe hoa, rồi từ đấy chị theo chồng nay đây mai đó,
có khi hàng năm chị em mới gặp nhau một lần.
Dù đã biết bao lần lòng em phải thắt lại vì biệt ly làm em cô
độc, nhưng thú thật với chị cảm giác buồn nhất, thấm thía nhất khiến em nhớ lâu
nhất - có lẽ nhớ mãi mãi - vẫn là cảm giác cô độc đầu tiên, ngày xa Linh. Những
cuộc biệt ly sau chỉ là những bông hoa sầu muộn nở thêm từng mùa, cuộc biệt ly
đầu là chính thân cây hoa. Hoa nở rồi hoa tàn, hình như mỗi độ hoa nở rồi hoa
tàn như vậy chỉ để thân cây có dịp thêm lớn, đứng xa trông cũng rõ.
II
Gia đình Linh đi được hai năm thì một gia đình mới đến ở, gia
đình này về sau cũng thân với gia đình nhà nhưng không có con gái, chỉ có Đạm,
cậu con trai lớn, hơn tuổi cả anh Minh của chúng ta và học hơn cả anh Minh một
năm ở trường Thuốc. Không hiểu chị còn nhớ anh Đạm không, riêng em bao giờ em
cũng giữ một niềm kính mến anh Đạm. Anh cao, thật là cao, da trắng, tóc hơi gợn
sóng. Có lần anh cúi xuống vừa nói chuyện vừa làm điệu rất có duyên với anh
Minh, anh nói một cách say mê rằng sau này khi học đến năm thứ năm thì được
phép mổ, anh sẽ làm việc một cách say mê, đầy rung động vì công tác cứu người
đó theo ý anh cũng là một công tác nghệ thuật. Đến nay nhiều khi anh Minh còn
nhắc đùa lời kết luận của anh Đạm ngày đó: “Không phải nghệ thuật vị nhân sinh
mà trái lại nhân sinh phải vị nghệ thuật! Ở đời này cái gì cũng phải có nghệ
thuật mới được!”
Sau hai năm kháng chiến, ngày anh Minh đưa chị em mình chuyển
dịch từ Tuyên Quang về Thái Nguyên với ba mẹ, chị nhớ chứ, chúng ta lại gặp anh
Đạm ở một cái quán khoét sâu vào sườn đồi ngay bờ sông Lô. Khi đó anh Đạm đương
ăn trứng vịt luộc. Anh bắt tay anh Minh mời mỗi người ăn một quả trứng luộc.
Anh hăm hở khuyên chúng ta nếu có ăn quà thì nên ăn trứng luộc vì có nhiều vitamine A
và B. Anh lại cúi xuống vừa nói chuyện vừa làm điệu rất có duyên với anh Minh về
chuyện mổ xẻ. Giấc mộng mổ xẻ của anh đã thành rồi! Vì hoàn cảnh kháng chiến
nên mặc dầu mới học năm thứ năm anh đã thực sự được mổ từ năm thứ tư, mà mổ
khéo! Anh kết luận giọng tự đắc ra mặt: “Nhất định không sinh viên y khoa một
nước nào trên thế giới có thể sánh nổi với sinh viên Việt Nam về phương diện thực
hành mổ xẻ.”
Rồi chia tay. Có ai ngờ một tháng sau anh Đạm bị tử thương
trong một trận oanh tạc của phi cơ địch ở chân đèo Khế, Vĩnh Yên. Từ đấy mỗi
khi nhà ăn trứng luộc em lại nhớ đến anh Đạm. Bao giờ em cũng vẫn giữ một niềm
kính mến đối với anh Đạm.
Tại sao em nhắc lại chuyện biệt ly thuở nhỏ với Linh rồi một
chút ít về anh Đạm như vậy? Vì em vừa tái ngộ với Linh! Cuộc tái ngộ đó vui hay
buồn, trong sáng hay âm u, cởi mở hay dè dặt em cũng không biết nói thế nào cho
đúng, xin chị cứ tiếp tục nghe câu chuyện. Năm lên bảy lên tám em cứ bị ba me
và cả chị nữa mắng cả ngày về tội “ăn nói như đàn ông... chạy nhảy như đàn
ông...” Nhưng, chị biết đấy, kể từ năm lên mười trở đi em trở thành nhu mì hẳn,
rồi càng lớn đức tính đó càng đi tới quá độ thành nhút nhát, điều này rất có thể
đem lại thiệt thòi cho em. Vê phần Linh, Linh cũng khác xưa, khác ngược hẳn với
em, ngày nay Linh hoạt bát, sắc sảo. Ngay cả khi nói chuyện với phái mạnh, Linh
cũng giữ phần chủ động dẫn dắt mọi người hòa theo câu chuyện. Em biết có những
anh bạn thật là nhút nhát mà cũng không hề cảm thấy lúng túng khi nói chuyện với
Linh, bởi câu chuyện của Linh bao giờ cũng thành thực cởi mở, rất vui, rất bay
bướm. Đã khéo gợi chuyện, Linh còn hiểu rộng câu trả lời, biết được những điều
người đối thoại muốn nói mà không nói hoặc chỉ nói được một phần nhỏ. Chị ơi,
Linh chỉ hơn em có hai tuổi thôi mà em cứ nghĩ rằng cho đến ngày em gấp đôi tuổi
Linh bây giờ, chưa chắc em đã khôn ngoan bằng Linh. Phải chăng vì Linh đã được
đi nhiều? Đi một ngày đàng học một sàng khôn!
Ba năm trước đây, hồi đó Linh đã là giáo sư Anh văn tại trường
Trung học công lập nọ, Linh được Bộ Quốc gia Giáo dục cử đi Mỹ theo lớp tu nghiệp
trong bảy tháng, khi về Linh lại ghé ở Paris hai tuần. Mãi đến năm ngoái, khi
ba từ Đà Lạt đổi xuống Sàigòn, em mới gặp Linh ở Đại học Văn khoa. Linh đã học
tới năm thứ ba, sắp thi Cử nhân giáo khoa Anh văn. Lúc hai đứa nhận ra nhau vui
đến muốn chảy nước mắt. Lập tức chúng em đi lại thăm nhau luôn. Cũng vì chúng
em mà các cụ mới biết để nối lại dây liên lạc xưa, ôn lại chuyện cũ để cùng cảm
động thành thật. Linh còn nhiều lần tâm sự khá tỉ mỉ với em về một chuyện tình
duyên và cho em xem nhiều ảnh. Với Linh - cũng như với mọi người - em thường chỉ
nghe nhiều mà nói ít, riêng với Linh em còn nặng tự ti vì chẳng được đi đây đi
đó như Linh.
Thế rồi... Đầu mối biến cố bắt đầu từ đây chị ạ.
Ngày đó em gặp “chàng”.
“Chàng”, chị để cho em được nói vậy, nghe xưa lắm, em biết,
nhưng khi viết riêng để chị đọc em ưa dùng chữ đó vì mỗi lần thốt lên như thế
em bồi hồi tưởng như còn đương ôm chàng và được chàng ôm em. Em chẳng cần phải
nói tên chàng, em chẳng cần phải tả hình dáng chàng, em chỉ cần nói với chị:
Chàng đã xuất hiện như một cơn gió lốc bằng ánh sáng và khi ra đi cuốn theo hồn
em.
Hôm đó chàng lái xe đưa người bạn tên là Hùng đến Đại học Văn
khoa đón Thi, vị hôn thê của Hùng. Thi cùng học lớp Dự bị Văn khoa với em. Khi
hai người đến, lớp vừa tan, trời bắt đầu đổ mưa, các anh cùng lớp vội vã ra về,
hầu hết các nữ sinh viên - chừng mười chị - nán lại chờ ngớt mưa. Thi giới thiệu
hai người với các chị em.
Hùng nói với chàng:
- Trời mưa lớn quá không ra xe được, chờ một lát vậy nhé.
Chàng cười nhìn tất cả chúng em nói đùa:
- Phòng học đẹp như thế này, trời không mưa cũng còn chẳng muốn
về huống chi nữa là trời lại mưa.
Câu chuyện trở nên vui ngay vì ai nấy tìm lời trêu cặp tình
nhân sắp thành đôi: Hùng, Thi. Tiếng cười không kịp ngớt, nhiều khi át cả tiếng
mưa.
Thấy Hùng ra nhìn mưa qua cửa kính, một chị chế:
- Chắc anh Hùng đương đếm xem có bao nhiêu hạt mưa rơi.
Chàng tiếp:
- Và “Mưa bao nhiêu hạt thương nàng bấy nhiêu” phải không
Hùng?
Hùng khoa tay:
- Rồi đây Quân y sẽ chỉ thông gia với Văn khoa, tôi mở đầu
chiến dịch.
Rồi quay sang nói với chàng:
- Cậu cũng nên kén vợ Văn khoa đi. Chàng đáp:
- Được lắm, trăm sự xin nhờ các chị đây làm mối cho. Quân y
là nước Tần, Văn khoa là nước Tấn, ngàn năm giao ước kết đôi chứ sao.
Chúng em cũng bật cười tuy ai nấy cùng hơi ngượng. Trong câu
chuyện, em biết chàng đã học xong năm thứ năm Quân y chuyên về ngành giải phẫu
(trên Hùng hai lớp). Hiện chàng là Y sĩ Trung úy trong đại đội Quân y Biên Hòa.
Vì có xe riêng, chàng thường sớm đi tối về: chàng ở Sàigòn với chú thím. Cha mẹ
chàng còn sống, nhưng ở lại ngoài Bắc. Nguyên sau khi đã ký Hiệp định Genève
phân chia lãnh thổ, chàng phải theo trường vào Sàigòn trước, cha mẹ hứa sẽ vào
sau nhưng rồi các cụ ngại tuổi già, ngại chuyển dịch, ở lại.
Trận mưa lớn đã ngớt chỉ còn mưa bụi. Chàng mời mọi người lên
xe để đưa về tận nhà, nhưng mấy chị nhà gần cám ơn rồi đi trước. Lên xe chỉ còn
em với hai chị bạn, không kể cặp Hùng-Thi.
Lẽ ra chàng phải đưa Thi về trước, chàng bỗng đề nghị:
- Bây giờ mới có chín rưỡi mà chắc chiều nay thứ
Bẩy cũng chẳng ai phải học hành gì, chi bằng các anh chị đi
xem trại của tôi ở gần cầu Bình Lợi cách đây 12 cây số thôi.
Thấy mọi người im lặng ra chiều đồng ý, chàng kết luận hỉ hả
:
- Các anh chị thỉnh thoảng nên ra khỏi Sàigòn một lát để thấy
rằng nắng gió đồng nội đẹp và rộng biết chừng nào.
III
Khi xe bắt đầu chạy, chàng giải thích:
- Xin các chị chớ tưởng xe này đã là của tôi. Một anh bạn com-măng
được chiếc xe mới bèn gán “hắn” cho tôi với giá ba vạn trả làm mười tháng. Tôi
mới dùng xe được ba tháng, nghĩa là mới trả được ngót một phần ba. Lẽ ra số
lương của tôi cũng không thể cáng đáng nổi việc sử dụng ô-tô, cũng may Đại tá
giám đốc Nha Quân y biết tôi phải đi đi về về con đường Sàigòn-Biên Hòa nên
hàng tháng cấp cho bông xăng. Kể cả khi phải cho xe vào ga-ra chữa, Đại tá cũng
châm chước cho như vậy.
Em nói đùa (mãi tới lúc đó em mới dám nói đùa với chàng):
- Vậy ra đây là một “bán công xa” đó.
- Chị nói đúng! - Chàng đáp - Thường thường thì xe làm đẹp
người, đặc biệt hôm nay vì có các chị nên quả là người đã làm đẹp cho xe rất
nhiều.
Chàng vội buông chân ga rồi từ từ dừng lại theo lời yêu cầu của
Thi. Tiện trên đường qua nhà, Thi muốn tạt về cất sách vở và mang theo vài thức
trái cây sẵn có. Nhà
Thi là một villa khá lớn gần cuối đường Pasteur, phải
qua một con đường trải cuội, hai bên trồng hoa và ít cây ăn quả rồi mới đến căn
nhà chính hai tầng, ngoài cùng là hàng rào sắt, trên cửa sổ có treo tấm bảng nhỏ
vẽ hình đầu chó béc-dê với hàng chữ: “Coi chừng chó dữ.”
Khi Thi đã đẩy cửa thoăn thoắt bước vào, chàng hỏi
Hùng:
- Thật là thâm nghiêm kín cổng cao tường nhé, lại thêm có
chó béc-dê nữa vậy mà không hiểu sao ông Kim Trọng Hùng nhà tôi vẫn gặp
gỡ nàng Kiều được. Kim Trọng thời nguyên tử có khác!
Mọi người cùng tiếp lời giễu Hùng, trong khi Hùng làm vẻ trơ,
gật gù ngâm:
Mấy lần cửa đóng then cài,
Đầy tường hoa rụng biết người ở đâu. Thi ra xe, tay xách
lẵng quả nặng. Chàng nói:
- “Người” đã ra kia rồi!
Xe chạy, chàng vừa lái vừa nói chuyện với Hùng, câu chuyện
chuyển hướng hẳn sang chuyên môn. Chàng kể tuần qua chàng vừa làm một opération
césarienne (mổ dạ con lấy đứa trẻ).
Hùng nói:
- Thuộc về “ca” nào?
- Cas: Présentation de l’épaule négligé! Người đàn
bà đau đẻ ba giờ rồi mới được mang đến nhà thương. Tới nơi, một cánh tay đứa trẻ
đã thò ra, mạch người mẹ lên tới 100, và nghe tim đập của cái thai tới 160
không đều, nước đầu ối xanh vì có lẫn cứt su.
Vẫn chăm chú nhìn thẳng về phía trước điều khiển tay lái
chàng tiếp tục kể lướt việc mổ tử cung, cứu được cả mẹ lẫn con. Đứa bé được mấy
nữ phụ tá (không biết các cô đẹp không, em tự hỏi) vừa dùng bình dưỡng khí, vừa
làm cử động hô hấp nhân tạo; chỉ năm phút sau bé đã khóc thét lên được, khuôn mặt
từ màu xám ngoét chuyển dần sang màu đỏ hồng như những trẻ thường.
Lúc kể chuyện chàng như biến thành một nhân vật khác, giọng
chàng say mê, trang trọng, quên hẳn chúng em ngồi bên dưới, rõ ra là một thanh
niên nhiệt tâm yêu nghề. Y như anh Đạm?
Sau cùng chàng hỏi Hùng:
- Cậu có biết cuộc giải phẫu đó tôi làm xong trong bao lâu
không?
- Một giờ rưỡi! - Hùng đáp.
Chàng lắc đầu khuôn mặt tươi hẳn, cải chính:
- Kể từ lúc bắt đầu đánh thuốc mê, rồi mổ tới tử cung lấy
thai, rồi khâu tử cung, khâu phúc mạc péritoine, khâu bắp thịt bụng bằng
chỉ ruột mèo catgut, rồi khâu lần da ngoài cùng bằng chỉ lim: một giờ năm
phút đúng!
- Chà! - Hùng thốt lên - Giỏi đấy!
Em đưa mắt nhìn hai bàn tay chàng trên tay lái. Bàn tay chàng
khéo, chàng luôn luôn vui tươi như vậy, chắc ai lên bàn mổ cũng đỡ lo. Cao quý
thay đôi bàn tay kia đã mổ, đã băng bó cho bao vết thương của đồng loại.
Em chợt lên tiếng hỏi chàng:
- Chắc anh mổ giỏi lắm rồi nhỉ? Chàng đáp:
- Thực ra tôi cũng chưa được phép mổ đâu chị ạ, chỉ phụ thôi,
đây là được bác sĩ yêu và tin đứng chứng kiến cho phép thực tập.
Qua cầu Băng Ky được một quãng, chàng dừng xe lại rồi nói:
- Xin các vị chờ tôi vài phút, lần nào qua đây tôi cũng mua
thêm một hai cây nhỏ để mang lên trại trồng.
Anh Hùng bỗng lượm lên một tấm ảnh rớt ngay chỗ chàng ngồi và
cười lớn:
- Cha cha! Nhà ngươi chụp với những cô nào mà cùng xinh đẹp
như nhau cả thế này?
Em nghe mà lạnh người, trời đất như nhào đổ. Tiếng chàng cười
hồn nhiên rồi nói:
- Đúng, cô nào cũng “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” cả!
Chiếc ảnh truyền nhanh đến tay mọi người, trong khi chàng giải
thích:
- Tấm ảnh kỷ niệm ngày sắp thi sát hạch cuối năm thứ tư đó. Mấy
tên đó ở chung buồng tại Đại học xá với tôi. Ối chao! Trông thằng nào thằng nấy
gầy vêu vì học.
Tấm ảnh đến tay em sau cùng. Đó là tấm ảnh màu chụp bốn anh -
trong số có chàng - cùng bận pyjama trong phòng học. Chàng mặc pyjama trắng
gấu viền chỉ xanh, mái tóc xõa, và khuôn mặt có gầy hơn ngày nay đôi chút.
Khi em ngửng lên trao trả bức ảnh, không biết vô tình hay hữu
ý, chàng nhìn em giây lâu, miệng như có mỉm cười rồi mới sang bên kia đường,
vào nhà bán cây.
Mưa đã tạnh hoàn toàn, ánh nắng le lói làm xe hấp nóng. Trên
đường trường các xe lớn nhỏ đủ cỡ qua lại vun vút để lại chút bụi cuốn và mùi
xăng say nồng. Mùa xuân như lên men trong lòng em, chẳng biết có lên trong lòng
chàng?
Chàng say mê với nghề chàng chọn y như anh Đạm. Với anh Đạm
ngày xưa, em kính mến vì là bậc đàn anh của ông anh cả mình; với chàng ngày nay
không quá xa em về tuổi tác, chỉ hơn em năm tuổi là cùng, có lẽ em cũng kính mến
như đã kính mến anh Đạm, nhưng em cảm thấy chàng như một trái chín vừa tầm em với.
Em không dám tự kiểm soát rõ ý nghĩ hơn để khỏi ngượng ngùng mà thấy rằng em đã
mơ chuyện lứa đôi với chàng từ lúc đó.
Tiếng máy phóng thanh gần đấy hát bài gì quen quen. À phải,
em nhớ ra rồi, bài hát ru “Le loup et la biche” (Con sói và con hươu
cái) mà ngày xưa anh Đạm vẫn hát làm vui cho em. Làm sao mà bài hát ru này chuyển
sang lời Việt lại thành bản tình ca? Lời ca rằng:
Đời người là một kiếp sầu,
Thương yêu nhau quên hết sầu đau...
Lời yêu đương phổ vào vài hát ru cũ, nên khúc tình ca thoát
thai từ đó cũng nhuộm màu sắc nhẹ nhàng đơn giản và cảm động. Khi chàng mang
cây ra xe thì Hùng, Thi và hai chị bạn em đương nói đến chuyện Elizabeth Taylor
thành góa bụa vì chồng vừa bị nạn máy bay và chuyện vị quốc vương trẻ Ba Tư buộc
lòng phải ly dị nàng Soraya vì nàng không có con.
Chàng làm bộ ôm đầu thở dài rất não nuột:
- Ối chao, một tháng có tới hai người đẹp đau khổ thì mình
vui sao được!
Thế là câu chuyện bắt đầu vui cùng với xe bắt đầu chạy. Điệp
khúc bản tình ca còn kịp đuổi theo nhắn nhủ em một lần cuối:
Đời người là một kiếp sầu,
Thương yêu nhau quên hết sầu đau...
IV
Khi mọi người bắt đầu rẽ theo đường đất nhỏ vào trại, chàng lại
giải thích:
- Xin các chị chớ tưởng trại này đã là của tôi. Nguyên vùng
này trước là của nhà binh Pháp mua để dự định lập Trung tâm huấn luyện cho quân
đội Việt Nam. Nhưng sau Hiệp định Genève, chính phủ miền Nam tự do đòi quân đội
viễn chinh phải rút lui hết. Khoảng đất nhỏ 22.500 mét vuông này tôi sang lại của
chủ cũ, còn đợi ngày chính phủ cho nhân viên địa chính tới đo và bắt đóng thuế
lúc đó mới thiệt hẳn là của mình.
Hiện có một gia đình nghèo tới ở trại, chàng để họ được toàn
quyền hưởng lợi về chăn nuôi hoặc hoa mầu do chính họ xuất vốn hoặc khai phá,
hàng tháng chàng cấp cho họ thêm 1.500 đồng trả công trông coi trại.
Trại là khu đất vuông mỗi chiều 150 mét có hàng rào dây thép
gai vây quanh; chính giữa là một căn nhà vuông khá rộng, tường bằng ván, mái lợp
lá dừa nước. Mùi đất mới xởi, mùi cỏ mục, mùi phân hòa lẫn thành một mùi đặc biệt
quyến rũ của cuộc sống khỏe mạnh nơi trang trại. Mọi người theo chàng đem hai
cây mới mua tới hố đào sẵn hạ thổ; một cây măng cụt và một cây mãng cầu xiêm.
Các cây ăn quả trồng thành bốn hàng.
Đã tới quá nửa trại được trồng như vậy. Rồi mọi người tản mát
đi về cuối trại, riêng em vẫn đứng nguyên chỗ cũ bên chàng. Chàng chỉ cho em
xem những lạch nước mới đào quanh trại, chiếc ao lớn mới đào sát cổng vào, màu
nước khắp nơi đỏ như rỉ sắt vì còn nhiều chất phèn. Chàng trù tính dùng tro cây
goòng bón đất trong một năm để khử phèn. Rồi đây nước sẽ trong, ao sẽ thả sen
và thả cá.
Người cha của gia đình nghèo vừa đi đâu về thân mật tới chào
chàng và em bằng hai tiếng “ông, bà”. Chàng vội vàng giới thiệu với ông rằng em
là bạn học đến thăm trại. Chúng em vào thăm đứa con trai lớn của ông, mười hai
tuổi bị nhức đầu. Chàng lấy thuốc Aspirine, rồi cả chàng lẫn người cha phải vừa
ngọt vừa xẵng mới khiến được thằng bé uống.
Chàng quay lại lắc đầu nói với em:
- Thường thường cái anh con trưởng bao giờ cũng ngốc nghếch
như vậy, chính tôi cũng là con trưởng đấy chị ạ, lắm khi mình tự nhận thấy mình
có ngốc nghếch thế nào ấy.
Em chỉ biết thốt lên:
- Trời, anh mà ngốc nghếch!
Em tiếp tục theo chàng ra sân, chàng chỉ cho em chỗ đất cao
mà chàng dự định làm nền bếp. Chúng em ngắm bốn hàng những xoài, ổi, roi, cam,
mãng cầu, măng cụt... chàng mới trồng. Em nhìn cao trên vai chàng một chút...
Em nghiêng đầu ngắm những luống đất mầu đã gieo ngô, em trìu mến nhìn luống sắn
đã cao được gang tay, những lá non xanh mướt, cuống lá màu đỏ, toàn thể luống sắn
non mềm rung rinh một cách thơ ngây theo gió. Tình em quý chàng cũng vậy.
Em cố xua đuổi mà không được ý nghĩ sẽ là vợ chàng, rồi em có
những đứa con xinh, em may cho chúng thứ quần áo trắng có viền chỉ màu xanh, y
như bộ py- jama chàng mặc chụp trong ảnh mà em được xem khi nãy.
(Ngày đó chắc là những hàng cam, mãng cầu, măng cụt... đã lớn.) Chúng đẹp như
em, thông minh như chàng, đuổi nhau dưới hàng cây đó. Chàng hẳn nhìn em sung sướng.
Em có làm gì khiến chàng phải phật ý đâu?!
Nền trời cao xanh thẫm, bên dưới mây trắng trải loãng từng đợt
thành vẩy tê tê. Một chiếc phi cơ bốn máy bơi giữa khoảng đó, thảnh thơi như
con cá no mồi. Chẳng biết những người ngồi trên ấy nhìn xuống có thấy em với
chàng đứng bên nhau gần mấy gốc chuối với tiếng những lá khô sột soạt theo gió?
Em nhớ lại một câu vè thuở xưa:
Sột soạt như lá chuối khô,
Đồn rằng xóm chợ có cô chưa chồng.
Mọi người đã từ cuối trại tới, ai nấy tìm một ghế gấp ngồi dưới
hàng hiên. Thi chạy qua đầu hiên bên kia xách lẵng hoa quả lại gọt gọt cắt cắt...
Chiếc radio chạy bằng pin phát thanh tin tức quốc tế. Không khí đông
người vui nhộn một cách đáng tiếc nhưng rồi em nghe cũng quen... Tiếng chàng
xen với tiếng mọi người... Chàng phân phát hoa quả cho từng người và tuyên bố
là theo ý chàng con gái Việt Nam có hai điều đẹp nhất: lúc khóc và lúc ăn quà.
Lúc khóc người con gái Việt thường quay đi sợ làm đau khổ người khác, đó là cái
đẹp tinh thần; lúc ăn quà người con gái Việt thường hết sức nhỏ nhẻ, đó là cái
đẹp... thể chất. Cái đẹp thứ nhất lẽ cố nhiên chàng rất khó có dịp gặp, giờ đây
chàng đành chiêm ngưỡng cái đẹp thứ hai vậy.
Thi nói đùa:
- Thì bây giờ anh đi tìm cô nào ưng ý rồi bảo người ta khóc
cho mà lau nước mắt.
- Đồng ý. - Chàng đáp - Tôi vẫn cho là phái mạnh chúng tôi
bao giờ cũng thô lỗ cục cằn so với phái đẹp các chị, duy có một cử chỉ khiến sự
hiện diện của người đàn ông trên cõi đời này còn đáng kể ấy chính là - nói ra
khi xấu hổ - cái cử chỉ lau nước mắt cho người đẹp.
Thi cười lắc đầu:
- Thế thì xấu hổ thật! Chàng hỏi Hùng:
- Chẳng hay Kim Trọng Hùng đã mấy lần lau nước mắt cho nàng
Kiều Thi?
Thi vội đánh trống lảng:
- Thôi đi ông tướng, chờ lau nước mắt cho tôi thì anh Hùng thất
nghiệp to.
Chàng mỉm cười với tay cầm ống nhòm đưa lên mắt rọi về phía
xa. Thấy em nhìn theo, chàng trao ống nhòm cho rồi nói:
- Chị nhìn về phía bờ sông sẽ thấy rõ một rừng thấp, đó là những
cây dừa nước, lá thường dùng để lợp nhà.
Bên rừng dừa em còn thấy những cây mẫu đơn dại mọc theo bờ ruộng,
hoa đỏ ối. Hạ ống nhòm xuống em thoáng thấy có những nụ cười ranh mãnh. Chàng
không để ý nói tiếp:
- Chị trông xem có cánh buồm trắng tiến từ từ, thấp thoáng
sau những lá dừa.
Em đưa ống nhòm lên nhìn chăm chú để khỏi lúng túng vì những
nụ cười kia.
Tiếng chàng bên em:
- Trông cánh buồm khép nép như chiếc quạt xòe để che mặt mỹ
nhân.
Tiếng nhạc ở radio dồn dập như gió đuổi. Em theo
dõi cánh buồm. Em không trông thấy dòng nước nhưng một niềm vui bâng khuâng
tràn đến khiến em tưởng như có trông thấy hai bờ sông rộng, bãi cát trắng tinh.
Có thể nói chuyến đi chơi trại này đã đem lại cho em một cảm
giác hoàn toàn đẹp. Kể ra thì em có thể trách chàng một điểm, đó là lúc chàng đứng
ở đầu hiên nói chuyện riêng với Hùng. Chẳng biết Hùng nói gì, chàng vui vẻ đáp
rất khẽ:
- Con trai như con tầu khao khát đường thiên lý, mỗi hình
bóng đẹp mình gặp là một nhà ga, có lẽ nhà ga nào cũng là một hình ảnh đẹp của
nghỉ ngơi nhưng không vì thế mà con tầu quên đi để lại được dịp đỗ ở một nhà ga
khác.
Nghe chàng nói như thế em đã muốn giận! Chàng tưởng nói khẽ
em không nghe thấy, sự thực có điều nào chàng nói có thể nghe thấy được mà em bỏ
qua đâu! Nhưng thôi chuyện khó chịu nhỏ đó em cũng chẳng nghĩ đến. Thường thường
đàn ông họ vẫn chểnh mảng, kém tế nhị so với đàn bà về lời ăn tiếng nói như vậy,
chị nhỉ?
Ở trại về xe qua nhà mình trước nhất. Xuống xe, em chào tất cả
mọi người rồi vội vã đi vào như thể vì em về quá muộn, sự thật em muốn ủ lấy trọn
vẹn kỷ niệm tươi đẹp của cuộc đi chơi trại bất ngờ này.
Bây giờ trên xe vắng em, thế nào những người còn lại chẳng kiếm
lời chế chàng.
Buổi tối em đi xem kịch với ba ở rạp Thống Nhất. Màn mở như mở
ra cả một chân trời và khi màn buông xuống, màu nhung hồng như nhuộm hồng cả niềm
vui của em. Chiều chủ nhật hôm sau em đưa hai em nhỏ đi xi-nê. Hồn em như thấm
vào màu xanh của da trời của nước, của cây cỏ; màu đá cằn cỗi như bị từ chối và
bị đẩy ra khỏi hồn em. Ở rạp xi-nê ra, tiếng phi cơ trên cao như tỏa rộng cùng
ánh nắng chiều thành tiếng reo vui trùm lấy thành phố. Sớm thứ hai, trên đường
đến Đại học, em say mê ngắm những hàng cây thẳng vút như những hàng cột bất tận
của một thánh đường mênh mông.
Cho đến ngày - cách đó một tuần sau - em đi dự tiệc cưới
Hùng, Thi.
° ° °
Tiệc trà ngày cưới Hùng, Thi vào hồi tám giờ rưỡi thứ Bảy, tổ
chức tại Câu lạc bộ Sĩ quan đường Thành Thái Chợ Lớn, có khiêu vũ. Chàng nhận
ra em và chào em trước, đồng thời Linh cũng tới với một số chị bạn cùng lớp.
Sau đó từng cá nhân cảm thấy bị chìm nghỉm trong đám đông quan khách với những
lời chào đón thăm hỏi khách sáo. Lúc bắt đầu khiêu vũ, em và một số các chị em
không biết nhảy bảo nhau ngồi khuất một góc phòng.
Em giật mình thấy Linh tươi cười đi vào giữa đám người đương
hướng về Linh đầy vẻ chào đón, trong số có chàng. Linh bỗng như quyện lấy
chàng, hai người luôn luôn đối diện nhau. Linh vừa nói vừa làm điệu khi nhanh
khi chậm, chàng cũng vậy, thỉnh thoảng cả bọn cười rộ. Em không thể ngồi yên chỗ
cũ, em làm bộ lững thững dọc theo bàn tiệc đi về phía đó. Em bắt được câu cuối
cùng chàng nói :
- Yêu Hà Nội, tôi yêu cả cái hay lẫn cái dở của Hà Nội. Hơn
thế tôi còn ơn những cái xấu bởi tôi biết chính vì những cái xấu đó mà Hà Nội
thêm đẹp.
Linh ý chừng nói tiếp câu chuyện dang dở:
- Nhưng Paris quả có một linh hồn, có một trái tim, ai đã biết
Paris, khi xa, lòng không khỏi vương vấn mãi.
À ra mọi người đương bàn về các thủ đô. Chàng cười hỏi tiếp
ngay:
- Còn chị, hiển nhiên là chỉ có một linh hồn và có một trái
tim rung động dễ thương gấp bội, chẳng hay đã khiến ai xa mà lòng còn vương vấn
mãi chưa?
Linh đáp chẳng hề luống cuống:
- Điều đó chắc chỉ người nào đó hiểu thầm thôi, tôi làm sao
biết được ?
Khoảng phòng hơi tối, Linh bật nốt mấy ống đèn nê-ông. Một
người reo:
- A... Cám ơn chị Linh cho ánh sáng ! Chàng nói:
- Chính chị là ánh sáng rồi, hà tất phải cho thêm ánh sáng
làm gì!
Rồi hẳn đã biết Linh học ban gì, chàng vừa nhíu lông mày vừa
tìm cách dịch dần câu đó sang Anh văn.
You’re light itself... What’s the use... in having... anymore
of it.
Linh nghiêng đầu rất tinh nghịch cám ơn một câu bằng tiếng
Anh trơn tru.
Hai người đó gặp nhau chẳng ai cần phải gợi chuyện ai!
Âm nhạc nổi lên. Từng cặp mời nhau xuống piste.
Chàng với Linh thành một cặp.
Em biết em đẹp nhất trong đám chị ạ, em đẹp hơn cả Linh nhưng
em thua Linh mất rồi. Với đàn ông, chỉ đẹp thôi không đủ! Em không bao giờ dám
trách Linh lẳng lơ, thường thường Linh hồn nhiên như vậy nhưng trong trường hợp
này sự hồn nhiên đó có hại cho em và đã đem ưu thế về cho Linh. Em ngồi xuống một
chiếc ghế thấp để tiện theo dõi hai người.
Đã có một số không biết nhảy lác đác ra về.
Dứt bản nhạc, chàng và Linh còn quay giỡn thêm một vòng ở giữa piste.
Chàng cúi xuống nói gì với Linh, em thấy Linh cười rất tươi - bao giờ nụ cười của
Linh cũng tươi - rồi gật đầu. Hai người đi về phía cửa lớn. Chàng chợt dừng lại
trước bàn hoa quả nhấc lên một chùm nho trao cho Linh, chàng cầm thêm hai trái
táo lớn vừa toan rảo bước thì lũ bạn cũ ùa tới xúm quanh. Hình như họ chế gì
thì phải, em thấy Linh cười chao chát, chạy lại tắt mấy ống nê-ông mà khi nãy
Linh bật sáng, rồi nói khá lớn khiến chỗ em ngồi cũng nghe rõ: “Đã thế tôi đòi
lại ánh sáng!” Thế là hai người đi vút ra cửa. tiếng hò la của các bạn đuổi
theo.
Em như mất hồn đứng lên và cũng tiến ra cửa. Em còn dừng lại
tì tay ở cột hiên chờ cho chàng và Linh ra tới xe. Linh nói gì... Chàng nhường
Linh cầm lái. Chiếc xe chuyển động rồi bon bon chui vào hàng cây thẳng tắp của
con đường đi ra ngoài châu thành.
Em ngẩng nhìn trời. Trăng rằm đã lên cao nên càng nhỏ bé,
càng u sầu như cô bé lạc đường giữa rừng mây. Cứ như vậy... cứ như vậy... Khi
ngẩng lên cao nhìn trăng, khi cúi xuống nhìn bước chân lững thững, em như mang
nỗi niềm chua xót mông mênh của mình đi vào một nỗi niềm trống trải mênh mông
hơn của vũ trụ.
Chàng đưa cho Linh chùm nho... Chùm nho thường tượng trưng
tình yêu của người đàn ông. Chùm nho đôi khi mất cắp vài quả nhưng người dàn bà
không để ý đến vì nếu chỉ mất đi vài quả, chùm nho vẫn như còn nguyên. Em mất cả
chùm nho chị ạ, em mất chàng... em mất chàng.
Chẳng cần phải tưởng tượng em cũng biết rõ hai người cho xe
chạy dưới trăng, hai bên đường mờ mờ đồng ruộng. Tới một quãng nào đó, chàng hẳn
bảo Linh cho xe dừng trên bờ cỏ... Hai người đó chẳng ai phải gợi chuyện? Họ có
biết bao chuyện làm vui nhau. Trái táo xanh, chùm nho đỏ mọng... Họ nhìn mà là
ăn, nhưng lúc ăn chưa chắc họ đã nhớ ra vị của từng thứ vì họ còn mải cười đón
lời nhau.
Em, em của chị. một con bé hiền lành đáng thương. Kể từ ngày
lên chức Thanh tra Học chính, trong bao năm em chỉ biết ba đổi đến đâu thì cùng
với mẹ và các em theo đến đấy. Hồi ba ở Huế, vào những chiều đẹp trời em thường
thơ thẩn dọc theo quãng Phú Văn Lâu vừa ngắm dòng sông Hương êm rộng vừa nhẩm
ôn bài hoặc nghĩ vơ vẩn. Sau ngày em đỗ Trung học đệ nhất cấp, ba đổi đi Đà Lạt.
em tiếp tục theo Trung học đệ nhị cấp. Ở Đà Lạt em từng đã lẳng lặng trồng
hoa Dahlia là thứ hoa em thích trồng; thường lẳng lặng bẻ cành Oeillet cắm
vào bình ở buồng học, thứ hoa em ưa cả hương lẫn sắc; thường lẳng lặng ngắt những
bông pensées đẹp nhất, màu lạ nhất ướp vào sách, thứ hoa rất xinh, rất
thơ mộng mà em ưa nhìn rất gần.
Có vụ hè ba cho em xuống Nha Trang đổi không khí, ở đấy em chỉ
chọn những lúc bãi biển vắng người để đi dạo theo và nhìn những vết chân còn in
rõ trên nền cát ẩm. Em vừa đỗ xong Tú tài phần hai thì ba xuống Sàigòn. Ở đây,
mỗi khi đi tới đường phố nào có lề cỏ, em thường chú ý em khóm trinh nữ lá xanh
hoa tím: khi tìm thấy, em vui mừng như bắt được bạn hiền rồi cúi xuống dùng tay
- không bao giờ em dùng chân - tinh nghịch chạm khẽ để được thấy các cành xanh
e lệ cụp lại. Rồi ghi tên vào Đại học Văn khoa... rồi gặp chàng... rồi đêm dự
trà vũ mừng cặp Hùng, Thi. Em chị như vậy mà Linh như vậy... Em thật mất chàng!
Trái táo xanh, chùm nho đỏ mọng... Họ nhìn mà là ăn, nhưng
lúc ăn chưa chắc họ đã nhớ ra hương vị của từng thứ...
Chẳng biết chỗ cỏ vệ đường nào họ ngồi bên nhau, ánh trăng
nào đọng nơi đó, ngọn gió nào khiến giọng nói câu cười của chàng và Linh quyện
lại với nhau rồi vang ra xa chút ít?
VI
Em cam chịu nhẫn nại đợi ngày nhận thiếp báo hỉ và đi phù dâu
Linh? Có lẽ nào? Em chưa hề một phút quên là em đẹp hơn Linh. Tới trường em
cũng chẳng muốn tìm gặp Linh nữa. Buổi tối hôm đó em không ngồi bàn học, em ngồi
trước radio đón nghe một chương trình ca nhạc, lòng nhủ lòng: nếu gặp
lại bản tình ca ngày nào trên đường đi trại, ấy là điềm em chiếm lại chàng.
Em chiếm lại bằng cách nào nhỉ? Chàng hốt hoảng nhớ lại em đẹp
hơn Linh và đến tận trường em em? Nếu không... em biết nhà chàng, em sợ gì mà
không đi qua nhà chàng, chỉ đi qua thôi! Nhưng... bản tình ca không gặp! Có tiếng
giới thiệu kết thúc chương trình ca nhạc là bản Moulin rouge. Điệu nhạc ngậm
ngùi nỉ non tựa hồ mình kể lể với mình, buồn như cảnh hai người yêu phải xa
nhau và càng xa nhau càng yêu nhau nhiều, càng yêu nhau mãi.
Vừa đúng một tuần qua, sau ngày lễ cưới Hùng, Thi, buổi chiều
thứ bảy hôm đó em thoáng thấy chàng từ một tiệm trà đường Tự Do ra. Chàng thoạt
dừng lại ngoài vỉa hè dáng như ngơ ngác khiến em động lòng rồi vô tình đi về
phía em. Chàng hiểu sức mạnh huyền bí nào đẩy em đi ngược chiều để gặp chàng mà
không xuôi chiều như chính ra em phải đi. Nhưng chỉ đi được vài bước thì em
lúng túng... em lúng túng quá... cho đến lúc chàng tới. Cũng may chàng ngẩng đầu
nhận ra em ngay.
- Kìa chị Huyên.
Em dừng lại - em chỉ đợi có vậy - và chào chàng.
- Chị đi đâu lên đây thế?
Giọng chàng hỏi thực trang nhã và ân cần. Nhưng chỉ trang nhã
và ân cần thế đâu có đủ với em? Em đáp:
- Tôi lên đây tìm mua mấy thứ nhưng không có anh ạ.
- Bây giờ chị về chứ?
- Dạ.
- Để tôi đưa chị về, xe tôi ở trước Tòa Thị sảnh, như vậy có
tiện không ạ?
Biết nói thế nào? Em đáp liều:
- Dạ.
- Xin mời chị quay lại với tôi.
Em quay lại đi bên chàng dập dìu như một vật gì bình bồng từ
ngoài khơi đương bị các lớp sóng tuần tự xô dần vào bờ.
- Tiệc cưới Hùng, Thi hôm nọ, chị nghĩ sao? - Chàng hỏi.
Em quên sao được tiệc cưới đó và em biết nói gì bây giờ? Em
yên lặng.
Chàng tiếp:
- Vui đấy chứ chị?
Vui với chàng, đâu với em! Tuy nhiên em cũng đáp:
- Dạ vui!
Suy nghĩ một chút chàng hỏi (nghe chàng hỏi mà em lạnh người):
- Chị biết chị Linh?
- Dạ chị Linh là bạn thân với tôi từ thuở nhỏ.
- Chị Linh cũng học Văn khoa?
- Vâng, hết niên học này chị ra Cử nhân giáo khoa
Anh văn. Trước đây chị đã sang Mỹ gần bảy tháng .
Em đã vào trong xe ngồi bên chàng. Khi xe bắt đầu chạy chàng
hỏi:
- Tôi cũng nghe nói vậy, nhưng sao chỉ có gần bảy tháng?
- Dạ vì đấy chỉ là lớp tu nghiệp. Chị Linh cùng các bạn đồng
khóa thoạt đến Austin theo học ở University of Texas ba tháng, rồi đi tiểu bang
khác, hình như Rhode Island thì phải, để thăm các trường cùng quan sát cách thức
dạy và công việc tổ chức lớp học của từng địa phương. Tuần lễ cuối cùng mọi người
về Washington họp bàn tại cơ quan giáo dục nêu những nhận xét của mình và làm tờ
trình.
Em chợt mỉm cười, khuôn mặt em chắc cũng vụt sáng và em tiếp:
- Sau đó mọi người được mười lăm ngày tự do, chị Linh dời
Washington trên bờ Đại Tây Dương, ngày đêm lái xe vượt theo hướng Tây tới
California trên bờ Thái Bình Dương để gặp anh Huy.
Chàng hỏi:
- Anh Huy nào thế chị?
- Anh Huy người yêu của chị Linh - em đáp bằng một giọng rất
bình thản - anh Huy học ở trường Caltech tức California Institute of
Technology.
- Một trường kỹ thuật?
- Vâng, anh Huy học về kỹ thuật hàng không và chuyên về phản
lực cơ thì phải.
Em thấy chàng lái quanh sang lối khác vắng hơn nhưng đường về
vì vậy xa hơn nhiều, rồi hỏi:
- Như vậy chị Linh phải thuê xe?
- Không Linh học kinh nghiệm của các bạn đã từng ở Mỹ về,
sang tới đó chị xin thi lấy bằng lái xe khác có giá trị quốc tế rồi mua lại một
chiếc Chevrolet du lịch cũ có ba trăm đô-la - gọi là cũ nhưng thực ra còn tốt
chán. Rồi trong những khoảng thời gian ở Austin thủ phủ xứ
Texas, hoặc khi sang tiểu bang Rhode Island, hoặc khi về
Washington, hễ có thì giờ rảnh là chị kéo một lô bạn lên xe đi xem thành phố, rồi
ra ngoại vi châu thành. Vào những ngày nghỉ cuối tuần chị tổ chức đi thăm các
danh lam thắng cảnh ngay tiểu bang chị ở, hoặc các tiểu bang lân cận. Chị nói
những bản đồ chỉ dẫn bán cho khách du lịch của họ rõ ràng lắm không thể lạc đường
được.
Chàng đã cho xe chạy sang hướng khác tự lúc nào. Em làm như
không chú ý và coi nó là một cuộc ngẫu nhiên đi chơi quanh thành phố. Chàng hỏi
:
- Khi rời Washington đi California chắc chị Linh đi một mình
?
Em mỉm cười - chàng không biết - và đáp :
- Vâng, chị đi một mình. Ngày đi đêm nghỉ, có khi đi thêm một
phần nửa đêm hôm trước, hoặc dậy sớm đi từ nửa đêm về sáng hôm sau, cứ như vậy
xe chạy sáu ngày liền mới tới California. Chị đã vượt hơn ba ngàn dặm qua nhiều
tiểu bang Kentucky, Missouri, Kansas, Colorado...
Em không quên kể một vài chi tiết mà em còn nhớ như có lần
đêm khuya đường vắng tưởng không ai kiểm soát, Linh dận hết ga cho xe chạy vun
vút nuốt đường thiên lý, lập tức có mô-tô của Cảnh sát công lộ rượt theo bắt dừng
lại. Vì thấy Linh là phụ nữ, hơn nữa phụ nữ ngoại quốc nên họ không biên phạt,
chỉ nhắc lại cho Linh hay dù đường vắng Linh cũng không nên cho tốc lực vượt mức
tối đa hạn định. Khi xe Linh qua miền núi các tiểu bang Colorado, Utah và
Nevada ban đêm, thỉnh thoảng ánh pha rọi vào tấm biển có chữ ‘DIP” báo trước một
quãng đường lòng chảo. Linh khẽ dận chân phanh, xe lao xuống rồi chồm lên ngay
với ánh đèn vút chếch như ánh mắt một con vật bất kham trong khi toàn lò xo xe
nhún nhẩy hết mức.
Chị ạ, tự nhiên trí em vụt sáng, em kể thật hấp dẫn, lúc đó
chưa chắc tài kể chuyện của Linh đã ăn đứt em. Tại sao thế chị nhỉ? Chị cũng đừng
hỏi tại sao các chi tiết tuần tự đến đầy đủ và linh động như vậy; những gì Linh
kể một lần, những gì Linh kể nhiều lần, em cũng không rõ, chỉ biết lúc đó em y
hệt một học sinh đọc xong đề thi rồi vận dụng hết khả năng ký ức để tự so sánh
mà lượm lấy mọi tình tiết cần thiết. Em tiếp tục kể chuyện hai người gặp nhau ở
Caltech, cùng nhau đi Los Angeles qua Hollywood. Tiện dịp nghỉ cuối tuần, Huy
đưa Linh đi xuống một thành phố nhỏ miền Nam: El Paso, rồi qua cầu biên giới
sang thành phố Juarez của Mễ Tây Cơ; ở đây vì thấy cuộc sống hỗn độn, nhất là bầu
không khí ăn chơi phóng túng quá lộ liễu nên Linh đòi về ngay. Vì kíp ngày Linh
không thể cùng Huy trở lại California, hai người chia tay ở El Paso, Huy lên xe
hỏa. Tới Washington gửi bán xe xong, Linh còn được nghỉ một ngày mới lên máy
bay đi Paris và ở lại đó hai tuần trước khi về nước.
Suốt câu chuyện chàng chỉ lẳng lặng nghe, thỉnh thoảng khẽ gật
gù nhưng không hỏi lại một câu nào. Những lúc em ngừng nói chỉ còn thấy tiếng
máy chạy dìu dịu, tới khi em kết thúc câu chuyện chàng mới thốt ra câu: “Chị
Linh lái xe giỏi thật!” rồi cho xe theo đường gần nhất đưa em về nhà.
Chị ạ, sự thực em thuật lại y hệt lời Linh nhưng cố tình
không kể đoạn cuối là năm tháng sau Linh nhận được thư Huy báo còn tiếp tục học
ở Caltech chưa biết bao giờ về. Biết ý, Linh coi cuộc tình duyên đến đấy là hết.
Dạo đó nghe Linh thuật xong em có hỏi sao Linh không viết thư chất vấn cho tường
tận. Linh cười hơi đượm vẻ chua chát và đáp:
- Hỏi lại làm gì hở Huyên? Tình yêu như hương của hoa không
phải là thứ đi ăn xin mà có. Trong tình yêu một bên thiếu tự trọng thì cả mối
tình đó chỉ còn là một thứ hoa hữu sắc vô hương chẳng còn gì cao quý nữa. Có thể
còn lâu Huy mới về nước thật, nhưng điều chắc chắn là Huy đã có người yêu khác
rồi. Hỏi mà làm gì, Huyên?
Thái độ của Linh thật cao đẹp, càng về sau này em càng thán
phục thái độ đó, nhưng giờ đây ngồi bên chàng em tạm xóa nhòa hình ảnh Linh
trong trí. Xe đã dừng hẳn trước nhà, em mở cửa bước ra tay còn vịn vào thành
kính để cúi xuống nói với chàng.
Em nói:
- Rất cám ơn anh đã đưa về. Hôm nay quá muộn mất rồi chắc anh
không còn thì giờ rỗi, hôm nào thong thả mời anh lại chơi.
Mọi khi nghe nói vậy thế nào chàng chẳng đáp đùa vài lời
nhưng lần này trái lại chàng cũng khách sáo như mọi người, tâm trí chàng hẳn
còn bị hút vào những tình tiết em vừa kể.
Em buông tay khỏi thành xe nhưng cúi xuống nhắc một lần nữa:
- Gặp dịp thong thả thế nào cũng mời anh lại chơi. Ba mẹ tôi
bao giờ cũng rất quý các bạn bè của con cái.
Rồi em lùi lên vỉa hè mỉm cười đứng nguyên chờ cho xe chàng
đi. Em không vội vã vào ngay như lần trước, em cần để chàng ngắm em, ngắm riêng
em lúc này vào đúng giây phút chàng tương đối điềm tĩnh hơn cả, chàng sẽ thấy
riêng em đẹp hơn Linh chứ.
Quả nhiên chàng chú ý nhìn em lâu... Đến lượt chàng mỉm cười
chào em lần cuối.
Xe ra đi. Bịn rịn.
VII
Em mang máng biết rằng mình bắt đầu có ưu thế nhưng em không
ngờ ưu thế sớm được cụ thể hóa: Ngay chiều hôm sau, em mặc áo cánh vô tình ngồi
quay lưng ra cửa đường chăm chú mở tập báo tranh ảnh thì có tiếng đập khẽ trên
cửa sắt gấp. Quay lại em nhận ra chàng và chiếc xe của chàng đỗ bên kia đường.
Vài lời xã giao thường lệ trao đổi trong khi em vội vàng lúng túng mở cửa sắt.
Khi đã bước vào, chàng vừa giúp em đóng cửa sắt lại, vừa mỉm cười hóm hỉnh giây
lâu mới nói:
- Khi đóng cửa sắt tôi có cảm tưởng đóng một lồng chim.
Em cười tiếp:
- Anh nói đúng, nhà tôi đứng ở ngoài trông như một lồng chim
vuông thật là vuông.
Chàng hơi cúi xuống:
- Trong đó nhốt một con chim xinh!
Em không dám nhìn chàng chỉ chớp mắt và cúi xuống thấp hơn.
Chàng tiếp:
- Điều lý thú là trong khi đóng lồng chim lại tôi đã tự ý nhốt
thêm cả mình vào nữa.
Không ngờ chàng bước xa thế! Em vẫn im lặng nhưng ngước mắt
nhìn chàng hơi mỉm cười để tỏ rằng em không hề phật ý. Em chưa kịp mời, chàng
đã ngồi xuống, tay khẽ nâng một bông hồng hơi ngả ở bình hoa. Chắc là mãi đến dịp
nói chuyện này chàng mới biết trên em còn người anh cả đã ra bác sĩ từ lâu hiện
ở Đà Lạt, còn chị hiện theo chồng ở Cần Thơ, dưới em còn hai em nhỏ một trai, một
gái sắp đi học về. Chàng rất tiếc lần này đến thăm nhà mẹ lại đi vắng và ba lại
đi thanh tra các trường Trung học lục tỉnh ít nhất hai tuần nữa mới về. (Sự thực
me lúc đó ở trong nhà, em biết tính me ít thích tiếp người lạ nên phải nói là
người đi vắng.)
Nói chuyện được một lúc khá lâu, chàng đứng dậy thân mật đi
quanh phòng khách ngắm tủ sách, ngắm bức sơn dầu của họa sĩ Duy. Chàng dừng lại
bên cửa sổ kéo tấm màn xanh và reo khẽ:
- Trời, khu vườn xinh chưa kìa?
Em cũng nói rất thích khu vườn đó bởi lẽ giản dị khu vườn ở
ngay sát cửa sổ nên chẳng khác gì khu vườn của nhà.
Chàng khen cây hoa ngâu lá nhỏ, khen cây roi còn thấp như vậy
mà đã sai quả, khen luống hoa hồng, khen giậu bìm bìm có những bông hoa tím,
màu tím mà chàng rất ưa... Chàng bỗng kết luận:
- Thực ra khu vườn tự nó cũng chẳng có giá trị, khu vườn sở
dĩ đẹp vì ở ngay bên nhà người đẹp.
Em táo bạo nhìn chàng rồi mới cúi xuống mỉm cười vì em nghĩ
chàng quả là con cá đã cắn câu và đương tưng bừng lôi miết chiếc phao trên mặt
hồ xôn xao gợn sóng.
Chàng xin phép em ra về. Sự thực em cũng muốn chàng ra về.
Tâm hồn em yếu đuối lắm, hạnh phúc ùa dồn dập làm em hốt hoảng. Em còn đương mải
suy nghĩ như vậy thì đã tiễn chàng tới cửa. Chàng dừng lại và nói khẽ câu sau
cùng:
- Một trong những bổn phận cao quý của người đàn bà là đẹp dịu
dàng, tôi chưa thấy ai làm đủ bổn phận đó bằng... Huyên.
Em mím miệng giữ nụ cười, lắc đầu nhưng không nói.
Em quay vào ngay, không nhìn theo chàng nữa.
Chị nhỉ nếu hôm trước em không gặp chàng từ tiệm trà đường Tự
Do ra, nếu trong lúc đưa em về chàng không hỏi về Linh thì chắc chẳng bao giờ tự
nhiên em nói về Linh và như vậy chắc chắn em mất chàng vĩnh viễn. Đó là do ngẫu
nhiên có lẽ với Linh thì đúng! Hay do một run rủi tiền định, trời thương em hiền
lành? Có lẽ với em, em nên nghĩ thế thì hơn chị nhỉ.
Tuy em luôn luôn tự nhủ em được quyền chiếm hữu chàng vì em gặp
chàng trước tiên, nhưng dầu sao em vẫn thấy là mình có lỗi với Linh. Em đã kém
thẳng thắn trong cuộc tranh chấp này. Em không thêm ra, cũng không bố trí lại
thứ tự câu chuyện mà Linh đã tâm sự nhiều lần với em, nhưng em đã khôn ngoan -
có thể gọi là khôn ngoan được không? - ngừng lại vào lúc rất nên ngừng để kịp
thời dập ngay ngọn lửa yêu đương chàng mới nhóm với Linh, và khi xuống xe - bản
tính thật hiền lành mà sao chỗ này em đã khôn ngoan đến tuyệt luân, đời người
chỉ cần một lần khôn ngoan đúng lúc như vậy đủ nắm vững hạnh phúc chị ạ - em đã
đứng nguyên chỗ cũ để hình ảnh duy nhất của em đi thẳng vào tim chàng, cho tới
lúc xe chàng bịn rịn chuyển bánh. Ngọn lửa Linh vừa tắt, ngọn lửa em nhóm ngay,
hơi ấm còn lại trong tim chàng về Linh chỉ khiến ngọn lửa mới về em càng chóng
nồng đượm.
Nay ưu thế đã thực tế chênh hẳn về em, hồi tâm nghĩ lại em thấy
rằng có lẽ mình đã hèn, có thể là hèn lắm chứ? Điều đáng quý ở Linh là tuy đã từng
đau đớn vì bị người tình phụ nhưng khi nhìn đời, giao thiệp với đời Linh không
hẹp hòi nhuộm cả vạn sự qua mầu sắc mối tình vỡ lở của mình. Trong thâm tâm,
Linh buồn thành thực, nhưng bề ngoài Linh cũng vui thành thực, buồn vui lẫn lộn
cùng thành thực như nhau và có lẽ vì giữ kín cái buồn bên trong nên vẻ vui bên
ngoài càng quyến rũ với một mãnh lực khó tả. Thực hiếm có một tâm hồn phức tạp
một cách đáng yêu như Linh, người bạn của em, người bạn tự thời thơ ấu, người bạn
mà khi xa nhau em đã nằm quay vào tường nhắm mắt lại để thấy rằng mình cô đơn rồi
khóc òa trên vai mẹ. Và về phần Linh, Linh đã úp mặt vào thành ghế tấm tức khóc
suốt từ Hà Nội vào Thanh Hóa. Nhưng rồi em nghĩ xuê xoa, em tự nhắc thầm một lần
nữa. Em đã gặp chàng đầu tiên, em gặp chàng trước Linh. Vả với sắc đẹp của
Linh, với vẻ quyến rũ của Linh, lúc nào bên lề cuộc đời Linh chẳng thường trực
có biết bao kẻ xô tới quỳ dâng hạnh phúc. Quỳ dâng hạnh phúc! Phải hạnh phúc! Ờ
mà đã chắc đâu em nắm được hạnh phúc? Hãy tưởng tượng từ biệt em xong ra khỏi đầu
phố chàng gặp Linh. Đã từng ân cần lịch thiệp với em, ai cấm chàng không sẵn
sàng ân cần lịch thiệp với người khác, nhất người khác đó lại là Linh? Chàng dừng
xe chào và mời Linh lên. Chị ơi, hai người đó mà lại ngồi bên nhau có ai cần phải
gợi chuyện ai đâu! Họ giỡn lời, họ giỡn chữ, kẻ này tung, người kia hứng, cách
họ nói chuyện lão luyện như đùa. Ai cấm họ dừng xe trước cửa hiệu hoa quả? Lại
những trái táo xanh mịn, những chùm nho đỏ mọng. Nếu ưu thế đã dễ dàng được thì
ưu thế cũng dễ dàng mất. Có gì bảo đảm cho em chiều nay chàng không gặp Linh?
Có gì bảo đảm cho em mai hoặc mốt chàng không gặp Linh? Có gì bảo đảm chàng sẽ
trở lại thăm em một ngày gần nhất? Em đã bắt được hạnh phúc đâu? Chưa, em chưa
bắt được hạnh phúc chị ạ.
VIII
Em chưa bắt được hạnh phúc! Em chưa phải hối hận đã kém thẳng
thắn với Linh. Nếu hành động lại có lẽ em còn em thẳng thắn hơn thế nữa.
“Con trai như con tầu khao khát đường thiên lý, mỗi hình bóng
đẹp mình gặp là một nhà ga, có lẽ nhà ga nào cũng là một hình ảnh dẹp của nghỉ
ngơi, nhưng không vì thế mà con tầu quên đi để lại được dịp đỗ ở một nhà
ga khác.”
Em tưởng đã quên ngay lời nói đó, đến nay thì nó vang lên dằn
vặt hơn bao giờ hết. Em chưa bắt được hạnh phúc chị ạ.
Hai ngày bồn chồn qua đi... Ngày nào đến Đại học em cũng chú
ý tìm gặp Linh, nhưng không gặp! Chẳng hiểu là chệch giờ hay Linh nghỉ vì có hẹn
với chàng. Trưa hôm đó ở trường về u già ra mở cửa cho em và nói:
- Có ông nào vừa lúc nãy tới hỏi cô rồi để danh thiếp lại.
Đó là tấm danh thiếp của chàng với mấy dòng chữ viết ngả (lần
đầu tiên em đọc chữ chàng):
Chị Huyên,
Tôi tới thăm mà chị chưa về. Không sao, chiều nay xin lại đến.
Hồi sáu giờ, chị Huyên nhé.
Thân.
Sáu giờ! Đúng giờ em phải có mặt tại nhà cậu Cả ở tận cuối đường
Phan Đình Phùng, gần khu Bàn Cờ để tiếp khách, giúp cậu mợ trong dịp ăn hỏi chị
Khang. (Me đã phải đến với cậu, mợ từ sáng sớm rồi.) Em sẽ đến muộn chút ít. Em
được dịp trang điểm. Như vậy em vừa đẹp quyến rũ lên bội phần và vẫn kín đáo
cho chàng hay em nhũn nhặn, chỉ trường hợp đích đáng em mới trang điểm như thế.
Màu Bruyère N’58 em thoa lên má tự nhiên như chính màu má em ửng hồng,
nhưng màu Rose Camélia em tô lên môi tươi thật là tươi.
Quả nhiên chàng đến đúng giờ, em đã mặc áo dài, chiếc áo màu
dịu dàng nhất của em. Em làm ra vẻ vội vã mở cửa... “lồng chim”. Vừa mở cửa em
vừa nói lý do vì sao em ăn mặc tề chỉnh như thế, nhưng em khuyên chàng cứ ngồi
chơi, bởi tới bảy giờ em mới có mặt ở nhà cậu mợ cũng vừa. Chàng bước vào... “lồng
chim” để cùng em thành đôi uyên ương, chính tay em phải đóng cửa lại. Chàng đứng
sững trước mặt em... Trời, lần này trông chàng đứng sững vậy em mới yên chí chị
ạ, em thật yên chí là từ nay em không thể mất chàng nữa. Em quả có lỗi với
Linh! Em quả đã không thẳng thắn trong cuộc tranh chấp này, mặc dầu Linh không
hề biết một chút gì về chỗ em không thẳng thắn nhưng em cũng thầm cầu khẩn Linh
tha lỗi cho em. Em xin lỗi Linh, em xin lỗi cả em nữa. Linh hãy nhường chàng
cho em. Em sợ cô độc lắm rồi, em yếu đuối quá, mất chàng e rằng em sẽ cô độc
vĩnh viễn mất.
Em mời chàng ngồi chàng mới ngồi. Em chỉ cho chàng những bông
hồng em mới thay ở bình vừa tầm tay chàng với. Chàng cười và ngắm theo. Em có cảm
tưởng em làm chủ cuộc đàm thoại, lần này chính em là người dẫn dắt cuộc đàm thoại.
Chúng em vẫn nói chuyện nhưng vờ lơ đãng nhìn về phía khác vì em biết chàng
không hề rời mắt ngắm em. Rồi chàng đứng dậy đi về phía cửa sổ. Em biết chàng
ra ngắm khu vườn bên kia. Chàng khẽ gạt tấm màn xanh, em tiến lại. Chàng nhìn
sang, vẻ chăm chú đấy mà sự thực chàng nhận thấy gì đâu, em biết thế, chàng còn
tâm địa nào mà nhận thức màu này sắc nọ! Chàng bỗng quay lại nhìn em, vẻ mặt
trang trọng một cách vừa đau khổ vừa... buồn cười, rồi tiến vội lên nắm lấy tay
em. Em hốt hoảng gỡ tay ra một cách yếu ớt, em nói, giọng bối rối lắm, em biết,
nhưng không vì thế mà kém phần cương quyết. Em quên lời em nói rồi, nhưng đại ý
em xin chàng đừng làm thế em sợ lắm, em không thể chiều chàng trừ khi chàng đã
quyết định hỏi em làm vợ. Chàng đáp ngay bằng giọng hối hả rằng chính vì vậy mà
chiều nay chàng đến báo với em là thứ Bảy tuần sau chú thím chàng sẽ đến hầu
chuyện với ba mẹ, nhưng chàng cần hỏi ý kiến em trước. Chị có thấy không chàng
chưa kịp hỏi, em đã lỡ nói mất rồi! Chàng ôm em, ôm chặt lắm. Giả sử chàng
buông em ngay lúc ấy thì em chẳng thể đứng vững được. Chàng cúi xuống... chàng
hôn em... Hình như em đã chờ phút này tự kiếp nào, tự bao nhiêu kiếp trước, xa
lắm mà cũng gần lắm chị ạ. Em không biết chàng hôn em bao lâu - khoảng đó làm
gì có thời gian mà đo? - chỉ biết khi môi chàng rời khỏi môi em, em đã đứng vững
được mặc dầu em còn ở gọn trong tay chàng. Không những em đứng vững được em còn
rất tỉnh táo để cười và nói khẽ: “Trời ơi, anh làm lợt cả môi em.”
Chàng cũng đáp rất khẽ: “Nhưng tình chúng ta thắm lại!”
Bao giờ chàng cũng trả lời nhanh như vậy. Chàng buông em ra -
làm sao chàng vội buông em ra?
- Anh về em nhé, - Tiếng chàng thoảng bên tai em
- Sau cuộc gặp gỡ chiều thứ Bảy giữa chú thím và ba mẹ (chàng
gọi ngay là ba mẹ cho gần gũi tự bây giờ, chị ạ) anh sẽ đến thăm em luôn và cùng
em đi chơi phố.
Rồi chàng vội vã tự mở cửa, tự khép cửa, hấp tấp ra xe... (Em
biết chính chàng cũng cảm động nhiều.)
Em đứng nguyên chỗ cũ. Không nằm trên giường mà sao như đương
ngủ thấp thỏm, từng mảnh mộng đẹp tơi tả như những cánh hoa rời chưa hóa thành
bướm. Bức màn cửa chàng kéo để nhìn sang khu vườn bên kia còn lệch lạc. Một
cành lá xanh rung động... một nhánh hồng thấp thoáng ngả nghiêng... khu vườn
càng đẹp khi nhìn qua màn cửa lệch lạc... hình như mái tóc em cũng xô lệch...
hình như cả tâm hồn em cùng xô lệch... Giờ đây môi em còn bỏng rẫy môi chàng...
Em thắng cuộc thật ư hở chị?! Em thắng cuộc thật ư hở chị?!
Căn Nhà Hoang
Tặng Mai Thảo
Chỉ còn ít ngày nữa tới ngày làm lễ cưới thì tôi giận Loan.
Giận ghê lắm!
Ngày nay ôn lại chuyện cũ tôi cũng không nhớ vì sao đã giận
Loan đến mức ấy.
Cũng có thể là tại tôi đã cất lời khen say mê một cô bạn nào
của Loan nên Loan vụng về trả thù lại bằng cách khen một chàng trai nào đi
ngang đường là hào hoa phong nhã. Cũng có thể là tại Loan đã vô ý nhắc đến người
con trai hàng xóm mê nàng tự thuở nàng mới mười lăm và nhân một dịp theo mẹ đi
chùa Hương, anh chàng đã nhập bọn theo nàng suốt trên con đường từ Chùa Ngoài
vào Chùa Trong tương tự trường hợp bài thơ “Đi Chùa Hương” của Nguyễn Nhược
Pháp. Cũng có thể tại Loan đã nhắc lại chuyện hồi nàng còn là nữ sinh nội trú
trường Đồng Khánh, có anh chàng si tình yêu nàng đến nỗi đêm nào cũng vào mười
hai giờ khuya là anh chàng tới đi đi lại lại mấy phút bên dưới khoảng cửa sổ
phòng ngủ và thổi sáo rất thiểu não bài Sérénata bất hủ.
Vì quá yêu Loan tôi chẳng muốn một hình bóng chàng trai nào
còn sót lại trong trí Loan dù chỉ là những bóng qua rất mờ nhạt bên lề cuộc đời
nàng.
Các bạn còn lạ gì trong thời gian yêu đương này đôi bên thường
hay mếch lòng vì những cớ rất sâu xa tế nhị như thế, sâu xa tế nhị đến nỗi nhiều
khi cả đôi bên cùng ngỡ ngàng quên mất nguyên nhân chính mà chỉ còn biết thi
nhau phát triển sự giận hờn để dằn vặt nhau cho hả niềm yêu.
Trở lại chuyện tôi với Loan. Nguyên nhân lần giận nhau dặc biệt
đó tôi quên rồi, nhưng cảm giác giận nhau tôi còn nhớ đến bây giờ và chắc chắn
là nhớ đến hết đời. Đó là thứ cảm giác nghẹn ngào nơi cổ, không nuốt được thức
ăn nhưng nuốt chửng đêm trường, càng giận càng thấy người yêu mình đẹp, càng thấy
người yêu đẹp càng giận hờn hơn nữa, để có dịp thử thách uy thế của mình cùng sắc
đẹp đó. Và trong khi chờ cho tới lúc được dịp làm lành nhau thì mối hận tình
kia quả hệt như lời Nguyễn Du:
“Sầu dài dằng dặc bao giờ cho nguôi.”
Ngày đó Uyên - em họ tôi - và vợ hắn - người môi giới đầu
tiên cho cuộc tình duyên - đã tìm hết cách để hòa giải, nhưng cả hai đều thất bại.
Riêng với tôi, việc can ngăn đó còn như lửa cháy đổ dầu thêm. Đã ba ngày qua đi
rồi, tôi nhất định không chịu tìm gặp Loan. Sang ngày thứ tư tôi đi lang thang
ngay từ sớm, thoạt quanh hồ Thuyền Quang, rồi lên đường Cổ Ngư giữa hai hồ Trúc
Bạch và Hồ Tây, rồi về hồ Hoàn Kiếm. Khoảng bốn giờ chiều, từ hồ Hoàn Kiếm tôi
ngược lên Hàng Buồm tạt vào ăn tại một tiệm Tàu. Tôi nhận thấy bàn phía trước
có người con gái mặc áo dài màu xanh nhạt. Từ cách gảy đũa mãi rồi mới gắp một
chút thức ăn đến cách uể oải bưng chén cơm lên miệng chứng tỏ nàng đương có điều
gì lo nghĩ lắm.
“Phải - tôi nghĩ thầm - mặc chiếc áo màu sáng tươi như vậy
đâu phải để đi ăn hiệu một mình!”
Vì nhìn phía sau tôi chỉ thấy một phần tư khuôn mặt của nàng:
má nàng đầy đặn, thấp thoáng một sống mũi thẳng và một khóe mắt bồ câu.
Người đàn bà đi cô đơn trong đám đông không sao, nhưng ngồi
ăn một mình trong tiệm trông sao mà tội nghiệp!
Nàng vừa ăn vừa ngẫm nghĩ, nhìn ra xa lơ đãng như đương ngóng
chờ một người mà nàng biết không bao giờ lại. Biết đâu nàng chẳng cùng một tâm
sự với Loan hiện đương bị tôi làm mặt hất hủi?
Tôi hốt hoảng đứng dậy trả tiền, ra khỏi tiệm rảo bước...
Nhưng khi vừa đặt chân tới cửa nhà Loan, lòng tôi bỗng nguội hẳn. Vào để làm gì
bây giờ? Gặp Loan định nói gì bây giờ?
Thế là tôi lại đi thẳng, nhưng càng xa nhà Loan, lòng càng bịn
rịn rõ rệt.
- Reo đi con! Reo: “A bố vợ sắp lấy vợ rồi!”
Tôi cười chào Huynh và vuốt má đứa nhỏ trên tay Huynh. Huynh
là bạn học cũ của tôi. Hắn lấy vợ đã được hai năm và đã có con trai đầu lòng từ
năm ngoái. Ngay từ khi tôi vừa quen Loan, hắn đã đinh ninh dặn sau này tôi có
con gái phải gả cho con trai hắn để “Chúng mình làm thông gia” - lời hắn thường
nói.
Tôi không thể dừng lại lâu hơn, và khi đã đi được một quãng,
tiếng Huynh nựng con còn đuổi theo:
- Reo đi con! Reo: “A bố vợ sắp lấy vợ rồi!”
Vô tình tới nhà Uyên! Nghe tiếng vợ chồng Uyên reo mừng tôi mới
sực nhớ ra Uyên đã mời tôi đến ăn “bữa cơm chiều đặc biệt” khoảng bốn giờ để
còn kịp lên đê Yên Phụ hóng mát.
Gia đình cặp vợ chồng trẻ này vẫn có lệ mời ăn vào nhưng giờ
kỳ quặc: khi thì ăn bánh cuốn vào mười giờ sáng, khi đi ăn nem vào ba bốn giờ
chiều, khi đi ăn bánh ngọt uống nước trà vào mười một mười hai giờ khuya, gọi
là bữa ăn “đặc biệt”.
Vợ Uyên nói:
- Anh Sơn vào đây còn kịp “đét-xe”. Đến giờ là ăn liền, chúng
tôi không chờ anh đâu, anh đừng lo chúng tôi giận.
Uyên đứng dậy kéo ghế mời tôi ngồi rồi làm giọng nghiêm trọng
khôi hài:
- Tôi đố anh bữa cơm hôm nay còn thiếu ai nào? Uyên vừa nói dứt
lời thì Loan bưng đĩa cam từ trong ra, dáng ngượng ngập.
Cả nhà cùng cười.
Tôi cười theo. Rồi vui vì thấy kế hoạch của Uyên đổ vỡ gần trọn.
Thế nào hắn chẳng đã rắp tâm bố trí để chúng tôi cùng ngồi đối diện nhau. Chẳng
lẽ suốt bữa ăn tôi và Loan chỉ nhìn nhau im lặng? Nhất là hắn đã chuẩn bị những
lời nói khích. Tôi đã vô tình mà hóa ra hay quên không đến đúng hẹn. Bữa ăn tới
lúc dùng đồ tráng miệng rồi thì còn kéo dài được bao!
Uyên ra mở tủ lấy cravate thắt rồi nói:
- Chương trình vẫn tiếp tục như thường, để tôi xuống
garage cho xe ra.
Vợ Uyên sẽ vỗ trán:
- Hôm nay gái già này xin phép ở nhà. Hơi nhức đầu!
Uyên chặc lưỡi:
- Được, thiếu cô thì chợ vẫn đông như thường! Nào xin mời anh
Sơn, chị Loan ra trước cổng đợi tôi.
Tôi chẳng nói gì, thủng thẳng ra khỏi phòng, xuống thềm. Loan
nán lại. Khi Uyên cho xe lùi tới cổng, nàng từ trong nhà mở cửa bước ra. Tôi giật
mình bối rối vì thoáng nhận thấy Loan đã vội vã thoa lại chút hồng trên má, và
chút thắm trên môi. Vì nước da Loan trắng mịn nên màu trang điểm dậy lên, đẹp đến
nỗi tôi có cảm tưởng nếu chụp ảnh bằng phim thường, những màu sắc quý giá đó vẫn
rờn rợn tỏa lên thành một vẻ gì quyến rũ. Khi Loan xuống thềm, tia mắt chúng
tôi thoáng chạm nhau. Môi Loan hơi chúm lại.
Loan vẫn thường có tật hễ gặp điều gì bối rối thì chúm môi lại,
buổi đầu chúng tôi gặp nhau cũng vậy. Hôm đó biết tôi đương ngắm nàng nên nàng
cứ chúm môi thổi hoài tách nước mà tôi biết đã nguội từ lâu; nàng chăm chú thổi
như thế để gạt những gợn bọt mà nhìn trộm hình tôi dưới đáy tách. Tôi yêu Loan
tha thiết ngay từ đấy.
Tiếng Uyên bên ngoài:
- Xin mời hai họ nhà trai nhà gái lên xe đi thôi, chiều rồi.
Tôi ngồi bên tay lái Uyên, Loan ngồi dưới.
Vừa lúc đó một người bạn buôn tới. Vin ngay lấy dịp may Uyên
làm bộ rối rít:
- Thôi anh Sơn đưa chị Loan đi nhé tôi phải ở lại bàn với ông
bạn đây một việc cần, rất cần.
Hắn mở cửa xuống xe, kéo tôi lại trước, tay quàng phía sau
sang bên kia để vừa mở cửa xe vừa bảo Loan:
- Mời chị lên ngồi bên anh Sơn, kẻo người ta lại bảo anh Sơn
là tài xế mà chị là bà chủ.
Khi cửa xe đóng rồi vẫn tiếng hắn bông lơn:
- Xăng tôi mới đổ đầy ắp, hai ông bà có thể đưa nhau ra biển
Đông tát cạn rồi về cũng vừa.
Tôi mở máy và rồ ga cho át tiếng giễu của Uyên. Loan ngồi
bên, yên lặng. Xe theo phố Quan Thánh, rẽ vào đường Cổ Ngư, lên đê Yên Phụ qua
Nghi Tàm, qua rặng ổi Quảng Bá...
Đến ngã ba Xuân Tảo tôi toan cho xe xuống dốc theo đường ven
hồ về Yên Thái thì tiếng Loan nói khẽ:
- Anh cho xe đi thẳng tới đồn binh bỏ không kia. Đó là khoảng
đê rộng nhất, cỏ xanh mướt. Ven đê có hai ngôi nhà gạch một tầng, phía trước có
mấy chiếc xe hơi, một số nam nữ áo quần thanh lịch đương đứng tản mạn đây đó
hóng gió bên những cọc xi-măng cốt sắt quét vôi trắng, trước dùng để chằng dây
thép gai.
Tôi vừa dừng xe, Loan mở vội cửa reo mừng chạy lại gặp cô bạn
học cũ. Hai người đâu phải đôi bạn chí thiết. Cô bạn kia chỉ là một cái cọc xuất
hiện rất hợp thời cho Loan níu lấy trong lúc nàng gần chết đuối trong cái im lặng
nặng nề của tôi từ Hàng Nón đến đây.
Nghe tiếng Loan cố tình nói ríu rít và cười khanh khách, tôi
động lòng trắc ẩn rồi hối hận vô cùng về thái độ cứng rắn đến như tàn nhẫn của
mình vừa qua. Tôi muốn tiến lên nhập bọn cùng hai người để nhân đó âu yếm nói
lân sang với Loan, nhưng Loan đã kéo bạn ra tít góc bãi cỏ.
Tia sáng cuối cùng vừa tắt. Những đám mây ngồn ngộn như núi,
phía trời Tây còn nhuộm màu hồng rực nhưng rồi dịu đi rất mau, mấy phút sau ở
nơi đó chỉ còn lại một vài vệt sáng huyền ảo. Trên cao bóng một con cò bay vội,
không có gió mà cánh nghiêng nghiêng xiêu đổ. Mấy lùm cây đằng xa đương chuyển
từ màu xanh thẫm sang màu tím. Lúc đó tôi mới chú ý đến hai căn nhà hoang: cửa
sổ, cửa ra vào đóng kín mít. Tuy cùng là một tầng nhưng căn nhà ngay trước mặt
tôi thì cao ráo, bề thế, ý hẳn là nhà ở của viên chỉ huy đồn, còn căn kia thấp
hơn ý hẳn là nơi làm việc của các nhân viên văn phòng. Cả hai căn nhà còn tốt
nguyên tuy chân tường đã sẫm màu rêu và khoảng cao đôi chỗ vữa bị lở.
Có tiếng nói cười thanh thanh... Loan cùng cô bạn vừa tiến tới
bên tôi, cô bạn dịu dàng cúi chào, tôi đáp lễ. Hẳn là Loan sợ bạn sẽ theo phép
lịch sự để nàng lại trả tôi nên tuy đã khoác tay nhau Loan còn nắm lấy cổ tay bạn
và dìu bạn tiến thẳng lên sát căn nhà hoang.
Tiếng cô bạn kể:
- Có một thời quận Yên Thái đóng ở đây với một trung đội pháo
binh toàn người Việt do một Trung uý người Việt chỉ huy. Một đêm kia đồn bị Việt
Minh tấn công chớp nhoáng viên Trung uý bị tử thương ngay từ phút đầu, ông Quận
trưởng lẩn được vào một hầm bí mật, em gái ông, một nữ sinh luống cuống bị Việt
Minh bắt dẫn ra khỏi đồn. Sớm hôm sau người ta tìm thấy xác nàng dưới vệ đê, cổ
họng bị đâm nát. Sau đó quận Yên Thái chuyển về gần chợ Bưởi, trung đội pháo
binh chuyển lên đồn Chém Vẽ, đồn này bỏ hoang từ đấy.
Cô bạn hạ giọng:
- Người ta bảo oan hồn cô gái vẫn hiện về trong căn nhà này
vì vậy không ai dám ở.
Tiếng Loan rất khẽ:
- Trông căn nhà hoang buồn quá nhỉ!
Dáng Loan sững sờ, tôi cũng vậy. Trước căn nhà hoang, trên
con đê cao, vào lúc trời ngập gió chiều chắc Loan cũng như tôi cùng thấy lòng
tê tái. Sự ngăn cách càng ai oán khi chúng tôi vẫn gần nhau vẫn thương nhớ
nhau. Khuôn mặt Loan hơi nghiêng lại chắc là để đưa mắt nhìn tôi. Chúng tôi như
Ngưu Lang, Chức Nữ đương bất chấp không gian vươn hồn ra vô hạn, bắc một nhịp cầu
tương tư theo tiếng gọi thăm thẳm của thần giao cách cảm. Loan và cô bạn đã ra
tít góc xa. Nhìn xuống cánh đồng do phù sa bồi, tôi nghĩ đến con sông phiêu lưu
đã đổi dòng nhưng chút hồn lãng tử còn lưu lại nơi đây, gặp khi trời chiều rộng
rãi, gió chiều hiu hắt, cánh đồng chợt chuyển mình trong âm thanh rào rạt để biến
thành con sông ảo giác. Đến lúc đó tôi mới thật thông cảm với bốn câu thơ hoài
cổ của Trần Tế Xương:
Sông kia rầy đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Tiếng xe hơi nổ, tiếng bánh xe lăn: người ta bắt đầu ra về.
Ý nghĩ trở lại căn nhà hoang, tôi tiến lên mấy bước và nhận
thêm rằng khoảng giữa hai căn nhà hoang, sâu vào một chút là căn nhà tranh lụp
xụp nhưng có ánh lửa và khói lên ở gian bếp. Đó là túp lều của một gia đình
nghèo hay của người có nhiệm vụ trông coi hai căn nhà hoang? Một con lợn nái
đang ve vẩy đuôi bên hàng rào nứa chắn phía trước túp lều. Vẻ hoạt động của con
lợn, tiếng máy nổ đều, tiếng bánh xe lăn rạo rạc không làm ngôi nhà hoang bớt vẻ
hiu quạnh, trái lại căn nhà càng như ôm niềm u ẩn riêng biệt. Con lợn lùi lại mấy
bước rồi cọ mình vào chiếc cọc hàng rào, tưởng như với linh tính loài vật, con
lợn cũng biết chọn nơi có sinh khí mà cọ mình. Ngôi nhà câm lặng lạnh lẽo đến nỗi
tôi cho rằng ngay những con thạch sùng, những con gián, những con nhện cũng đã
rời bỏ căn nhà từ lâu như chấy rận rời bỏ một xác ma.
Để xua đuổi ý nghĩ chết chóc, tôi tưởng tượng lại ngày ngôi
nhà còn người ở, cô em gái ông Quận trưởng chưa bị Việt Minh chọc tiết như chọc
tiết lợn dưới bờ đê. Ngày đó căn nhà còn ánh đèn ấm áp; tới bữa ăn bếp lửa còn
phun khói. Hẳn là tối nào toàn gia cũng hội họp ở phòng khách để kể chuyện, cười
đùa... Và người con gái xấu số kia vừa đến tuổi xuân - có lẽ vào trạc tuổi Loan
- hẳn đã qua nhiều đêm thao thức dệt mộng bên ngọn đèn khêu nhỏ, nghe tiếng gió
thổi hay tiếng mưa rơi. Hay tiếng sóng vỗ của con sông hư ảo...
Có tiếng còi xe hơi gọi. Cô bạn vội vã từ biệt Loan. Khi qua
chỗ tôi, cô không quên cúi chào lần nữa, rồi tiếng xe mở máy... Còn lại chiếc
203 của chúng tôi. Tôi lùi lại chút ít để được thấy căn nhà hoang như nổi lên
giữa khoảng đồng rộng nhưng cũng để ngắm bóng Loan đương cúi đầu ngập ngừng tiến
lại. Bóng thân yêu của tôi! Hương thơm của Loan như bốc chiếm trọn vẹn cả khoảng
đê này gồm trời cao và đồng rộng. Nhớ lại buổi nào khi được vợ Uyên giới thiệu
và nhìn Loan chụm miệng thổi tách nước nguội, ngay chiều hôm ấy tôi đã tìm nàng
để đột ngột tỏ nỗi lòng bằng một câu ngắn: “Loan ạ, có đôi mắt đẹp và hiền của
em, anh có thể ngạo với mọi gian khổ của cuộc đời.”
Tôi mỉm cười đón Loan vừa tới. Loan cũng mỉm cười nhưng đượm
vẻ buồn rầu. Chúng tôi cùng nhìn về căn nhà hoang.
Tiếng Loan thở dài nhắc lại câu tôi đã nghe khi nãy:
- Trông căn nhà hoang buồn quá anh nhỉ? Tôi chưa kịp đáp,
Loan tiếp luôn:
- Thà là một căn nhà đổ nát, thà là một cái quán xiêu vẹo.
Nắm lấy tay Loan tôi cúi xuống nói khẽ:
- Anh tin rằng căn nhà này không bỏ hoang mãi đâu; rồi đây sẽ
có người ở, sẽ có ánh đèn, sẽ có khói lên ở gian bếp.
Tôi nắm tay Loan chặt hơn và tiếp:
- Ngôi nhà nguyên vẹn không thể bỏ hoang như thế này. Ngôi
nhà phải được trang điểm để sống lại. Chính ngôi nhà này muốn thế, chính khung
cảnh này muốn thế.
Loan khẽ ngước mắt:
- Và chính chúng ta muốn thế nữa phải không anh? Tôi chỉ còn
biết đắm đuối nhìn nàng.
Từ ngày yêu nhau, tuy tình yêu tha thiết, chưa bao giờ tôi
dám nghĩ đến ôm Loan để được hôn lên môi nàng như cặp tài tử màn bạc nào. Đôi
khi cùng nhau đi xi-nê, trong bóng tối tay tôi có nắm chặt lấy bàn tay mềm mại
của nàng và những ngón tay thon nhỏ của nàng cố víu lấy tay tôi để đáp lại tiếng
linh hồn thầm lặng, nhưng cũng chỉ có vậy. Hình ảnh Loan, ngay trong bóng tối,
vẫn hiện lên trong trắng quá. Tôi có nghĩ đến đêm tân hôn, đêm mà sau nghi lễ
tôi được phép gần Loan, tôi cũng chỉ thấy là mình sẽ dìu Loan đi vào một cánh đồng
ngút ngàn mà mỗi bông hoa xinh là một vì sao, ở đấy cả hai tâm hồn chúng tôi
cùng tan biến vào ánh sao để tỏa ra thành hương cỏ nội. Trong sạch muôn vàn!
Nhưng lần này đúng lúc tâm hồn cởi mở, cõi lòng lâng lâng giữa
một cảnh chiều cô tịch buồn rộng rãi, chúng tôi cùng thấy rõ nỗi trống trải của
xa cách mà quên mọi e dè ngượng ngập.
Tôi kéo Loan vào sát tôi:
- Căn nhà chúng ta sau này, em ạ, sẽ nhỏ hơn ấm cúng hơn...
Loan buồn bã ngắt lời:
- Và cần nhất đừng bao giờ chúng ta để nó thành căn nhà
hoang.
Rồi bật thành tiếng khóc nàng gục đầu vào vai tôi, tiếng nức
lên:
- Anh có biết không, đuổi nhau ra khỏi hồn nhau thì chúng ta
cùng biến thành những căn nhà hoang.
Cùng ớn lạnh rùng mình vì cô đơn, chúng tôi cùng quàng tay về
phía sau để cùng ôm nhau thật gọn trong vòng tay say mê. Tôi thoạt hôn lên hai
giọt ngọc long lanh đọng dưới mắt Loan, hương vị mằn mặn làm đậm đà thêm kho
tình cảm vốn đương phong phú của tôi. Và sau khi tôi cúi xuống điên cuồng tìm gặp
môi Loan, tôi vẫn nhận rõ thấy phần chủ động của nàng góp vào. Tôi cười thơ dại,
đôi mắt Loan long lanh dường như nụ cười của tôi vừa chiếu sáng lên khuôn mặt
nàng.
Trên con đê cao chỉ còn hai bóng chúng tôi, nhưng cảnh vật
không hiu quạnh, chiếu rộng và ấm áp. Trời cao thăm thẳm với mấy vì sao sớm, đẹp
như tình chúng tôi.
Khi chúng tôi rời khỏi bờ đê thì trời đã chập choạng tối. Ánh
đèn xa của Hà Nội lấp lánh quanh Hồ Tây. Tôi cho xe chạy thật chậm, đi vào bóng
tối của rặng ổi Quảng Bá. Tôi có cảm tưởng đương đem người yêu đi vào một rừng
thu vô tận trong đó gió cùng hoa lá luôn luôn thì thầm nhắn nhủ người ta thương
yêu nhau.
Tôi vội cho xe dừng lại. Qua một giây nhỏ ngạc nhiên, Loan
cùng chụm đầu bên tôi để cùng nhìn về phía trước. Một cây sấu cao như một linh
hồn đương rùng mình trong làn gió yêu thương để rũ những niềm sầu hận và trong
bóng chiều huyền ảo những lá sấu đầu thu vàng óng rụng xuống lả tả đẹp như những
vần thơ tuyệt tác.
Tôi nhìn vào đôi mắt thăm thẳm của Loan và hỏi:
- Em còn nhớ buổi đầu anh đứng chờ em dưới mái nhà bát giác
giữa Vườn bách thảo?
Loan mỉm cười dịu dàng đáp lại:
- Hôm đó là một ngày đông gió rét lắm và cũng có lá vàng rụng.
- Còn có mưa bụi nữa em quên rồi sao?
- Em không quên!
Chúng tôi vẫn nhìn nhau cùng yên lặng ôn lại kỷ niệm. Buổi đó
tôi hẹn Loan lần đầu. Tôi chờ nàng đã mười phút qua chỉ thấy lá rụng, chim xào
xạc, rồi mưa. Tôi chán nản quay sang phía khác lơ đãng cho tới khi thấy có cảm
giác là lạ, quay vội lại đã đã thấy Loan xuất hiện trên quãng đường ước hẹn từ
phút nào. Nàng bước vội vã trong mưa bụi gió bay như cốt đến thật nhanh để chụp
lấy tôi vào lúc bấy giờ. Chúng tôi đón nhau bằng nụ cười, bằng tia nhìn ngời
hào quang ấm áp. Khi đã đứng bên tôi dưới nhà bát giác Loan nói với tôi bằng giọng
tha thiết đến ngậm ngùi:
- Anh nhìn đi đâu em cũng thấy là anh đương nhìn em!
Chẳng bao giờ... chẳng bao giờ cả, tôi quên được cảnh lần đầu
đợi người yêu như vậy.
Tôi cho xe chạy.
Chúng tôi đi dần vào ánh đèn của thành phố. Loan hơi xiêu người
về phía tôi, tóc Loan thơm gió. Tôi nhấn mạnh ga.
Loan ngả về phía tôi hơn nữa.
- Anh ơi, xe đi nhanh mát quá anh nhi?
Tôi chọn những đường lớn để có thể giữ nguyên tốc độ. Tới đầu
phố Gia Long tôi cho xe đi sát đường quanh bờ hồ Hoàn Kiếm; mỗi lần đến khúc
quành, tiếng máy kêu vo vo hoà với tiếng bốn bánh xe cuốn sỏi và lá úa xào xạc
bên dưới. Ánh đèn quanh hồ như vươn lên, tỏa ra để chiếu sáng cả vòm trời cao rộng
làm tôi nghĩ đến câu của người xưa: “Đạo người quân tử bắt đầu từ tình nghĩa vợ
chồng, nhưng khi phát triển đến cùng thì tỏ rõ cả trong trời đất.”
Chưa bao giờ tôi thấy Hà Nội nhiều ánh sáng bằng hôm ấy.
Tiền Kiếp
Đêm qua mưa bụi gió bay
Gió rung cành bạc, gió lay cành vàng
Em với anh cùng ở khác làng
Nào em có biết ngõ chàng ở đâu. Một thương hai nhớ ba sầu
Cơm ăn chẳng được ăn trầu ngậm hơi
Thương chàng lắm lắm chàng ơi
Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than
Muốn than mà chẳng được than Kìa như đá đổ trên ngàn lau tây
Đá đổ còn có khi đầy
Thương chàng biết thưở nào khuây hỡi chàng.
(Cao dao Việt Nam)
Trước mỗi biến cố đau thương của dân tộc, Tâm lại ngồi ôm mặt
trong bóng tối. Đã từ lâu, lâu lắm rồi, chàng có thói quen đó. Không phải Tâm
ngồi như vậy để khóc hoặc để gậm nhấm nỗi đau khổ của mình. (Tâm đâu có hèn thế
các bạn nhỉ? Chúng ta đâu có hèn thế các bạn nhỉ?) Tâm vẫn nghĩ rằng người dân
của bất cứ nước nào cũng mang trong hồn những đức tính cao quý của dân tộc họ,
và nói rộng ra đã là người đều mang trong hồn những đức tính cao quý của nhân
loại, kẻ nào sa đọa phản bội, những đức tính đó không mất mà chỉ tản mát ra
ngoài. Việc Tâm ngồi ôm mặt trong bóng tối, chính là vì chàng khao khát những
mong với thái độ chí thành của mình, họa có kết tinh được phần nào những gì là
cao quý. Việc kết tinh đó chẳng khác gì việc phụ một hồn khác lên cho nhập vào
với hồn mình. Phụ đồng thì phải hát? Tâm không hát nhưng chàng ngâm thơ, ngâm rất
khẽ để thu hút sự kết tinh chứ không phải để xao động. Chàng thường ngâm câu Kiều:
Tiếc thay trong giá trắng ngần
Bắt phong trần cũng phong trần như ai. hoặc một vài câu
trong bài ca dao trên:
Đá đổ còn có khi đầy,
Thương chàng biết thuở nào khuây hỡi chàng.
Và những lúc đó sao mà Tâm ước ao được gặp tiền thân...
- Gặp tiền thân? - Thưa vâng, có lẽ đúng là tiền thân. Tâm muốn
tin rằng thế bởi bao giờ cũng vậy sau mỗi giấc mơ tiền kiếp, khi tỉnh dậy Tâm
thấy rõ ràng mình vừa hấp thụ được một nguồn sinh lực mới, khiến những đức tính
kiêu hùng, nhẫn nại, cởi mở của dân tộc chợt dâng lên dạt dào sôi nổi như hoa
lá đua nhau vươn mình trong tình yêu vô lượng của mùa xuân. Lần đầu tiên chàng
gặp tiền thân vào vụ đói năm nào. Trước đó mấy ngày, một buổi trưa qua Bờ Hồ,
Tâm thấy cả một phường nhạc bát âm ngồi tấu nhạc ở ngay bến xe điện Bưởi Bạch
Mai để xin tiền. Họ ăn mặc chỉnh tề: quần trong, áo the dài, chít khăn. Họ tấu
những bản Hành Vân, Lưu Thủy và những bản nhạc thờ thần khác. Mấy ngày sau ban
nhạc biệt tích, Tâm chắc họ đã đi về các cửa ô rồi chết đói dần mòn hết cả để
gom vào cho đủ số hai triệu đồng bào trong dịp quốc nạn này. Chao ôi, con người
khi còn sống đi đứng hiên ngang khí phách, khi chết bên đường, xác không cao
hơn ngọn cỏ may. Mang bản nhạc thờ thần ra tấu ở bến xe điện tuy chua xót thật,
nhưng Tâm thấy cái dáng chua xót cho nhân loại chính là lũ Tây đầm thực dân thủ
phạm, đã mất tình người, vẫn phè phỡn đú đởn nhảy nhót ở những khách sạn
Splendid, Métropole. Mấy ngày sau để tránh nạn phi cơ oanh tạc, trường Tâm chuyển
xuống Hà Đông. Ngay buổi đầu đi học, trên đường thẳng tới trường, giữa bao
nhiêu khuôn mặt ngơ ngác đây đó, Tâm chú ý đến một em bé nằm khuất sau một gốc
cây bên một đống rác có lẫn nhiều vỏ ốc. Tội nghiệp, em nằm cuộn tròn trong
manh chiếu rách, đầu và một tay thò ra ngoài, mắt nhìn mọi người mà chẳng còn
chút tinh thần. Tâm đặt nắm cơm xinh xẻo - bữa ăn trưa của chàng - vào giữa bàn
tay em, em hơi nhúc nhích. Khi tan học trở lại chỗ cũ, Tâm thấy nắm cơm khuất
dưới túp cỏ rậm gần đấy. Em bé đã chết, em yếu quá không đủ sức đưa nắm cơm lên
miệng.
Đêm đó, trở về quê. Tâm gục mặt trên bàn học mặc cho hồn tan
thành tiếng gió thở dài qua các lùm cây ngoài vườn. Tâm chợt thấy một thanh
niên ăn mặc theo kiểu xưa mở cửa sịch vào nhìn Tâm, mặt buồn rười rượi rồi đưa
một ngón tay lên miệng cắn. Người đó tự cắn mình mà sao Tâm thấy nhói buốt
trong tim? Khi bừng tỉnh dậy. Nhớ lại khuôn mặt người trong mộng hao hao giống
mình, không hiểu sao Tâm nghĩ là mình đã gặp tiền thân, đúng là tiền thân!
Có lẽ vì lòng luôn luôn ghi nhớ ơn nặng đức dầy của ông cha,
nên Tâm tha thiết níu lấy niềm tin là đã gặp tiền thân, điều chứng minh kiếp
trước, Tâm đã được góp phần mồ hôi, xương máu bên ông cha trong việc gây dựng
và gìn giữ đất nước này.
Sau sáu năm kháng chiến, rồi tới một ngày kia tỉnh ngộ mà
lòng đau như cắt! Tâm chẳng tự hỏi vì quá vô tình hay quá thực thà chỉ biết khi
tỉnh ngộ thì đã quá muộn, nhưng dù quá muộn còn hơn không. Chiến dịch cuối cùng
chàng dự là chiến dịch Đông Triều, cuối mùa hạ 1951. Để sửa soạn đường hành
quân cho chiến dịch, hai tiểu đoàn đi trước một tháng, chặt tre nứa mở lối hẻm
dưới rừng và trên những quãng đường trống có đào sẵn hai hàng hố cá nhân, ngụy
trang cẩn thận. Phi cơ địch theo sát đến nỗi chỉ một lần hai chiến binh nhóm lửa
nướng con mắm, chút khói vươn lên, chiếc phi cơ thám thính bay qua, lát sau một
đoàn B26 xuất hiện từ chân trời rầm rộ lướt tới, không hề chúc mũi, điềm nhiên
dội bom xuống như những kẻ đãng trí đánh rơi vật gì mà không hề biết. Số người
chết bao nhiêu Tâm chẳng rõ, chỉ biết trong số có một chính ủy trung đoàn. Khi
bộ phận Tâm qua đó, các mảnh thịt vướng trên cành cây đâu đây đã rữa nát và thối
khẳm, ai nấy choáng váng cố bịt mũi miệng, nín thở mà còn muốn nôn ọe.
Tới khu tác chiến, Tâm ở lại bộ tham mưu chiến dịch, Lam bạn
chàng, một người bạn độc nhất còn sót lại, ra đi công đồn. Mười giờ sáng hôm
sau, Tâm được tin điện thoại từ mặt trận báo về rằng chỉ huy trưởng - bạn chàng
- bị thương nặng. Mãi tới quá trưa mới cáng được Lam về quân y xá nhưng Lam đã
chết ở giữa đường. Khi Tâm đến, xác Lam còn nguyên trên cáng tre, đầu ngoẹo
sang một bên, hai mép phòi nước dãi trắng xoá như bọt xà phòng.
Tâm thương Lam vì chàng biết Lam cũng như chàng, cả hai không
sợ chết nhưng đã bắt đầu biết sợ chết như một con vật đơn giản dùng làm công cụ
thí nghiệm cho một cái gì trừu tượng tai ác, yêu ma không một chút thích hợp với
nếp sống nhân đạo của dân tộc.
Lần nào ra đi chiến dịch cả hai cũng cầm bằng là chết và luôn
luôn phải tự dối lòng là chết cho đất mẹ. Tới đó mọi người đã mắc kẹt khá sâu
vào khe răng cưa của guồng máy kháng chiến mất rồi.
Lần này thì Lam chết thật, thể xác Lam còn kia, đầu ngoẹo
sang một bên, mép phòi bọt trắng xóa, nhưng Lam đã “lọt khỏi kẽ tay” của Tâm để
rơi vĩnh viễn vào cái vô cùng cực bên kia thế giới.
Đêm đó Tâm cũng gục đầu trên chiếc bàn tre ở bộ tham mưu chiến
dịch: Tiền thân Tâm mở cửa bước vào ngồi đối diện và nhìn Tâm yên lặng, tiếng
thở nghe lẫn với tiếng gió hoảng hốt chạy trốn bên ngoài. Tâm mơ thấy mình theo
tiền thân đi lên thăm lại ngọn đồi trọc kia, nơi chàng và Lam đã phải lấy xác bạn
đồng ngũ làm thành để bám lấy lưng chừng đồi sau một đợt xung phong. Từng suối
máu nóng hổi còn như thấm đẫm áo chàng và loang rộng dưới chân. Vẫn theo tiền
thân, Tâm đi vào đám sương mù trắng ngập cánh đồng, màu trắng như bọt xà phòng
phòi bên mép Lam. Rồi chàng và tiền thân ngồi nghỉ trên một đỉnh núi bên dưới
có con sông nước đỏ uốn cong. Tâm nhìn tiền thân yên lặng, trìu mến gửi vào cả
nỗi thống khổ kết tinh, đồng thời chàng thấy nỗi đau khổ hiện tại như vơi đi rất
nhiều.
Cái gì đã kết tinh khó mà mất, không còn nhờ nhệch vô hình,
mình quẳng nó ở đâu nó cũng sáng, và vũ trụ từ thể vân tinh quay cuồng đau khổ
bao nhiêu mới kết tinh thành những giọt đau khổ biêng biếc là những vì sao.
Xác Lam dược chôn vội vã bên mép bờ ruộng tiền tuyến, gần một
làng nhỏ không còn một bóng người vì dân chúng đã tản cư hết. Cái chết của Lam
chỉ còn một tác dụng quất mạnh vào tâm tưởng Tâm khiến chàng ráng sức một lần
quyết định, vùng khỏi khe răng cưa siêu hình của guồng máy chiến tranh mà người
ta đã vô cùng xảo quyệt vô cùng điêu ngoa gán cho cái chiêu bài: cuộc kháng chiến
dân tộc.
Đã từ bao lâu thứ chính trị đầu cơ kết bè lập đảng hẹp hòi đã
làm nhơ bẩn mọi dự định tinh khiết nhất của nhân loại, đã gieo bi quan vào những
khối óc hồn nhiên nhất của người dân quê, đã gieo nghi ngờ vào những khối óc rộng
lượng nhất của giới trí thức, Tâm bỏ Cộng sản về Thành (Hà Nội) vào đúng năm mà
những nhơ bẩn đó đạt tới tối cao của nó.
Đá đổ còn có khi đầy.
Thương chàng biết thuở nào khuây hỡi chàng.
Về Hà Nội, Tâm ở phố Ngõ Huyện sát nách nhà thờ lớn, nơi đây
sáng nào cũng có hai bố con người bán phở rong, gánh từ Kim Mã - ngoại ô Hà Nội
- tới bán. Người bố khoảng bốn mươi tuổi. Vợ ông nghe đâu đã bị đội Lê Dương trong
đoàn quân viễn chinh Pháp hiếp chết tại đầu làng ngay từ năm 1945, năm đầu
chinh chiến. Đứa con trai hiện theo ông mới chừng tám tuổi, nó giúp ông trong
việc đi sâu vào các ngách phố rao phở. Nếu có ai gọi mua nó chạy về báo cho bố
làm rồi bưng lại. Nó hay bị các khách ăn quen trêu. Người ta giả vờ khất chịu
vài hôm, có người đưa ra tờ giấy năm trăm bảo nó: “Cậu trả lại tiền đi nếu
không thì... hãy chịu vài hôm!” Hễ nghe ai nói “Hãy chịu vài hôm!” như vậy, nó
giẫy nẩy như đỉa phải vôi rồi vừa nước mắt chạy quanh vừa lớn tiếng cãi lại nằng
nặc đòi tiền bằng được. Nó thương bố làm ăn vất vả và sợ người ta ăn quịt. Tâm
thường chép miệng, nghĩ thầm: “Tội nghiệp tháng bé, nó có biết đâu cả dân tộc ở
cả hai phe đương bị ngoại nhân cùng mấy tên tay sai cầm đầu ăn quịt xương máu.”
Trên các ngả đường Hà Nội vào dạo này tấp nập những xe bóng
loáng. Đó là xe của lũ xu thời hèn mạt cam phận thiếu nhân cách để thừa quyền
hành. Chúng đi đi lại chưng diện với nhau để gián tiếp sỉ nhục cuộc sống xác xơ
thiếu an ninh của dân chúng. Tâm thấy chúng ngu muội thê thảm như lũ chó con
tranh nhau những khúc xương của chính mẹ chúng mà người ta quẳng cho ăn. Tâm lại
thấy chúng trơ trẽn bỉ ổi như lũ con tranh giành gia tài bán cả chiếc áo quan để
chia nhau tiền tiêu trong khi cha già hấp hối trên giường bệnh. Tâm hồn Tâm như
thường xuyên bỏng rạ. Một hạt bụi lơ lửng trong không khí chạm phải cũng khiến
chàng nhói buốt tâm can. Nhìn những xe đó lướt qua chàng có cảm tưởng chúng tiếp
nối nhau đè ngang lên ngực mình. Đã tới mức chàng gần phát điên thì may sao một
hôm đi xem chiếu bóng gặp phim thời sự ôn lại quá khứ thánh Gandhi, trong đó có
một cảnh vị thánh Ấn Độ được tiếp đón cực kỳ trọng thể rồi an tọa trên một chiếc
xe mịn bóng lướt nhẹ trên con đường trải nhựa cũng mịn bóng. Thốt nhiên Tâm thấy
chiếc xe như có linh hồn để biến thành một con ngựa già hay một con voi già có
nghĩa, con đường nhựa như có linh hồn để biến thành con huyền long linh thiêng
vươn mình vun vút, luôn luôn nâng đón lấy bốn bánh xe.
Chẳng ai khinh được máy móc khi máy móc có linh hồn! Ngồi
trên chiếc xe lướt nhẹ đó vị thánh Ấn Độ, hiện thân của Đạo Đức, đã thổi linh hồn
vào cho máy móc.
Rồi tới một buổi chiều ánh đèn phường phố vừa bật, qua Hàng
Buồm, Tâm tạt vào một hiệu tạp hóa nhỏ mua sỉ mấy điếu thuốc lá thơm. Chàng đưa
bà hàng tờ giấy năm đồng và nhận tiền trả lại ba đồng năm hào - “ba đồng năm cắc”
- nói theo tiếng đồng bào miền Nam - bằng nhôm. Chẳng hiểu thứ nhôm pha thế nào
mà sao nhẹ thế, nhẹ đến nỗi thà cầm mảnh giấy mỏng Tâm còn thấy là mình đương cầm
một cái gì nặng hơn.
Đứng sát cột đèn một góc phố, Tâm xòe tay ra ngắm kỹ đồng
hào: một bên có hình bông lúa - lúa mì thì phải - hai chữ INDOCHINE FRANCAISE xếp
thành hình vòng cung bên trên và hai chữ 20 CENT lớn hơn một chút xếp ngang bên
dưới. Lật sang mặt kia là hình bán thân một “bà đầm” tay cầm nhánh cây - chẳng
biết có phải là hình nữ thần tự do - với hàng chữ vòng cung trên đầu:
RÉPUBLIQUE FRANCAISE. Xung quanh cạnh đồng hào nhẵn thín một cách vừa cẩu thả vừa
vô duyên. Tâm nắm tay lại, miệng mím nghĩ thầm: “Đồng hào quả là thể hiện rất
đúng tinh thần gian giảo điêu ngoa của thực dân, đồng hào cũng nhẹ bỗng, rỗng
tuếch và vô giá trị như lũ tay sai của chúng.”
Chợt qua một chỗ có đèn đỏ. Đó là quãng đường Sở Lục lộ đang
sửa dở: Môi cái nắp cống còn đặt lệch sang bên, phía dưới thấp thoáng màu bùn
đen kịt và mùi hôi thối rờn rờn bốc lên. Tâm vung tay ném mạnh ba đồng năm cắc
xuống đúng khoảng sánh bùn hôi đó. Cả cái chế độ xảo quyệt của thực dân trá
hình, của độc lập giả dối, của lũ bù nhìn tranh quyền cố vị chỉ đáng có thế. Kể
từ đấy Tâm thường xuyên bị cái cẩu thả, cái vô duyên, cái nhẹ bỗng, cái rỗng tuếch
của đồng năm cắc ám ảnh và lấy nó làm đơn vị đo lường để xót thương kẻ này, căm
phẫn kẻ nọ. Một đêm kia chàng ngủ đỗ tại nhà bạn ở phố Bờ Sông, sớm hôm sau khi
vừa thức giấc, chàng chú ý đến bóng một người đàn bà nhà quê có mang gần đến
tháng đẻ mặt mũi hốc hác vì nghèo đói. Quần áo bà mặc bằng vải chéo go đen đã bạc
màu, chân đi đất, vai khoác một cái bị lớn, bà đi chầm chậm, mắt chăm chú nhìn
xuống chân hàng rào... Chợt bà dừng lại khom người xuống và lách tay qua hàng
rào dây thép gai. Thì ra bà đi kiếm những hộp sữa đã hết mà người ta vứt ở khắp
nơi, chắc rồi bà sẽ đem bán chúng ở các cửa hiệu làm đồ trẻ con chơi tại phố
Hàng Thiếc. Chỉ còn hơn một tháng nữa là Tết Trung Thu mà!
Chẳng biết cả một ngày lang thang như vậy - Tâm tự hỏi thầm -
bà nhặt được bao nhiêu ống bơ và liệu có kiếm được mười đồng bạc - tức hai mươi
đồng năm cắc khốn nạn, cẩu thả, rỗng tuếch - để nuôi thân, nuôi con chăng?
Hình ảnh nhỏ mọn và thương tâm của người đàn bà chửa bỗng hiển
hiện thành hình ảnh nhẫn nại của toàn dân trong việc xây dựng và gìn giữ đất nước
qua bao biến cố lịch sử.
Tâm đi lang thang qua chợ Đồng Xuân, quan sát những người đàn
bà nhà quê hiền lành, tự những nơi làng mạc xa xôi gánh hàng dệt bán. Hẳn các
bà cũng như hàng triệu những người dân quê khác đương sống trong cảnh trên đe
dưới búa, ban ngày thì quân đội thực dân tới sục sạo, càn quét; ban đêm thì cán
bộ Cộng sản tới giở trò xảo trá, ve vuốt đấy, khủng bố đấy. Củ su hào lớn từng
kia, chiếc cải bắp lớn từng kia, quả đu đủ chín lớn từng kia, kết quả của bao
công phu vun trồng tưới bón, tưới bón bằng mồ hôi, nước mắt và máu với bao hy vọng
gởi gấm mà nay bán đi được tám đồng bạc tức là mười sáu đồng năm cắc khốn nạn,
cẩu thả, vô duyên, rỗng tuếch!
Tâm đã gặp một người đàn ông búi tó, râu tóc xác xơ bước vội
trong bóng chiều đương đổ mau, hai đầu đòn gánh lủng liểng chừng mươi mười hai
chiếc bánh chưng bán ế. Tâm vẫn thấy ông cụ già gầy đét hom hem ngồi mài dao
thuê dưới gốc bàng góc phố; có lần nghe hiệu chuông rung, Tâm gọi mua chiếc kem
của một cụ già hom hem hơn và chăm chú nhìn cụ cho đồng năm cắc vào túi, bịn rịn
đứng nán lại một giây có ý chờ xem chàng có mua thêm chăng, rồi tiếng chuông
run rẩy nhịp với bước chân đói khát xa dần... Tất cả những hình ảnh nghèo túng
mà Tâm đã gặp như thổn thức dưới mắt mỗi khi chàng tự nêu thầm câu hỏi: “Những
người đáng thương đó hằng ngày kiếm được bao nhiêu đồng năm cắc khốn nạn, cẩu
thả, vô duyên, rỗng tuếch, mà nuôi thân nuôi gia đình?”
Có lần tránh mưa, Tâm đã vào trú trong một túp lều ngoại ô,
chủ nhà là người thợ rèn, bốn đứa con ông đương vác bát ăn cơm. Ở góc bát của mỗi
đứa, chàng thấy có miếng đậu rán cắt đôi còn nguyên. Chắc là trước khi ăn người
cha đã chia khẩu phần cho từng đứa. Chúng chỉ gắp rau chấm tương dưới mâm mà để
dành miếng đậu, chúng và cơm rất gọn và sau cùng vét bát thật sạch không còn
sót lại một hột. Con nhà nghèo vét bát bao giờ cũng sạch!
Đời chỉ là một canh bạc bịp mà người thua luôn luôn là đám
dân hiền không tên không tuổi. Càng gặp nhiều những người cùng khốn, Tâm càng
thấy họ kết tinh những gì là nhẫn nhục cao quý. Chàng kính mến họ như kính mến
những vị đại diện của Thượng Đế, và thực tình chàng muốn thu hết sức mạnh của
lòng khinh bỉ gom lại thành hỏa diệm sơn để khạc vào mặt những tên buôn bán đau
khổ nhân loại cùng lũ tôi tớ giòi bọ của chúng.
Trong những giấc ngủ nghẹn ngào, Tâm mơ thấy biết bao điều
khi thì khủng khiếp, khi thì sầu não. Có một giấc mơ không bao giờ chàng quên,
chàng mơ thấy khắp nơi đều cháy kể cả những nơi không nhà cửa: Cháy giữa vườn
hoa, cháy giữa hồ Hoàn Kiếm, cháy giữa hồ Tây, nơi nào có lửa cháy là có bóng
người dân tơi tả và có xác trẻ con chết trần truồng, nhiều khi đầu một nơi mình
một nẻo; có đầu lâu em bé bị xẻ ra làm đôi, mùi máu tanh lợm khắp nơi. Kế đó
Tâm thấy mình đi câu, câu ở sông, rồi ở ao, sau cùng ôi kinh tởm, chàng thả câu
vào một hố nước cống màu đen kịt, cái phao không nổi trên nước mà mắc vào một
khe đất nẻ. Làm sao mà có cá ở vũng cống này? Có chăng một đàn bọ gậy! Giả sử bọ
gậy biết cắn câu thì làm sao cái phao mắc vào khe nẻ kia động đậy báo cho chàng
biết?
Khi sực tỉnh. Tâm vùng ra sân thở hít sương khuya và tìm ánh
sáng tri kỷ để an ủi nỗi lòng ở mấy vì sao cũng ra chiều cô độc trên vòm cao.
Tới một chiều kia, sau bữa ăn mẹ chàng lên tiếng:
- Buôn bán khó khăn lắm con ạ, hết tháng này mẹ dọn về quê
cày cấy.
Tâm chỉ còn biết đáp lời mẹ:
- Mẹ nghĩ chí phải, trong tình trạng này con nghĩ rằng nhà
nào cũng nên có một người đi tu để cứu lấy linh hồn kẻ khác và một người đi cày
để khi bưng bát cơm lên không thấy là mình ăn cắp.
Tâm ôm đầu tì hai khuỷu tay lên bàn vùi ý nghĩ vào hư vô, khi
ngửng lên bóng chiều bên ngoài đã sẫm màu, không khí nghẹn ngào u uất, báo hiệu
một trận mưa lớn.
Có tiếng cười khúc khích:
- Anh ấy khinh người ghê lắm! Bước vào nhà, em chào hai lần
mà anh ấy không thèm trả lời.
Tâm quay lại. Dung cười lớn hơn và chào như giễu:
- Lạy anh ạ!
Dung là cô gái hàng xóm, bạn thân với Thịnh, em gái Tâm. Ngày
ngày Dung vẫn sang chơi với Thịnh chẳng kể sớm tối, có khi làm cơm giúp. Nàng vừa
đến tuổi dậy thì, đẹp, một vẻ đẹp sao mà hiền hậu. Tâm chẳng dám rẻ rúng tình
yêu kia nhưng nghĩ mình đương chỉ là một thứ kết tinh của chán chường khinh mạn,
chàng nỡ nào đem nhuộm lây màu chán chường khinh mạn đó sang tâm hồn trong trắng
của Dung. Tâm biết nếu Dung đừng sớm buồn về chuyện yêu đương thì khuôn mặt
nàng hoàn toàn giữ được vẻ tươi mát của một thôn nữ thuở thanh bình nào trong
ca dao:
Anh về hái đậu, trẩy cà
Để em đi chợ kẻo mà lỡ phiên.
Dung vội vã ra về trước khi trời đổ mưa. Tiếng mưa rơi thoạt
nhẹ, sau rả rích như một nỗi sầu không bao giờ nguôi. Tiếng súng liên thanh từ
một đồn nào ở ngoài thành vọng về, kế tiếp là tiếng đại bác câu đi rất xa. Cảnh
thời tản cư cõng địu những trẻ thơ, gồng gánh những quần áo, chăn chiếu, nồi
niêu, chạy giặc dưới mưa dầm gió bấc khơi dậy quằn quại trong ký ức Tâm. Chàng
mở khẽ ra- dio, có tiếng giới thiệu một chương trình chèo cổ. Tiếng ca của
đất nước đến xoa dịu lòng chàng lúc này thực hợp thời chàng khác ngọn gió Nam đến
với vua Thuần ngày xưa: “Nam Phong chi huân hề khả dĩ giải ngô dân chi uấn
hề...” Chương trình mở đầu bằng điệu “Nồi niêu”dí dỏm mà thuần phác, nhịp
đàn sát với lời ca, tiếng nhị như giễu cợt đôi khi như biến thành một nhân vật
bông lơn nhưng tốt bụng. Tiếp đến điệu “Đường trường sa lệch” dịu dàng, tha thiết
đượm chút u sầu mà không phải là ai oán, đó là thứ ngậm ngùi nhẫn nại bao dung
- thứ nhẫn nại của những hình ảnh nghèo nàn Tâm đã gặp - tiếng trống lúc ròn
lúc đục, tiếng phách nhấn vào những nhịp mạnh. Tiếng nhị, tiếng hồ kể lể, tiếng
tiêu như vẳng theo gió chiều tự đồng nội tràn vào. Điệu “Thề nguyền” gợi cảnh
đôi trai gái dắt tay nhau đi vào mùa xuân của đời, đi vào mùa xuân của vũ trụ
có bướm bay như hạnh phúc, có hoa nở như tình yêu; họ đi trong một thế giới
quân bình giữa tình cảm với lý trí, họ vui nhận cuộc đời, hòa mình với sự sống
rộng lớn, bàng hoàng tha thiết như Kim Trọng gặp Thúy Kiều bên dòng nước trong
veo.
Bỗng có tiếng đàn bầu làm Tâm ôm mặt gục xuống bàn. Chàng
không hiểu bài gì, tiếng đàn thánh thót nỉ non gợi lên một cái gì vô cùng đau
thương nhưng cũng vô cùng đạo đức như hình ảnh một em bé mồ côi cha, dắt bà mẹ
lòa qua một khu rừng khuya. Dù rừng nhiều ma, dù rừng nhiều thú dữ, dù rừng dày
đặc hơn đêm, khúc khuỷu hơn núi, mênh mông hơn đại dương, thì em bé chí hiếu vẫn
dẫn được mẹ thoát khỏi rừng, tìm thấy ánh sáng. Tâm tưởng mình đương đi như bay
như biến giữa một cánh đồng lúa xanh thơm ngát, chân xéo lên những khuôn mặt xảo
trá khiến chúng ngã gục vào hư vô. Tâm muốn thét lên: “Ôi, dòng sông, cánh đồng
năm ngàn năm của chúng ta, mênh mông thanh thản dưới mắt nhân loại kẻ nào mà
làm hoen ố nổi?”
Cửa mở... Tâm gặp lại người quen: Tiền thân của chàng lần này
mặc áo võ biền và dìu chàng xuống cùng thuyền. Nhìn phía trước, nhìn lại phía
sau dễ có tới năm chục thuyền chiến như vậy đương cùng tiến vào một cửa sông.
Đi được một quãng thì sông mở rộng ra như một cái vịnh. Có tiếng thì thào: ‘Lục
đầu giang! Lục đầu giang.” A, Tâm nhớ ra rồi, đây là một trong năm đạo quân của
vua Quang Trung tiến ra Thăng Long đại phá quân Thanh năm Kỷ Dậu.
Đoàn thuyền vẫn tiến, có chỗ thuyền chạm phải khúc sông bồi mắc
cạn, cả đoàn thuyền nhảy ùa xuống cột chão vào thuyền rồi kéo. Nửa người ngâm
dưới nước lạnh mà ai nấy điềm nhiên cong lưng đổ người về phía trước cho thuyền
nhích lên theo bước tiến của họ. Nhìn tiền thân trong đám quân nhân cứu quốc mà
Tâm thấy thơm lây mặc dầu Tâm có rùng mình vì cảm thấy nước lạnh dưới sông như
đang cắt thịt mình ra từng miếng ở trên này. Sau đó tiền thân thoắt dẫn Tâm vào
một thế giới kỳ lạ ở đó chàng bị chém làm hai mà không đau đớn...
... Tựa hồ có tiếng gãy của cành khô... Không, đó là tiếng vặn
tắt radio. Tâm bừng tỉnh, Dung đã đứng ngay bên, nhìn trách móc :
- Làm sao mà anh cứ để radio rồi gục đầu ngủ vạ ngủ
vật trên bàn làm việc?
- Tôi ngủ quên đấy cô Dung ạ, tôi vừa mơ thấy tiền thân.
Tâm gật gù nói tiếp:
- Tôi được tiền thân dẫn vào một thế giới trong đó mình bị
chém làm đôi mà không đau đớn, rồi bị lắp sang một thân mới khiến tôi đi đứng
nhẹ nhàng hơn, thân cũ của tôi lắp sang một pho tượng sống khác, mắt pho tượng
đương xanh bỗng đỏ ngầu: pho tượng bắt đầu nhìn đời một ánh sáng khác.
Dung lắc đầu, vẫn buồn bã như nụ cười của nàng:
- Em chẳng hiểu anh nói gì?
- Tôi cho rằng giá mình nuôi hồn bằng những tình cảm cao khiết
thì mình đổi sang một thân khác nhẹ nhàng hơn, nếu nuôi hồn mình bằng những
tham vọng hèn hạ thì mắt mình sẽ đỏ ngầu và nhìn đời qua một biển máu trào ra tự
chính lòng mình.
Tiếng Dung thở dài:
- Em biết lời anh có lý nhưng sao anh cứ mơ về tiền kiếp mà
không chút lưu tâm đến hiện tại?
Thấy Tâm im lặng, Dung nói:
- Em về anh nhé.
Tâm ngẩng đầu nhìn Dung gật đầu:
- Em về!
Lần đầu tiên Tâm gọi nàng bằng “em”. Khi cánh cửa đã khép.
Dung đã về. Tâm chợt hối hận không giữ Dung lại để dạy nàng bài ca dao: “Đêm
qua mưa bụi gió bay...” Trong đêm khuya, Tâm nhắm mắt lại để thấy nơi mình
ở biến thành vùng quê với mái tranh hiền lành, với nền đất thơm mát, với nếp sống
thủy chung. Có tiếng võng đưa kẽo kẹt và tiếng người thôn nữ - tiếng Dung - ru
lòng mình dưới bóng tre:
Đêm qua mưa bụi gió bay
Gió rung cành bạc, gió lay cành vàng. Em với anh cùng ở khác
làng,
Nào em có biết ngõ chàng ở đâu.
Giấc mơ tiền kiếp hình như lần này đem thảnh thơi lại cho tâm
hồn Tâm. Quả thật phần cao quý trời đã phân phát đều cho mọi người, kẻ nào phí
phạm phần đó, kẻ khác lượm lấy chẳng mất đi đằng nào. Giá trị con người theo
Tâm là nơi con người tự xây dựng lấy bằng vốn đó. Chẳng ai làm bẩn được mình
cũng như mình chẳng thể làm bẩn được ai dù mình nắm trọn quyền hành. Chỉ những
hiện thân của u tối, của thiển cận mới tưởng rằng nắm được quyền hành là nắm vững
lòng người.
Hãy quay trở về với chính mình - Tâm nghĩ vậy - vun xới tâm hồn
mình là chuốt lọc danh dự cho dân tộc. Là gieo hương hạnh phúc cho đồng loại.
Những tên khát máu không dìm được dân tộc - một đơn vị nhỏ của nhân loại - vào
biển máu, những tên nham hiểm không chụp được dân tộc vào mưu cơ gian xảo của chúng,
những tên bất tài vô liêm sỉ ưa bợ đỡ nịnh hót nhưng muốn lịch sử ghi vào hàng
vĩ nhân không làm bẩn được ai, không phá hoại được năng lực sáng tạo của dân tộc
thì việc gì ta phải hằn học, gầm thét với những bẩn thỉu bên ngoài? Giá trị của
một dân tộc - hay của nhân loại - đặt mốc ở những gương chói lọi mà dân tộc đó
đạt được. Đại diện cho dân Ấn là Gandhi chứ đâu là tên hung đồ đã ám sát
Gandhi! Đồng tiền cũng vậy, tự nó không có giá trị gì hết, giá trị của nó chính
là ở lòng hy vọng lớn lao, ở niềm tin cao quý mà người dân gửi gấm vào người đại
diện như người đi biển gửi gấm vào người thuyền trưởng. Cái vinh hạnh được quy
tụ nơi mình những hy vọng, những niềm tin đã khiến bao vị thuyền trưởng sống chết
với con tàu, cố sao làm tròn sứ mệnh. Cánh đồng và dòng sông năm ngàn năm của
chúng ta kẻ nào mà làm hoen ố nổi?
Thế rồi ....
Việc đến đã đến!
Trước ngày rời cố đô Hà Nội đã có một lần Tâm toan dùng chiếc
áo lót mình rách vừa thay để lau chân, chợt nhớ lời mẹ dặn chớ nên phạm điều bất
nghĩa, dù nhỏ đến mấy, nên thôi. Sau này chàng còn mặc chiếc áo đó xuống tàu di
cư.
Cầu hàng không, cầu hàng hải đi đi lại lại không ngớt, thoắt
đã tám mươi vạn người ra đi... Họ ra đi và mang theo tổ quốc vào Nam. Những người
bị nghẽn hoặc buộc lòng phải ở lại bèn thu tổ quốc ủ vào trong cùng sâu thẳm của
trái tim.
Ở mọi nơi, ở mọi hoàn cảnh, tổ quốc vẫn không hề bị xúc phạm.
Đúng như ý nghĩ vững vàng tha thiết của Tâm: “Cánh đồng và dòng sông năm ngàn
năm của chúng ta kẻ nào mà làm hoen ố nổi?”
Cái Chết Của Một Người
Phong hốt hoảng lại báo tin cho tôi:
- Thinh chết rồi !
Tin bất ngờ đó càng làm tôi sửng sốt khi được Phong cho biết
Thinh chết vì tai nạn, một tai nạn quá thảm thương trên một quãng đường trong
đô thành Sở Lục lộ đương làm việc đẵn cây để mở rộng đường. Một cây me đã xén hết
cành, đào tận gốc, còn trơ lại cái thân lớn hai người ôm với bốn thước cao. Hồi
6 giờ rưỡi chiều hôm đó, Thinh phóng mô-bi-lét vừa đến đấy thì, bạc
phước làm sao, thân cây đổ sập. Khung mô-bi-lét gãy vụn, vành bánh
cong queo. Thinh chết tươi! Mấy người cảnh binh hợp lực cùng hơn chục người qua
đường, tất cả phải khó nhọc lắm mới khênh nổi thân cây me để rút cái xác giập
nát của Thinh ra.
Tuy không được chứng kiến cảnh đó, chỉ nghe Phong kể lại mà
tôi cũng thấy bồi hồi thương cảm đến ngẩn ngơ.
Cái chết của một người, gây ra do sự bất cẩn của sở Lục lộ đô
thành đã làm xúc động đến cực độ dư luận báo chí toàn quốc.
Thường thì khi nắp ván thiên đã đậy lại để vĩnh viễn bế mạc
cuộc đời, các thân bằng cố hữu đương nhiên tránh mọi nhắc nhở đến những gì xấu
trong dĩ vãng người quá cố. Riêng cái chết của Thinh với luồng dư luận đặc biệt,
với một hậu quả đặc biệt, khiến tôi buộc lòng phải trình bầy lại vài nét dĩ
vãng của Thinh.
Tôi với Thinh không những cùng làng mà còn cùng xóm, vì vậy
tôi đã hiểu rõ Thinh từ thuở chúng tôi còn để chỏm. Nhưng với tính tình bất biến
của Thinh, tôi có thể tả anh ở bất cứ quãng đời nào. Có lẽ tôi chọn quãng di cư
vào Nam cho gần.
Tôi di cư vào Nam sau Thinh ba tháng. Anh là công chức nên
vào tới nơi được chính phủ cấp nhà cho ngay; còn tôi vốn đã thất nghiệp lại đến
Sài thành đúng lúc nhà cửa khan hiếm nhất, nên tìm thuê được một khoảng nhỏ đủ
kê chiếc ghế bố ngả lưng qua đêm cũng phải ngược xuôi chật vật quá lắm.
Tuy ngược xuôi chật vật mà tôi tịnh không bao giờ dám nghĩ đến
việc tới ngủ nhờ nhà Thinh một đêm. Một hôm tôi đến thăm Khải, em ruột Thinh đã
vào lập nghiệp trong Sàigòn từ mười năm rồi, vừa lúc tôi sắp về, Thinh đến. Vẻ
mặt Thinh niềm nở một cách trang trọng, anh nhắc lại - chẳng biết lần đó là lần
thứ bao nhiêu - ý định mua những thứ này... thứ này... làm quà cho vợ chồng Khải,
nhưng vì di cư bằng máy bay hành lý có hạn, nên lại không mua được thứ nào.
Khải gạt đi quầy quậy và nói:
- Khốn nạn các bác di cư vào đây, đông cháu như vậy cứ mang
được ít đồ đạc đã nặng chết dở rồi còn gì. Bây giờ bác còn thiếu những gì xin cứ
lại đây lấy của em về dùng.
Tôi đứng dậy chào mọi người và hẹn một dịp khác lại tới thăm
vợ chồng Khải.
Tuy đi, nhưng tôi thừa biết câu chuyện Thinh tiếp tục sẽ ra
sao. Chắc chắn Thinh sẽ không quên nêu lên một cách xa xôi và khách quan vài điều
xấu về tôi. (Thinh có một khuynh hướng hầu như bất di bất dịch là nói xấu một
cách khéo léo và kín đáo những người vừa rời khỏi buổi họp mặt.) Chắc chắn
Thinh sẽ không quên câu Khải nói: “Bây giờ bác còn thiếu những gì, xin cứ lại
đây lấy của em về dùng.” Tôi biết, thâm tâm Thinh lúc nào chẳng sẵn sàng xem
còn thiếu những gì, nhưng tôi lại biết hơn nữa Thinh sẽ khéo gợi một bầu không
khí lâm li, để nói đến tình anh em xa cách suốt mười năm trường, rồi dẫn Khải
vào dần câu chuyện với một tiểu xảo khiến Khải tự thấy anh đương thiếu, thiếu
nhiều thứ lắm (mà chắc chắn là những thứ Khải sẵn sàng có) để Khải vội vã tự
nguyện ép anh phải mang về. Lúc đó câu chuyện sẽ trở lại ồn ào tỉnh táo và
Thinh cực lực phản đối ý kiến của Khải. Sức phản đối nhất định sẽ yếu dần để rồi
sau cùng Thinh đành nhượng bộ, miễn cưỡng nhận mang về thứ Khải biếu với vài lời
cám ơn hoặc vài câu trách thân ái.
Sự tương phản giữa tính thật thà trung hậu của Khải với tính
tiểu xảo của Thinh là thế.
Khi đã may mắn tìm được chỗ ăn chỗ ở với một giá rẻ không ngờ
2.000 đồng một tháng, tôi mới tìm đến nhà Thinh. Lẽ cố nhiên không phải tôi còn
ưa Thinh ở một điểm nào, nhưng vì tôi ưa khôi hài. Ngay hồi còn ở Hà Nội cũng vậy,
hễ gặp lúc nhàn rỗi tôi lại đến thăm Thinh để xem anh đóng kịch hoặc đẩy anh
vào trò kịch. Âu đó cũng là một cách tiêu khiển, mặc dầu nhiều khi trong trò
đùa đó, tôi cũng thấy lộn ruột.
Lần đó tới nơi quả gặp anh đương đóng kịch. Cháu vợ anh vừa
đi ta-xi tới thăm vợ chồng anh.
Khi chiếc ta-xi đã rồ máy và mất hút vào phố đông, anh bảo thằng
cháu:
- Để chú trả tiền xe cho.
- Dạ cháu trả rồi ạ.
- Hôm nay ở lại ăn cơm với chú nhé.
- Thôi ạ, lát nữa cháu phải đi ngay vì có việc cần. Thinh
quay lại tiếp tôi:
- Thế nào tôi tưởng cậu ở ngoài đó với Cụ. Tôi đáp:
- Lạ gì Cộng sản, ở với Cụ làm cóc gì!
- Thế là cậu vào đây dược bao lâu rồi nhỉ?
- Được hơn nửa tháng.
- Bây giờ cậu ở đâu?
- Định đến ở nhà anh.
Thấy sự bối rối lộ ra quá rõ rệt trên gương mặt
Thinh, tôi vội cười tiếp:
- Nói đùa đấy tôi đã thuê được nhà rồi. Thinh cười tươi tỉnh:
- Tôi lạ gì tính cậu chúa ghét ở chung đụng, cậu thèm gì ở
nhà tôi. Thế thuê nhà ở đâu?
- Ở đường Gallieni sát bên tiệm nhảy Kim Sơn, gần chợ Bến
Thành.
- Ái chà, thích nhỉ !
Tôi nhẳng giọng đáp lại nửa như khiêu khích nửa như giễu:
- Thích chứ!
Tôi chào chị Thinh vừa ra sửa soạn bàn thờ bầy trên tủ gương.
Chị che một mảnh báo trước gương, ý hẳn để lát nữa lễ khỏi có cảm tưởng là mình
lễ mình.
Thinh quay lại nói với thằng cháu giọng vô cùng thiết tha:
- Ở lại ăn cơm với chú thím cháu ạ, hôm nay rằm mà.
Rồi trong khoảng năm phút tôi thấy Thinh nhắc lại đến bốn lần
nữa câu mời tha thiết để rồi thằng cháu thực thà phải bốn lần đáp lại bằng một
giọng vô cùng ân hận: “Cháu xin phép chú để cho khi khác, lát nữa cháu phải đi
ngay.”
Bỗng Thinh hỏi - để thay đổi câu mời:
- Thế uống sữa với Ovaltine vậy nhé. Thấy thằng
cháu im lặng, Thinh vội nói:
- Không hẳn? Ừ thì thôi, “Nhân tâm tùy mạng mỡ.”
Tôi đã thấy chướng tai tự cảm thấy không thể chịu đựng tấn kịch
được hơn nữa và toan đứng dậy thì Phong chợt đến. Phong cũng là người cùng
làng. Anh làm thơ trữ tình nhưng lại ưa trào phúng.
Tính tình Phong chưa được thuần cho lắm nên anh thường hay
đùa ác hoặc dễ nổi sung giữa “vở kịch”. (Lời lẽ của Phong lúc đó lẽ cố nhiên là
không thơ chút nào.)
Hồi còn ở Hà Nội, có lần Phong gặp Thinh ngoài phố bèn mời
Thinh đi ăn chả cá. Ăn xong Thinh hối hả rút ví trả tiền. Biết đó là cử chỉ giả
dối như trăm ngàn giả dối thường xuyên của Thinh. Phong bèn lờ đi như không biết,
để mặc Thinh trả tiền thật. Chao ôi là cay đắng! Thinh ra khỏi hiệu chả cá, mặt
đỏ bừng, bước đi lảo đảo, mặc dù anh không uống một ly rượu nào.
Phong đã tìm tôi ngay, thuật chuyện, rồi gập người lại để cười.
Buổi chiều hôm đó Phong có mua đồ chơi cho các con Thinh, đắt
gấp hai số tiền Thinh trả ở tiệm chả cá, nhưng kể từ đấy Thinh cạch không thèm
nhận lời mời đi ăn cùng Phong lần nào nữa.
Vào Sai gon lần đó cũng là lần đầu Phong đến thăm
Thinh.
Thinh cười chào Phong rồi hỏi:
- Thế nào thi sĩ vẫn sáng tác? Phong đáp rất gọn:
- Dĩ nhiên và rất đều.
- Nhưng cậu phải biết uống rượu mới được. Cậu quên rằng ông
nhà xưa uống rượu là làm thơ?
- Nếu thế thì tôi phải học cả hút thuốc phiện nữa, vì thầy
tôi ngày xưa còn hút thuốc phiện nữa.
Tôi bật cười và biết rằng để hai người tiếp tục câu chuyện
thì thế nào cũng xảy ra cuộc đấu khẩu - nhỏ thôi, nhưng cũng mất thú - tôi bèn
rủ Phong đi đến thăm Khải.
Thinh không hề mời hai chúng tôi ăn cơm, bởi anh thừa biết với
sự hiện diện của Phong thì hai đứa chúng tôi dám ở lại ăn lắm.
Ấy đó đại khái Thinh như vậy. Anh là hiện thân của tiểu xảo
ti tiện; người hiền lành thì không để ý, người đại lượng thì không chấp, còn hạng
thế nhân thường tình thì đôi lần cố tìm cách trả miếng, nhưng về sau thấy Thinh
vẫn chứng nào tật ấy họ đâm chán, đành lờ đi như không biết mà “kính nhi viễn
chi”. Thành thử trên con đường riêng biệt của Thinh hầu như anh tiến rất thoải
mái không gặp một trở ngại nào.
Riêng với tôi, mặc dầu như trên đã nói, tôi chỉ còn coi anh
là một vai hề để làm trò tiêu khiển, nhưng tôi vẫn thấy hậm hực... hậm hực cho
cuộc đời của Thinh và cho sự bất lực của chính tôi đã không sao giúp Thinh được
hưởng sự thoải mái của tâm hồn sau một việc làm vị tha hoặc - nhỏ mọn hơn - sau
một cử chỉ cởi mở. Tôi cứ băn khoăn nghĩ rằng: “Ừ, Thinh không làm một việc gì
vị tha thì thôi, nhưng ít nhất anh cũng nên có ý tưởng mến trọng những cử chỉ vị
tha của kẻ khác.” Với Thinh, đức tính vị tha chỉ có nghĩa là “miếng đất bở dễ
đào”.
Đã nhiều lần tôi muốn thực hiện tham vọng đem tình thân chân
thành cởi mở của tôi ra quyến rũ anh, giáo hóa anh mong anh sẽ được lôi cuốn ra
khỏi cái vỏ vị kỷ như con ốc trong hốc núi bị làn sóng biển bất ngờ ùa tới cuốn
ra. Tôi cố tìm một nét ưu điểm của Thinh để được yêu anh thật thà. Tôi viện lẽ
anh là người cùng làng cùng xóm, cùng mình đi học từ thuở để chỏm. Tôi viện cớ
anh đáng thương vì có đứa con đầu lòng bị đậu mùa chết... Rồi tôi hăm hở đến
thăm anh, những mong với bầu cảm tình nóng hổi đó tôi sẽ khai quật được những
tình cảm vị tha cởi mở, lẩn trong tiềm thức anh. Nhưng... mỗi lần cố gắng như vậy
là một lần thất bại nặng nề về tôi. Nụ cười hời hợt, lời nói giả dối một cách
nông cạn, đôi ngón tay rút vội một điếu thuốc trong túi để khỏi mời tôi v.v...
Tất cả những thái độ cử chỉ ti tiện lộ liễu trơ trẽn đó như những dòng sông
băng giá từ núi cao ùa tới dập tắt ngay tức khắc ngọn lửa cảm tình tôi vừa cố
công nhóm lên. Khi đó chúng tôi chỉ còn là hai người nói hai thứ ngôn ngữ khác
nhau và không sao hiểu nổi nhau. Có lần tôi tìm ra được một hình ảnh để ví von.
Hồn anh là một bãi sa mạc. Đi vào hồn anh, tôi khao khát một bóng cây, một dòng
nước: Đôi khi những bờ cây xanh, những dòng nước có hiện lên đấy, nhưng đó chỉ
là huyễn tượng lừa dối thị giác khách bộ hành.
Thất bại! Tôi đành nhận là mình thất bại! Một đồng bạc ở cái
thuở đồng tiền phá giá này chẳng còn đáng là bao nhiêu, ấy thế mà đồng bạc đó
đã đủ lớn để tỏa bóng đen ra che lấp danh dự Thinh, liêm sỉ Thinh.
Thiết tưởng tôi chẳng cần phải rườm lời kể thêm. Những ai tế
nhị chỉ cần giao thiệp với Thinh hai ba lần là hiểu được hết về lối sống của cả
đời anh. Khi đó thì những lời bẻo lẻo rỗng tuếch kia nhỏ bé quá không đủ che đậy
cho cái tầm thường, giả dối mênh mông của tâm hồn anh. Người ta chỉ còn hoàn
toàn thấy anh tượng trưng cho những gì mà mọi người thành thật khinh bỉ.
Nhưng cái chết thảm thương của Thinh do sự bất cẩn của sở Lục
lộ gây công phẫn không riêng gì cho Phong, cho tôi mà cho tất cả mọi người.
Ngay chiều hôm xảy ra tai nạn. Hiệp hội Báo chí họp một buổi
khoáng đại Hội nghị bất thường, để rồi hôm sau tất cả các báo Việt ngữ trong
toàn quốc, các báo Anh ngữ, Pháp ngữ tại thủ đô đều trưng lên những hàng chữ lớn
báo tin bi thảm đó kèm theo những hình chụp đủ kiểu, xác nạn nhân nằm và nơi xảy
ra tai nạn.
Suốt trong một tuần lễ liền, dư luận báo chí toàn quốc theo
rõi từng li từng tí cuộc điều tra của nhà chức trách. Các ký giả nêu lên câu hỏi:
“Tại sao cây đã đào sâu, cắt hầu hết rễ cái, rễ con mà còn để
nguyên không ngả? Phải chăng lúc đó vừa đến giờ nghỉ, rồi nhân viên Sở Lục lộ
thiếu lương tâm kia tự cho rằng bỏ thế ra về là hợp lý?”
Một ký giả khác viết lâm ly hơn :
“Thái độ cẩu thả làm uổng một mạng người là thái độ thậm vô ý
thức cần phải thẳng tay trừng trị. Con người đâu phải vô tri như cây cỏ, đâu phải
cô độc như súc vật. Con người là cái gì vô cùng cao quý mà tất cả kim ngân châu
báu trên trái đất không thể chuộc lại đời sống đã mất. Con người còn có những
giây phút liên lạc thiêng liêng với gia đình, với xã hội, với nhân loại. Coi rẻ
mạng người là coi rẻ cả nhân loại!”
Như trên đã nói, sự phẫn nộ đến cực độ của báo chí đã lôi cuốn
sự phẫn nộ đến cực độ của đồng bào toàn quốc. Và tôi nghĩ rộng, sao lại không
là sự phẫn nộ của cả nhân loại, nếu tin đó, hình đó được in bằng đủ các thứ tiếng,
trên đủ các thứ báo khắp mọi nơi. Nhất định không ai cần biết nạn nhân là một
chính khách cao cấp, một nghệ sĩ trứ danh hay một người dân thường. Trước một
cái chết thảm thương và oan uổng, nhân loại ngậm ngùi không mặc cả.
Chưa đầy một tháng, nhà chức trách đã điều tra xong tai nạn
và cho công bố tên kẻ bất cẩn, vô lương.
Biện lý cục lập tức đưa kẻ đó ra tòa hình sự và mặc dầu có
hai trạng sư biện hộ. tên đó vẫn lãnh năm tháng tù treo, không kể khoản tiền bồi
thường lớn mà hắn phải nộp cho gia đình nạn nhân. Cuối bản án tòa còn ghi chú:
“Nếu trong một tháng bị cáo không nộp đủ số tiền bồi thường, tòa sẽ sai áp nhà
cửa.”
Cái chết của Thinh đã khuyến cáo, không riêng gì Sở Lục lộ mà
tất cả mọi người, hãy nên có một tinh thần cảnh giác để triệt để tránh mọi phí
phạm sanh mạng con người. Cái chết của Thinh không phải là sự hết sống của một
cá nhân hèn mọn, tiểu xảo, ích kỷ không lợi gì cho chính bản thân bon chen của
anh, không lợi gì cho gia đình anh. (Con cái Thinh mong gì ở người cha như anh,
một gương giáo dục lành mạnh? Còn nói chi đến lợi ích cho nhân quần xã hội?)
Cái chết của Thinh không còn là cái chết của Thinh nữa mà là cái chết của một
NGƯỜI.
Đấy là việc làm đầu tiên và cũng là việc làm cuối cùng, việc
làm độc nhất của Thinh giúp ích cho đời.
Hương Nhân Loại
Thuở còn con gái, chị là một cô gái cấm cung, đúng là một cô
gái cấm cung! Chị vẫn thường nhắc điều này với tất cả các bè bạn thân tình. Những
ngày học, chị từ nhà (phố Hàng Vôi) đi thẳng đến trường Đông Chính (đại lộ Đồng
Khánh); rồi tan học, vẫn lộ trình đó ngược chiều mà về. Lúc đi cũng như lúc về
không cả ngoái cổ lại! Ngày nghỉ chị về trại - trại của đại gia đình họ Lê - ở
Thái Hà Ấp, một khu trại rộng, rộng lắm! Ngày nay ôn lại trong trí, chị cũng chỉ
biết nói thế chứ không sao ước lượng được diện tích nơi đó là bao nhiêu mẫu
vuông. Xung quanh trại trồng tre, ôi chao, có những bụi tre già cao, thật là
cao, thân tre đã ngả màu vàng, lá tre màu úa xác, trông cả bụi tre như con sư tử
già ngồi đó nghễnh ngãng với thời gian. Bên trong lũy tre là dinh cơ của gia
đình chị, cùng những dinh cơ khác của các chú, các bác. Dân chúng quanh vùng vẫn
quen gọi nơi này: trại của gia đình lọ Lê.
Từ phía Hà Nội về trại, chị phải đi thuyền qua một cái đầm vừa
dài vừa rộng mà dân hàng ấp vẫn gọi là sông Ấp. Mỗi lần xuống thuyền sang sông
chị có cảm tưởng như xuống thuyền tế độ sang đất Phật vì bao bụi bậm, bao âm
thanh gợn đục của máy móc, bao ưu tư - người nào mà chẳng có ưu tư - đều ở cả
bên này sông, phía Hà Nội. Mỗi khi từ bến thuyền lên bờ và đi vào bóng tre, rõ
ràng là chị đi vào thế giới khác, một thế giới thần tiên: cảnh hiền hòa, người
hiền hòa. Dinh cơ của gia đình chị cùng các dinh cơ khác của chú bác đều trồng
rất nhiều hoa, hai bên lối vào trồng hoa mào gà đỏ tươi, rồi bên trong là hồng,
thược dược, cúc... Ông cụ thân sinh ra chị, người rất hiếu khách, mâm cơm gia
đình thường ngày nào cũng có hai hay ba người khách, rất vui vẻ. Rủi hôm vắng
khách, ông cụ được dịp ôn lại mọi điểm sơ suất đã qua đem ra hạch mắng vợ con,
thành ra cả nhà ai nấy mong ngày nào cũng có khách. Mẹ chị thương chị lắm đã
đành, nhưng hình ảnh ăn sâu vào tâm khảm chị nhất là hình ảnh bà nội. Tóc cụ bạc
phơ, mắt đã kém, nhưng da thì hồng hào. Cụ chỉ mong chóng đến ngày Chủ nhật hay
ngày lễ để các con cháu về trại. Về tới ngõ chị chạy một mạch tới cụ, tựa hồ chạy
theo sức hút của nụ cười, nụ cười biết bao là thương mến, hiền từ nở trên môi cụ.
Chị tưởng như bà nội mình đã già như thế từ lâu rồi và cũng từ lâu rồi cụ ngồi
như thế để đón con cháu từ bên kia thị thành gió bụi trở về.
Ngoài ra còn một hình ảnh thứ hai cũng trung hậu như thế
nhưng đượm vẻ trang trọng ngộ nghĩnh: Đó là ông chú, gia đình vẫn gọi là chú
Huyện, ông đỗ Cử nhân tại trường thi Nam Định năm Duy Tân thứ ba (1909). Được bổ
Tri huyện Đông Yên (Hưng Yên), rồi Kim Sơn (Ninh Bình), nhưng ông ít để tâm vào
công việc hành chính, cả cuộc đời ông ngợp trong một đam mê duy nhất: địa lý.
Bước vào cảnh trí nào ông cũng cố soi mói tìm kiếm đâu là con Mộc, đâu là con Hỏa...
Đâu là huyệt chính, đâu là huyệt phụ... Trong thời gian trị nhậm ở Kim Sơn, đã
biết bao lần ông đi tới cầu Hàm Rồng, ra đứng giữa cầu nhìn xuống dòng sông Mã
thăm thẳm bên dưới với chủ tâm thiết tha là vạn hạnh, gặp khi dòng nước bên dưới
xoáy cuộn thành một vũng trũng lớn - đó là lúc thần long há miệng - ông sẽ lao
đầu xuống tự táng sống trong miệng rồng cho con cháu đời đời vinh hiển. Nhưng
việc thần long há miệng là một việc thiên tải nhất thì, ông nghĩ có lẽ
mình còn bạc phước chưa thể gặp lúc đó được. Rồi ông từ quan trở về sống ở trại
của đại gia đình họ Lê, nhưng luôn luôn đi đây đi đó tìm những huyệt tốt chuẩn
bị mai táng cho những người thân trong gia đình và cho chính ông nữa. Việc quan
trọng mà ông thúc giục mọi người phải thực hiện bằng được là mua trước một áo
quan bằng gỗ vàng tâm cực tốt và những phiến đá có chạm những hình nổi để xây
lăng mộ sau này.
Trở lại chuyện của chị, mỗi khi về Thái Hà Ấp nói chuyện với
bà nội xong, chị thường lui tới quanh đấy thăm các ông chú, bà bác, các anh em,
chị em. Tất cả mọi người niềm nở quý mến chị, chị như ngã từ bàn tay thương yêu
này sang bàn tay thương yêu khác. Có lẽ vì vậy chị càng ngày càng đẹp, càng hiền.
Rời khỏi nhà các chú, bác, chị đi thơ thẩn bên bờ ao, dưới gốc dừa hay dưới
bóng tre, hơi mát thăm thẳm của nước, quyện với hơi mát thơm nhẹ của lá cây rồi
choàng lấy chị thành một tấm áo khoác vô hình dệt bằng tình thương yêu đặc biệt
của thiên nhiên.
Về mùa thu, chị ưa ngồi bên bờ ao, ngay dưới gốc muồng để mặc
cho lá muồng nhỏ như vàng diệp, vụn lăn tăn rụng xuống quanh người, chạm phải
má phải tay, vướng trên vai trên tóc. Chị lắng nghe thấy lòng mình rộng rãi
nhưng trống trải buồn buồn. (Về sau này, khi đã từng trải nhiều trên đường đời,
thỉnh thoảng chị vẫn chợt buồn êm ả để thấy mình trở thành trẻ thơ như vậy.)
Vì rất giàu tình cảm nên ở bài học khô khan nhất chị cũng gợi
được lên trong lòng một hình ảnh gì.
Chị học sử thời trung cổ Pháp: “Sau khi Đại đế
Charlemagne chết (814, con là Louis bất tài nên đế quốc bị xâu xé và phân chia
làm ba: Một hoàng thân chiếm phần đất phía Đông sông Rhin tức nước Đức sau này;
hoàng thân thứ hai chiếm phần đất phía trên phía Tây gồm các sông Escaut,
Meuse, Saône, Rhône tức nước Pháp sau này; hoàng thân thứ ba chiếm khoảng giữa
tức gồm cả nước Ý sau này.”
Học đến đây chị ngồi lặng và thấy trong tưởng tượng hình ảnh
một cô gái tóc màu hạt dẻ, bất chấp cảnh loạn ly, vương quốc phân chia, đã từ địa
phận nước Ý ngày nay vượt rặng Alpes, qua sông Rhône, qua rặng Jura để sang gặp
người yêu tóc vàng đứng đợi nàng bên bờ sông Rhin.
Ngày chị đỗ Tú tài, chị cũng chạy từ ngõ vào báo tin mừng với
bà nội và chị không quên được cảm giác vừa êm đềm vừa hãnh diện khi được bà nội
ôm lấy chị và vỗ vỗ lên vai âu yếm gọi chị là “cô Tú”.
Chị lại sang báo tin đó với chú Huyện. Bằng một giọng vô cùng
trịnh trọng, chú nói với chị:
- Mày còn đỗ cao nữa con ạ, ngôi mộ tiếp phúc cụ tứ đại đối với
chú và ngũ đại đối với mày ở cánh đồng làng Tía, Hà Đông đắc địa. Tả thanh
long, hữu bạch hổ! Phía Đông tay long thật là dài, nhưng bị con sông máng
xiên chéo vào một chút nên con trai chi nhà tuy vẫn làm nên đấy mà có đôi phần
chật vật, đến tay hổ phía Tây thì đẹp hoàn toàn; mày còn đỗ cao nữa con ạ!
Rồi tất cả ông chú bà bác trong trại cũng gọi chị là
“cô Tú”. Ông anh họ chế:
Ai đi chợ Ấp qua ông
Hỏi thăm cô Tú có chồng hay chưa?
Chị thoạt cười ngượng ngập sau chị cũng liều mà đáp đùa:
Có chồng năm xửa năm xưa
Năm nay chồng bỏ nên chưa có chồng.
Ngay năm đó chị lấy chồng, một nhà luật học xuất chính. Mỗi
khi cùng chồng về trại, tới ngõ chị vẫn chạy một mạch tới bà nội trước: cụ vẫn
ngồi như thế để đón các cháu ở bên kia thị thành về. Năm đó bà nội yếu lắm, cụ
biết trước từ nửa năm là cụ chết. Giờ hấp hối của cụ, có chị ngồi bên.
Bà cô cúi xuống nói với cụ:
- Tất cả mọi việc tang ma chúng con đã chuẩn bị đầy đủ như ý
cụ đấy, cụ có dặn gì thêm không?
Cụ hơi mỉm cười tỏ vẻ hài lòng. Chị cúi xuống mắt rơm rớm hỏi
thêm một lần:
- Bà có còn dặn gì nữa không?
Chị thấy bà nội thu hết tàn lực để nói một tiếng cuối cùng:
- Thô...ô...i...i.
Tiếng “Thôi” như không phải thốt ra ở miệng cụ mà là vẳng tới
tự một thế giới nào. Rồi cụ chết. Rất bình thản! Nụ cười chờ đón con cháu còn
phảng phất trên môi. Chị không khóc nữa vì cảm thấy bà nội với nụ cười hiền hậu
của người trở vào sống vĩnh viễn trong lòng chị.
Một năm sau thầy chị mất.
Việc phân kim để mả cho bà nội cũng như cho thầy chị lẽ cố
nhiên do chú Huyện phụ trách với tất cả thành kính của ông. Chị thương mẹ từ đấy
một mình thui thủi trong dinh cơ rộng của gia đình, ông anh chị qua Pháp học từ
lâu đã thành tài mà không chịu về; còn chị, chị phải theo chồng vào Trung rồi
vào Nam. Thoạt đầu là những ngày giàu sang rực rỡ, nhưng sau chồng chị có tham
gia hội kín chống thực dân, việc bại lộ phải trốn đi nước ngoài. Chị một mình ở
lại nuôi đứa con gái đầu lòng và phải đến ở nhờ trại của gia đình một người bạn
thân, trại này gần rừng Tây Ninh bên bờ sông Vàm Cỏ Đông, cảnh trí nhắc nhở lại
một phần nào “trại của đại gia đình họ Lê”. Có những hôm máy bay thật thấp như
sà xuống dòng sông, gió như lùa vào hồn chị. Hình ảnh bà nội với nụ cười hiền hậu
hiện lên khiến những sầu muộn lo âu của cuộc đời bỗng thoảng qua như gió hè; chị
thấy tâm hồn trong suốt như con sông ập về mùa thu, gió thu thổi làm say rộn
lòng người, nhưng lại làm lắng các dòng sông; chị nhớ những bụi tre già cổ kính
rất hiền lành trong những trưa hè nắng gắt, rất thơ mộng trong những đêm trăng
sáng và rất bí hiểm - thứ bí hiểm chở che gìn giữ - trong những đêm không trăng
sao, gió rít từng hồi. Tất cả những hình ảnh đó, những kỷ niệm đó vây bọc lấy
chị như từng lớp không khí vây bọc lấy trái đất để gìn giữ sự sống nơi đây và
ngăn giữ những lực lượng phá hoại từ bên ngoài vũ trụ vào.
Chị đi dạy học kiếm thêm tiền giữ vững mức sống cho con. Chị
nhìn nụ cười của con như nụ cười của hy vọng, như nụ cười của tương lai.
Chính quyền thực dân chấm dứt, chị được gặp chồng, nhưng sự
tranh chấp địa vị cùng ảnh hưởng của các đảng phái diễn ra dưới một vẻ khác
không kém khốc liệt và còn chua xót gấp bội vì là cảnh cốt nhục tương tàn trong
lặng lẽ trong nham hiểm.
Một buổi trưa thằng Nam, phó trưởng lớp hốt hoảng chạy đến
báo tin với chị:
- Thưa cô, thằng Tiến chết rồi. Tiến là tên trưởng lớp. Chị hỏi:
- Chết chửa, sao Tiến chết ? Buổi học ban sáng Tiến có đi học
mà.
- Thưa cô nó bị bắn, nó bị xử tử, nó phản đảng.
Ối chao nói chi những câu to chuyện, xử chi quá tàn ác với một
tên học sinh còn vị thành niên?
Tội nghiệp thằng Nam mặt xanh như chàm đổ, đỉnh đầu nó có một
ụ lớn. Thoạt chị tưởng nó vỡ đầu phải rịt thuốc dấu, té ra đó là óc thằng Tiến
bắn tóe tung sang.
Rồi những cảnh đêm hôm cướp bóc, có người chỉ giắt trăm bạc
trong mình mà uổng mạng. Đàn gà năm chục con của chị bị chúng bắt giữa ban ngày
mà không dám nói gì.
Rồi tiếp tục những tin người này bị xử tử ngay trong ngục,
người kia bị xử tử ven rừng hoặc vì tội rắp tâm ở hai lòng. Tất cả những sự giết
chóc ghê gớm và công khai đó đều nhân danh tổ quốc và công lý mà làm.
Hoàn cảnh có hãi hùng, chị có gầy đi nhiều và già đi nhiều
hơn nữa, nhưng trí lực rõ ràng không hề bị mòn mỏi, chị thường xuyên được tiếp
tế sinh lực bằng nụ cười bất tuyệt của bà nội, cùng bóng mát của lũy tre ấp,
hơi mát của sông Ấp. Những hình ảnh đó đã thiết lập vĩnh cửu trong hồn chị để
trở thành linh hồn của linh hồn chị.
Nghe lời chồng, chị mang con về Bắc. Chị được gặp lại mẹ. Bà
cụ khóc từ trường bay về tới Thái Hà Ấp chỉ vì thấy con gái đen, già, xấu đi.
Đó là vào khoảng giữa năm 1953.
Một tháng sau có tin đảng của chồng chị thắng thế, anh sửa soạn
sang Pháp công cán chừng một năm. Biết chị thường thở than về việc trước đây theo
đại học dở dang, anh viết thơ hỏi chị có muốn cùng sang Âu Châu tiếp tục việc học?
Mẹ khuyên chị nên đi Âu Châu nghỉ mát ngay cho... lại người (cụ không chú trọng
đến việc học), đứa con để lại cụ nuôi. Thế là chị đi Âu Châu cùng chồng, thoạt ở
Pháp ít lâu rồi sửa soạn giấy tờ sang Luân Đôn một mình. Trước khi đặt chân vào
đất nước Anh, chị phải mở một ngân khoản tại nhà băng Luân Đôn y như phải đặt
tiền cược trước; chị phải ký giấy không được làm việc gì kiếm ra lương tại nước
Anh (trừ việc trông con thuê, các bạn bảo chị thế); chị được báo cho biết trước
trong ba năm chỉ được vào và ra nước Anh một lần... Quen nếp sống cởi mở ở nước
nhà, rồi ở Pháp, chị thoạt khó chịu trong lòng nhưng vẫn giữ được bề ngoài bình
thản, rất bình thản. Chị ghi tên vào Davie’s School theo học ban văn chương.
Trong một trò chơi viết giấy kín nặc danh, đã có bạn đồng học ghi về chị: Mrs
Placid (Bà Bình Thản).
Chẳng bao lâu mải miết với văn chương, chị cũng quên khuấy những
bực dọc nhỏ đó. Đắm mình trong thế giới văn chương, tâm hồn chị rung lên một
hòa điệu nhẹ nhàng mà thanh khiết. Chị tiếc là mình đã khám phá ra mình hơi muộn.
Dù sao - chị nghĩ - muộn còn hơn không.
Chị học cùng lớp với một bà hoàng Đông phương. Đã xa rồi những
ngày phong trần, cô độc, kinh hoàng, ngày nay chị khôi phục lại sắc dẹp thuở
trước, thuở:
Ai đi chợ Ấp qua sông
Hỏi thăm cô Tú có chồng hay chưa.
Chị đẹp mượt mà hơn bà hoàng, chị còn phóng khoáng, thảnh
thơi, hồn nhiên hơn vì không bị tù trong hàng rào vương giả.
Trong chương trình học, chị đặc biệt chú ý đến giai đoạn
hoàng kim của nữ sĩ Anh dưới triều đại Victoria, thế kỷ XIX. Chị mến George
Eliot vì bà đã khéo dạy cho thế nhân thấy rằng những tâm hồn bé nhỏ, thấp kém
cũng xôn xao vì yêu đương, cũng khổ đau vì suy nghĩ. Đọc văn Eliot, chị cảm thấy
não nề và tình thương như mở rộng để đón toàn thể nhân loại. Chị là người đàn
bà Việt Nam chừng mực, trong sáng nhưng chị có thừa trực giác bén nhạy của người
Việt để thông cảm những đam mê cuồng nhiệt tàn phá những tâm hồn đàn bà đã tự
buông mình vào vực thẳm tình ái dưới ngòi bút của Emily và Charlolte Bronté. Chị
rõ ràng thấy mình cũng đa cảm ưa đòi hỏi công bằng xã hội, cũng yêu chồng, yêu
trẻ thơ như nữ sĩ Elizabeth Barrett Browning, cũng muốn cùng Christiane
Rossetti vươn lên cõi cao cả của Đạo Đức của Trong Sạch...
Chị đã cùng các bạn đi Stralfold-upon-Avon xem kịch
Shakespeare, những vở kịch dưới hình thức quái đản mà thắm tình người. Lúc học
gần hết chương trình, chị suy nghĩ thấy mặc dầu thế sự phù du, chị vẫn có thể
chiếm lĩnh vĩnh cửu dòng đời bằng cách giữ cho tâm hồn trong trẻo như dòng sông
Ấp, thanh bình đơn giản như bóng tre ấp và hiền hòa như bà nội già không biết tự
thuở nào, suốt đời ngồi bên cửa đợi con cháu. Niềm vui như làm ấm lòng chị, mặc
dầu trời đã về chiều, khá lạnh, chị cũng ra ngã sáu Piccadilly Circus ngồi quay
lưng vào tượng Eros xem người và xe cộ đi lại như mắc cửi, cùng là nhìn những tấm
biển quảng cáo làm bằng đèn nê-ông ngũ sắc sáng rực cả ba mặt phố ngã sáu.
Tình cờ chị ngồi bên một thiếu nữ Anh. Nàng là nữ tài tử của
một đoàn ca vũ nổi tiếng dã từng biểu diễn tại hầu hết các kinh đô lớn Âu Á.
Khuôn mặt nàng hiền dịu khiến chị liên tưởng đến những vần thơ của Elizabeth
Barrett Browning. Nàng thủ thỉ nói với chị: “Tôi đi gần khắp thế giới, tôi thấy
người ở đâu cũng giống nhau, cũng những tình cảm ấy: Tình cha con, tình gia
đình, tình vợ chồng...” Chị gật đầu biểu đồng tình, rồi dịch cho cô bạn đó nghe
câu thơ bất hủ của Nguyễn Trãi viết từ tiền bán thế kỷ 15: “Cũng nhân tâm ấy,
há thiên lý nào.” Và khi một mình trên đường về, chị đã nhẩm đọc mấy lời
thơ của Elizabeth Barrett:
“Thiếp yêu chàng với lòng yêu tha thiết mà thiếp gửi theo những
kẻ thân yêu đã khuất bóng.
Thiếp yêu chàng bằng hơi thở, bằng những nụ cười, bằng những
giọt lệ của cả đời thiếp.
Và đúng với ý Thượng đế thì sau khi chết thiếp sẽ yêu chàng
hơn nữa.”
Chị đọc những câu thơ trên rất khẽ, trìu mến như đọc thơ của
chính mình và trong cùng thẳm tâm hồn, chị thấy chữ “chàng” kia không phải chỉ
riêng chồng chị mà chỉ chung cả quê hương với biết bao hình bóng thân yêu.
“Thiếp yêu chàng bằng hơi thở, bằng những nụ cười, bằng những
giọt lệ của cả đời thiếp!”
“I love thee with the breath, smiles, tears of all my life.”
Về tới phòng trọ, chị nhận được thơ của chồng từ nước nhà gửi
tới. Tình hình chính trị lại một phen thay bậc đổi ngôi. Chồng chị hoàn toàn đoạn
tuyệt với chính giới, trở về nghề luật sư. Con gái chị đã được bà ngoại mang
vào Nam cùng với làn sóng người di cư. Chị cho đó đều là những tin vui. Ba
tháng sau thi đỗ, chị trở lại Ba Lê đợi ngày về nước sum họp với mẹ, với con, với
chồng.
Trong khi chờ đợi chị có dịp đọc mấy tác phẩm của một “giáo
chủ” phái hiện sinh vô thần. Chị hãi hùng tự hỏi :
- Có thực cuộc đời bi quan đến thế?
- Có thực hiện hữu của con người và của thế giới là vô lý buồn
nôn và phiền não?
- Có thực cuộc sống lột trần chỉ là những khối kỳ quái nhão
nhoét hỗn độn trần truồng?
- Có thực là con người hậm hực với nhau, khinh ghét nhau, ghê
tởm nhau đến nỗi đi tới kết luận: “Địa ngục chính là những kẻ khác... Đao phủ
thủ chính là mỗi người trong chúng ta đối với nhau?”
Không, tâm hồn chị đã bắt rễ để được nuôi nấng tự quê hương với
dòng sông, với con thuyền, với bóng tre, với bà nội... Cuộc đời - ít nhất là với
chị - không thể thế được. Chị nhớ lại lời chồng trước đây khi phê bình về khía
cạnh không hay của văn minh Tây phương:
“Nơi đây người đã nô lệ cho cái do mình phát sinh: máy móc! Rồi
người lại kiêu hãnh dùng cái nó nô lệ mình là máy móc để nô lệ hóa kẻ khác!”
Cuộc đời ở đây buồn nôn vì thế chăng? Dầu sao những tác phẩm
kia đối với chị chỉ là cách nhìn chẻ sợi tóc làm tám, cách làm trò quỷ thuật bằng
lời. Dùng nó làm phương tiện giải trí chốc lát thì được, quá chuốc lạ mà coi đó
làm của báu tức là nhìn một thớ cây mà quên rừng, nhìn sự vận chuyển của một tế
bào mà quên cả cuộc sống hồn nhiên, toàn diện, cụ thể.
Chị đã bỏ lăn lóc mấy cuốn sách trên lò sưởi như đứa trẻ chán
xem trò xiếc và nhớ sữa mẹ.
Bỏ xem “trò xiếc bằng lời”, chị theo người quen về một vùng
quê thuộc Villeneuve-sur-Fère cách Ba Lê chừng 30 cây số. Mùa thu ở đây sao mà
đẹp, lá đỏ rực lẫn với màu táo chín.
Cuộc đời đâu có buồn nôn?
Chị gặp một cô gái má đỏ hây đẩy xe cho con đi chơi, đứa con
không chồng mà có. Mấy bà đứng tuổi âu yếm xoa má, vuốt tóc đứa bé và hỏi đùa
người mẹ trẻ: “Thế nào anh ấy vẫn mạnh chứ?” rồi cả đôi bên cùng cười xuê xoa.
Người đâu có nhất thiết tạo thành địa ngục cho nhau, nhất thiết
là đao phủ thủ của nhau?
Một tháng sau chị lên máy bay về nước. Mẹ ra tận sân bay đón
chị và ôm chị y như bà nội đã ôm chị dạo nào chị vừa đỗ Tú tài. Đứa con gái chị
chóng lớn trông thấy; khỏi phải nói nó mừng được gặp chị như thế nào. Rồi lòng
chị rưng rưng chăm chú ngắm mẹ bước đi trước, một tay của chị chồng nắm lấy còn
tay kia chị giơ ra nắm dắt đứa con.
Chị trở về nghề dạy học.
Vừa gần hết hè chị nhận được tin buồn: ông chú
- chú Huyện - ở lại ngoài Bắc đã bị mang đi đấu tố ở một nơi
xa. Họ không tổ chức đấu tố ở ngay ấp vì gần Hà Nội. Chiếc áo quan bằng gỗ vàng
tâm của ông bị phá làm bàn học bình dân học vụ, những phiến đá dự định xây
quanh mả bị khiêng ra đặt vào những quãng đường lầy lội...
Vừa dịp chồng chị phải lên Banmêthuột cãi một vụ hình tại Tòa
án đệ nhất cấp. Chị đã lên xe hơi cùng chồng trong chuyến đi đó để khuây khỏa nỗi
lòng.
Suốt dọc đường Sàigòn-Banmêthuột, mỗi khi ngừng nói chuyện với
chồng chị lại suy nghĩ về ông chú vừa bị Cộng sản dùng “nhân dân” hành xử. Chị
nghĩ đến chuyện xưa mấy lần ông ra giữa cầu Hàm Rồng sẵn sàng nhảy xuống, ông sẵn
sàng hy sinh cho sự thành đạt của con cháu. Nội dung của niềm tin có thể thay đổi
tùy nơi chốn, tùy thời đại nhưng thái độ tin ngộ nghĩnh, hồn nhiên, chân thành
đó ở vào thời đại nào và ở bất cứ đâu cũng là đáng quý. Chị tin rằng với những
vẻ đẹp đó của tâm hồn, cái chết chỉ là một biến chuyển ảo hóa. Cộng sản giết được
ông chú chị, nhưng chắc chắn không giết được ước nguyện hy sinh cho con cháu của
ông. Cộng sản phá quan tài của ông làm bàn học, quẳng những phiến đá xây mộ của
ông ra chỗ lầy lội nhưng không hủy được nấm mộ thật đẹp với những phiến đá chạm
hình nổi uy nghi do ông đã tự xây bằng khát vọng trong bao nhiêu năm thuở sinh
thời. Chú Huyện, cũng như bà nội, cũng như thầy chị, cũng như muôn vàn vẻ đẹp
tương tự không chết. Trong thế giới tâm linh huyền diệu của nhân loại, những vẻ
đẹp đó như đã từng tồn tại từ một quá khứ vời vợi nào và còn tồn tại mãi với thời
gian lang thang bất tận để biến thành những lớp sóng dạt dào của kỷ niệm.
Ngủ ở Banmêthuột, sáng sớm hôm sau chị nghe có tiếng ồn ào
bên trại lính: thì ra đêm hôm qua có con rắn lớn ở ven rừng bò vào, nằm dưới một
chiếc Jeep, thầy cai trông thấy, lẳng lặng lên xe mở máy cho bánh sau cán lên
giữa khúc rắn, các bạn đồng đội của thầy chỉ việc kiếm gậy đập nát đầu rắn. Câu
chuyện xôn xao được một lúc buổi sáng rồi dòng đời nơi đây lại thản nhiên trôi
qua với tiếng cười đùa của sĩ quan, của binh lính, với tiếng máy xe Jeep, xe
GMC nổ rộn ràng, với mùi ét-săng khét nồng... Cái chết của con rắn -
cũng như cái chết của biết bao kẻ bất nhân khác trên cõi đời - chẳng còn để lại
một tiếng vang nào khác trong lòng người. Sự kiện tầm thường này xảy ra đúng
lúc đã giúp chị khám phá được lẽ huyền diệu của sinh tử. Tâm hồn chị mở rộng ra
và vững chãi hơn.
Công việc biện hộ tại tòa án xong ngay buổi sáng hôm ấy. Buổi
chiều chị theo chồng lên xe đi thăm một người bạn Đại úy Tiểu đoàn trưởng ở
cách Banmêthuột năm cây số trên con đường vào hồ Lạc Thiện. Câu chuyện bằng hữu
hàn huyên mãi đến hai giờ sau mới có thì giờ ra ngắm địa điểm quanh vùng.
Đại bản doanh đóng ngay trên đỉnh một ngọn đồi mà người dân
quanh vùng lấy ngay tên của tiểu đoàn để gọi: “Ngọn đồi Tiểu đoàn 5”. Ngay trước
mặt chị là một khoảng rừng cỏ cao tới ngang ngực. Khoảng rừng cỏ đó có mất hút
ngay vào cả khoảng rừng mênh mông trọn vẹn bao trùm lên các đồi thoai thoải, từng
đám rộng những bông cúc rừng đua nổ, từng bông như hình bông thược dược nhưng
cánh hoa vàng ươm. Chính thứ cúc dại mọc khắp các nẻo cao nguyên vào dạo này
làm thành một màu sắc mùa thu ít nơi rõ rệt bằng. Chị được một người lính cho
biết thứ cây đó lại là món ăn ưa thích của loài nai nên ngay từ chập tối ở trại
lính này đã có thể nghe thấy tiếng nai kêu. Chị ngửng nhìn vòm trời: một màu
vàng tía bao la như đương muốn sà xuống ôm gọn lấy cả vùng rừng núi cao nguyên.
Chị theo dõi một bóng mây hiền trôi về phía mặt trời lặn, đẹp một vẻ đẹp hoang
vu mà huy hoàng.
Khoảng rừng thấp chạy dài theo dòng suối dưới thung lũng bắt
đầu chìm dần vào màu sương bạc vào con đường mòn đất đỏ vắt qua lưng đồi cao gần
đấy chỉ còn là một nét quanh co mơ hồ.
Đã có tiếng nai kêu thì phải. Ánh hồng lưu luyến trên đỉnh trời
tự xoá nhòa trong cái thăm thẳm của vũ trụ như một ý niệm về hỉ xả. Trong ánh
chiều chạng vạng, đỉnh đồi chị đương đứng như cao lên khiến tay chị có thể với
chạm sao. Gió chiều thổi lộng và chị nghĩ rằng tóc chị giờ đây đương phơ phất
cùng một nhịp với mái tóc cỏ hoa của trái đất trong nhịp đi hải hà của vũ trụ.
Trong giây phút thần kỳ đó, chị bỗng thấy mình đẹp tuyệt vời vì tâm hồn đã qui
tụ được vào điểm khởi đầu của vũ trụ y như chú Huyện đã gặp được lúc thần long
há miệng để lao mình xuống dòng sông Mã. Phải tâm hồn chị đã quy tụ được vào điểm
khởi đầu của vũ trụ, rồi tự điểm nguyên thủy đó hương nhân loại lâng lâng tỏa
ra bốn phương tám hướng vô cùng với không gian, vô tận với thời gian.
Chị nghĩ rằng kể từ đấy, chị sẽ đẹp mãi mãi.
Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều
Quê tôi cách Hà Nội chừng 5 cây số. Khi cuộc kháng chiến toàn
quốc bùng nổ thì gia đình tôi tản cư lên Nhã Nam thuộc huyện Yên Thế, Bắc
Giang.
Đến năm 1948, khi cậu tôi từ Vĩnh Yên lên thăm chúng tôi lần
đầu thì toàn thể gia đình tôi ai nấy đã có màu da nửa vàng nửa xám xịt vì sốt
rét rừng.
- Anh chị phải cho các cháu tản cư về mạn dưới như chúng tôi
- lời cậu tôi nói với thầy mẹ tôi - chứ cứ như thế này thì không chết cũng chẳng
còn ra hồn người nữa.
Sau ngót hai năm tản cư gia đình tôi khánh tận rồi. Có lẽ vì
nghĩ vậy nên thầy mẹ tôi tìm cách nói khác:
- Ngày xưa vùng Yên Thế Thượng này độc thật, nhưng nay vì có
nhiều người lên khai phá nên khí hậu cũng không đáng ngại lắm.
Cậu tôi không chịu:
- Anh chị về Vĩnh Yên gần chúng tôi cho có anh có em, vừa
tránh được nạn sốt rét rừng, vừa có cơ buôn bán khá (dạo đó Vĩnh Yên còn là cửa
ngõ của việc thông thương giữa Liên Khu III với Việt Bắc).
Rồi cậu tôi về Vĩnh Yên. Hai tháng sau người lại lên, nhất
quyết đón gia đình tôi xuôi, nói là nơi ăn chốn ở đã thu xếp đâu vào đó cả.
Thế là gia đình tôi xuôi Vĩnh Yên. Còn một mình tôi ở lại Sở
Thông tin Liên khu I. Công tác của tôi là đi tuyên truyền mười điều kháng chiến
trong toàn huyện Yên Thế. Vì lưu động như vậy nên tôi cũng quên đi nỗi buồn gia
đình phân cách đôi nơi. Nỗi buồn đó chỉ đến thắc mắc lòng tôi mỗi khi trở về trụ
sở kiểm điểm công tác. Trụ sở Thông tin ở một làng bên tả ngạn sông Thương, gần
một bến đò đẹp vào bậc nhất Bắc Giang: bến đò Lục Liễu. Để tăng phần thơ mộng
cho cái tên đó tôi vẫn thường dịch nôm là “Bến đò liễu xanh”.
Thơ của em tôi tới báo cho hay gia đình đã tới tản cư cùng
làng với gia đình cậu mợ tôi. Làng đó ở ngay bến Rau, bên này là Vĩnh Yên bên
kia là Sơn Tây, rất thuận tiện cho việc buôn bán.
Rủi thay, thầy mẹ tôi vừa đến Vĩnh Yên thì quân Pháp mở chiến
dịch càn quét khắp vùng Sơn Tây, rồi thiết lập thêm đồn quân dọc theo hữu ngạn
sông Hồng từ Sơn Tây ngược lên đến Việt Trì. Các ngả đường giao thông với Liên
khu III đều bị quân Lê Dương phục kích ráo riết.
Cậu tôi đã rơi vào ổ phục kích của chúng, dấn vốn khánh tận
may thoát được người. Mẹ tôi phải ngưng chuyện buôn bán.
Nghe nói làng N.H. bên hữu ngạn sông Đáy gần chân dãy núi Tam
Đảo là một làng trù mật, buôn bán dễ, gia đình tôi bèn thuyên chuyển đến đây
theo sáng kiến của mẹ tôi. Khi tới nơi, mẹ tôi mới thấy rằng mình đã lầm. Trước
đấy một năm thì địa điểm này buôn bán được vì hầu như dân chúng toàn hạt Vĩnh
Yên đổ xô về để tránh Pháp tấn công, nhưng nay tình hình tạm yên ai nấy trở về
chốn cũ, địa điểm N.H. trở lại vẻ trầm mặc của chốn chuyển tiếp giữa vùng trung
du bên dưới với vùng đèo heo hút gió bên trên.
Vừa lúc đó tôi xin thôi ở Sở Thông tin về.
Mẹ tôi mừng lắm vì người vẫn thường nói: “Thời loạn lạc gia
đình nên gần nhau, nhỡ có thế nào...” Hình như trong óc người - có thể nói trong
óc mỗi người trong gia đình tôi - đều luôn luôn lo sợ cảnh một người bị chết vì
bom đạn rồi mất xác vì gia đình không kịp biết để nhìn nhận. Niềm vui đoàn tụ
giúp chúng tôi bớt buồn nản khi thu xếp gồng gánh trở lại huyện Yên Lạc. Lần
này, gia đình tôi không dám ở gần bến đò Rau nữa vì sợ phi cơ oanh tạc, mà ở một
làng cách huyện Yên Lạc chừng gần một cây số.
Gia đình cậu tôi ở ngay làng bên. Lẽ cố nhiên cả hai gia đình
chúng tôi cùng nghèo túng lắm, nghèo túng đến nỗi cậu mợ tôi, thầy mẹ tôi cùng
không dám sang thăm nhà nhau, chỉ chiều chiều ra gặp nhau trên quãng đường đá nối
huyện Yên Lạc với bến đò Rau.
Tôi gặp lại người yêu cũ từ Phủ Lý (Khu III) chạy lên. Chúng
tôi thành vợ chồng, tuy có ký giấy tờ tại Ủy ban Kháng chiến Hành chính Huyện -
cậu mợ tôi là những người làm chứng - nhưng đám cưới hoàn toàn êm ả y như một
đám cưới vụng trộm.
Em gái lớn tôi xoay đi buôn gạo, ngày ngày kĩu kịt đi về 20
cây số kiếm chút lãi. Ở Yên Thế, tuy bị sốt rét nhưng nhà ở giữa rừng ít lo bị
địch tấn công bất ngờ; tuy cũng nghèo túng nhưng còn có đất rộng để tăng gia
rau cỏ và nuôi được lợn gà.
Về đây những buổi ăn cháo ngô trừ bữa, mẹ tôi thường có ý
khép cửa giữa lại.
Em gái tôi đã phải đi chợ thật xa để đong gạo rẻ mà rồi tính
ra lời lãi cũng chẳng được là bao. Các cụ giải thích hiện tượng kinh tế này bằng
câu: “Thóc gạo có tinh.” Mẹ tôi làm tương, gánh đi các chợ xa bán để kiếm tiền
thêm. Vợ tôi tạng người yếu nhưng khéo tay, không làm được việc nặng, nàng phụ
trách những việc nhẹ như rang đỗ tương, ủ mốc, pha muối vào nước tương...
Dạo đó trường Luật mở ở gần chợ Me (Vĩnh Yên), tôi có ghi tên
theo học hết năm thứ ba, hy vọng thành tài sẽ ra thẩm phán, đồng lương họa có
cao để giúp gia đình. Vì hoàn cảnh kháng chiến, các giáo sư thường từ nơi xa lại
trường sở dạy liền trong mấy ngày, sau đó sinh viên tìm tài liệu tự nghiên cứu
thêm. Có khi thời gian nghiên cứu lấy dài hơn một tháng mới có giáo sư mới. Tôi
triệt để lợi dụng khoảng cách này để bon về giúp đỡ gia đình những công việc nặng.
Mùa đông năm đó rét lạ lùng. Gió hun hút giật từng cơn, quết
như dao cắt từng mảnh thịt hở, thế mà hôm nào mẹ và em gái tôi cũng phải dậy từ
bốn giờ rưỡi sáng để sửa soạn gồng gánh ra đi. Quần áo và chăn chiếu của gia
đình tôi thiếu rất nhiều. Thằng em thứ ba của tôi có được cái chiếu rách mướp vừa
nằm vừa đắp, chân thò ra ngoài thì nó lấy rơm phủ lên.
“Ấy cứ thế mà ấm ra phết anh ạ!” - Nó vừa cười khoái chí vừa
nói với tôi như vậy.
Các em trai em gái của tôi đã lớn cả, chúng tôi hầu như thường
xuyên thi đua trong việc nhường nhịn nhau. Mẹ tôi chỉ còn thắc mắc về thằng em
út của tôi. Nó mới lên bảy, còn nhỏ tuổi quá chưa thể tìm nguồn vui tinh thần để
quên đói rét, nhất là rét. Tương đối với cả nhà nó được mặc lành nhất. Nó mặc
cái áo đỏ chót có những vệt chữ nho đen và những đường kim tuyến (nguyên đó là
chiếc câu đối người ta phúng bà tôi hồi chưa kháng chiến). Câu đối đỏ thì may
áo, còn nẹp sa-tanh vàng mẹ tôi gạn may thêm cho nó chiếc áo di-lê. Chúng
tôi gọi đùa nó là “anh cờ đỏ sao vàng”. Đêm đến rét quá không đủ chăn ấm, nó
thường khóc khậm khạch. Chỉ cần có thêm đôi chiếu nữa thì cả nhà đủ ấm.
“Chiếu cói kỵ gió.” - Mẹ tôi nói thế.
Nhưng đến ăn còn chẳng đủ làm sao chúng tôi mua được đôi chiếu
bây giờ?
Hôm đó, suốt từ sáng sớm đến trưa, phi cơ bay từng đoàn bắn
phá và giội bom liên tiếp xuống các chợ lân cận: chợ Me, chợ Vàng, chợ An Lạc...
Mọi ngày chỉ khoảng bốn giờ chiều mẹ tôi đã có mặt ở nhà, ngày đó trời đã xế
chiều mà người vẫn chưa về. Toàn thể gia đình tôi bắt đầu sốt ruột tuy không ai
nói một câu.
Chiều ngả màu sẫm. Gió bấc rít trong bụi tre già làm nền cho
tiếng khàn khàn của của lũ quạ lục đục trong tổ, gió bấc xoáy từng vòng cuồng
loạn dứt từng vốc lá bưởi vàng úa rồi lại nhào vút mất hút ra ngoài cánh đồng
bát ngát và hiu quạnh.
Mẹ tôi vẫn chưa về.
Trong óc tôi thoáng hiện những cảnh chợ bị phi cơ tàn phá, những
hình người không kịp xuống hầm bị đạn chết gục bên cột lều tay còn quờ ôm những
đồ hàng của mình, những hình người bị bom napalm thiêu rụi như những
thân chuối cháy đen... Và tôi vùng ra cổng.
Thầy tôi biết ý hẹn với:
- Con cứ thẳng đường ra bến Rau, mẹ con thường về đường ấy.
Ra tới cổng làng, tôi đi như bay theo đường đã định, cổ họng
nghẹn ngào, dạ cồn lên như lửa đốt. Con đường như rộng thênh thang cánh đồng ngập
trong bóng chiều xẩm và trong gió bấc, càng trở thành mênh mông. Tôi vun vút nhảy
qua các hố phá hoại mà đi như một bóng ma cô độc đương muốn biến theo luồng
gió.
Từ xa như có bóng người đi lại. Chắc người đó ở chợ Rau về. Để
tôi phải hỏi tin tức về việc phi cơ địch oanh tạc hôm nay.
Hình như trên đòn gánh người đó có vắt ngang một cái gì.
Tôi lướt vội lên. Trời ơi, mẹ tôi!
Hai mẹ con mừng mừng tủi tủi như gặp nhau ở cửa âm ti.
Tôi hỏi: “Sao mẹ về muộn quá thế, cả nhà lo tưởng phát điên
lên.” Mẹ tôi cho biết hàng hôm nay bán ở chợ không hết, người phải đi sâu vào một
vài làng lân cận để bán nốt. Rồi khi xuống khỏi đê, qua cái lạch lớn, thấy có
chiếc chiếu trôi, vội tìm cách vớt lên và giặt luôn bên lạch. Đó là một chiếc
chiếu còn khá tốt tuy chiều rộng bị xén đi mất một phần ba.
Mẹ tôi chỉ vào chiếc chiếu phơi trên đòn gánh nói:
- Về đến nhà thì chiếu vừa khô con ạ. Tối hôm nay thằng Tư -
tên thằng em út tôi - có được chiếu đắp ấm.
- Mẹ ơi, “giàu con út, khó con út”, mẹ chẳng để ý gì đến
chúng con, chỉ chăm chút cho chú Tư thôi.
Mẹ tôi đi trước, gió ngược chiều nên tiếng tôi mất hút về
phía sau. Tuy nghe tiếng được tiếng không, nhưng mẹ tôi vẫn hiểu câu nói đùa.
Người vừa giữ cái chiếu vừa quay nhìn tôi mỉm cười.
Tối hôm đó khi đi ngủ thằng chú Tư được mẹ tôi đắp cho chiếc
chiếu vớt ở lạch. Chân nó thò ra một tí khiến tôi nhận thấy chiếc bít tất cũ
vàng xỉn của tôi, chỗ đầu rách được buộc túm lại để các ngón chân xinh của nó
khỏi “thoát ly” ra ngoài.
Dạo đó chỉ còn một tháng nữa là Tết. Tôi lại có dịp tạm rời
trường Luật, đợi đến qua Giêng mới có giáo sư. Tôi về vừa đúng lúc gia đình
đương cần nhân công xay thóc giã gạo. Dấn vốn của gia đình tôi còn đong được
năm nồi thóc. Dùng số tiền đó làm tiền đặt mẹ tôi có thể đong về được tám nồi.
Theo như mẹ tôi phác tính, mỗi nồi thóc làm được lợi ít ra là hai ca gạo, vị
chi với tám nồi thóc, chúng tôi sẽ lợi ít nhất là một nồi rưỡi gạo. Cứ như vậy
mà đủ việc liền trong một tháng, nghĩa là vừa đến Tết, thì chúng tôi có thừa tiền
đong gạo nếp gói bánh chưng và mua thịt cá để đón một mùa xuân kháng chiến
tương đối huy hoàng.
Chúng tôi ngoại giao ổn thỏa với các nhà có cối xay, cối giã
rồi bắt đầu vào việc. Thầy tôi trông nom mấy đứa nhỏ sửa soạn cơm nước. Tôi và
thằng em trai xay thóc trong khi mẹ tôi điều khiển vợ tôi và cô em gái sàng gạo.
Xay hết thóc chúng tôi đã có gạo đem đi giã, giã đến đâu mẹ và em tôi sàng tấm,
sẩy cám đến đấy. Trong khi xay thóc, tôi nhẩm ôn các đạo luật, các án lệ để sửa
soạn kỳ thi cuối niên khóa. Khi giã gạo với vợ, tôi cùng nàng thủ thỉ xây mộng
tương lai. Ngày kháng chiến thành công hẳn chúng tôi đã có những đứa con kháu
khỉnh, đã trở về quê hương dựng lại căn nhà xinh, sống tự do bình dị trong tổ ấm
gia đình.
Ngày đầu chúng tôi làm được tám nồi thóc với số gạo dư là hai
nồi. Một cụ già ở đấy gật gù nói: “Vạn sự xuất ư nho, đúng thật. Học trò thì
cái gì cũng làm được. Cứ bảo người Hà Nội không chịu được lam lũ!”
Ngày hôm sau có tin quân Pháp đánh lên Vĩnh Yên. Những người
có thóc giữ lại. Mẹ tôi phải vất vả lắm mới mua được bằng giá khá cao sáu nồi
thóc để chúng tôi có việc làm.
Quân Pháp chiếm Vĩnh Yên, tiền Hồ Chí Minh sụt giá vùn vụt. Vẫn
số tiền cũ, giờ đây chưa chắc mẹ tôi mua nổi bốn nồi thóc.
Quân Pháp theo sông đào tiến lên chiếm chợ Me. Dân chúng xao
xác chuẩn bị chạy. Số tiền trong tay mẹ tôi hầu trở thành giấy lộn. Chúng tôi
ăn một bữa quà bánh đúc, lúc trả tiền thấy vợi hẳn túi. Viễn ảnh những ngày đầu
xuân có gạo nếp. có thịt gà, thịt lợn bị dập vùi trong khói súng và biến thành
một điểm kỷ niệm mong manh chết đuối giữa cảnh tàn phá rùng rợn của bom đạn tơi
bời, cha lạc con, vợ lạc chồng, anh em tán loạn mỗi người một phương.
Dạo đó tuy đã có phong trào “rèn cán chỉnh cơ” nhưng chưa có
cố vấn Tàu, chưa có chính sách “ba cùng” học tập đấu tố, nên mặc dầu kinh tế
nguy ngập, ai nấy vẫn tin tưởng ở ngày mai huy hoàng của dân tộc, tin tưởng ở
thắng lợi cuối cùng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của già Hồ (như lời loa tuyên
truyền phát thanh chiều chiều).
Sang hạ tuần tháng Chạp, suốt ngày mưa phùn gió bấc lạnh như cắt
ruột. Không hiểu là vì rét nhiều hơn hay vì chúng tôi đã bắt đầu giảm khẩu phần!
Chiếc chiếu mẹ tôi vớt ở lạch đắp cho thằng em út đã rách xơ xác. Trong khi gia
đình tôi giật gấu vá vai tìm cách nhường nhau miếng cơm manh chiếu thì xảy cuộc
hỗn chiến giữa quân đội Pháp và quân đội kháng chiến ở chân núi Tam Đảo. Để giữ
vững ưu thế quân sự về mình tại mặt trận Vĩnh Yên, tướng Pháp De L. quyết định
hy sinh đoàn quân hắn, và hạ lệnh cho thả bom tận diệt đôi bên.
(Trong cái đinh ba của một cuộc thế lọc lừa phản trắc, người
ta giày xéo lên tình người, điềm nhiên hy sinh xương máu đồng bào đồng loại nơi
này cho quyền lợi thực dân, nơi kia cho học thuyết giai cấp. Tôi không ghê tởm
những bộ mặt lãnh tụ của chúng sao được?)
Từ chân núi Tam Đảo, quân Pháp đánh tỏa ra ba mặt, đồng thời
từ hữu ngạn sông Hồng, một toán Lê Dương vượt sang càn quét bến Rau ở tả ngạn.
Dân chúng từ bốn mặt chạy về huyện Yên Lạc, đổ xô vào các làng. Mẹ tôi bèn thổi
cơm hàng gánh đến bán cho họ.
Trong số rất đông các người ở làng Rau mang đồ đạc chạy đến
làng Lũng Thượng, có gia đình ông Lý Cựu vốn là bà con với ông chủ nhà nơi tôi
tản cư. Ông Lý nói chuyện với thầy tôi rất tương đắc, nhất là khi ông biết tôi
đương học trường Luật sắp thi ra thẩm phán.
Ông nói:
- Tôi có thằng cháu năm nay lên sáu; giời cho làm người, sau
này kháng chiến thành công, tôi nhất định sẽ gửi cháu lên Hà Nội phiền ông, bà
và cậu Cả trông nom giúp cho thành người.
Quân Pháp sau khi từ chợ Me vượt qua sông Đáy tiến sâu vào huyện
Lập Thạch đốt phá một ngày rồi rút lui về tỉnh. Cánh quân tiến sang tả ngạn
sông Hồng đốt phá bến đò Rau cũng rút về vị trí cũ bên hữu ngạn. Dân chúng chạy
loạn lục tục đâu trở về đấy ngay để còn kịp sửa soạn Tết.
Làng Lũng Thượng trở lại yên tĩnh.
Trưa hôm đó mẹ tôi ra phía bụi tre đầu nhà thấy cong queo dưới
hầm trú ẩn một chiếc chiếu hoa cạp điều. Đúng là chiếc chiếu của một gia đình
chạy loạn nào khi về mừng quá bỏ quên.
Mẹ tôi nói: “Thôi thế cũng là giời thương mà cho nhà mình!”
Đã lâu lắm, đêm đó tôi mới được thấy thằng em út tôi có chiếc
chiếu đắp kín chân không trông thấy đôi bít tất buộc túm chỗ rách. Sáng ra, mẹ
tôi cẩn thận gấp chiếu rồi vắt lên chiếc dây thừng căng cao ngang mái nhà. Thế
là từ đấy đêm đêm nghe tiếng gió rít và những hạt mưa táp vào đầu hồi tôi cũng
yên chí cho các em đã tạm đủ chiếu nằm, chiếu đắp. Hai ngày sau, tới buổi sớm
ba mươi Tết, khi sực tỉnh, tôi thấy không khí trong làng có vẻ tưng bừng hơn vì
những tiếng bàn tán xôn xao xen với tiếng cười ròn rã ngoài đường xóm. Tôi vùng
dậy ra thẳng ngõ. Trời tuy lạnh ngọt nhưng quang đãng và êm ả vô cùng. Tôi gặp
mọi người, mắt ai nấy sáng ngời tin tưởng. Thì ra ở khắp các tường làng đều đã
kẻ khẩu hiệu:“Chuẩn bị tổng phản công.”
Đồng bào thủ đô bàn nhau ngày về nhận nhà nhận cửa, đồng bào
địa phương hơi có vẻ ngậm ngùi tưởng như giờ phút chia tay đã điểm.
Buổi trưa hôm đó, ông Lý Cựu từ làng Rau mang theo vài thứ xa
xỉ phẩm làm quà biếu ông chủ nhà vào dịp Tết. Ông Lý Cựu có xuống căn nhà dưới
thăm thầy tôi. Câu chuyện vừa xong phần xã giao thường lệ thì ông ngửng nhìn thấy
chiếc chiếu hoa cạp điều vắt ở dây thừng, ông đứng nhỏm dậy chạy lại kéo tuột
xuống nói gọn:
- Chiếc chiếu này của tôi!
Mẹ tôi chợt có một cử chỉ phản ứng, y như sự phản ứng của một
người mẹ gìn giữ con trong cơn nguy biến.
Người nói:
- Ấy chiếc chiếu đó của nhà tôi...
Mẹ tôi vốn là một Phật tử trung thành. Người chỉ nói được đến
đấy thì lương tâm Phật tử trở lại và người lúng túng quay nhìn ra ngõ.
Ông Lý Cựu thản nhiên gấp chiếu lại, cắp gọn dưới nách rồi thản
nhiên nói:
- Không, chiếc chiếu của tôi. Tôi mua đôi chiếu cạp điều này
từ năm mới tác chiến, một chiếc còn trên kia.
Thì ra đôi chiếu đó, ông Lý mang đến gửi ông chủ nhà trong dịp
vừa qua, rồi những người đến chạy loạn tự động mượn đem ra trải ở bụi tre nghỉ
tạm. Lúc về vì chiếu rơi xuống hầm trú ẩn nên họ quên không trả lại chỗ cũ.
Tuy chỉ một thoáng qua nhận biết hết sự thể là vậy nhưng tôi
vẫn chưa chịu và tiếp lời mẹ tôi:
- Chiếc chiếu này mẹ tôi mua của một người ở chợ Lầm. (Ý tôi
muốn nói người đó lấy chiếu ở đây mang ra chợ Lầm bán.)
Ông Lý vẫn thản nhiên, thản nhiên một cách cương quyết:
- Không, chiếc chiếu này của tôi!
Rồi ông cắp chiếu đi thẳng lên nhà. Lúc đó vợ tôi cũng vừa trở
lại với tôi để nhớ ra rằng cuối năm nay tôi đã thi xong, có thể ra thẩm phán.
Tôi thoáng nghe phía sau tiếng vợ tôi thở dài rồi quay vào buồng.
Tối hôm đó khi thấy tôi lấy chiếc chiếu rách cũ vớt ở lạch đắp
cho thằng em út, mẹ tôi chép miệng nói khẽ:
- Thôi, sang Giêng trời bất đầu ấm, vả lại cũng sắp tổng phản
công rồi!
“Vả lại cũng sắp tổng phản công rồi!” - Mẹ tôi nghĩ thật
chí lý. Tổng phản công để bờ cõi được vinh quang độc lập, để mọi người được trở
về dựng lại quê hương yên vui.
Tôi hiểu khi đó hầu hết các gia đình khác, cũng như chúng
tôi, chịu đựng bao nhục nhằn với những phút sa ngã nhỏ như chuyện chiếc chiếu
hoa cạp điều. Tất cả những hy sinh đó - kể cả khi hy sinh một chút ít danh dự
do sự yếu đuối thường tình của con người - tuy dằn vặt, ray rứt mà không tàn
phá nổi niềm vui trong sáng, thanh thản của tâm hồn, vì ai nấy sống ngợp hy vọng
một ngày mai vinh quang.
Sớm mùng một năm đó, mẹ tôi ra chùa lễ. Người quỳ rất lâu trước
bàn thờ Phật. Giọng người thành kính thiết tha cầu đức Phật phù hộ cho chóng trở
lại yên bình, gia đình được qua thì đói, khỏi thì loạn.
Tiếng người khấn đôi khi nức nở. Tôi nghe, nước mắt muốn trào
ra.
Cộng sản dìm nhân loại trong thiếu thốn để chứng minh nguyên
lý “Vật chất quyết định hết thảy”. Chúng lầm! Con người càng từng trải cảnh thiếu
thốn vật chất, niềm tin vào đạo đức càng được hun đúc và tình cảm thêm dạt dào.
Sau này khi về vùng quốc gia, rồi di cư vào Nam, tôi còn trải
qua nhiều gian lao nghèo túng và nhiều lần bị khinh rẻ, nhưng dù nghèo túng đến
đâu, dù bị khinh rẻ đến đâu, điều đau nhục nhất đối với tôi vẫn là chiếc chiếu
hoa cạp điều, tuy thực tình câu chuyện chỉ giản dị có vậy.
Cách đây ít lâu khi mua được đôi chiếu hoa Phát Diệm ở đường
20 về trải lên phản cho con nằm, tôi thấy vợ tôi chợt úp mặt vào hai bàn tay
trước bàn gương. Có lẽ nàng nghĩ đến câu chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều khi
xưa. Chuyện đó như biến thành chiếc phao sẫm màu, bất chấp mọi giông tố vẫn nổi
lềnh bềnh trên biển, biển thời gian của đời, biển kỷ niệm của hồn. Cũng kể từ
sau ngày xảy ra chuyện đó, thái độ của tôi đối với người đời khác xưa nhiều.
Tôi thận trọng tránh mọi thái độ hẹp hòi, ích kỷ, sắc cạnh. Lòng dễ xúc động,
tôi thương người như thương chính thân mình vậy. Tôi thương những em nhỏ sớm phải
lăn lưng vào cuộc đời để tự nuôi sống, tôi thương những người đói khát ham ăn
ham uống, tôi thương những hình ảnh lam lũ một sương hai nắng, những hình ảnh
nghèo túng giật gấu vá vai, tôi thương những kẻ thù dân tộc hôm qua, ngày nay
thất thế ngơ ngác đi giữa kinh thành.
Ở thế giới thực dân tư bản người ta tung vật chất ra để giam
lỏng linh hồn; ở thế giới thực dân Cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua
rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng ảnh
thương yêu rộng rãi và chân thành.
Thấy tôi hằng kiềm chế được nóng giận và nhất là vẫn mỉm cười
khi ứa nước mắt, các bè bạn thân thường khen tôi có thái độ hồn nhiên của Trang
Chu.
Các bạn yêu quý của tôi!
Các bạn có ngờ chăng thái dộ hồn nhiên đó là kết quả của biết
bao cảnh cơ hàn mà tôi và những người thân của tôi đã trải qua, trong đó có
truyện CHIẾC CHIẾU HOA CẠP ĐIỀU!
Gìn Vàng Giữ Ngọc
Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Nguyễn Du
Tôi và Huân mến nhau nhiều và tình thân của chúng tôi bền bỉ!
Huân lấy cô em họ tôi và hơn tôi tới mười tuổi, nhưng chúng
tôi không coi nhau như anh vợ em rể mà như hai anh em ruột. Trong những năm sa
sút, chỉ với Huân là tôi có thể đàng hoàng kể cảnh nghèo của gia đình mình.
Trong những ngày đen tối nhất của sa sút - vụ đói tháng ba năm Dậu - tôi chỉ có
thể điềm nhiên ngồi vào mâm cơm với gia đình Huân mà không một chút mặc cảm và
chỉ với Huân tôi mới có thái độ rất “buông xuôi”: nhận mà không hề lo việc trả.
Sở dĩ vốn tính hay thắc mắc mà với Huân tôi dám vậy vì căn bản tình thân của
chúng tôi hoàn toàn xây dựng trên sự thành thực. Giá trị không ở vật trao hay
người trao, chúng tôi chỉ thấy cả hai chúng tôi cùng xứng đáng với nhau vì kẻ
trao người nhận đều rất thành thực.
Tôi nghĩ: “Thành thực là một chuyện dễ, có được hoàn cảnh cho
mình thành thực một cách thoải mái - như trường hợp tôi với Huân - đó mới là
chuyện khó.”
Ấy thế mà đã có một lần tôi không thành thật với Huân. Nhưng
khoan, các bạn hãy nghe chuyện những ngày tôi mới hồi cư gặp Huân đã.
Huân vào thành trước tôi hai năm, đúng vào dịp buôn bán dễ
nên khi tôi gặp lại Huân tại phố Chợ Hôm Hà Nội thì Huân đã có ô-tô, có nhà và
vừa gửi mua từ Pháp về cho cô “trưởng nữ” Thu Hương - con cháu lớn của tôi năm
đó vừa lên mười bốn - một chiếc piano à queue tuyệt đẹp.
Huân nói:
- May quá anh về thật đúng lúc. Tôi không sành nhạc cho lắm
nên cũng chẳng hiểu có nên chọn cho cháu học một nhạc sư người Ý ở gần chùa
Quan Thánh hay không?
Tôi rất thành thực mà bảo Huân:
- Tôi chơi piano không cừ, nhưng trước đây tôi được
may mắn học một bà người Pháp rất giỏi về khoa sư phạm dạy dương cầm. Bà bỏ Hà
Nội về Pháp ngay sau cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945. Bây giờ cho cháu học
người Ý cũng được, nhưng giỏi lắm cũng chỉ đến hai giờ một tuần. Học đàn, bước
đầu là bước tối quan trọng phải hết sức chuyên cần mới được. Vậy không gì hơn
là tôi đích thân hàng ngày trông nom cho cháu trong mấy tháng đầu.
Huân hơi có vẻ ngần ngại nói:
- Anh từ trong quê, ngày ngày lóc cóc đạp xe vượt năm cây số
ra đây để dạy cháu thì vất vả quá.
Tôi bảo Huân, giọng nồng nàn:
- Cậu đừng ngại việc đó. Lẽ nào cậu vào thành trước tôi hai
năm mà đã mất lòng tin ở sự thành thực của nhau rồi sao?
Huân vội vã gật đầu:
- Được rồi, thế anh nhất định vào giờ nào để tôi đánh xe về
chờ ở quãng đường rẽ vào làng.
Tôi gạt đi:
- Thôi vẽ! Người có phải là máy đâu mà ngày nào cũng như ngày
nào đúng giờ đó thì có mặt ở đó. Xin cậu cứ yên chí về công việc này, mặc tôi!
Chỉ thoáng một giây suy nghĩ, rồi Huân gật đầu liền:
- Thôi được tùy anh.
Tôi vào phòng trong xét lại đàn, lên lại mấy dây sai, rồi
giao hẹn Huân:
- Tôi dạy cháu bắt đầu từ sáng mai, khoảng bảy, tám giờ gì
đó.
Vâng - Huân đáp - lát nữa cháu ở quê ra, tôi sẽ bảo cháu.
Vì tôi thuộc loại “Việt Minh qui thuận” nên Nha Công an Bắc
Việt chỉ cấp giấy thông hành tạm thời, hàng tháng phải tới bàn giấy phòng Tổng
thư ký trình diện. (Tuy tôi về quê, nhưng vẫn khai ở nhà Huân để lấy căn cước
Hà Nội cho dễ đi lại sau này.)
Cũng vì tôi chưa có thẻ căn cước nên việc xin bổ nhiệm giáo
sư tại một trường công không thành. Trong khi đó, sáng sáng tôi vẫn đến dạy piano đều
cháu Hương và chiều chiều đi dạy lớp riêng cho một tư gia. Số tiền kiếm ít đến
hầu như có thể coi là không có gì.
Có những buổi trưa tôi ở lại ăn cơm với Huân, có những buổi
chiều tôi bị Huân giữ lại để ăn cơm xong là đi xi-nê toàn gia, nhất là khi có
phim về âm nhạc như Passion immortelle tả đời Schumann, La
Chanson du souvenir tả đời Chopin, Casta Diva - phim cũ chiếu lại
- tả đời Bellini v.v..
Nhàn, vợ Huân, rất tinh trong việc thoáng nhận điều gì khác
thường.
Ngay bữa cơm thứ hai tôi ăn với gia đình Huân, Nhàn đã nói:
- Quái anh Sơn có điều gì suy nghĩ mà lắm khi giữa bữa ăn anh
bỗng thần người ra.
Tôi chối:
- Cô chỉ nói bậy, tôi thì còn có chuyện gì nữa.
Từ đấy nhiều khi giữa bữa ăn tôi có chót thần người thì vội
làm ra tỉnh táo ngay nhưng chẳng lần nào thoát khỏi sự quan sát của cô em gái.
Huân thường gạt lời vợ:
- Em nên nhớ anh Sơn bỏ ngoài kia vào đây cũng để tránh những
thái độ soi mói vào đời tư một cách bất lịch sự, vô chính trị như vậy.
Sự thực mỗi khi ăn cơm với Huân tôi thần người như vậy vì tôi
nghĩ đến một bữa cơm ở hậu phương, gần ba năm trước, tôi đã không thành thật với
vợ chồng Huân.
Cuối tháng Chạp 1945, gia đình tôi và gia đình Huân cùng tản cư
một ngày nhưng về hai ngả khác nhau: Huân đưa vợ con về quê mẹ ở Ninh Bình, tôi
theo thầy mẹ tôi lên Bố Hạ (Bắc Giang). Ở Bố Hạ tôi vào công tác ngay Sở Thông
tin Khu 12, sau sát nhập vào Liên khu I.
Rồi thầy mẹ tôi cùng toàn thể gia đình rời đi Vĩnh Yên, chỉ
còn một mình tôi ở lại Bắc Giang để tiếp tục công tác tại chỗ cũ.
Bốn tháng sau, tôi nhận được thơ nhà báo tin gia đình một lần
nữa chuyển đến làng N.H. ngay bên kia hữu ngạn sông Đáy, gần chân dãy núi Tam Đảo.
Tôi biết, như vậy vốn liếng gia đình lại một phen hao hụt để sa sút thêm. Nhưng
cũng trong thơ đó, tôi được cô em gái cho hay là gia đình Huân đã bỏ Ninh Bình
chuyển đến một làng nào đó gần một cái chợ nào đó thuộc Phúc Yên.
Tôi vừa nhẩm ôn đoạn thư vừa nghĩ thầm: “Một làng nào đó, ở gần
một cái chợ nào đó thuộc Phúc Yên. Địa chỉ tuy mơ hồ thật nhưng mình quyết tìm
cho ra.”
Tôi viết thơ cho một ông cùng làng tản cư ở Phủ Lỗ và thường
buôn bán hàng ngoại hóa trên con đường Phúc Yên Sơn Tây để nhờ ông chú ý tìm
giúp gia đình Huân. Ba tháng sau tôi nhận được hồi âm của ông bảo rõ cho hay -
thực may mắn - chỗ ở của Huân: Đó là một thôn nhỏ ngay gần chợ Sặt và ở về phía
tay phải con đường mòn từ chợ đi huyện Yên Lãng. Vừa đúng dịp tôi xin thôi tại
Sở những mong sẽ công tác ở Ty Thông tin Vĩnh Yên cho được gần gia đình. Tôi có
xin về thẳng thăm nhà đã, rồi nửa tháng sau nếu thuận tiện sẽ đến nhận công tác
tại cơ quan mới.
Hành trình của tôi được phân chia rất hợp lý. Từ Đa Phúc tôi
sẽ đi đến Phố Nỉ bên kia sông Câu, đường dài mười hai cây số. Từ Phố Nỉ tôi sẽ
vượt qua Kẽm, Dòm để gặp con đường nhựa nối liền Phúc Yên-Vĩnh Yên, quãng đường
này cũng khoảng mười hai cây số. Tôi sẽ theo đường nhựa mấy cây số rồi rẽ vào
con đường đất lớn đi đến chợ Sặt. Đến cho Sặt rồi, thì thôn nhỏ gia đình
Huân ở tôi đã “cầm lỏng” trong tay. Đường đi tính ngót bốn
mươi cây số; có bỡ ngỡ lắm trong việc hỏi thăm thì cũng chỉ vừa chập tối là
cùng, tôi đã nằm trên giường của Huân đợi một mâm cơm nóng sốt, tươm tất. Sau
khi đã kể cho nhau nghe hết mọi chuyện tản cư, tôi ngồi uống rượu với Huân. Tôi
biết làm gì mà Huân chẳng mua được rượu ngang, chỉ cần một cút thôi. Tửu lượng
của tôi và Huân cùng kém cả mà, nhưng chúng tôi sẽ khề khà uống thật lâu cho thực
hệt tác phong các bậc tửu đồ ngày xưa.
Chà! Như vậy cho bõ một ngày bại cẳng vượt ngót bốn mươi cây
số. Ngày hôm sau tôi có thể hoặc đi từ sớm, hoặc ở lại ăn sáng với Huân cũng
nên, rồi mới lên đường vì quãng hành trình còn lại chỉ chừng ba mươi hay ba
mươi mốt cây là cùng. Vừa đi vừa hình dung trước cảnh hội ngộ đó mà tôi thấy hởi
dạ, tưởng có thể đi hết ngày mà không biết mỏi chân. Ấy, tinh thần tuy có phấn
khởi, thêm trí tưởng khéo thêu dệt, nhưng thực tế vẫn giữ được cái uy tín cuối
cùng của thực tế. Kể từ sau lúc mặt trời đứng bóng, tôi đã thấy hai đầu gối mỏi
và hai bắp chân tưng tức. Tôi tìm một quán nước nghỉ chân, mua kẹo vừng và dở nắm
cơm nếp ra ăn trưa. Cũng do việc toan tính trước, tôi thổi cơm nếp thật nát để
nửa nắm còn lại có thể sang trưa ngày hôm sau ăn còn dẻo.
Lúc mặt trời chếch bóng, bước đi thêm lệt bệt, đầu gối đau, bắp
chân và đùi tôi thấy nặng ngang nhau; tới lúc mặt trời xế bóng thì hai bên thái
dương tôi bừng bừng, trước mắt tôi đổ những hoa cà, hoa cải tựa hồ trong đầu có
ai đốt một pháo bông tí hon và những hoa ánh sáng tóe ra từ hai con mắt. Tôi có
cảm tưởng phần thân thể từ háng trở xuống là mình mượn của ai lắp vào. Tôi bước
lảo đảo, hình như đi được là nhờ sức gió thổi xuôi nhiều hơn là nhờ ý chí và sức
lực của chính mình. Đến năm cây số cuối cùng thì tôi phải lượm một cái gậy bên
vệ đường để chống và cứ đi được một cây số lại ngồi phệt xuống bên lề cỏ để nắn,
bóp, chà xát suốt từ đùi đến bắp chân. Mặt trời vừa khuất bóng thì tôi vào đến
con đường hẻm do người trong thôn chỉ để tới nhà Huân tản cư. Và cũng đến lúc
đó, thực tế mới tạm lùi bước nhường sức mạnh của niềm vui tinh thần một chút;
tôi ưỡn ngực nhìn thẳng, bước chững chạc.
Cảnh vợ chồng Huân cùng đàn con khi nhận ra tôi thật đúng với
câu Kiều “Nỗi mừng biết lấy chi cân” hay
- để cho vui - nếu cân được thì cũng đến nặng bằng bộ giò của
tôi lúc đó là cùng.
Tôi thở phào sung sướng quẳng ba-lô vào tay Huân, ngồi bệt xuống
cái chõng tre ở giữa sân rồi tức khắc nằm xuống - nằm ngửa mặt nhìn mấy con diều
hâu đương lượn lờ mãi trên cao vút trông chỉ còn nhỏ như mấy con dơi. Lúc bấy
giờ tôi mới ôn lại những hình ảnh vừa nhìn và xét rằng vợ chồng Huân cùng các
cháu tôi đều gầy và đen đi nhiều. Có tiếng chõng kê ngay góc gần đấy rồi tiếng
Nhàn, vợ Huân :
- Anh Sơn ra nằm đây, chõng ấy để trả ông chủ.
Tôi ngồi nhỏm dậy, mấy sợi tóc dài bị nan chõng kẹp đứt mất.
Kể ra cũng khá đau nhưng cái mệt lấn mất cái đau, hơn nữa tôi muốn đổi chỗ thật
nhanh để tiếp tục cho các bắp thịt nghỉ, ông chủ ở trong nhà vừa ra, tôi chỉ kịp
cúi chào thật lễ phép và nói một câu xã giao thật ngắn rồi nằm ềnh ngay sang
chõng bên. Khi lưng và đầu áp xuống rồi, xúc giác mới báo cho tôi biết là cái
chõng này hẹp hơn, ngắn hơn và nan thưa hơn cái chõng kia.
Tiếng Huân hỏi:
- Anh Sơn mệt lắm hả? Tôi chặc lưỡi:
- Gọi là thôi!
- Anh đi bao nhiêu cây số đến đây?
Nhận thấy nói thật thì không tiện và nói dối thì không nỡ,
tôi vờ như không nghe thấy. May sao Huân nói sang câu khác:
- Tôi bảo thổi cơm thêm suất anh đấy nhé. Tôi đáp gọn:
- À cố nhiên! Các cậu ăn cơm tối nhỉ, tưởng mình đến giờ này
thì các cậu đã ăn xong tám hoánh và phải đi thổi riêng cho mình niêu khác.
Rồi vui câu chuyện tôi nói tiếp:
- Nếu có gà nhà thì cứ giả vờ thịt đi cho vui.
Huân đáp ngay, nhưng giọng nghe ra hơi ngượng ngập:
- Ồ, thịt gà... Vâng, có chứ?
Nằm duỗi đã được một phút hưởng gió mát buổi chiều phe phẩy,
tôi lại sức nhiều do đấy có sự “phản tỉnh” ngay để nghĩ thầm:
- Bỏ xừ, nói vậy ngộ nhà Huân không nuôi gà, Huân phải đi
lùng quanh xóm thì mình cũng hơi khỉ.
Tôi vừa toan hỏi lại Huân xem nhà có gà thực không thì Huân
đã đứng dậy đi vào nhà. Không hiểu Huân nói gì chỉ biết sau đó con cháu lớn Thu
Hương tất tưởi đi ra ngõ. Khi Huân tới bên, tôi cũng vừa vỗ lên túi con áo sơ-
mi để sực nhớ ra rằng mình có một điếu Cotab của bạn cho mà chưa hút.
Vừa rút điếu thuốc ra khỏi túi, tiếng Huân reo vui:
- À, thuốc lá!
Tôi nhớ ngay Huân vốn nghiện nặng thuốc lá thơm nên lanh trí
đáp liền:
- Gặp một đằng bạn giữa đường cho đấy, tôi vốn dửng dưng với
thuốc lá nên để dành cho cậu.
Tôi vẫn nằm ngửa trên chõng, duỗi thẳng chân cho máu chạy đều
và khẽ đưa mắt để khuôn mặt Huân lọt vào trong nhãn giới; vì lần này trông
nghiêng nên khuôn mặt Huân có những nét gầy hốc hác, mà lúc nãy có lẽ vì trông
thẳng có lẽ cả vì chân mỏi mắt hoa nữa nên tôi không nhận thấy. Châm xong điếu
thuốc lá, môi Huân dẩu ra để hít lấy khói thuốc, mấy sợi râu mép và râu cằm được
dịp nổi bật lên trong ánh chiều bâng khuâng khiến khuôn mặt Huân càng đượm một
vẻ xanh xao sầu thảm. Tôi đặt thầm nghi vấn: hay là ngày nay Huân cũng hoàn
toàn khánh tận, và gia đình Huân cũng hoàn toàn sống kiểu độ nhật như gia đình
tôi hiện giờ bên bờ sông Đáy dưới chân Tam Đảo.
Huân không biết là đương bị tôi ngắm, vừa hút thuốc lá vừa tuần
tự hỏi kỹ về mọi chi tiết tản cư của gia đình tôi. Tôi vẫn đáp lời và vẫn tiếp
tục quan sát. Cách Huân hút thuốc quả là cách hút của một người nghèo đã lâu lắm
nay mới được một điếu.
Tôi hốt hoảng ôn lại một lần nữa lời vừa nói khi nãy: “Nếu có
gà nhà thì cứ giả vờ thịt đi cho vui,” và tự thấy mình vô duyên biết mấy.
Đến lượt tôi hỏi lục vấn về cách chạy loạn của gia đình Huân.
Tôi được biết hồi còn ở Ninh Bình, vợ chồng Huân buôn bán khá. Sau vụ quân Pháp
nhảy dù ở Đồng
Quan, vợ chồng Huân sợ chúng sẽ tấn công toàn thể Liên khu Tư
bèn mang cả con cái theo đường Hòa Bình, Vụ Bản - đường số 6 - rồi vượt sông Hồng
sang Vĩnh Yên. Bị bom napalm thiêu rụi hết đồ đạc, một lần nữa Huân
chuyển gia đình xuống Phúc Yên, ở đây.
Hỏi về cách sinh sống hiện tại thì Huân cho biết
Nhàn cùng đứa con gái lớn lên mười hai - Thu Hương
- vẫn sớm gánh đôi bồ hàng xén ra chợ Sặt bán, chiều gánh về.
Tôi hỏi thêm:
- Thế hàng xén của Nhàn có những thứ gì? Huân trả lời hoàn
toàn ngoài đề:
- Đường đi từ chợ Sặt về đây ngắn, nên việc sớm gánh đi tối
gánh về không có gì là vất vả lắm.
Thấy tôi ngồi dậy, Huân cười hỏi - tôi biết để lảng câu chuyện:
- Anh khỏi mệt rồi chứ?
Tôi gật đầu và đáp với giọng cố làm cho trong sáng để chứng tỏ
tôi không có gì thắc mắc:
- Khỏi mệt rồi! Cậu ở đây rộng và thoáng thật đấy. Sự thực
tôi ngồi nhỏm dậy vì thấy Nhàn đương vo gạo ở đằng góc bể. Cứ trông cái giá vo
và cách xóc gạo tôi cũng thấy rõ ràng nồi cơm sắp thổi không thể là nồi cơm đủ
cho ba người lớn và ba đứa trẻ. Hai đứa cháu nhỏ của tôi - một trai, một gái
quãng tuổi lên năm và lên bảy, cùng gầy gò và xanh xao như nhau - lúc đó vẫn
quyện lấy bên Nhàn.
Cũng cảnh đó, một năm trước đây, đã diễn ra trong gia đình
tôi, hồi chúng tôi còn ở Bố Hạ, Bắc Giang. Tôi còn nhớ hôm đó ông bác tôi từ Bến
Tuần, Lục Liễu sang chơi. Nguyên nửa tháng trước đây, thầy tôi và tôi có tới Lục
Liễu thăm người, được người thết cơm rượu thịt gà, trịnh trọng lắm. Lần này lẽ
cố nhiên thầy tôi cũng phải ngậm cách trả nợ, mặc dầu nhà đương rất nghèo túng.
Dưới chuồng còn một con gà mái đang đẻ: phải làm thịt. Trong thúng còn hai đấu
gạo định để thổi độn ngô, nay bỏ ngô để thổi cơm trắng. Bữa rượu thết hôm đó ngồi
tiếp bác, có thầy tôi, tôi và thằng em thứ hai.
Để đáp lại câu nói của bác: “Thím Hai vào ăn một thể cho
vui,” mẹ tôi cười giòn và rất tự nhiên:
- Mời bác xơi rượu với thầy cháu, em phải trông cho mấy cháu
bé ăn ở dưới này.
Kỳ thực các em bé tôi có gì mà ăn?
Khi bác tôi ra về, cơm thừa trong nồi còn chừng hai bát. Lẽ cố
nhiên là thầy tôi, tôi và thằng em thứ hai đã phải hết sức ăn cầm chừng mới được
vậy. Mẹ tôi đơm một bát cho thằng em út và bát kia cho đứa em gái thứ tư của
tôi năm đó độ lên tám. Mẹ tôi ăn cháy. Đứa em gái lên tám của tôi đỡ bát cơm rồi
cúi mặt xuống khóc lặng lẽ. Nó biết là cảnh nhà bần bách quá rồi. Mẹ tôi thấy vậy
thì vỗ vai nó rồi vừa cười vừa khóc, cả nụ cười với hai dòng nước mắt cùng chân
thành như nhau, hẳn các bạn thừa hiểu vì sao. Tôi cũng vội quay đi để kịp dấu
hai giọt nước mắt nóng hổi vừa tràn ra khỏi bờ mi.
Ngồi nói chuyện hàn huyên với Huân, tôi giữ bề ngoài bình thản
nhưng bên trong lòng tràn ứ kỷ niệm chua chát.
Lẽ nào ngày nay tôi để Nhàn và các cháu tôi tái diễn phần dưới
tấn bi kịch năm xưa?
Tôi thoáng thấy cháu Hương hai tay ấp vào ngực đi quanh tường
đất thấp nhà hàng xóm để có thể vượt tường vào thẳng trong bếp. Nhưng khi cháu
Hương vừa nhảy xuống thì tự hai bàn tay bé nhỏ của nó tuột ra cái mề gà sống có
một quãng lòng ngắn dính ở đầu. Tôi vờ ngẩng nhìn ngọn tre lắc lư trong gió chiều
như thể mình không biết gì.
Huân bảo vợ:
- Em làm thức nhắm trước rồi thổi cơm sau.
Nhàn đáp “Vâng” rồi cười - giọng cười giòn tan y như tiếng cười
của mẹ tôi ngày nào - hay nói cho đúng
- đó là tiếng cười đặc biệt của bất cứ người đàn bà Việt Nam
nào trong những nhường nhịn kín đáo. Tiếng cười tôi nghe mà xót xa, mà tự nhiên
có ý nghĩ ngộ nghĩnh: giả sử sau này có quyền hành nhất định ở mỗi công trường
chính của mỗi thành phố, tôi sẽ cho dựng tượng bán thân một người đàn bà Việt
Nam để tượng trưng cho tình mẫu tử, đức hy sinh đáng được kính mến vào bậc nhất
thế giới của dân tộc.
Vừa kịp có một ý định, tôi thấy cần phải hành động nhanh
chóng, bèn đứng dậy đủng đỉnh ra ngõ.
Huân hỏi:
- Anh đi đâu đó?
- À - tôi đáp - đi xem qua phong cảnh thôn này một chút.
Rồi tiến ra đầu thôn trên con đường dẫn tới chợ. Ánh chiều vừa
tắt, vầng trăng rằm tròn vành vạnh lên ngôi, óng ánh như tình cảm một người con
gái đến tuổi vừa biết rằng mình đẹp. Nhìn trăng tôi càng thấy vững tâm trên
quãng đường trường mà tôi sắp phải đi nốt.
Đợi mười lăm phút qua, tôi quay về làm dáng hốt hoảng bảo
Huân:
- Hỏng rồi cậu Huân ạ! Như lúc nãy tôi nói là sau nửa tháng
nghỉ phép để sống với gia đình, rất có thể tôi sẽ trở lại làm việc trong Ty
Thông tin Vĩnh Yên. Tôi vừa gặp ông Trưởng ty ngoài chợ, ông ta nhất định kéo
mình đi dự hội nghị thông tin Liên ty Vĩnh Phúc (Vĩnh Yên- Phúc Yên) ngay bây
giờ.
Huân giẫy nẩy người, chỉ mâm thức ăn úp lồng bàn trên chõng:
- Sao, ngay bây giờ là thế nào?!
Nhàn nghe rõ câu chuyện cũng nhô ra khỏi bếp, tay cầm đôi đũa
xào nấu, rồi nói:
- Ăn cơm đã anh ạ, em đương làm món cánh gà xào chua ngọt mà
anh thích.
Tôi tiếp tục buộc lại ba-lô và đáp:
- Thôi được chẳng lần này thì lần khác, cô nên nhớ từ nay tôi
công tác ngay tỉnh bên chứ có đâu xa xôi như trước.
Huân mở lồng bàn cho tôi thấy đĩa miến xào mề gà còn bốc khói
và đĩa thịt gà luộc tuy không được đầy đặn nhưng cũng khá tươm tất, rồi bảo
tôi:
- Đã thế anh hãy ngồi đây, chúng ta nâng chén luôn, cơm mang
lên sau là vừa.
Tiếng Nhàn họa theo lập tức :
- Phải đấy!
Óc tôi thoáng nhớ lại một kỷ niệm ăn giỗ năm đói
- sẽ kể rõ chi tiết sau đây - và cương quyết khoác ba-lô lên
vai:
- Ô hay - (Tôi vừa cười vừa nói, lạ thế cũng trong và giòn
như tiếng cười của mẹ tôi năm xưa, và tiếng cười của Nhàn khi nãy) - các cậu
làm như thể tôi là khách không bằng.
Vừa lúc đó thằng bé cháu út ngã và khóc. Dịp may hiếm có, tôi
bảo Huân:
- Kìa cậu ra dỗ cháu ngay đi. Thôi tôi đi, cậu đừng phải tiễn.
Nhàn nhô ra khỏi bếp:
- Khổ, sao anh vội thế ? Đâu phải là khách, nhưng anh em đã
lâu quá mới gặp nhau.
Tôi giơ tay chào đùa kiểu quân sự:
- Ối chà, chuyến này còn nhiều dịp gặp nhau lo gì. A-lê! Me
sừ Huân ra dỗ cháu đi kìa. Thôi nhé chào cả nhà.
Vợ chồng Huân buồn thiu không chào lại được tôi, trong khi
hai con cháu lớn lanh lảnh:
- Lạy bác ạ... Lạy bác ạ...
Tôi mỉm cười nhìn chúng một lần nữa, đứa nào cũng gầy và đen.
Chúng vẫn còn giữ được lối chào kiểu cách Hà Nội hồi chưa tác chiến.
Tôi vội vã ra khỏi xóm, sợ Huân theo tiễn. Ra tôi đầu làng,
nhìn bóng mình in dưới chân, tôi mới biết chiều đã thật hết, trăng bắt đầu tỏ.
Mùi hoa ngâu ngỡ ngàng từ trong xóm tỏa ra thơm nhẹ như hồn
tôi.
Ngẩng nhìn trăng tôi nghĩ thầm:
- Quãng đường còn lại chẳng còn gì là khó, chỉ việc theo sông
máng con đến huyện Yên Lạc; đi một quãng đường nhựa rồi theo sông máng lớn ngược
lên; tới chợ Phú Vinh thì rẽ xuống tay trái theo đường đá qua chợ Me, qua một
con đê, qua một cánh đồng, sang sông Đáy, thế là đến nhà; khi trăng rằm đi hết
đường từ Đông sang Tây trên vòm cao, chắc ở dưới này tôi cũng vừa đi hết quãng
đường từ Nam lên Bắc. Phải, tôi sẽ đi suốt đêm nay để gặp gia đình bên bờ sông
Đáy vào buổi hoàng hôn ngày mai. Tôi biết sức lực tôi vừa hồi lại đôi chút sẽ
tan rã ngay như đoàn quân khởi nghĩa non ngày, nhưng tôi đã có bí quyết khả dĩ
đánh lừa nổi một phần nào cái mệt: tôi sẽ ôn lại những chuyện cảm động trong đời,
rồi tôi suy nghĩ để tự an ủi hay tự khuyến khích. Trong khi tâm trí chìm trong
suy tư, hai cặp giò tôi cứ nhịp nhàng cử động đều như máy. Tôi ôn chuyện anh
người làm tên là Trung đến ăn giỗ ông tôi, năm đói 1945.
Gia đình tôi bắt đầu sa sút từ năm 1942. Sang 1943, mẹ tôi phải
thải hết các đầy tớ trai gái lớn chỉ giữ lại một con bé lên mười để sai bảo vặt.
Giữa năm 1945, tôi phải bán nốt chiếc piano, người bạn và niềm an ủi cuối
cùng, để mẹ tôi có tiền cấy vụ chiêm ở trong quê. Giỗ ông tôi vào hạ tuần tháng
hai âm lịch. Đúng ngày giỗ thì Trung từ trong quê anh, làng So (Sơn Tây), ra tới
làng tôi. Đường đi qua các cánh đồng, dài chừng hai mươi cây số. Chính tôi phải
chú mục đến một phút sau mới nhận ra Trung. Mấy năm trước đây anh to lớn, vạm vỡ
bao nhiêu mà lúc đó mặt anh hốc hác, tiều tụy, râu ria mọc xồm xoàm, trên má,
trên mép, trên cằm tang thương như cỏ dại mọc trên đất hoang; mắt thao láo
nhưng thất thần, cổ ngẩng, quần áo đã vá mền vá đụp, còn rách mướp không chỗ
nào được kín hoàn toàn kể cả khoảng che hạ bộ. Anh quả là hiện thân của đói và
rách.
Trung nói với thày mẹ tôi:
- Thưa cậu mợ, con nhớ hôm nay là ngày kỵ, con là tôi tớ cũ
trong nhà nên ra để hầu hạ.
Mẹ tôi gật đầu cám ơn và nói cho Trung hay là năm nay làm giỗ
chỉ cơm canh xoàng chẳng có gì mà hầu hạ, nhưng anh đã từ trong quê ra thì cũng
cứ ở đây cho hết ngày.
Trung đã ở hết ngày hôm đó và cả ngày hôm sau nữa. Bữa chiều
gia đình tôi ăn cháo. Mẹ tôi và tôi cùng thoáng thấy Trung múc cháo húp vụng rất
lâu ở dưới bếp, nhưng không nỡ mắng. Bữa cháo đó các em tôi bị thiếu.
Tôi biết mẹ tôi vốn hiền đức hiếm có, hẳn người cũng đã suy
nghĩ khổ tâm lắm khi sớm hôm sau người nói với Trung:
- Anh nhớ ngày giỗ ông ra giúp cậu mợ thực đáng quý lắm,
nhưng anh thấy đấy, gia đình cậu mợ độ này cũng chẳng còn gì. Bây giờ anh hãy tạm
về độ giữa tháng tư anh lại ra đây giúp mợ gặt lúa chiêm, lúc đó hẳn mợ con
mình được bưng bát cơm đầy.
Chắc Trung cũng thừa hiểu nỗi khổ tâm của mẹ tôi nên anh chỉ
“Vâng” được một tiếng rồi cúi mặt xuống mắt rơm rớm. Một lúc sau, mắt còn đỏ
hoe anh lên nhà chào thầy mẹ tôi rồi quay ra ngõ bước hơi hấp tấp càng làm những
mụn vá xổ chỉ thêm tơi tả. Ra tới ngõ anh mới dừng lại chụp cái nón rách lên đầu,
ngơ ngác nhìn về hai phía. Sau cùng anh rẽ sang phía không phải là phía đưa về
làng anh.
Tôi đưa mắt thấy mẹ tôi ngồi thần trên ghế ngựa. Tôi biết người
vẫn hằng nhịn và vui lòng tiếp tục nhịn cho bất cứ ai, nhưng thấy đàn con đói,
người không nỡ. Một lát sau người thở dài nói:
- Tội nghiệp cho nó! Gia đình nhà ta sở dĩ sa sút mà không hề
bị anh em bà con làng nước dè bỉu chỉ vì khi có dư bát ăn, mẹ chỉ biết cứu giúp
mà không biết khinh ai. Ngày nay lúc giời làm đói khó phải đuổi nó đi thực vạn
bất đắc dĩ.
Một tháng sau tôi được mẹ tôi cho hay tin Trung đã chết, anh
chết đói, gục mặt xuống vệ cỏ trên quãng đường Bương, Cấn. Chỗ này còn cách quê
anh chừng hơn chục cây số nữa. Chắc là biết mình sắp chết anh tìm đường quay về
quê mà không kịp.
Cái chết của Trung đã làm tôi ân hận và suy nghĩ trong mấy
tháng liền. Tôi nghĩ rằng giá Trung đừng đến ăn giỗ ông tôi; hay có đến nhưng về
ngay sớm hôm sau. Rồi tôi lẩn thẩn nghĩ giá mẹ tôi đừng bảo anh đi, cứ mặc anh ở
lại đến ngày nào thì ở. Hẳn khi thấy gia đình tôi cũng phải ăn cháo, anh chẳng
dám ở lâu nào. Tào Tháo nói: “Thà ta phụ người con hơn để người phụ ta,” lời
nói bỉ ổi của gian hùng, của vị kỷ. Tôi muốn mình thực hiện được tiếng nói của
vị tha, bác ái: “Thà chịu để người phụ ta còn hơn ta đành tâm phụ người,” và
cái khôn ngoan thật là khôn ngoan, theo ý tôi, chỉ là cách mà người ta giáo dục
trực tiếp hoặc gián tiếp cho người khác biết tự giác tự trọng tránh không hại
ai.
Tin Trung chết đè trĩu tâm hồn tôi như vậy, nhiều lúc tôi tưởng
như gia đình tôi có chịu một phần trách nhiệm về cái chết đó.
Kiểm soát lại ký ức, tôi thấy rằng những câu chuyện sầu thảm
tương tự, tôi đã gặp rất nhiều trong đời. Đành cho rằng: “Đó cũng là tại số” chứ
còn biết nói sao?
Trăng đã lên cao và sáng lắm nhưng tôi cảm thấy mệt lả và ánh
nước của sông máng loang loáng hoa lên như làm run rẩy cả cảnh vật xung quanh.
Thì ra tôi đói. Không sao, tôi còn một nửa nắm cơm nếp. Chọn khoảng cỏ sạch bên
bờ sông tôi ngồi xuống, giở ba-lô ra.
Tôi vừa ăn vừa tiếp tục nghĩ. (Vừa đi vừa nghĩ để quên mỏi; vừa
ăn vừa nghĩ để quên hương vị nhạt nhẽo của nửa nắm xôi xoàng.)
Chuyện cái chết của Trung với việc tôi khoác ba-lô vội vã rời
khỏi gia đình nghèo của Huân, một người em, một người bạn, thoạt xét tưởng
không có gì, thực ra liên lạc rất tế nhị. Tôi ra đi để tránh cho gia đình Huân
một điểm ân hận có thể có - nhỏ hơn và khác hơn điểm ân hận của gia đình tôi đối
với Trung - nhưng dầu sao thì cũng là ân hận. Hãy thử tưởng tượng cảnh trong nồi
cơm chỉ còn hai lưng bát mà Nhàn sẽ chia cho hai con nhỏ...
Nghệ thuật sống với nhau - nếu quả sống với nhau là một nghệ
thuật - chính là ở những điểm đó.
Hãy gìn giữ cho nhau khỏi sa ngã!
Dại gì mà dồn nhau vào thế cùng để rồi cất lời phê bình bi
quan: tình người vụ lợi?
Hãy giúp nhau thổi thêm ánh sáng vào những lúc hồn chợt lóe
bình minh để cùng chia vui giây phút thiên thần. Như thế mới là thái độ trân trọng,
thái độ gìn vàng giữ ngọc cho nhau, vàng ngọc của tâm hồn!
Khi ăn xong đứng dậy tôi nhận thấy rằng trăng đêm đó sáng thực,
chiếu vằng vặc trên những ngọn tre lả gió.
Sáng trăng suông sáng cả đêm rằm
Nửa đêm về sáng trăng nằm ngọn tre.
Về sau này ôn lại ánh trăng đêm ấy tôi hơi lấy làm lạ lùng về
một chuyện. Nguyên khi còn ở Sở Thông tin tôi có một đam mê mãnh liệt. Tôi yêu
một nữ cán bộ người Bắc Ninh và là cựu huấn luyện viên thể dục, có một thân
hình nở nang, cân đối tuyệt mỹ, tôi thường gọi đùa nàng là “Vệ nữ thần”. Ngay
tháng trước cũng vào ngày rằm có trăng sáng lả lơi trên ngọn tre, tôi đã nửa
đùa nửa thật ôm nàng trên đồi sim và đọc câu ca dao:
Nửa đêm về sáng trăng nằm ngọn tre, Em có yêu anh cho trọn một
bề...
Thực là kỳ dị khi tôi ngồi ăn cơm nếp trên bờ sông máng, rồi
khi đứng dậy đi, tiếp tục ngắm trăng rằm trước mát với ngọn tre lả gió mà người
đẹp “Vệ nữ thần” tháng trước hoàn toàn chìm trong quên lãng. Tôi chỉ thấy trăng
rất sáng và rất lạnh. Sáng có lẽ vì tôi nghĩ rằng các cháu tôi đã bất ngờ mà được
hưởng một bữa cơm tương đối thịnh soạn có thịt gà luộc, cánh gà sốt chua ngọt,
lòng gà sào với miến... Lạnh, có lẽ vì nghĩ đến cái chết của Trung và biết bao
kỷ niệm buồn rầu khác của chính đời tôi. Rồi hồn tôi như bàng bạc hòa vào sương
khuya, và trong cùng thẳm cõi lòng tôi cảm thấy một nỗi niềm man mác tê tái như
một người đàn bà nghèo gánh gạo về trên quãng đường xa heo hút chợt nhiên thấy
thương chồng thương con, thương mình.
Lẽ cố nhiên là đêm đó tôi đi vất vả lắm, nhất là kể từ khoảng
nửa đêm về sáng trở đi, lắm khi đầu choáng váng, mắt hoa, chân lảo đảo muốn quỵ
hẳn xuống. Mệt đã đành, còn buồn ngủ và đói nữa, cũng may phần lớn đường đi
ngay trên bờ sông máng nên mỗi khi mệt quá hay nôn nao quá tôi lại lội ùa xuống
sông, vốc nước lên mặt cho tỉnh. Tinh sương vừa rạng thì tôi đến bờ sông Đáy.
Ngồi trên con đò ngang, tôi lẳng lặng nhìn dòng sông Đáy lấp loáng gợn từng đợt
lớn theo nhịp mái chèo. Khi đò sang tới bờ bên kia thì cả mặt sông Đáy đã chan
hòa ánh hồng của buổi bình minh cuối hạ. Vừng đông vừa ló, tôi tìm thấy gia
đình. Cả nhà reo vui.
Thầy tôi hỏi:
- Con đi suốt đêm sao? Tôi đáp:
- Dạ vâng, con đi suốt đêm để tránh máy bay. Em gái lớn tôi
cười, nói đùa:
- Râu ria ông anh mọc trông có gớm không? Mẹ tôi cười thương
hại:
- Trông như ngáo ộp! Thằng em thứ hai tôi:
- Số huynh trưởng đỏ. Hôm nay mẹ có nấu cháo đậu đen buổi
sáng, vừa múc lên xong kia.
Mẹ tôi hỏi:
- Con có mệt lắm không? Tôi đáp :
- Mệt thì con cũng phải ăn cháo đã.
Húp liền mấy bát xong, tôi trải chiếu vào một góc nhà lăn
quay ra ngủ; mùi mồ hôi, mùi quần áo ẩm xông lên sức nực, nhưng tôi cho đó khác
gì mùi hăng hăng tràn trề sức sống của một khu rừng nhiều lá mục!
...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét