Con kỳ lân cuối cùng 1
TỰA CỦA DỊCH GIẢ
Đầu xuân năm nay, (1973), tôi được anh bạn thân trao cho cuốn THE
LAST UNICORN với lời giới thiệu trước rằng đây là một trong những best-sellers hiện
thời. Tôi vốn không tin cẩn những best-sellers nên cũng chỉ hững hờ đọc
mươi trang đầu, nhưng rồi kế đó tôi đọc miết mải và đọc kỹ. Peter S. Beagle là
một trong những tác giả Tây Phương hiếm hoi thấu hiểu tinh thần Dịch lý âm
trung chi dương, dương trung chi âm, và tinh thần phá chấp, vô cầu cực kỳ
thanh thoát của Thiền. Tôi dịch THE LAST UNICORN với một tinh thần
tri kỷ.
Hãy xin ghi chú rất nhanh quan điểm dịch của tôi. Tôi muốn
tác phẩm được thật gần gũi với độc giả Việt Nam, nên chủ trương dịch thật thoát
nghĩa. Rất nhiều khi tôi phải thêm lời vào cho tròn trịa ý của nguyên tác, và
cũng đôi khi tôi tước bỏ đi một vài ý nhỏ xét ra chỉ làm rườm lời tối nghĩa với
độc giả Việt Nam. Đặc biệt những bài thơ, những bài đồng dao trong tác phẩm, hầu
hết tôi chỉ giữ lấy ý chính, còn hoàn toàn sáng tác lại theo lời Việt, tinh thần
Việt. Tất cả những thay đổi nhào nặn nhỏ đó chỉ để phục vụ nguyên tác, luôn
luôn theo sát nguyên tác về ý, cũng như về giọng điệu. Đặc biệt cách viết và
trình bày đối thoại, tôi cố ý giữ đúng theo dáng dấp nguyên bản, vì đó là nét đặc
biệt của văn chương Anh ngữ mà tôi muốn chúng ta làm quen dưới hình thức Việt
ngữ.
Còn về nội dung CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG - THE LAST
UNICORN ra sao đây? Tôi không dại gì tiết lộ trước tình tiết câu truyện ra
đây để các độc giả mất thú bất ngờ, chỉ xin ghi mấy cảm nghĩ nhân đọc và dịch CON
KỲ LÂN CUỐI CÙNG mà nẩy sinh. Những cảm nghĩ rất rời rạc, tôi cố ý vậy và
cũng chẳng thể nào khác hơn, nhưng khi các bạn đọc xong tác phẩm những cảm nghĩ
rời rạc đó sẽ kháp lại thành một hệ thống tô đậm mang nhiều ý nghĩa hơn. Xin được
tuần tự nêu như sau đây:
- Kỳ lân, lý tưởng chân thiện mỹ, nay với người đời chỉ còn
là một huyền thoại thôi hay sao? Có thực người đời ngày nay sa đọa đến nỗi
không những quay đi, mà còn cười mũi vào những gì là lý tưởng chân thiện mỹ,
nhìn con kỳ lân cuối cùng mà cho là con ngựa cái trắng? Biết kính trọng kỳ lân,
mỉa mai thay, lại là lũ gà, vịt, ngan, ngỗng, và bất kỳ con vật lớn nhỏ nào. Nhận
được ra kỳ lân chỉ có mấy người: Schmendrick và Molly vốn yêu kỳ lân; Bà Má Định
Mạng và Vua Haggard, kẻ thì muốn dùng kỳ lân như phương tiện, kẻ thì muốn độc
quyền kỳ lân.
Kể ra giữa đám người trần mắt thịt nhìn kỳ lân ra ngựa cái,
thì kẻ nhận ra kỳ lân, dù với tâm trạng nào, cũng vẫn là những cặp mắt tri kỷ.
Có điều Bà Má Định Mạng ở vào trường hợp tài bất cập chí, thực tội nghiệp, như
đứa trẻ cố sử dụng cây trùy lớn hơn mình và bị trùy đè bẹp. Giá trị phù phép của
Bà Bá Định Mạng nhẹ như hình nộm mà lại nhốt giữ hai trái núi Thái Sơn của Thiện
(lân) và của Ác (ác điểu Celaeno). Bùa phép chỉ là thứ bụi phấn vô cùng mong
manh phủ ngoài, khi được tự do, những thứ thiệt cỡ lớn đó chỉ sẽ rùng
mình là phủi đi hết, có còn gì nữa đâu. Sự thực nung chảy tà thuyết. Bi kịch của
những kẻ tài bất cập chí, đi vào tà đạo lừa người và tự lừa mình bằng ảo thuật
là ở đó. Chúng ta há chẳng đương sống trong thời đại yêu thuật của tuyên truyền
chính trị? Vua Haggard mới đích thực là phù thủy thứ thiệt đại diện cho Ác, kẻ
muốn độc quyền kỳ lân, kẻ có một chính sách vô úy, dùng Con Bò Mộng Đỏ làm
phương tiện khủng bố, đẩy hiệu năng tới mức vô tiền tuyệt hậu. Chỉ còn chút xíu
nữa, bắt nốt con kỳ lân cuối cùng, là ông ta làm bá chủ, dìm cả thế giới vào
vùng ảo thuật đen của ông, trong đó tất cả những vì sao lý tưởng đều bị dập tắt
ngấm.
Trong thế cheo leo chỉ còn đường tơ kẽ tóc đó, phải làm thế
nào để cứu mình và cứu người? Thực ra chẳng ai cứu nổi mình, nếu mình không có
ý chí tự cứu mình trước. Điều này chẳng mới lạ gì, nhưng không vì thế, mà chúng
ta không nhắc nhở luôn, khi có dịp. Trí nhớ con người nào hơn gì thỏ, dao năng
mài mới sắc. Vai trò của chàng ảo thuật gia tưởng như nửa mùa, Schmendrick là ở
đó. Chàng là hiện thân của nếp sống nghệ sĩ, chân thành trong thiên nhiên, tiên
tri tiên giác dưới hình thức lẩm cà lẩm cẩm, đã dạy ta một cách trọn vẹn nhất về
cái nhìn toàn diện và nếp sống vô cầu. Kỳ lân tiếc nuối khi phải trở về với bất
tử, Schmendrick tràn trề hạnh phúc khi được trở lại kiếp phù du có sống có chết,
nhưng chính vì có sống có chết mà trở thành sống động và quyến rũ muôn vàn,
trong đó thiện ác đều có vai trò của chúng. Cái nhìn sâu sắc nhất của Peter S.
Beagle chính là ở điểm này.
Tình yêu tất nhiên có sự hiện diện và đóng giữ vai trò tích cực
lớn lao của nó. Nếu như con kỳ lân cuối cùng không qua kinh nghiệm làm người có
sống có chết, có tình yêu trong cõi vô thường, con kỳ lân tất cũng bị dồn nốt
xuống biển để cho vua Haggard hoàn toàn làm chủ thế giới bằng thứ ảo thuật đen
của ông, dưới trướng là thứ phương tiện vô biên, sự khủng bố của Con Bò Mộng Đỏ.
Chính tình yêu là điểm le lói cuối cùng nổ tung thành cả một vùng hào quang cứu
lấy thế giới chỉ còn cách sự diệt vong có đường tơ kẽ tóc. Lý tưởng đơn thuần
cao vòi vọi của kỳ lân vẫn có thể bị con Bò Mộng Đỏ dễ dàng nhận chìm, nhưng
tình yêu thì không, dù là chỉ là một điểm nhỏ. Tình yêu thắp bừng ngọn đèn bất
úy, điều kiện cần và đủ để thắng Khủng Bố dưới mọi hình thức mà cứu lấy thế giới
này.
Cái Ác luôn luôn còn đó. Cái Ác không bao giờ bị tiêu diệt.
Chỉ có chúng ta là có thể bị tiêu diệt nếu để mất tình yêu. Đó là bức thông điệp
tác giả CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG muốn để lại cho chúng ta.
Tất cả tình tiết truyện, nhân vật truyện, đối thoại, đều như
xuất hiện trong một giấc mộng bàng hoàng, không hẳn là ác mộng mà chìm đắm miên
man trong suy tư cho tới khi bừng tỉnh giữa ánh sáng, âm thanh, và hình ảnh
quen thuộc thường nhật.
Thoạt vào truyện, quả tình, chúng ta có cảm tưởng như thế giới
ngày nay hết chỗ cho kỳ lân, sau đó mới hay chẳng phải thế đâu. Mê có
thể trải nhiều kiếp, nhưng ngộ có thể chỉ trong sát na liền. Thiện -
Ác, Phúc - Tội chẳng hai! Như nước kia, gió thổi động thì thành sóng, gió dứt,
sóng vẫn là nước, cũng là ý trong Pháp Bảo Đàn kinh mà ra. Nhưng tuổi
trẻ nào cũng khao khát được chiêm ngưỡng lý tưởng tuyệt đối, được ôm ấp, được
thờ phụng cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ tuyệt đối. Đành vậy chứ biết sao bây giờ.
Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mạng. Đường đời là
thế, chẳng thể đốt giai đoạn được.
Điều thành công - điểm cuối cùng tôi muốn ghi nhận nơi đây -
của tác giả CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG là đã khiến chúng ta phải lúng túng
một cách đáng yêu khi đọc truyện này, lúng túng trong việc loay hoay tìm cách đặt
những hình ảnh tượng trưng trong truyện sao cho khít khao với những hình ảnh
ngoài đời. Ta cứ phải loay hoay hoài, nghĩa là phải suy nghĩ hoài, vì có cái gì
trong lý tưởng tìm được chỗ nằm khít khao ngoài thế giới thực tai đâu. Tìm tòi,
suy nghĩ hoài, thấy được một ít, tiếp tục tìm tòi suy nghĩ... Một tác phẩm mà đặt
được những câu hỏi, những vấn đề vừa đứng đắn vừa ỡm ờ, vừa rõ ràng, vừa huyền ảo
như vậy, ta còn đòi hỏi gì hơn?
DOÃN QUỐC SỸ
1
Con Lân sống trong rừng Tử Đinh Hương (Lilac), sống hoàn toàn
cô độc. Lân sống đã lâu đời lắm rồi, lâu đời như một lão bà cổ kính, nhưng lân
nào có lưu ý đến điều đó. Lân không còn giữ được màu trắng phau phau của bọt biển
như thuở nào, giờ đây màu trắng của lân lâng lâng như màu tuyết đổ trong một
đêm trăng. Nhưng đôi mắt lân thì còn sáng, còn tinh, khi lân chạy dáng vẫn nhẹ
như chiếc bóng lướt trên mặt biển.
Thực ra lân không hề đơn giản là một thứ linh mã có sừng như
nhiều người đã từng thấy trong các hình vẽ cổ; lân nhỏ hơn, móng toác, và dáng
dấp cực kỳ uyển chuyển, ngựa làm sao sánh kịp, họa chăng hươu và dê có được đôi
chút trong dáng nhảy giễu cợt. Cổ lân thật thon, thật dài khiến đầu lân tựa như
nhỏ đi; bộ bờm thường rủ xuống khoảng giữa lưng, xốp như bông gạo, lồng lộng
như mây. Tai nhọn, chân thon với một cụm lông xinh trắng như tuyết ở khoảng mắt
cá, vào khoảng cao giữa đôi mắt là chiếc sừng lấp lánh ánh xà cừ ngay cả trong
khoảng đêm đen dày đặc. Lân giết rồng bằng sừng đó, chữa cho nhà vua khỏi vết
thương nhiễm độc cũng bằng sừng đó, mà rung cây cho hạt dẻ rụng xuống để mấy
chú gấu nhỏ ăn cũng bằng sừng đó.
Giống lân bất tử. Bản tính của lân thích sống một mình trong
khoảng rừng nào đó, thường là rừng có khoảng nước trong đủ để lân tự soi thấy
bóng mình, bởi lân cũng có chút kiêu ngạo hiểu rằng mình là sinh vật đẹp nhất
và quyền phép nhất thế gian. Lân hiếm khi đi thành cặp, và chẳng nơi chốn nào kỳ
diệu hơn nơi chốn chứng kiến một lân nhi ra đời. Vào những lần cuối cùng lân gặp
đồng loại, những con lân còn tơ vẫn đeo đuổi lân, kêu gọi lân bằng giọng nghe lạ
hoắc; nhưng rồi sau đó lân không còn ý niệm về thời gian, năm, tháng, mùa. Khu
rừng lân ở bao giờ cũng bốn mùa xuân bất tận, và lân đi tha thẩn dưới bóng những
cây dẻ gai lớn, thật lớn, ngắm hoài hoài đám thú, đám cầm sống dưới hang đất, sống
trong bụi cây, làm tổ trên ngọn cây, trên mặt đất... Lân đã ngắm liên tiếp thế
hệ này qua thế hệ khác những họ hàng nhà sói, nhà thỏ, lân quan sát chúng săn
đuổi con mồi, ân ái nhau, sinh con đẻ cái, rồi chết. Và vì lân chẳng hề bận tâm
làm những việc đó bao giờ nên lân cứ quan sát chúng hoài mà không chán.
Một ngày kia có hai người thợ săn cưỡi ngựa mang theo cung
dài vào rừng săn nai. Lân bèn lướt theo hai người, lướt rất thận trọng, thính
tai đến như ngựa mà cũng không biết. Trông thấy con người, lân lại có cảm giác
như xưa, một cảm giác lẫn lộn vừa âu yếm vừa hãi hùng. Không bao giờ lân muốn
người phát giác thấy mình, tuy nhiên lân lại muốn tới gần để ngắm người cưỡi ngựa
và nghe người nói chuyện.
"Tôi không ưa cái cảm giác đi vào khu rừng này,"
người đứng tuổi lẩm bẩm lên tiếng. "Những sinh vật sống tại khu rừng có kỳ
lân bao giờ cũng biết chút ít pháp thuật, đặc biệt thuật tàng hình. Chúng ta đừng
hòng săn được con mồi nào ở đây."
"Đã từ lâu rồi, làm gì còn giống kỳ lân kia chứ, ấy là
hãy cho rằng xưa quả có giống kỳ lân," người thứ hai nói. "Đây chỉ là
một khu rừng như muôn ngàn khu rừng khác."
"Vây sao ở đây lá không rụng, không có cả tuyết rơi nữa?
Tôi dám cá với anh rằng vẫn còn một con kỳ lân sót lại trên cõi đời này - tôi
nghiêng mình kính cẩn trước sinh vật lâu đời cổ kính đó - và bao lâu kỳ lân còn
sống trong khu rừng này, những tay thợ săn như chúng ta đừng hòng săn được gì,
dù là một con chim bạc má nhỏ. Cứ việc quất cho ngựa chạy đi, chạy nữa đi, anh
sẽ thấy. Tôi hiểu kỳ lân quá mà!"
"Toàn chuyện hão trong sách vở hết," người kia trả
lời. "Toàn chuyện cổ tích, chuyện trong Kinh Thi. Há chẳng phải thuở ba
vua trị vì cũng đã có những lời đồn đại rằng kỳ lân ở xứ này, kỳ lân ở xứ nọ
sao? Nhưng nào có ai thấy kỳ lân bao giờ? Anh cũng chẳng hơn cóc gì tôi, có biết
kỳ lân mồm ngang mũi dọc ra sao đâu. Toàn chuyện sách vở ráo trọi."
Người thợ săn thứ nhất im lặng giây lâu và người thứ hai huýt
sao cho mình nghe, tiếng sáo gay gắt, rồi người thứ nhất lên tiếng, "Bà cụ
tổ mẫu tôi đã từng một lần gặp lân. Hồi tôi còn nhỏ cụ thường kể lại chuyện đó
cho nghe."
"Ồ, vậy à? Thế cụ có bắt kỳ lân bằng dây cương vàng
không?"
"Không, cụ không có dây cương vàng. Mà cũng chẳng cần phải
dây cương vàng mới bắt được lân. Đó là chuyện cổ tích! Chỉ cần lòng mình trong
sạch là đủ!"
"Phải, phải." Chàng thợ săn ít tuổi hơn cười khúc
khích, "Thế cụ bà có cưỡi kỳ lân không? Cưỡi không yên cương, tất nhiên
lãng đãng dưới rừng cây, như một nữ sơn thần thuở khai thiên lập địa."
"Cụ tổ mẫu tôi vốn sợ những con vật lớn," người đi
săn thứ nhất trả lời, "Cụ không cưỡi con lân, nhưng cụ ngồi thật yên lặng,
và con lân ngả đầu vào lòng cụ thiu thiu ngủ. Cụ tổ mẫu tôi cứ ngồi yên bằn bặt
như vậy cho đến khi kỳ lân thức giấc."
"Thế kỳ lân giống cái gì? Người xưa cho rằng kỳ lân vốn
cực kỳ dữ tợn, mình ngựa đầu hươu, chân voi, đuôi gấu; khi rống lên, tiếng trầm,
có một sừng màu huyền dài khoảng vài tấc, theo người Trung Hoa thì..."
"Cụ tổ mẫu tôi chỉ nói rằng kỳ lân tỏa ra mùi hương thơm
lắm. Cụ vốn không ưa mùi bất kỳ một con vật nào, kể cả mèo hay bò, cụ kêu là
mùi chúng hoang dại. Vậy mà cụ ưa mùi kỳ lân. Đã có lần cụ khóc khi nhắc lại
chuyện đó với tôi. Đã đành cụ già lắm rồi và người già thường dễ mủi lòng khi
hoài niệm đến cái gì thuở còn trẻ.
"Thôi hãy quay trở lại, chúng ta sang săn một khu rừng
khác," người thợ săn thứ hai đột nhiên nói. Lân vội lẩn ngay vào một bụi rậm,
đợi cho hai người quay ngựa và phóng xa được một quãng mới lại tiếp tục lướt
theo. Hai người yên lặng cho ngựa chạy đều đến gần ven rừng thì người thợ săn
thứ hai lên tiếng, "Tại sao những linh vật đó lại mất đi, anh có biết
không, nếu quả thật xưa có chúng?"
"Nào ai biết được. Thời thế xoay vần! Liệu anh có cho rằng
thời thế này hợp với kỳ lân?"
"Dĩ nhiên là không rồi, nhưng tôi tự hỏi trước chúng ta
có ai tự hào là thời mình hợp với thời kỳ lân xuất hiện? Nay nhớ lại thì hình
như tôi đã có lần được nghe kể chuyện... nhưng lần đó tôi lại say bí tỉ đến díu
cả hai mắt lại, hoặc giả lan man nghĩ sang chuyện khác. Nhưng mà thôi, cũng chẳng
sao. Còn đủ ánh sáng để săn nếu chúng ta lẹ lên một chút, lẹ lên nào!"
Họ thoát ra khỏi rừng thúc ngựa phi nước đại, lướt nhanh về
phía xa. Trước khi cả hai khuất bóng, người thợ săn thứ nhất quay đầu lại, nói
như thể nói với chính bóng con lân mà chàng đang thực mục sở thị, "Hãy ở lại
nơi ngươi đang ở, hỡi linh vật đáng thương! Thế giới bên ngoài này chẳng có chỗ
nào xứng cho ngươi đâu. Hãy ở lại nơi rừng sâu ngươi trú ngụ, giữ cho cây xanh
hoa nở, giữ cho những loài vật bằng hữu sống bên ngươi được trường thọ. Đừng
chú ý làm chi đến đám thiếu nữ, vì rồi đây họ cũng chẳng thể trở nên gì khác
hơn là những bà già lẩm cẩm, thôi chúc ngươi may mắn."
Lân đứng lặng khoảng ven rừng và thốt thành tiếng: "Ta
là con kỳ lân duy nhất cuối cùng." Đó là những lời đầu tiên lân thốt ra kể
đã từ trên một trăm năm nay. Có thể như thế lắm. Lân nghĩ vậy và cũng chẳng ngại
gì về nếp sống đơn độc nơi đây, chẳng bao giờ gặp một đồng loài nào khác, bởi
lân luôn luôn nghĩ rằng tất nhiên còn những lân khác ở những nơi khác trên cõi
đời, với những ý nghĩ đó há chẳng đủ sao. "Nhưng dù sao ta cũng cần biết đồng
loại của ta có bị tuyệt diệt không. Nếu quả thực như vậy thì rồi tất đến lượt
ta, tránh sao thoát. Ý nghĩ đó làm lân hoảng sợ và muốn chạy. Bóng lân lấp lánh
lướt nhẹ dưới bóng rừng, lướt qua những khoảng rừng trống sáng đến khó chịu, có
cỏ, có bóng đổ xuống đu đưa; lân nhận thức cực kỳ tinh tường mọi vật xung
quanh, từ tiếng cỏ lướt chạm dưới chân, đến thoáng chim gõ mõ vù bay màu xanh
loáng bạc, trong khi gió lùa tung từng đợt lá vàng. "Chao ôi, ta thực chẳng
bao giờ nên dời khỏi nơi này, chẳng bao giờ cả, không, nếu quả thực chỉ còn
mình ta là con lân cuối cùng trên cõi đời này. Ta quen sống ở đây quá rồi, ta
biết từng mùi, từng vị, hiểu thấu bất kỳ cái gì hiện hữu nơi đây. Dù đi đâu
chăng nữa, ta còn biết tìm những gì khác ngoài chính những thứ đó?"
Nhưng khi lân ngừng chạy, dừng lại, đứng lặng, nghe tiếng quạ
đen, và tiếng lũ sóc cãi nhau trên đầu, lân lại tự hỏi. "Ừ mà ngộ như đám
đồng loại của ta đã kéo nhau đi tới một nơi xa nào đó và đương ẩn núp chờ đợi
ta thì sao?"
Ngay giây phút đầu tiên nghi ngờ đó đã làm cho lân thấy mất
bình yên; rồi từ lúc manh nha ý tưởng sẽ dời khu rừng này, lân bỗng thấy bứt rứt
không thể dừng lại bất kỳ nơi nào mà lại không muốn di chuyển ngay sang một nơi
khác. Lân hết đi ngược lại đi xuôi ven hồ, dáng bứt rứt, không vui. Giống kỳ
lân đâu có phải băn khoăn, chọn lựa. Lân nói không, rồi lại nói có, rồi lại nói
không hết ngày rồi đêm, và lần đầu tiên lân cảm thấy giây phút bò lên mình như
những con sâu, "Việc gì phải đi đâu. Đã từ lâu con người không hề gặp bóng
kỳ lân, đâu có nghĩa là giống kỳ lân tuyệt diệt. Mà dầu sự thể có vậy đi nữa
thì ta cũng chẳng đi đâu. Ta cứ ở đây."
Nhưng rồi vào một đêm ấm trời kia, lân sực tỉnh giấc nồng và
tự nhủ. "Có chứ." Và lân vùng chạy nhanh xuyên ngang rừng, cố gắng
không muốn nhìn thấy gì, ngửi thấy gì, cố gắng không muốn cảm thấy bốn vó đương
lướt trên mặt đất. Đám cầm thú đang di chuyển trong đêm, mấy anh cú, mấy chú
cáo, mấy bác hươu cùng ngửng đầu lên khi lân lướt qua, nhưng lân không hề để ý
tới chúng. Ta phải đi, đi thật nhanh, lân nghĩ, nhưng ta sẽ trở lại ngay, càng
sớm càng hay. Có lẽ ta cũng chẳng phải đi xa lắm đâu. Dù có gặp đồng loại hay
không, ta cũng trở về ngay, càng sớm càng hay. Con đường từ ven rừng vươn ra xa
lấp loáng như ánh nước, nhưng từ lúc dời khỏi rừng cây, đặt bước trên đó, lân mới
cảm thấy hết nông nỗi đoạn trường. Lân đã muốn quay trở lại, nhưng rồi hít một
hơi dài để giữ lấy hơi rừng còn lẩn quất đâu đây, lân ngậm lấy hơi rừng thân
yêu đó nơi miệng như ngậm một bông hoa, cố gắng lâu được chừng nào hay chừng ấy.
°
Con đường dài thăm thẳm trườn ra vô tận, qua những làng mạc,
những phố nhỏ, qua miền đồng bằng, qua miền sơn cước, qua miền sỏi đá khô cằn,
qua cánh đồng cỏ xanh mướt, nhưng con đường có bao giờ chịu dừng chân lại bất kỳ
nơi nào đâu, con đường trườn hoài, trườn hoài vào vô tận, thúc đây, cuốn hút bước
chân lân, không ngớt, chẳng để lân được một phút nghỉ ngơi mà nghển cổ lắng
nghe không khí như xưa. Đôi mắt lân giờ đây mờ bụi, bờm rủ cũng bị khô cứng vì
bụi.
Nhớ lại thuở còn sống ở trong rừng, thời gian trôi lững lờ
bên lân, giờ đây chạy mải miết trên con đường thiên lý, lân thấy chính mình
đương phải trườn qua thời gian. Lá cây đổi màu, bộ lông loài thú cũng khi rậm
khi thưa; mây trời bay khi chậm khi nhanh theo sức gió, khi ửng hồng, khi vàng
lộng với ánh mặt trời, khi xám ngoét, khi tím bầm với gió bão. Không khi nào
lân tìm thấy dấu vết của đồng loại, qua những ngôn ngữ khác nhau, lân cũng chẳng
hề nghe thấy thiên hạ nhắc nhở đến đồng loại mình.
Vào một buổi sớm kia, lân đã toan rẽ khỏi con đường để ngủ,
thì trông thấy một người đương cặm cụi cuốc vườn. Đáng lẽ phải ẩn mình đi, thì
lân lại đứng nguyên đấy ngắm, cho đến khi người đó đứng thẳng lên và nhận ra
lân. Hắn béo quá, mỗi bước tiến lại làm má hắn rung rinh. "Ồ," hắn
nói. "Ồ, trông mi thật đẹp."
Khi hắn rút dây lưng ra, thắt một cái nơ, và bắt đầu vụng dại
tiến lên, lân thấy vui hơn là sợ. Hắn hiểu lân là gì và hắn đương làm gì: cuốc
đất trồng xu hào, và đuổi theo một vật gì lấp lánh sáng và chạy nhanh hơn hắn.
Lân lẹ làng bước né sang bên khi hắn vừa bắt đầu tiến tới như thể chính bước
chân hắn phát ra gió và gió thổi lân ra khỏi tầm tay của hắn. "Thuở xưa,
khi muốn săn ta, họ tổ chức chuông trống, xờ xí trịnh trọng và tưng bừng,"
lân nói với hắn. "Người xưa hiểu rằng phải tổ chức săn huy hoàng như vậy mới
quyến rũ được ta đến gần. Vậy mà cũng chưa hề một lần họ bắt được ta."
"Sao ta trượt ngã hoài," hắn nói. "Đứng lại
nào, hỡi vật xinh đẹp kia."
Lân nghĩ thầm trong khi hắn lồm cồm bò dậy, "Ta không hiểu
nếu như bắt được ta ngươi sẽ làm gì." Hắn nhảy tới lần nữa, và lân đã lẹ
làng lùi xa như làn mưa bụi. "Ta ngờ rằng vị tất ngươi đã tự hiểu
mình," lân nói.
"A, đứng yên, chóng ngoan." Khuôn mặt hắn nhễ nhại
mồ hôi với những ngấn dọc cát bụi, hơi thở hổn hển. Hắn vừa thở dốc vừa nói:
"Đẹp. Con ngựa cái xinh đẹp làm sao."
"Con ngựa cái?" Tiếng lân thét lên lanh lảnh khiến
hắn đứng sững lại, hai tay bịt vội tai. "Con ngựa cái?" lân hỏi,
"ta, một con ngựa? Vậy ra từ nãy đến giờ ngươi vẫn coi ta là ngựa, vẫn
nhìn ta là ngựa?"
"Con ngựa thật đẹp", con người béo bệu đó vừa thở hổn
hển vừa dựa vào hàng rào, một tay lau mặt. "Chải cho mi, tắm cho mi, lập tức
mi sẽ thành con ngựa cái đẹp nhất." Hắn lại lăm le tiến lên với sợi dây lưng.
"Phải cho mi đi dự thi hội chợ," hắn nói. "Nào, hãy dừng lại!"
"Một con ngựa," lân nói. "Một con ngựa cái với
khoảng bờm rủ trắng, đó là con vật ngươi đương rượt bắt." Trong khi hắn tiến
tới gần, lân bất chợt dùng sừng móc lấy dây lưng, giật mạnh khỏi tay hắn, rồi hất
tung lên cho văng ra xa, rơi vào một luống cúc vàng. "Ta mà là một con ngựa
ư?" lân càu nhàu. "Là ngựa này!"
Trong một khoảng khắc, người đó tiến tới thật gần lân, và đôi
mắt mở to của lân nhìn thẳng vào đôi mắt của hắn, đôi mắt nhỏ, mệt nhọc, ngạ,
nhiên. Rồi lân quay đi, phóng mình lên đường, phóng nhanh đến nỗi những ai
trông thấy đều thốt lên, "Cha, con ngựa kìa, ngựa ấy mới là ngựa!" Một
cụ ông bình tĩnh nói với cụ bà: "Đó là loại ngựa Ả Rập đấy, bà nó ạ, tôi
đã từng một lần ở trên chiếc tầu biển có con ngựa Ả Rập."
Kể từ đó, lân hết sức tránh đi qua những thị trấn, trừ trường
hợp bần cùng bất đắc dĩ lắm không có lối nào đi quành. Tuy vậy mà vẫn còn gặp một
số người rắp tâm rượt bắt, và vẫn là lề lối rượt bắt một ngựa cái, không hề có
chuyện săn đuổi linh đình và trang trọng một con kỳ lân như ngày xưa. Họ rượt
đuổi bằng dây thừng, bằng lưới, họ lấy những thỏi đường làm mồi nhử, huýt sáo gọi
lân bằng những tên quen thuộc của loài ngựa. Đôi khi lân cũng chạy chậm một
chút để tụi ngựa tiến tới đủ gần mà nhận ra mùi hương lân; lập tức lũ ngựa chồm
lên, lùi vội lại, chạy miết, và đoàn kỵ mã thì kinh hoàng. Ngựa bao giờ cũng nhận
biết ra lân.
"Sao có thể như vậy nhỉ?" lân tự hỏi. "Cứ cho
rằng con người đã quên hẳn loài kỳ lân đi; cứ cho rằng bản tính con người nay
đã thay đổi và đâm ra ghét kỳ lân, hễ gặp là tìm cách giết. Nhưng lân không thể
quan niệm nổi con người không chịu nhìn kỹ, chỉ trông mà không ngắm, đến nỗi lẫn
kỳ lân với loài khác. Có thật lân giống các loài khác? Làm sao thân cây, căn
nhà, con ngựa mà lại giống lân cho được?"
Đôi khi lân nghĩ, "Tuy con người không còn nhận ra lân,
rất có thể loài kỳ lân vẫn còn trên cõi đời này, và sống yên vui trong quên
lãng đó." Nghĩ vậy thôi, chứ thực ra ngoài mọi hy vọng, mọi phù hoa, lân
cho rằng con người thay đổi, thế giới loài người cũng thay đổi chính vì loài kỳ
lân đã mất. Tuy nhiên lân tiếp tục rong ruổi trên đường trường, mặc dầu cứ mỗi
ngày qua đi, lân lại càng thiết tha tự nhủ rằng giá như lân vẫn ở lại khu rừng
cũ đừng đi đâu cả thì vẫn hơn.
Rồi một chiều kia có một chú bướm theo gió lao đao bay lại lấp
lánh trên đỉnh sừng lân, chú bướm có đôi cánh nhung xẫm màu phấn bụi với những
đốm vàng, trông chú mỏng như cánh hoa bay. Múa rỡn trên sừng lân, chú chào lân,
cặp râu cong rung động. "Tôi là một kẻ bê tha lang thang. Chào bà bạn."
Lần đầu tiên trong cuộc viễn du này, lân bật cười. "Chú
bướm, chú bay lang thang đi đâu vào một ngày lộng gió như hôm nay? Chú không sợ
bị lạnh và chết yểu trước kỳ hạn sao?"
"Tử thần lấy đi những gì người ta muốn giữ," bướm
nói, "để lại những gì người ta muốn bỏ. Gió cứ việc thổi lộng nữa đi và
làm nẻ toác đôi má bà bạn. Tôi hơ tay sưởi ấm trước ngọn lửa của đời, lòng luôn
luôn thơ thới hân hoan." Bướm hấp háy như mắt cú trên sừng lân.
"Chú bướm, chú có biết ta là ai chăng?" lân hỏi,
lòng tràn trề hy vọng. Và bướm đáp, "Biết lắm chứ, bà bạn là người bán cá.
Bà bạn là tất cả của tôi, bà bạn là ánh sáng mặt trời của tôi, bà bạn già, luống
tuổi, chín chắn, bà bạn có khuôn mặt muối ướp, ốm ho." Bướm ngưng lại,
rung rinh đôi cánh trước gió, thủ thỉ tiếp, "Tên bà bạn là chiếc chuông
vàng treo trong tim tôi. Tôi muốn thân thể tôi tan ra thành nhiều mảnh một khi
được gọi tên bà bạn."
"Hãy nói tên ta, chú bướm," giọng lân khẩn khoản. Nếu
quả thực chú biết tên ta, hãy nói lên nghe thử." "Bà bạn là chú lùn
quay rơm thành vàng," bướm vui vẻ đáp, rồi nhún nhảy trên sừng lân mà ca rằng,
"Về đi thôi, hỡi chàng Bình Bá về thôi.
Đi mà chẳng đặng thì thôi ta về.
Gắng lên chàng Vĩnh Sơn ơi.
Gắng lên bắt ánh sao rơi trên trời.
Đất kia đứng lặng, máu chảy lang thang,
Gọi ta là quỷ nhập tràng cũng xong."
Đôi mắt bướm càng sáng lên dưới ánh hồng quang của sừng lân.
Lân thở dài và nặng nề tiến lên vừa vui vừa thất vọng. Thế
cũng phải, lân tự nhủ. Làm sao mình lại có thể đợi bướm nói đúng tên mình nhỉ?
Tất cả những điều chú ta nói đều là bài thơ khúc hát chú nghe được. Loài bướm
thi sĩ nói thì được, nhưng chả giữ vững được cái gì, vả lại điều này cũng dễ hiểu,
bướm thường chết yểu mà.
Vẻ bướm nghênh ngang trước mắt lân, rồi vừa quay tít vừa cất
tiếng ca,
"Một hai ba, tcha tcha tcha,
Đừng khéo dỗ ngọt bánh đa,
Lối mòn sỏi cát, nẻo xa bóng chiều.
Chán phè câu chuyện nói điêu,
Tìm vui ta hát ta trêu cô nàng.
Yêu ai chân bước vỗi vàng,
Đuổi con cú ọ đuổi đàn yêu tinh.
Lơ thơ tơ liễu buông mành,
Què chân đến đó bất bình mà chi."
Tiếng bướm ca văng vẳng như tiếng tiền đồng gieo trên mâm bạc.
Bướm ngao du nhởn nhơ cùng lân suốt quãng ngày tàn đó, rồi
khi mặt trời đã xế đỉnh non Tây, cả vòm trời bát ngát vẩy tê tê hồng, thì bướm
dời sừng lân, bay bổng lên cao, lơ lửng trước lân, "Tôi phải dông
thôi," giọng bướm lễ độ. Lân ngước nhìn, qua ánh chiều tà thấy rõ những đường
gân đen nổi trên đôi cánh nhung của bướm.
"Vĩnh biệt chú bướm," lân nói. "Hy vọng rằng
chú còn được nghe nhiều bài ca khác nữa," lân nghĩ chẳng có cách nào chúc
bướm hay hơn thế. Tưởng rằng bướm chia tay tức khắc, nhưng không, bướm chẳng hề
vội vã tuy hơi có vẻ bứt rứt trong ánh trời chiều. "Về đi thôi," lân
giục bướm. "Lạnh rồi, về mau đi thôi. Bay phất phơ hoài bên ngoài gió lạnh
thế này, chú chịu sao thấu." Bướm vẫn bay lửng lơ, miệng ngâm thơ khẽ: sau
đó giọng bướm bỗng rành rọt, "Kỳ lân. Hình giống con ngựa, có một sừng,
tính cực hiền, vì vậy người ta còn gọi là nhân thú. Người xưa nói kỳ lân xuất
hiện để báo sắp có thần nhân ra đời.
Ô này, ta là chú bếp nhà ai,
Ta là thuyền trưởng ở ngoài biển khơi.
Cánh buồm no gió chơi vơi.
Lấy ai bầu bạn cho nguôi nỗi lòng."
Cánh bướm tưng bừng và kiêu hãnh. Đã có những ánh đom đóm đầu
tiên vây quanh, ngỡ ngàng.
Lân sửng sốt nghe bướm sau cùng nói đến tên mình như vậy nên
cũng bỏ qua việc bướm trước đây đã đả động đến ngựa. "Ồ, thì ra, chú biết
ta!" lân reo vui như vậy, hơi thở mạnh thổi tung bướm ra xa dễ thường đến
sáu, bảy thước. Khi bướm lao đao bay lại, lân nài nỉ, "Chú bướm, nếu quả
thật chú đã nhận biết ra ta, vậy chứ trước đây chú có gặp đồng loại ta lần nào
chăng. Làm cách nào gặp được đồng loại ta đây, đi lối nào?"
Bướm hát trong ánh chiều chạng vạng:
"Bướm hỡi bướm, cõi trần đã chán,
Đường lợi danh luống nản chân bon.
Cuồng điên theo gió thả hồn.
Rượu say ta hát trăng tròn mặc trăng."
Bướm lại đậu trên sừng lân một lần nữa, run rẩy.
"Làm ơn cho ta hay đi bướm!" lân nói. "Ta chỉ
cần biết liệu có còn những kỳ lân khác trên cõi đời này chăng. Hãy nói cho ta
hay điều đó chú bướm. Ta tin lời chú. Nói đi chú, để ta còn quay trở lại khu rừng
của ta ngay. Ta đi đã quá lâu rồi."
Bướm lại ngâm nga: "Núi ca tít từng mây,
Lũng sâu thẳm địa ngục,
Giữ cho lòng hăng say, Vượt gian nguy khổ cực."
Bướm bỗng ngừng lại, rồi giọng trầm xuống, nghiêm trọng hẳn:
"Không, không, nghe tôi hay chẳng nghe tôi, hãy nghe
này! Nếu can đảm, bà bạn sẽ tìm gặp được đồng loại mình. Trước đây, đã lâu lắm
rồi, tất cả kỳ lân đều bị con Bò Mộng Đỏ săn đuổi, bám sát, và dồn xuôi theo
các ngả đường. Đừng hốt hoảng rụng rời, đừng yên vui nửa vời." Cánh bướm
nghiêng nghiêng chạm lướt lên da lân.
"Con Bò Mộng Đỏ," lân hỏi. "Con Bò Mộng Đỏ như
thế nào vậy?"
Bướm bắt đầu hát:
"Hãy theo ta xuống đây, hãy theo ta xuống đây, hãy theo
ta xuống đây, hãy theo ta xuống đây." Nhưng sau đó bướm lắc đầu lia lịa, kể,
"Đó là con bò mộng đầu tiên của loài bò mộng, uy nghi lắm, sừng như sừng
bò rừng, nó dùng sừng đó để dồn kỳ lân tới khoảng tận cùng của đất liền. Nghe
đây, nghe cho lẹ."
"Ta vẫn nghe mà," lân kêu lớn. Đồng loại ta hiện ở
đâu, và con Bò Mộng Đỏ ra sao?"
Nhưng bướm đã lao sát tới tai lân, cười sặc sụa và cất tiếng
hát:
"Trong ác mộng ta bò quanh đất,
Lũ vện, vàng bé oắt sủa vang.
Rắn phun nọc độc rộn ràng,
Ăn mày xuống phố, ốc vàng hến xanh."
Bướm còn đi lả lướt thêm mấy đường trước mắt lân, trong ánh
hoàng hôn, rồi bay lạng ra xa dần, bay sâu vào khoảng chiều tím ngát ven đường,
vừa bay vừa ca như khiêu khích,
"Này chú thiêu thân, Ta hay chú vậy,
Tay nắm lấy tay,
Xin đừng nghĩ bậy..."
Hình ảnh cuối cùng lân còn giữ được của bướm là chiếc cánh nhỏ
lao vút vào đám lá cây. Cũng có thể là lân hoa mắt trông lầm, vì vào giờ chạng
vạng đó, trông đâu cũng thấy thấp thoáng những cánh bướm.
Dầu sao thì chú bướm cũng đã nhận ra ta; lân buồn rầu nghĩ vậy.
Thế cũng là có ý nghĩa rồi. Nhưng rồi lân lại tự nhủ, Không, vẫn chưa có ý
nghĩa gì hết, trừ phi phải có người làm bản nhạc; hay bài thơ về giống kỳ lân mới
chắc. Nhưng còn con Bò Mộng Đỏ là cái gì vậy? Một bài hát khác chăng, ta chắc vậy.
Bước lân chầm chậm, bóng đêm bắt đầu phủ dầy. Trời thấp xuống
với màu đen gần như trong vắt, trừ một khoảng vàng lộng, đó là khoảng chị Hằng
lẩn sau cụm mây dầy. Lân hát khẽ một bài ca mà một cô gái trước đây lâu lắm đã
nhiều lần hát trong khu rừng cũ của lân:
Bao giờ chim sẻ với mèo
Sống chung hòa thuận, tôi chiều ý anh.
Bao giờ cá chán biển xanh
Nhảy lên ở cạn, tôi anh một nhà
Lân không hiểu lời ca, nhưng bài ca làm lân nhớ khu rừng nhà
kinh khủng. Hình như khi lân bước chân ra đi trời vừa sang thu thì phải.
Sau cùng lân phủ phục xuống, nằm dài trên cỏ lạnh, thiu thiu
ngủ. Lân vốn cực kỳ thận trọng, nhưng khi đã ngủ thì ngủ thật say. Quả thực nếu
không mơ thấy mình đã trở lại cố hương thì lân đã thức giấc ngay khi nghe tiếng
bánh xe và tiếng chuông leng keng đang tiến tới gần, mặc dầu bánh xe quấn giẻ để
lăn cho êm, chuông bọc len để kêu vừa đủ. Lân mơ về chốn xa, quá xa, xa hơn
vùng chuông kêu nhiều lắm, vì vậy lân vân thiêm thiếp nằm đó, không thức giấc.
Có chín xe ngựa bốn bánh, hết thẩy đều phủ vải đen và kéo bởi
những con ngựa đen gầy, mỗi lần gió thổi tung tấm rèm đen lên, những chấn song
lộ ra như hàng răng đen ngòm. Xe dẫn đầu trên có một mụ già mập lùn ngồi cầm
cương ngựa, dọc theo phần hông được phủ kín của xe là tấm biển có viết dòng chữ
lớn: GÁNH XIỆC NỬA ĐÊM CỦA BÀ MÁ VẬN MẠNG. Và bên dưới là dòng chữ nhỏ
hơn: Những sinh
vật thuần sống về đêm được mang ra ánh sáng.
Khi chiếc xe tiến ngang khoảng lân đang thiêm thiếp giấc nồng,
mụ già vội ghìm con hắc mã. Tất cả những xe sau cùng phải dừng lại, đợi mụ già
uốn mình nhảy xuống, yểu điệu một cách dễ ghét. Lướt nhanh đến sát lân, mụ cúi
nhìn kỹ giây lâu rồi nói, "Lạy trời, có lẽ là ta đã được gặp con vật cuối
cùng của loài này." Lời nói của mụ để lại một dư vị vừa đường mật vừa gay
cấn.
"Liệu hắn có biết," mụ vừa nói vừa cười, nhe những
chiếc răng nhọn như những viên sỏi. "Sức mấy mà ta nói cho hắn biết."
Mụ quay mặt nhìn lại đoàn xe màu đen, bật móng tay làm hiệu hai lần. Hai người
điều khiển hai xe số hai và số ba nhảy xuống, cùng tiến lại phía mụ; một người
dáng lùn, da mặt đen, vẻ lạnh lùng như mụ; người kia thì cao, gầy, vẻ ngơ ngác
cương quyết, bên ngoài khoác một chiếc áo bành-tô màu đen cũ, đôi mắt màu xanh.
"Ông bạn thấy gì nào?" mụ hỏi người lùn.
"Rukh, ông bạn thấy vật gì nằm đây nào?"
"Con ngựa chết," hắn trả lời. "À mà không,
không chết. Cứ cho là thuộc loại bà con với loài rồng đi, hay với loài quái vật
đầu người mình sư tử cũng được." Tiếng cười khúc khích của hắn nghe như tiếng
que diêm quẹt."
"Điên! Ông bạn thật điên," Bà Má Định Mạng nói với
hắn thế. Rồi bà quay sang người kia, "Còn ý kiến ông bạn này thì sao, hỡi
ông bạn phù thủy, ông bạn tiên tri, ông bạn làm trò quỷ thuật. Với con mắt phù
thủy ông bạn nhìn thấy gì nào?" Bà Má và Rukh cười ầm lên, nhưng tiếng cười
đó ngừng bặt khi mụ nhận thấy người cao lớn vẫn còn dán mắt vào lân. "Thế
nào, ảo thuật gia, ông trả lời đi chứ!" Mụ lầu bầu, nhưng người cao lớn vẫn
không quay đầu. Mụ vươn bàn tay như càng cua ra, nắm lấy cằm y quay mạnh lại.
Đôi mắt y đối chiếu với cái nhìn vàng vọt của mụ.
"Con ngựa," y lẩm bẩm. "Một con ngựa cái trắng."
Bà Má Định Mạng nhìn y giây lâu. "Ông bạn ảo thuật gia,
ông cũng điên nốt," mụ cất tiếng cười hi hi, "nhưng cung cách điên của
ông còn tồi tệ hơn, nguy hiểm hơn. Rukh nói dối vì tham, nhưng ông bạn nói dối
vì sợ. Hoặc đó là lòng tốt chăng?" Người đàn ông không nói năng gì. Bà Má
Định Mạng cười tủm.
"Ừ thì đây là con ngựa cái trắng đi, " mụ nói.
"Tôi muốn nó gia nhập vào gánh xiệc của mình. Cái chuồng thứ chín còn trống
đấy."
Để tôi đi kiếm thừng," Rukh nói. Hắn vừa toan quay đi
thì mụ ngăn hắn lại.
"Chỉ có một thứ thừng là có thể buộc được nó," mụ
nói. "Đó là thứ thừng mà các thần linh đã dùng để trói con sói Fenris, thừng
làm bằng hơi thở của cá, nước rãi của chim, râu của đàn bà, tiếng kêu của mèo,
thần kinh hệ của gấu, và còn một thứ nữa. À tôi nhớ ra rồi - rễ núi. Không có
những thứ đó cũng chẳng có giống người lùn nào bện thừng cho ta. 1 Thôi thì với tài nghệ của chúng ta, đành
thay thứ thừng vi diệu đó bằng cũi sắt vậy. Để tôi niệm chú giữ cho nó ngủ như
thế này," nói đoạn mụ làm điệu đan những sợi tơ không khí, miệng lẩm bẩm
niệm thần chú. Nhường như có mùi khét lẹt bao quanh lân.
"Nào bây giờ hãy nhốt nó vào cũi," mụ nói với hai
người đàn ông. "Con vật sẽ ngủ say cho đến khi mặt trời lên dù ta có ồn ào
đến mấy, trừ khi quý vị ngu xuẩn mó tay vào nó. Hãy giở cái cũi sắt thứ chín ra
và quây chấn song sắt quanh nó, nhưng cẩn thận đó! Bàn tay nào vuốt bờm nó tức
khắc sẽ biến thành móng chân lừa, có hối cũng không kịp." Mụ lại nhìn người
đàn ông cao gầy bằng con mắt riễu cợt. "Ông bạn phù thủy, e rằng những trò
vặt đó của ông rồi đây cũng chỉ thực hiện được một cách khó khăn hơn mất
thôi," mụ vừa nói vừa thở phào. "Vào việc ngay đi, trời chẳng còn tối
được bao lâu nữa đâu."
Mụ đi lướt trở lại vùng có bóng xe đổ xuống như thể mụ chỉ vừa
ra để xem giờ. Khi mụ đã đủ xa khỏi tầm nghe, Rukh nhổ nước bọt và nói, vẻ ngạc
nhiên, "Tôi không hiểu mụ già lo lắng cái gì kia chứ. Chúng ta mó vào con
vật thì làm sao nào?"
Ảo thuật gia đáp lời hắn bằng một giọng nhẹ sớt phải lắng tai
mới nghe nổi. "Tay người chạm vào làm thức giấc con vật. Ma quỷ đã khiến
nó ngủ say như vậy. Mà Bà Má Định Mạng thì không khiến được ma quỷ."
"Nhưng mụ lại muốn chúng ta tin là có," Rukh cười nửa
miệng. "Đụng vào, tay biến thành móng lừa, cha a a!" Nhưng hắn cũng
thục hai tay sâu vào túi. "Thần chú với chẳng thần chú, đó chỉ là con ngựa
cái trắng già chứ gì.
Nhưng ảo thuật gia đã đi về phía toa xe cuối cùng, "Lẹ
lên nào," ông ta nói. "Trời sáng đến nơi rồi." Họ rỡ cái chuồng
thứ chín, rỡ chấn song, rỡ sàn, rỡ mái, rồi dựng lại quanh lân để nhốt nó. Rukh
giằng mạnh cái cửa để kiểm soát xem đã được khóa thật kỹ chưa, đúng lúc những
lùm cây xanh phía trời đông bắt đầu nổi bật thì lân mở bừng đôi mắt. Hai người
vội lẩn đi, nhưng ảo thuật gia còn ngoái cổ lại quan sát lân đứng dậy trừng trừng
nhìn những chấn song sắt, đầu lắc lắc như đầu một con ngựa trắng già.
--------------------------------
Theo thần thoại Bắc Âu. (Chú thích của người dịch) |
2
Chín toa xe của Gánh Xiệc Nửa Đêm trông nhỏ thó dưới ánh sáng
ban ngày, chẳng có gì là ghê gớm mà nhỏ và mảnh như những chiếc lá khô. Vải phủ
đã được cất đi, nay thì trên mỗi xe đều được trang hoàng bằng những lá cờ đen cắt
ở chăn ra với những dải băng đen ngắn, tất cả phe phẩy dưới gió sớm. Đây là một
khoảng đất có nhiều cỏ rậm, các chuồng nhốt được xếp theo hình ngôi sao năm
cánh, chính giữa khoảng tam giác là toa xe của Bà Má Định Mạng. Chỉ riêng xe
này là còn phủ kín màn đen. Chẳng thấy Bà Má Định Mạng đâu.
Rukh dẫn đám người nhà quê đi từ chuồng này sang chuồng khác,
giới thiệu từng con vật bị nhốt bên trong bằng một giọng u sầu ảm đạm.
"Đây là quái vật manticore, đầu người, mình sư tử, đuôi bọ cạp. Bị bắt
vào lúc nửa đêm, khoái ăn người sói cho dịu hơi thở. Quý vị thấy không, toàn những
con vật chuyên sống về đêm bị bắt trình diện dưới ánh sáng ban ngày. Đây là con
rồng, đôi khi miệng phun ra lửa nhất là khi nó bị kẻ nào trêu chọc, một chú bé
chẳng hạn. Bên trong lục phủ ngũ tạng nó là cả một hỏa ngục, nhưng da ngoài thì
lạnh như băng. Con rồng bập bẹ nói được mười bảy thứ tiếng, nó bị chứng phong
thấp. Đây là dê thần, băm lăm lắm. Xin quý bà hãy lui cho xa. Thật tình nó hay
gây nhiều phiền toái lắm đó. Nó bị bắt trong một trường hợp đặc biệt. Chỉ để
quý ông coi thôi, xin trả thêm cho một đồng tiền nữa. Đây toàn là những con vật
sống về đêm.
Đứng bên cạnh chuồng nhốt lân, ảo thuật gia đưa mắt nhìn đám
người nối đuôi nhau tuần tự xem từng con vật nhốt trong chuồng, riễu quanh đủ
khoảng hình sao năm cánh. Ông nói với lân, "Thực ra tôi chẳng nên đứng đây
mới phải. Mụ già bảo tôi phải đứng xa chuồng này." Ông bật tiếng cười khẽ,
khoái trá. "Từ ngày tôi gia nhập đoàn này mụ riễu tôi hoài, nhưng tôi cũng
làm mụ nhiều khi điên cái đầu."
Lân nhường như không để ý đến lời nhà ảo thuật nói, quay đi
quay lại trong chuồng, rùng mình mỗi khi chạm phải chấn song sắt vây quanh. Kể
ra nhìn chấn song sắt tỏa ra, cái mùi giết người ấy, làm lân có cảm tưởng xương
mình bị nghiền vụ thành cám mà máu thì đỏ thành mưa rào. Vậy những chấn song sắt
ấy tất có bùa chú chi đây, lúc nào chúng cũng như bí hiểm thì thầm với nhau. Tiếng
khóa nặng nề nghe như tiếng cười hay tiếng rên của một loài khỉ điên.
"Cho tôi hay, người thấy gì nào," ảo thuật gia nói
như Bà Má Định Mạng đã nói với ông. "Hãy nhìn các bạn đồng cảnh lạ kỳ và
nói cho tôi hay người thấy gì?"
Tiếng Rukh vừa lúc đó vang tới sang sảng trong ánh sáng vàng
vọt của buổi trưa muộn. "Con chó ba đầu canh cửa âm phủ, bộ lông như vẩy rắn,
thưa quý vị, chính nó đấy. Trước đây đã một lần nó bị Hercules lôi từ âm phủ
lên. 1 Lần
này đến lượt chúng tôi nhử lên nữa, hứa sẽ cho nó một đời sống khá hơn. Tên nó
là Cerberus. Xin quý vị hãy nhìn cho kỹ sáu con mắt lừa lọc của nó. Rồi đây tất
có ngày quý vị được dịp nhìn nó lần nữa. Xin theo đường này để tới Rắn Thần
Midgard. 2 Xin theo đường này."
Lân chiếu ánh mắt nhìn qua chấn song sắt tới chuồng nhốt...
Cerberus. Đôi mắt lân mở ngạc nhiên. "Chỉ là con chó," lân thốt khẽ.
"Một con chó xác xơ, một con chó khốn khổ khốn nạn, có một đầu, làm gì có
bộ lông như vẩy rắn. Sao thiên hạ lại nhìn nó thành con linh khuyển ba đầu
Cerberus cho được? Họ mù cả sao?"
"Xin nhìn nữa," ảo thuật gia nói.
"Và dê thần," lân tiếp. "Dê thần chỉ là con đười
ươi, một con đười ươi già chân khoằm. Con rồng là con cá sấu thở ra cá thì đúng
hơn là thở ra lửa. Quái vật Manticore, đầu người, mình sư tử, đuôi bọ cạp là
con sư tử đó - một con sư tử toàn hảo đây, nhưng cũng không đồ sộ gì hơn nhưng
con khác. Ta thật không hiểu."
"Mãng xà Midgrad có thể vươn dài quấn trọn cả quả địa cầu,"
Rukh tiếp tục giải thích. Và nhà ảo thuật lại một lần nữa nói, "Xin nhìn nữa."
Mắt lân đã quen với bóng tối, do đó nhận ra có hình vẽ khác
trong từng chuồng, những hình vẽ lớn bủa rộng bao lấy những con vật bị nhốt, những
con vật của Gánh Xiệc Nửa Đêm. Từ một hạt nhỏ sự thực bung ra thành một trận cuồng
phong của ảo tưởng. Vì vậy mà có quái vật đầu người mình sư tử, mắt nhớn nhác,
miệng nhỏ rãi, đuôi cong vắt vẻo, dọc xương sống lắc lư - vì vậy mà có con sư tử
nữa, nếu đem so sánh thì thật bé oắt và kỳ cục. Tuy nhiên chúng vẫn là chúng.
Lân đứng sững vì ngạc nhiên.
Tất cả những chuồng khác đều như vậy. Bóng con rồng há miệng
khạc những tia lửa vô hại, khán giả thì há hốc mồm, thở hổn hển, sợ rúm người;
bóng con chó ba đầu canh địa ngục bộ lông vẩy rắn đương ngoác ba mõm sủa như muốn
gieo tang tóc xuống đầu những tên phản bội; và bóng chú dê thần đi khập khà khập
khiểng, liếc mắt đưa tình thèm muốn mấy cô thiếu nữ trong đám khán giả bên
ngoài. Trong khi đó con cá sấu thật, con đười ươi thật, và con chó xác sơ thật,
mờ lạt hẳn đi trước những bóng ma kia cho đến khi chính chúng biến thành bóng,
kể cả dưới cái nhìn luôn luôn tỉnh táo của lân. "Đây là một thứ yêu thuật
lạ lùng," lân nói khẽ. "Yêu thuật chứ chẳng phải ảo thuật."
Ảo thuật gia cất tiếng cười sảng khoái. "Hay lắm! Hay lắm!
Tôi biết những thứ bùa chú ba xu đó của mụ già chẳng thể làm lóe mắt được người
mà." Giọng nhà ảo thuật rắn rỏi và bí mật. "Bây giờ thì mụ phạm phải
lầm lỗi thứ ba. Một kẻ làm trò yêu thuật lừa thiên hạ nhưng đã già và mỏi mệt
như mụ thì chỉ phạm một lầm lẫn cũng đủ đi đứt huống chi lại ba. Ngày tàn rồi."
"Ngày tàn rồi, thưa quý vị," tiếng Rukh nói với đám
khán giả, tưởng như hắn có nghe thấy và muốn nhái lại lời của nhà ảo thuật.
"Hoàng hôn của chư thần 3 xuất hiện ở nhiều nơi trên trái đất với cỡ
lớn nhỏ khác nhau. Thường thì nó tàng hình, chúng ta đâu thấy được, nhưng nó vẫn
bò oằn oại trên trái đất chúng ta ở - thần thoại chả đã một lần móc giữ được nó
mà. Và tất nhiên nó cũng có thể nổi cáu nếu biết rằng một khoảng bụng oằn oại của
nó xuất hiện hàng ngày, và đặc biệt vào những ngày chủ nhật, tại Gánh Xiếc Nửa
Đêm của Bà Má Định Mạng. Nhưng xin quý vị cứ yên tâm đi, Thần Xà Midgard còn bận
suy nghĩ về nhiều việc quan trọng khác hơn là về khoảng bụng lộ liễu của nó.
Xin quý vị cứ yên tâm mà ngắm" Rukh nói những tiếng cuối cùng bằng một giọng
vo tròn và nhẹ thớt khiến các thính giả cười hả hê:
"Toàn là bùa chú mê hoặc," lân nói. "Mụ chẳng
làm được cái gì thật cả."
"Mà cũng chẳng thật sự thay đổi được cái gì," nhà ảo
thuật thêm lời." Tài mọn của mụ là hóa trang sự thực. Ngay cả việc này nhiều
khi cũng quá sức mụ nữa. Mụ hóa kem thành bơ, nhưng mụ lại có thể hóa sư tử
thành quái vật đầu người mình sư tử cho những ai ao ước được nhìn thử quái vật
đó, cặp mắt đó có thể khi được gặp quái vật đầu người mình sư tử thật thì lại
chỉ thấy đó là con sư tử thường tình, khi gặp rồng thật thì lại cho đó là con
thằn lằn, khi gặp Rắn Midgard thì lại cho đó là một vụ động đất. Và gặp kỳ lân
thì lại cho đó là con ngựa cái trắng." hùng giữa chư thần với đám người khổng
lồ. Sau đó một trái đất mới, một thiên đường mới xuất hiện (Ghi chú của dịch giả.)
Lân dừng bước trong chuồng, vì lần đầu tiên lân nhận ra rằng
nhà ảo thuật hiểu lời nói của mình. Nhà ảo thuật mỉm cười. Lân nhận thấy khuôn
mặt ông ta trẻ một cách lạ lùng, quá trẻ với số tuổi trời ông mang, khuôn mặt
không dấu vết thời gian, không ưu phiền, hay tư lự "Tôi biết người"
nhà ảo thuật nói.
Những chấn song sắt như thì thầm nham hiểm giữa hai kẻ đối
thoại. Rukh đã dẫn đám người đi về những chuồng sân phía trong. Lân hỏi:
"Ông là ai?"
"Tôi tên Schmendrick, ảo thuật gia," người ca như sếu
vườn trả lời. "Hẳn người chưa từng nghe tên tôi." Lân tiến tới thật gần
định đáp là hiếm khi lân để ý đến những hạng phù thủy này nọ, nhưng vì nhận thấy
giọng nói của người đó có ẩn một nỗi niềm gì vừa buồn rầu vừa dũng cảm nên lại
thôi. Nhà ảo thuật nói,
"Tôi giúp vui khán giả khi họ quy tụ lại thành đám, những
trò quỷ thuật vặt chỉ cần khéo tay một chút ấy thôi mà - hoa hóa thành cờ, cờ
thành cá, luôn luôn với lời bóng gió rằng tôi còn có thể biến hóa nhiều cách
cái này ra cái nọ, nếu tôi muốn, thực ra đó cũng chẳng đáng gọi là một công việc
nhưng trước đó hoàn cảnh tôi còn tệ hơn kia, hy vọng trong tương lại sẽ khá
hơn. Đây đâu phải là chung cục."
Giọng nói của ảo thuật gia làm lân có cảm tưởng mình sẽ bị nhốt
vĩnh viễn như thế này, và lân lại quanh quẩn bứt rứt quay tả quay hữu trong chuồng.
Rukh lúc đó đương đứng trước một chuồng trong có một con nhện bình thường đương
dệt mạng ngang qua các chấn song sắt. "Đây là nàng Arachne của xứ
Lydia," Rukh giải thích với đám đông. "Cam đoan đây là tay dệt số một
trong hoàn vũ. Định mạng nàng há chẳng chứng minh điều đó? Không may cho nàng,
lại đòi thi dệt với nữ thần Athena. Nữ thần này đã thua đậm, chính vì vậy mà
Arachne bị hóa thành nhện. 4 Nàng chỉ nhận lời tới đây biểu diễn tài dệt
cho
Bà Má Định Mạng trong Gánh Xiếc Nửa Đêm này. Sợi dọc là tơ
tuyết, sợi ngang là tơ lửa, không bao giờ hai sợi ngang dọc như nhau. Đó nàng
Arachne, thưa quí vị."
Lấy chấn song sắt làm khung, màng nhện dệt trên đó rất mong
manh đơn giản, gần như không có sắc màu gì, duy có ánh cầu vồng đâu đây như
sóng gợn. Mọi người khi dán mắt vào nhìn - kể cả lân - thì thấy khoảng đó bỗng
sâu thăm thẳm như những kẽ nứt hun hút trên mặt địa cầu, những kẽ nứt đó lại cứ
toác rộng ra vô tội vạ, cả thế giới nhường như sụp đổ đến nơi nếu không có những
sợi tơ nhện níu giữ. Lân phải lắc lắc cái đẩu, định thần lại, khiến những sợi
tơ nhện hiện nguyên hình, tầm thường và không màu sắc.
"Lần này khác với những lần trước," lân nói.
"Đúng thế," Schemendrick đồng ý một cách hằn học.
"Nhưng điều đó không do tài năng của Bà Má Định Mạng mà do lòng tin của
chính cô nhện. Nhện nhìn tấm mạng đơn giản dưới ánh sáng ảo hóa bỗng biến thành
chập chùng giăng mắc thì tin ngay rằng đó chính là tác phẩm của mình. Lòng tin
khác với yêu thuật của Bà Má Định Mạng là ở đó. Nếu đám khán giả tưởng mình là
thông minh kia không còn ngạc nhiên trước công trình của nhện, thì nhện chỉ còn
biết khóc. Chắc chắn chẳng ai muốn nghe nhện khóc."
Lân không muốn nhìn sau vào tấm mạng nhện nữa, đưa mắt nhìn
sang chuồng ngay sát bên. Hơi thở lân như ngưng lại thành sắt lạnh trong cơ thể.
Trên một cái sào bằng gỗ sồi có một quái vật, mặt người, mặt mụ đàn bà đanh ác,
mình chim đôi cánh bằng đồng, hai chân bám chặt lấy thân cây gỗ, hai tai tròn
như tai gấu. Một mớ tóc mượt màu sáng trăng đóng khung lấy khuôn mặt gớm ghiếc
đó, và khoảng hai bên bờ vai cân bằng của nó là những lông vũ nhọn hoắt như những
mũi dao. Toàn thân quái vật lấp lánh, nhìn vào thấy như ánh sáng đương thoát ra
tự vòm trời thăm thẳm. Hình như nó huýt một tiếng còi khi thấy lân nhìn và cất
tiếng cười cùng một lúc.
Lân bình tĩnh nói, "Quái vật này thật! Chính là cô nàng
Celaeno cực kỳ hung bạo đó." 5
Khuôn mặt Schmendrick bỗng trắng bệch. "Mụ già đã chó
ngáp phải ruồi mà bắt được nó," ảo thuật gia thì thầm. "Mụ bắt đúng
lúc nó đương ngủ, y hệt trường hợp của ngươi vậy. Nhưng đó là một điều bất hạnh,
cả hai cùng biết vậy. Kể ra mánh khóe của mụ già thừa đủ để giữ quái vật, nhưng
chết nỗi sự hiện diện của quái vật chiếm lĩnh gần hết khả năng phù chú vốn đã
èo ọt của mụ khiến e rằng chỉ qua đi một thời gian nữa là mụ tiêu ma sự nghiệp,
không còn đủ khả năng để tráng một quả trứng, lẽ ra mụ không bao giờ nên đùa
dai với những "thứ thiệt" đó, dính vào cô nàng Celaeno thứ thiệt, và
một kỳ lân thứ thiệt là rước họa vào thân, tránh đâu cho thoát. Sự thật nung chảy
bất kỳ hạng bùa chú nào, bao giờ cũng thế, nhưng mụ không sao cưỡng nổi mối quyến
rũ là cứ thử bắt những "thứ thiệt" đó phục vụ mình xem sao. Lần này
thì..."
"Đây là bà chị của cầu vồng, quí vị tin hay không
tùy," giọng Rukh be be như giọng lừa vang tới, y đương tiếp tục chỉ dẫn
đám khán giả. "Tên cô nàng có nghĩa là "Hắc nương" đôi cánh bướm
giương ra phủ đen vòm trời mỗi khi sắp có bão tố. Ba chị em nhà Harpies này từng
làm chết đói vua Phineus, bởi vì thức ăn đem tới, chưa ăn đã bị thiu thối rồi.
Chỉ có con trai của thần Gió Bấc là làm các cô nàng phải bỏ trò đó. Đúng không
cô nàng?" Quái điểu làm như không nghe thấy câu hỏi. Rukh nhăn răng cười.
"Cô nàng đã chiến đấu dũng mãnh còn hơn tất cả những
quái vật ở đây gồm lại," Rukh tiếp. Bắt giữ quái vật này thực nguy hiểm,
chẳng khác gì giữ cả địa ngục bằng một sợi tóc. Vậy mà điều đó không sao đối với
tài nghệ của Bà Má Vận Mạng. Đây, những quái vật ban đêm được mang ra trình diện
ban ngày! Cô nàng muốn ăn một chiếc bánh bích quy chăng? Vài người trong đám
đông cười khúc khích. Vuốt sắc của mãnh điểu xiết lấy thớ gỗ nghiến thành tiếng
kêu ken két.
"Khi nó tự giải phóng được, chắc người cũng sẽ tự do. Nó
giữ người trong cũi mà làm gì" Ảo thuật gia nói.
"Tôi không dám đụng đến thanh sắt." lân nói.
"Sừng tôi mở được khóa nhưng làm sao tôi chạm được lỗ khóa. Tôi không thể
ra được." Lân run lên vì sợ con quái điểu, nhưng giọng thì vẫn bình tĩnh.
Schmendrick vươn người cao lên đến mấy tấc, lân thực không ngờ.
"Xin đừng sợ gì cả," nhà ảo thuật nói bằng giọng cao thượng. "Vì
mặc dầu trông tôi có vẻ bí hiểm, nhưng tim tôi thật dễ rung động." Câu
chuyện đành bỏ dở vì khi đó Rukh đã tới với đám khán giả, đám này coi bộ trầm
tĩnh hơn đám người bẩn thỉu cười hô hố một cách trơ trẽn trước quái vật đầu người
mình sư tử. Ảo thuật gia chuồn đi, ném một lời nhắn nhủ rất khẽ. "Đừng sợ
gì cả, Schmendrick bao giờ cũng về phe ban. Chớ làm gì cả cho đến khi gặp lại
tôi. Tiếng thì thầm của ảo thuật gia lướt tới nhẹ thớt và cô đơn, đến nỗi lân
không chắc có phải là mình nghe thấy vậy không, hay chỉ mang mang cảm thấy vậy.
Trời đã tối dần. Đám đông đứng trước chuồng lân, nhìn lân bằng
những tia nhìn e dè lạ lùng. Rukh nói, "Con kỳ lân," đoạn đứng né
sang bên.
Lân nghe thấy những trái tim đập mạnh, những ánh mắt rưng
rưng, và những hơi thở nghẹ ngào, không một người nào thốt nên lời. Nhìn vẻ mặt
sầu hận tiếc thương của họ, lân biết là họ nhận ra mình, và nhận sự cơ cực của
họ như niềm tôn kính. Lân nghĩ đến bà cố nội anh chàng đi săn ngày nào, và lân
tự hỏi sự thể sẽ ra sao khi người ta già và khóc.
"Thường thường mọi bận tới đây là hết," Rukh nói,
"Bởi chúng tôi còn có thể để quý vị xem một cái hơn là con kỳ lân thượng
thặng này? Nhưng Bà Má Định Mạng lần này còn cống hiến quý vị một bí mật nữa -
đây là một con quỷ tàn hại hơn rồng, kinh khủng hơn quái vật đầu người mình sư
tử, xấu xa hơn quái điểu, và dĩ nhiên cũng phổ biến quen thuộc hơn kỳ
lân." Rukh vẫy tay về toa xe cuối cùng, và tấm màn quằn quại tự động vén
lên, không ai kéo nó lên cả. "Coi chừng đó," Rukh kêu lên. "Coi
chừng đó, xin ngắm kỹ đây là Chung Cục của vạn sự! Chính là Elli
đó!" 6
Trong chuồng, bóng tối thẫm hơn trời chiều bên ngoài và khí lạnh
tỏa ra linh động như một sinh vật, mụ Elli đương di động giữa khoảng lạnh kinh
hồn đó. Khuôn mặt xương xẩu, thân hình hom hem, quần áo rách mướp, mụ đương đu
đưa tự sưởi ấm trước ngọ lửa nào đó. Trong mụ mong manh tưởng chừng sức nặng của
bóng tối trong chuồng cũng có thể đè bẹp mụ; trông mụ cô đơn tuyệt vọng tưởng
có thể xúc động từ tâm của cả đám khán giả, khiến họ sẵn sàng ùa tới tháo cũi
giải phóng cho mụ. Nhưng không, trái lại, đám đông bắt đầu lảng xa dần tưởng
như chính Elli đương theo đuổi rình rập họ. Thực ra thì mụ cũng chẳng thèm ngước
mắt nhìn nữa. Mụ ngồi trong bóng tối tự ca khẽ cho mình nghe một bài, giọng mụ
ken két như tiếng cưa ngập vào thân cây và thân cây sắp răng rắc đổ xuống. Mụ
ca:
Nhổ đi, nó lại mọc ra
Giết đi, trong nó vẫn là sống lâu.
Trộm đi, nào có mất đâu
Cái đi, đi mất, còn lâu mới về.
"Trông mụ chẳng ra cái thớ gì, phải không các bạn,"
Rukh hỏi. "Nhưng cái thế anh hùng cũng không chống nổi mụ, thần thánh cũng
không vật ngã được mụ 7 ). Không bùa chú phép thuật nào giữ nổi mụ,
bởi, xin thưa cùng quí bạn, mụ đâu phải là tù nhân của chúng tôi. Ngay cả khi
chúng tôi trưng bày mụ đây, mụ vẫn còn thênh thang đi lại, sờ mó nắm giữ các bạn
đấy chứ. Mụ là Tuổi Già mà."
Hơi lạnh trong chuồng tỏa ra đến chỗ lân đứng, hơi lạnh chạm
vào lân khoảng nào, khoảng đó như trở thành yếu đuối hẳn đi, tàn tật hẳn đi.
Lân cảm thấy như da mình đương nhăn nheo, xương lỏng lẻo, sắc trắng rỡ ràng của
mình đương héo úa, tâm trí của mình đương cùn nhụt dần, và khi sắp hắt hơi thở
cuối cùng để vĩnh viễn xa lìa cõi thế còn cố nhớ mang máng thuở hiện hữu xa xưa
của chính mình. Gần đó, quái điểu cất tiếng kêu khẽ nhưng chua gắt. Lân thực
tình muốn được nép mình dưới đôi cánh đồng của quái điểu để tránh Elli. Mụ tiếp
tục giọng hát xẻ gỗ của mụ:
Cái gì sống ngoài biển khơi,
Chết đi thì lại chôn nơi đất liền.
Mềm thì chân đẵm lên trên,
Của cho đốt bỏng tay xin còn gì.
Chỉ riêng những vật ra đi,
Là đi, đi mãi thiết chi đường về.
Buổi trình diễn đến đó kết thúc. Mọi người bắt đầu ra về,
không ai dám lững thững đi một mình, mà nắm tay nhau hoặc hai người một, hoặc
càng đông càng hay và luôn luôn ngoái cổ lại xem "Mụ Già xồng xộc thần lực
của mình. Thần đã cố hết sức mình đến chùn chân, mà mụ Elli cứ đứng trơ trơ. Ai
mà chiến thắng nổi Tuổi
Già? (Lời chú của người dịch) có thì theo sau" không. Giọng
Rukh rền rĩ: "Thế quý vị không ở lại để còn nghe tôi kể sự tích Dê Thần
băm lăm sao?" và Rukh cất tiếng cười chua như dấm. Ánh sáng cuối cùng của
buổi chiều tà cũng vừa tắt lịm hẳn. "Những quái vật âm u chuyên sống về
đêm nay được đem ra trình diễn dưới ánh sáng ban ngày!" Elli còn hát, Rukh
thì cười ăng ẳng như chó sủa để tiễn những người còn lại lác đác.
Đây là một ảo giác, lân tự nói với mình như vậy. Đây quả là một
ảo giác - lân cố ngửng đầu nặng những ý nghĩ về già yếu, ốm đâu, chết chóc,
nhìn sâu vào bóng tối căn chuồng, thì đâu phải là mụ già Elli, mà chính là Bà
Má Định Mạng. Mụ đương vươn người, cười hí hí, và tụt xuống đất với dáng điệu
nhẹ như bóng ma. Lân hiểu rằng quả thực mình chưa hề bị già yếu, xấu xa, trái lại
vẫn trẻ đẹp như xưa. Có lẽ đó cũng một ảo giác nốt, lân buồn bã nghĩ vậy.
"Tôi vẫn khoái điều đó," mụ nói với Rukh. "Bao
giờ tôi cũng khoái điều đó. Tôi nghĩ rằng vừa rồi đã đạt được thành quả tuyệt vời."
"Bà nên kiểm soát lại con quái điểu khốn kiếp kia xem
sao," Rukh nói. "Tôi cảm thấy như nó đã nới lỏng được phần nào. Tôi
có cảm tưởng như mình là chiếc thừng quấn giữ lấy nó, mà nó thì rõ ràng đương cởi
lần mình ra." Giọng Rukh hạ thấp nữa, khàn khà, "Tống khứ nó đi, giữ
nó làm gì, kẻo rồi chúng mình bị nó xé cho tan xác, rồi quặp lấy bay lên trời,
như mang theo những cụm mây máu. Luôn luôn nó nghĩ như vậy đó. Tôi dám chắc thế."
"Đồ điên, câm miệng đi!" Giọng mụ phù thủy gắt mà
cũng không dấu được vẻ sợ sệt. Nó muốn trốn thoát ư, ta sẽ biến nó thành gió,
thành tuyết, hay thành bảy nốt nhạc. Nhưng ta phải giữ nó bằng được. Không một
nhà phù thủy nào dù cao tay đến mấy mà bắt sống nổi ác điểu thần thoại này. Đây
là một việc ngàn năm một thuở, vô tiền tuyệt hậu. Ta sẽ giữ nó dù có phải lấy
gan sống của ông bạn mà nuôi nó ăn hàng ngày.
"Ồ, thật là quí hóa quá," Rukh nói, và hơi xích ra
xa mụ một chút. "Nhưng nếu nó thích gan bà thì sao?
Lúc đó bà sẽ làm gì nào?"
"Tôi vẫn cho nó ăn gan của ông bạn," Bà Má Định Mạng
nói: "Ba chị em nhà Harpies này 8 ngu chết lên ấy mà, gan tôi hay gan ông bạn
chúng đâu phân biệt nổi."
Một mình dưới ánh trăng lạnh, mụ già đi lướt từ chuồng này đến
chuồng nọ, lúc lắc những ổ khóa, châm chọc bằng vài lời thần chú, như thể mấy
bà nội trợ vắt nước dưa bở ngoài chợ. Khi mụ tới trước chuồng nhốt quái điểu,
nó thét lên một tiếng nhọn hoắt như mũi giáo, và xòe rộng đôi cánh khủng khiếp
của nó ra. Trong một khoảnh rộng đôi cánh khủng khiếp của nó ra. Trong một khoảnh
khắc, lân có cảm tưởng những chấn song sắt bay tung ra hết cả như mưa rào!
Nhưng mụ già bẻ khục tay kêu căng cắc, chấn song sắt vẫn hoàn chấn song sắt, và
con quái điểu thu mình đứng nguyên trên sàn gỗ như cũ, chờ đợi.
"Chưa được", mụ phù thủy nói. "Chưa được đâu."
Đôi bên nhìn nhau cùng bằng đôi mắt đó. "Ngươi là của ta. Nếu ngươi giết
ta, ngươi vẫn thuộc về ta." Quái điểu không hề cử động, nhưng trăng vừa ló
ra khỏi mây.
"Chưa được đâu," Bà Má Định Mạng nhắc lại, rồi quay
sang chuồng nhốt lân nói bằng giọng ngọt ngào và nhẹ như mây khói, "Khi
này ta đã làm ngươi hoảng hồn một lúc phải chăng?" Mụ cười như tiếng rắn
xáo xác chạy trốn dưới bùn, và tiến tới gần hơn.
"Dù ông bạn ảo thuật gia của ngươi có nói thế nào đi nữa,"
mụ tiếp, "ta hẳn cũng phải có tài nghệ mới khiến nổi một kỳ lân ngỡ là
mình già xấu đi chứ. Loại bùa chú hai xu kia có giữ nổi loại quái điểu kia
chăng?"
Lân đáp, "Đừng huênh hoang, mụ già. Tử thần của mụ còn đứng
kia và đang nghe mụ."
"Đúng," Bà Má Định Mạng nói bình tĩnh. "Nhưng
ít nhất ta cũng còn biết là ta cũng còn biết là ta hiện ở đâu. Chứ đâu như
ngươi, chạy trên đường lộ tìm cái chết cho mình." Mụ lại cười, "Và ta
biết tử lộ đương chờ ngươi ở đâu. Giữ ngươi ở đây là giữ ngươi khỏi sa vào nơi
đó, và người phải biết ơn ta mới phải."
Quên rằng mình đương ở đâu, lân hết sức ẩn những thanh sắt,
thấy đau mà lân không chịu lui. "Con Bò
Mộng Đỏ," lân nói, ta tìm đâu "cho thấy Con Bò Mộng
Đỏ đây?"
Bà Má Định Mạng tiến tới rất gần, "Con Bò Mộng Đỏ của
vua Haggard," mụ nói khẽ. "Thì ra ngươi có biết chuyện Con Bò Mộng
đó," Mụ cười để lộ hai chiếc răng trước cửa. Con Bò Mộng không chiếm được
ngươi đâu. Ngươi thuộc về ta rồi."
Lân lắc đầu. "Mụ biết đó," giọng lân dịu dàng.
"Hãy thả ác điểu Celaeno, trước khi chưa muộn nào, và thả cả ta nữa. Giữ lấy
những hình bóng nghèo nàn của mụ, nếu mụ muốn, nhưng hãy để cho bọn ta
đi."
Đôi mắt lờ đờ trễ nải của mụ bỗng rực sáng đến nỗi đám thiêu
thân tơi tả vừa xuất hiện trong bóng tối cùng lao vút tới, tiếng cánh lèo xèo
như bụi tuyết, "Ta sẽ phải thôi trò biểu diễn trước tiên. Lê gót trong cõi
đời cô tận, kéo theo bầy đàn quái đản nửa mùa này - bộ ngươi nghĩ rằng đó là giấc
mộng mà ta ấp ủ tự thuở còn trẻ, còn tinh ma quỉ quái sao? Bộ ngươi tưởng ta lấy
làm thỏa mãn tự cao tự đại về những trò ảo thuật tầm thường, ngu xuẩn này mà
không hề biết tới chân giá trị những phép thuật sáng giá sao? Ta phải bầy trò với
chó, với khỉ, bởi thế bất khả, chẳng nắm được cái gì hơn. Bây giờ ngươi bảo ta
hãy nhắm mắt làm đui không hiểu đến uy lực của ngươi. Ta vừa nói với Rukh dù có
phải lấy gan y cho quái điểu ăn mà giữ được nó, ta cũng làm. Và để giữ ngươi,
dù ta có phải sử dụng đến bạn ngươi là Schmendrick -" Mụ còn nói huyên
thuyên nhiều nữa, sau cùng thì mụ yên lặng.
Lân bảo mụ, "Nói về ăn gan, phép thuật thật không bao giờ
dùng gan người khác như vậy. Mụ hãy xé gan xé cật của chính mụ, và đừng hòng nó
lành nguyên như cũ. Những phù thủy chính hiệu đều biết rõ điều đó."
Bà Má Định Mạng chú mục ngắm lân, một ít hạt cát rơi sào sạo
xuống má. Tất cả những mụ phù thủy đều khóc như vậy. Mụ quay lưng tiến nhanh về
phía toa xe, chợt mụ quay lại lần nữa, nhe răng cười nham nhở, "Dầu sao
thì ta cũng lừa được ngươi hai lần, Ngươi có nghĩ rằng đám người đó mở mắt thao
láo ra là nhận ra ngươi ngay, không cần có sự trợ giúp của ta? Không đâu, ta đã
khiến ngươi xuất hiện trước chúng dưới một hình dáng dễ nhận hơn, đặc biết cái
sừng của ngươi. Thế là những ngày này đám dân chúng đã nhờ một mụ phù thủy tầm
thường mà nhận diện ra một kỳ lân chân chính. Tốt hơn hết, ngươi ở lại với ta
như một thứ kỳ lân giả, vì ở trên đời này chỉ có Con Bò Mộng Đỏ là sẽ nhận biết
ra ngươi ngay khi gặp ngươi." Mụ vào khuất trong toa xe, và con quái điểu
lại để trăng ló ra.
--------------------------------
Thần thoại Hy Lạp. (Ghi chú của dịch giả) |
|
Theo thần thoại Bác Âu: Rắn Thần Midgard lớn đến nỗi chiều
dài đủ quấn quanh trái đấ. (Ghi chú của dịch giả) |
|
Theo thần thoại Bắc Âu "Hoàng hôn của chư thần"
là ngày tận thế. Toàn vũ trụ bị thiêu rụi dưới ngọn lửa thư |
|
Thực ra, theo thần thoại Hy Lạp, thì trong cuộc thi với nữ
thần, Arachne đã dệt những đề tài xúc phạm tới thần linh, vì vậy tấm dệt đó bị
nữ thần dùng thoi rạch nát rồi đặt tay lên trán Arachne khiến nàng nhận rõ những
lỗi lầm của mình mà treo cổ tự sát. Chứng kiến cảnh đó, nữ thần Athena thương
hại, biến người con gái xấu số thành kiếp nhện để làm gương cho hậu thế. (Chú
thích của dịch giả) |
|
Theo thần thoại Hy Lạp, Celaeno là một trong mấy chị em
Harpies, con của Poseidon và Gaea, mặt đàn bà, mình chim ưng, móng vuốt cực sắc,
sứ giả cho những vụ thần linh trả thù, hoặc có nhiệm vụ đi trừng trị những
tên sát nhân. (Lời chú của người dịch) |
|
Theo thần thoại Bắc Âu thì bà già Elli là thần Tuổi Già. (Lời
chú của dịch giả) |
|
Vị thần dũng mãnh nhất của Bắc Âu là thần Thor vào một dịp
thi tài đã xông vào định quật ngã Elli để chứng tỏ |
|
Tức là ba chị em nhà quái điểu này. Chúng có tên: Aello,
Ocypete và Celaeno, tức là con đang bị bắt đây. (Lời chú của người dịch) |
3
Schmendrick trở lại vào lúc trời sắp rạng đông, lướt lẹ giữa
những chuồng êm như nước chảy. Chỉ có quái điểu là kêu một tiếng khi nhà ảo thuật
lướt qua đó. "Tôi không thể đến sớm hơn được." ảo thuật gia nói với
lân. "Mụ cử Rukh canh chừng tôi, và y thì rất ít ngủ. Tôi đã hỏi y một câu
đố, thường thường y thức suốt đêm để tìm lời giải những câu đố. Lần sau tôi sẽ
kể cho y nghe một chuyện vui để y bận tâm suốt một tuần."
Lân đứng lặng, vẻ u buồn. "Có phù phép của mụ phù thủy
trên tôi," lân nói. "Sao ông bạn không cho tôi hay điều đó?"
"Tôi tưởng là người biết chớ," ảo thuật gia nhã nhặn
đáp. "Vả lại sau hết người không ngạc nhiên khi thấy đám đông thiên hạ tới
xem nhận ra người hay sao?" Tiếp đó ảo thuật gia mỉm cười khiến khuôn mặt
của ông già giặn thêm được một tí. "Không, chắc là không. Người chẳng bao
giờ ngạc nhiên về điều đó."
"Trước đây chưa hề bao giờ tôi bị phù chú như thế
này," lân nói và rùng mình thật lâu, thật thấm thía. "Cho tới nay
chưa hề có một thế giới nào mà tôi không được biết."
"Tôi hiểu rõ cảm tưởng của bạn," Schmendrick nói,
giọng nồng nhiệt. Lân nhìn nhà ảo thuật trong bóng tối, đôi mắt xa vời vợi, và
Schmendrick cười bối rối, nhìn xuống hai bàn tay mình. "Hiếm khi người đàn
ông hiểu rõ mình là gì," ảo thuật gia nói. "Trên cõi đời này có nhiều
hiểu lầm quá đi. Nhưng thoáng gặp lần đầu tôi đã biết ngay bạn là kỳ lân, và đã
biết mình sẽ là bạn của bạn. Còn bạn thì coi tôi là tên hề, hay một tên ngu đần,
hay một tên phản bội, tôi sẽ thuộc những hạng đó hoài nếu bạn cứ tin như vậy.
Thứ bùa chú phù phép trên bạn chỉ là bùa chú phù phép mà thôi, nghĩa là che mắt
thế gian nhất thời, tan biến đi ngay sau khi bạn được tự do, còn cái nhìn mê hoặc
mà bạn gán cho tôi như trên, tôi đành mang nó suốt đời dưới đôi mắt bạn. Chẳng
mấy khi chúng ta được thật sự như bề ngoài, càng hiếm khi được thật sự sống như
niềm ao ước bên trong. Tôi vẫn còn nhớ bài hát nghe được thuở nào:
Kỳ lân thật giỏi
Theo dõi chính tà
Kìa miệng như hoa
Lòng đà man mác
Trắng đen đổi khác
Liên mắt hay liền"
Giọng nhà ảo thuật bềnh bồng dâng lên cao, trong khi vòm trời
ràng rạng dần, và trong một lúc, lân không còn nghe thấy những tiếng rên rỉ của
chấn song sắt, hay tiếng rang rảng của đôi cánh đồng của quái điểu.
"Tôi tin rằng bạn là bạn của tôi" lân nói. "Bạn
có thể giúp được tôi chăng?"
"Không giúp bạn còn giúp ai?" nhà ảo thuật trả lời
"Bạn là niềm hy vọng cuối cùng của tôi."
Từng con thú một của Gánh Xiệc Nửa Đêm lần lượt thức giấc,
con thì rên rỉ con thì hắt hơi, con thì rùng mình. Con thì vừa mơ thấy đá, bọ
hung và cỏ mềm; con thì vừa mơ thấy một bàn tay gãi giúp mình chỗ ngứa khoảng
sau tai. Duy có quái điểu là không ngủ, và giờ đây nó nhìn thẳng vào mặt trời,
không chớp mắt. Schmendrick nói, "Nếu để ác điểu tự giải phóng trước,
chúng ta hỏng mất."
Tiếng Rukh vang lên gần đâu đây - tiếng hắn bao giờ cũng vang
gầm như vậy - hắn gọi, "Schmendrick, Hây, Schmendrick, tôi đoán ra rồi! Đó
là cái bình cà phê, đúng không?" Nhà ảo thuật nói khẽ với lân, "Thôi
tối nay nhé cứ tin tôi cho tới lúc hoàng hôn đi." Rồi khom lưng lẩn nhẹ, một
phần người, một phần hồn của ảo thuật gia nhường như còn phảng phất, lưu luyến ở
lại. Ẩn trong toa xe của mụ, Bà Má Định Mạng lần đầu ngâm khẽ một bài ca khác về
Elli.
Đây là đó, thấp là cao,
Dở dang, dang dở làm sao thì làm.
Giả, chân ai biết mà ham,
Cái đi, đi mất, đừng tham của trời.
Đã có một số người mới tới, đứng rải rác ngơ ngác đây đó chờ
đợi. Rukh bắt đầu lên tiếng, giọng như giọng con chim sẻ bằng sắt, "Đây,
những loài vật chuyên sống về đêm!" Và Schmendrick thì đứng trên một cái bục,
làm trò quỷ thuật. Lân chăm chú ngắm ảo thuật gia và thấy không tin cẩn cho lắm,
không phải là tình cảm ông ta đâu mà là tại nghệ ông ta. Ông ta kéo cả một con
lợn nái tự tai một con lợn nái, niệm chú hóa một hòn đá, một ly nước thành một
vốc nước, năm con bài bích thành mười hai con bài bích, và một con thỏ thành một
con cá vàng. Mỗi lần ảo thuật gia làm bộ niệm chú rối tinh rối xòe, ông ta lại
liếc nhanh về phía lân, ý nói, "Ồ, chỉ có bạn là thấy rõ thực sự tôi đương
làm gì." Một lần ông ta hóa bông hồng thành hạt hồng (thực ra hạt đó là hạt
củ cải ra-đi), lân thích lắm.
Cuộc trình diễn bắt đầu. Lại một lần nữa Rukh dẫn mọi người
đi từ chuồng này sang chuồng khác với lời giải thích đao to búa lớn, nào rồng
phun lửa, nào chó ba đầu hú lên vì nhớ âm phủ, nào dê thần băm lăm tòm tem nữ
giới khiến các bà các cô rúm người lại muốn khóc. Mọi người liếc nhìn gờm gờm
và chỉ trỏ quái vật đầu người mình sư tử có răng nanh vàng khè, vòi nọc phồng
căng; họ đứng chết lặng trước hình ảnh mãng xà Midgard; họ đứng bỡ ngỡ trước tấm
lưới nhện to như tấm lưới đánh cá, tác phẩm của nàng Arachne thần thoại, tấm lưới
đó như chụp lấy vừng trăng, ánh sáng tung tóe mơ hồ. Đám đông thì tin đó là lưới
nhện thật, còn con nhện thì tin rằng nó đương nắm giữ vừng trăng thật.
Lần này Rukh không kể dài dòng về việc quái điểu quấy phá Vua
Phineus và đám quần hùng Argonauts đi chiếm bộ lông cừu vàng, hắn chỉ giới thiệu
qua tên quái điểu, rồi thúc giục mọi người sang chuồng khác. Quái điểu đắc ý mỉm
cười. Điều này chỉ có lân là nhận biết, và lân nghĩ rằng giá lúc đó mình nhìn
đi nơi khác thì hay hơn.
Khi đám khán giả đứng trước chuồng lân ngắm, lân chua chát thấy
cặp mắt họ sao mà buồn vậy. Họ còn buồn nữa không, lân nghĩ, nếu bùa chú yểm
trên lân hết tác dụng và họ chỉ còn chứng kiến một con ngựa cái trắng tầm thường?
Mụ phù thủy có lý, thực ra chẳng một ai trên đời này nhận được ra lân. Nhưng
cùng lúc đó có tiếng ai thì thầm, tựa như tiếng ảo thuật gia Schmendrick, rằng
những cặp mắt họ sao mà buồn.
Và tới khi Rukh the thé hét lên, "Xin quý vị chú ý ngày
Tận Thế, Chung Cục của đời người!" và tấm màn đen kéo ra để lộ mụ Elli,
già nua run rẩy trong bóng đêm băng giá, lân lại cảm thấy hãi hùng tuyệt vọng
trong cảnh già yếu, mặc dầu lân vẫn biết đó chỉ là Bà Má Định Mạng trá hình.
Lân nghĩ rằng mụ phù thủy biết rõ hơn những điều lân biết về mụ.
Bóng đêm ập xuống rất chóng, có lẽ vì quái điểu muốn vậy. Mặt
trời chìm xuống đám mây nham nhở như phiến đá chìm xuống biển. Không trăng,
sao. Bà Má Định Mạng đi riễu một vòng khắp các chuồn. Quái điểu không thèm nhúc
nhích một li khi mụ tiến tới gần, điều đó khiến mụ dừng lại chằm chằm nhìn khá
lâu.
"Chưa tới lúc," sau cùng mụ lẩm bẩm, "Chưa tới
lúc," nhưng giọng mụ nghe mệt mỏi và thiếu tự tin. Mụ đưa mắt nhìn lẹ sang
chuồng lân, cái nhìn vàng vọt như khuấy động bóng tối loang loáng. "Thế
cũng xong một ngày nữa," mụ thở dài, nói vậy, rồi quay đi.
Sau khi mụ khuất rồi không còn một tiếng động nào quanh khu
này nữa. Các con thú đều ngủ, trừ nàng nhện tiếp tục giăng tơ, và quái điểu tiếp
tục chờ đợi. Màn đêm dày đặc dần, cho tới khi lân chờ đợi tia sáng rạng đông đầu
tiên... Nhà ảo thuật, sao không thấy tới?
Sau cùng thì kìa ông ta, dáng đi lảo đảo như con mèo đi trong
đêm lạnh, lật đật trườn qua những khối bóng đổ xuống khi tới trước chuồng lân, ảo
thuật gia nghiêng mình nói một cách hào hứng "Schmendrick đã tới với bạn."
Từ chuồng bên cạnh, lân nghe tiếng cánh đồng rung lên.
"Tôi nghĩ rằng chúng mình còn rất ít thì giờ," lân
nói. "Liệu bạn có thể giúp tôi thoát được?"
Người đàn ông cao lớn mỉm cười, cả những ngón tay gầy trang
nghiêm và lợt lạt cũng rung lên vì sung sướng. "Tôi đã nói với bạn rằng mụ
phù thủy đã phạm ba điều lầm lẫn. Mụ bắt nhốt bạn là điều lầm lẫn cuối cùng, bắt
nhốt quái điểu là điều lầm lẫn thứ hai. Vì cả hai đều là những thứ thiệt, mụ
làm sở hữu chủ sao nổi, y hệt chuyện mụ không thể trì hoãn mùa đông được thêm một
ngày. Nhưng việc mụ coi tôi như một thứ làm trò hát dạo, tuy là điều lầm lẫn thứ
nhất lại chính là điều tai hại cho mụ hơn cả vì tôi cũng là thứ thiệt chứ chơi
đâu. Tôi là Schmendrick, ảo thuật gia, đạo sĩ đại diện cuối cùng cho ngành tu
khổ hạnh, tôi già hơn vẻ mặt bề ngoài."
"Anh chàng kia đâu?" lân hỏi.
Schmendrick vén tay áo lên. "Bạn khỏi lo về Rukh. Tôi đã
hỏi hắn một câu đố không có câu trả lời. Hắn không thể đụng đậy được nữa."
Ảo thuật gia hô lên ba tiếng gãy gọn và bật móng tay. Cái chuồng
biến đi. Lân thấy mình đương đứng trong một rừng toàn những cam, tranh, lê và
thạch lựu, hạnh nhân và acacia (cây keo), đất sốp mùa xuân dưới chân, vòm trời
rang mở dần trên đầu. Lân thấy tình cảm mình lâng lâng nhẹ như khói, và lân muốn
thu hết sinh lực lại để nhảy vút một cái vào lùm bóng tối dịu mát. Nhưng lân dừng
lại ngay, buông trôi dự định, vì lân biết những chấn song sắt vẫn còn đó, dù
mình không nhìn thấy chúng. Lân đã quá lão luyện đâu còn ngây thơ gì mà không
biết điều đó.
"Thật đáng tiếc," tiếng Schmendrick đâu đó trong
bóng tối. "Giá như tôi được là lá bùa giải phóng cho bạn."
Ảo thuật gia hát một bài gì giọng lạnh và thấp, những cây
cam, tranh, lê, thạch lựu... tan đi trong ảo ảnh. "Câu niệm chú này chắc
hơn," ảo thuật gia nói. "Những chấn song sẽ ròn như bánh đa mà tôi
nghiền nát trong tay." Kế đó ảo thuật gia niệm chú, hổn hển, hai tay vung
ra xa, từng ngón tay dài như rỏ máu.
"Tôi lấy giọng sai thì phải... giọng nhà ảo thuật khàn
khàn. Ông ta dấu hai bàn tay sau tấm áo choàng dặng hắng dọn giọng. "Được
đấy."
Lần này là một chuỗi thành ngữ gờn gợn nào đó, và đôi bàn tay
đẫm máu của Schmendrick rung rung in trên nền trời. Một vật gì xam xám nhe răng
cười, tựa như con gấu mà lớn hơn con gấu nhiều, một vật gì như cười khúc khích,
tự nơi nào khập khiễng tới, háo hức muốn phá chuồng như kẹp nát một hạt dẻ,
nhưng rồi nó lại muốn dùng móng vuốt mà kéo từng tảng thịt sống của lân ra
Schmendrick vội ra lệnh cho nó rút lui, nhưng nó không chịu.
Lân lui vào một góc chuồng hơi cúi đầu xuống, nhưng quái điểu
đã rung khẽ đôi cánh đồng thành tiếng xủng xoẻng. Cái bóng xám quay đầu nhìn về
phía đó và nhận ra cô nàng Celaeno. Nó thốt một tiếng kêu khẽ kinh hoàng, và mất
dạng lập tức.
Ảo thuật gia vừa run vừa cất lời thóa mạ, rồi nói, "Ấy
trước đây khá lâu đã có lần tôi hô nó tới, và tôi cũng không điều khiển được
nó. Bây giờ thì chúng ta mắc ơn cứu sống của quái điểu rồi. Và e rằng trước khi
vừng đông ló rạng, nó sẽ hỏi thăm sức khỏe chúng ta đó." Ảo thuật gia yên
lặng giây lâu, nắn lại những nghón tay bị thương ý đợi lân trả lời, "Để tôi
thử một lần nữa," sau cùng ông ta nói. "Liệu tôi có nên thử thêm một
lần nữa không?"
Lân có cảm tưởng khoảng bóng tối, nơi con vật xám vừa xuất hiện,
vẫn còn sôi bỏng. "Cứ thử một lần nữa đi," lân nói.
Schmendrick hít sâu hơi thở, khạc nhổ ba lần, và lẩm bẩm niệm
chú, lời nghe như chuông rung dưới đáy biển. Ông ta tung một nắm bột lên đống
nước rãi, mỉm cười thắng thế, khi thấy tự đó bừng lên một khoảng sáng xanh khi
khoảng xanh đó mờ đi, ông ta hô thêm ba tiếng nữa, nghe như tiếng ong bay vù vù
trên cung trăng.
Chuồng lân bỗng thu nhỏ dần lại. Lân không trông thấy những
chấn song chuyển dịch, nhưng mỗi lần ảo thuật gia hô lên "A, không!"
lân lại thấy khoảng đứng của mình bị thu nhỏ hơn nữa, không còn xoay mình được
nữa. Cứ thế chuồng thu hẹp thêm nữa cương quyết như triều dâng, như trời rạng
sáng, cái điệu này thì nhất định những thanh sắt đó sẽ xiết chặt vòng vây, vĩnh
viễn nhốt chặt lấy trái tim lân. Lân chưa kịp kêu thì con vật xám khi nãy tiến
đến, nhe răng cười. Lần này lân kêu lên một tiếng, nhỏ thôi đượm vẻ thất vọng,
nhưng chưa phải là đầu hàng.
Schmendrick cũng ngừng lại, mặc dầu lân không hiểu vì sao.
Nhà ảo thuật có niệm chú thì lân cũng chẳng nghe thấy nào, chỉ biết rằng cái
chuồng khi đó đã thu nhỏ lại đến mức chỉ còn cách lân có chân tơ kẽ tóc nữa
thôi, từng thanh sắt như từng con mèo đói đương gào thét muốn cào nát thịt lân
mà không với tới.
Nhà ảo thuật buông thõng hai tay xuống. "Tôi không dám
thử nữa," ông tuyệt vọng một cách não nề. "Lần sau cùng này, tôi lại
còn không thể..." Giọng ông ta ngân dài ra thê thảm, đôi mắt ông ta cũng
biểu lộ niềm tuyệt vọng như đôi tay buông thõng. "Mụ phù thủy quả đã không
lầm khi đánh giá tôi," ông ta nói.
"Cứ thử nữa đi," lân nói. "Bạn là bạn tôi mà.
Cứ thử nữa đi."
Nhưng Schmendrick mỉm cười chua chát, tay thục vụng về vào
túi quần tìm cái gì kêu kling kling, "Tôi biết là rồi đành phải theo giải
pháp này vậy, tôi những ước mơ khác thế kia." Ông ta rút ra một chùm chìa
khóa rỉ. "Bạn xứng đáng được một bậc phù thủy thượng thặng phục vụ,"
ông ta nói với lân, "nhưng bạn cũng nên vui lòng khi được anh móc túc hạng
xoàng giúp đỡ. Kỳ lân thì không biết nhu cầu, sĩ diện hão, ngờ vực, nợ nần -
nhưng thế nhân thì, như bạn nhận thấy đấy, hãy thấy cái gì mình lấy được. Anh
chàng Rukh luôn luôn chỉ tập trung tư tưởng vào được một việc thôi."
Lân lúc đó mới chợt nhận thấy rằng tất cả những con vật của
Gánh Xiệc Nửa Đêm đều đã thức dậy tuyệt đối giữ yên lặng, không một tiếng động,
chúng nhìn về lân. Ở chuồng bên cạnh, quái điểu thong thả dậm hết chân nọ đến
chân kia trên khúc cây. "Lẹ lên," lân nói. "Lẹ lên bạn."
Schmendrick đã ướm thử một chìa khóa vào ổ khóa, nhưng không
đúng. Ông ta lại thử một chìa khác, tiếng khóa kêu sủng soẻng. "Hô hố, lại
tên ảo thuật nào! Tên ảo thuật nào!" Tiếng Bà Má Định Mạng.
Nhà ảo thuật miệng lầu bầu, lân thì cảm thấy ông ta đương hổ
thẹn. Ông ta vặn chìa và chiếc khóa cố cắn lấy, phản kháng một lần cuối rồi
bung ra. Schmendrick mở toang cửa chuồng, nói rất nhẹ, "Xin rước công
nương xuống, nàng đã được tự do."
Lân bước nhẹ xuống đất, và Schmendrick Ảo Thuật Gia lùi lại,
nhạc nhiên. "Ồ", ông ta thì thầm. "Khi còn những chấn song sắt
ngăn cách chúng ta, tôi thấy bạn khác kia. Bạn giờ đây trông nhỏ hẳn đi, và
không giống như - Ồ, ồ thật là kỳ lạ."
Trở lại khu rừng nhà, khu rừng đen xấu đi, ẩm ướt, điêu tàn
đi, vì lân vắng nhà đã quá lâu. Có tiếng nào đang réo gọi, tiếng vọng từ xa lại,
nhưng lân thấy rằng trở lại khu rừng nhà, sưởi ấm cho cây cỏ đã.
Vừa lúc đó lân nghe thấy tiếng Rukh như tiếng chôn thuyền kéo
lết trên đường sỏi. "Thôi được, tôi chịu thua bạn, Schmendrick. Tại sao
con quạ lại giống như cái bàn viết?" Lân chuyển động tiến vào bóng tối dày
đặc, và Rukh chỉ còn thấy cái chuồng trống rỗng với ảo thuật gia đứng lên. Tay
hắn đặt vội lên túi, rồi vung lên. "Tại sao mi lấy cắp chìa khóa của ta, đồ
khốn kiếp," giọng y thin thít như thép xiết. "Mụ già sẽ trói mi vào
dây thép gai để làm chiếc vòng đeo cổ cho quái điểu." Hắn quay đi và tiến
nhanh về phía toa xe của Bà Má Định Mạng.
"Chạy đâu," ảo thuật gia nói, rồi lao vút mình tới
ôm ghì lấy Rukh bằng đôi cánh tay dài ngoằng của ông. Cả hai cùng ngã lăn trên
mặt đất, Schmendrick vùng dậy trước, quỳ gối ghìm chặt hai vai Rukh xuống đất,
vừa thở hổn hển vừa nói: "Dây thép gai này. Mi là đống đá. Mi là vật thừa.
Mi là tai họa bất hạnh. Ta sẽ nhét khổ não vào người ngươi cho đến khi chúng
lòi ra đằng mắt. Ta sẽ hóa tim ngươi thành cỏ xanh, và tất cả những gì ngươi
quý đều biến thành cừu gặm cỏ. Ta sẽ hóa ngươi thành thứ thi sĩ mơ mộng hạng
bét. Ta sẽ làm phép khiến tất cả móng tay của ngươi mọc ngược chui vào thịt
ngươi. Ngươi hỗn láo với ta à?"
Rukh vùng mạnh và ngồi nhỏ dậy, ẩy tung Schmendrick ra xa tới
ba thước. "Mi đương nói gì vậy?" Hắn cười khanh khách. "Mi hóa
kem thành bơ cũng chẳng được." Ảo thuật gia chưa kịp tiến tới gần thì đã bị
Rukh nắm lưng kéo xuống rồi ngồi lên trên "Ta không bao giờ hành động như
mi" hắn nói giọng riễu cợt. "Ngươi làm ra vẻ ta đây nhưng có khỏe cóc
gì đâu." Nặng chĩu như bóng đêm, hai tay hắn đã tiến sát đến cổ họng ảo
thuật gia.
Lân nhìn thấy. Lân đã tiến tới cái chuồng xa nhất, trong đó
quái vật đầu người mình sư tử đương gầm gừ, rên rỉ, nằm bẹp dí trên sàn. Lân dụi
sừng vào ổ khóa rồi lại tiến ngay sang chuồng rồng, không hề ngoái cổ nhìn lại.
Cứ như vậy con này sau con khác được lân tháo củi xổ lồng cho. Chó Ba Đầu
Cerberus, Mãng xà Midgrad. Bùa yểm mất hiệu lực khi chúng trở lại tự do, chúng
nhảy, chúng trườn, chúng lướt nhanh vào bóng tối và trở thành sư tử, đười ươi,
rắn, cá sấu như cũ. Không con nào ngỏ lời cám ơn lân mà lân cũng chẳng nhìn lại
chúng khi chúng phóng mình vào đêm tối tự do.
Duy có nàng nhện là không chú ý gì đến việc lân đã mở tung cửa
chuồng cho nó. Nàng đang mải ngắm một khoảng lưới trong đó phản ảnh cảnh sông
Ngân Hà đương lả tả rụng xuống thành tuyết. Lân thì thầm, "Nàng dệt tơ,
nhưng tự do quý hơn, tự do quý hơn." Nhện nào có chú ý đến lời lân, vẫn
leo lên, nhào xuống dóng sắt dùng làm khung cửi. Nhện không ngưng nghỉ một giây
kể cả khi lân thét lên, "Trong quyến rũ thật đấy, nhưng đâu phải là nghệ
thuật." Tấm mạng mới dệt rụng xuống lả tả như tuyết.
Gió vừa nổi lên, sợi tơ nhện bay ngang qua mắt lân, rồi mất
hút. Quái điểu bắt đầu đập cánh mạnh như vũ bão, mạnh như thủy triều đương cong
mình kéo nước, chở cát tới bãi biển. Một vừng trăng đỏ tía bỗng lộ ra khỏi đám
mây, và lân nhận thấy mớ tóc vàng ánh của quái điểu tung bay phất phới, trong
khi đôi cánh lạnh lùng và nặng nề của n1o ra sức phá chuồng.
Dưới bóng chuồng lân cũ, Rukh và Schmendrick đương quỳ trên gối.
Ảo thuật gia thì nắm giữ chùm chỉa khóa nặng trong tay, Rukh thì đương gãi đầu,
hấp háy mắt. Cả hai khuôn mặt đều tái lợt vì sợ hãi, cùng hướng về chuồng quái
điểu, và cùng phải hơi nghiêng mình tựa vào nhau để chịu sức gió từng đợt, từng
đợt ào tới, xương cốt như lỏng ra, như đương đụng vào nhau kê lắc cắc trong cơ
thể.
Lân bắt đầu tiến tới chuồng quái điểu. Schmendrick rúm người
lại, mặt tái lợt, miệng liên hồi há ra khép lại. Lân đoán là ông bạn đương la
hét can ngăn mình đó, dù lân không nghe rõ thấy gì "Nó sẽ giết bạn, nó sẽ
giết bạn! Trời ơi, phải chạy đi, bạn điên sao, phải chạy xa nó đi khi nó còn bị
nhốt. Nó sẽ giết bạn nếu bạn mở chuồng cho nó ra bây giờ." Nhưng lân vẫn
tiến tới mang theo vùng ánh sáng lâng lâng tỏa ra tự sừng. Lân đã đứng trước ác
điểu Celaeno.
Trong giây lát đôi cánh lạnh ngắt của nó ngừng đập, ngưng đọng
như đám mây, tia mắt vàng của nó xuyên thẳng vào tim lan, tia mắt đó như thốt
thành lời sang sảng. "Ta sẽ giết mi nếu mi thả ta ra, ta sẽ giết mi, nghe
không."
Lân cuối đầu xuống cho tới khi sừng lân chạm vào ổ khóa. Cửa
chuồng không mở toang, chấn song sắt không tan loãng thành ánh sáng sao trời.
Nhưng khi quái điểu cất cánh lên thì bốn bề của chiếc chuồng cùng từ từ rãn
bung ra như những cánh một đóa hoa vĩ đại chợt thức giấc trong đêm. Quái điểu lồ
lộ xuất hiện, tự do rít lên một tiếng khủng khiếp, mớ tóc rung lên như ánh gươm
trần. Vừng trăng úa héo đi rồi biến mất.
Lân chợt nghe tiếng mình kêu lên, không phải vì sợ mà ngạc
nhiên. "Ồ, ngươi cũng giống ta!" Lân lùi lại tưng bừng để kịp đáp ứng
với dáng khom lưng của quái điểu, và lân dựng thẳng sừng lên chống lại luồng
gió ma quái. Quái điểu tấn công một lần, trượt, lắc lư sang phía khác, tiếng
cánh đồng reo vang, hơi thở ấm và nồng nặc. Đầu nó nóng bừng. Lân nhìn thấy
hình ảnh mình phản chiếu trên khoảng ngực đồng của quái điểu, và lân cũng cảm
thấy rằng hình ảnh quái điểu có phản chiếu trên mình lân. Cả hai vần vụ xoay
quanh như một vì sao đôi trong một vòm trời thu nhỏ. Tưởng như vào lúc đó chẳng
còn gì thực trong vạn hữu, ngoài lân và quái điểu. Celaeno cười sảng khoái ánh
mắt nó chuyển sang màu mật. Lân biết là nó lại sắp tấn công.
Quái điểu cụp đôi cánh lại và lao xuống như một vì sao lạc -
không phải lao xuống mình lân mà xa hơn một chút, nhưng lao sát lân đến nỗi chiếc
cánh đồng làm xước máu vai lân; móng vuốt của nó trực chỉ xuống khoảng lồng ngực
Bà Má Định Mạng; trong khi hai cánh tay mụ dang rộng ra với hai bàn tay nhọn hoắt
như thể mụ cũng đương nhiệt liệt chào đón quái điểu. "Một mình mi không
làm gì nổi!" Mụ hét lên, thống khoái. "Ta đã nhốt giữ được cả tụi
bay, và tụi bay có tên nào đơn độc mà tự cứu được mình đâu." Vừa lúc đó
quái điểu ập tới người mụ, cả thân hình mụ bị che kín, và đôi cánh đồng của
quái điểu chuyển thành màu đỏ rực.
Lân quay đi. Đâu đây như có tiếng trẻ thơ giục lân hãy chạy
đi, chạy mau đi cho thoát. Thực ra đó là tiếng nhà ảo thuật. Đôi mắt ông ta trợn
tròn, thất lạc tinh thần và khuôn mặt ông ta - luôn luôn trẻ hơn tuổi - càng trở
về đồng hóa với tuổi thơ. "Không, việc gì phải chạy," lân nói.
"Bạn hãy theo tôi."
Quái điểu thét lên một tiếng dày đặc kinh hoàng, ảo thuật gia
run cầm cập, muốn té xỉu. Lân đã lại nói, "Bạn hãy theo tôi," và cả
hai cùng sát cánh nhau lên đường, dời xa Gánh Xiệc Nửa Đêm. Trăng trời đã lặn,
nhưng dưới mắt ảo thuật gia chính lân là vừng trăng vừa sa xuống, vừng trăng trắng
lạnh, cũ kỹ thân yêu, soi sáng con đường đưa ông ta về chốn an bình hay chốn
khùng điên. Ông ta theo lên, không một lần ngoái cổ lại, kể cả khi ông ta nghe
thấy tiếng bước chân vùng chạy nặng nề, tuyệt vọng, rồi tiếng vang ầm của đôi
cánh đồng chụp xuống, và tiếng kêu tắc nghẽn của Rukh.
"Anh khùng đó chạy," lân nói. "Bạn nên nhớ, chớ
bao giờ chạy trước cái gì bất tử. Chạy như vậy chỉ làm nó chú ý nhận ra
mình." Giọng lân dịu hiền và không sót thương. "Chớ bao giờ chạy. Hãy
đi chậm rãi, thản nhiên, làm như đương mải suy nghĩ điều gì khác. Hãy hát một
bài, ngâm một đoạn thơ, hay làm trò quỷ thuật, nhưng chậm rãi, thản nhiên. Nó
không rượt theo đâu. Đi thật chậm rãi, thản nhiên, ông bạn!"
Cứ như vậy cả hai dời xa chốn đó từng bước một, trong đêm tối.
Ảo thuật gia đi sát bên lân trong vùng ánh sáng lân tỏa ra. Bên ngoài vùng ánh
sáng đó từng đợt bóng tối kinh hoàng di động mang theo âm hưởng những tiếng gầm
thét dữ dằn của quái điểu đương tàn phá những gì còn lại của Gánh Xiệc Nửa Đêm.
Tuy nhiên những tiếng gầm thét dữ dẳn đó rồi cũng dứt, duy còn một thứ tiếng,
thứ tiếng này theo dõi lân và ảo thuật gia khá lâu khi cả hai đã đi vào con đường
lạ dưới ánh sáng mờ nhạt của ban mai, đó là tiếng khóc thút thít, nỉ non, quyến
luyến, tiếc rẻ của nàng nhện.
4
Như một đứa trẻ sơ sinh, ảo thuật gia khóc nức nở mãi mới trấn
tĩnh để nói được nên lơi, "Tội nghiệp cho mụ già." Lân tuyệt nhiên
không lên tiếng, và Schmendrick chăm chú nhìn lân bằng vẻ mặt lạ lùng. Mưa sớm
dăng dăng, lân chiếu sáng một vùng, trong như chú hải trư xuất hiện trong vùng
biển. "Không," lân nói như để trả lời ánh mắt dò hỏi của ảo thuật gia
"Tôi không tiếc thương báo giờ."
Ảo thuật gia yên lặng nép mình bên đường mưa, kéo sát hơn nữa
tấm áo choàng vào mình, trông hệt như chiếc ô đen gẫy gọng. Lân chờ đợi, cảm thấy
ngày tháng của đời mình cũng dăng dăng tơi tả quanh mình như mưa rơi lúc đó.
"Tôi cũng có buồn đấy," giọng lân dìu dịu, "nhưng không giống
như bạn buồn."
Khi Schmendrick nhìn lân nữa, ông ta muốn kéo cả khuôn mặt
mình trực diện với lân mà vẫn không được. "Bạn định đi đâu? Trước kia, bạn
đương định đi về phía nào, rồi bị mụ ta bắt?"
"Tôi đương trên đường đi tìm đồng loại," lân nói
"Ông bạn ảo thuật gia, ông bạn có lần nào gặp đồng loại tôi? Cũng sống giữa
hoang vu, với màu trắng bọt biển như tôi đây này."
Schmendrick lắc đầu trịnh trọng. "Quả thực là không. Tôi
chỉ mới vinh hạnh được gặp một mình bạn. Thuở tôi còn là một chú nhỏ thì kỳ lân
còn, nhưng như tôi biết thì chỉ có một người là được gặp kỳ lân. Bây giờ thì kỳ
lân đi hết cả rồi, bạn ạ, đi hết cả rồi, trừ bạn thôi. Khi bạn cất bước đi, nơi
nào có tiếng vang dội lại, ấy là nơi đồng loại bạn đã từng ở."
"Không, điều đó vị tất đã đúng," lân nói, "vì
có nhiều người đã gặp đồng loại tôi kia mà." Điều làm lân vui chính là chỉ
mới gần đây thôi - hồi ảo thuật gia còn là chú bé - người ta còn gặp kỳ lân.
Lân nói, "Một chàng bướm có nói với tôi về Con Bò Mộng Đỏ, và mụ phù thủy
thì nói với tôi về vua Haggard. Vì vậy tôi sẽ đi bất kỳ đâu tìm cho ra họ để dò
la tin tức về đồng loại tôi. Bạn có thể cho tôi hay vua Haggard trị vì miền nào
không?"
Khuôn mặt nhà ảo thuật trông xa vời nhưng ông ta bắt đầu mỉm
cười chầm chậm tưởng như miệng của ông ta đương hóa thành thép cứng nhắc, ông cố
cười cho tự nhiên nhưng vẫn là nụ cười cứng như thép.
"Tôi có thể đọc cho bạn nghe một bài thơ," ảo thuật
gia nói.
"Những đồi nhẵn như dao mài,
Không cầm thú, chẳng cỏ cây;
Tình người chua như giấm bỗng
Haggard ngự trị chính nơi đây."
"Tôi sẽ biết khi tới đó," lân nói, và nghĩ rằng ảo
thuật gia đương rỡn mình. "Thế ông bạn có biết bài thơ nào nói về Con Bò Mộng
Đỏ không?"
"Không có bài nào về nó cả," Schmendrick đáp. Ông
ta đứng dậy, vẫn tái nhợt, miệng mỉm cười. "Về vua Haggard thì tôi có được
nghe nói. Ông ta là một tên bủn xỉn, cai trị một vùng đất khô cằn gần biển. Người
ta bảo vùng đất này xưa cũng phì nhiêu xanh tốt, nhưng từ khi Haggard tới cai
trị thì nó khô héo đi như vậy. Nông dân nơi nào thấy ruộng lúa hoa mầu của họ bị
tàn phá bởi châu chấu, bởi thiên tai là họ chép miệng nói, "Đất đai khô cằn
như trái tim Haggard!" Người ta còn kể rằng trong lâu đài nhà vua ở không
có ánh sáng, không có lửa, và ông ta phải sai người đi ra ngoài ăn cắp gà, ăn cắp
khăn dải giường, ăn cắp bánh tự các bệ cửa sổ. Chuyện còn kể lần cuối cùng vua
Haggard cười.
Lân dậm chân. Schmendrick nói, "Còn về phần Con Bò Mộng
Đỏ, tôi đích thân biết ít hơn là nghe kể chuyện về nó, vì chuyện nọ thường mâu
thuẫn với chuyện kia. Con Bò Mộng Đỏ có thật, Con Bò Mộng Đỏ là một bóng ma,
Con Bò Mộng Đỏ là chính nhà vua Haggard khi mặt trời vừa lặn. Con Bò Mộng Đỏ đã
có ở nơi đó trước khi vua Haggard trị vì, hay vua Haggard tới mang theo nó tới,
hay vua Haggard tới trước rồi nó tới sau. Con Bò Mộng Đỏ che chở cho nhà vua,
giúp nhà vua chống mọi cuộc tấn công xâm nhập, mọi cuộc cách mạng, khiến nhà
vua khỏi tốn của trong việc trang bị quân đội. Con Bò Mộng Đỏ giữ nhà vua làm
tù nhân cho nó trong chính lâu đài của nhà vua. Con Bò Mộng Đỏ là con quỷ mà nhà
vua đã bán linh hồn cho nó. Nhà vua đã bán linh hồn cho quỷ để có được Con Bò Mộng
Đỏ. Con Bò Mộng
Đỏ làm chủ Haggard. Haggard làm chủ Con Bò Mộng Đỏ."
Lân cảm thấy chăng chắc một điều, điều chăng chắc đó thoạt xuất
hiện tự một tâm điểm rồi gợn khắp cơ thể như những đợt sóng. Trong tâm tưởng
lân còn nghe thấy tiếng bướm rung lên, "Tất cả đều bị dồn xuống các ngã đường
từ lâu rồi, Con Bò Mộng Đỏ theo sát từng bước một." Lân như trông thấy những
bóng trắng bị cuốn theo chiều gió, và những sừng vàng lúc lắc. "Tôi sẽ tới
đó," lân nói. "Ông bạn ảo thuật gia, tôi mắc món nợ tự do với ông bạn.
Bây giờ ông bạn muốn gì nào, trước khi chúng ta chia tay."
Đôi mắt dài của ảo thuật gia Schmendrick long lanh như lá cây
dưới ánh mặt trời. "Xin để tôi được theo bạn."
Lân chuyển sang hướng khác, điềm đạm, nhún nhảy, và không trả
lời. Ảo thuật gia tiếp, "Tôi có thể hữu ích với bạn. Tôi biết đường đi tới
lãnh thổ Haggard, tôi thông thạo các thổ âm khác nhau từ đây đến đó." Lân
như sắp tung mình bay biến vào đám sương mù dày đặc, thì Schmendrick vội vã tiếp.
"Vả lại với những kẻ lang thang, dù là kỳ lân đi nữa, thì việc có một thày
phù thủy đi bên, không bao giờ là một điều dở cả. Xin hãy nhớ chuyện thày phủ
thủy cao tay Nikos. Một lần trong rừng, thầy Nikos chợt thấy một kỳ lân đang ngủ,
đầu vùi vào lòng một nàng trinh nữ miệng cười toe toét trông thật khả ố, trong
khi đó ba chàng đi săn đương thận trọng tiến tới và cùng giương cung nhắm bắn để
lấy sừng lân. Thậm cấp chí nguy, Nikos chỉ còn một đường tơ kẽ tóc để hành động.
Với một lời chú và một cái vẫy tay, ông đã hóa lân thành chàng trai trẻ đẹp.
Chàng trai đó - lân - thức giấc vừa kịp nhận thấy ba chàng giương cung đương há
hốc mồm ngạc nhiên, bèn nhảy xổ tới giết liền cả ba. Lưỡi gươm của chàng xoắn
tít và nhỏ mọn, chàng dậm chân lên những xác đó."
"Thế còn cô gái?" lân hỏi. "Cô gái có bị chàng
lân giết?"
"Không, chàng cưới cô ta làm vợ. Chàng nói cổ là một thiếu
nữ vô tâm, giận dỗi với gia đình, và điều sở nguyện của cổ là lấy một chàng
trai tốt. Đúng là chàng lân rồi. Kể từ đấy và mãi mãi về sau này, không bao giờ
Nikos hóa chàng trai trở lại thành lân như cũ được nữa. Chàng chết già, và rất
được trọng vọng - có người kể chàng chết vì ăn quá nhiều hoa đồng thảo (violet)
vì bao nhiêu hoa đồng thảo với chàng cũng là còn thiếu. Họ không có con cái gì
cả."
Lân như có lần đã nghe chuyện đó rồi. "Nhà ảo thuật gia
đó chẳng giúp ích gì, ngược lại đã làm một điều rất tai hại," lân nói khẽ.
"Thật là khủng khiếp nếu ảo thuật đó hóa tất cả giòng giống kỳ lân thành
người, sống ngơ ngác, chen chúc dưới những mái nhà nóng bức. Như thế thì chẳng
bao lâu Con Bò Mộng Đỏ sẽ giết hết giống ký lân."
"Bây giờ bạn định đi đâu đây," Schmendrick hỏi
"Trái tim thân ái của tôi - có thể hơi lẩm cẩm một chút đấy - đôi khi cũng
cần, như kẻ khát cần nước uống ấy mà, chuyện chơi đâu. Xin hãy nhận tôi làm bạn
để tôi cùng đi với cho vui, cho may mắn, hay cho gì nữa không biết. Hãy để tôi
đi theo."
Trong khi ảo thuật gia nói, mưa tan dần, trời trở thành đẹp
và những hạt mưa còn đọng trên cỏ ướt lấp lánh như những hạt ngọc trai. Lân
nhìn đi nơi khác, tìm khuôn mặt quân vương trong đám quân vương mơ hồ, tìm một
tòa lâu đài lấp lánh xây trên lưng con Bò Mộng Đỏ giữa muôn vàn tòa lâu đài lấp
lánh trong màu trắng tuyết. "Trước đây chưa một ai làm bạn đồng hành với tôi"
lân nói, nhưng cũng kể từ trước đó, tôi chưa hề bị bắt nhốt bao giờ, chưa hề bị
người ta trông lầm thành con ngựa cái trắng tầm thường, hoặc chưa hề được người
ta hóa cho thành kỳ lân hơn để thiên hạ dễ nhận. Nhiều chuyện lạ như vậy bỗng dồn
dập đến với tôi, việc bạn đi theo tôi đâu có lạ hơn gì, và cũng chưa là điều lạ
cuối cùng đâu. Vậy bạn cứ việc theo tôi nếu bạn muốn, tuy tôi vẫn ngỡ rằng bạn
xin tôi một điều gì khác kia." Schmendrick mỉm cười buồn bã. "Tôi có
nghĩ tới điều đó chứ." Ảo thuật gia nhìn xuống những ngón tay của mình,
lân nhìn theo, nhận ra những vành bán nguyệt tím bầm trên đó do những thanh sắt
đập phải. "Nhưng tôi biết bạn chẳng bao giờ giúp tôi thành đạt được điều
tôi ước mơ."
Thế đấy, lân nghĩ, và lần đầu tiên cảm thấy một sợi buồn
vương vất trong tâm tư. Có một thế nhân làm bàn đồng hành thì luôn luôn như vậy
đó "Đúng vậy", lân đáp, "quả thực tôi chẳng thể khiến bạn thành
xuất chúng về một cái gì mà bạn không có khả năng, về điểm này tôi cũng không
hơn gì một tay phù thủy. Tôi chẳng thể biến bạn thành một ảo thuật gia đại
tài."
"Tôi biết mà," Schmendrick đáp. "Không sao,
xin bạn đừng thắc mắc về điều đó."
"Tôi không hề thắc mắc về điều đó đâu," lân nói.
°
Một chú sáo sậu xanh bay nhào xuống nhìn họ, vào ngày đầu
tiên của một cuộc hành trình tay đôi đó, và nói "Cha, cha, hay ta," rồi
bay thẳng về tổ với vợ. Sáo sậu vợ lúc đó đang nằm trong tổ uể oải cất giọng sầu
bi ru đàn con:
Nhện, rệp, châu chấu, bọ hung,
Dế, giun, trứng cút, bông hồng, ốc sên.
Nghĩ mà muốn ợ, muốn rên,
Bay cao cũng chẳng lên tiên mà mừng."
"Vừa thấy một kỳ lân," sáo sậu chồng vừa nhào xuống
đã nói.
"Không kiếm được cái gì ăn chứ gì," sáo sậu vợ lạnh
lùng đáp. "Tôi ghét những thứ đực rựa miệng nói mà mồm không?"
"Con ơi, có kỳ lân!" sáo sậu bố không còn giữ được
vẻ bình tĩnh hằng ngày, anh chàng bứt rứt nhảy lên nhảy xuống trên cành.
"Ta chưa hề thấy một kỳ lân nào kể từ thuở"
"Anh chưa hề một lần gặp kỳ lân," mụ vợ nói.
"Nhớ là tôi đây, tôi biết rõ những gì anh đã gặp, và những gì anh chưa hề
gặp trong đời."
Sáo sậu chồng không chú ý đến lời vợ. "Có một người mặc
áo choàng đen đi với kỳ lân," giọng anh hấp tấp, ánh ỏi. "Họ đương vượt
núi Miêu Sơn, ý hẳn họ tới giang sơn của vua Haggard, ta đoán vậy. Sáo sậu chồng
nghiêng đầu hấp háy, vẻ đó cô sáo sậu vợ vốn chịu lắm. "Ờ, hãy thử tưởng
tượng cảnh lão vương Haggard đương ăn sáng, thì lân đến gõ vào cánh cửa ảm đạm
của tòa lâu đài ông ta ở. Cha, ta có thể đánh đổi bất kỳ cái gì để được chứng
kiến."
"Dám chắc không ai để cả một ngày mà ngắm kỳ lân đâu,
sáo sậu vợ ngắt lời chồng với tiếng chép mỏ "Tôi hiểu vào những giờ nhàn rỗi
người ta vẫn thường nghĩ về kỳ lân với những hình tượng dị kỳ huyền hoặc."
Sáo sậu vợ đã tiến tới trước chồng, xù lông cổ."
"Mình ạ, tôi thực sự chưa ngắm rõ lân đâu." Sáo sậu
chồng nói, và sáo sậu vợ biết là chồng đã không ngắm, không dám ngắm lân, tuy
nhiên nàng cũng mổ chàng một cái. Nàng vốn là một phu nhân luôn luôn biết cách
lăng loàn một chút.
°
Lân và ảo thuật gia đi qua con suối, leo qua Miêu Sơn, đi xuống
một thung lũng màu tím ngắt có trồng táo. Đi hết thung lung họ qua những đồi thấp
trong như đàn cừu ngoan đương cúi đầu bàng hoàng hít lấy hương lân. Kế đó đến
vùng đồi thấp nữa rồi xuống hẳn đồng bằng oi bức không khí đặc quánh. Rồi lân
và Schmendrick phải lội qua những dòng sông, leo lên tụt xuống những bờ cao và
dốc, qua những dải bờ sông đất cát với những cây gai tua tủa, qua những cánh rừng
xác xơ, khiến lân nhớ lại khu rừng nhà. Lân nghĩ khu rừng nhà giờ hẳn cũng xác
xơ như thế này, nhưng điều đó không sao. Xong công việc lân sẽ về ngay, khi đó
rừng lại xanh tối; bốn mùa xuân bất tận như xưa.
Ban đêm, khi Schmendrick ngủ vùi li bì vì mỏi mệt, thì lân nằm
nép mình trong bóng tối vẫn thức, đời hình bóng khổng lồ của Con Bò Mộng Đỏ nhảy
xổ từ nguyệt cầu tới. Đôi khi lân đánh hơi thấy mùi mà lân cho là đúng mùi Con
Bò Mộng Đỏ - thứ mùi tăm tối, quỷ quyệt, khó chịu nhưng được hơi đêm làm cho nhẹ
bớt đi và theo gió phả tới. Đôi lần lân đã chồm dậy đứng vào thế chuẩn bị chiến
đấu, để rồi sau đó nhận ra đó chỉ là mấy chú hươu đương đứng khép nép đằng xa
kính cẩn hướng về phía lân. Bao giời loài hươu cũng cũng kính yêu lân và thèm
khát địa vị lân. Một lần có chú hươu đực mới được hai năm bị các bè bạn nói
khích, bèn tiến tới gần nói lí nhí mà không dám nhìn thằng vào mắt lân,
"Công nương đẹp lắm. Công nương đẹp lắm. Đẹp như lời mẹ chúng tôi thường
nói."
Lân yên lặng nhìn lại chú hươu nhỏ, biết rằng chú không chờ đợi
được lân trả lời. Một con hươu khác vừa cười hi hí vừa nói khẽ, "Tiếp tục
đi mày, tiếp tục đi." Thế là chú hươu nhỏ ngẩng cao đầu và hét to, hét
nhanh rất hào hứng, "Nhưng mà tôi biết có một kẻ khác còn đẹp hơn công
nương kia!" Dứt lời nói quay vội đi, phóng mình mất hút vào ánh trăng, và
các bạn nó cũng chạy biến theo hút nó. Lân lại nằm xuống.
Thỉnh thoảng trong cuộc hành trình đôi bạn có dịp qua một
làng nào đó, Schmendrick được dịp đi giữa đường phố nhỏ, tự giới thiệu mình là
một thầy phù thủy lang thang, tiện dịp qua đây chỉ "xin trổ tài chút xíu
kiếm đồ nhậu, tạm phiền quý vị chút xíu, quấy rầy giấc ngủ của quý vị chút xíu,
rồi lại đi ngay."
Hiếm có nới mà dân làng không ân cần mời nhà ảo thuật với con
ngựa cái trắng đẹp của ông hãy dừng lại qua đêm, và trước giờ lũ trẻ con phải
đi ngủ, nhà ảo thuật đã biểu diễnt tài nghệ tại khoảng trống trước chợ dưới ánh
đèn lồng. Ảo thuật gia trình diễn bình thường thôi, không bao giờ có tham vọng
làm những trò khó, thường chỉ là trò búp bê bập bẹ nói, hóa xà phòng thành kẹo,
và ngay trong những trò dễ dãi lặt vặt này, đôi khi ảo thuật gia cũng sểnh tay
hớ hênh. Tuy nhiên lũ trẻ vẫn khoái lắm, cha mẹ lũ trẻ càng niềm nở trong bữa
ăn tối. Và những đêm mùa hạ, như vậy qua đi êm đềm. Mãi nhiều năm về sau, Lân
còn nhớ mùi xô-cô-la là lạ của chuồng ngựa, nhớ cảnh chiếc bóng Schmendrick như
khiêu vũ trên tường, trên cửa, trên lò sưởi dưới vùng ánh sáng lung lay.
Sáng ra họ lại tiếp tục cuộc hành trình, các túi của
Schmendrick chật ních những bánh mì, pho mát, cam. Lân thủng thỉnh đi bên, trắng
lóa dưới ánh mặt trời, trắng biếc dưới bóng cây. Trò quỷ thuật của Schmendrick
thì mọi người quên ngay, nhưng vẻ nuột nà của con ngựa cái trắng thì ám ảnh họ
hoài, ám ảnh trong nhiều đêm, và đã có những phụ nữ chợt thức giấc, úa nước mắt
vì vừa mộng thấy kỳ lân.
Một buổi chiều kia, đôi bạn dừng lại tại một thị trấn sung
túc đến nỗi ngay những tên ăn mày cũng có cằm sệ, và lũ chuột thì đi lắc lư.
Schmendrick lập tức được mời tới dự tiệc với ông Thị Trưởng và quý vị trong hội
đồng thành phố; trong khi lân - không ai biết đó là kỳ lân, dĩ nhiên rồi -
thong dong đi trên cánh đồng cỏ non ngọt như sữa. Bữa tiệc tuyệt hảo được bày
ngoài trời giữa một khoảng trống, vì tiết trời chiều ấm áp, mà chủ nhân thì muốn
khoe với khách vẻ thanh bình thịnh vượng của thành phố mình.
Trong bữa tiệc Schmendrick kể lại chuyện đời phù thủy phiêu
lưu của mình, tất nhiên phịa ra đủ thứ nào những đấng quân vương, nào những con
rồng, nào những công nương mỹ miều, quý phái. Ảo thuật gia không cố ý nói dối,
chỉ khéo sắp đặt cho câu chuyện gây xúc động khiến tinh ranh như đám nghị viên
hội đồng thành phố kia mà cũng ngỡ là thật. Không những chỉ quý vị nghị viên,
mà cả đám bách tính vô tình đi qua bàn tiệc, chợt nghiêng tai lắng nghe cũng
tin là có loại bùa chú mở được đủ loại ổ khóa nếu biết áp dụng đúng lúc. Và
không ai là không nín thở khi ảo thuật gia chỉ cho thấy những vết sẹo trên những
ngón tay của ông. Ông bình tĩnh giải thích. "Kỷ niệm với quái điểu Celaeno
đó. Nó cắn mà."
"Thế thưa ông, không bao giờ ông sợ sao?" Một cô
gái hơ hớ xuân xanh hỏi khẽ. Ông Thị Trưởng suỵt miệng có ý muốn bảo cô gái hãy
cuốn xéo đi, nhưng Schmendrick điềm tĩnh châm điếu xì gà, thở phào búp khói đầu
và nhìn cô gái qua làn khói đó, đáp, "Sợ và đói đã giữ cho tôi trẻ lâu như
thế này đây." Ông đưa mắt nhìn quanh khắp lượt các ông nghị đương lim dim
gật gù, rồi nháy mắt với cô gái một cái.
Ông Thị Trưởng không mếch lòng. "Đúng thế," ông thở
dài nói, bàn tay đeo đầy nhẫn ve vuốt bàn tiệc. "Chúng tôi ở đây hiện sống
một cuộc đời phù túc quá chăng, tôi cũng không rõ, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng một
chút sợ, một chút đói đôi khi quả là điều cần, giúp tâm hồn người sắc bén hơn,
nhạy cảm hơn. Chính vì vậy chúng tôi bao giờ cũng hoan nghinh các vị khách lạ tới
đây kể chuyện và hát ca để mở rộng tầm nhìn cho chúng tôi, giúp chúng tôi biết
nhìn sao vào lòng mình..." Ông ngáp và vươn vai, bụng sôi ùng ục.
Một trong số các ông nghị bỗng lên tiếng, "Trời ơi, xin
hãy trong ra đồng cỏ kìa!" Những chiếc đầu nặng nề cùng xoay trên những
chiếc cổ gật gù để cùng hướng về phía xa tít cánh đồng và nhận thấy những bò, cừu,
ngựa của làng trên xóm dưới đều tụ tập lại quanh con ngựa cái trắng đương ung
dung gặp cỏ non mướt. Không một tiếng động. Kể cả đàn lợn, đàn ngỗng cũng đều
im thin thít. Chỉ một lần có tiếng quạ kêu xa, tiếng quạ bảng lảng chìm dần
trong nền trời chiều như một cánh tro tàn.
"Kỳ lạ" ông Thị Trưởng thì thầm. "Thật là kỳ lạ."
"Dạ đúng thế phải không thưa ông," ảo thuật gia
thêm lời. "Nếu như tôi lại kể thêm để quý vị nghe."
"Điều đáng chú ý là," lời ông nghị đã từng lên tiếng
nhận xét đầu tiên, "tất cả những con vật quanh đó đều không sợ sệt, mà chỉ
tỏ vẻ cung kính."
"Vì chúng biết nhìn ra thứ mà quý vị đã quên lãng mất rồi."
Schmendrick cạn nốt ly rượu vang đỏ của mình và cô gái hơ hớ tuổi xanh nhìn chằm
chằm vào ông bằng đôi mắt vừa dịu dàng vừa hờ hững như đôi mắt lân. Ông đặt mạnh
ly xuống bàn, nói với ông Thị Trưởng vẻ mặt tươi cười, "Đó là một sinh vật
hiếm hoi lắm, quý ông không dám ngờ tới đâu. Đó là huyền thoại, một ký ức, một
câu ca dao một bài đồng dao, còn sót lại trong tiếm thức. Nếu quý ông nhớ ra, nếu
quý ông khao khát."
Tiếng ảo thuật gia bỗng chìm vào giữa tiếng vó ngựa rộn ràng
và tiếng lũ trẻ kêu la inh ỏi. Khoảng một tá kỵ mã áo quần tả tơi từ đâu phi tới
vừa quát tháo vừa cười ha hả, dân phố chạy tóe về bốn ngả. Đám kỵ mã phóng ngựa
thành một hàng rồi tỏa rộng vây quanh khua trống gõ đập bất kỳ cái gì chúng gặp,
quát tháo thách đố huênh hoang ỏm tỏi nhưng không hướng về ai cả. Một chàng kỵ
mã nhổm người trên yên ngựa, kéo dây cung và bắn bay chiếc phong tiêu (chong
chóng chỉ chiều gió) trên đỉnh tháp chuông nhà thờ; một chàng khác quờ tay tóm
lấy chiếc mũ của Schmendrick, vừa cố nong đầu mình vào, vừa gầm thét. Vài chàng
nâng đứa trẻ khóc thét ngồi lên phía trước yên, vài chàng khác chỉ giằng lấy
bánh săng uých mà ăn, giằng lấy bong bóng đựng rượu vang mà uống. Những đôi mắt
long lanh trên những khuôn mặt gồ ghề, họ cười hô hố.
Ông Thị Trưởng ngồi yên quan sát, nhận diện tay cầm đầu. Rồi
ông khẽ nhướn lông mày; tức thì anh chàng đó bật móng tay làm hiệu; đoàn ngựa dừng
lại, đứng yên. Y như đoàn súc vật đương đứng quanh, chiêm ngưỡng lân đằng xa
kia. Họ nhẹ nhàng đặt những trẻ em xuống đất, trả lại hầu hết các bong bóng rượu
vang.
"Jack Jingly, nhờ anh một tí." Ông Thị Trưởng cất lời
điềm đạm. Tay anh chị lãnh đạo đám kỵ mã xuống ngựa thong thả tiến lại trước
bàn tiệc, nơi ông Thị Trưởng, các ông nghị và vị quý khách còn ngồi đông đủ. Hắn
to con, cao dễ đến hơn hai thước, và cứ mỗi bước tiến toàn thân hắn lại vang
lên rỏng rẻng vì những vòng, những xuyến, những chuông đính trên chiếc áo chẽn
kèm theo tiếng cười thô lỗ. "Công việc ra sao đây," ông Thị Trưởng
nói "Tôi không hiểu vì sao cá người không bao giờ trở lại một cách êm ả lịch
sự như những người văn minh."
"A, đám người đó không hề có ý làm hại ai ở đây, thưa
ông Thị Trưởng," người to lớn thực thà phân trần, "Bị tù cẳng trong rừng
suốt ngày, họ cần giải trí chút xíu, như uống thuốc tẩy ruột ấy mà. Này, này liệu
đó, sao đấy?" Với một tiếng thở dài, hắn rút ở ngang lưng ra một túi tiền
lép xẹp, đặt vào bàn tay mở rộng của ông Thị Trưởng. "Thưa ông Thị Trưởng
tất cả có ngần ấy," Jack Jingly nói. "Không nhiều, nhưng chúng tôi
không làm sao xoay sở cho nó hơn thế được."
Ông Thị Trưởng dốc tiền vào lòng bàn tay, dùng ngón tay dùi đục
mập ú của ông đẩy từng đồng lên, rồi làu nhàu, "Quả thực không nhiều,
tháng trước đã ít, ít đến hết mức, tháng này còn ít hơn. Tài nghệ của các anh
xuống dốc quá rồi."
"Thời buổi khó khăn," Jack Jingly nhăn nhó giải
thích "Chúng tôi không thể bị quở trách vì khách bộ hành không còn nhiều
vàng như xưa. Làm sao mà vắt cổ chầy ra nước bây giờ, thưa ông."
"Thế mà ta làm được đấy," ông Thị Trưởng nói. Ông
cau mày giận dữ, tung nắm tay về phía tên đạo tặc khổng lồ. "Và nếu anh muốn
giở trò ăn chặn, nếu anh muốn làm giàu bằng cách tước đoạt phần tôi, tôi sẽ vắt
kiệt anh, thưa anh bạn, tôi sẽ vắt kiệt anh, làm lòng anh, làm thịt anh, rồi
ném bã cho cuốn theo chiều gió. Bây giờ thì xéo đi, và nhớ nhắc điều đó cho cái
ông lãnh tụ lãnh tiếc xơ xác của anh hay. Hãy xéo đi, tất cả lũ quỷ!"
Jack Jingly vừa quay đi, vừa lầm bầm trong miệng Schmendrick
dặng hắng thoạt hơi ngập ngừng nói, "Xin cho lại cái mũ của tôi, nếu ông bạn
không phiền lòng về việc ấy."
Tên cướp khổng lồ nhìn chằm chằm vào ảo thuật gia, trợn đôi mắt
đỏ ngầu như mắt trâu, không nói gì "Cái mũ của tôi," lần này giọng
Schmendrick cương quyết hơn. "Một người trong bọn ông lấy, bảo hắn khôn
ngoan ra hãy trả lại tôi cái mũ đó."
"Khôn ngoan ra à?" Hắn nói ủn ỉn như lợn. "Anh
là ai, và cho tôi hay thế nào là khôn ngoan?"
Hơi vang hãy còn bừng bừng trong ánh mắt, Schmendrick đáp,
"Tôi là Schmendrick ảo thuật gia, xấu chơi với tôi thì phiền đa. Tôi già
hơn bề ngoài, và không hiền lành như người ta tưởng đâu. Cái mũ của tôi
đâu?"
Jack Jingly trợn mắt nhìn giây lâu rồi đi thẳng tới con ngựa
của hắn, nhảy lên yên. Hắn cho ngựa chạy sát lại chỉ còn cách Schmendrick có một
kẽ tóc. "Này, nghe ta bảo," giọng hắn vang vang, "Nếu anh là ảo
thuật gia, hãy làm vài trò xem thử. Hãy hóa cái mũ ta thành xanh, hãy nhét đầy
tuyết vào cái bao da bên yên ngựa này, hãy thủ tiêu bộ râu của ta đi. Hãy trổ
tài quỷ thuật, hoặc hãy phủ phục xuống lạy ta." Hắn rút ở thắt lưng da ra một
con dao găm đu đưa cái mũi nhọn và huýt sao riễu.
"Ảo thuật gia là khách của ta," ông Thị Trưởng cảnh
cáo, nhưng Schmendrick đã lên tiếng một cách trịnh trọng, "Được lắm. Rồi
nó sẽ đổ lên đầu ngươi." Ảo thuật gia kín đáo nhìn bằng đuôi mắt thấy cô
gái hơ hớ đương chăm chú quan sát mình, ông bèn chỉ vào lũ bù nhìn đàn em đương
nhe răng cười sau tên đàn anh của chúng, đọc mấy câu tựa như thần chú có vần. Tức
thì chiếc mũ đen của ông tự đứt khỏi tay tên cướp đàn em rồi bay là là trong
không khí xẫm màu lặng lẽ như một con cú. Hai người đàn bà thấy vậy ngất xỉu,
và ông Thị Trưởng ngồi xuống. Cả bọn cướp la lên như bầy trẻ.
Dọc theo khoảng trống khu phố chiếc mũ đen hạ xuống tự múc đầy
nước. Rồi nó chập chờn lượn lại, rõ ràng là muốn tiến thẳng đến đỉnh đầu Jack
Jingly, khiến hắn phải vội lấy hai tay che và càu nhàu, "Này, này, bắt nó
bay ra xa đi," cả đám đàn em hắn cười hi hi. Schmendrick tủm tỉm thắng thế
và bật móng tay ra lệnh cho chiếc mũ mau tiến tới.
Nhưng khi chiếc mũ gần tới đầu tên cướp lãnh tụ bỗng đổi chiều,
thoạt từ từ rồi nhanh dần khi nó bắt đầu nghiêng tới bàn tiệc. Ông Thị Trưởng
chỉ còn kịp bổ ngảvề phía trước một chút thì chiếc mũ đã chụp một cách vững
trãi vào đầu ông. Schmendrick cúi xuống tránh né kịp thời, nhưng một vài ông
nghị bị nước tung tóe bắn vào chút ít.
Mọi người cười ồ, Jack Jingly từ mình ngựa cúi xuống nhấc bổng
Schmendrick ảo thuật gia lên, lúc đó ông ta đương muốn dùng cái khăn bàn để lau
cho ông Thị Trưởng luống cuống. "Không còn ngờ chi nữa, chắc chắn ông bạn
còn phải biểu diễn nữa," tên khổng lồ rống lên bên tai Schmendrick.
"Ông bạn nên đến với bọn tôi." Hắn đặt úp Schmendrick xuống ngang yên
rồi phóng ngựa, lũ đàn em rách rưới phóng theo. Tiếng khịt mũi, tiếng khạc nhổ,
tiếng cười thét của chúng nhường như còn vang vang trong khu phố sau khi tiếng
vó ngựa của chúng đã chìm dần vào quãng đường xa.
Đám đàn ông chạy lại hỏi ông Thị Trưởng rằng họ có cần đuổi
theo tụi cướp để cứu Schmendrick. Ông Thị Trưởng lắc cái đầu tóc ướt của ông mà
rằng, "Tôi nghĩ rằng điều đó không cần. Nếu quả ông khách của chúng ta là
một tay phù thủy quán thế như ông ta nói, ông ta thừa sức tự cứu lấy mình. Trường
hợp ngược lại, thì tại sao một tên bịp được ta tiếp đãi ân cần lại có quyền
trách ta không cứu hắn. Không, không, chúng ta không phải bận tâm đến ông khách
đó."
Nước đã đổ lên đầu ông thoạt thành những dòng suối nhỏ chảy
xuống má, rồi chập lại thành vài dòng suối lớn chảy dọc theo phía sau gáy và
phía trước áo lót mình của ông, nhưng ông quay lại điềm tĩnh nhìn về phía đồng
cỏ xa, con ngựa cái trắng của nhà ảo thuật như tỏa ánh sáng trong bóng chiều chạng
vạn. Nó tung vó tới, tung vó lui trước hàng rào mà vẫn yên lặng. Ông Thị Trưởng
nói khẽ, "Tôi nghĩ chúng ta nên săn sóc dùm ông bạn con vật cao giá
kia." Ông sai hai người đi tới cánh đồng cỏ với chỉ thị là tròng thừng cho
khéo vào cổ nó, dắt nó về nhốt trong cái chuồng chắc chắn nhất của ông.
Nhưng hai người chưa kịp qua cổng lớn để đi vào cánh đồng cỏ,
thì con ngựa cái trắng đã thoắt nhảy vọt qua hàng rào và vút biến vào đêm tối
như một vì sao lạc. Hai chàng đứng sững đó giây lâu, không để ý tới lệnh cho
quay lại của ông Thị Trưởng, và cũng không nói với nhau là sao cái nhìn của họ
lại cùng bị thu hút vào con ngựa trắng lâu đến như vậy. Nhưng rồi kể từ sau
ngày đó đôi khi giữa những chuyện thật quan trọng họ cười phá lên, và coi đó bất
quá là những trò trẻ.
5
Tất cả những điều Schmendrick sau này nhớ lại về vụ bị bắt
cóc trên lưng ngựa chỉ là tiếng gió vù vù bên tai, cạnh cứng của chiếc yên và
tiếng cười khoái chí của tên khổng lồ áo quần reng rẻng tiếng chuông. Ông ta
còn mải suy nghĩ về vụ làm ảo thuật với chiếc mũ vừa rồi nên cũng không chú ý đến
ngoại cảnh cho lắm. Lắt léo thật, ông ta tự nghĩ. Đền bù như vậy đã quá xứng
đáng. Nhưng ông lắc đầu - lắc đầu hơi khó ở vị thế nằm của ông lúc đó. Phép thuật
tự nó biết phải làm những gì, ông ta nghĩ, toàn thân nẩy lên vì ngựa vừa nhảy
qua dòng suối nhỏ. Nhưng mình ít ra cũng nên kịp thời biết được nó sẽ làm gì.
Giá như có thể gửi đi một bức thư để học hỏi thêm về chuyện đó mình cũng gửi,
khốn nỗi biết gửi về đâu, gửi cho ai kia chứ.
Bụi cây, cành cây cào vào mặt ông, và tiếng cú kêu bên tai
ông. Đoàn người ngựa đã chậm bước phóng, tiếng vó đập thong thả, thong thả dần,
rồi chỉ còn như đi tản bộ. Một tiếng hô lớn hơi run run, "Đứng lại, cho khẩu
hiệu!"
"Mẹ kiếp, bọn tớ đây," Jack Jingly càu nhàu. Hắn
gãi đầu sồn sột như cưa nứa, cao giọng đọc thuộc lòng
"Đời ngắn ngủi, đời đẹp vui, trong rừng xanh, những bạn
lành, cùng đấu tranh, quyết chiến thắng." "Giành tự do," giọng
nhỏ sửa lại. Đọc sai hết cả rồi.
"Cám ơn. Giành tự do. Những bạn lành, cùng đấu tranh - ồ
tôi đã đọc qua chỗ này rồi. Đời ngắn ngủi đời đẹp vui, nè nè, không phải thế."
Jack Jingly lại gãi đầu và rên rỉ than vãn. "Giành tự do - nhắc tớ một tí
được không?"
"Tất cả cho một người, một người cho tất cả," tiếng
người nhắc. "Có thể nhớ nốt được chăng?"
"Tất cả cho một người, một người cho tất cả, tớ không nhớ
nổi! tên khổng lồ hét tướng lên. "A, tớ nhớ ra rồi, tất cả cho một người,
một người cho tất cả, đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết. Đúng boong." Hắn
thúc ngựa định cho chạy tới.
Một mũi tên vụt bay tới tự vùng bóng tối va vào tai hắn, va
vào đuôi con ngựa của tên kỵ mã đứng sau, rồi mất hút đi như một cánh dơi. Cả
đám cướp tán loạn, Jack Jingly gầm lên, "Đ.m. mắt mù à, ông đã nói đi nói lại
khẩu hiệu mười lần rồi, không đủ sao? Ông mà tóm được mày lúc này thì bỏ mẹ với
ông."
"Ở nhà đã thay khẩu hiệu mới khi anh đi, anh Jack
ơi," tiếng người lính canh vang tới. "Vì khẩu hiệu cũ này khó nhớ quá
đi."
"A, ở nhà các anh đã thay khẩu hiệu mới à," Jack
Jingly dùng vạt áo ngoài của Schmendrick chấm nhẹ vào khoảng tai rớm máu.
"Như vậy làm sao ta biết được khẩu hiệu đó như các anh mà trả lời, đồ ngu,
đồ không tim không gan, không ruột."
"Đừng nổi quạu nữa, Jack." Tên lính gác nhẹ nhàng
đáp lời "khẩu hiệu mới rất đơn giản, anh chỉ cần kêu lên như loài hươu cao
cổ, chính lãnh tụ đã nghĩ ra đó."
"Kêu lên như hươu cao cổ." Tên khổng lồ chửi thề ầm
ĩ, đến nỗi con ngựa hắn cưỡi cũng lồng lộn bứt rứt không yên. "Này, đ.m,
hươu cao cổ có biết kêu cái con mẹ gì đâu. Lãnh tụ bảo thế thì cũng như bảo tao
bây giờ hãy câm như cá, câm như bướm."
"Tôi biết. Với cách đó thì không ai có thể quên được khẩu
hiệu, kể cả anh. Lãnh tụ sáng suốt lắm đấy chứ?"
"Làm cóc gì có ranh giới nào cho con người," Jack
Jingly ngỡ ngàng nói. "Nhưng hãy xem đây này, cái gì cấm một anh kỵ sĩ,
hay một vệ binh của nhà vua không được kêu lên như loài hươu cao cổ khi mà
chúng ta tung hô vạn tuế nhà vua?"
"A ha," tên lính gác bật cười. "Sự sáng suốt của
lãnh tụ là ở đó. Anh chỉ việc kêu lên ba lần. Hai lần dài, một lần ngắn."
Jack Jingly ngồi yên tâm trên mình ngựa, gãi tai, "Hai lần
dài, một lần ngắn," hắn thở dài sườn sượt. "Thực còn điên hơn thuở
không cần một khẩu hiệu nào, và bắn vung mạng vào bất kỳ kẻ nào dám nhận lời
thách đố. Hai dài và một ngắn như vậy đúng không." Đoạn hắn phóng ngựa qua
rừng cây, và lũ đàn em theo hắn.
Có tiếng rì rầm đâu đây về phía trước, gắt gỏng như đàn ong vỡ
tổ. Khi họ tiến tới gần hơn, Schmendrick còn nhận thêm có tiếng đàn bà trong đó
nữa. Rồi ông ta cảm thấy má rát ánh lửa, ông ta ngẩng đầu lên nhìn. Họ đã dừng
lại ở giữa một khu rừng thưa, nơi đó đã có chừng mười hai người ngồi quanh ngọn
lửa trại, nói chuyện, đùa rỡn, cãi nhau ỏm tỏi. Không khí thơm lừng mùi đồ nướng.
Một người đàn ông tóc đỏ mặt đầy tàn nhang, mặc bộ đồ coi diêm dúa hơn, rảo bước
tới đón họ. "Chào Jack," ông ta kêu lên. "Anh mang lại cho chúng
tôi người nào đó, bạn hay kẻ bị bắt?" Ông ta ngoái cổ lại phía sau nó lớn.
"Cho thêm nước vào nồi súp nhé, chúng ta có thêm người."
"Tôi cũng chẳng rõ hắn thuộc loại người nào." Jack
Jingly ồ ồ đáp. Hắn bắt đầu kể chuyện viên Thị Trưởng và chiếc mũ, nhưng hắn chỉ
vừa kể tới đám kỵ mã ồn ào xuống phố thì bị một người đàn bà gầy như que củi tới
cắt ngang câu chuyện," "Cully ạ, tôi không muốn thế này chút nào,
cháo đã loãng quá rồi." Khuôn mặt nàng xương xương, nước da tai tái, mắt
lanh màu nâu, và tóc thì màu cỏ úa.
"Và cái tên ngớ ngẩn này là ai?" Nàng vừa hỏi vừa
ngắm nghía Schmendrick như thể ngắm vết bùn dính vào gót giầy mình. "Hắn
không phải là người thị thành. Tôi không ưa vẻ nhìn của hắn. Cứ hạ thủ béng
"cà thật" của hắn đi.
Hình như ý nàng muốn nói bảo là cứ cắt béng "quả thận"
của hắn đi, nhưng do ngẫu nhiên Schmendrick lại nghe hai chữ "cà thật"
ra thành "tà thuật" do đó ảo thuật gia cảm thấy ớn xương sống. Ông ta
bèn tuột từ trên lưng ngựa xuống và đứng thẳng trước vị đại úy của lũ cướp.
"Tôi là Schmendrick ảo thuật gia," ông ta vừa nói vừa xoay tít tấm áo
choàng bằng hai tay rồi cho tốc độ hạ từ từ. "Và phải chăng ông là Lãnh tụ
Cully lừng danh của chốn rừng xanh, kẻ can đảm nhất, tự do nhất?"
Lũ cướp cười hi hí, người đàn bà thì rền rĩ. "Tôi biết
mà," nàng tuyên bố. "Cully, cứ lóc xương hắn ra, trước khi hắn xử với
anh như tên trước." Nhưng vị lãnh tụ đã cúi chào trịnh trọng, "Thưa
chính tôi. Kẻ nào săn đầu tôi sẽ phải đương đầu với một địch thủ đáng sợ, nhưng
nếu đến như bạn sẽ được hưởng tình thân hữu nồng nhiệt của tôi. Thưa ngài tới
đây bằng cách nào vậy?"
"Bằng cách nằm xấp trên yên ngựa," Schmendrick đáp,
"tuy bất ngờ, nhưng thân hữu. Mặc dù bà chủ đây ngờ vực điều đó." Ông
ta thêm câu này, và cúi đầu chào người đàn bà gầy. Nàng nhổ một bãi xuống đất.
Lãnh tụ Cully nhe răng cười, thận trọng đặt cánh tay lên bờ
vai gầy của người đàn bà. "A, đó chỉ là cách nói của Molly Grue thôi
mà," ông ta giải thích. "Nàng gìn giữ tôi cẩn mật hơn là chính tôi đề
phòng cho tôi. Tôi đại lượng và dễ dãi nhiều khi đến thành quá trớn, tôi là bàn
tay mở rộng cho bất kỳ một nạn nhân của bạo vương nào trốn thoát tới đây. Đó là
phương châm sử thế của tôi. Vì vậy tự nhiên là Molly phải có thái độ đa nghi,
chặt chẽ, gắt gỏng, với một chút xíu độc tài nữa. Quả bóng dù tròn trĩnh sáng sủa
đến mấy thì vẫn cần một đầu có mấu buộc kín, ê phải không Molly? Nhưng bản tính
nàng rất tốt, rất tốt." Người đàn bà nhún vai rồi xa lãnh tụ, nhưng lãnh tụ
không quay đầu lại. "Xin chào mừng ảo thuật gia, ông là khách quý của
chúng tôi," ông ta nói với Schmendrick. "Nào xin mời ông tới ngồi
quanh ngọn lửa hồng, và xin cho biết bên ngoài họ nói gì về giang sơn này của
chúng tôi, họ nói gì về lãnh tụ Cully và đoàn dũng sĩ của tự do? Ông sơi cái
này với chúng tôi."
Schmendrick nhận lời ngồi quanh lửa hồng, từ chối cái ăn, và
trả lời, "Tôi được nghe đồn ông là một lãnh tụ hào hùng, thế thiên hành đạo
diệt kẻ gian bạo giúp kẻ yếu hèn, lấy của người giàu phân chia cho người nghèo,
sống một đời tung hoành tự do phóng khoáng chốn rừng xanh núi đỏ. Tôi biết chuyện
lãnh tụ và Jack Jingly đã đụng độ với nhau như thế nào, thi tài với nhau như thế
nào để thành chiến hữu với nhau như ngày nay. Tôi biết chuyện lãnh tụ đã cứu
Molly như thế nào khi nàng bị người cha tham giàu gả cho tên già dê cụ."
Thực ra thì mãi tới giờ phút đó Schmendrick mới gặp lãnh tụ Cully, nhưng ảo thuật
gia vốn có một căn bản rất vững về các tập tục và truyện cổ dân gian thuộc giống
dân Anglo-Saxon, nên ông nhớ hết những nét điển hình từng loại nhân vật.
"Và lẽ cố nhiên," ông ta muốn thêm mắm thêm muối. "Có một bạo
vương kia," "Vâng, bạo vương Haggard đã hại tôi!" Cully thét
lên. "Không một kẻ nào có mặt nơi đây mà không là nạn nhân của Haggard. Họ
đều bị Haggard tước đoạt gia tài, tước đoạt đất sống, tước đoạt chức vị nên mới
lang bạt kỳ hồ rồi ngẫu nhiên tụ họp nơi đây. Chúng tôi chỉ còn đợi ngày trả
thù - xin ảo thuật gia nhớ cho như vậy - một ngày kia Haggard sẽ phải trả giá
những điều y đã làm."
Khoảng một tá bóng gầy huýt sáo để tán đồng ầm ĩ, nhưng tiếng
cười của Molly Grue vang lên riễu cợt. "Ờ có lẽ Haggard sẽ phải trả
giá" giọng Molly riễu cợt, "nhưng không phải trả giá với lũ vô dụng
chỉ bạo có lỗ mồm này. Lâu đài ông ta ở điêu tàn mục nát dần, quân lính ông ta
già nua yếu đuối dần, nhưng ông ta sẽ trị vì mãi mãi, xá gì lời dọa nạt phất
phơ của Cully."
Schmendrick rướn lông mày, và Cully thẹn đỏ mặt như củ ra-đi.
"Ông hẳn biết," hắn ấp úng, "Vua
Haggard có con Bò Mộng."
"A, Con Bò Mộng Đỏ, Con Bò Mộng Đỏ!" Molly la lớn.
"Tôi đã nói với anh thế nào, Cully, sau bao nhiêu năm sống trong rừng với
anh tôi đã hiểu Con Bò Mộng chả là gì hết, thối tha chăng là cái tên hiệu anh
mang để che đậy tính tình hèn nhát của anh. Nếu anh còn nhắc đến huyền thoại
Con Bò Mộng nữa tôi sẽ đích thân đi hạ thủ Haggard và coi anh là - "
"Thôi đủ rồi!" Cully rên rỉ "Đây còn có người
lạ nữa!" Hắn cố rút gươm ra và Molly mở rộng hai cánh tay thách thức, miệng
còn cười khanh khách. Quanh ánh lửa hồng những bàn tay bầy nhầy run run đặt lên
cán dao găm, dây cung như tự căng lên, nhưng Schmendrick đã lên tiếng để cứu
vãn danh dự cho Cully. Ảo thuật gia vốn ghét những cảnh nội bộ gia đình bất
hòa.
"Quê tôi họ có một bài ca về ông," ảo thuật gia bắt
đầu nói. "Tôi cũng quên không nhớ rõ bài thơ khởi đầu ra sao," Lãnh tụ
Cully vươn cổ lên như chú miu đương rình chính cái đuôi của mình. "Bài gì
thế?" lãnh tụ hỏi.
"Tôi cũng không rõ," Schmendrick đáp. "Phải có
hơn một chứ?"
"Ầy, lẽ cố nhiên là vậy!" Cully la lên, mắt long
lanh, ngực ưỡn thẳng như người đàn bà có mang kiêu hãnh với bào thai của mình.
"Willie Gentle! Chú Willie Gentle đâu rồi?"
Một chú nhỏ tóc thẳng, không quăn, tay cầm đàn lư cầm (lute),
mặt tàn nhang lấm tấm, uể oải tiến lên. "Hãy hát một bài ca ngợi một trong
những chiến công hiển hách của ta cho vị quý khách đây nghe." Lãnh tụ
Cully ra lệnh cho chú. "Hát bài nói lý do vì sao chú gia nhập đoàn ta. Từ
thứ ba trước tới nay, ta chưa được nghe lại bài đó."
Chú ca công thở dài, dạo đàn, và bắt đầu cất giọng nửa cao nửa
trầm ca rằng:
Lúc đó Lãnh tụ Cully đang phóng ngựa về nhà.
Sau khi đã giết con hươu của ông vua kia.
Chợt người nhận thấy một chàng trai mặt tái.
Đi lảo đảo rồi để rơi mình trên đồng cỏ dại.
"Làm sao vậy hỡi chàng trai trẻ đẹp,
Cái gì làm chàng phải thở dài não nuột?
Phải chăng chàng vừa mất người yêu diễm tuyệt?
Nói ta hay, ta giúp được chi nào!"
"Đúng, tôi vừa mất người yêu diễm tuyệt,
Ba người anh tước đoạt mất đi rồi,
Nhớ thương nàng lòng chĩu nặng người ơi,
Đúng, tôi vừa mất người yêu diễm tuyệt."
"Ta, Lãnh tụ Cully, chúa rừng xanh núi thẳm.
Các bạn ta, những anh hùng tự do dũng cảm.
Nếu ta cứu được người đẹp cho chàng,
Hỏi rằng chàng có đền đáp được gì chăng?"
"Liệu ông có cứu được người đẹp cho tôi không.
Hay tôi phải đấm vỡ mặt một tên khùng?
Nhưng xin nhớ cổ nàng có đeo viên ngọc bích.
Mà ba thằng anh tôi cũng đều rất thích."
Lãnh tụ Cully quyết truy lùng lũ trộm.
Người vung gươm quát chúng, ôi hào hùng dũng cảm:
"Hãy giữ lấy nàng, còn nộp ta tấm áo chàng.
Ta lên ngôi vua, cần tấm áo rộng đàng hoàng."
"Bây giờ mới đến đoạn tuyệt diệu," Cully thì thầm
bên tai Schmendrick, trong khi chú ca công hát tiếp.
Thế là ba tấm áo choàng bay tung
Và ba thanh gươm bật khỏi tay cầm
Lãnh tụ Cully cười ha hả mà rằng
Lũ bay mất áo choàng mà mất cả người đẹp sao băng.
Nhìn ba tên trộm mà vui
Bị người đẩy tới đẩy lui như cừu.
"Bị người đẩy tới đẩy lui như cừu," Cully nhắc lại
như một tiếng vang âu yếm. Ông ta hầu như đã gật gù, ngâm nga theo suốt mười bảy
đoản khúc của bài ca, đôi khi làm điệu múa may như muốn phụ lực cùng trình diễn
bài dân ca truyện tích 1 đó
với chú ca công. Molly luôn luôn nhìn ông bằng đôi mắt riễu cợt, và đám bộ hạ thì
cựa quậy không ngơi. Khi câu chót vừa được ngâm dứt, Schmendrick vỗ tay ầm ĩ và
nhiệt liệt khen Willie Gentle là đã trình diễn tuyệt hảo.
Chú ca công khoái lắm thổ lộ, "Dạ vâng, đây cũng như một
bài trong Tuyển tập Alan-a-Dale" 2
Chú còn định tán rộng nữa, nhưng bị Cully ngắt lời, "Tốt
lắm Willie, chú tốt lắm, giờ đây hãy ca tiếp những bài khác." Lãnh tụ muốn
soi sáng ngay vấn đề cho Schmendrick đỡ thắc mắc, nên giải thích liền,
"Thưa ông khách quý, có nhiều bài hát ca ngợi về tôi lắm. Thật đúng ra có
ba mươi mốt bài cả thẩy, tuy rằng cho đến nay ông Child 3 vẫn
chưa chọn bài nào cho vào bộ sưu tập của ông ta." Đôi mắt lãnh tụ bỗng
nhiên mở lớn, ông ghì chặt lấy vai Schmendrick, hỏi, "Rất có thể ông là
Child, phải không? Tôi được nghe nói ông ta thường giả dạng như người dân thường
đi lang thang khắp các hang cùng ngõ hẻm để sưu tầm những bài dân ca kể lại những
sự tích ly kỳ."
Schmendrick lắc đầu. "Không, rất tiếc tôi không phải là
ông ta."
Lãnh tụ thở dài và buông vai ảo thuật gia, "Cũng không
sao. Dĩ nhiên ngay cả ngày nay nữa, người ta luôn luôn hi vọng được sưu tập, kiểm
chứng, chú thích nhiều bản khác nhau, kể cả việc nêu nghi vấn về hiện hữu của
mình... chà chà, điều đó có sao đâu. Hát những bài khác đi, Willie chú nhỏ. Rồi
tương lai chú sẽ đi vào con đường đó."
Đám thảo khấu càu nhàu, lết gót giày, đạp vào những tảng đá.
Một giọng ồ ồ thoát ra từ trong bóng tối, "Này, Willie, hãy hát cho bọn
này nghe một ca khúc thật, một ca khúc về Robin Hood 4 chẳng
hạn.)
"Tên nào nói vậy?" Tiếng gươm của Cully lách cách,
trong khi ông ta hết quay tả lại quay hữu, khuôn mặt tái nhợt và mệt mỏi như
trái chanh ủng vừa rụng xuống.
"Tôi nói đấy," Molly Grue nói - thực ra nàng đâu có
nói. "Tất cả anh em đây ngấy đến mang tai những bài hát ca ngợi lòng dũng
cảm của anh, thưa lãnh tụ yêu quí. Dù rằng đó toàn là những bài đích thân anh
viết."
Cully rụt cổ lại, kín đáo liếc nhìn Schmendrick, hỏi khẽ,
"nhưng chúng vẫn là dân ca chứ sao, phải không thưa ông Child? Vả lại."
"Thưa tôi không phải là ông Child," Schmendrick
nói. "Quả thực tôi không phải."
"Tôi muốn nói mình không thể phó mặc bộ môn anh hùng ca
cho đám quần chúng sáng tác lấy. Chúng sẽ làm sai lạc hết."
Một anh áo rách tơi tả vẻ mặt xỏ lá rụt rè nói, "Thưa
lãnh tụ, nếu chúng ta buộc phải có dân ca, mà chúng ta nên có, thì chúng tôi
thiết nghĩ dân ca đó phải là thứ thiệt, ca ngợi những anh hùng thảo khấu thứ
thiệt, chứ loại điêu ngoa chết dẫm như chúng ta, thì dân ca nào mà ca ngợi. Nói
lãnh tụ bỏ qua cho, chứ chúng ta có sung sướng gì đâu mà."
"Hỡi Dick Fancy, tôi sung sướng hai mươi bốn giờ một
ngày," Cully lạnh lùng nói. "Đó là sự thực." "Và chúng ta
không lấy của kẻ giàu để phân phát cho kẻ nghèo," Dick Fancy vội vã nói tiếp.
"Chúng ta
ăn cắp của những kẻ nghèo vì chúng không chống cự nổi chúng
ta, và lũ quyền thế thì lại bóc lột chúng vì chúng có thể tống khứ chúng ta ra
khỏi địa giới của chúng. Chúng ta chẳng tước đoạt cóc khô gì của tên Thị Trưởng
béo trục béo tròn, trái lại chúng ta phải nộp thuế lợi tức cho hắn để được yên
thân. Chúng ta chẳng bao giờ quyến rũ được vị giám mục nào đến khu rừng ta ở để
tiếp đãi, thù phụng, bởi bếp của đồ đảng của ông sống trong khoảng rừng
Sherwood Forest. Họ đều dũng cảm, lịch thiệp, vui tính, công bằng và cao thượng
trong việc thế thiên hành đạo. Đó là những khuôn mặt thảo khấu lý tửng muôn đời
trong kho tàng dân ca truyện tích Tây Phương. (Lời chú của người dịch)
Molly chẳng bao giờ có của ngon vật lạ, hơn nữa, còn vị giám
mục nào thèm hạ cố đến với chúng ta. Khi chúng ta tới dự hội chợ hóa trang,
chúng ta có bao giờ thắng cuộc thi bắn cung, hay nhảy sào nhảy gậy gì đâu, bất
quá chỉ được khen qua loa về tài hóa trang, thế thôi."
"Tôi có lần gửi tấm thảm dệt tới dự thi," Molly ôn
lại kỷ niệm. "Tôi đứng thứ tư. Thứ năm. Ngày đó ai cũng phải canh
đêm." Bỗng nhiên nàng rụi mắt bằng đốt ngón tay chai sạn của nàng.
"Muốn nguyền rủa anh, Cully."
"Cái gì nào, cái già nào?" Cully gầm lên vì giận.
"Vì tôi mà cô bỏ dở cả nghệ thuật vá may thêu thùa sao.
Khi cô đã có được người đàn ông rồi cô tung hê cả mọi công việc.
Cô không khâu, không hát nữa, đã hàng mấy năm nay cô không hề trình bày cho một
trang bản thảo - và chiếc trung hồ cầm tôi tặng cô cũng bị quẳng một xó đấy.
Ông ta quay sang Schmendrick. "Kể ra chúng tôi có thể đã thành hôn với
nhau theo kiểu lúc nàng đi gieo hạt." Ảo thuật gia khẽ gật đầu và nhìn về
phía khác.
"Và việc cứu khốn phò nguy, thế thiên hành đạo, hay cái
gì đại khái như vậy," Dick Fancy nói, "Việc đó đâu có đến nỗi dở như
thế này, mặc dầu thực sự bản tâm tôi cũng chẳng tha thiết gì với việc cứu khốn
phò nguy. Trong anh em đây cũng có người muốn hành hiệp chứ chẳng phải không.
Nhưng sự thực, anh Cully ơi, chúng ta có cứu khốn phò nguy cóc khô gì đâu mà
chúng ta hát những bài ca ngợi sự hành hiệp đó. Thực xấu hổ."
Lãnh tụ Cully điềm tĩnh khoanh tay lại, làm như không biết đến
những tiếng xì xào tán thưởng Dick của cả đám đồ đảng. "Willie, hãy ca những
bài đó."
"Tôi không ca." Chú ca công quyết không thèm nhúc
nhích tay để mó vào cây lư cầm. "Ông có chiến đấu cho ai đâu, ông Cully. Hát
ca mà làm gì, ai chẳng biết chính ông viết ra chúng mà không ký tên."
Cully rút một tay về, và những ánh gươm lấp lánh giữa đám thảo
khấu. Tới lúc đó thì Schmendrick tiến lên, gấp gáp nở một nụ cười. "Thưa
quý bạn, tôi nghĩ rằng bây giờ có thể đến phiên tôi." Ông ta đề nghị.
"Sao một kẻ được các bạn tiếp đón như thế này lại không có quyền được giúp
vui quý bạn nhỉ? Tôi không có tài đờn hát, nhưng tôi có thể giải trí quý bạn bằng
thứ tài mọn đặc biệt của tôi mà các bạn có thể chưa từng được chứng kiến bao giờ."
Jack Jingly đồng ý tức khắc, nói, "Ấy này Cully, một ảo
thuật gia đấy! Cũng là một dịp hiếm cho đám họ được giải trí." Molly Grue
thốt luôn mấy lời bất mãn thô lỗ về đám phù thủy, nhưng cả đám người đã hoan hô
ầm ĩ. Sự miễn cưỡng chỉ lộ trên nét mặt của Cully thôi, ông ta cất giọng phản đối
một cách buồn rầu, "Vâng cũng được nhưng những bài ca đã. Ông Child phải
được nghe những bài ca đã."
"Tôi cũng muốn được nghe những bài ca đó lắm,"
Schmendrick nói với Cully. "Nhưng sau cái này đã." Lúc đó Cully mới
yên tâm và ra lệnh cho mọi người lui ra để Schmendrick có chỗ biểu diễn. Họ nằm
ngồi ngổn ngang trong bóng tối, nhăn nhở cười, xem Schmendrick làm trò. Đó là
những trò bình thường mà ảo thuật gia vẫn diễn cho đám dân quê xem hồi còn ở
trong Gánh Xiệc Nửa Đêm. Ông ta nghĩ như vậy cũng quá đủ cho đám người
của Cully này.
Nhưng ông đã đánh giá quá thấp họ. Họ cũng có vỗ tay, hay
rung chuông hoan hô đấy, nhưng họ không tỏ một chút nào là ngạc nhiên thán phục
cả. Một lần ảo thuật gia báo trước sẽ biến con vịt thành một cây anh đào nửa
chua nửa ngọt cho họ bứt trái, thì lại chỉ thành một nắm anh đào to tướng.
Nhưng ảo thuật gia vẫn được vỗ tay đúng lệ bộ. Họ đúng là đám khán giả lịch sử
hiếm có.
Cully mỉm cười một cách miễn cưỡng, còn Jack Jingly thì ngủ
thiếp đi được một giấc ngắn, nhưng ảo thuật gia giật mình khi quan sát thấy ánh
mắt quá ư thất vọng của Molly Grue. Bỗng nhiên niềm chua chát, cơn thịnh nộ nội
tâm làm ông phá ra cười. Ông ném xuống đất bảy cuộn sợi dệt, trong khi tay ông
múa, bảy cuộn sợi từ từ rực sáng dần lên (vào một chiều tối trời ông ta có thể
làm nó bắt lửa,) ông ta bỏ rơi hết mọi trò rẻ tiền và nhắm mắt lại. "Thích
cái gì hãy hiện ra cái đó," ông ta thì thầm niệm chú. "Thích cái gì
hãy hiện ra cái đó."
Như có tiếng thở dài thoát khỏi tự cơ thể ông, một niềm bí ẩn
mong manh kết tụ đâu đây, nơi bờ vai gầy của ông chăng, nơi tủy xương ống chân
của ông chăng? Trái tim ông như cánh buồm no gió, một cái gì chuyển động vững
chắc trong cơ thể ông. Nó dùng lời ông nói mà truyền lệnh. Yếu hơn nó, ông khuỵu
gối xuống và đợi mình tỉnh lại thành Schmendrick như xưa.
Ta tự hỏi đương làm gì đây. Ta đương làm một cái gì.
Ông mở mắt ra. Hầu hết mọi người vỗ lên thái dương cười
nghiêng ngả, sung sướng được dịp riễu ảo thuật gia. Lãnh tụ Cully đã đứng dậy,
vẻ lo lắng, sắp tuyên bố cuộc vui chấm dứt, thì vừa lúc đó Molly Grue cất tiếng
kêu khẽ, khiến mọi người cùng quay lại xem nàng đã nhìn thấy gì. Một người
đương thong thả tiến vào khu rừng trống của họ.
Ông ta bận đồ xanh lá cây, áo chẽn ngoài màu nâu, mũ lưỡi
trai đội lệch cũng màu nâu, trên có cắm một chiếc lông gà rừng. Trông ông ta
cao lớn, cao lớn hơn người thường nhiều: chiếc cung ông ta đeo trên vai dễ thường
cao bằng Jack Jingly, và những mũi tên của ông có thể dùng làm dáo mác cho lãnh
tụ Cully. Không chú ý gì đến đám người rách rưới đứng im phăng phắc quanh ngọn
lửa hồng, ông ta đi những bước thật dài lẩn vào bóng tối rồi biến mất không để
lại một tiếng động nhỏ.
Sau ông ta đến những người khác, khi thì từng người một, khi
thì hai người một, khi thì hai người một; kẻ thì như đương nói chuyện, kẻ thì
như đang cất tiếng cả cười, nhưng vẫn không gây nên một tiếng động nhỏ nào. Tất
cả đều đeo cung dài và bận đồ xanh, trừ một người mặc bộ đồ đỏ từ đầu đến gót
chân, 5 và
một người khác mặc chiếc áo choàng thầy dòng màu nâu, chân đi dép săng-đan, bụng
bự thắt dây lưng bằng thừng. 6 Một
người vừa đi vừa chơi đàn lư cầm giữ nhịp cho lời ca thầm lặng.
"Alan - a - Dale." Đó là tiếng của Willie Gentle
đau xót. "Trông kìa, chính là Alan-a-Dale." Giọng chú ca công lạc hẳn
đi như tiếng con chim non ra dàng vừa vỡ tiếng.
Kiêu hùng mà đơn giản, cử động uyển chuyển nhịp nhàng như
hươu cao cổ (kể cả người to lớn nhất có đôi mắt hiền hậu, Blunderbore); họ lướt
ngang qua khu rừng trống. Sau cùng tiến tới một trang anh hùng quắc thước âu yếm
tay trong tay với một trang quốc sắn giai nhân. Khuôn mặt họ đẹp làm sao, vằng
vặc như không bao giờ biết sợ hãi là gì. Mái tóc của người đẹp mướt bóng một
cách kỳ lạ, như dải mây che ánh trăng rằm.
"Ồ," Molly Grue nói. "Nàng Marian đó."
"Robin Hood là một huyền thoại," Lãnh tụ Cully nói,
giọng bứt rứt, "Một hình ảnh anh hùng bình dân cổ điển được kết tinh lại
do nhu cầu... Con người luôn luôn cần anh hùng, nhưng không bao giờ họ có được
đấng anh hùng đúng cỡ với nhu cầu, do đó các thần tượng anh hùng được thành
hình từ một chút ít sự thực nào đó như hạt trai được thành hình từ một hạt cát
nhức buốt có gì lạ đâu."
Robin Hood.
Tất cả chương này đều dùng điển tích truyện Robin Hood. Từng
nhân vật, từng lời nói, từng cử chỉ, từng tình tiết đều được hí họa hóa một
cách cực kỳ dí dỏm. (L.N.D.)
Anh chàng thâm trầm và sâu sắc Dick Fancy có quyết định di
chuyển đầu tiên. Khi cả đám dũng sĩ, trừ cặp trai tài gái sắc cuối cùng, đã lẩn
vào bóng đêm của rừng thẳm, Dick Fancy vùng chạy theo họ và la lớn đến khan giọng.
"Robin, Robin, Robin Hood, thưa ngài, chờ tôi với!" Nhưng cả người
đàn ông cùng không quay lại. Lập tức cả đoàn thảo khấu của Cully - trừ Jack
Jingly và chính lãnh tụ Cully - đều ùa chạy theo về phía ven rừng trông, vấp
té, dẫm đạp lên nhau, đá tung củi lửa, cả khu rừng trống bỗng chập chờn hỗn loạn
những bóng người. "Robin!" họ hết gọi; rồi những tiếng la lẫn lộn,
"Marian, Scarlet, Little John - hãy quay lại! Hãy quay lại!"
Schmendrick bật cười, không nhịn được.
Trên hết những tiếng kêu gọi hỗn loạn đó là tiếng Lãnh tụ
Cully gầm lên, "Lũ điên, lũ điên, lũ con nít! Đó là những hình ảnh điêu
ngoa ảo tưởng như bất kỳ gặp ma thuật nào! Làm gì có Robin Hood!" Nhưng cả
đám thảo khấu gày còm rách rưới đều như hóa điên hóa dại vì thấy những nhân vật
mình hằng ấp ủ biến đi mất, họ tiếp tục rượt theo hình bóng trang hiệp sĩ với
tài bắn cung thần sầu đó, họ lảo đảo trượt chân trên những khúc gỗ, ngã bổ nhào
vào bụi gai, họ cứ vừa chạy như vậy vừa kêu la vang rừng.
Duy có Molly Grue đứng khựng và quay lại. Khuôn mặt nàng bừng
bừng mà trắng xóa.
"Này, Cully, đốt cái lý luận của anh đi," nàng nói
lớn. "Không có con người nào như tôi, như anh như bất kỳ kẻ nào trong
chúng ta. Robin và Marian là thật, chính chúng ta mới là huyền thoại!" Nói
đoạn nàng chạy theo mọi người, cũng vừa chạy vừa la, "Xin hãy đợi, hãy đợi,
chúng tôi với." Còn lại Cully và Jack Jingly trong ánh lửa chập chờn nghe
tiếng cười sặc sụa của ảo thuật gia.
Schmendrick chẳng hề chú ý gì khi họ nhảy xổ tới nắm lấy hai
cánh tay và ông cũng chẳng hề co người lại khi Cully dí mũi dao găm vào sườn,
rít lên, "Trò chơi như vậy nguy hiểm lắm, thưa ông Child, và cũng rất bất
lịch sự nữa. Thà ông cứ nói thẳng là ông không muốn nghe những bản dân ca nữa."
Mũi dao găm được dí sâu hơn nữa.
Cully vẳng nghe tiếng Jack Jingly lầu bầu bên tai. "Hắn
không phải là nhà sưu tầm anh hùng ca Child, hắn cũng chẳng phải là nhà ảo thuật
lang thang đâu. Bây giờ thì tôi biết hắn là ai rồi. Hắn chính là con Vua
Haggard, hoàng tử Lir, điên khùng như cha hắn và sở trường về môn ảo thuật đen
như vậy. Hãy ngừng tay, lãnh tụ - Nó chết không ích lợi gì cho chúng ta
đâu."
Giọng Cully buông sõng. "Có chắc không Jack? Hoàng tử
Lir có tiếng là dễ thương kia mà.
"Một tên khùng dễ thương, anh định nói thế chứ gì. Đúng,
tôi đã nghe nói tên Lir, hoàng tử, có vẻ mặt như vậy đó. Ngây thơ cụ, nhưng
chúa xỏ lá. Cách hắn làm ra vẻ một thứ Child, cũng chỉ để cô lập anh xa lũ cận
vệ."
"Tôi không bao giờ muốn xa đám cận vệ cả," Cully phản
đối. "Không một lúc nào cả. Đôi khi tôi làm ra vẻ thế, nhưng chỉ giả bộ
thôi."
"Và cái cách hắn hú hồn Robin Hood lên để dễ bề khích động
đám bộ hạ của anh nổi loại. Nhưng lần này hắn thất bại, hắn rơi vào tay chúng
ta, dù cha hắn có cử Con Bò Mộng Đỏ tới cứu cũng muộn rồi." Cully nín thở
nghe, nhưng chàng Jack không lồ thì vươn vai. Schmendrick cứ cười khúc khích suốt
đêm đó. Sau khi đã bị Jack trói gô úp mặt vào thân cây hai tay giang rộng ôm
quanh thân cây. Lúc bị trói như vậy, Schmendrick vẫn cười và còn giúp Jack làm
lẹ công việc bằng cách ôm ghì lấy thân cây như chú rể ôm ghì cô dâu trong đêm
tân hôn.
Khi trói xong Jack Jingly bảo Cully, "Thế là xong anh liệu
mà gác nó cẩn thận đêm nay, cho tôi ngủ, sớm mai tôi sẽ đi gặp lão già Haggard
xem lão định chuộc thằng con lão theo giá cả ra sao. Ít nhất chúng ta cũng sống
sung túc được một tháng trường."
"Còn lũ kia thì sao?" Cully lo lắng hỏi. "Anh
có nghĩ là chúng sẽ quay về không?"
Tên khổng lồ há miệng ngáp, quay đi. "Sớm mai chúng sẽ
quay về mệt mỏi, hắt hơi, và anh điều khiển chúng dễ hơn một chút. Chúng sẽ trở
về vì chúng sẽ không phải hạng thiếu thực tế, thả mồi bắt bóng. Tôi cũng vậy,
Robin Hood cũng có thể ở lại giúp chúng ta, nếu chúng ta giữ vững tinh thần đó.
Thôi, tôi đi ngủ đây."
Sau khi Juck đi rồi thì chỉ còn tiếng dế kêu và tiếng khúc
khích nho nhỏ của Schmendrick cười với cây. Lửa tàn dần, và Cully đi vòng quanh,
thở dài mỗi lần lên một thân cây ngả trên mặt đất và nói với ảo thuật gia bị
trói.
"Có thể người là con lão Haggard," giọng Lãnh tụ đắn
đo suy nghĩ, "chứ không phải là học giả Child. Nhưng dù ngươi là ai đi nữa
thì ngươi cũng thừa hiểu rằng Robin Hood chỉ là huyền thoại, mà chính ta mới thật.
Không bao giờ có những bài hát ca ngợi tên ta trừ phi do chính ta sáng tác lấy;
lũ trẻ nhỏ chẳng được đọc những truyện phiêu lưu của ta trong những sách giáo
khoa để rồi hết giờ học đóng trò diễn lại đời ta. Và khi các vị giáo sư đọc lướt
các truyện cổ, các học giả nghiên cứu kỹ những truyện tích bằng văn vần để giải
quyết nghi vấn liệu Robin Hood có từng hiện hũu, họ chẳng hề đọc thấy tên ta.
Nhưng ngươi biết đấy, ta có thực. Vì vậy hãy nghe ta hát cho ngươi nghe những
bài ca về lãnh tụ Cully. Ông ta là người lanh lợi, rất tốt, chuyên đi lấy của
người giàu chia cho người nghèo. Do đó dân chúng mang ơn ông và ca ngợi ông qua
những bài thơ đơn giản sau đây."
Sau đó Lãnh tụ tuần tự hát tuốt ráo những bài do chính ông
sáng tác kể cả bài Willie Gentle (Willie Chú Nhỏ) đã hát cho Schmendrick nghe.
Ông dừng lại khi cần để bình giải thêm về nhạc điệu câu thơ này, hình ảnh câu
thơ nọ, lời hay ý hiếm câu thơ khác nữa.
--------------------------------
Dân ca truyện tích tức là thể ballad của Tây
phương, kể những truyện phiêu lưu kỳ tình rất ngắn gọn và cũng rất hấp dẫn (L.N.D) |
|
Alan-a-Dale là ca công trong đoàn anh hùng thảo khấu do
Robin Hood cầm đầu. (L.N.D) |
|
Tức Francis James Child (1825-1896) một nhà sưu tập dân ca
truyện tích trứ danh. Bộ The English and Scottish Popular Ballads của
ông gồm năm quyển gồm cho bộ môn văn chương nhi đồng (L.N.D.) |
|
Robin Hood, tên một anh hùng thảo khấu truyền kỳ của Anh quốc
khoảng thế kỷ XII. Tục truyền Robin Hood và |
|
Đây chính là Will Scarlet một hảo thủ trong đoàn Robin
Hood. (Lời chú người dịch.) |
|
Nhân vật này chính là thày dòng Tuck (Friar Tuck) rất vui
tính và rất có công trong đoàn anh hùng thảo khấu của |
6
Lãnh tụ Cully khi ngâm đến đoạn thứ mười ba của bài ca thứ mười
chín thì mi mắt đã ríu lại rồi. Schmendrick đã thôi không cười nữa và gồng mình
xem có nới lỏng được những vòng dây thừng không, nhưng Jack Jingly trói chặt
quá, thừng quấn quanh nhiều khả dĩ có thể cột được cả một chiếc thuyền hai buồm,
những khoảng nút thắt thì to tổ bố, bằng sọ người chứ chẳng chơi.
"Cứ từ từ, cứ từ từ," ảo thuật gia tự nhủ. "Kẻ
đã dùng ảo thuật tạo thành hiện tượng Robin Hood hiện hình, đâu có thể bị trói
lâu được. Một lời, một câu niệm chú là cây này sẽ như quả dẻ rừng trên cành, và
thừng này sẽ mủn ra như bị ngâm ở đồng lầy lâu ngày. Nhưng ảo thuật gia cũng biết
trước là dù có niệm chú đến gì chăng nữa, rút cục những vòng thừng vẫn thắt chặt
quanh thân thể, chỉ tổ đau nhức thêm. Schemdrick cảm thấy mình như một con nhộng
bỏ rơi.
"Thích cái gì hãy làm cái đó," ông ta nói khẽ. Lãnh
tụ Cully bèn cao giọng ngâm tiếp đoạn thơ thứ mười bốn.
"Năm chục tay kiếm ngoài nhà
Năm chục tay nữa trong nhà, vừa trăm,
Lãnh tụ Cully ơi, ngại lắm,
Liệu làm sao chống đặng trăm tên?
Cully trí dũng gan bền,
Bảo ta thừa sức diệt liền trăm tên."
"Ta muốn người bị phanh thây," ảo thuật gia nói
nhưng Cully đã ngủ lại mất rồi. Schmendrick thử thêm mấy trò ảo thuật đơn giản
để tự cởi trói, nhưng hai bàn tay bị trói chặt như kia thì làm được gì, và ông
ta cũng chẳng còn lòng dạ nào làm trò quỷ thuật nữa. Trong khi đó cây sồi lại
yêu ông, sung sướng được ông ôm ấp vĩnh viễn như thế. Nó thì thầm, "Ta sẽ
trung thành với chàng mãi mãi. Ta sẽ mãi mãi ghi nhớ màu mắt chàng khi người đời
không còn ai nhắc nhở đến tên chàng nữa. Chỉ có tình yêu của cây là bất tử
thôi."
"Ta chót hứa hôn mất rồi" Schmendrick xin lỗi nàng
cây, "hứa hôn với một cây tùng miền Tây. Tự thuở ấu thơ kia. Có hợp đồng hẳn
hoi. Chẳng có cách nào khác. Chuyện của đôi ta chẳng thể thành tựu được."
Cây sồi rung lên vì nổi giận tưởng như vừa thu hút cả một trận
bão tự ngoài cho riêng nó. "Thiên tai, bệnh não hủy diệt nó," cây sồi
giận dữ thì thầm. "Loại tùng bách khốn kiếp chuyên dùng màu xanh lừa đảo,
nó sẽ không bao giờ chiếm hữu được chàng! Chúng ta sẽ cùng chết như thế này. Tất
cả cây cối sẽ ghi nhớ muôn đời thiên tình sử của đôi ta."
Dọc theo chiều cao của cơ thể, Schmendrick cảm thấy cây sồi
như đương dướn lên với trái tim thổn thức tưởng có thể nứt làm đôi vì giận dữ.
Những vòng thừng càng siết chặt cứng ngắt lấy cơ thể ảo thuật gia, và đêm tối bắt
đầu chuyển sang màu đỏ và màu vàng. Ông ta dự định giải thích cho cây sồi hay
tình yêu là rộng lượng, bởi vì tình yêu không thể bất tử, và đồng thời ông ta
cũng định rống lên để kêu cứu Lãnh tụ Cully, nhưng chính tiếng ông cũng chỉ
thoát ra thì thầm, rủ rỉ như tiếng cây. "Nàng cây nói đúng," ông
nghĩ, và chịu thua.
Chợt những vòng thừng mềm giãn ra khi ông gồng người lên, ông
ngã bật ngửa xuống đất, thở hổn hển. Lân đã đứng đó mờ mờ như cái nhìn mờ mờ
nhân ảnh của ông lúc đó. Lân cúi xuống lấy sừng đụng vào ông.
Khi ông đã đứng dậy được, lân quay đi và ảo thuật gia theo
lân thận trọng, e dè liếc nhìn lại cây sồi, tuy rằng lúc đó cây sồi bất động
như bất kỳ một cây rừng vô tình nào. Trời còn tối, nhưng là thứ bóng tối loãng
như nước, trong đó bềnh bồng ánh tím của bình minh ló rạng. Mây bạc như được
vòm trời hâm ấm cho chảy ra; những hình thể còn ngập ngừng chưa biết sẽ xuất hiện
ra sao cho qua ngày. Ngay gió cũng như đương bâng khuâng tự hỏi.
"Bạn có thấy tôi không?" ảo thuật gia hỏi lân.
"Bạn có ngắm kỹ tôi không, có chứng kiến những điều tôi thực hiện
không?"
"Có", lân đáp. "Đó mới là ảo thuật chân
chính."
Cảm thấy đau xót như bị gươm đâm, ảo thuật gia nói, "Bây
giờ thì lại mất rồi. Tôi thể nhập thành nó, nó thể nhập thành tôi, nhưng bây giờ
nó bỏ tôi đi mất rồi. Tôi không giữ được nó."
Lân vẫn dẫn đường đi trước, chập chờn như cánh lông bay. Nghe
có tiếng ai quen thuộc, "Sao giã từ chúng tôi sớm thế, ảo thuật gia? Đám
anh em tất sẽ buồn và nhớ ông." Ảo thuật gia quay nhìn, nhận ra Molly Grue
đương tựa vai vào một thân cây. Tóc tai, áo quần cùng tơi tả, chân không giày,
rướm máu và bê bết bùn, nàng nhăn răng như dơi cười. "Ông ngạc nhiên
sao," nàng hỏi. "Marian điên khùng đây."
Nàng chợt nhận ra lân. Nàng không cử động gì cũng không nói
năng chi, nhưng đôi mắt màu nâu của nàng bỗng mở lớn và ứa lệ. Nàng đứng lặng
như vậy khá lâu, hai tay nắm lấy đường viền, hai gối nàng cong khuỵu xuống, nàng
khom lưng co người, toàn thân run run, hai mắt cá chụm khom lưng co người, toàn
thân run run, hai mắt cá chụm lại, đôi mắt cúi thấp. Giây lâu Schmendrick mới
nhận ra rằng Molly Grue cung kính cúi chào.
Ảo thuật gia bật cười, và Molly đứng bật lên mặt đỏ đến chân
lông kẽ tóc. "Tự trước tới giờ người ở đâu?" nàng hỏi lớn. "Tự
trước tới giờ người ở đâu kia?" Nàng tiến thẳng về phía Schmendrick, nhưng
đôi mắt nhìn xa hơn, nhìn thẳng vào lân. Khi nàng tiến tới gần lân, ảo thuật
gia đứng ra chặn đường. "Nàng không nên cư xử như vậy, bất kính."
Molly điềm nhiên ẩn ông sang một bên và tiến tới lân, dằn dỗi
với lân như thể đấy là con bò nàng vắt sữa hàng ngày. "Tự trước tới giờ
người ở đâu?" Trước sừng lân lấp lánh và trắng ngần, giọng Molly như cô đọng
lại thành the thé, nhưng lần này chính đôi mắt thẫm màu của lân nhìn xuống.
"Tôi hiện ở đây," sau cùng lân nói.
Molly cười với đôi môi mỏng dính. "Và như vậy thì lợi gì
cho tôi: Hai mươi năm trước đây, mười năm trước đây người ở đâu? Khi mà tôi đã
như thế này rồi thì người còn đến với tối làm gì nữa?" Với dáng tay đập nhẹ
nàng tự tóm tắt nàng giờ đây: mặt lãnh đạm, mắt lạnh lùng, tim hèn nhát.
"Người chẳng bao giờ đến nữa mới phải, bây giờ thì còn đến mà làm
gì?" Nước mắt bắt đầu tuôn xuống hai bên kẽ mũi nàng.
Lân không đáp sao, và Schmendrick nói, "Đây là kỳ lân cuối
cùng, vâng kỳ lân cuối cùng trên cõi đời này.
Molly hít mạnh, "Phải có thể đây là kỳ lân cuối cùng
trên cõi đời này đến với Molly Grue." Nàng tiến lên đặt tay lên má lân;
nhưng cả hai cùng e ngại lùi lại một chút và tay Molly đặt vào khoảng cổ họng
rung rung của lân. Molly nói, "Thôi cũng được. Tôi tha thứ cho việc
đó."
"Kỳ lân không cần được tha thứ." Ảo thuật gia cảm
thấy đầu óc quay cuồng vì ghen tức, không phải vì cái xoa tay mà vì như có điều
gì bí mật đương được giao cảm giữa lân và Molly. "Kỳ lân chỉ dành riêng
cho những gì khởi đầu," ông nói "cho thơ ngây trong sáng, cho mới
tinh khôi. Kỳ lân là cho thiếu nữ."
Molly vỗ nhẹ lên khoảng dưới hàm lân, dáng e dè như người mù.
Molly cúi xuống lau những giọt nước mắt quyện bụi của mình lên bờm lân.
"Ông bạn không hiểu gì nhiều cho lắm về lân đâu," nàng nói.
Trời đã rạng hẳn, những bóng cây vừa đây còn giữ hình thù mờ ải,
nay đã xuất hiện rõ ràng đương rì rào dưới làn gió sớm. Nhìn về phía lân,
Schmendrick lạnh lùng cất giọng, "Chúng ta đi đi thôi."
Molly biểu đồng tình tức khắc. "Ấy phải đó, trước khi họ
đụng đầu với bọn mình và cắt cổ ông bạn về tội lừa lũ đàn em của họ." Nàng
ngoái nhìn qua vai. "Tôi còn một vài thứ muốn lấy, nhưng bỏ cũng được, sẵn
sàng đi đi thôi."
Schmendrick lại chặn bước "Ấy nàng không thể theo được,
chúng tôi đương trên con đường tìm kiếm mà." Ông cố làm cho giọng nói thực
cứng rắn, nhưng ông cảm thấy rõ là hai cánh mũi mình đương phập phồng ngơ ngác.
Ông vốn chưa bao giờ bắt được cái mũi mình vào khuôn vào phép.
Khuôn mặt Molly đanh lại, như một lâu đài ở thế phòng thủ quyết
liệt đã đóng kín cổng, đã chuẩn bị đủ cung tên, súng ống và chì đun lỏng.
"Và ông là ai mà xưng là chúng tôi nào?
"Tôi là kẻ hướng dẫn," ảo thuật gia đáp một cách trịnh
trọng. Lân thốt một tiếng kêu ngạc nhiên, êm nhẹ, như tiếng mèo mẹ gọi mèo con.
Molly cười lớn rồi cố nín cho bằng được.
"Ông bạn không hiểu gì về kỳ lân," nàng nhắc lại
"Lân để ông bạn đi theo, tôi không hiểu vì sao, nhưng có điều chắc chắn
tôi biết là lân không cần đến ông đâu. Không cần đến tôi nữa, trời biết đó,
nhưng lân cũng để tôi theo. Không tin ông bạn thử hỏi xem." Lân lại thốt
tiếng kêu nhẹ, khuôn mặt Molly rạng rỡ, hiền hòa hẳn. "Ông bạn cứ hỏi
xem," nàng nhắc lại.
Schmendrick đã hiểu câu trả lời của lân, vì thấy lòng mình trầm
xuống. Ảo thuật gia muốn mình khôn ngoan, nhưng lòng ghen tức và sự trống rỗng
làm ông nhức buốt, ông như nghe thấy tiếng thét buồn rầu của chính mình,
"Không bao giờ? Ta cấm điều đó - ta, Schmendrick ảo thuật gia!" Giọng
ông nghiêm trọng và mũi phập phồng một cách đáng sợ. "Hãy thận trọng trước
cơn thịnh nộ của một ảo thuật gia. Nếu như phải lựa chọn biến nàng thành con ếch."
"Tôi sẽ cười đến phát ốm," Molly Grue nối lời một
cách hài hước. "Ông bạn chỉ tài kể chuyện cổ tích thôi, chứ ông không có
tài biến kem thành bơ đâu." Ánh mắt nàng sáng lên như vừa khám phá được
chút gì. "Nên biết điều một chút, ông bạn." nàng nói. "Ông bạn sẽ
làm gì nào với một kỳ lân cuối cùng của trái đất - nhốt vào chuồng chăng?"
Ảo thuật gia quay sang nơi khác để tránh cái nhìn của Molly.
Ông cũng không nhìn thằng vào lân, mà chỉ liếc một cách kín đáo. Trắng phau và
bí ẩn, sừng lồng lộng ánh sáng ban mai, lân nhìn ông dịu dàng, nhưng ông không
thể chạm tới lân. Ông nói với người đàn bà gầy, "Bà bạn không hiểu là
chúng tôi đã được gắn bó trong trường hợp nào."
"Ông bạn nghĩ là tôi cần biết hay sao?" Molly hỏi.
Schmendrick nói, "Chúng tôi đương đi tới miền của vua
Haggard tìm Con Bò Mộng Đỏ."
Molly hốt hoảng giây lâu, mặc dầu thâm tâm nàng vẫn thấy vững
bụng. Lân thở nhẻ vào lòng bàn tay nàng và nàng mỉm cười.
"Thế thì chúng ta đi lầm đường rồi," nàng nói.
Mặt trời đã ló rạng khi Molly dẫn lân và ảo thuật gia ngược lại
ngang qua khu rừng trống. Cully còn ngủ gục trên thân cây sà ngang mặt đất. Đám
người đã trở về, tiếng cành khô vụn gãy, tiếng bụi cây sột soạt. Một lần họ phải
khom lưng luồn qua những bụi gai thì hai người trong bọn vừa đi khập khiễng vừa
lên tiếng mệt mỏi tự hỏi một cách cay đắng rằng không hiểu sự hiển hiện của
Robin Hood đêm qua có thực hay không.
"Tôi ngửi thấy họ mà," người thứ nhất nói: "Mắt
có thể trông lầm nhưng nếu họ chỉ là hình bóng thì mình không thể ngửi thấy gì
được."
"Mắt phản bội ta đã nhiều," người thứ hai làu nhàu
mệt mỏi vì phải lội nước nhiều. "Nhưng liệu tai anh, mũi anh, có đáng tin
cẩn hơn không? Không đâu bạn ạ. Vũ trụ lừa các giác quan ta khá kỹ, các giác
quan lừa lại ta, và đến lượt chúng ta cũng chẳng là quái gì hơn là những tên
nói dối? Với tôi, tôi chẳng tin sứ điệp, chẳng tin sứ giả, chẳng tin cái mắt
mình nhìn, chẳng tin cái tai mình nghe. Chân lý có đâu đó đấy, nhưng chẳng bao
giờ nó đến với bọn mình."
"À," người thứ nhất cười riễu và nói. "Nhưng
anh cũng chạy theo với bọn tôi mong đuổi kịp Robin Hood và cũng lùng tìm ông ta
suốt đêm, la hét gọi tên ông ta suốt đêm. Sao anh không ở lại mà ngủ cho khỏe nếu
như anh hiểu biết hơn chúng tôi?"
"Anh chẳng biết gì cả," người kia vừa nhỏ bùn vừa
nói "Tôi cũng có thể lầm chứ."
°
Có một hoàng tử và một công chúa ngồi bên một dòng nước trong
một rừng cây thung lũng. Bảy tên hầu cận đã giương xong cái lọng đỏ chói dưới
lùm cây và cặp tình nhân vương giả đó ăn bữa trưa trong tiếng nhạc lư cầm dìu dặt.
Suốt bữa ăn họ chẳng nói với nhau lấy một lời" mãi đến khi ăn xong, công
chúa mới thở dài mà rằng "Em nghĩ rằng tốt hơn hết là mình nên quên câu
chuyện rồ dại ấy đi." Ông hoàng bắt đầu đọc báo.
"Ít nhất chàng cũng phải," công chúa nói, nhưng ông
hoàng vẫn tiếp tục đọ báo. Công chúa ra hiệu cho hai tên hầu, và chúng bắt đầu
tấu một khúc nhạc cổ trên lư cầm. Kế đó công chúa tiến thêm vài bước trên cỏ,
tay cầm chiếc cương ngựa vàng bóng, và cất tiếng gọi, "Lại đây, hỡi kỳ
lân! Lại đây với ta hỡi kỳ lân xinh đẹp? Lại đây, lại đây, lại đây!"
Hoàng tử cất tiếng cười ha hả. "Ai mà lại gọi kỳ lân như
gọi đàn gà vậy," chàng nói mà cũng chẳng buồn ngẩng đầu lênn. "Sao
nàng không hát một bài hát nào đó, hơn là làm trò gọi gà?"
"Em sẽ cố gắng hết mình," "công chúa nói.
"Em chưa hề quen gọi những vật như thế trước đây." Sau vài giây im lặng,
nàng bắt đầu hát.
"Tôi là công chúa con vua
Nét xinh vẻ đẹp mà thua ai nào.
Chàng trăng cô độc trên cao
Mơ tôi xà xuống vuốt vào tóc mây.
Tôi yêu cái nọ, tôi thích cái này
Nhường tôi răm rắp ai rày đua tranh.
Tuy nhiên tôi cũng biết mình
Chẳng đòi cho được rượu quỳnh, đào tiên.
°
Tôi là công chúa con vua
Lớn lên với tháng ngày qua tuổi trời.
Lớn cao, thân vẫn thân tôi
Thịt xiềng da xích nào vơi mối sầu.
Nhớ ai gió thổi qua cầu
Thương ai trăng dãi bên lầu ngẩn ngơ.
Cứ như vậy nàng công chúa hát, rồi nàng gọi, "Hỡi kỳ lân
xinh đẹp, hỡi kỳ lân xinh đẹp vô ngần," sau đó nàng buồn rầu nói "Em
đã gắng làm hết sức mình. Thôi, chúng ta về đi thôi."
Ông hoàng ngáp và gấp tờ báo lại. "Nàng thực đã quen với
tục lệ," chàng nói với nàng, "và không ai có thể làm hơn nàng được.
Đó cũng chỉ là hình thức thôi. Bây giờ thì chúng ta có thể cưới nhau được."
"Vâng," công chúa đáp, "bây giờ thì chúng ta
có thể cưới nhau được." Lũ hầu cẫn bắt đầu thu xếp gói ghém các đồ vật,
trong khi hai tên ôm đàn gảy sang những khúc nhạc ân tình vui vẻ. Công chúa cất
lời buồn bã và thách thức, "Nếu quả trên đời này còn giống kỳ lân, thì
nghe tiếng em gọi dịu êm như vậy, nó tất phải xuất hiện và chạy lại với em rồi,
em có dây cương bằng vàng này và dĩ nhiên em còn là trinh nữ."
"Nàng là tất cả cho tôi," ông hoàng lãnh đạm trả lời.
"Như tôi đã nói, nàng theo đúng cổ tục. Phụ vương tôi lại không ưa nàng,
cũng không ưa cả tôi nữa. Lẽ ra phải bắt được một con lân mới phải." Ông
hoàng trông cao lớn, khuôn mặt thanh nhã và dễ thương.
Khi hoàng tử, công chúa và đoàn tùy tùng đi rồi, thì lân từ
trong rừng đi ra, theo sau có Molly và ảo thuật gia, họ tiếp tục cuộc hành
trình. Một khoảng thời gian khá lâu sau, khi cả bọn đi vào một vùng không có
dòng suối mát, không có khoảng xanh cây cỏ nào, Molly mới hỏi lân sao không tới
với công chúa khi nàng hát bài ca đó. Schmendrick tiến sát tới bên để nghe cho
rõ câu trả lời. Ảo thuật gia không bao giờ đi cùng bên với Molly, luôn luôn là
mỗi người một bên lân.
Lân đáp. "Nàng công chúa con vua đó lẽ ra đừng bao giờ
đi tìm kỳ lân mới phải. Nếu lúc đó tôi xuất hiện, và nếu nàng công chúa nhận ra
tôi, nàng còn sợ hơn là gặp rồng 1 nữa,
vì không ai ước nguyện điều gì với rồng cả. Tôi nhớ xưa đã nhiều lần tôi không
cần biết nàng công chúa định ước nguyện gì trong lời ca, tôi vẫn đến với các
nàng, ngả đầu vào lòng các nàng, một số được cưỡi tôi nữa, tuy rằng tất cả đều
sợ tôi. Nhưng bây giờ thì tôi không có thì giờ đến với họ, dù là công chúa hay
cô gái làm bếp. Tôi không có thì giờ."
Không đêm nào là Molly không mơ thấy mình tay cầm dây cương
vàng tìm gặp kỳ lân, không đêm nào là nàng không mơ gặp được những trang anh
hùng mã thượng, vậy mà lần này nàng nói với lân một câu nghe lạ hoắc,
"Chính những nàng công chúa đã không có thì giờ. Vạn vật chuyển dịch cùng
đất trời, những nàng công chúa, những ảo thuật gia và chàng Cully tội nghiệp và
tất cả. Vạn vật chuyển dịch cùng đất trời, riêng có bạn là mãi mãi như vậy.
Không bao giờ bạn chỉ được nhìn một vật một lần mà thôi. Tôi ước ao bạn có một
thời biến thành một nàng công chúa, hay một bông hoa, hay một con vịt. Nghĩa là
một cái gì có sống có chết không thể chờ đợi được."
Nàng hát một khúc ca buồn thảm làm sao, cứ dứt một câu nàng lại
ngừng lại, tựa như để nhớ câu kế tiếp:
Ghét của nào trời trao của ấy Yêu cái gì trời lấy còn đâu Duy
ngồi suy nghĩ trước sau Cái đi đi mất biết đâu mà tìm.
Schmendrick nhìn qua bên kia lân, thuộc địa phận của Molly,
và hỏi, "Bà bạn nghe khúc hát đó ở đâu vậy:" Đó là lần đầu tiên ảo
thuật gia nói với Molly kể từ lúc nàng gia nhập hành trình. Molly lắc đầu.
"Tôi không nhớ. Tôi nghe nó từ lâu rồi."
rồng luôn luôn là quái vật đáng sợ.
Càng đi sâu vào miền này, đất càng khô cằn, cây cỏ vàng úa,
và dân chúng trông càng đượm vẻ chua chát; nhưng dưới con mắt quan sát của lân
thì Molly bỗng trở nên một miền phì nhiêu màu mỡ với những ao hồ, hang hốc, hoa
cỏ đâm bông rực rỡ trên mặt đất. Dưới vẻ ngoài cục mịch và lãnh đạm trông nàng
chỉ khoảng băm bảy, băm tám, không già hơn Schmendrick, mặc dù khuôn mặt ảo thuật
gia phi thời gian.
Mái tóc thô của nàng mướt ra, nước da sáng ra, và giọng nàng
nói với ai cũng dịu dàng dễ thương như khi nàng nói với lân. Đôi mắt nàng trước
đây chẳng bao giờ biểu lộ niềm vui hớn hở, cũng như chẳng bao giờ trở thành màu
xanh thẳm, xanh lơ nay cũng đã thức tỉnh. Nàng hăng hái bước trên vùng đất của
vua Haggard, đôi bàn chân trần, sưng đau, nhưng nàng cất tiếng hát luôn miệng.
Và xa hơn một chút, ở bên kia lân, Schmendrick, ảo thuật gia
đi một cách hùng dũng nhưng yên lặng. Cái áo choàng đen bên ngoài của ông lỗ chỗ
thủng như đâm bông trông tơi tả và khắc khổ như chính ông. Trận mưa nào đã tưới
mát tâm hồn Molly chẳng hề tưới mát cho ông, vẻ người ông càng khắc khổ, ánh mắt
càng xa vắng như hệt cảnh trí quanh ông vậy. Lân không thể chữa bệnh ưu phiền
đó cho ông được. Nói dại đổ xuống sông xuống biển, giá như ông chết, lân chỉ cần
dùng sừng đụng vào ông là ông sống lại liền, nhưng bệnh thất vọng bệnh ưu phiền
thì lân chịu, hay khả năng ảo thuật chân chính lúc đến lúc đi bất thường của
ông, lân cũng chịu nốt.
Cứ như vậy cuộc hành trình tiếp tục. Họ như đương bám sát lấy
một bóng đen âm thầm nào đó đương chạy trốn theo hút gió. Mặt đất khô cứng nứt
nẻ ra, làn đất thịt màu mỡ bên trên đã bị gọt đi mất để nay biến thành những
hình khe hình vực, hoặc răn rúm lại thành những đồi sỏi. Trời cao và xám mất
hút trong ánh sáng ban ngày, đôi khi lân có cảm tưởng cả ba đương rờ rẫm một
cách tuyệt vọng như con ốc sên dưới ánh mặt trời. Nhưng lân vẫn là lân nghĩa là
đẹp ở bất kỳ thời gian nào không gian nào. Ngay cả tiếng cóc gào mưa trong các
hang hốc hay trên các hàng cây khô cũng bặt tiếng khi thấy lân đi qua.
Ngay cả loài cóc coi bộ cũng còn niềm nở hơn dân chúng sống
trong miền cai trị của vua Haggard. Những làng mạc họ ở trông trần trụi như
xương trơ, những đồi quanh làng họ thì đá tai mèo sắc như dao, chẳng có một giống
cây nào mọc nổi, và lòng họ thì thực chát hơn sung, chua hơn dấm. Lũ con cái họ
thấy người lạ vào phố bèn lấy đá ném và lũ chó còn đuổi theo sủa vang.
Lân đã chán ngấy nhân loại. Ngắm họ ngủ, nhìn bóng mộng lướt
trên khuôn mặt họ, biết đặt bao nhiêu tên cho xuể về những bóng mộng phức tạp ấy.
Có khi lân chạy suốt đêm cho vợi niềm sầu muộn, chạy nhanh hơn mưa tạt, thành
ánh sao băng, như thể chạy để bắt kịp thời gian. Đôi khi giữa hai hơi thở, lân
có cảm tưởng như cả Schmendrick và Molly đã chết từ rồi, cả vua Haggard nữa,
Con Bò Mộng Đỏ thì còn đó, lẫy lừng giữa ngôi bá chủ, và như vậy đã bao nhiêu đời
qua đi rồi, kể cả những vì sao được chứng kiến hết những chuyện ấy cũng đã nguội
đơ thành than đá cả rồi, vậy mà lân vẫn còn đó làm con kỳ lân cuối cùng của
trái đất.
Rồi tới một chiều thu kia, ba kẻ lữ hành rảo quanh đỉnh một
dãy núi thì thấy một tòa lâu đài nổi bật trên khoảng trời dọc theo một thung
lũng dài và sâu. Tòa lâu đài trông mỏng manh, xoáy vặn, lởm chởm những chòi
tháp trông như nụ cười nham nhở của một anh không lồ. Molly phá lên cười thực
tình trong khi lân muốn thu nhỏ mình lại e dè, vì lân có cảm tưởng chòi tháp lởm
chởm bằng đá đó đương rình mò tiến bước qua lớp bụi mù để bất ngờ chụp xuống đầu
lân lúc nào không biết. Xa xa, phía sau tòa lâu đài, biển lấp lánh như ánh
thép.
"Thành lũy của vua Haggard đó," Schmendrick nói khẽ,
lắc lắc cái đầu vì ngạc nhiên. "Câu chuyện kinh khủng lắm. Người ta kể một
bà phù thủy đã xây thành lũy đó cho nhà vua, nhưng khi xong nhà vua lại không
chịu trả công xứng đáng, bà ta bèn yểm bùa và nguyền rằng rồi một ngày kia lòng
tham của Haggard sẽ làm cho nước biển dâng sóng thần lên cuốn sập lâu đài,
thành lũy xuống. Nói đoạn bà ta kêu lên một tiếng the thé nghe kinh hồn, tự nổ
bùng thành làn khói lưu huỳnh rồi biến mất. Haggard tới ở ngay. Ông ta nói lâu
đài của một ông vua chuyên chế nào mà chẳng có bùa yểm.
"Tôi không trách ông ta sao không trả công xứng đáng cho
bà phù thủy," Molly nói bằng khinh khi. "Chính tôi đây này có thể nhảy
lên đó làm cho lâu đài tan tác như một đống lá khô. Song le, tôi hy vọng rằng mụ
phù thủy còn có điều gì hay hơn để thi thố trong khi chờ đợi lời nguyền rủa kia
thành sự thực. Biển bao giờ cũng lớn hơn bất kỳ tham vọng nào của kẻ nào."
Đám chim gầy vỗ cánh mệt mỏi trên trời kêu. "Giúp tôi với,
giúp tôi với, giúp tôi với!" và những bóng đen nhỏ nhảy lên nhảy xuống khoảng
những khung cửa sổ tối om của lâu đài vua Haggard. Một mùi gì trễ nải, ẩm ướt
bao quanh lân và lân hỏi, "Con Bò Mộng đâu? Haggard giữ Con Bò Mộng ở
đâu?"
"Không ai giữ nổi Con Bò Mộng Đỏ," ảo thuật gia điềm
tĩnh trả lời. "Tôi nghe nói nó đi lang thang suốt đêm, ban ngày thì nằm
nghỉ trong một cái hang lớn bên dưới lâu đài. Chúng ta sẽ biết rõ những điều đó
một ngày gần đây nhưng bây giờ thì chưa phải lúc. Nỗi hiểm nguy gần gũi giờ đây
là ở dưới kia." Ảo thuật gia chỉ xuống thung lũng ánh đèn hiu hắt đây đó.
"Đó là thành phố Hagsgate," ông nói.
Molly không nói gì nhưng nàng đặt bàn tay lạnh như mây lên
mình lân. Nàng vẫn có thói quen đặt tay lên lân khi nàng mệt mỏi, buồn rầu, hay
lo lắng.
"Đó là thành phố của vua Haggard," Schmendrick nói;
"thành phố đầu tiên ông ta chiếm giữ khi ông tới miền sơn cùng thủy tận
trông ra biển này. Đó là một cái tên xấu xa tuy chưa ai giải thích được tại sao
lại thế. Chưa có ai vào được thành phố Hagsgate, theo như tôi biết, và cũng
chưa có cái gì tự Hagsgate lọt ra từ những chuyện lạ lùng để dọa trẻ em như những
chuyện quái vật, người sói, hợp đồng với phù thủy, ma quỷ xuất hiện ngay ban
ngày và những điều tương tự như vậy. Tôi nghĩ rằng phải có cái gì gớm ghiếc lắm
tại Hagsgate này Bà Má Định Mạng không bao giờ dám tới đó, và đã có lần bà ta
nói một khi Hagsgate còn đó thì ngay đến vua Haggard cũng có ngày lâm nguy. Chắc
chắn phải có cái gì ghê gớm lắm ở đó."
Trong khi nói như vậy, ảo thuật gia cố tính hướng và nhìn chằm
chằm về phía Molly, tực như ông lấy làm khoái về việc mấy ngày rày Molly có vẻ
sợ hãi, dù nàng đã luôn luôn đặt tay lên mình lân. Nhưng lần này nàng đã trả lời
ảo thuật gia một cách bình tĩnh, hai tay buông thõng. "Tôi đã nghe người
ta gọi Hagsgate là thành phố không một người đàn ông nào biết. Có thể
sự bí ẩn của nó sẽ do nữ giới khám phá ra chăng - một người nữ và một kỳ lân.
Nhưng với ông bạn thì phải làm gì bây giờ?"
Schmendrick mỉm cười. "Tôi không phải là đàn ông,"
ông ta nói. "Tôi là một ảo thuật gia không có ảo thuật, và như thế tôi
không là ai cả."
Trong khi đó, lân vẫn ngắm xuống Hagsgate, những ánh đèn
đương trở nên sáng tỏ dần.
Nhìn về phía lâu đài của vua Haggard thì không có một đốm lửa
nhỏ. Nơi đó bóng tối đã phủ dày để không còn thấy bóng người di chuyển trên
thành, tuy nhiên qua thung lũng lân vẫn nhận ra tiếng giáp trụ khua động và tiếng
giáo mác va vào đá. Những lính canh đã gặp nhau, đã dời xa. Mùi Con Bò Mộng như
phảng phất đâu đây trong khi lân bắt đầu lần theo con đường nhỏ có cỏ gai dẫn
xuống Hagsgate.
--------------------------------
Theo quan niệm Đông phương, rồng đứng đầu tứ linh (long,
ly, quy, phượng), nhưng trong cổ tích Tây phương |
7
Thành phố Hagsgate được kiến trúc theo hình thù bàn chân xòe
rộng của một con vật với những đầu vuốt nhọn đào sâu dưới lòng đất. Những thành
phố khác trong lãnh địa của Haggard thì trông chỉ như hình vết cào của con chim
sẻ, nhưng Hagsgate quả thực là đã đào thật sâu. Đường phố trải một lần đá mỏng,
những khu vườn rực đỏ, và những căn nhà cao hùng dũng như cây cối vươn lên khỏi
mặt đất. Ánh sáng lọt ra tự mọi khung cửa sổ, và ba kẻ bộ hành có thể thấy tiếng
người tự bên trong thoát ra, tiếng chó sủa, tiếng muỗng xúc vào dĩa quẹt quẹt.
Cả ba dừng lại gần một hàng rào cao, ngơ ngác.
"Liệu chúng ta có rẽ lầm đường và đây không phải là
Hagsgate?" Molly thì thầm. Nàng hấp tấp phủi bụi trên áo quần tơi tả của
nàng và thở dài, "Tôi biết, lẽ ra tôi phải ăn bận bảnh bao hơn."
Schmendrick uể oải xoa gáy. "Đây chính là
Hagsgate," ông ta trả lời Molly "Chắc chắn đây phải là Hagsgate, và
không hề thấy có mùi vị phù thủy, hay ma thuật gì ráo trọi. Vậy thì tại sao lại
có những chuyện huyền hoặc, dụ ngôn, cổ tích như vậy chứ? Thực là cực kỳ khó hiểu,
nhất là chúng ta lại vừa chỉ có nửa củ cải làm bữa ăn tối."
Lân không thốt một lời. Bên ngoài thành phố trời tối đen hơn
mực, lâu đài của Haggard trông như một tên khùng đương ngồi trên một cái đu đặt
thăng bằng trên một cái cọc, xa hơn nữa lấp lánh biển. Mùi Con Bò Mộng Đỏ bềnh
bồng trong bóng tối. Schmendrick nói, "Đám dân tốt lành này hẳn ở trong
nhà tất cả, đương đọc những lời cầu khẩn phúc lành, để tôi lớn tiếng gọi họ."
Ông tiến lên mấy bước, ném lại phía sau chiếc áo choàng nhưng
ông chưa kịp mở miệng thì một giọng sẵng từ trong không vang tới, "Chớ lên
tiếng, hỡi ông khách lạ." Bốn người đàn ông từ sau hàng rào nhảy ra. Hai
người chí mũi dao găm vào cổ họng Schmendrick, người thứ ba canh chừng Molly với
hai khẩu súng lục. Người thứ tư tiến tới gần lân định nắm lấy bờm, nhưng lân
lùi lại, lấp lánh một cách kiêu hãnh, rồi vụt lồng đi mất.
"Tên chi?" người đầu tiên hỏi Schmendrick, khoảng
trung niên, hoặc già hơn một chút, tất cả mấy người kia cũng cỡ tuổi đó, cùng bận
đồ vải đẹp, màu lợt.
"Gick," ảo thuật gia trả lời, không trọn tiếng vì
những mũi dao găm chí gần quá.
"Gick," người cầm súng lục lẩm bẩm. "Tên gì
nghe lạ."
"Dĩ nhiên," người đầu tiên nói. "Tất cả những
tên đều khác lạ với Hagsgate. Vâng, thưa ông Gick," người đó nói tiếp, hạ
mũi dao xuống thấp hơn, khoảng xương bả vai của Schmendrick, "xin ông và
bà Gick cho chúng tôi rõ lý do vì sao mà ông bà lại tới rình rập thành phố
này?"
Schmendrick không còn bị bận bịu ở cổ bàn nói lớn, "Tôi
cũng chỉ mớ quen bà này thôi! Tên tôi là Schmendrick, Schmendrick ảo thuật gia,
và tôi đang đói, mệt và khó chịu. Các ông hãy cất tất cả những của nợ ấy đi nếu
không mỗi người sẽ lãnh một con bọ cạp, lúc đó đừng có trách."
Bốn người đàn ông nhìn nhau. "Một ảo thuật gia" người
đầu tiên nói. "Thứ thiệt đó."
Hai người kia gật đầu đồng ý, nhưng người định bắt lân mà
không được làu nhàu lên tiếng, "Ai cũng có thể tự xưng là ảo thuật gia, những
ngày gần đây. Những tiêu chuẩn giá trị cũ phá sản hết rồi còn đâu. Vả lại một
phù thủy chính hiệu phải có bộ râu chứ."
"Chà, nếu ông ta không phải là phù thủy," người thứ
nhất nhẹ nhàng nói, "thì ít ra ông ta cũng ao ước sẽ là phù thủy."
Người đó tra dao găm vào bao rồi cúi chào Schmendrick và Molly, "Tôi là
Drinn, xin chào mừng quý vị tới Hagsgate. Ông bạn vừa nói là đương đói, tôi tin
là thế. Điều đó cũng dễ giải quyết mà - và sau đó có thể ông bạn sẽ trổ tài cho
chúng tôi xem. Xin mời theo chúng tôi."
Đột nhiên bày tỏ thái độ nhã nhặn hẳn, người đó dẫn
Schmendrick và Molly vào một quán ăn có ánh đèn gần đấy, những người kia theo
sát sau. Nhiều người dân phố rầm rập tới dù là cơm nước chưa xong. Chẳng mấy chốc
mà đã có tới gần một trăm người chen chúc nhau dọc theo những chiếc ghế dài,
trước ngưỡng cửa, quanh các cửa sổ. Không ai để ý tới lân khi đó đương bước
thong thả tới gần, trông như con ngựa cái trắng, với đôi mắt kỳ lạ.
Người đàn ông tên Drinn ngồi cùng bàn với Schmendrick và
Molly, vừa tiếp chuyện trong khi hai người ăn. Y rót rượu nho đen vào ly cho
hai người. Molly Grue uống rất ít. Nàng ngồi yên ngắm những khuôn mặt quây
quanh nàng và thấy không kẻ nào có khuôn mặt trẻ hơn Drinn, một số ít thì già
hơn nhiều. Hình như tất cả những khuôn mặt tại Hagsgate đều hao hao giống nhau ở
một điểm nào đó mà nàng chưa thể khám phá ra.
"Và bây giờ," Drinn cất lời khi thấy bữa ăn đã
xong, "và bây giờ thì xin được phép giải thích vì sao chúng tôi thoạt tiếp
đón quý vị một cách bất lịch sự như thế."
"Chà, không cần," Schmendrick cười nói. Rượu vào đã
làm ông trở nên vui vẻ và dễ cười, đôi mắt xanh của ông lấp lánh ánh vàng.
"Điều tôi muốn biết là tại sao người ta đồn là Hagsgate có đầy những ma cà
rồng, người sói."
Drinn mỉm cười, khuôn mặt xương xẩu, hàm như hàm rùa.
"Cũng vậy thôi," y nói. "Ông hẳn cũng nghe nói Hagsgate bị bùa
chú."
Cả căn phòng bỗng yên lặng hẳn, và dưới ánh đèn mọi khuôn mặt
rắn đanh lại; lợt lạt như màu phó mát, Schmendrick lại cười. "Được ban
phúc, ý ông định nói thế chứ gì. Trong vương quốc xơ xác này của Haggard quý vị
như dòng suối, như ốc đảo. Tôi đồng ý cùng quý vị rằng có bùa chú tại Hagsgate,
nhưng tôi xin nâng ly mừng cho điều ấy."
Drinn giữ tay ảo thuật gia lại khi ông định nâng ly.
"Ông bạn định nâng ly mừng một lời nguyền năm mươi năm trước đây sao? Nỗi
bất hạnh của chúng tôi lâu chừng đó đó, kể từ ngày vua Haggard xây lâu đài của
ông bên bờ biển."
"Phải nói là khi mụ phù thủy xây mới đúng."
Schmendrick vẫy một ngón tay về phía Drinn."
"A, thì ra ông có biết chuyện," Drinn nói. "Như
vậy thì hẳn ông cũng biết chuyện Haggard không chịu trả công mụ phù thủy khi mụ
đã hoàn thành công tác.
Ảo thuật gia gật đầu nói, "Ấy sau đó mụ yểm bùa chú trừng
phạt thói tham lam của nhà vua, yểm chú tòa lâu đài thì đúng hơn. Nhưng điều đó
ăn nhằm mốt gì tới Hagsgate, bởi thành phố này có làm điều chi thất lễ với mụ
đâu."
"Quả vậy," Drinn đáp. "Nhưng thực ra cũng chẳng
làm điều gì tốt cho mụ. Mụ không thể phá hủy tòa lâu đài - hay không muốn, mụ
cho đó là một tác phẩm nghệ thuật của mụ và huênh hoang rằng công trình xây cất
đó là một công trình đi trước thời đại hàng bao nhiêu năm. Tuy nhiên mụ đã tới
tìm các vị trưởng thượng của thành phố Hagsgate này, bảo các vị đó nên thuyết
phục nhà vua trả công mụ. Mụ khuyên hãy cứ trông mụ mà ngẫm về mình. Một ông
vua đã lừa mụ tất sẽ lừa dân, nên tốt hơn hết hãy tìm cách ngăn nhà vua đừng
làm bậy đi là vừa.
Drinn tợp một ngụm vang den, và trầm ngâm tiếp thêm rượu vào
lý của Schmendrick một lần nữa.
"Haggard không trả công mụ," Drinn nói tiếp,
"mà Hagsgate cũng chẳng có hành động nào tiếp tay giúp mụ. Chúng tôi tiếp
mụ rất lễ độ, và xin mụ hãy tới khiếu nại chỗ có thẩm quyền. Mụ nổi trận lôi
đình hét lớn lên rằng trong khi chúng tôi cố tránh không gây thù chuốc oán với
ai, thì chúng tôi vô hình chung đã chuốc lấy hai kẻ thù." Drinn ngừng nói,
đôi mắt khép lại, nhưng đôi mi mỏng dính khiến Schmendrick đoán chắc y có thể
nhìn qua mi được, như loài chim ấy mà. Mắt vẫn nhắm, ông ta nói, "Thế là mụ
nguyền rủa cả lâu đài của Haggard lẫn thành phố Hagsgate. Lòng tham của nhà vua
làm hại tất cả chúng tôi."
Giữa tiếng thở dài thầm lặng, tiếng Molly Grue vang lên như
tiếng búa đập lên móng sắt ngựa, cứ như thể là nàng làm nổi cơn lôi đình thịnh
nộ với Lãnh tụ Cully vậy. "Lỗi của Haggard còn nhẹ hơn lỗi của dân chúng
thành phố Hagsgate này," lời nàng đượm vẻ riễu cợt dân thành phố Hagsgate,
"vì nhà vua chỉ là một tên ăn trộm mà thôi, mà quý ông ở đây là nhiều tên
ăn trộm. Quý ông rước lấy tai họa vì chính sự keo kiệt của mình, chứ chẳng phải
vì lỗi keo kiệt của nhà vua."
Drinn mở mắt nhìn nàng giận dỗi. "Chúng tôi chẳng được
hưởng gì cả," y phản đối. "Mụ phù thủy tới gặp là gặp ông cha chúng
tôi thuở đó kia. Chúng tôi cũng công nhận cha ông chúng tôi ngày đó cư sử quả
cũng đáng trách như vua Haggard vậy. Dịch sử địa vị chúng tôi ngày nay, chúng
tôi quyết không cư sử như vậy." Và những khuôn mặt trung niên cau mày nhìn
về phía những khuôn mặt lão niên.
Một ông già lên tiếng giọng vừa như rít lên vừa như mèo rống.
"Chúng bay cũng làm như chúng tao đã làm. Thuở đó mùa màng phải gặt hái,
kho đụn phải giữ gìn, y hệt như bây giờ. Thuở đó cũng có Haggard để sống chung,
y như bây giờ. Chúng tao thừa biết nếu dịch sử chúng mày vào địa vị chúng tao
ngày đó, chúng mày đã hành động ra sao. Chúng mày là cháu chúng tao mà."
Drinn giận dữ trừng mắt nhìn ông già khiến ông phải ngồi xuống,
và những người khác thì bắt đầu la ó, nhưng ảo thuật gia bảo họ hãy bình tĩnh lại
và hỏi. "Lời nguyền gì vậy? Có liên lạc gì tới Con Bò Mộng Đỏ chăng?"
Tên Con Bò Mộng Đỏ vang lên lạnh lùng, dù trong một căn phòng
rực sáng, và Molly chợt cảm thấy cô đơn. Bất giác nàng cũng đặt thêm một câu hỏi
nữa, dù câu đó chẳng liên lạc gì tới chuyện đương nói. "Quý vị nơi đây có
ai đã từng thấy kỳ lân?"
Cho tới lúc đó nàng mới hiểu sự khác biệt giữa hai điều: yên
lặng và hoàn toàn yên lặng, nàng đã thật có lý khi nêu câu hỏi trên. Những
khuôn mặt dân Hagsgate cố gắng không chuyển động nhưng quả tình họ rất cảm động.
Drinn thận trọng đáp, "Chúng tôi chưa bao giờ thấy Con Bò Mộng Đỏ, và
chúng tôi cũng không nói đến nó bao giờ. Không cái gì liên hệ đến nó mà lại
liên hệ đến chúng tôi. Còn như kỳ lân thì không có con nào cả. Mà chắc chúng
cũng chưa từng hiện hữu bao giờ." Y lại rót thêm rượu vang đen vào ly.
"Tôi sẽ kể lại lời nguyền để quý vị hay." Y khoanh tay và hát.
Thần dân triều đại lão Haggard.
Yên hưởng điều may vĩnh viễn a?
Mai ngày sóng biển dâng hùng vĩ
Tháp đổ đi rồi khổ hận da.
Duy nhất, một người dân Hagsgate
Làm cho tan nát lâu đài kia.
Cũng có một vài người cùng đọc lời nguyền theo. Giọng họ nghe
xa xôi và buồn thảm như thể không phải họ đương cất giọng ca trong phòng này mà
là họ đương vật vờ như những chiếc lá vàng bị cuốn theo chiều gió ở tít trên đỉnh
ống khói của quán ăn này.
Có cái gì phảng phất trên khuôn mặt họ? Molly tự hỏi và gần
như đoán biết. Ảo thuật gia ngồi yên lặng bên nàng, đôi bàn tay dài của ông
xoay tròn ly rượu vang đen.
"Thuở lời nguyền đó mới được thốt ra," Drinn nói
"Haggard trị vì xứ này chưa bao lâu, và mầu mỡ toàn xứ còn phì nhiêu -
toàn xứ trừ thành phố Hagsgate. Hagsgate lú đó đã bị bão táp tàn phá đến thành
trơ trụi, dân chúng phải khuân đá đè lên mái nhà cho gió khỏi thổi bay
đi." Ông ta cười chua chát nhìn về phía những người già. "Mùa màng phải
gặt hái, kho đạn phải giữ gìn! Các cụ giồng cải bắp, củ cải vàng, một ít khoai
lang, và cả thành phố Hagsgate ngày đó có một con bò già yếu. Những người lạ tới
cho rằng thành phố bị nguyền rủa vì đã xúc phạm đến mụ phù thủy hay thù dai
nào."
Molly cảm thấy lân đương đi đi lại lại bồn chồn ngoài đường
phố. Nàng muốn chạy ra với lân nhưng lại cất lời hỏi bình tĩnh, "và sau đó
khi nào thành phố này bị lời nguyền tác động thật sự?"
Drinn trả lời, "Kể từ lúc đó, chúng tôi toàn được hưởng
điều may, được hưởng sự khoan hồng. Khoảng đất khô cằn của chúng tôi tự nhiên
trở thành phì nhiêu hẳn, đến nỗi vườn cây ăn quả, vườn hoa không cần ai săn sóc
mà cây tự mọc hoa tự nở. Gia súc sinh sôi nảy nở, những nhà tiểu công nghệ trở
nên sáng suốt thông minh hơn, không khí chúng tôi thở, nước chúng tôi uống tinh
khiết trong lành khiến chúng tôi chẳng bao giờ mắc bệnh tật. Tất cả những bất hạnh
dời xa chúng tôi để đổ lên phần đất còn lại của vương quốc, do đó mà, như quý vị
đã chứng kiến đấy, đất đai quanh vùng này trở nên khô cằn, cỏ cây tàn lụi thành
tro than. Đã năm mươi năm qua rồi chỉ có vua Haggard và chúng tôi là được hưởng
sự phồn thịnh, còn ngoài ra đều như bị nguyền rủa và bùa chú."
"Thần dân triều đại lão Haggard, Yên hưởng điều may vĩnh
viễn a?" Schmendrick lẩm bẩm. "Tôi hiểu, tôi hiểu." Ông ngửa
cổ tợp một ngụm lớn vang đen nữa, và cất tiếng cười. "Nhưng vua Haggard
còn trị vì kia, cho đến ngày sóng biển dân tràn. Quý vị không hiểu lời nguyền
đúng ra phải như thế nào. Để tôi xin kể hầu quý vị nghe nỗi truân chuyên của
chính tôi." Đôi mắt ảo thuật gia long lanh lệ. "Để mở đầu, mẹ tôi thực
chẳng bao giờ yêu tôi cả. Mẹ tôi làm như thể có yêu tôi, nhưng tôi biết -
"
Drinn ngắt lời ảo thuật gia, và chính vào lúc đó Molly nhận
ra nét kỳ dị của người dân thành phố Hagsgate. Tất cả mọi người ở đây đều ăn mặc
chỉnh tề ấm áp nhưng khuôn mặt người nào cũng là khuôn mặt của những kẻ nghèo,
lạnh như ma và đói meo. Drinn nói, "Duy nhất một người dân Hagsgate, làm
cho tan nát lâu đài kia." Làm sao chúng tôi vui hưởng được những điều may
mắn kia một khi chúng tôi biết trước rồi có ngày sẽ hết, và chính một người
trong bọn chúng tôi sẽ hạ đòn tối hậu. Mỗi ngày chúng tôi một thêm giàu có,
nhưng cũng là đương tiến dần đến ngày định mệnh. Thưa ảo thuật gia, đã năm mươi
năm nay chúng tôi sống đạm bạc, tránh mọi ràng buộc tình cảm, giải kết mọi thói
quen, dọn mình chờ nước biển tới cuốn đi. Đời sống sung túc như thế này chúng
tôi không hề yên hưởng một khoảnh khắc, không hề yên hưởng bất kỳ cái gì, vì niềm
vui rồi cũng là một cái gì để mất. Xin thương chúng tôi, người dân Hagsgate, hỡi
quý vị mới từ xa tới, trong cõi nhân gian bất hạnh này chúng tôi là những kẻ bất
hạnh nhất."
"Mạng vong, mạng vong, mạng vong," cả đám dân rên rỉ
khóc, "khốn khổ khốn nạn cho chúng tôi." Molly nhìn họ không thốt một
lời, nhưng Schmendrick nói một cách nghiêm kính, "Đấy là một lời nguyền tốt,
công việc có tính cách chuyên môn. Tôi đoan rằng dù các bạn đương làm gí đi nữa,
thì hãy cứ đi tìm một tay chuyên môn. Tất nhiên phải trả tiền cho họ trong công
việc lâu dài đó."
Drinn cau mày lại, và Molly thì hích Schmendrick ảo thuật gia
nháy mắt. "Ồ. Không biết các bạn có cần gì đến tôi. Xin thú thực tôi không
phải là một tay phù thủy cao tay cho lắm, tuy nhiên tôi sẵn sàng đem hết khả
năng cố giải lời nguyền đó giúp các bạn."
"Tôi không đánh giá quá cao khả năng của ông,"
Drinn đáp, "nhưng cứ như ông hiện giờ, ông có thể làm nên chuyện đó. Tôi
thì lại nghĩ rằng cứ nên giữ lời nguyền như vậy. Nếu lời nguyền được giải tỏa
chúng tôi có thể không bị nghèo túng nữa, nhưng chúng tôi cũng không thể ngày một
giàu sụ như thế này, và chính điều đó mới là dở. Không, nhiệm vụ chính của
chúng tôi là giữ sao cho tháp canh của Haggard không xụp đổ. Và như chúng ta đã
biết chỉ có một người trong bọn chúng tôi ở Hagsgate đây là có thể làm cho nó xụp
đổ, điều đó có thể xảy ra lắm. Có một điều chúng tôi cương quyết không cho người
lạ tới ngụ nơi đây. Chúng tôi ngăn chặn họ bằng vũ lực đôi khi, nhưng phần nhiều
bằng mưu mẹo. Tất cả những tin đồn đại về ma quái rùng rợn tại Hagsgate đều do
chúng tôi bịa ra và cho phổ biến càng sâu rộng càng hay để không còn ai buồn
nghĩ đến chuyện tới thăm Hagsgate." Y cười khoái tử để lột trên hàm những
khoảng trũng lõm.
Schmendrick tự nâng cằm bằng mu bàn tay, nhìn Drinn, cười gượng
nhẹ, hỏi, "Thế con cái ông thì sao? Làm sao ông có thể cấm chúng không lớn
lên để thực hiện điều tiên tri đó." Ông nhìn quanh tiệm ăn, mắt lim dim
nghiên cứu phản ứng của từng khuôn mặt già nua đương nhìn lại ông "Xin hãy
suy nghĩ về điều đó," ông ta chậm rãi hỏi thêm, "Không có thanh thiếu
nhi ở thành phố này sao? Ở đây khoảng mấy giờ quý vị bắt trẻ đi ngủ?"
Không ai trả lời. Molly tưởng như có thể nghe tiếng mạch máu
đập phần phật nơi tai, nơi mắt, nghe tiếng da thịt bị bứt nhẹ đi từng mảnh nhỏ.
Lúc đó Drinn lên tiếng, "Chúng tôi không có con cái. Không hề có, kể từ
ngày thành phố bị bùa chú."
Y lấy tay che miệng họ rồi tiếp, "Đó là con đương duy nhất
để làm thất bại lời nguyền của mụ phù thủy." Schmendrick hất ngửa đầu về
phía sau cười ngả nghiêng, nhưng không thành tiếng. Molly nhận ra rằng ảo thuật
gia đã quá chén rồi. Drinn mím chặt miệng lại, trừng mắt nói, "Tôi thấy
không có gì đáng cười trong hoàn cảnh này cả. Không một chút nào cả."
"Không một chút nào," Schmendrick nói, giọng nấc
lên, đầu cuối xuống bàn làm đổ ly rượu. "Không một chút nào!" Dưới
cái nhìn bất bình của hai trăm con mắt, ảo thuật gia cố gỡ lại uy tín và trả lời
Drinn một cách nghiêm trọng. "Vậy thì, như tôi nhận xét, quý ông chẳng lo
lắng gì mà cũng chẳng cái gì làm quý ông lo lắng." Ông cười, tiếng cười
như tiếng ấm nước sôi réo phì qua vòi.
"Vâng, hình như thế," Drinn ngả về phía trước và đặt
hai ngón tay lên cổ tay Schmendrick. "Nhưng tôi vẫn chưa nói hết chuyện.
Hai mươi mốt năm trước đây, một hài nhi ra đời tại Hagsgate. Con ai? Tất cả
chúng tôi đều không biết. Chính mắt tôi không thấy khi ngang qua công trường phố
chợ vào đêm đông đó. Hài nhi được đặt nằm trên một thớt thịt, nó không khóc một
tiếng nào. Mặc dầu lúc đó có tuyết nhưng trời ấm, nó đương cười với lũ mèo nhà
quây quần quanh nó. Tất cả những con mèo cùng cất tiếng gù gù lên, và tiếng đó
rõ ràng bao hàm ý hiểu biết. Tôi đứng gần đó khá lâu, suy nghĩ, trong khi tuyết
vẫn rơi, lũ mèo vẫn gù gù niệm chú."
Drinn ngừng lại, và Molly hớt hải nói, "Rồi ông mang đứa
nhỏ về nhà, tất nhiên thế, và nuôi nấng nó như nuôi nấng con ông vậy."
Drinn đặt ngửa hai bàn tay lên bàn.
"Tôi đuổi lũ mèo đi," y nói, "và trở về nhà một
mình."
Khuôn mặt Molly chuyển sang màu trắng bệch như sương mù.
Drinn khẽ nhún vai. "Tôi biết sự đản sinh của đấng anh hùng thường có điềm
lạ, điềm dữ, có rắn. Kể ra nếu không có lũ mèo thì tôi cũng dám mang hài nhi về,
nhưng lũ mèo quây quanh làm cảnh đó lạ lùng như thần thoại. Tôi còn biết làm gì
hơn - khi đã được biết số mệnh dành cho Hagsgate." Môi y xoắn vặn như thể
bị mắc vào lưỡi câu. "Kế đó tôi đi lang thang, lòng mềm yếu. Khi tôi quay
lại vào lúc bình minh ló rạng, hài nhi đã biến mất."
Schmendrick đương dùng ngón tay rúng vào khoảng rượu đổ mà vẽ
lên những hình lăng nhăng trên mặt bàn, có thể là ông ta chẳng hề theo dõi câu
chuyện chút nào. Drinn kể tiếp. "Dĩ nhiên không ai chấp nhận chuyện để mặc
một đứa trẻ sơ sinh nằm trơ tại khoảng công trường chợ, mặc dầu chúng tôi sau
đó đã tìm khắp nơi từ hầm nhà đến tổ chim câu trên cao mà vẫn biệt tích. Tôi
nghĩ có thể chó sói đã tha thằng nhỏ đi hoặc giả đó chỉ là một giấc mơ, tôi đã
nằm mơ thấy tất cả những điều đó - nhưng sang ngày kế tiếp thì có sứ giả của
vua Haggard cưỡi ngựa tới loan báo hỉ tin. Sau ba mươi năm chờ đợi, vua đã có
được một hoàng tử?" Ông nhìn đi nơi khác để tránh cái nhìn của Molly,
"Hài nhi tôi thấy ở công trường chợ có thể là con trai."
Schmendrick liếm đầu ngón tay rồi ngước mắt lên.
"Lir", ông ta nói, vẻ tư lự. "Hoàng tử Lir. Không có cách nào
khác hơn để giải thích sự xuất hiện của hoàng tử sao?"
"Chắc là không rồi," Drinn khịt mũi. "Giá như
có bất kỳ một người đàn bà nào muốn lấy Haggard, chính Haggard cũng từ chối.
Nhà vua tuyên bố đứa trẻ ấy là cháu ông ta, vì cha mẹ nó chết nên ông ta nhận
làm con nuôi. Nhưng vua Haggard có họ hàng thân thích nào đâu. Lại có kẻ nói là
đứa trẻ sinh ra từ khoảng mây mờ u ám, như Vệ Nữ thần đã sinh ra tự bọt biển.
Chứ còn ai mà lại trao con mình cho vua Haggard nuôi nữa."
Ảo thuật gia bình tĩnh lấy ly ra và tự rót rượu. "Được rồi,
ông ta có được một con, tốt, nhưng làm sao ông ta có thể tới đúng lúc để mang đứa
trẻ mèo quây quanh kia về mà nuôi?"
Drinn đáp, "Ông ta vẫn thường tới Hagsgate vào ban đêm.
Nhiều người trong bọn tôi đã có lần gặp ông ta - vua Haggard cao lớn, xám như
khúc gỗ trôi sông, đi lang thang dưới ánh trăng sáng màu thép, nhặt những đồng
tiền rơi, mảnh đĩa vỡ, muỗng, đá, khăn tay, nhẫn, quả táo đã bị dẫm nát, nhặt tất
cả, không rõ vì duyên cớ chi lại thế. Chính Haggard đã lượm đứa trẻ. Tôi có thể
chắc chắn điều đó cũng như chắc chắn rằng sau này chính hoàng tử Lir sẽ là người
làm lật nhào tòa tháp cao, làm chìm đắm cả Haggard lẫn thành phố Hagsgate
này."
"Hy vọng điều đó đúng," Molly xen vào. "Tôi hy
vọng rằng hoàng tử Lir chính là hài nhi mà ông bỏ mặc cho chết, và tôi mong rằng
hoàng tử sẽ dìm cả thành phố của các ông xuống biển sâu, và tôi mong rằng cá sẽ
rỉa xác các ông cho đến chỉ còn trơ như những lõi ngô."
Schmendrick đá mạnh vào mắt cá chân Molly, vì đám thính giả
quanh đây đã xì xào, và có kẻ đã kiễng chân lên ông ta hỏi lại Drinn, "Ông
muốn gì tôi nào?"
"Ông đương trên đường đi đến lâu đài của vua Haggard chứ
gì." Schmendrick gật đầu "A," Drinn tiếp "Lúc đó thì một ảo
thuật gia thông minh tất dễ dàng biết cách làm thân với hoàng tử Lir vốn nổi tiếng
là một chàng trai trẻ hăng say và tò mò. Một ảo thuật gia thông minh tất sành sỏi
về các loại thuốc nước, thuốc bột, bùa ngải, độc dược, cao đan hoàn tán. Một ảo
thuật gia thông minh - xin ông lưu ý cho, tôi nói thông minh - một ảo
thuật gia thông minh có thể, vào trường hợp thuận tiện..." Ông ta ngừng lại,
câu nói lửng lơ ở đấy cũng đủ hiểu.
"Như vậy mà chỉ đổi lấy một bữa ăn thôi sao?"
Schmendrick đứng dậy làm chiếc ghế của ông ta đổ kềnh. Ông ta tì cả hai tay lên
bàn, thở mạnh. "Phải chăng giá cả ngày nay là như vậy? Một bữa ăn với chút
rượu vang đen là giá một cuộc đầu độc hoàng tử? Phải hơn thế chứ ông bạn Drinn.
Quét ống khói cho ông bạn, tôi cũng chẳng làm rẻ thế nữa là."
Molly Grue nắm chặt lấy cánh tay ông, hét lên, "Ông nói
gì vậy?" Ảo thuật gia gạt tay Molly ra xa, nhưng cũng vào lúc ông hạ thấp
mi mắt nháy một cái. Drinn ngửa người, dựa vào ghế, mỉm cười, "Tôi chả bao
giờ mặc cả với một tay nhà nghề. Hai mươi lăm đồng tiền vàng đấy."
Hai người mặc cả dễ thường đến nửa tiếng đồng hồ, Schmendrick
đòi một trăm đồng tiền vàng, và Drinn không chịu trả quá bốn mươi đồng. Sau
cùng, ngã giá là bảy mươi đồng trả một nửa trước, còn một nửa, sau khi
Schmendrick thành công trở lại sẽ lãnh nốt. Drinn lấy tiền tự chiếc túi dết ở
dây lưng và đếm ngay tại chỗ. "Quý vị nghỉ qua đêm ở Hagsgate, dĩ
nhiên," y nói. "Tôi vui lòng được tiếp đón quý vị."
Nhưng ảo thuật gia lắc đầu. "Tôi nghĩ rằng không. Chúng
ta sẽ tiếp tục quãng đường lên lâu đài, có còn bao xa nữa đâu. Đi sớm về sớm,
đúng không, ê?" Và ông nhe răng cười, cái cười quỷ quyệt và đồng lõa.
"Lâu đài Haggard luôn luôn là nơi nguy hiểm," Drinn
cảnh cáo. "Nhất lại là về ban đêm."
"Thiên hạ cũng nói như vậy về Hagsgate,"
Schmendrick đáp lại. "Đừng bao giờ tin lời đồn đại, ông bạn Drinn của tôi ạ."
Ông đi thẳng ra cửa quán ăn, và Molly theo sau. Tới đó, ông ta quay lại nhìn
đám dân Hagsgate trong những bộ đồ sặc sỡ của họ, "Trước khi chia tay tôi
muốn nói điều này với tất cả quý vị, là bùa chú chuyên nghiệp dù có rắc rối, dù
có vang động như sấm đi chăng nữa cũng chẳng tác động quái gì tới những tấm
lòng trong suốt. Chúc quý vị ngủ ngon."
Bên ngoài bóng đêm quấn lấy đường phố, lạnh buốt căm căm,
trên trời lấp lánh sao. Không có trăng. Schmendrick hùng dũng bước ra, tự cười
thầm với mình và lúc lắc cho tiếng tiền vàng vang lên. Không nhìn về phía
Molly, ông nói, "Lũ ngu. Chúng tưởng ảo thuật gia nào cũng dễ dàng đùa với
chết chóc. Ờ, giá như chúng muốn tôi giải lời nguyền cho chúng, tôi có thể giải
giúp, chỉ cần một bữa mời, hay chỉ cần một ly rượu."
"Tốt hơn là đừng làm gì cả," Molly nói, giọng giận
dữ. "Chúng xứng đáng như vậy, chúng xứng đáng điều tồi tệ hơn thế. Để một
trẻ sơ sinh ngoài tuyết."
"Nhưng nếu y không bỏ mặc thế, đứa trẻ đã không được
nuôi cho khôn lớn để thành ông hoàng. Bà bạn trước đây đã từng sống trong một
chuyện thần tiên nào chưa?" Giọng ảo thuật gia nghe hiền dịu và say mèm,
đôi mắt thì sáng như ánh tiền vàng của ông, "Đáng anh hùng sinh ra để thực
hiện một điều tiên tri và tên gian xảo sinh ra để ngăn chặn điều đó - tuy nhiên
ở một loại truyện khác sự thể thường lại nghịch đảo. Và đấng anh hùng thường phải
gặp gian nan ngay từ lúc mới sinh ra, nếu không đã chẳng đích thực là anh hùng.
Thật là hởi lòng hởi dạ khi được biết thêm về Hoàng tử Lir như vậy. Trong truyện
này tôi đang chờ đợi một trang anh hùng đây."
Lân đã xuất hiện kia, như một vì sao trong đêm, đi trước hai
người một chút. Molly nói, "Nếu Lir là một trang anh hùng, thì lân là
gì?"
"Đó là chuyện khác. Haggard và Lir, Drinn và bà bạn và
tôi - chúng ta đều là nhân vật trong truyện thần tiên. Truyện dẫn đến đâu hay đến
đó. Nhưng lân là sự thực. Là sự thực." Schmendrick ngáp, nấc một cái, đồng
thời rúm người lại. "Tốt hơn hết chúng ta nên rảo cẳng lên một chút",
ông ta nói. "Có thể chúng ta đã ngủ đêm ở đấy, nhưng thằng cha Drinn làm
tôi bứt rứt. Chắc chắn tôi đã đánh lừa được hắn, hãy thế đã."
Molly thì như đương chập chững đi trong một giấc mơ, nàng tưởng
như cả thành phố Hagsgate là bàn chân một quái vật không lồ, nó đương ruỗi những
ngón chân của nó ra để giữ bộ ba này trong vòng cương tỏa của nó. Molly tưởng
như bàn chân chú khổng lồ đó đương uốn éo, vỗ về, nô dỡn khiến cả ba cứ luẩn quẩn
đi đi lại lại lạc lối trong mê cung này. Có lẽ một trăm năm sau cả ba mới thoát
ra được ngoại vi thành phố, và kế tiếp năm mươi năm nữa họ lại luẩn quẩn lạc lối
trong những cánh đồng ẩm ướt, trong những vườn nho và vườn cây ăn quả xác xơ.
Molly mơ thấy đàn cừu trên đỉnh cây đương liếc nhìn bọn nàng bằng con mắt riễu
cợt, những con bò lạnh lùng đương ùa tới dẫm lên chân bọn nàng, cố xô đẩy bọn
nàng bật ra khỏi con đường héo úa. Nhưng ánh sáng của lân vẫn chập chờn phía
trước, và Molly bước theo nửa mê nửa tỉnh.
Lâu đài của vua Haggard nổi bật một cách hùng dũng lên vòm trời
giống một con chim khổng lồ, đen kịt và mù, đương rình cá dưới đáy thung lũng
đêm. Molly như có nghe tiếng cánh vỗ mơ hồ của nó. Rồi hơi thở của lân lùa vào
tóc nàng, và nàng nghe tiếng Schmendrick hỏi, "Bao nhiêu người?"
"Ba người," lân trả lời. "Chúng vẫn theo dõi
chúng ta từ lúc chúng ta dời khỏi Hagsgate, nhưng bây giờ chúng ta tiến tới lẹ
hơn. Hãy lắng nghe."
Tiếng bước chân lướt nhẹ và nhanh, tiếng thì thầm xảo quyệt. Ảo
thuật gia rụi mắt. "Có lẽ Drinn bắt đầu cảm thấy hối hận đã trả giá quá rẻ
cho vụ đầu độc," ông thì thầm "Cũng có thể hắn chợt tỉnh ngộ biết là
bị lừa. Cái gì cũng có thể đúng được." Ông nắm cánh tay Molly đẩy nàng xuống
một cái hố bên vệ đường. Lân cũng nằm sát đấy im lặng như một vừng trăng mọc.
Ánh dao găm loang loáng như vệt cá lướt trên mặt biển đêm. Một
tiếng nói thốt nhiên vang lên giận dữ. "Tôi đã bảo là chúng ta lạc mất
chúng rồi mà. Có lẽ chúng ta đã vượt xa chúng đến một dặm đường, nơi tôi nghe thếy
tiếng sột soạt đó. Tôi thật là thằng chết tiệt nếu đã vượt họ quá xa thế."
"Hãy yên lặng!" tiếng thì thầm thứ hai vang lên trịnh
trọng. "Anh có muốn để chúng thoát khỏi và phản lại chúng ta không. Anh sợ
thằng cha ảo thuật, nhưng anh nên sợ Con Bò Mộng Đỏ hơn. Chỉ cần Haggard biết
phân nửa chuyện này cũng đủ khiến ông ta quyết định sai Con Bò Mộng Đỏ đến dày
xéo chúng ta vụn như cám."
Người thứ nhất trả lời nhỏ nhẻ, "Tôi đâu có sợ thằng cha
ảo thuật. Phù thủy thật thì phải có bộ râu kia. Nhưng chúng ta phí thì giờ vô
ích. Bọn họ đã bỏ con đường mà đi tắt ngang cánh đồng rồi, vì chúng biết là bị
theo dõi. Chúng ta có thể cứ lùng đuổi chúng theo con đường này suốt đêm mà chẳng
bao giờ bắt được chúng."
Giọng thứ ba mệt mỏi hơn hai giọng đầu. "Chúng ta đã đuổi
theo chúng suốt đêm, trong kia vừng đông đã bắt đầu ràng rạng."
Molly thấy rằng nàng đương tự vặn mình sau lưng chiếc áo
choàng của Schmendrick và dấu mặt vào một đám cỏ gai khô xác. Nàng không dám ngửng
đầu lên, nhưng nàng hé mắt nhìn thì thấy không khí rưng rưng một màu ánh sáng kỳ
lạ. Người thứ hai nói, "Anh thật điên. Ít nhất cũng còn hai giờ nữa mới
sáng, hơn nữa, chúng ta đương đi về hướng tây."
"Nếu vậy," tiếng người thứ ba, "thì tôi trở về
đây."
Tiếng bước chân tưng bừng quay trở lại. Người thứ nhất kêu lớn,
"Hãy đợi, đừng đi! Hãy đợi, tôi sẽ cùng đi với các anh!" và nói với
người thứ hai, "Tôi chưa về, tôi chỉ đi trở lại một chút. Tôi vẫn còn như
văng vẳng nghe thấy tiếng họ, và tôi đánh rơi mất cả mồi lửa đâu đây..."
Molly còn nghe thấy tiếng bước chân của họ mò mẫm quay trở lại.
"Sư mày, đồ nhát như cáy!" tiếng người thứ hai chửi
thề. "Hãy đợi một chút, ít nhất hãy đợi tao một chút để tao thử làm điều
Drinn dặn tao." Tiếng những bước chân rút lui ngập ngừng, và tiếng người
đó hát lớn:
Ấm còn hơn mùa hạ
Hả dạ hơn được mời ăn
Dịu như phụ nữ ân cần
Quý như máu đỏ trong thân thể này.
"Lẹ lên," tiếng người thứ ba. "Lẹ lên. Trông
lên trời kìa. Bài hát vô nghĩa nào thế?"
Vẫn tiếng người thứ hai trở nên cáu kỉnh hơn. "Đâu phải
bài hát vô nghĩa. Drinn quý tiền của mình đến nỗi không sao chịu đựng nổi khi
tiền đó sang tay kẻ khác. Mối liên hệ thiết tha nhất trần đời của Drinn đó, và
đây là cách Drinn gọi tiền về." Tiếng hát lại vang lên, nhanh hơn và hơi
run run.
Mạnh còn hơn nước lũ
Dễ dụ còn hơn cừu non
Vung tay cho mạnh cho ròn
Nói tên cô gái anh còn thương yêu.
"Drinn," tiếng tiền vàng đựng trong ví của
Schmendrick vang lên, "drinn drinn drinn." Kế đó mọi sự xảy tới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét