Bóng nước hồ Gươm 3
Tập 2
Chương I
Buổi sáng đầu xuân quang đẹp. Mặt trời lên cao tỏa ánh nắng
vàng tươi ấm dịu làm tưng bừng hẳn bầu không khí sớm mai. Gió hiu hiu nhẹ
nhàng từ bên phía Bát Tràng thổi lướt qua sông Cái vào ven đê rung rinh phe phẩy
những bụi cây, cành lá bên đường. Những con chim nhỏ bay liệng tắm nắng và lách
chách, ríu rít nhảy chuyền qua từng cành, từng bụi cây. Và mải mê với nắng và mồi,
chúng rất dạn người, thường đưa mắt ranh mãnh nhìn khách qua đường. Nhưng khách
đi đường phần nhiều ở dưới thuyền mới lên bộ, đều vội vã đi ngay, không ai để ý
gì đến cảnh vật chung quanh, nên cũng chẳng ai vạ gì hoài hơi đi khua quấy đàn
chim nhỏ đang nô giỡn hát vui với ánh mặt trời. Chỉ có người, áng chừng một văn
nhân mơ mộng cũng đi từ dưới bãi lên đê, nhưng hễ thấy con chim nào bất kể là
chim sẻ hay chim vành khuyên, chào mào hay sáo, con nào cũng tỏ ra bạo dạn, cứ
giương mắt ra nhìn có vẻ chế giễu, là ông ta xô đến đuổi ngay làm cho những con
chim ấy cuống cuồng bay đi, vừa bay vừa hót như có ý nguyền rủa.
- Chết! Chết tiệt!
Nghe hay hay, người khách bật cười tự nhủ:
- Mày rủa ông chết à? Đầu năm xuân mới mà mày độc địa thế à?
Rồi mải đuổi theo ý nghĩ đang nung nấu trong lòng: “Chúng mày sống vui vẻ nhởn
nhơ, dễ ông không được sống vui vẻ nhởn nhơ à? Vô lý! Ai cũng có quyền tìm được
cách sống sung sướng, chúng mày không được nguyền rủa ông chết! Chúng mày sẽ phải
chết trước! Nghe không?”.
Khoái chí vì những ý nghĩ ngộ nghĩnh ấy, ông vừa đi vừa nhặt
những hòn đất rắn, gạch vụn ở đường, vừa ném đuổi những con chim nhảy nhót trên
cành hay ở vệ đường làm cho những người qua lại cũng phải phì cười về cái tính
lẩn thẩn ấy. Nhưng không phải ông lẩn thẩn đâu. Ông nghĩ thế thật, và ông cứ nhẩn
nha như thế đi lên phía Đồn Thủy, định nhân buổi trời xuân trong đẹp này, (vả lại
là buổi rỗi rãi không ai biết đến mình) để xem quang cảnh nơi nhượng địa kia thế
nào? Mười lần tai nghe không bằng một lần mắt thấy, ta thử đi qua một lượt mục
kích xem sao! Dòng suy nghĩ đi xa, ông không ném chim nữa, và cũng đã đến nơi rồi:
kìa dưới sông, trên làn nước đỏ sẫm gạch cua chảy xiết, hơn chục cái thuyền
ván, cột buồm sừng sững, trên ngọn mỗi cột một lá cờ ba sắc trắng, đỏ, xanh thẫm
phần phật bay theo chiều gió, như cố nhoai cho thành một hàng dài. Bên ngoài
dãy thuyền là ba cái tàu lớn hai tầng sơn trắng, ống khói tròn như cái cót lúa ở
giữa nóc tàu đang từ từ bốc lên một làn khói mỏng. Ở phía mũi tàu quay ra giữa
sông một lá cờ ba sắc lớn hơn một cái chiếu đang phất phơ trước gió, trông có vẻ
như cờ lệnh của viên tướng chỉ huy, chỉ huy cả đoàn thuyền. Các thuyền đều im lặng
tắm trong nắng sớm. Riêng trên những tàu là náo nhiệt những binh lính đi lại,
lên xuống, xì xồ và hát nghêu ngao như bò rống. Tiếng hát vọng lên đến trên bờ,
thì ở trên này cũng có tiếng xì xồ hát đáp lại cũng như bò rống, hổ gầm, ông
khách bật lên tiếng cười chế nhạo, tự nghĩ:
- Thế mà cũng hát với hỏng.
Nhưng ông ngừng ngay vì chợt trông thấy ở trên bãi, bên trong
hàng rào tre, rào cánh sẻ có tiếng hô nhịp “ắc đê,... ắc đê” 1 và nhìn thấy từng hàng đội binh lính bước
đi đều đặn. Nhìn theo đoàn người nhịp nhàng tiến bước, ông đưa mắt nhìn bao
quát cả cái khu nhượng địa mới xây dựng này. Ồ! Cái nơi đất bãi bồi ngoài bến
Tây Luông mà mấy năm trước mình đã qua đây chỉ thấy cát và bùn, thì bây giờ đã
thành một khu dinh cơ bát ngát và nguy nga: một nhà gạch hai tầng ở giữa cao vượt
lên trên hàng cây, từng ô cửa chữ nhật sơn xanh đóng khung lên những bức tường
vàng, chung quanh là những dãy nhà ngang dọc, cũng mái ngói tường gạch, cửa xanh
trên nền tường vàng... Và bên ngoài nữa, gần sát với đê La Thành, bức tường thấp
bên trên cắm rào sắt và rào gỗ cũng sơn xanh, trông thẳng tắp. Tất cả cái khung
cảnh xinh xắn, diêm dúa, mới mẻ ấy nối tiếp ngay với đoàn tàu thuyền kia nổi bật
lên thành một khu cảnh trí riêng biệt, như một thế giới khác ở bên sông Hồng,
sát nách cái thành trì cổ lỗ. Thì ra người Tây họ văn minh hơn mình thật, họ gọn
gàng, ngăn nắp, và nhất là cũng đất ấy lại là khu đất ngoài bờ sông dễ lở, cũng
những vật liệu ấy, mà họ khéo xây đắp lên một nơi như tiểu thần tiên vậy, không
đồ sộ lộng lẫy, nhưng mà đẹp, đẹp hơn cả dinh quan Tổng đốc trong thành. Họ giỏi
hơn mình thật, đi đến đâu là họ lập thành cơ ngũ vững vàng hẳn hoi! Ô kìa! Mà
sao đến buôn bán mà lại chả thấy hàng hóa gì mấy, mà lại toàn là binh lính và
súng ống tập tành thế này? Ông khách gật gù tự đáp, tự cho như là một sự khám
phá mới lạ:
- Binh dĩ vệ thương, thương dĩ dưỡng binh 2 .
Đúng rồi! Phải có sức mạnh mới buôn bán được! Làm gì cũng vậy,
cũng cần phải có sức mạnh, có quyền, có thế! Mà đây họ lập cơ ngơi cố thổ thế
này, lại tập tành rèn luyện thế kia là họ định tạo đủ sức mạnh ở mãi đây đây!
Tự nhiên ông nghĩ đến nước mình, đến dân mình rồi đến bản
thân mình, ông nghĩ đến tấm thân nam nhi ngoài ba mươi tuổi mà vẫn chưa thành
dân phận gì, nào có phải kém cỏi gì cho cam, cũng có học có tài như ai, rốt cục
cũng chỉ vì chưa có thế, chưa có sức mạnh mà thôi. Ông vừa nghĩ về bản thân
mình vừa đi sát vào hàng rào xem bọn lính Tây tập. Ông mải mê đi, cứ lững thững
đến gần cổng chính mà không biết. Bên trong cổng, một anh lính Tây đã chú ý đến
ông từ trước nhất là chú ý đến cái khăn gói đỏ khoác trên vai và cái nón lông
đen chóp bạc sáng nhoáng phản ánh tia nắng mặt trời ở trên đầu ông. Hắn để cho
ông lại gần, liền chạy xô ra, đứng ngăn trước mặt ông và hỏi bập bẹ bằng giọng
Sài Gòn:
- Cái chi?... Cái chi?...
Ông khách hoảng sợ toan ù té chạy, nhưng không kịp nữa, tên
lính đã chộp lấy vai ông, rồi một tay nắm chặt tay ông, một tay gỡ cái nón chóp
đội lên đầu mình và tháo khăn gói khoác lên vai. Đoạn hắn buông ông ra cười hề
hề đi ngoắt trở vào trong cổng. Ông cố chạy theo vào định níu áo hắn lại và
đòi:
- Trả nón gói tôi đây! Trả tôi đây!
Tên kia vẫn cười hề hề rảo bước, tên lính đứng canh ở vọng
canh bên trong cổng vác súng và lưỡi lê cản ông ra. Thất kinh vì những đồ binh
khí sáng loáng ấy ông đứng ra bên ngoài cổng chắp tay vái lấy vái để, xin lại
hành lý. Tên lính canh không hiểu tiếng nói, cứ xua tay lắc đầu từ chối. Vẫn điệu
bộ ấy đối đáp với nhau mãi. Một người đàn bà gánh rau lên phố bán đi qua trông
thấy vậy liền bảo:
- Bác hỏi cái gì vào chỗ nhà “đoan” kia kìa, nhờ người ta nói
hộ, ở trong ấy có thông ngôn đấy.
Ông khách vội chạy theo bà hàng rau, và theo tay bà ta chỉ,
đi vào cái nhà gỗ lợp tranh liền ngay đấy. Ở đây có đông người ra vào. Ông chạy
thẳng đến gần người đang ngồi biên chép ngay cửa vào và nói nhờ giúp hộ. Người ấy
ngẩng lên nhìn và hỏi:
- Anh buôn gì?
Ông nói lại rõ sự việc xảy ra và nhờ người ra nói giúp xin hộ
nón và khăn gói. Người kia thản nhiên nói:
- Anh lại ô Hàng Cau nhờ ông Cử em.
Ông cứ nằn nì nhờ xin hộ, và cố phân trần rằng chỉ cần biết
được tiếng họ là lấy lại được nón, gói thôi. Người kia lạnh lùng nói:
- Đây chỉ có việc tính thuế và khai hàng xuất nhập thôi, anh
xê ra cho người ta làm việc.
Ông càng thêm chán ngán đứng tần ngần nhìn lên cái biển gỗ
sơn then có hàng chữ vàng “Đại Phú quốc thương chính tòa” viết rất chân phương
đĩnh đạc, ông càng thêm bực tức, nghĩ bụng “Thì ra nơi nha môn nào cũng vậy mà
thôi, ở đâu cũng thế cả”. Ông lẩm bẩm nói lên thành tiếng như có ý nguyền rủa:
- Tệ thật, hễ là thương chính thì chỉ làm việc buôn bán thôi
ư! Không giúp đỡ ai được việc gì nữa à?
Một người đàn ông chít khăn đầu rìu mặc áo cộc nâu năm thân
cài dải đang đứng đợi ở đấy nghe thấy vậy nói ngay:
- Ông muốn hỏi gì cứ ra cửa hiệu Lạc Phố mà nhờ ông Cử.
Người ấy ghé vào tai ông, nói thấp giọng:
- ... Mọi việc ở đây, họ xua ra đấy cả. Họ ăn cánh với nhau
mà. Đứng đây cũng vô ích!
Thôi đành cũng phải ra đấy vậy. Vốn đã nghe danh đồn đại nhiều
về lão Cử này, nay lại phải tự phơi mặt ra với lão, nhờ vả lão, thì xấu hổ chết!
Mà lại nhục nữa! Chẳng gì thì cũng là một vị quan của triều đình! Nhưng được
cái lão ta chưa biết mặt mình, thì cứ giấu nhận là anh đồ Nghệ nào đó mà chả được,
miễn là xong việc thì thôi. Nghĩ vậy, ông khách quả quyết đi thẳng lên phía cửa
ô trên, tìm vào cửa hiệu của ông Cử em. Đây đúng là một cửa hiệu buôn. Trước kia,
còn ở trên ô Hàng Mắm, hiệu Giai Huynh của ông Cử chỉ là một gian nhà dùng làm
nơi để ngồi viết giúp giấy tờ giao dịch với sở Thương chính của ta và sở Thương
chính của nước Phú Lãng Sa, mà người ta quen gọi là “nhà đoan”. Nhưng từ năm
ngoái, dọn xuống nhà mới ở cửa ô dưới này cho gần với nhà đoan, mở mang rộng
thêm, lại bày bán thêm một số hàng ngoại quý giá của Tây và Khách, trông choáng
lóe cả mắt. Và tên hiệu cũng được đổi là Lạc Phố cho hợp nghĩa hơn. Ông khách xứ
Nghệ đến đúng vào lúc cửa hiệu đang đông khách. Trong năm gian nhà rộng rãi, chỗ
nào cũng lố nhố có người. Thường thường nhiều nhất là những người vào xem hàng,
cũng có những người vào mua hàng, vào nhờ viết giúp giấy tờ, công việc, có những
bạn quen thân đến chơi, bàn chuyện thời thế gần xa. Ông khách mới đến tiến lại
gần một người bán hàng, chào hỏi và nói muốn gặp ông chủ. Người bán hàng chỉ
vào một ông quần áo chỉnh tề chít khăn lượt chữ nhân ngồi ở đằng sau cái án thư
bên trong quầy hàng ở góc nhà đằng kia. Khách còn lóng ngóng chưa biết đi lối
nào, thì ông chủ ở bên trong án thư đã trông thấy vội đứng lên chạy ra, chắp
tay vái chào và mời tíu tít:
- Bẩm quan lớn ạ! Xin rước quan lớn vào chơi. Mời quan lớn đi
lối này ạ.
Khách sững sờ đứng dừng lại ông kia đã chạy ra hẳn tận nơi,
chắp tay vái chào lượt nữa rất lễ phép, rồi niềm nở mời khách và đi trước dẫn
khách vào, mời ngồi lên cái trường kỷ gỗ gụ đen bóng nhoáng có chấn song con tiện,
kê ở gian giữa. Khách chợt nghĩ ra: “Thôi chết! Tú tài Nam Phố! Mình không nhớ
ra. Thôi lộ rồi!”. Ông vội tìm cách ứng biến để che đậy ý định thầm kín của
mình, liền hỏi:
- Thầy Tú cũng ở đây à? Thầy Tú ạ tôi muốn vào... vào chơi hầu
quan phủ Đào... không biết thầy ở đây...
Ông kia đỡ lời ngay:
- Vâng, vâng ạ. Bẩm xin rước quan lớn ngồi chơi. Ông Cử chúng
tôi ở nhà trong, chúng tôi xin đi vào mời ra hầu quan lớn ngay ạ.
Khách đã tự trấn tĩnh lại được, ung dung ngồi vào trường kỷ,
hỏi:
- Còn nhà trong nữa cơ à? Hiệu của các quan to nhỉ.
- Dạ, bẩm dọn xuống đây có đất mở to. Vả lại nhà ngoài này
bày hàng họ, có đông khách ra vào, cũng phải có cái nhà trong cho nó tĩnh, có
chỗ nghỉ ngơi.
Ông Tú còn đương đứng nói, thì cánh cửa bên từ nhà trong ra kẹt
mở, một người đã đứng tuổi mặc áo nhiễu kép đỏ, quần lụa trắng, chít khăn nhiễu
tím, rồi ở trong bước ra, ông Tú vội nói với khách:
- Bẩm quan lớn, ông Cử tôi đã ra đấy ạ.
Rồi quay lại ông Tú giới thiệu với Đào Trọng Kỳ:
- Thưa bác, có quan Giáo thụ phủ nhà đến chơi!
Đào Trọng Kỳ vội chắp tay vái chào và đi nhanh đến trường kỷ,
ấn mời khách ngồi xuống, trong khi ông này đứng dậy vái chào. Kỳ vồn vã nói:
- Hân hạnh cho hạ dân quá. Nghe danh quan lớn đã lâu, vẫn
khao khát muốn đến bái yết tôn nhan, nhưng bận những việc tầm thường chưa có dịp
nào thỏa lòng mong ước. Xin rước quan lớn ngồi.
Khách ngồi xuống ghế, lễ phép nói:
- Bẩm quan lớn, từ khi tôi về nhận giáo chức phủ Hoài Đức này
đã hơn một năm, vẫn nghe tiếng quan lớn ở đây quảng giao hiếu khách, nhưng chưa
có dịp may nào để đến hầu tiếp, định tết này về quê ra, thể nào cũng sẽ vào hầu
quan lớn.
Đào Trọng Kỳ vội ngắt:
- Bẩm quan lớn, xin quan lớn tha thứ cho, xá cho lỗi gọi nhau
như thế, vì hạ dân đây là kẻ có tội, bây giờ làm cái mạt nghệ này.
Khách cũng cướp lời:
- Quan lớn nghĩ thế là sai. Đành rằng có tội, nhưng quan lớn
có tội với triều đình. Chứ còn quan lớn đã đỗ Cử nhân trước bản chức, làm quan
đến Tri phủ, trong khi giao du với nhau, vẫn phải xưng hô như thế mới phải.
Ông Tú đứng bên nói xen vào:
- Hai quan nói đều phải cả, nhưng đệ thiết nghĩ trong làng
danh giáo, con cháu đạo thánh cả, ta nên gọi thông thường cho nó thân mật hơn.
Ông Giáo thụ phủ Hoài vội nói ngay:
- Thầy Tú dạy đúng. Nói kiểu cách quá lại hóa ra khách sáo.
Rồi ông nói tiếp, thấp giọng hơn và với vẻ chân thành:
- Đệ định bụng ở quê ra, sẽ vào chơi mừng tuổi quan anh, mà
không may, trong bụng lấy làm xấu hổ, lại hóa ra là phải thân đến đây nhờ quan
anh giúp việc. Thật là đường đột.
Đào Trọng Kỳ đang bày ngay ngắn lại những khẩu giầu ở trên
đĩa cổ cho giầu cau ngay ngắn, cũng lấy làm lạ, hỏi:
- Thưa quan lớn có việc gì kia ạ?
Khách kể lại việc đi qua khu nhượng địa, bị mất nón chóp và
khăn gói. Ông Tú chưa nghe hết đầu đuôi, nói ngay:
- Tây nó đùa đấy! Sao quan lớn không chạy theo vào mà đòi, là
nó phải trả. Nó thấy người mình hiền nó hay trêu!
Ông Giáo thụ đáp:
- Tôi có chạy theo vào xin, nhưng tên lính canh cổng đẩy tôi
ra. Tôi chạy đến tòa Thương chính nhờ hỏi hộ, người ta chỉ cho tôi ra đây... nhờ...
Đào Trọng Kỳ nghiêm trang hỏi:
- Hay là quan lớn có làm gì chúng nó?... Hoặc giả làm cho
chúng nó ngờ...?
- Bẩm không ạ, đệ chỉ thấy cái mũ trắng úp sùm sụp như cái
lon giã cua ở trên đầu và đôi chân quấn vải chặt như cây gỗ, nên đệ đứng ngây
ra mà nhìn...
Phủ Kỳ bỗng phá lên cười oang oang, vỗ tay vào đùi, nói:
- Thôi phải rồi! Phải rồi! Nó lạ cái nón lòng chóp bạc của
quan lớn, và cả cái khăn gói nữa, khăn gói vải đỏ chứ gì,... Đúng, nó cũng lạ
như quan lớn lạ cái mũ của nó ấy mà, nên nó muốn giữ lấy nó xem. Nó đùa đấy
quan lớn ạ.
Người nhà bưng khay chén và nước sôi ra, ông Tú pha chè rót
nước đặt lên bàn. Ông Phủ Kỳ đặt một chén nước trước mặt khách và nói:
- Rước quan lớn xơi nước. Mời quan lớn cứ ngồi đây chơi, để
tôi nhờ người hỏi hộ. Nó đùa thì nó trả, không ngại.
Ông khách phủ Hoài nói khẩn khoản:
- Vì ngôn ngữ bất đồng, nên đệ phải vào đây nhờ quan anh hỏi
hộ, để đệ còn xin phép quan anh phải vào trình quan Đốc học cho kịp lễ khai giảng
đầu xuân ngày kia.
- Vâng, rước quan lớn cứ ngồi chơi nói chuyện, chúng tôi sẽ
cho người đi hỏi ngay...
Vừa lúc đó ở bên ngoài có tiếng người hỏi vọng vào:
- Ông Cử có nhà không?
Đào Trọng Kỳ trông ra vội đứng lên chạy ra reo:
- A ha! May quá là may, vừa đúng dịp. Xin mời hai ngài vào!
Ông Giáo thụ Hoài Đức, ông tú Nam Phố cùng đứng dậy đi ra giữa
nhà đón chào. Hai người khách mới đến vừa lên tiếng hỏi ở ngoài cửa đã bước vào
trong nhà. Hai người ăn mặc giống nhau, cũng áo kép dài vải thâm tay chẽn, quần
lụa trắng rộng phủ lên đôi giầy da đen kiểu Tây bọc lấy chân, đi gót kêu cộp cộp.
Cũng cái mũ vải cứng vành to trên đầu, cũng một cái cổ trắng cao cứng bên trong
cổ áo kép; tuy hai người mặc áo dài ngắn khác nhau và có giọng nói khác nhau,
nhưng riêng lối quần áo, giầy mũ như thế cũng đủ tỏ cho mọi người biết họ là hạng
người thế nào, từ đâu đến. Cho nên ông Giáo thụ, tuy là khách mới đến, cũng rất
vui mừng như ông Cử vậy. Hai người vào đến giữa nhà, người thấp bé nói giọng
Nam kỳ, đứng sững lại hỏi:
- Nhà có khách lạ à?... Có bận? Chúng tôi xin ra.
Đào Trọng Kỳ vội giới thiệu:
- Bẩm không ạ. Xin mời hai ngài vào chơi. Trình hai ngài đây
là quan Giáo thụ phủ Hoài Đức chúng tôi, cũng là bạn thanh khí nhà nho cả...
Ông quay liếc nhìn ông giáo và nói tiếp:
- ... Và cũng đang có tí việc muốn nhờ các ngài, thật may
quá, vừa dịp...
Rồi ông quay hẳn lại nói với ông giáo, xòe bàn tay ra, cúi đầu
chỉ vào người thấp bé nói giọng Nam kỳ:
- ... Trình quan lớn, đây là quan thông ngôn Lộc người Gia Định
Sài Gòn, hàm Tri huyện hạng nhất, thông ngôn đầu tòa ngoại hạng trong dinh quan
Công sứ Kê-la-đích ở khu trường Tây Đồn Thủy này...
Và cúi đầu xòe tay chỉ sang người cao hơn, ông giới thiệu tiếp:
- ... Còn đây là quan Giáo sư Lê, người Bắc, giỏi chữ
La-tinh, chữ Ăng-lê, dạy ở trường cố bên Ma Cao, về đây là khách của cụ Kê...
Ông thông ngôn người Nam kỳ cúi đầu chào và nói:
- Đã là quan Giáo dạy học, thì là bạn nhau cả, là cùng nghề,
là đồng nghiệp, tôi cũng đã dạy học, còn quan Giáo sư Lê là giáo chức cao đẳng,
dạy những người ra đi dạy các ông giáo. Ngài biết giỏi nhiều thứ chữ, cũng như
quan Đốc học Trương Vĩnh Ký vậy... Chắc ngài cũng nghe nói đến quan Đốc Trương?
- Dạ bẩm thưa hai ngài, có ạ!
Ông Giáo thụ mới trả lời được thế, ông thông ngôn đã nói tiếp
ngay:
- Bồng! Tốt. Chúng tôi rất lấy làm sung sướng được gặp một bạn
đồng nghiệp... À mà bạn, à quên, quan lớn, xin quan lớn thứ lỗi, chúng tôi quen
nói theo lối người Phú Lãng Sa, thưa quan lớn có việc gì muốn sai bảo chúng
tôi?
Ông giáo luống cuống chỉ biết chắp tay cúi đầu, nói nhỏ nhẻ
không rõ tiếng, ông Cử vội nói đỡ:
- Dạ, xin mời hai ngài ngồi chơi đã, mời quan Giáo ngồi chơi
ta sẽ nói chuyện.
Khi mọi người đã ngồi cả vào trường kỷ, hai bên đối diện
nhau, Đào Trọng Kỳ mới thuật lại việc ông giáo bị mất nón và khăn gói cho tên
thông ngôn nghe. Tên này đứng phắt ngay lên, chìa tay ra nắm lấy tay ông Giáo
thụ lôi đứng dậy và nói:
- Tây nó thấy quan lớn ngài hiền, nó đùa đấy. Nhưng cũng là
đùa nhả, bọn này phải phạt “cỏ-vê” 3 mới được. Đi, ngài đi với tôi để bắt chúng
nó phải xin lỗi ngài...
Quay sang nói với Giáo sư Lê, hắn nói:
- Bác ngồi đợi tôi đây nhé. Tôi ra ngay.
Ra khỏi trường kỷ đến giữa nhà, hắn chỉ cái bàn cờ để trên quầy
hàng dặn với lại:
- Ông Cử và ông Tú đem bàn cờ này vào đấu với Giáo sư Lê mấy
ván đợi chúng tôi về.
Đào Trọng Kỳ cũng xun xoe chạy ra cửa nói thêm:
- Trăm sự trông nhờ ở ngài cả.
Tên thông ngôn Lộc vội nói:
- Dạ, đó là phận sự của tôi phải làm chứ!
Và hắn vội dừng lại:
- À này quý quán cao danh của quan Giáo thế nào nhỉ? Tôi phải
biết để nhờ Tây nó hỏi...
Ông Giáo thụ phải nói ngay:
- Tôi quê ở Hà Tĩnh, tên là Hoàng Văn Khải, hiện làm Giáo thụ
ở phủ Hoài Đức này.
- Được rồi, thế ta đi. Tôi nhớ rồi, quan lớn tên là Hoàng Văn
Khải. Xin quan lớn bỏ quá cho, cái nghề của tôi nó phải thế.
Hai người liền thoăn thoắt bước xuôi phía Đồn Thủy vừa đi vừa
nói chuyện, trông đã có vẻ như đôi bạn thân.
Một hồi lâu sau, hai người trở về nét mặt đều tươi tỉnh phấn
khởi. Ở đằng hiệu này, Đào Trọng Kỳ với Giáo sư Lê đang mải mê suy nghĩ, cân nhắc
những nước đi, ông Tú ngồi chầu rìa bên Giáo sư Lê, thỉnh thoảng cũng góp ý
mách nước. Ba người đang chụm đầu vào bàn cờ, thông ngôn Lộc sồng sộc ở ngoài
vào bô bô hỏi:
- Mấy ván rồi? Có lâu không?
Đào Trọng Kỳ ngẩng lên trước nói:
- Chưa được một ván... Thế nào? Xong rồi à? Nhanh thế, có sao
không?
Thông ngôn Lộc hỏi lại:
- Chưa được một ván cơ à? Sao lâu thế? Thôi hòa nhá. Cánh này
đi tốt lắm. Lấy được cả nón gói về đây, mà Tây nó phải xin lỗi.
Ông Tú nói:
- Thế thì hay! Ta phải ăn mừng.
Giáo sư Lê nói:
- Hòa cũng được. Nhưng chưa hạ được ông Cử, chưa hả.
- Thôi để lúc khác hẵng hay!
Thông Lộc vừa nói vừa lấy tay xoa quân cờ đi, và nói mấy câu
tiếng Tây với Giáo sư Lê, rồi hắn quay ra mời ông Giáo, ông Tú cũng cùng ngồi
vào trường kỷ, và kể lại chuyện hai người đi vào khu nhượng địa như thế nào.
Sau khi biết rõ cái việc đáng tiếc này, quan ba cập-ten 4 coi đội quân ở đấy đã mời quan Giáo thụ
vào trong phòng khách, mời quan Giáo uống rượu vang, ăn bánh ngọt, trò chuyện hỏi
thăm thân mật rồi bắt tên lính kia phải đem nón và khăn gói vào nộp trả quan
Giáo và xin lỗi ngài. Quan ba cũng chân thành xin lỗi ngài về việc đáng tiếc ấy
đã xảy ra.
Thông Lộc cầm cái nón chóp bạc giơ lên và nói tiếp:
- ... Và đây là cái nón của quan lớn, lông chim lợn đã đẹp,
nhưng đẹp nhất là cái chóp bạc chạm trổ tinh vi này, nó đã làm cho tên lính say
mê đùa nghịch mà bị lỗi, làm mất thể diện của người Phú, đáng lẽ bị phạt nặng lắm.
Chúng tôi phải xin mãi, quan cập-ten mới tha phạt “công-sinh” 5 chỉ phạt “cỏ-vê” qua loa thôi...
Đào Trọng Kỳ mỉm cười, nhìn hỏi sang ông Giáo phủ Hoài:
- Thế nào quan Giáo? Xong xuôi êm ấm rồi chứ?
Giáo thụ Hoài Đức đáp:
- Bẩm xong cả rồi ạ. Nón, gói, quần áo, sách vở còn nguyên,
không suy suyển. Kể ra người Tây cũng lịch thiệp thật. Chỉ vì ngôn ngữ bất đồng
mà sinh không hiểu nhau, chứ hai bên cùng hiểu biết nhau thì làm gì có chuyện
xung đột. Ấy nhờ có quan lớn đây thông ngôn cho, Tây họ hiểu ra, họ cứ nắm lấy
tay xin lỗi mãi, lúc ra về ông quan ba, ông ấy còn tiễn chân ra mãi đến cổng,
và miệng cứ nói tốt tốt...
Rồi ông đứng lên nói với vẻ thành khẩn:
- Thật là may mắn cho đệ, trước hết là được nhờ ơn hai ngài
biết tiếng nói giúp, sau là vì cây dây cuốn, nhờ có quan Phủ và ông Tú vun vào
cho, đệ được lấy lại đủ nón gói để kịp giờ vào hầu quan Đốc, đệ xin ghi lòng cảm
tạ. Giờ xin phép các vị cho đệ được lui về lo liệu.
Phủ Kỳ đứng lên và ba người kia cũng đứng lên theo. Kỳ nói:
- Không được, quan lớn ạ! Nhất kiến như cựu 6 , huống chi lại là mộ danh nhau đã lâu;
hai nữa lại mấy khi được gặp hai quan bên tòa Lãnh sự nước Phú Lãng Sa như thế
này. Xin quan cứ lưu ở lại chơi với chúng tôi, đến chiều hãy vào dinh học chính
cũng chẳng sao.
Ông tú Nam Phố cũng nói:
- Xin mời các vị cứ ngồi xuống cả đã. Tiểu đệ xin thưa thế
này ạ: Quan Giáo đến chơi với chúng tôi là một sự vui, quan Giáo lấy lại được
nón khăn gói là hai sự vui, lại có cả quan bên tòa Lãnh sự hạnh ngộ thế này là
ba sự vui. Chúng tôi xin làm một bữa rượu nhạt cùng họp mặt với các vị để mừng
ba sự vui ấy, và cũng là để mừng cái ý nghĩa nó biểu hiện đúng với cái tên “Lạc
Phố” của chúng tôi: Lạc Phố chả là bến vui mà!
Đào Trọng Kỳ cũng vui vẻ tiếp lời:
- Quan Giáo ạ, cái lệ ở đây như thế đấy. Chúng tôi làm cái
nghề ngọt này chỉ cốt mong được giao du cho rộng mà thôi. Trước kia ở cửa ô Ưu
Nghĩa cũng vậy. Bốn bể đều là anh em cả. Chuyển xuống đây cái ý đấy lại càng rõ
ràng hơn. Huống chi hôm nay, hân hạnh có quan thông ngôn người trong lục tỉnh,
quan Giáo người trong Nghệ Tĩnh, quan Giáo sư gốc gác đâu miền Thanh Hóa, Ninh
Bình, ông Tú đây chính quê phố phường Hà Nội, còn ngu đệ thì chính quán ở tỉnh
Đông, như thế rõ là bốn bề Bắc Trung Nam xum họp một nhà, chả là điều đáng vui
lắm, cho anh em chúng tôi ư! Hẹn chả tầy gặp, mời các quan cứ ở chơi đây đã, bất
cứ việc gì cũng xin để lại đến chiều. Chiều quan Giáo sẽ vào hầu quan Đốc. Thế
mới là duyên may của cửa hiệu Lạc Phố chúng tôi.
Rồi ông đứng lên quay lại bảo ông Tú:
- Chú Tú đi bảo chúng nó làm cơm rượu thết khách, để tôi ở
ngoài giầu nước hầu các quan.
Và quay sang hỏi quan Giáo thụ:
- Quan lớn có thích đánh cờ, mời quan đến với quan Giáo sư
Lê, ngài đang cay hạ ngu đệ mà chưa được.
Thông ngôn Lộc đế vào:
- Hay đấy, hai quan Giáo, Giáo sư và Giáo thụ, đồng nghiệp đấu
nhau cùng tri thức tâm tư “học nhi bất yếm, hối nhi bất quyện” 7 , thì chọi nhau mới cân tài, cân sức, hay
đấy, tôi và ông Cử, chúng tôi xin làm chầu rìa, hầu điếu đóm, có phải không ông
Cử?
Đào Trọng Kỳ quay hỏi vị Giáo sư Lê:
- Bẩm quan Giáo sư Lê nghĩ thế nào?
Ông này cười đáp:
- Tôi rất làm sung sướng được thừa tiếp các vị, hầu chuyện
các vị là chính, còn việc đánh cờ chỉ là thứ. Tôi nói chân thật như vậy, quan
Giáo mà có muốn chơi cờ với tôi, thì tôi cũng xin tuân lệnh chủ nhân ở đây.
Quan Giáo thụ lễ phép nói:
- Quan Giáo sư có rộng phép thì hạ chức may ra cũng xin đi hầu
được mấy nước... Nhưng... (quay sang nhìn ông Cử, ông hỏi tiếp) trước khi vào dự
cuộc vui, hạ chức muốn chủ nhân cho hiểu rõ thêm về cái tên Lạc Phố, có phải là
“bến vui” như ông Tú nói không?
Đào Trọng Kỳ cười đáp:
- Dạ, bẩm có phần đúng như thế, mà cũng có phần khác. Nó là bến
vui, vui vì ở đây là bờ sông, ngay ngoài bến, cửa ô mà luôn luôn có người vào
ra đông vui thế này, lại có thêm những khách tâm giao tri kỷ, nên hiển hiện ra
bên ngoài cũng đúng là bến vui. Nhưng về nguồn gốc chữ thì nó còn có một nghĩa
khác nữa, kín đáo hơn. Đó là: Lạc tức là lạc địa, trong câu “danh giáo tự hữu lạc
địa” về danh, tự khắc có đất vui riêng, ta tự có riêng đất vui của ta; Phố là
làng Nam Phố, bến Hàng Bè cũ đây, chỗ này là đất của ông Tú và của cậu cả con
quan tuần Lương Chính là dân làng Nam Phố. Vậy có nghĩa là đất vui của ta trên
làng Nam Phố này chứ chả phải ở đâu ra cả.
Thông ngôn Lộc nói:
- Thế là quan lớn ẩn giữa thành thị trên bến dưới thuyền chứ
cứ gì mà phải ở lâm tuyền mới là ẩn.
Đào Trọng Kỳ nói ngay:
- Ấy cũng vì thế, nên hễ gặp được bạn là vui ngay, chứ nếu ở
lâm tuyền, thì gặp nhau được gặp là khó. Cho nên Lạc Phố ở đây, vẫn cứ là vui.
Nào giờ thì đệ xin bầy quân cờ để hai quan Giáo xuất trận chơi vui.
Lão bưng bàn cờ đặt lên bàn nước, giữa hai ghế trường kỷ rồi
lại ngồi xuống bày quân cờ ra bàn. Thông ngôn Lộc ngồi vào trường kỷ bên kia,
cũng bày quân cờ phía bên ấy, xong rồi nói:
- Nào mời hai ngài ra tay! Cần sai bảo gì thì đàn em xin phụng
mạng ạ!
Cả bốn người đều cười vui vẻ. Giáo thụ Hoàng Văn Khải nhường
Giáo sư Lê đi trước, nhường nhau mãi, Giáo sư Lê mới chịu đi nước đầu tiên. Rồi
kế tiếp nhau mỗi bên đi đã được mấy nước, bên phía Hoàng Văn Khải, xe, pháo, mã
đã xuất trận cả, mã đã nhảy sang sông, xe đã nghiến tốt đầu cản bước. Hai người
chầu rìa cũng đang chăm chú suy nghĩ theo dõi nước cờ. Giáo sư Lê mải mê chống
đỡ những nước cờ tấn công nhanh như gió táp, giờ mới nhận rõ lối đánh của đối
phương, gật gù khen:
- Ngài Giáo thụ quả là có tài cầm quân dẹp loạn, đáng lương đống
chi tài 8 . Nhưng mà khả dĩ công vị tất khả dĩ thủ,
vì ngài đánh như thế có thể phải thí xe, thí pháo, thí mã, mà lúc ấy đối thủ họ
còn giữ được toàn quân thì họ có thể quật lại cũng hăng đấy. Tôi thì khác, tôi
chỉ cố thủ thôi, cho nên tôi đánh hơi lâu... Và tôi...
Tự nhiên hắn cao hứng ngâm to lên:
Đời chiến quốc có anh tài
Hoàng giang một dải chia đôi sơn hà
Tướng thần sỹ tốt vào ra
Bốn phương hợp lại một nhà mới thôi!
... Đấy là bài thơ vịnh đánh cờ của tôi, và đó cũng là lòng
mong mỏi của tôi, sao cho bốn phương hợp lại một nhà mới thôi! Vì thế lối của
tôi chỉ là dàn quân bảo vệ:
Đào Trọng Kỳ cười nói:
- Đánh thì có hơi chậm mà vị tất đã ăn chắc. Nhưng thơ thì
hay và ý nghĩ cao đấy chứ, có khẩu khí.
Thông ngôn Lộc tiếp:
- Chính tôi cũng sốt ruột nước cờ ăn chắc của Giáo sư Lê.
Nhưng tôi cũng thích thơ của ngài như ông Cử vậy. Ngài làm thơ nôm bằng tiếng
nói thông thường của ta cả, nhưng tính tình cao thượng và ý nghĩ sâu xa. Ngài
làm được cả thơ chữ nho, thơ chữ La-tinh, thơ Phú Lãng Sa khá đấy, vì ngài là
nhà bác học.
Giáo sư Lê vội ngắt:
- Sao tự nhiên anh lại đâm ra nói nhiều thế. Để yên cho người
ta nghĩ, không rối bét, thua bây giờ đây này.
Thông Lộc cũng chẳng vừa, nói chèn:
- Cậu mà thua là phúc cho người khác, khỏi phải ngồi mà xem,
mà ngửi cậu “đủn ìa” ra quần. Lặng thà chịu thua đi, rồi mà ngâm thơ cho nhau
nghe còn hơn.
Nhìn qua bao quát cả hai bên, Giáo sư Lê đủng đỉnh vừa đấm tốt
biên, vừa nói đầy vẻ tự tin:
- Đối với moa, thì cờ và thơ đều là phụ cả, vừa đánh cờ vừa
ngâm thơ cũng được chứ sao. Nhưng mà moa không muốn làm trò cười cho thiên hạ!
Đào Trọng Kỳ vội nói lấy lòng:
- Tuy là phụ nhưng đều cao tay cả. Thưa hai quan lớn, thật là
“kỳ phùng địch thủ” 9 thơ gặp tri âm, xin các quan vui lòng vừa
cờ, vừa thơ cho thêm phần hào hứng. Rồi sẽ có đàn để thưởng rượu mừng quan.
Thông Lộc nói xen vào:
- Chúng tôi đã được biết ngón đàn của ông Tú. Còn về phần
quan Giáo thụ...?
Hoàng Văn Khải ngồi im từ nãy, thấy nói đến mình, vội đỡ:
- Thưa các quan tiểu đệ bất tài cũng xin hầu tiếp các quan,
nhưng phận đàn em xin được hưởng thụ là chính.
Mọi người đều cười vui vẻ. Ông Tú đã ở nhà trong ra mời cả bốn
người vào phòng khách của ông Cử bên trong. Ông đon đả nói:
- Thưa các quan, xin các quan chuyển cả bàn cờ vào trong thư
phòng ở trong ấy sửa soạn xong cả rồi, ta vào trong ấy cho ấm cúng, kín đáo.
Cuộc họp mặt được đưa vào nhà trong, diễn ra trong bầu không
khí thân mật hơn. Sau mấy ván cờ đọ sức, thi tài, năm người cũng ngồi vào mâm,
uống rượu thù tạc nhau rất là tương đắc. Giáo sư Lê có ngâm thêm hai bài thơ ngụ
ý mình. Bài thơ thứ nhất là bài vịnh Con cóc, ngâm khi đang đánh cờ có bốn câu:
Ung dung chễm chệ ngồi chơi,
Gan vàng tiếng kể trong đời khiếp thay!
Muôn dân khổ hạn lâu ngày.
Mong cho thấy tiếng để rày cậy trông.
Bài thứ hai vịnh Cái nón, lão ngâm trong tiệc rượu:
Có người quân tử dựng nên,
Hình dung chĩn chện ngự trên đầu người,
Dân con cảm đức tày trời,
Cứu cơn nắng gắt mưa rơi giữa đồng.
Mọi người khen lời thơ chải chuốt, có khẩu khí cao thượng và
giàu lòng thương dân.
Cuộc vui kéo dài đến quá trưa. Chủ khách từ biệt nhau, chứa
chan tình thân mật lưu luyến.
° ° °
Non một tháng sau, sang đầu tháng hai, một tiệc rượu nữa được
mở ra, không ở hiệu Lạc Phố, mà lại ở nhà khách của Bá hộ Kim, làng Cựu Lâu.
Khách ăn chỉ có bốn người: thông Lộc, Giáo sư Lê, Đào Trọng Kỳ và Bá hộ Kim. Chủ
nhà là chủ bữa tiệc. Nhưng sáng kiến bày ra cuộc họp mặt thân mật và kín đáo
này lại do Giáo sư Lê đưa ra đầu tiên. Ngài giáo muốn gặp ông Bá và ông Cử để
nói chuyện tâm sự riêng, không cần văn hoa gì cả. Bá Kim thấy người ta sốt sắng
với mình như thế lại càng thêm khấp khởi mừng thầm và phen này có thể được lợi
nhiều với bọn Tây, do đó càng hết lòng, hết sức thu xếp cho bữa tiệc thật là thịnh
soạn, linh đình và thật là ấm cúng kín đáo. Khách ngồi ăn ngay ở trong nhà
riêng của Bá Kim. Qua chuyện buôn bán, chuyện Tây, chuyện Khách, chuyển sang
chuyện thời thế..., rượu ngà ngà say, thông Lộc móc ra trong túi một tờ giấy lệnh
kẻ ô đỏ gấp tư đưa cho Phủ Kỳ và nói:
- Mời hai ngài đọc hộ cái này.
Đào Trọng Kỳ giơ tay đỡ lấy, hơi run run, hỏi lại:
- Thưa, cái gì vậy?
- Hãy đọc đi đã!
Phủ Kỳ mở to tờ giấy ra, nhìn qua một lượt những chữ viết
chân phương trên những ô vuông, chỉ có khác với các tờ giấy công văn là toàn những
chữ nôm cả. Lão bắt đầu lẩm bẩm đọc nhỏ rồi dần dần thành tiếng:
“... Dòng dõi chính thống,
Con cháu vua Lê,
Bấy lâu nay xót tôn miếu lìa tan,
Hành động thương con dân điêu đứng.
Nghĩ ta nay non đức kém tài, có đâu dám mở bài mối cả.
Sau vì đau tấc dạ, xót sinh linh, giục giã đêm ngày, nên phải
ra tay đem xích tử 10 đặt ngay chăn nệm. Quyết nổi một cơn nồng
cháy, trừ thói kẻ gian, dẹp bốn bể sóng càn cho yên trước đã. Ta nay đắp dựng nền
Hán xã, chớ có điều chống đỡ thiên uy... Các khanh hãy nhớ đức Lê Hoàng, mau
nghĩ đến đắp xây quốc tộ 11 .
Dụ truyền các hạt, cùng biết tuyên hành.
Lê Hoàng Tôn. Đại thiên hành hóa. Lê Duy Bá.”
Đào Trọng Kỳ đọc lướt xong, có vẻ luống cuống sợ sệt, lóng
ngóng, đặt tờ giấy xuống, chưa dám nói gì, có lẽ còn suy nghĩ. Thông Lộc hỏi
ngay:
- Thế nào? Ông Cử sợ à?
- Dạ!
Lão chuyển đưa tờ giấy cho Bá Kim, ngẩng lên và hỏi Giáo sư
Lê:
- Bẩm đây là chỉ dụ của đức Lê Hoàng Tôn, mà có lẽ Giáo sư Lê
là người đồng tộc.
Giáo sư Lê vẫn ngồi im, thông Lộc đưa mắt nhìn Giáo sư Lê rồi
nhấp nháy, nói với hai người:
- Thì chính là đức Lê Hoàng Tôn đấy, trước mặt chúng ta đây
chứ còn ai nữa?
Phủ Kỳ và Bá Kim sững sờ, vội đứng dậy chắp tay toan sụp lậy.
Giáo sư Lê cũng vội đứng xuống đất, xua tay nói:
- Xin cứ như thường, các ngài cứ ngồi yên, chúng tôi cũng như
các ngài, anh em bốn bể một nhà cả.
Hai người vẫn cứ đứng chắp tay. Thông Lộc cứ điềm nhiên ngồi
yên ra vẻ quan sát mọi người và thủng thẳng nói:
- Mời các vị ngồi xuống, ta nói chuyện như cũ, như mọi
khi..., như những người bạn chí thân, thì mới dễ nói hơn. Vả lại Giáo sư Lê là
người đã chu du nhiều nước, theo lối bình đẳng của phương Tây, ngài không chấp
nhận đâu.
Hắn quay nhìn Giáo sư và nói:
- Có phải thế không toa 12 nhỉ?
Rồi hắn ngồi lại ngay ngắn nói tiếp, giọng nghiêm túc:
- Bây giờ ta nói thẳng vào mục đích. Tôi là người trung gian,
tôi xin nói toạc móng heo để các vị rõ: Giáo sư Lê chính là Lê Hoàng Tôn, dòng
chính của đức Cảnh Hưng, chính tên ngài là Lê Duy Bá người ta còn gọi là Cả
Thanh hay Cả Đông. Các vị thường nghe tiếng đồn về hai ông Cả ấy, chính là Giáo
sư đây vậy. Giáo sư học rộng tài cao, biết nhiều thứ tiếng ngoại quốc, cờ cao,
thơ hay, đàn giỏi, như các vị đã biết, nhưng đấy chỉ là phụ thôi, như ngài thường
nói là mưu khôi phục ngôi chính thống của nhà Lê để đem thái bình hạnh phúc cho
muôn dân trăm họ...
Hắn nói một mạch dài, thấy hai người vẫn đứng chắp tay cúi đầu
lắng nghe, liền ngừng lại, đứng lên dìu hai người ngồi xuống và vồn vã nói tiếp:
- Ngồi xuống đây! Ăn uống tự nhiên đi thì mới nói chuyện được.
Không chúng tôi về bây giờ. Các ông là chủ cơ mà.
Hai người liền ngồi lại, Đào Trọng Kỳ xun xoe nói:
- Thật quả hạ dân, người trần mắt thịt, không biết đến thánh
nhân, nhưng cũng vẫn phục ngài là bậc độ lượng thương dân thương nước, hạ dân vẫn
còn nhớ những câu thơ của ngài: “Muôn dân khổ hạn lâu ngày... dân con cảm đức
tày giời...” biết ngay là khẩu khí phi thường...
Thông Lộc cười nói đế vào:
- Khẩu khí chẳng kém gì thơ vua Lê Thánh Tông...
- Dạ, bẩm vâng ạ, đúng là khẩu khí đáng vì thiên tử.
- ... Thì làm quan có mả, thông Lộc tiếp, kẻ cả có dòng mà lị.
Cùng dòng dõi với vua Lê Thái Tổ, làm gì mà chả có khí tượng Đế vương. Chẳng
qua mấy lâu nay phải im hơi lặng tiếng giấu thân, nên phải nén đi đó thôi. Giờ
thì thời cơ đã đến, đã đến lúc xuất đầu lộ diện, nên đối với hai ông đây là chỗ
quen thân, đi lại đã lâu, giáo sư có lòng tin cậy, nên cũng muốn nhân dịp nói
thật cùng nhau...
Bá Kim ngồi lặng nghe và từ nãy, bây giờ mới lễ phép lên tiếng:
- Dạ, thưa hai ngài, xin hai ngài đại xá cho, hạ dân chúng
con chưa biết gọi thế nào cho đúng lễ nghi. Dạ, thưa các ngài thật âm đức cho
nhà chúng con lớn lắm mới được các ngài hạ cố bảo ban cho như thế, chỉ sợ chúng
con kém đức mỏng phận, không xứng đáng là tôi con của các ngài... lỡ sơ suất để
lộ ra làm hỏng nghĩa lớn...
Lê Duy Bá ngồi ngay ngắn, hai tay thu vào bọc, rung rung một
bên đùi, è một tiếng, lấy giọng và nói một cách từ tốn, đĩnh đạc và nghiêm nghị,
với vẻ người trên rõ rệt:
- Các thầy cứ yên tâm, đừng ngại, việc đã đến lúc cần nói ra
cho mọi người đều biết, thì cũng lộ ra cũng không sao. Cho nên cũng cần nói cho
các thầy biết để một mặt các thầy có thể đem tài trí ra giúp vào đại sự, và mặt
nữa, biết rõ hiện tình mà trấn tĩnh lòng người. Tôi đây bấy lâu dốc một lòng
nghĩ đến tông miếu nhà và dân trăm họ nước Đại Việt, tôi chu du các nước, được
nước Anh, nước Phú, nước Nhật và nhà Thanh bên Tàu hẹn giúp. Còn ở trong nước,
tôi đã đi khắp mấy tỉnh Đàng trong, mấy trấn Đường ngoài, đến đâu tôi cũng thấy
trăm họ khổ sở vì hà chính 13 của họ Nguyễn và mong nhớ nước cũ vua Lê,
muốn con cháu nhà Lê nối ngôi chính thống. Mà họ Nguyễn bị dân chán ghét; đến
nay đất lục tỉnh Gia Định là nơi vốn dĩ của họ nay cũng không giữ nổi nữa là. Khí
số đã thay đổi, mọi nơi đã hướng theo, đã đến lúc phải nêu cao cờ khởi nghĩa...
Lê Duy Bá nói một hơi khá lâu, thấy hai người chỉ chăm chú ngồi
nghe, thông Lộc nghĩ rằng cần cho họ tin hẳn mới thong thả nói thêm:
- Thời cơ đã đến, vì thế họ Nguyễn càng ngày càng yếu, quan
tham, lại nhũng, thần oán, dân hận. Còn đức ông họ Lê đây thì không những được
các cường quốc giúp đỡ, mà ngay ở trong nước, ngài cũng được hào kiệt Bắc Hà nhớ
đến vua cũ mà theo về như nước. Hơn nữa, đức ông lại được các cha cố hết lòng
hướng nghĩa. Cố Phước, cố Hậu đều khuyên bảo con chiên bổn đạo đi theo. Đông đảo
dân giáo cũng một lòng tin, biết hợp theo lời các đấng bề trên là một sức mạnh
lớn tuyên truyền cho đức ông...
Bá hộ Kim lên tiếng hỏi:
- Lậy đức ông, lậy quan lớn, hạ dân chúng con ếch ngồi đáy giếng,
không rõ được tình thế, nên nghĩ sao nói vậy, xin các ngài xá lỗi cho. Dám hỏi
ông Kê và người Phú ở đây đối với việc nghĩa này, họ có thực bụng không? Hay họ
cũng chỉ đứng ngoài nghe ngóng?
Thông Lộc cười, đáp lại ngay:
- Ông Bá nghĩ gần quá. Ông Kê-la-đích đối với đức ông đây coi
là thượng khách, cung phụng đủ mọi thứ cần dùng. Lại tự bỏ tiền ra thuê in hàng
vạn tờ dụ này từ mãi bên Hồng Công để phân phát đi các hạt, ân cần như thế, chứ
còn gì nữa. Có điều còn vì thể diện ngoại giao nên họ còn phải kín đáo giữ ý chứ.
Bá Kim cũng cứ hỏi thêm:
- Đành rằng bề ngoài thì như thế thật. Nhưng hạ dân nghĩ thiển
cận vẫn sợ như việc ông Đồ Phổ Nghĩa giúp một ông hoàng ở Thanh Hóa, rồi sau
cũng bỏ đi. Và việc người Phú giúp ông Hồ Văn Vạn tôn phò một vị hoàng tôn nhà
Lê đấy, thế mà chỉ ít lâu họ lại giúp các quan nhà Nguyễn dẹp tan đám giặc ấy,
bắt cả Hồ Văn Vạn và mọi đầu mục giải vào kinh lăng xử tử.
Thông Lộc cãi:
- Sự đồng thế dị chứ 14 . Ông Kê-la-đích khác ông Đồ Phổ Nghĩa. Đấy
ngay như ông Đội Diệu, các ngài biết đấy, bị các quan đòi bắt mãi, mà ông Kê
ông ấy có giao đâu. Vả lại cái thế của người Phú lúc bấy giờ khác với bây giờ,
mà tình trạng của triều đình Huế ngày nay lại ươn hèn và rối ren hơn trước nhiều.
Cho nên mới nói là thời cơ đã đến. Và còn một chỗ vững vàng cho ta nữa là ông
Kê dốc lòng che chở, có sao thì chỉ việc nằm lì trong trường Tây hay là tếch vô
Sài Gòn...
Đào Trọng Kỳ cũng dựa vào ý của thông Lộc nói theo:
- Bẩm chính thế đấy ạ, việc của ông Đồ Phổ Nghĩa ngày trước
chính tại ông Ngạc Nhi làm hỏng, ông Ngạc Nhi muốn dựa ngay vào bọn quan lại của
Nam Triều, nên mới bỏ mưu kế của ông Đồ Phổ Nghĩa. Còn việc ông Hồ Văn Vạn lại
xảy ra lúc người Phú đang thương thuyết với triều đình về buôn bán... Vả lại
cũng chính là vì những người được tôn lên đều chưa phải là người xứng đáng,
chưa có ai tin. Chứ bì thế nào được với đức ông đây tài cao học rộng, danh tiếng
vang lừng, mà lại là chính hệ 15 .
Thông Lộc khen và nói tiếp:
- Đúng đấy! Cái thế của người Phú bây giờ là thế mạnh, người
ta muốn mở rộng buôn bán thu lợi, mà các quan Nam cứ ngăn cản. Cho nên, Súy phủ
Sài Gòn lại sắp đưa một đoàn binh thuyền ra đây, bắt phải mở sông Hồng cho
thông thương. Nhân dịp này ông Kê muốn tuyên truyền rộng ra để đưa đức ông lên
đây làm chủ miền Bắc Hà này. Có danh nghĩa là có dân tôn phù lên, còn sức mạnh
chính sẽ do người Phú giúp đỡ cho, thì xoay đổi thời thế dễ như trở bàn tay.
Thấy Bá Kim và Phủ Kỳ ngồi im, ra chiều đã xiêu xiêu, Lê Duy
Bá giảng giải thêm cho họ ngả theo hẳn:
- Thầy Bá có ý nghi ngại người không thực tâm giúp, rồi lại
hóa đem con bỏ chợ. Nghĩ như thế cũng có lý, nhưng việc bây giờ khác ngày trước.
Bây giờ người Phú đã đóng ở đây rồi, chỉ cần mở rộng buôn bán ra toàn cõi Bắc kỳ
này. Thế mà các quan của nhà Nguyễn lại cố chấp và bo bo ngăn cản họ. Cho nên họ
lại phải đem binh quyền ra lần nữa. Lần này thì họ vững và mạnh hơn trước nhiều.
Nếu bọn nhà Nguyễn chống lại, họ sẽ đánh chiếm lấy và lập riêng ra một nước
giao trả cho nhà Lê cũ. Lúc đó chúng ta đã có đủ công miếu, xã tắc để cũng buôn
bán hòa hảo với người Phú. Như thế là dân được yên, nước được lợi. Nếu nhà Nguyễn
chịu nhượng người Phú, mở cửa thông thương, giao cả mọi nơi trọng yếu cho người
Phú, thì chúng ta đây, có dân theo, chúng ta sẽ có được những quyền vị đích
đáng để giao thiệp với người Phú. Đằng nào thì người Phú cũng không bỏ rơi
chúng ta, vì chúng ta nắm được dân, làm lợi cho người Phú. Ở các nơi như Thanh
Hóa, Ninh Bình, Quảng Yên, Hải Dương, tôi đều có hộ bạ cả rồi. Do đó, nhân có
thầy thông đây quen biết các thầy, đã đi lại chơi thân, tôi cũng muốn nói rõ để
các thầy biết, vì sự thanh khí và cũng vì lợi chung cho cả dân cả nước, mà cùng
mưu nghĩa lớn...
Thông Lộc cũng nói thêm:
- Chủ trương của người Phú mở rộng buôn bán đã có từ lâu,
nhưng tôi chưa dám nói rõ với các ông, vì hai lẽ: nói sợ các ông chờ quá lâu để
sốt ruột ngã lòng; vả còn phải thử xem tâm tình các ông thế nào đã chứ. Nay đã
biết các ông đều là những người thức thời đạt lý, biết quyền biến nên mới ngỏ
cũng nhau; hơn nữa, việc kíp rồi, mai mốt binh thuyền của người Phú ra đây, thế
như chẻ tre rồi mới bảo các ông thì hơi muộn và không cần nữa. Các ông có tin
hay không, cứ hỏi ông Phạm Quang Diệu sẽ rõ. Các nơi người ta đã theo về như đi
chợ cả.
Phủ Kỳ thành kính nói:
- Bẩm tâu đức ông, nhờ âm công, âm đức, hạ dân chúng con được
đức ông đoái thương tới, vạch rõ cho biết đường họa phúc, chúng con xin cắn cỏ
ngậm vành. Dám mong đức ông truyền bảo cho lệnh phải làm gì từ lúc này.
Lê Duy Bá nghiêm nghị nói:
- Các thầy đã biết ngóng theo cờ nghĩa, thế là tốt. Đáng lẽ
phải đợi đến một cuộc họp lớn, tế trời đất, uống máu ăn thề, rồi mới ban bố mệnh
lệnh. Song nghĩ tình quyến cố 16 ta cũng tòng quyền tiếp nhận các thầy vào
hội nghĩa, và ban phép cho các thầy tuyển mộ thêm người trung nghĩa và dò xét mọi
tình hình phòng bị của vua quan nhà Nguyễn ở địa hạt mình. Nếu làm gì có hại
cho hội nghĩa, thì gươm thiêng còn đó, phép nước quyết không tha...
Thông Lộc cười vui vẻ nói:
- Nói gần nói xa, chẳng qua nói thật. Rốt cục lại chỉ là cổ động
lấy thêm người hướng theo nghĩa, cũng như chúng tôi làm hôm nay với các ông ấy
mà. Có người rồi có việc. Các ông cần cổ động cho các hào kiệt trong vùng biết
rõ tình thế và chí hướng của đức ông đây.
- Bữa tiệc kết thúc giữa bầu không khí vui vẻ, nhất trí, trong
đó mọi người đều như là hiểu biết nhau, đã căn dặn nhau những việc cụ thể trước
khi chia tay. Ăn tráng miệng và uống nước xong, Lê Duy Bá và thông Lộc đứng lên
cáo từ ra về. Đào Trọng Kỳ và Bá hộ Kim đứng lên kính cẩn theo sau tiễn chân ra
đến cổng. Khách vừa ra đến giữa sân, cô Xuyến, con gái Bá Kim ở ngoài về không
biết có khách, chạy rảo cẳng vào sân, vội đứng sững lại chào hai ông khách, rồi
nhẹ nhàng nhanh nhẹn rẽ tạt xuống nhà ngang đối diện. Thấy cô gái ăn mặc nâu sồng,
áo đồng lầm quần nái thâm, nhưng duyên dáng và lộng lẫy, Lê Duy Bá nhìn theo
mãi, cho đến khi ra đến cổng, còn ngoảnh lại trông vào phía nhà ngang và cười gật
đầu chào Bá Kim. Thông Lộc đi nén lui lại sau, đứng bên Bá Kim ghé miệng khẽ
nói vào tai:
- Đức ông tuy đã ngoại tứ tuần, nhưng nội trợ kém người chưa
có ngôi chính thất, ngài khó tính, nhưng vốn nghe tiếng lệnh ái, nay được thấy
bóng hồng, ngài ngẩn ngơ nhìn mãi. Nay mai bốn bể một nhà, cung phi hoàng hậu hẳn
là có nơi.
Bá Kim vội nói:
- Dạ, chúng tôi bạc đức, và tiện nữ kém hèn, không dám ngóng
trông.
Đào Trọng Kỳ cũng nói xen vào:
- Có phúc thì có phận. Người ta có số cả. Nếu quả được như vậy
chúng tôi xin có lời mừng, nhỉ quan thông ngôn nhỉ!
- Đúng vậy! Thôi xin chào hai ông nhé! Cứ thế mà làm, rồi sẽ
đủ cả. Có cả vinh thê ấm tử, và con gái hiển đạt trông thấy.
Thông Lộc vừa chào vừa nói dài dòng. Trong khi Lê Duy Bá lặng
lẽ gật đầu chào lại Đào Trọng Kỳ và Bá Kim lần nữa. Hai vị khách đi khỏi. Bá
Kim và Phủ Kỳ trở vào, đi rẽ qua nhà ngang, thấy con gái ở trong bếp đi ra, Bá
Kim gắt hỏi ngay:
- Con nhà chết tiệt! Con gái nhớn như cái bồ mà vô ý vô tứ ở
đâu về mà chạy xô cả vào khách...
Cô Xuyến liến thoắng cãi:
- Con tưởng các ông ấy về rồi đấy chứ. Con vội đem cái giấy sức
về cho thầy.
- Giấy sức gì? Đâu? Bá Kim hỏi:
- Con để ở tráp trên nhà ấy, giấy quan Thượng sức cho tất cả
hàng khoa, hàng hào.
Bá Kim vội mời Đào Trọng Kỳ trở lên nhà khách:
- Mời quan bác vào chơi đã, để ta bàn cho kỹ.
Đào Trọng Kỳ lặng lẽ bước vào nhà khách, Bá Kim bước ngoặt
vào trong buồng bên mở tráp lấy ra tờ trát sức, đọc lướt nhanh đến chữ “sức cho
tất cả các chức sắc, văn từ Tú tài, võ từ Cai đội, hào từ Bá hộ trở lên hiện
đang nghỉ ngơi vô sự ở nhà chưa có chức phận gì, phải củ tập 17 dân đinh nơi mình, đợi lệnh ứng phó với sự
tráo trở của bọn Phú Lãng Sa. Dự phòng đầy đủ, mà không để lộ hình tích...” Lão
vội chạy ra nhà khách ném tờ giấy sức lên án thư trước mặt Đào Trọng Kỳ, lắc đầu
nói:
- Đây này bọn Tây sắp ra thật rồi, các quan ta đã đề phòng
chu đáo, bắt mọi người...
Đào Trọng Kỳ cầm lấy tờ sức đủng đỉnh nói:
- Lại cái lối đánh bằng giấy sức, nào ai lạ gì?
Bá Kim ngồi vào trường kỷ đáp:
- Bác hãy đọc cho rõ đã! Quan Thượng Hoàng này khác các quan
Thượng trước nhiều.
Đào Trọng Kỳ vẫn không đọc giấy sức, hỏi lại:
- Khác những gì? Bác nói lại cho tôi nghe nào? Xem có đúng.
- Này nhé! Bá Kim nói với vẻ tự tin quả quyết. Cụ lớn ngài rất
cương trực, thẳng thắn, không sợ quan trên, không chèn ép người dưới. Tôi biết
tính ngài từ chín năm trước khi ngài còn làm Án sát tỉnh Bắc. Ba năm nay, ngài
về làm Tổng đốc tỉnh này thì ai ai cũng rõ ngài rất mực trung trực là một. Hai
nữa ngài biết trọng vọng các vị khoa bảng, và trấn áp bọn cường hào...
Phủ Kỳ cười ngắt lời:
- Đó lại là điều bất lợi kia chứ. Mười năm trước, khi bọn Đồ
Phổ Nghĩa đến đây, cánh nhà nho muốn đánh, nhưng bấy giờ Tổng đốc Bùi Thức Kiên
lại khinh miệt bọn họ, ngăn cản họ, rồi bắt bớ, không cho họ đánh, nên tức nước
vỡ bờ, họ vùng ra. Còn bây giờ quan Thượng quý nhà nho, nhà nho tin quan Thượng,
nấn ná nước đến chân mới nhảy thì có là nhảy xuống sông...
Bá Kim cũng không chịu ngắt:
- Thì bác hãy cứ đọc tờ sức đã nào. Người ta dốc sức cả hàng
khoa hàng hào, vạch ra công việc cho mọi người cùng làm, cùng sẵn sàng đối phó
kia mà, có như trước kia đâu.
Đào Trọng Kỳ lật đi lật lại tờ giấy, vẫn cười nói:
- Tôi chỉ nhìn qua là biết quan trên sức bắt các thân hào
trong huyện Thọ này làm gì rồi, mà lại liệt tên rõ ràng đây nhé. Này Cử nhân Võ
Thạch, Cử nhân Kim Cổ, Tú tài Yên Thái, Tú tài Tự Tháp, Tú tài Nam Phố, Cai tổng
Bá hộ Cựu Lâu, Bát phẩm văn giai Phất Lộc... một sô một sốc. Bác cho như thế là
khác kia trước à?
Bá Kim đáp rắn rỏi:
- Phải! Người ta điều động và khuyến khích được tất cả mọi
người danh vọng đứng ra ngăn cản kẻ ngoài lấn cướp.
- Bọn Phú đã ra đến nơi rồi, Phủ Kỳ nói. Tôi thử hỏi bác, cái
giấy sức kia đưa xuống cho bác, bác đã đề phòng kịp chưa? Vả lại các ông quan
chỉ ngồi ở trên mà đưa giấy xuống giục, rồi chỉ tay năm ngón mặc kệ ai làm thế
nào thì làm, thì thử hỏi, ngộ nhỡ các ông quan thua rồi, hay đi theo Tây cả thì
bác và các thân hào trong huyện có đánh Tây nữa không? Biết theo ai mà đánh?
Hay lại cũng vẫn muốn làm gì thì làm?
- Thế chẳng nhẽ lại không sức gì cả, cứ im đi như mười năm về
trước, khi bác làm Tri huyện Thọ ấy à?
- Bác nên biết rằng sức hay không mà các quan cứ ở trên tỉnh,
trên huyện, không biết gì đến dân, thì cũng như không cả mà thôi. Các quan phải
lăn lộn với dân, bày mưu kế cho dân thì dân mới biết lối mà theo chứ. Hiện nay
có thế không? Tây nó sắp ra đến nơi rồi. Mà các quan lại có vẻ lui vào cố thủ ở
trong thành, đào thêm hào, xây thêm tường vít lấy cổng, không một vị nào ra
ngoài cả. Thế ngộ Tây, nó đánh mất thành rồi thì sao? Lúc bấy giờ dân theo ai
mà đánh giặc?
Không thấy Bá Kim nói gì, Phủ Kỳ cắt nghĩa thêm:
- Huống chi ông Lãnh sự Kê-la-đích khôn ngoan quỷ quyệt hơn
lão Đồ Phổ Nghĩa nhiều, ông ta nhũn như con chi chi, giao thiệp rất khéo với
quan và dân ở đây, không xảy ra điều tiếng gì, cánh nhà nho vì thế mà càng tin
quan Thượng, không thấy xôn xao như trước. Rồi đùng một cái, bọn Phú khác ở
trong kia ra, nó mới làm già bắt ép cả quan lẫn dân phải chiều theo ý nó, thì
thật trở tay không kịp nữa.
- Thế bác bảo tôi đừng làm theo tờ sức này để nó cột cổ tôi lại
buộc cho tôi tội phản quốc ấy à? Hay là bác muốn bảo tôi cuốn gói theo ngay
Giáo sư Lê.
Phủ Kỳ lại càng cười lớn nói:
- Ông này phát khùng lên rồi! Tuấn kiệt phải thức thời, tự
mình nhìn lấy chứ phải nghe ai! Tôi nói như thế để bác thấy rằng thế của người
Phú bây giờ vững và lợi hơn năm Dậu trước, còn thế của dân ta thì lại rời rạc
hơn, quan không dám tin ở dân, mà cánh nhà nho lại tin ở quan, nên không sôi nổi
như trước...
Bá Kim ngồi sát lại gần, hỏi khẽ, có vẻ chân thành:
- Vậy ý bác thế nào? Và bác bảo tôi nên làm như thế nào lúc
này?
- Tất nhiên không ai xui dại bác mà bác nghe. Phủ Kỳ nói
thong thả và nghiêm túc. Bác không muốn làm lớn, một lúc lên ngay Tổng đốc Thượng
thư mà bác cũng không muốn thiệt đến thân. Vậy thì cứ tình thế lúc này bọn Phú
thế nào nó cũng ra ngoài này, ít nhất nó cũng chiếm lấy tỉnh Hà Nội với con
sông Hồng Hà, rồi sau này nó chiếm cả Bắc kỳ để mở rộng buôn bán. Mưu mô của bọn
Phú như kẻ cao cờ, nó cứ đi lấn từng bước làm cho các quan ta không tài nào gỡ
được. Đã thế quan trên lại không tin mình, thì ta chỉ ư hử đợi thời, mà đợi
cũng không lâu đâu, chỉ là kể ngày kể tháng thôi. Trong khi ấy thì ta nên nghĩ
cách ngầm giúp Duy Bá...
Bá Kim đột nhiên hỏi lại:
- Bác có tin người Phú sẽ thực bụng giúp Lê Duy Bá không? Và
Lê Duy Bá sau này có thể khôi phục được ngôi nhà Lê thật không?
- Có! Đào Trọng Kỳ trả lời thong thả rành rọt. Vì tôi cho rằng
bọn Phú nhất định phải chiếm lấy Hà Nội, mà bọn quan tỉnh, nhất là quan Thượng,
không khi nào chịu giao nhượng, tất nhiên bọn Phú phải đánh. Mà nó đã đánh là
nó lấy được. Lấy được rồi, bọn nó muốn yên ổn mà buôn bán thu lợi nhiều, tốt,
nó sẽ giao quyền cho đức ông Lê Duy Bá lấy danh nghĩa là lập lại triều nhà Lê
mà làm vua đất Bắc này. Như thế là ta đã có tay trong giao thiệp được với đức
ông nhà Lê ngay từ đầu.
Bá Kim lắc đầu nói:
- Tôi thì tôi không tin như thế. Tôi cũng dự đoán biết nhất định
bọn Phú sẽ chiếm giữ Hà Nội và cả toàn cõi Bắc kỳ cũng như sáu tỉnh Nam kỳ vậy.
Nhưng tôi không tin bọn nó sẽ giúp cho Lê Duy Bá lên làm vua xứ này. Trước tiên
công đức nhà Lê không còn đủ để chiêu tập hào kiệt bốn phương theo về. Lê Duy Tự,
Lê Duy Ôn, Lê Duy Uân, trong mấy năm trước đây đã lần lượt nổi lên, lại lần lượt
bị giết tất. Thế là khí số của nhà Lê đã hết rồi, quỷ thần không vệ, trăm họ ít
theo. Huống chi bọn Phú đến đây cốt mưu lợi cho chúng, chúng cứ lấn dần từng bước
chắc chắn, vua quan bản triều cứ nhượng dần, hoặc có ông quan cương trực sắc
sói, thì nó tìm cách triệt đi, hoặc là dùng quân lính mà đánh chiếm lấy, rồi
sau lại đặt những kẻ nào theo chúng nó lên nắm quyền. Thế thì tội gì nó lại lập
ra một nước nữa cho rắc rối.
Đào Trọng Kỳ sừng sộ hỏi lại:
- Thế ông bảo làm sao mà nó lại nuôi và trọng vọng Lê Duy Bá
như thế? Nó nuôi cho ăn hại à?
- Ấy, đi đồng đất nước người xa lạ − Bá Kim nói – nó phải
phòng xa thế, đề phòng mọi mặt, để ngộ nhỡ lúc cùng ra đi phải dùng đến thì có
ngay người lập ngay lên làm vua, để có danh nghĩa mà giao thiệp. Hơn nữa nuôi
Lê Duy Bá không khi nào thiệt cả. Chỉ dùng để dò xét tình hình rồi trình bày tỏ
thẳng ngay với họ thông qua thông ngôn phiên dịch cũng lợi lắm rồi.
- Thế thì như bác nghĩ, không nên giúp Lê Duy Bá à?
- Không nên! Bá Kim nói một cách dứt khoát, có nể thông Lộc
thì cứ ư hử cho qua lời thôi. Chứ làm đĩ chín phương cũng nên để một phương lấy
chồng chứ. Tôn phù Lê Duy Bá, lập ra một nước của vua Lê để đánh nhau với vua
quan nhà Nguyễn, thì rồi tôi và bác có được lợi gì? Hay là hai bên đánh nhau,
dân chúng chết, chúng ta ở gần sẽ bị cháy thành vạ lây, mà chung quy chỉ lợi
cho người Phú thôi. Huống chi trong lúc đang có vẻ cấp bách này, mà mình cứ thập
thò không khéo là cụ thượng này cụ có thể trừ khử khỏi ngay tức khắc cho mà
xem, cho nên, lúc này, đệ cho ngồi yên là thượng sách.
- Thế bác định lờ người ta thật à? Bấy lâu gắn bó vừa có vẻ
thề thốt nặng lời mà lờ ngay được?
Bá Kim thủng thẳng nói:
- Lờ được thì cứ lờ. Này nhé, bọn họ vừa nói binh thuyền Phú
sắp ra, mà các quan thì sức xuống đề phòng như thế, rõ ràng việc đã đến nơi rồi!
Thì ta cứ việc ngồi mà đợi, đâm bổ vào làm gì, vừa khổ cho mình và làm khó khắn
thêm cho việc nước. Còn dại nào hơn?
Đào Trọng Kỳ ngồi im lặng suy nghĩ. Bá Kim với cái điếu đóng ở
trên yên thư vít xuống để vào môi hút thử kêu sòng sọc. Chợt ở ngoài sân có tiếng
người láo quáo. Lão buông xe điếu trông ra. Tú tài Nam Phố Lương Huy Cẩn đã bước
vào nhà. Lão vội đứng lên chắp tay chào hỏi:
- Thầy Tú đã tiếp được tờ sức này chưa?
Ông Tú ngồi xuống trường kỷ, mắt trông theo tờ giấy để trên
bàn, nói ngay:
- Nhận được rồi! Tôi đến tìm bác Cử để bàn cách luân hành cho
phải phép.
--------------------------------
Un, deux: một, hai. Tiếng đếm của binh lính đi đều bước. |
|
Binh bảo vệ cho sự buôn bán để nuôi quân. |
|
. Corvée: hình phạt làm việc lao động nặng nhọc. |
|
Capitaine: quan ba. |
|
Consigne: phạt giam. |
|
Mới gặp như đã biết nhau lâu rồi. |
|
Học không chán, bảo không mỏi. |
|
Lương đống là rầm và cột – Người tài giỏi ví như rường cột
của nhà của nước. |
|
Cờ gặp tay tương đương đối địch. |
|
Xích tử là con mới sinh ra. Ở đây nghĩa là dân (đối với
vua). |
|
Quốc tộ: vận may của quốc gia. |
|
Toi (đọc là toa) tiếng Pháp, dùng trong cách xưng hô thân mật
hoặc suồng sã – (Mày nhỉ! Đằng ấy nhỉ! Cậu nhỉ!...) |
|
Chính trị hà khắc. |
|
Việc giống nhau nhưng cái thế thì khác. |
|
Dòng dõi chính. |
|
Tình lưu luyến tưởng nhớ đến luôn luôn. |
|
Tụ họp, tập hợp. |
Chương II
Phòng khách của tòa Lãnh sự trong khu nhượng địa là một căn
nhà gạch rộng và vuông trông ra cái vườn hoa, thẳng ra sông. Phòng bài trí sơ
sài theo lối Tây, chỉ có một bộ ghế bành, bốn chiếc kiểu tàu sơn son, tay vịn
và lưng tựa đều chạy viền chỉ vàng. Ở giữa có một cái bàn vuông cũng sơn son chạy
chỉ vàng. Trên bức tường giữa sát trần, treo một bức hoành sơn then, chung
quanh viền chạm nổi thếp vàng đóng khung lấy bốn chữ “Tự viễn phương lai” nét
to thếp vàng rực rỡ. Tên Thiếu tá hải quân Hăng-ri Ri-vi-e đang tiếp khách ở
đây. Hắn ngồi vững vàng sừng sững lên một chiếc ghế, hai tay để lên tay vịn, hắn
rún rún không thấy rung chuyển gì, lấy làm đắc chí, đưa tay lên xoa vuốt hai
hàm râu ở hai bên má, cười vui vẻ nói với hai người ngồi ở hai ghế đối diện:
- Vững lắm? Cái thế của chúng ta cũng vững như thế này đấy
các vị ạ. Tôi đi đã nhiều, nhưng không biết làm sao, tự nhiên đến đây, tôi lại
thích có bộ sa-lông này ở cái phòng khách này, sao mà nó ăn ý thế, ghế thanh
thâu mà vững chắc, phòng quang đãng mà cảnh trí nên thơ. Tôi đâm phục ông Kê
đây có tài biết chọn những cái hay, cái đẹp ở đây đem hòa hợp với phong độ của
ta... làm cho ta đã văn minh, đã đẹp lại càng văn minh và càng đẹp hơn ở đất lạ
quê người...
Biết Ri-vi-e vốn hiếu thắng lại có máu văn chương, Kê-la-đích,
chủ nhân khu trường Tây này lại lựa lời nói chiều ý:
- Ấy thưa ngài Thiếu tá, xa quê lạ người, thì cũng phải lựa
chọn những dụng cụ và lề thói của người ta ở đây mà dùng cho nó đỡ lạc lõng và
xa lạ. Bộ ghế này là của Bang trưởng Huỳnh Lục Ký Hàng Ngang mua cho. Còn bức
hoành này là của Hội quản Khách trú tặng. Bày biện thế này vừa tỏ sống theo như
họ, quý trọng họ và giữ cho họ tin theo mình...
Hắn quay sang nhìn, nói với người ngồi ở ghế bên, ngang thẳng
với Ri-vi-e:
- Thưa đức cha, đấy là con tuân lời đức cha dạy bảo và học tập
các cha ở bên Nhà chung đấy ạ. Các cha ăn ở như người bản xứ vậy, nhà cửa đồ ăn
thức dùng, nhất nhất đều như người dân thường vậy.
Ông giám mục cười, gật đầu và không nói. Ri-vi-e vui vẻ nói
tiếp:
- Cảnh trời quang đãng, màu xanh xa xa đằng kia phản chiếu xuống
màu nước đỏ, đưa không khí mát rượi vào đây. Khí hậu này là khí hậu Pa-ri. Đây
là Pa-ri trên sông Hồng. Bầu trời này là của chúng ta. Tôi được lệnh ra đây để
mở rộng và khẳng định bầu trời này là mãi mãi của chúng ta.
Hắn quay ra nói riêng với ông giám mục:
- Thưa đức cha, Chính phủ Cộng hòa và các giới kinh doanh
buôn bán sẽ vô cùng biết ơn đức cha và các cha cố đã lặn lội chịu đựng gian khổ
mở nước Chúa ở cái xứ Bắc kỳ này, truyền đức tin cho bọn dân nghèo khổ ở xứ này
biết hướng theo đức Chúa, đồng thời do đấy giúp cho nhà nước chúng ta mở rộng
khu vực buôn bán ở đây, biến nơi xa lạ này làm bầu trời tươi đẹp của chúng
ta... Thưa đức cha, đúng như đức cha vừa nói “không có các cha cố và con chiên
bản xứ, thì người Phú đến đây cũng sẽ chỉ như con cua mà người ta đã bẻ hết
càng”. Tôi mong mỏi được thừa tiếp đức cha chính là để tỏ rõ lòng biết ơn và
tin cậy của tất cả cánh quân nhân hiện có mặt trên đất này.
Cố Phước, ông giám mục chính là cố Phước, tức giám mục
Puy-gi-ni-ê ở tòa Giám mục Sở kiện, mới được Đội Diệu về mời lên bàn kế hoạch tấn
công, đã nghe rõ mọi ý kiến trình bày và những lời tâng bốc, giờ mới lên tiếng
tỏ ý nghĩ của mình, vừa nhìn Ri-vi-e vừa đưa tay lên xoăn xoắn vê từng sợi râu
vừa nói:
- Ngài Thiếu tá nói được như vậy, Nhà chung và bổn đạo chúng
tôi lấy làm hài lòng và cảm ơn. Nhưng xem những điều ngài vừa trình bày có ý dựa
vào triều đình Huế, tôi e rằng có thể lại đi theo cái lầm của ông Gác-nhi-ê năm
trước chăng?
Ri-vi-e rún mình rung rung trên ghế và nói:
- Vững lắm! Thưa đức cha vững lắm, sẽ không suy suyển gì cả
vì thưa đức cha, bây giờ với chín năm trước hoàn toàn khác nhau. Trước hết, tôi
gần 60 tuổi đầu phải hơn hẳn anh chàng Gác-nhi-ê mới ngoài ba chục tuổi. Vả tôi
đã dẹp tan bọn loạn đảo Tân thế giới, và mới đây tôi đã thuyết phục vua
Nô-rô-đôm nước Cao Miên giao toàn quyền mua bán thuốc phiện và toàn quyền kinh
tế cho người Phú chúng ta. Còn về thế, thì bây giờ ta có nhiều lợi thế hơn trước.
Chúng ta đã có một cơ sở vững vàng cả về vũ lực và về tinh thần ở ngay giữa Hà
Nội này rồi. Lại được ông Lãnh sự đây rất khôn ngoan, từ trước đến nay đã giữ
hòa hảo được với quan với dân ở đây, dân họ không tức tối như hồi ông Đuy-puy đến.
Rồi đùng một cái tôi ra, tôi có làm gì quá mạnh, họ sẽ giở tay không kịp. Về
phía vua, quan thì ông ở Huế đã báo cho tôi biết những đề nghị của bọn quan Sơn
Tây Hà Nội xin đem quân đóng giữ trung du để bảo vệ đồng bằng đều không được chấp
nhận; còn ở Hà Nội này thì lệnh vua bắt phải cử một quan văn và một quan võ cao
cấp chia san bớt quân đem ra ngoài thành tìm chỗ đóng quân để cùng với dân tìm
kế phòng giữ. Lệnh ấy ở đây họ không thi hành; họ tập trung vào cả trong thành.
Đó là điều rất lợi cho ta...
Hắn vội đứng lên mở cái cửa sang phòng bên gọi tên thông ngôn
Phong sang, hỏi và bắt thuật rõ việc hắn giao thiệp, dụ dỗ Tôn Thất Bá về nhà,
Bá thuyết phục các quan khác như thế nào. Tên Phong kể xong đầu đuôi mọi sự việc,
Ri-vi-e đuổi hắn ra ngoài và trở lại nói rõ với hai người:
- Những tin tức trên đã điều tra lại và được xác nhận là đúng
cả. Quan Án sát là người hoàng phái, nếu mua chuộc được hắn, ông ta đứng về
phía chúng ta thì hay, bằng không thì cứ như thế này cũng lợi lắm. Còn ông Tổng
đốc là người cứng cỏi, có thể ông ấy không chịu nghe theo ta, nhưng cách đề
phòng của ông thu gọn vào thành như thế, nếu cần thiết, ta cứ đánh vào thành bắt
ép ông phải theo.
Cố Phước hỏi:
- Ngài Thiếu tá đã gặp trực tiếp ông ta chưa?
- Thưa đức cha, tôi đã hội kiến với ông ta, một lần xã giao
đáp lễ, một lần chính thức nói đến công việc của ta ra đây là đòi mở sông Hồng
ra buôn bán và đuổi quân Cờ đen. Ông ấy đều chối và đợi mệnh triều đình. Nhưng
tôi vẫn cứ lấn được. Tôi đòi được đóng quân ở trường thi, ở tòa Thương chính
trên cửa Ô Quan Chưởng. Ông ấy đều phải nhận cả rồi. Và tàu của ta đi lên Bạch
Hạc, đi vào Ninh Bình, họ có dám ngăn trở gì đâu.
Lãnh sự Kê-la-đích hỏi:
- Đã có thế lấn dần như thế, thì việc đánh thành có cần thiết
lắm không? Có lẽ tránh đánh nhau vẫn hơn?
Ri-vi-e cười:
- Thưa ông Lãnh sự, việc này tôi làm, tôi chịu hoàn toàn
trách nhiệm, tôi sẽ không làm mất thiện cảm của người An Nam đối với ông đâu.
Chính ông đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi đánh thành đấy. Và người ta có chửi
kẻ thất tín là chửi tôi, chứ không phải chửi ông đâu tuy ông cũng đã nhiều lần
lấn vượt những điều đã ký kết. Nhưng mà sự thể có như thế này: kẻ thù gây khó
khăn chính cho chúng ta là bọn Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, chứ không phải quan lại
triều đình, chúng ta đã dùng bọn Cờ vàng để trừ Cờ đen, nhưng chỉ phí của tốn
công vô ích. Cho nên chúng ta phải dựa vào triều đình, buộc triều đình bắt ép
quan lại của họ phải lìa bỏ Cờ đen. Còn ông quan nào ngang ngạnh không nghe thì
ta tỉa dần. Đó là chủ trương của Bộ Hải quân và của Súy phủ Sài Gòn.
Hắn đi sang phòng bên cạnh rồi trở lại, tay cầm một tờ giấy vừa
đi vừa nói:
- Đây, tôi xin đọc lời quan Đô đốc Đờ-vi-le truyền xuống cho
tôi: “... Anh bắt quan triều đình phải nhượng đất để đóng thêm đồn, kiểm soát cả
sông Hồng, nếu họ không cho thì cứ lấy, không phải đếm xỉa tới họ, khi nào anh
thấy cần thiết. Vả lại tôi tin rằng họ không kháng nghị gì lắm đâu” và “... Đối
với chúng ta thì Cờ đen là cướp, anh phải đối phó với chúng như đối phó với bọn
cướp, nếu họ ngăn trở, anh bắt họ về Sài Gòn, tôi sẽ đầy họ đi Côn Lôn!”
Hắn ngồi xuống ghế đưa tờ giấy cho Kê-la-đích và nói:
- Đây ông xem, nhiệm vụ của ta rõ ràng như thế, mà cái thế của
ta, sau khi đã điều tra kỹ rồi, là có thể thực hiện được nhiệm vụ ấy, thì ta cứ
làm chứ. Tôi đã viết thư vào Sài Gòn xin thêm mười vạn viên đạn và 150 cân thuốc
nổ, và tôi được phép tập trung cả súng đạn của Sư đoàn Hải quân ở vịnh Hạ Long.
Và mấy hôm nay, tàu chiến của ta đi lên Sơn Tây, vào Ninh Bình là vừa để dò xét
tình hình và đồng thời vừa để làm sức ép cho các nơi sợ, nếu xảy ra chiến sự ở
đây họ sẽ không dám về cứu.
Cố Phước mỉm cười rung rung hàng râu hỏi:
- Lấn dần từng bước vững chắc và đánh tỉa từng tên, như thế rất
tốt. Nhưng nếu vạn nhất phải đánh nhau to, triều đình Huế ngoan ngạnh không chịu
nhượng thì ta có lập một nước ngoài Bắc này như dự định của ông Đuy-puy trước
không? Chắc ông Lãnh sự đã nói rõ với ngài Thiếu tá rồi. Nếu lập nước thì Lê
Duy Bá là người tài giỏi hơn những người trước kia nhiều, được hào kiệt các nơi
theo đông. Lại tổ chức chu đáo hơn, người nào, việc gì chức vụ quyền hành ra
sao, đã xếp đặt cả, động dụng đến là có ngay. Ông thử nghĩ xem.
Ri-vi-e vui vẻ nói:
- Cảm ơn đức cha đã nghĩ xa xôi và xử trí chu đáo như thế.
Nhưng về điểm này, như tôi đã nói với ông Lãnh sự mấy hôm trước đây, ta hãy để
lửng lơ, thong thả đã. Vì đấy là con bài nằm chờ, để đưa ra cuối cùng gỡ thế
bí, chứ bây giờ thì chưa nên. Nếu lập ra một nước khác đối chọi với triều đình
Huế thì triều đình nhà Thanh bên Trung Quốc sẽ có cớ đem quân sang cứu nhà Nguyễn.
Và nước Anh, nước Mỹ, nước Nhật cũng lăm le nhảy vào đất này. Rối ren về ngoại
giao cũng khó khăn như về quân sự vậy. Cho nên chúng ta phải thận trọng. Cùng lắm
ta mới phải đưa cây bài ấy ra. Bởi vậy, tôi đã nói rõ với ông Kê phải kín đáo
giữ gìn và kiềm chế cái anh chàng con cháu họ Lê ấy lại. Và nhân đây cũng xin
nhờ đức cha nếu gặp cũng khuyên giữ anh ta, chớ để anh ta bồng bột lộ liễu quá
sẽ có hại cho công việc chung và thiệt thòi cho chính bản thân anh ta. Thưa đức
cha nghĩ có phải không?
Cố Phước đáp thong thả như vừa nghĩ, vừa nói:
- Vâng, đằng nào có lợi chung cả thì phải theo chứ. Kể cũng
hơi tiêng tiếc, bao nhiêu công phu mới ra được một người và mới tạo ra được cái
thế có lợi như thế, mà không được đem ra dùng, thì cũng uổng phí quá.
- Thưa đức cha không phí đâu ạ! Tên Ri-vi-e cười cười ranh
mãnh trông sang Kê-la-đích nói tiếp:
- Vẫn có lợi chứ, ông Lãnh sự nhỉ. Tôi được đem quân ra đàng
hoàng như thế này chính là đã nhờ được đức cha và ông Lãnh sự đã tạo cho cái thế
vững vàng từ trước. Mà việc nuôi giữ anh chàng họ Lê đã góp vào đấy ít nhiều.
Sau này hắn cũng còn vẫn có lợi chứ. Nếu hắn không giúp ta về mặt chính trị,
thì hắn giúp ta về mặt văn hóa, kinh tế, tôn giáo và hơn nữa là về mặt trị an đất
này, nhất là hắn lại giỏi các tiếng nói Tây phương, khéo nuôi giữ thì rất có lợi
cho ta về sau đấy.
Cuộc bàn tính đến đây coi như là kết thúc. Ri-vi-e vui vẻ xoa
tay nói với cố Phước:
- Thưa đức cha, hôm nay may mắn được hầu tiếp đức cha, xin
trình người rõ mọi tình tiết để chúng ta cùng hành động thống nhất, làm lợi cho
nước Đại Phú chúng ta. Những điều này tôi đã bàn kỹ với ông Kê-la-đích cả. Xin
trình thêm để người rõ rằng: Tôi ra đây kể đến hôm nay vừa đúng 15 ngày. Một nửa
tháng trôi qua vẫn có lợi cho ta từng bước. Mấy lần tôi đi qua thành phố, thấy nhân
dân im lặng như đợi chờ một cuộc xung đột. Họ chờ, nhưng họ không thể chủ động,
vì quan dân họ không thống nhất như ta, nên họ đã bị động lại càng sẽ bị động
hơn, nếu khi xảy ra đánh nhau.
Rồi hắn đứng lên trước, mời hai người:
- Nào thưa đức cha, thưa ông Lãnh sự, trước khi vào dự bữa tiệc
thân mật của ông Kê là chủ nhân khu này đãi chúng ta, tôi xin mời ra ngoài này
hóng cái mát mùa xuân khí hậu như ở Pa-ri và nhìn con sông Hồng nước đỏ phù sa
mà ngẫm nghĩ đến cách chinh phục con sông ấy, làm lợi cho cái Hà Nội này mà là
làm lợi cho đất nước Đại Phú chúng ta...
Hắn vịn tay vào cố Phước vừa dìu đi vừa nói:
- Thưa đức cha, chúng ta luôn luôn ở thế chủ động tấn công,
nên tôi dám cam đoan với đức cha rằng chúng ta sẽ làm chủ tất cả Bắc kỳ này, và
tôi sẽ do con đường Bắc kỳ này mà vào viện Hàn lâm, đức cha sẽ do dịp này mà
làm sáng danh Chúa và ban phúc lành cho vạn vạn con chiên đang ngưỡng vọng đức
cha...
Hắn cười trông sang Kê-la-đích nói lấy lòng:
- Còn ông Lãnh sự thì trở thành một nhà ngoại giao lỗi lạc...
Kê-la-đích đã đi ra đến vườn hoa đứng lại nói:
- Nhà ngoại giao lỗi lạc là vì nhờ có vũ lực đi trước.
Cố Phước vội chữa cho vui:
- Phải có đủ cả văn võ toàn tài thì mới làm nên sự nghiệp lớn
chứ. Chúng ta là người phương xa đến đem đạo Chúa cứu vớt sinh linh, đem văn
minh khai hóa xứ này thì phải vừa có ân, có uy, dân ở đây họ mới phục. Cho nên
tôi thấy cái bức hoành của người Tàu tặng ông Lãnh sự treo ở nhà khách kia, vẻn
vẹn có bốn chữ mà ý nghĩa rất hay. Đó là lấy ở câu nói của ông Khổng Tử: “Hữu bằng
tự viễn phương lai bất diệt lạc hồ” là “có bạn từ phương xa đến chẳng cũng vui
ư” thì bốn chữ “Từ phương xa đến” kia chính là ngụ ý coi chúng ta là bạn đấy.
Là bạn thì phải có sức mạnh mới bênh vực che chở được người ta chứ...
Ri-vi-e vui sướng nói tiếp theo:
- Vâng! Bẩm đức cha dạy đúng quá. Muốn gì thì gì cũng phải có
tài khôn ngoan và sức mạnh mới có thể chinh phục được người khác...
Ba người đi dạo chơi vườn hoa, vòng quanh cả khu trường Tây,
rồi trở về phòng ăn của Lãnh sự cùng ăn tiệc với đông đủ các quan cao cấp trong
tòa Lãnh sự và trong quân đội. Tiệc tan Hăng-ri Ri-vi-e tiễn chân cố Phước trở
về Nhà chung và từ biệt Kê-la-đích, rồi quay vào phòng làm việc riêng. Hắn mở cửa
sổ ra sông cho gió lọt vào, hắn ngồi vào viết, hai tay xoa râu má ra chiều suy
nghĩ. Tự tin ở kế sách của mình, lại thấy đã được những người lão luyện am hiểu
địa phương đồng ý hắn lấy giấy bút ra viết bức thư gửi về Pa-ri báo cáo lên Bộ
trưởng bộ Hải quân và Thuộc địa Giô-rê-ghi-bê-ry. Hắn viết nắn nót mấy dòng mào
đầu thủ tục:
“Hà Nội ngày 17 tháng 4 năm 1882.
Kính gửi Tướng Giô-rê-ghi-bê-ry
Bộ trưởng bộ Hải quân và Thuộc địa ở Pa-ri”.
Rồi hắn cóc nhảy bỏ mấy dòng, viết liến thoắng ghi nhanh mấy
ý chính thành những câu:
“... Tuy tôi đồng ý rằng cần phải chiếm cứ đồng bằng Bắc kỳ bằng
cách từ từ có tính toán, tôi vẫn xem là rất nguy hại, nếu để thành Hà Nội ở
trong tay người An Nam vì nó là một uy thế tinh thần và một lực lượng vật chất
mà một ngày kia sẽ phải tính đến. Nếu ta lấy thành thì không cần phải giữ,
không cần phải ở trong đó. Cứ cách phòng thủ mà ở ngoài khu nhượng địa của ta,
dựa vào mé sông và giao thông dễ dãi, thì vẫn là hơn ở trong cái bộ máy cồng kềnh
và bất tiện này (1.200 mét mỗi bề). Chỉ cần làm cho thành trở thành vô dụng, bằng
cách phá cửa, phá các đại bác, vứt đại bác xuống hồ và phá hai ba chỗ trong
vách thành... chiếm giữ thành này rồi, chúng ta sẽ thống trị cả tỉnh về mặt
quân sự. Rồi chúng ta sẽ chiếm những cứ điểm Sơn Tây, Nam Định, Bắc Ninh, chúng
ta sẽ dễ dàng chiếm cả một vùng lớn dọc theo sông Hồng. Lợi thì to, mà không tổn
công gì mấy...”
Ghi lấy điểm chính như trên, đọc lại một lượt, chấm câu cho
rõ ràng hơn, hắn lấy một tờ giấy khác, viết lại chép sang thành một thư chính
thức gửi trình lên ngài Bộ trưởng bộ Hải quân và Thuộc địa.
° ° °
Hăng-ri Ri-vi-e đã thực hiện dần từng bước đúng những dự định
của hắn. Từ hôm ra tới ngoài này tức là ngày 3 tháng 4 cho đến hôm nay, 24
tháng 4, vừa đúng 20 ngày, hắn đã đòi các quan lại triều đình nhượng bộ từng việc
không hề có ghi trong điều ước. Và giờ đây, hắn biết rằng đòi quá mức nữa không
khi nào họ có thể chấp nhận, hắn bèn đi đến quyết định cuối cùng như đã báo cáo
về Bộ Hải quân, tức là phải đánh chiếm thành Hà Nội. Đêm hôm đấy hắn gọi thông
ngôn Phong vào dịch bức tối hậu thư hắn đã viết xong ra chữ nôm để sáng mai gửi
kèm với bản chính vào cho Tổng đốc Hoàng Diệu bắt nộp thành cho hắn. Khác với mọi
lần trước, lần này hắn cười bảo thông Phong:
- Anh không cần phải giữ giọng khiêm tốn hòa nhã nữa. Anh cứ
viết bằng những lời lẽ quyết liệt hơn tiếng nói của tôi để ông ấy không thể nào
chịu nhân nhượng được nữa, để có cớ mà đánh thành, đã đến lúc ta cần phải chiếm
lấy rồi.
Thông Phong vâng lời dịch tóm tắt mấy ý chính trong tờ thư ra
như sau:
“... Thiếu tá Hải quân nước Đại Phú Lãng Sa hạ lệnh cho Tổng
đốc tỉnh Hà Nội Hoàng Diệu tuân:
Bản chức đòi ông phải giao thành theo những điều kiện nói
ngay đây: Ngay ngày hôm nay, sau khi tiếp được thư này, thì ông phải ra lệnh
cho quân đội của ông ra khỏi thành sau khi đã hạ hết khí giới và mở cửa thành.
Để cho bản chức tin rằng ông thi hành những điều trên thì ông phải tự nộp mình,
cả các ông Tuần phủ, quan Bố, quan Án, Đề đốc, Chánh lãnh binh và Phó lãnh binh
phải đến nộp mình ở dinh bản chức đúng 8 giờ sáng.
Nếu đúng 8 giờ sáng, ông không thân hành đến Lãnh sự quán,
nơi bản chức đóng với tất cả những viên quan kể trên cho bản chức biết rằng ông
đã tuân theo những điều kiện của bản chức, thì quân đội Phú sẽ lập tức tấn công
thành”.
Mờ sáng ngày hôm sau, tức là 5 giờ sáng ngày 25 tháng 4 năm
1882, đúng vào quãng ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ, bức tối hậu thư ấy được
chuyển vào cho Tổng đốc Hoàng Diệu. Nhận được thư quan Tổng đốc ủy Án sát Tôn
Thất Bá đem thư ra ngoài thành thương lượng hoãn kỳ hạn trả lời một ngày. Tôn
Thất Bá được dòng dây từ trên tường cao tụt xuống ra khỏi thành, cho người đem
thư cho Ri-vi-e, rồi bỏ trốn vào làng Mọc. Lấy làm đắc chí, chưa đến 8 giờ
Ri-vi-e đã hạ lệnh xuất quân bao vây ở phía cửa Bắc và cửa Đông, ba chiến hạm
cũng tiến lên bỏ neo gần phía cửa Bắc. Tám giờ đúng, các đại bác địch nhả đạn bắn
vãi vào thành, hướng tấn công chính là cửa Bắc và các ụ súng, pháo đài phía tây
và tây bắc, còn ở cửa Đông, toán quân ở Đồn Thủy tiến lên chỉ là phô trương
thanh thế để làm lạc hướng và chia lực lượng quân ta ở trong thành. Trong này
quân ta bắn trả lại dữ dội. Nhân dân các phố đông tự thiêu hủy các phố nhà lá
nhà gỗ bên thành làm thành một bức tường lửa ngăn cản địch tiến và buộc địch mấy
lần phải rời ổ đại bác. Nhưng lửa cháy không lâu. Đến 10 giờ rưỡi tường lửa hạ
xuống, quân Tây băng qua chiến hào đầy nước và bùn. Tổng đốc Hoàng Diệu cùng với
Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng chia đường đốc thúc quân lính chiến đấu. Một phát đại
bác bắn vào trúng kho thuốc súng, nổ cháy rực trời làm rối loạn hàng ngũ quân
lính. Quân Pháp bắc 40 chiếc thang trèo lên tường thành vào được bên trong,
nhưng ở phía cửa Bắc có nhiều tường đất ngăn trở, địch phải dùng nhiều thuốc
súng mới phá vỡ được mở đường tiến quân. Thành bị hãm lúc 11 giờ, Tổng đốc
Hoàng Diệu thắt cổ tự tử ở vườn Vũ Miếu, Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng bị bắt khi
đang chạy đi tìm quan Tổng đốc. Các quan khác chạy trốn cả, quân lính rút hết
ra khỏi thành, quân Pháp còn nhặt được 40 người chết và 20 người bị thương.
Được tin đã chiếm hoàn toàn được thành, Ri-vi-e đang ở dưới
tàu chiến, vội lên bộ, vào thành đi thẳng vào hành cung nghe các toán quân về
báo cáo tình hình chiến sự. Khi nghe nói Tổng đốc Hoàng Diệu đã tự tử hắn không
tin, hỏi:
- Các anh đã tận mắt trông thấy chưa?
- Dạ, thưa ngài Thiếu tá, chưa ạ, cũng chỉ nghe nói trong đám
loạn quân.
- Thế thì chưa tin được, Ri-vi-e nói, có thể là ông ấy rút hết
quân ra ngoài để bao vây ta vào trong rồi cùng các lực lượng nhân dân ngoài
đánh vào. Vậy phải chú ý chia cắt quân đề phòng canh giữ các ngả ngay. Và giữ
chặt ông Tuần phủ để làm con tin.
Sau khi nghe thuật rõ số khí giới thu được, số thóc gạo trong
kho còn nguyên và số tiền mặt như đồng bạc con cò và quan tiền kẽm còn ăm ắp,
Ri-vi-e tươi cười nói với Lãnh sự Kê-la-đích lúc ấy mới được mời vào xem.
- Nếu ông Tổng đốc rút lui, mà bỏ lại làm quà cho chúng ta
nhiều thế này thì thật chưa phải là con người cầm quân. Có lẽ ông ấy chết thật
rồi chăng? Hay là ông ấy dùng mẹo gì đánh lừa ta?
Kê-la-đích nói:
- Nếu ta là kẻ bị động từ xa mới đến thì mới sợ mắc mẹo, còn
đây chúng ta là kẻ chủ động tình thế cơ mà. Tôi cứ xin cho ngài Thiếu tá một
đêm tốt lành ngủ ở nơi chiến thắng. Mọi việc ngày mai đâu sẽ vào đấy, ta tìm
quan Án sát về là xong.
- Vâng, việc đó xin nhờ ông Lãnh sự, Ri-vi-e vừa nói vừa cười.
Nhưng mà ông ạ, con nhà tướng cẩn thận vẫn hơn, tối nay tôi cũng xin theo ông về
Đồn Thủy cho yên chí đợi đến ngày mai.
Hắn liền đứng lên cùng với Kê-la-đích đi quan sát trong
thành, xem xét những nơi công sự chủ yếu. Hắn ra lệnh đặt quân canh giữ từng chỗ
cần thiết, rồi giao quyền chỉ huy trong thành cho quan ba Vi-dê, hắn cùng với
Lãnh sự trở về khu nhượng địa Đồn Thủy...
Sáng hôm sau, theo thường lệ, hắn dậy sớm và cho mời
Kê-la-đích sang cùng ăn điểm tâm và bàn cách đối phó với tình hình mới. Hắn vui
mừng nói với Kê-la-đích:
- Thế là một đêm đã đi qua yên ổn... rất có lợi cho ta! Nếu
như ông Tổng đốc biết cầm cự đánh nhau với ta đến ngày hôm nay thì rồi các toán
quân của dân, của văn thân, của hào lý sẽ tới tấp kéo đến đây tăng viện, sẽ làm
cho ta khó khăn rất nhiều...
Hắn quay sang phòng bên gọi thông Phong và hỏi:
- Anh đã tìm được quan Án chưa?
- Dạ đã biết được chỗ ông ấy trốn, thông Phong đáp, cho người
đi tìm rồi, thì có lẽ sáng hôm nay họ mới về được. Hắn ngập ngừng nói tiếp: Dạ
thưa ngài Thiếu tá, ngài rõ cho: đương là thời chiến sự thế này, sáng nay họ về
được đến đây cũng là chóng đấy ạ!
Ri-vi-e cười vui vẻ đáp:
- Xin lỗi, vì một đêm yên ổn quá nên tôi cứ tưởng là đã lâu rồi.
Nhưng anh phải cố tìm quan Án ngay tức khắc, càng sớm càng tốt...
Bỗng ở ngoài tiến vào một sỹ quan trẻ đứng nghiêm giơ tay lên
trán chào, và báo cáo:
- Thưa ngài Thiếu tá, dân sự kéo vào thành đông lắm xin mai
táng ông Tổng đốc, xin ngài cho lệnh đối phó.
Ri-vi-e đứng phắt dậy tiến lại gần tên sỹ quan vui sướng nói:
- Ông Tổng đốc chết thật rồi à? Tốt lắm! Rất có lợi cho ta.
Anh đi ngay bảo hễ không có khí giới thì cứ cho họ vào, quân ta phải theo dõi mọi
hành động của họ. Khi họ khâm liệm và đưa linh cữu ông Tổng đốc ra, quân lính
ta phải đứng nghiêm chào tiễn biệt. Và nếu đám ma có vẻ linh đình, cần thiết
ra, ta có thể cử một đoàn đi đưa đám. Làm thế chỉ có lợi cho ta thôi. Anh đi
ngay.
Tên sỹ quan đi rồi. Ri-vi-e quay vào ngồi xuống ghế, nói với
Kê-la-đích:
- Ông Tổng đốc là người bình tĩnh và kiên quyết, nay ông chết
là lợi cho ta lắm. Lòng can đảm và ảnh hưởng của ông, nếu ông sống, chắc hẳn là
gây nhiều rắc rối cho ta, nhất là nếu ông liên kết với Hoàng Tá Viêm ở Sơn Tây.
Ông chết sẽ có tác dụng giúp ta thắng thêm nữa. Nhưng không phải vì thế mà ta
phải giữ nghi lễ với ông. Ta để cho họ làm lễ mai táng, và quân đội ta bồng
súng đứng chào là cốt để họ hướng cả về đám tang được đưa đón công khai long trọng
ấy mà hết tức ta, không để ý gì đến ta. Và bây giờ thì chúng ta ăn điểm tâm đi
rồi vào thành, ông Lãnh sự ạ. Ta sẽ mời cả đức giám mục bên Nhà chung vào cùng
bàn.
Hai người cũng đứng dậy đi sang buồng ăn. Kê-la-đích vui vẻ
khoe:
- Hôm nay đặc biệt có món chiến lợi phẩm, món chim sâm cầm Hồ
Tây nổi tiếng mà ngày trước người ta đem tiến vua. Bây giờ đang mùa chim, các
quan bắt dân biếu tích sẵn ở trong nhà. Quân ta lấy được, tôi đem mấy con về
quay lên để ngài dùng thử mà xem, ngon và giòn lắm.
- Hay lắm! Ri-vi-e nói, của ngon thế mà họ cũng phải bỏ. Nghĩ
mà xem, giá ta đánh sớm hơn nữa cũng vẫn cứ thắng dễ dàng. Họ chuẩn bị đề phòng
thế nào mà với số quân đông gấp mười của ta, khí giới lương thực đầy đủ như thế,
thành lũy kiên cố như thế, mà chỉ trong nửa buổi đã tan rã, mà phải bỏ lại tất
cả mọi thứ thiết dụng. Hóa ra họ chuẩn bị chờ đợi triều đình ký hòa ước nhượng
bộ. Họ không nhất trí...
- Vì thế ta mới có được ông Án sát, Kê-la-đích nói, ngài Thiếu
tá định giao hẳn thành cho ông ấy chứ.
- Phải nhìn vào công việc, ông Lãnh sự ạ, chính nhờ có ông
giao thiệp tốt với các quan tỉnh, nên nhiệm vụ của tôi ra đây đã thực hiện được
dễ dàng. Chính vì họ không nhất trí nên ta mới mua chuộc được ông Án sát, nhưng
cũng chỉ là vì không nhất trí mà ông ta nghiêng về ta thôi, chứ cũng chưa làm
được việc gì thực sự vì ta. Cho nên tôi nghĩ hãy tạm giao cho ông ta để bắt ông
ta ép ông Tuần phủ cùng làm việc, giữ yên ổn vùng này, đợi triều đình đối xử ra
sao đã, và ông ta xử sự thế nào đã, rồi mới quyết định được.
Hai người cùng ngồi vào bàn ăn, vừa ăn vừa nói chuyện, cùng
thưởng thức món chim sâm cầm quay, ra vẻ tương đắc hợp ý nhau lắm.
Khi hai người vào đến thành, thi hài của quan Tổng đốc đã được
đưa ra nhà học chính đường rồi, dân chúng đi đưa đám đã kéo về cả đấy. Bên
ngoài cửa Nam vắng vẻ chỉ còn mấy chú lính Tây đứng canh ngoài và một số đứng lố
nhố ở trên chòi cổng. Án sát Tôn Thất Bá cũng vừa đến nơi, cùng đi với thông
ngôn Lộc từ cửa Nam vào, được đưa thẳng ngay vào hành cung. Ri-vi-e, Kê-la-đích
và thông ngôn Phong đã đợi sẵn ở đấy.
Ri-vi-e niềm nở hỏi đùa ngay trước:
- Quan Án ngài đi nhởn chơi ở đâu, hôm qua ngủ có yên giấc
không?
Thấy có vẻ hơi sỗ và thông ngôn chưa dịch hết câu, hắn nói tiếp
luôn:
- Chúng tôi mời quan lớn về giao trả lại thành. Quan lớn là
người hiểu biết, không cố chấp, quan lớn thử xét mà xem, với vũ khí và lòng
dũng cảm của quân lính của chúng tôi như thế, chúng tôi có cần gì cái thành
này. Chúng tôi cần buôn bán tự do và đuổi bọn Cờ đen để buôn bán dễ dàng và dân
gian sống yên ổn. Chỉ vì quan Tổng đốc không hiểu, lại tỏ ý chống lại chúng
tôi, cho nên vạn bất đắc dĩ đã xảy ra cơ sự này. Bây giờ thì sự đã rồi, đấy
quan lớn xem, chúng tôi vẫn thành kính tưởng niệm đến linh hồn quan cố Tổng đốc
và tiễn đưa di hài ngài một cách trọng thể...
Án sát Bá vội tỏ lời cảm phục:
- Vâng tôi biết, xin cảm tạ...
- ... Chúng tôi xin để tang lễ quan cố Tổng đốc được tiến
hành tự do theo tục lệ An Nam. Và giờ đây chúng tôi giao thành cho quan lớn, với
điều kiện là quan lớn giữ được yên ổn cả thành phố và trong tỉnh này. Trong khi
đợi được đúng như thế, chúng tôi còn tạm phải đóng lại ở trong thành, quan lớn
chỉ được để quân lính dưới quyền mình là 200 người với vũ khí thường thôi. Quan
lớn đồng ý chứ?
- Vâng tôi xin nhận.
- Quan lớn giữ được yên ổn và cắt bổ các quan thuộc hạ đâu ra
đấy, số tiền thu ở kho chúng tôi sẽ trả quan lớn.
Kê-la-đích nói xen vào:
- Việc trước tiên là quan lớn cố kéo được quan Tuần phủ cùng
làm.
Ri-vi-e cười lớn nói:
- Quan Tuần phủ giận chúng tôi, chúng tôi đưa cơm nước đến
ngài đều từ chối không ăn, ngài định theo quan cố Tổng đốc xuống suối vàng.
Nhưng quan Án ạ, tôi nghĩ quan lớn khôn khéo có thể mời ngài hồi tỉnh lại được
vì tôi nghĩ nếu thực bụng chết thì đã chết rồi, như quan cố Tổng đốc ấy, việc
gì phải nhịn đói cho khổ cái thân nhỉ quan lớn nhỉ?
Kê-la-đích và hai người thông ngôn cùng cười theo, làm cho
Tôn Thất Bá cũng cười. Cuộc hội kiến trở nên vui vẻ thân mật. Tôn Thất Bá nhận
mọi điều kiện và được đưa ngay đến dinh Tuần phủ gặp Hoàng Hữu Xứng. Ông này vốn
ốm từ trước, sau khi thành bị hãm đã nhịn đói không chịu ăn uống gì cả, bệnh đã
trở thành nguy kịch. Thấy Bá đến ông mắng chửi thậm tệ và đuổi đi. Nhưng Bá
khóc lóc lạy van mãi và kể lể cái thế của bọn Phú đang cần giao thành trả lại,
nếu mình không đứng ra nhận thì tội sẽ lại nặng hơn, chi bằng cứ nhận để đợi
quan triều đình ra thương thuyết. Hữu Xứng nghe bùi tai mới gượng dậy ăn chén
cháo rồi bàn với Bá cứ tạm quyền nhận thành, cho nên chuyện với người Phú, một
mặt tư cho các tỉnh bên biết, nếu trong lúc hoãn binh có thể thừa cơ đem quân về
đánh bật được bọn cướp nước đi thì cứ đánh, đồng thời, cùng dâng sớ chung về
triều xin chịu tội. Bá đều nhất nhất nghe theo, rồi cùng bàn đến việc chọn người
làm Tri huyện Thọ Xương cai quản 36 phố phường. Hai người đồng ý nhau cử Đào Trọng
Kỳ làm Tri huyện Thọ Xương kiêm chức Bang biện tỉnh vụ và Bá hộ Kim làm Trợ biện
huyện vụ chuyên việc tuần phòng trong phố phường. Vì họ cho rằng cả hai đều là
những người có chức tước đã cai quản hạt này và nhất là có cửa hiệu đã giao thiệp
với Tây. Như thế là Tây ta đều biết mặt, biết tiếng, rất dễ làm việc. Tôn Thất
Bá liền viết công văn đề bạt hai người, cho lính đem ngay đến tận nhà bắt hai
người tiếp nhận và giục vào dinh cung chức.
Tên lính chạy giấy đến nhà Bá hộ Kim gặp giữa lúc hai người vừa
đi dự đám rước linh cữu quan Tổng đốc sang học chính đường. Bá Kim đang bô bô
vui vẻ đùa Đào Trọng Kỳ:
- Không ngờ quan phủ Đào lại là người đứng đầu đi đón thi hài
quan Tổng đốc trong thành giặc.
Đào Trọng Kỳ cũng nói:
- Chuyện số cả. Thì bác cũng thế chứ sao.
- Tôi là dân sở tại đằng nào mà chả phải đi. Vả lại tôi còn
có cái nghĩa được quan Tổng đốc ngài liệt tên là hào trưởng đi cử hợp dân đinh.
- Ấy thế mà nỡ để cụ lớn ngài chết theo thành, chẳng hề đoái
hoài gì đến. Cho nên ông cử Kim Cổ ông ấy mới chửi xỏ cho. Bức trướng to tướng
treo trước quan tài đập vào mắt mọi người đấy bác không để ý à?
Rồi lão lấy giọng bình luôn bài trướng.
Người đều như tiên sinh
Hà thành đâu nỗi thế!
Vì đều khác tiên sinh
Hà thành đành thế nhỉ?
Bá Kim nói át đi:
- Thôi đừng đọc nữa cụ ơi! Ông ấy nói cạnh các cụ lớn Tuần,
Án, Đề, Lãnh, bỏ chạy đi cả một bầy để mặc Hoàng tướng công một mình thế cô đấy
chứ. Còn nếu ám chỉ đến hạng người như tôi, thì chưa đến lượt tôi đâu, ngay ông
Cử cũng thế thôi, ông cũng chửa làm được gì chỉ mới có ông Cử Đồng ở Bích Câu
đem được một ít quân mới đi đến Quảng Văn đình thì thành đã hãm, lại phải trở về.
Giá mà cầm cự được đến hôm nay thì chả gì, tôi cũng mộ được dăm chục, một trăm
người vào tăng viện chứ...
- Thôi tôi lậy ông cả nón.
Đào Trọng Kỳ đang chực nói huênh hoang nữa, thấy người lính
sai vào liền im bặt. Tên lính vội nói:
- Bẩm hai quan lớn đang bàn tán đến lễ mai táng cụ lớn Tổng đốc.
- Không dám. Dạ! Không ạ. Đào Trọng Kỳ nói chữa.
Tên lính lễ phép thưa:
- Dạ bẩm hai quan lớn. Rồi cũng đến hai tay quan lớn. Bẩm tiểu
tốt con đem công văn của tỉnh đến hầu các quan lớn ạ.
Phủ Kỳ và Bá Kim vội đứng lên ngay ngắn, ngoảnh mặt về hướng
tây chắp tay đỡ lấy tờ công văn. Người lính đứng tránh sang một bên vái hai vái
rồi nói:
- Xin mời hai quan lớn vào dinh ngay, quan lớn cầm công văn
này đi qua lối cửa Đông, là Tây nó để cho đi. May quá gặp cả hai quan lớn ở
đây, thế là xong phận sự, con xin phép quan lớn con về ạ.
Hắn chào rồi đi ra. Bá Kim xem xong công văn nói:
- Thế là tôi bác tự dưng đều được khai phục và thăng chức cả,
cùng một ngày, “cựu lâu kết ngãi” có khác.
Đào Trọng Kỳ đọc kỹ công văn ra vẻ hớn hở hỏi:
- Thôi đừng đùa nữa. Bác đi chứ? Nhờ số cả đấy.
Bá Kim nói thủng thẳng:
- Thì nói đứng đắn vậy. Bác đi thì đi. Tôi chưa đi. Tôi không
nhận.
- Sao? Bác nghĩ sao, bác lại không đi? Có lúc như thế này,
người ta cần mình mình mới gỡ được tiếng cách bãi chứ. Bình thường thì đâu đến
lần.
- Đành rằng thế. Nhưng tôi cho còn cách hơn nhận quyền rơm vạ
đá lúc này!
Đào Trọng Kỳ suy nghĩ một lát rồi hỏi đột ngột:
- À phải rồi, hay là bác đợi Lê Duy Bá? Đúng rồi, hôm nọ lão
ta chả đã chính thức thân đến hỏi xin cô Xuyến. Phải rồi! Thảo nào! Tôi quên.
- Bậy nào! Bá Kim nói gắt, không phải như thế. Cái Xuyến nó cứng
đầu cứng cổ, nó không lấy tôi cũng không thể nào ép được. Đấy là chuyện khác. Đằng
này là việc của tôi. Tôi theo vương đạo, tôi không theo bá đạo. Tôn Thất Bá hay
Lê Duy Bá đều là bá đạo cả.
- Thế ai là vương đạo? Tây à?
Bá Kim cười đáp:
- Lại bậy nào! Vương đạo đây là nhà vua, là triều đình. Tây
nó đánh được thành mà nó không lấy ngay lại giao trả ông Bá là có ý đợi triều
đình ra thương thuyết với nó, nó được lợi mà mất ít công. Đấy rồi bác xem, các
ông quan triều ra, các ông nắm được Tây rồi, các ông ấy mới ra oai. Vạ gì mình
lại ghé đầu chịu báng... Dạo lão Ngạc Nhê trước cũng vậy đấy.
Đào Trọng Kỳ gật đầu có vẻ đồng ý rồi hỏi:
- Ừ cũng phải. Thế thì cứ im đi thôi nhỉ. Chẳng cần vào nữa.
Họ làm đếch được gì mình lúc này.
- Ấy bác là quan to, bác cũng nên giữ cho đủ lễ phép một
chút. Bá Kim bàn, bác cứ vào nói thẳng là “chúng tôi là người có tội, mọi người
đều biết, lại có hiệu buôn bán với người Phú, ra làm việc lúc này, dân sẽ không
tin”. Rồi bác biết ai bác cử người ấy cho qua chuyện.
Đào Trọng Kỳ cho là phải, y theo kế ấy vào triều với Tôn Thất
Bá và tiện đà câu chuyện, tiến cử luôn quan phủ Hoài mới được quen biết tháng
trước. Không còn biết chọn ai hơn, Tôn Thất Bá đành phải nghe theo, viết công
văn bổ ngay Giáo thụ Hoàng Văn Khải làm quyền Tri huyện Thọ Xương. Vì Bá cũng
đã biết Khải từ trong kinh khi anh này vào ở với bố là Tú tài Hoàng Văn Chính
làm Hành tẩu 1 ở
bộ Hộ, đồng liêu cùng bộ với Bá. Và khi Khải ra làm Giáo thụ ngoài này, Bá cũng
đã gặp lại mấy lần, hắn đã biết rõ lai lịch và nghe thêm nhiều lời bàn tán về
viên quan thuộc hạ ấy. Hoàng Văn Khải quê ở Đồng Thái huyện La Sơn tỉnh Hà
Tĩnh, học hay chữ đỗ Cử nhân khoa Mậu Thìn năm Tự Đức 21 (1869) mới 19 tuổi.
Nhưng vì còn ít tuổi không được ra làm quan, lại là con nhà
quan nhỏ lép vế ở làng, Khải lấy làm ấm ức muốn tìm cách nhoai lên không được,
hắn sinh ra chơi bời cờ bạc; đã có lần bị bắt giam vì tội đánh bạc. Đã túng quẫn
lại càng túng quẫn thêm. Mãi đến năm 28 tuổi, vì có bố về hưu, hắn mới được vượt
lệ bổ chức Hàn lâm điển bạ, làm việc ở viện Hàn lâm. Ít lâu sau bố chết, phải về
chịu tang, nhà túng, lại thêm vợ chết Khải phẫn uất đã viết một đôi câu đối
giãi bày tâm sự:
Gia biến bất thăng ngôn, nhi phụ một nhi thê vong, lão mẫu lục
tuần phương ngọa bệnh.
Khổ tình nan tận thuật, kỳ trưởng si, kỳ thứ ấu, hài nhi tư
tuế vị năng hành 2 .
Khải lại đi đánh bạc cầu may, lại bị bắt quả tang được quan
Án ăn lễ rồi thương tình tha cho. Và xong tang bố, Khải được bổ ra làm Giáo thụ
phủ Hoài Đức, giữ chức cho đến nay mới được hơn một năm. Khải đương phân vân
nghĩ lúc hoạn lạc như thế này, thành mất, các quan tỉnh bỏ chạy, dân gian ai
còn thiết học nữa, có lẽ lại đến phải khăn gói về quê đợi thời, chịu cảnh túng
đói, thì được giấy của Tôn Thất Bá gọi ra làm Tri huyện Thọ Xương, hắn vui vẻ
đi ngay. Hắn nghĩ Tôn Thất Bá là người hoàng phái đã đứng ra gọi mình là có thể
ra được, tội đã có người chịu; mà ra ngồi huyện Thọ Xương tất phải giao thiệp với
Tây thì cách xử sự đối đãi của Tây mình đã biết sơ sơ qua và có thể dựa thêm
vào Phủ Kỳ và thông Lộc là hai người bạn vừa được quen biết. Khải liền vào gặp
Tôn Thất Bá, đến chào Hoàng Hữu Xứng, rồi tự đổi tên là Hoàng Cao Khải để chính
thức đi nhận chức. Đến huyện xem xét qua loa công việc kiểm số nhân viên lính
tráng rồi hắn ra ngay hiệu Lạc Phố chào Đào Trọng Kỳ, và lấy danh nghĩa là Tri
huyện sở tại, vào thẳng trường Tây gặp thông Lộc nhờ dẫn vào chào Kê-la-đích và
các quan trong Lãnh sự quán... Hắn không quên nhắc lại cuộc gặp gỡ thân ái
tháng trước. Xong hắn ra về rẽ vào chơi thăm Bá hộ Kim. Công việc của hắn chỉ mới
quanh quẩn có thế, còn rồi sau chưa biết ra thế nào, vì phố phường còn vắng vẻ,
dân phố chạy loạn cả, mà mọi việc tuần phòng canh giữ vẫn còn do bọn lính Tây đảm
nhiệm. Hắn đang băn khoăn nghĩ ngợi xem có thể thi thố quyền hành bắt đầu bằng
việc gì thì đùng một cái có tin đoàn khâm sai trong triều đi tàu Tây đã ra tới
nơi, hắn được gọi ra đón ở tận Đồn Thủy, trong khu nhượng địa. Đoàn khâm sai gồm
bốn người: quan Chánh khâm sai đại thần Trần Đình Túc, quan Phó khâm sai Nguyễn
Hữu Độ, quan Tiến sỹ song nguyên, Biện lý bộ công Hoàng Hữu Thường, quan Hoàng
giáp Vũ Nhự. Hoàng Cao Khải mặc áo thụng lam đứng sau hai quan tỉnh chắp tay
vái chào các quan mà trong bụng mừng thầm tự nghĩ:
- Thế này thì hòa hảo đến nơi rồi, vận ta phát rồi, quan Khâm
sai Trần Nguyên là Tổng đốc Hà Ninh hơn bảy năm liền quen thân với ông
Kê-la-đích, quan Phó khâm sai đã giao thiệp với Tây ở Hải Dương, quan Hoàng
giáp là người sở tại... Thế tất dàn hòa được với Tây. Còn quan Biện lý, người
Hương Thủy, Thừa Thiên, lại là bạn với ta. Bọn Tây lại ra đón long trọng thế
kia cả ông Kê-la-đích và ông quan năm nữa kìa!
Nhìn theo đoàn võng điều có rèm chân chỉ hạt bột với đòn sơn
son thiếp vàng do những người phu áo nâu nẹp đỏ nón dấu chóp đồng khiêng trên
vai, kèm bên tua rua những lọng xanh che mát, đi giữa hai hàng lính vác gươm thẳng
tắp, với cờ biển khâm sai lọng vàng che đi trước, nhìn cái đoàn võng lọng ấy
nghiêm trang oai vệ, tiền hô hậu ủng đưa các quan vào thành, Hoàng Cao Khải đi
theo về đến cửa trường thi để rẽ về huyện Thọ, tự nhiên nảy ra ý nghĩ thích thú
là sự hoà hảo hợp tác với người Phú sẽ đem lại cảnh thanh bình trang trọng như
thế kia và sẽ có lợi cho dân cho nước và nhất là cho bản thân hắn. Hắn cười
quay sang bảo anh Đề lại của huyện đang đứng bên đường rẽ đốc bọn lính cơ dẹp
đường:
- Đời phải như thế mới được. Nếu làm trái là hỏng bét cả nhỉ
thầy Đề nhỉ?
Anh Đề lại không hiểu gì cũng vội đáp:
- Dạ vâng ạ!
Ý nghĩ phải hợp tác với Tây nẩy nở từ đấy, cho nên hắn dốc
lòng mong cho việc thương thuyết chóng thành. Và ngày hôm sau hắn được gọi vào
dinh Tổng đốc. Nguyễn Hữu Độ trực tiếp gặp hắn và hỏi rõ dân tình ở băm sáu phố
phường và cách đối xử của người Phú ở đây trước và nay thế nào. Hắn nói tốt cho
Tây và bộc lộ rõ thiện cảm của mình đối với Tây và trình bày rõ lý do nước ta
nên hợp tác với Tây. Hữu Độ gật gù khen phải, bởi vì lão cũng có ý nghĩ như thế
từ khi lão được giao thiệp với người Phú và nhất là từ khi lão thấy triều đình
bác bỏ những ý kiến “nuôi trong dấy ngoài” của lão. Lão là người trong gia miếu
huyện Tống Sơn tỉnh Thanh Hóa là nơi quý hương của triều đình. Lão đỗ Cử nhân
làm Giáo thụ Kinh Môn, Hải Dương rồi Tri huyện Nghiêu Phong, Quảng Yên. Về ở
đây đi lại chơi thân với các cố đạo Y Pha Nho, theo giao du với ngoại quốc, nên
lão được cử về làm ở nha Thương chính ở Hải Dương giao thiệp buôn bán với người
Phú, rồi thăng Bố chánh sứ tỉnh Hải Dương. Mấy năm gần đây lại được cử làm Tuần
phủ Sơn Tây kiêm Tỉnh biên Phó sứ. (Hoàng Tá Viêm là Thống đốc tỉnh biên, Chánh
sứ kiêm Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên). Khi Ri-vi-e đem quân ra Bắc, Lãnh sự
Lê-na ở Huế đã báo với tòa Thương bạc, yêu cầu cử một vị quan am hiểu ra điều
đình. Vị này chưa ra đến nơi, thì Ri-vi-e đánh lấy thành Hà Nội. Lê-na lại bảo
triều đình nên cử một vị Khâm sai toàn quyền ra điều đình nhận lại thành. Do
đó, có đoàn khâm sai kia, Trần Đình Túc già nua tuổi tác, mọi quyền hành ở cả
Nguyễn Hữu Độ. Sẵn có ý nhượng bộ người Phú, lão đồng ý ngay với Cao Khải và cấp
bằng bổ hắn thực thụ Tri huyện Thọ Xương, Cao Khải lại đề cử luôn Đào Trọng Kỳ
và nói:
- Quan lớn muốn làm được việc ở đây, nên dùng anh này, anh ta
có sở giao dịch với Tây đã lâu, chơi thân với Lãnh sự Kê-la-đích. Dùng được anh
ta thì Tây càng tin ta. Nhưng dùng anh ta cũng không dễ đâu. Quan án Tôn Thất
Bá mời ra mà anh ta từ chối đấy. Bây giờ muốn anh ta tin thì cụ lớn nên gọi anh
ta đến, khai phục chức Tri phủ cũ, rồi giao cho một chức gì to hơn, anh ta sẽ
vui lòng ngay mà gia công góp sức vào công việc điều đình.
Hữu Độ gật đầu khen phải và làm theo ngay. Cố nhiên Đào Trọng
Kỳ nhận và tiến cử cả Bá hộ Kim làm Thương biện huyện vụ. Thế là Cao Khải nhờ
có Nguyễn Hữu Độ mà có thêm vây cánh. Tiếp sau đó, một việc quan trọng nữa đến
làm tăng thanh thế cho hắn. Vua Tự Đức ban tờ dụ xuống khen: “Hoàng Diệu hết
lòng trung chết giữ tiết hơn vượt hẳn bọn tầm thường. Trẫm rất thương tiếc. Sai
tỉnh thần Hà Nội lo liệu đưa thi hài về nguyên quán, sai tỉnh thần Quảng Nam đến
lập một đàn tế ở mộ, gọi là chút ít an ủi hồn trung, cấp cho một nghìn quan tiền
để nuôi mẹ già và chi phí việc tang”. Nguyễn Hữu Độ muốn nhân việc này để gây lại
uy tín cho các quan tỉnh và gây thêm tiếng tăm cho mình nên đã xin với bọn Tây
cho cử hành đám tang rất trọng thể. Do đó di hài quan cố Tổng đốc đã được quan
Đốc học, ông cử Kim Cổ và nhân dân Hà Nội để một ngày ở học chính đường rồi đem
tạm quàn ở một cái gò gần đấy, nay được làm ma lại một cách linh đình. Một đàn
tế được thiết lập ở trước mả quàn, bên ngoài treo đôi câu đối viếng của quan
Khâm sai Trần Đình Túc, Hữu Độ thân ra đứng chủ cuộc tế, rồi quan tài được khai
quật lên bọc vải đỏ ở ngoài và đưa xuống thuyền mành để về Quảng Nam. Đám ma được
công khai cử hành do các quan tỉnh vâng mệnh triều đình đứng ra chủ trì tiễn
đưa linh hài bậc trung nghĩa về nguyên quán, cho nên tất cả các quan lại các
nơi đều có đối trướng và lễ vật về phúng viếng, từ quan Kinh lược sứ Nguyễn
Chính, quan Kinh lược phó sứ Bùi Di, các quan Tổng đốc các tỉnh, các quan Bố,
Án, Phủ, Huyện cho đến cử tri thân hào... Hoàng Cao Khải là Tri huyện sở tại đã
cùng với Bá hộ Kim phải thu xếp sắp đặt đám tang sao cho đúng nghi lễ, hắn lại
còn phải xem xét thứ tự những bức trướng, đối đặt trước sau theo phẩm tước ghi
trong lạc khoản. Đám tang thật cảm động và vô cùng long trọng, có cả câu đối của
các bang Khách trú và vòng hoa của Lãnh sự quán Phú Lãng Sa. Đám tang đi từ đàn
tế xuống bến đò Trường Tín rất tề chỉnh và nghiêm trang, cảm động. Nhân dân đứng
chật hai bên đường vĩnh biệt hương hồn vị chủ tỉnh đã chết trung vì nước. Trong
khi đi tiễn đến bến đò trở về thấy nhiều người bàn tán về nhiều câu đối viếng,
kẻ khen, người chê ồn cả đường phố, cậu ấm Ba Tự Tháp vẫn là người hăng hái nhất.
Thấy không yên tâm về những văn chương chữ nghĩa của những người đã theo giặc
cũng góp lời tán tụng, cậu bực tức đến bên ông cử Kim Cổ vừa chỉ các câu ấy vừa
nói:
- Đấy, tôn huynh xem, thế còn ra thể thống gì nữa cá mè một lứa
cả à?
Ông Cử ôn tồn nói:
- Thôi cũng được. Càng thêm tôn uy linh của Hoàng tướng công.
- Nhưng hôm nọ chúng ta còn lấy đám ma mà chửi rủa bọn úy tử
tham sinh 3 −
cậu ấm vẫn có vẻ tức nói – hôm nay bọn chúng đã hòa cả một nhịp vào đây mà khóc
dài khóc ngắn. Thế chúng cũng như ta, hòa cả làng à?
- Thôi sự thể nó đã như vậy, ông Cử vẫn ôn tồn nói, hòa cũng
được, để cho người ta ăn năn hối lỗi với chứ. Dĩ hòa vi quý.
- Cũng phải làm cho rõ trắng đen một phen chứ, cậu ấm nói,
không thì tức lắm. Mà cứ thế thì để rồi người ta dương dương tự đắc đi hàng giặc
à?
Các quan Khâm sai đã ra hội thương để nhận thành. Ri-vi-e
ngoài mặt nói trả thành, nhưng vẫn không giao, bao nhiêu ụ súng lũy phòng đều bị
phá hủy cả, quân Tây vẫn đóng ở hành cung. Trần Đình Túc, Nguyễn Hữu Độ vẫn chỉ
được giữ 200 quân bảo vệ không được mang súng bắn nhanh như Ri-vi-e đã quy định.
Dân tình lại nao nao, thì lại có một tin nữa đến làm trấn tĩnh lòng người trong
một lúc. Bọn Khâm sai Trần Đình Túc đi thương thuyết không có kết quả đều phải
giáng chức, nhưng vẫn được giữ lại làm việc. Và nhà vua hạ lệnh bắt trói giải
các quan tỉnh Hà Nội cũ về kinh chuộc tội, lời dụ được niêm yết cho mọi người
biết: “Lúc Hà thành hữu sự Hoàng Diệu thề chỉ cố giữ, có chết không khai, một bầy
tôi ở cùng thành nên đua sức liều chết mới nên cái nghĩa tri thân. Thế mà tận
trung tử tiết duy một mình Hoàng Diệu, lũ Lê Văn Trinh đều là quan lớn một tỉnh
tham sống sợ chết, bỏ thành chạy trốn, Phan Văn Tuyển lại trốn trước tiên lên
mãi Sơn Tây thật nhút nhát vô tài quá đáng. Hoàng Hữu Xứng tuy không ra khỏi
thành, nhưng không biết cùng thành còn mất. Tôn Thất Bá ra ngoài thành thương
thuyết, lại cùng họ kính nhường khéo thoát. Bọn đại thần ngoài biên cương, lúc
lâm nạn lẽ nào lại như thế. Lập tức thi hành cách chức, trói giải về kinh xét
rõ, để nêu tỏ pháp luật. Còn Phòng thành, Quản cơ, Suất đội, Tri phủ, Tri huyện,
Thông phán, Kinh lịch, đều nhất luật giao cho Đốc phủ thần mới xét rõ tâu lên”.
Thế là Tuần phủ, Bố chánh, Án sát, Đề đốc, Chánh lãnh binh và hai Phó lãnh binh
cũ đều cùng một ngày bị bắt giam để trói gông giải vào kinh. Án sát Tôn Thất Bá
vội đến nhờ thông Phong nói với Ri-vi-e xin hộ, tên này từ chối, nói ngay với
thông Phong:
- Nó có tội với triều đình nó, mình can thiệp vào thế nào được,
nó không phải là một gã được việc để chỉ thêm vướng, người ta tỉa đi như thế là
may cho mình. Còn mấy cái tin bí mật cung cấp cho ta, thì tiền bạc lễ vật thù
phụng nó cũng quá thừa rồi.
Tôn Thất Bá đành cũng phải chịu trói cùng với các ông quan
kia, bị giải từ trong thành qua các phố để đưa xuống thuyền trước mặt mọi người
qua đường. Nhân dân đứng xem đông hai bên đường, ai nấy đều lấy làm hả dạ.
Sau mấy hôm, lại có chỉ dụ của nhà vua đưa ra truy tặng viên
Suất đội Đỗ Đăng Lâm chức Phó quản cơ và cho con, em hay cháu một người được hưởng
làm Chánh cửu phẩm, Bá hộ. Nguyên viên Suất đội này tục gọi ông Cai Trí được
quan tỉnh phái ra giữ huyện Thọ Xương, khi quân Pháp đánh thành, có một cánh
quân đến đánh lấy huyện Thọ, quan huyện và nha lại chạy trốn cả. Riêng ông Cai
đánh nhau với địch đến phút cuối cùng rồi bị hy sinh. Nhân dân phố huyện và phường
Kim Cổ đã khâm liệm và mai táng ông cùng ngày với đám ma quan Tổng đốc Hoàng Diệu.
Nay lại được chỉ dụ và sắc của vua ban ra, nhân dân lại nô nức muốn làm một đám
ma to lại một lần nữa để kích thích lòng người, khêu gợi niềm trung nghĩa giết
giặc không sờn. Ông cử Kim Cổ cho mời cậu ấm Ba Tự Tháp đến bàn chuyện, ông Cử
nói:
- Đây lại là một dịp ta chửi vào bọn bán nước theo giặc đây,
cho cậu bõ tức. Nhưng ở ngay cửa huyện này ta cũng nên nói với ông huyện mới một
tiếng. Lão này ranh mãnh sắc sảo lắm, khi ở giáo chức có vẻ khác mà từ lúc là một
ông quan đã lại có vẻ khác. Cậu đi vào nói với lão nhé.
Cậu ấm Ba nói ngay:
- Mất gì lời nói, vâng để đệ xin đi.
Cậu ấm Ba về nhà ăn mặc khăn áo chỉnh tề đi vào huyện. Hoàng
Cao Khải kéo ghế mời ngồi tiếp rất niềm nở. Cậu ấm nói rõ ý định của dân phố muốn
nhân dịp nhà vua truy tặng này, tế ông cai một tuần rượu, xin lập đàn ở ngay
ngõ huyện. Cao Khải nghĩ đã có lệnh nhà vua truy tặng thì không có lý do gì mà
cấm đoán, và cấm cũng không thể được, chi bằng dựa ngay vào dịp này để lấy lòng
dân làm tăng thêm uy thế cho mình, hắn bèn vui vẻ đồng tình và hứa sẽ góp công,
góp của vào đàn tế truy tặng ấy. Thế là một đàn tế được lập ngay ở cổng huyện,
phía trong đàn là một cái miếu con dựng tạm lợp gianh, thắp hương nghi ngút.
Thân hào trong huyện đều đến dự lễ. Câu đối và trướng viếng căng chung quanh
kín cả đàn, nói lên mọi ý nghĩa thán phục người trung nghĩa và nguyền rủa, sỉ vả
những kẻ đầu hàng theo giặc. Trước cửa miếu ở hai bên bàn thờ treo một đôi câu
đối vải trắng dài viết chữ lớn: “Nước nhà lắm việc bọn quan lớn vô mưu, buồn trông
non nước hoa tươi, ngứa mắt đàn di khua gót sắt – Sự thể đến đâu lòng trinh
trung mới hiện, ai hay võ biền chức nhỏ, liều mình một thác với thành trơ”. Và
trong khi tế, cậu ấm Ba Tự Tháp được cử vào đọc văn tế, sau khi đọc những đoạn
viết theo nghi lễ thường lệ, đến lòng văn tế, cậu cất cao giọng ngâm nga than
vãn đọc lời tế:
Đất nước chông gai, cuộc đời sóng gió
Mồng tám giờ Thìn tháng ba năm Ngọ,
Gớm mặt quân thù, là phường giặc lõ.
Những người dự tế lắng nghe đều lấy làm thích thú lời văn đã
nói thay được ý nghĩ của mình, căm thù bọn giặc Tây cướp nước và ghét bọn theo
giặc hại dân. Và vì thế những trướng đối và bài văn tế được truyền tụng ra xa
mãi, mọi người đều ghi nhớ.
Nhưng trong khi dân chúng mải hào hứng với những cuộc lễ xem
ra có vẻ táo bạo bất chấp mọi tai vạ ấy, thì cuộc thương thuyết không đi đến kết
quả gì, triều đình bãi bỏ chức Khâm sai, trả Trần Đình Túc về làm Tổng đốc Hà
Ninh, Nguyễn Hữu Độ làm Tuần phủ Hà Nội, Hoàng Hữu Thường làm Bố chánh và cử
thêm Đào Trọng Kỳ làm Án sát. Các quan tỉnh cùng ở lẫn với Pháp ở trong thành
làm việc cai trị dân vừa theo chỉ dụ của nhà vua, vừa theo ý muốn của tên Thiếu
tá Ri-vi-e. Rồi đến tháng chín, Trần Đình Túc già nua tuổi tác được Tự Đức cho
về trí sỹ, cho Nguyễn Hữu Độ làm Hộ đốc Hà Ninh, cử Thương biện Vũ Nhự làm Tuần
phủ Hà Nội, thăng Hoàng Cao Khải làm Bang biện tỉnh vụ kiêm lĩnh huyện Thọ
Xương. Từ đấy Cao Khải tuy là quan nhỏ nhưng đã nắm được thực quyền trong thành
phố và dần dần làm ra toàn tỉnh, được Nguyễn Hữu Độ rất tín dùng. Quyền hành trong
tỉnh ở cả trong tay hai người. Cao Khải liền bàn với Hữu Độ:
- Thưa cụ lớn, lòng người đã đỡ nao nao, ta sẽ lựa chiều mà
trấn tĩnh dần. Muốn trấn tĩnh được thì phải có thực quyền. Mà có thực quyền lúc
này phi được người Phú tin thì không thể có được. Triều đình còn không trái được
họ nữa là ta ở một tỉnh luôn luôn phải động chạm đến họ. Cho nên muốn được họ
chuyên tin ở ta, ta không nên để có thêm một kẻ nào khác có thể làm chỗ cho họ
dựa được. Ở đây bọn quan Án Đào và Bá Kim quen Tây thì đã về với ta rồi, nhưng
còn một người gọi là ông Giáo sư Lê ấy, con xem chừng có ý khác, con nghe hình
như ông ấy là con cháu nhà Lê.
Hữu Độ gật đầu khen:
- Phải, tôi có biết. Tên hắn là Lê, được cánh đạo giúp đỡ
nuôi nấng.
- Bẩm vâng, Cao Khải tiếp, cái nguy là có bọn đạo che chở đấy.
Hắn còn có bà cô họ đứng thắp đèn nhang thờ vua Lê ở miếu Hội Đồng. Người Phú
cũng rất kính trọng bà này, cấm quân lính không được bén mảng đến miếu. Vì thế
nên xin cụ lớn cần nghĩ cách nào trừ tên ấy đi.
- Tôi đã nghĩ, nhưng cũng khó, vì nó ở ngay trong trường Tây
với ông Kê-la-đích.
- Bẩm cụ lớn, hắn chơi thân với thông Lộc, mà thông Lộc lại
thân với quan Án Đào, cụ lớn cứ bàn mưu với quan Án xem.
- Được, tôi sẽ bàn với ông Án, nhưng về phần thầy, thầy cũng
phải cố hết sức dò la mọi hành động của hắn. Và bây giờ thầy đi mời quan Án
sang đây cho tôi.
- Bẩm vâng, con xin tuân.
Cao Khải lạy chào Hữu Độ rồi đi ra rẽ sang dinh Án sát tìm
Đào Trọng Kỳ và nói rõ ngay ý Nguyễn Hữu Độ tìm vào hỏi về Giáo sư Lê. Kỳ vội
vàng đi vào Đốc bộđường. Hữu Độ đang đợi sẵn ở đấy liền nói ngay với Kỳ ý nghĩ
của mình về Lê Duy Bá. Kỳ nghe xong đáp ngay:
- Bẩm vâng, bẩm cụ lớn nghĩ chí lý ạ, người Phú vẫn có ý nuôi
Giáo sư Lê để nằm chờ đấy ạ. Họ cũng đã in cả hịch đem phân phát các nơi. Họ có
ý nếu thương thuyết không xong, họ sẽ lập lại nhà Lê.
Hữu Độ đang tựa lưng trên ghế, ngồi phắt ngay lại, hăng hái
nói:
- Ấy đấy, vì thế ta phải nghĩ cách trừ nó đi để khỏi lo về
sau. Nên tôi phải bàn với quan lớn. Quan lớn ở đây lâu, quan lớn lại quen biết
hắn, nên vì việc lớn nước nhà mà nghĩ xem có cách gì trừ hắn đi mà không động
chạm gì đến Tây đến đạo.
Đào Trọng Kỳ ngồi thừ ra suy nghĩ rồi nói thong thả:
- Bẩm cụ lớn kể thì cũng khéo đấy ạ, chết cái hắn lại được
người Phú che chở... à hay là ta nhờ Bá Kim dùng mỹ nhân kế, hắn đang nhờ người
đến hỏi con gái út ông Bá.
- Cũng được, Hữu Độ cũng nói một cách thong thả. Nhưng việc
phải kín, chỉ nên ta biết với nhau thôi. Nhờ đến người ngoài, lại có đàn bà con
gái, nó lộ ra lại thêm rắc rối. Thấy nói quan lớn quen thông Lộc, quan lớn thử
nghĩ xem có thể mưu với thầy thông được chăng? Đây là một công lớn đối với triều
đình, quan lớn không nên để cho người khác hưởng mất.
Đào Trọng Kỳ tự nghĩ: “Đây là Hoàng Cao Khải mách đây, mình
không làm thì họ không tin nữa, đường công danh sẽ vấp, mà làm thì khó khăn, nếu
không thành thì lại hóa ra phụ Lê Duy Bá. Nhưng thôi cũng đành cứ thử xem”. Rồi
lão lên tiếng đáp:
- Bẩm cụ lớn, vâng, để tôi thử dò la xem. Việc quan trọng xin
cụ lớn rộng phép thư thư cho ít lâu để xét cho chắc.
Hữu Độ cười rồi mách nước:
- Cũng được. Nhưng không nên để chậm quá, lông cánh nó mọc vững,
càng thêm khó ra. Quan lớn nên nghĩ cách tiến hành ngay càng sớm càng tốt. Quan
lớn quen với thông Lộc, mà nay thông Lộc hiện lép vế với thông Phong, quyền và
lợi đều về thông Phong cả. Quan lớn nên gợi chỗ cách biệt ấy và vạch cho thông
Lộc con đường làm lợi cho ta. Khi anh ta nghe ra thì quan lớn nói ngay đến việc
này. Tiền nong và danh vọng, cần gì tôi sẽ cho đủ cả.
Đào Trọng Kỳ vui mừng nói:
- Cụ lớn thật là cao kiến. Cụ lớn đã bày mưu cho như thế, tôi
xin cố gắng làm theo cho được việc để khỏi phụ lòng cụ lớn tin cậy.
Hữu Độ vui vẻ dặn thêm:
- Quan lớn cứ quyết tâm làm thì thế nào việc cũng xong, vì
quan lớn quen thông Lộc, dễ nói hơn tôi. Nhưng là việc kín, quan lớn có cần ai
giúp đỡ thì chỉ cần bàn với thầy huyện Thọ.
Đào Trọng Kỳ lĩnh ý trở về dinh, ngồi suy nghĩ về cách tiến
hành công việc. Lão viết thư mời thông Lộc đến dự bữa cơm chiều, trong thư nói
rõ là nhờ thông Lộc đến trước là mừng cho lão, sau là bảo cho lão biết cách thức
bày tiệc mời các quan Tây nhân dịp lão ăn mừng được thực thụ Án sát sứ tỉnh Hà
Nội. Đúng hẹn thông Lộc đến, vào trong phòng khách thấy có mỗi một mình, liền hỏi
ngay:
- Có mình tôi thôi à? Quan bác?
Đào Trọng Kỳ vui vẻ mời khách ngồi và nói:
- Vâng ạ, quý vật đãi quý nhân 4 hôm
nay có thịt dê lễ tam sinh ở Võ miếu, người ta biếu, nên mời riêng quan bác đến
mừng cho tôi, và sau nữa còn nhờ quan bác chỉ giáo cho nghi thức bữa tiệc mời
người Phú nay mai...
Thông Lộc cười đáp:
- Gớm có thế thôi mà quan lớn cũng phải bày vẽ ra, quan lớn gọi
hỏi lúc nào chả được.
- Ấy chết, đâu có dám thế ạ! Trước kia còn buôn bán xô bồ thì
thế nào cũng được. Nhưng may nhờ vua nhờ thánh, được làm quan Án sát một tỉnh,
cũng phải cư xử theo nghi lễ chứ, không có quan bên ấy lại trách.
Bữa cơm thân mật bắt đầu bằng những câu chuyện xã giao, chuyển
sang cách ăn ở của nước ta và của các nước phương Tây. Đào Trọng Kỳ hỏi về cách
thức của người chủ bày tiệc và của những người dự tiệc. Cuối cùng, cơm nước
xong Đào Trọng Kỳ mời thông Lộc vào phòng riêng ngả lưng nghỉ ngơi cùng nói
chuyện rồi gợi đến tình hình thời thế trước mặt, nhân đấy nhắc đến vẻ hách dịch
thắng thế của thông Phong. Rượu đã ngà say, lại bị gãi đúng chỗ ngứa, thông Lộc
thở dài nói:
- Cũng là vận số cả. May hơn khôn là thế đấy...
Đào Trọng Kỳ thủng thẳng nói:
- Công là công của quan lớn cả. Quan lớn ở đây đã lâu, quan
và dân ở đây quen hơi biết tiếng cả. Ấy thế mà ngài thông Phong theo quan Thiếu
tá ra đây vớ được quan Án Bá cũ mà thành ra phỗng tay trên mất mọi công lao.
Sao quan lớn lại điềm nhiên để người ta tranh mất công lao như vậy. Ý hẳn quan
lớn muốn vô vi như tử.
Thông Lộc nói thong thả uể oải:
- Kể cũng tức đấy. Nhưng cái thế không sao được, chưa thể
tranh được. Đến ông Kê cũng tức nhưng chức còn kém ông Năm, vả lại họ đang thắng.
- Đành rằng thế. Án Kỳ hỏi. Nhưng sao quan lớn không tìm cách
khác. Cũng còn khối việc giúp cho chúng tôi. Chỉ sợ quan lớn chê không làm.
- Tôi cũng đã nghĩ đến. Thông Lộc nói. Nhưng chả có cách nào.
Còn những vụ tẹp nhẹp, thông ngôn dăm ba câu, xin xỏ cái này cái nọ, thì tính
tôi khái, có chết đói thì thôi, chứ tôi không thèm làm, quan lớn đã rõ.
- Vâng, tôi vốn biết tính quan lớn cao kỳ, biết trọng nghĩa lớn,
coi thường lợi nhỏ, nên mới mạnh dạn ngỏ ý nhờ ngài giúp cho một việc lớn hệ trọng,
nhưng chỉ sợ nói ra không biết quan lớn có tin bụng cho không?
- Dạ! Quan lớn dạy quá thế chứ đệ đâu dám.
Đào Trọng Kỳ ngồi sát gần lại, cúi xuống ghé gần tai khách
nói thì thầm trình bày rõ tình thế của quan tỉnh lúc này và ý định trừ khử Lê
Duy Bá đi để hai bên ta và Tây đều theo về một chiều khỏi sinh lôi thôi rắc rối.
Nghe đến Lê Duy Bá, thông Lộc ngồi phắt dậy tỉnh táo, có vẻ ngạc nhiên. Đào Trọng
Kỳ cũng ngồi ngay ngắn lại nói rõ:
- Tôi biết quan lớn có vẻ thân với Giáo sư Lê, nhưng ngài ạ, ở
đời chẳng qua chỉ cần giàu và sang, mà ngài thân với ông Lê chắc cũng không
ngoài mục đích ấy. Vả cũng là do ông Kê mà ngài quen ông ta và cũng may có chút
lợi như ông Kê hứa hẹn. Thì nay quan Thượng chúng tôi cũng xin sẵn sàng cung đốn
mọi thứ ngài muốn. Chỉ xin ngài vì nhân dân trăm họ nước Nam ta mà giúp cách trừ
khử ông ấy đi cho. Giết một người cứu muôn người. Ngài cũng là Nam quốc Nam
nhân như chúng tôi cả, nỡ nào để có thể xảy ra cảnh nồi da nấu thịt.
Thấy thông Lộc ngồi im không tỏ vẻ gì cả, Án Kỳ ngừng lại hỏi
đột ngột:
- Hay là quan lớn cho là tôi nói quá lời phạm đến tình riêng
của ngài thế thì...
Thông Lộc cười lớn, tươi tỉnh nói át đi:
- Không, quan lớn ạ, tôi mải suy nghĩ. Thì ra quan lớn dạy
khôn cho tôi, làm lợi cho nhiều người có giá trị hơn làm lợi cho một người. Vả
bất cứ ở cảnh ngộ nào, nếu mình biết cách làm lợi là làm được cả. Còn tôi với
Lê Duy Bá cũng chỉ mới quen do ông Kê thôi. Mà mưu ông Kê cũng thâm thật. Ông ấy
muốn cho dân Nam mình chết để ông ấy lợi. Nhưng bây giờ thì ông Ri-vi-e đương
thắng thế, ông Kê phải ngồi im. Tôi thành ra lép vế. Nên quan lớn nói tôi đã
nghe ra...
Án Kỳ mừng quá nói ngay:
- Vâng quan lớn đã nghĩ thế xin ngài vui lòng giúp cho. Thông
Lộc vui vẻ nói ngay:
- Tất nhiên rồi. Nhưng quan lớn ạ, tôi theo Tây học muốn cái
gì nói ngay, không đắn đo úp mở, tôi muốn tính toán với nhau sòng phẳng trước,
quan lớn định trả công tôi bao nhiêu?
- Dạ, cái đó tùy ý quan lớn. Án Kỳ thân mật vồn vã nói. Việc
hệ trọng xin quan lớn cứ nói, tôi sẽ xin trình lên quan Thượng.
Thông Lộc ngồi gật gù một lúc rồi mới nói:
- Thôi thế này nhé, nếu được ta làm ngay quan lớn ạ, làm sớm
xuất kỳ bất ý khỏi lộ. Cứ cho tôi một trăm hốt bạc và một kim bài hạng nhất làm
kỷ niệm, chứ quan tước thì tôi cũng chả cần.
Án Kỳ mừng cuống quýt đáp luôn:
- Vâng, vâng, tôi xin trình lên quan Thượng tôi, rồi xin thưa
lại với ngài sau. Giờ xin ngài cho biết qua ý định hành sự thế nào để tôi nói
cho cụ lớn tôi mừng.
Thông Lộc cười ha hả, nói lớn:
- Quan Thượng mà bằng lòng thì ta làm ngay tối mai.
Rồi hắn ghé tai Án Kỳ nói nhỏ. Ông Án dỏng tai lắng nghe, mắt
sáng lên, rồi cười đáp lắp bắp:
- Vâng, vâng, vâng. Sáng mai tôi xin đến hầu thưa lại rõ với
quan lớn.
- Để tôi đến đây thì hơn. Nó khỏi lộ.
Thông Lộc nói dõng dạc, chắc nịch, rồi lại ngả lưng xuống sập
nằm nghỉ.
Tối hôm sau. Một buổi tối mùa xuân đầu tháng hai. Trời quang
đãng mát mẻ, nửa vành trăng khuyết không đủ chiếu sáng xuống không gian, mặt đất
chỉ sáng lờ mờ. Sao dày chi chít như hạt vừng trên mặt bánh đa. Phố xá nằm im lặng,
vắng vẻ, các nhà đã đóng cửa cả. Thỉnh thoảng mới có nhà còn mở hé cửa. Ánh
sáng ngọn đèn thầu dầu trên đĩa đèn treo ở giữa nhà hắt ánh sáng leo lắt rung
rinh ra ngoài đường. Ở những phố đông đúc nhất cũng đã ít người qua lại. Lúc ấy,
từ khu trường Tây có hai bóng người lờ mờ đi lên phía cửa ô Hàng Cau. Tuy lệnh
đi đêm phải mang đèn đuốc đã bãi bỏ từ mấy tháng rồi, một người vẫn xách một
cái đèn lồng bằng vải xanh đỏ màu sặc sỡ, trong thắp ngọn nến cháy bập bồng.
Hai người vừa đi vừa nói chuyện rì rầm, cái đèn lồng cứ lắc lư trong tay người
kia làm cho ánh sáng chập chờn. Khi tới gần, người ta nhìn rõ qua ánh sáng đèn
hai người đều đội mũ Tây vành rộng và đều đi giầy Tây gót cao nện kêu cồm cộp,
nhưng quần áo thì khác. Một người mặc bộ quần áo Tây màu xám, bên hông đeo kè
kè một khẩu súng sáu, còn người kia cầm đèm mặc quần áo nam, quần lụa trắng, áo
nhiễu tím dài đến dưới đầu gối. Hai người cứ nhẩn nha đi, đường đê vắng vẻ,
không gặp một người nào. Qua cửa đền ông Chẩu (tức đền Đức Thánh Quan) ở lối rẽ
vào phố Hàng Tre, dưới rặng cây cổ thụ rậm rạp, người kia giơ đèn lên khua đi
khua lại soi đường. Thình lình ở trong đền xô ra hai tên lạ mặt cao lớn lực lưỡng
bôi đen mặt đẩy bật người cầm đèn ra và chịt ngay lấy người mặc đồ Tây mỗi tên
đâm mạnh một mũi dao, người kia chỉ ú ớ mấy tiếng sặc lên chết ngay. Thấy kẻ bị
đâm đã chết rồi, một tên còn đâm một nhát dao vào ngực, rồi cả hai bỏ chạy quặt
vào phố Hàng Tre biến mất, người cầm đèn lúc ấy mới hoàn hồn đứng lên kêu gào cầu
cứu. Từ hàng phố và những làng xóm gần đấy, những đèn đuốc đổ ra vây chung
quanh soi tỏ những người bị nạn: Thì ra đấy là Lê Duy Bá và người còn sống sót
là thông ngôn Lộc, người mà cả vùng quanh đây ai cũng biết mặt biết tên. Người
ta cho đây là một vụ cướp đường, người ta vội khiêng tử thi vào trong đền và
cho người đi phủ trình quan huyện sở tại. Đợi cho người ta khiêng tử thi đặt
ngay ngắn vào sân đình rồi và giao cho tuần phu sở tại canh giữ, thông Lộc nhờ
người soi đuốc đưa về đến trường Tây. Hắn vào báo cáo với Kê-la-đích việc bị cướp
đường hành hung và Lê Duy Bá bị nạn. Kê-la-đích nghe xong điềm nhiên nói:
- Anh bình yên vô sự là tốt rồi! Còn ông Lê chẳng may như thế...
cũng để đợi các quan An Nam xét xử thế nào! Anh đã cho trình họ chưa?
- Đã ạ. Dân sở tại họ đi trình ông huyện rồi.
- Tốt. Vậy anh đi ra ngay gặp họ, nói với họ rằng chúng ta ở
trong Lãnh sự quán hoàn toàn tin theo sự tra xét của họ.
Thông Lộc mừng quá vội cùng với hai tên lính tập đi ra, trở lại
ngay đền ông Châu. Ở đây Bá hộ Kim, Hoàng Cao Khải và Án sát Đào Trọng Kỳ, tất
cả những người có phận sự tra xét đều có mặt. Thông Lộc chào mọi người rồi lách
đám đông vào trước mặt các quan để cung khai mọi tình tiết lúc bị hành hung.
Anh ta khai thêm với ông Án:
- Cũng là cái số ông ấy không may, ông ta nằn nì rủ tôi lên
hát ở phố Đồng Xuân, rồi trở về vào chơi nhà cụ Bá Kim để sáng mai có thể trông
thấy mặt con gái cụ Bá. Tội nghiệp cho ông ấy say mê cô ấy quá.
--------------------------------
Chức quan nhỏ không có chuyên nhiệm, làm việc ở các bộ viện,
như chức tạm phái. |
|
Cảnh nhà gặp tai họa không nói hết lời được, nào cha mất,
nào vợ chết, nào mẹ già 60 đang ốm nặng – Cái tình cảnh khổ sở này không kể hết
được, đứa con lớn thì còn dại đứa thứ hai thì còn bé nhỏ, còn đứa bốn tuổi lại
chưa biết đi. |
|
Tham sống sợ chết. |
|
Của quý để đãi người quý. |
Chương III
- Năm mới, xin kính chúc tôn huynh mạnh khỏe sống lâu, lão
đương ích tráng 1 và
môn sinh tiến phát đăng khoa võng lọng đến bái môn như mắc cửi.
Ông cử Kim Cổ đang ngồi xếp bằng, thủ hai tay trong áo kép
rung đùi, uống nước trà nghe tiếng, vội đứng dậy bước ra cửa chào khách:
- Úi chà! May quá! Chào cậu Ba, năm mới cũng xin chúc mừng cậu...
tiểu đăng khoa rồi sẽ đại đăng khoa 2 .
Và không để cho khách kịp nói, ông vừa dẫn khách vào vừa nói
trước:
- Năm mới, tôi chưa sang lễ từ đường thầy mà cậu đã sang chơi
tôi thế này, thật là thất lễ quá, xin rước cậu ngồi chơi...
Ông khách vừa vào vội nói:
- Xin phép tôn huynh, rồi ngồi xuống sập và nói:
- Dạ, tôn huynh dạy quá ạ, đệ không dám, và cứ hiện tình này
thì thưa tôn huynh, khéo mà vẫn không cả đại lẫn tiểu đấy ạ.
Bà Cử bưng hộp giầu ở trong buồng ra, chào khách, đặt cơi giầu
xuống sập mời khách, cũng nói xen vào:
- Năm mới em cũng xin chúc cậu ấm cho vợ chồng em uống rượu,
và cho vui cửa vui nhà. Có cậu ấm khó tính, chứ cậu hỏi đâu mà chả được... Con
giai gần ba chục tuổi đầu rồi đấy cậu ạ.
Ông Cử cũng vui vẻ nói:
- Năm mới, vợ chồng tôi xin mừng thật đấy ạ, việc thi cử còn
nhờ ở phúc phận, học tài thi phận, tôi không dám nói, còn việc vợ con là tự
mình, thầy cô quá cố đi rồi, các anh các chị cũng chấp kỳ đại cương 3 thôi,
tự mình phải quyết lấy. Lúc này lại càng cần có vợ như đũa có đôi ấy, cậu ạ. À
này xem chừng con Xuyến nó vẫn có ý đợi đấy, hay là...
Cậu ấm cũng cười đáp:
- Nhưng thưa hai bác, lúc người ta thất thế bị cách, không hỏi,
đến nay, người ta được khai phục lại được cử làm Thương biện, mà đến hỏi thì
còn mặt mũi nào, nó làm sao ấy...
Bà Cử nói:
- Yêu nhau chín bỏ làm mười, ai người ta để ý chi đến chuyện ấy.
Có cậu khó tính thì có... Con gái lớn, người ta đang muốn gả chồng. Cao không tới
mà thấp không thông... Đấy cậu cứ nghĩ mà xem.
Cậu ấm phải nói chữa theo:
- Vâng thưa bác, để em nghĩ xem.
Rồi cậu quay sang nói với ông Cử:
- Đệ sang mừng tuổi tôn huynh sớm thế này cũng là một việc
phá cách. Đệ về quê Phủ Bình lễ nhà thờ tổ, chiều hôm qua mới ra, không kịp
sang hầu tôn huynh, nên hôm nay sang sớm để bàn với tôn huynh một việc: ở quê
và các nơi, người ta xôn xao rục rịch đánh Tây ghê lắm. Thế mà ở đây ta cứ rời
rạc như không! Tết đã không vui, mà người nào cũng chỉ biết lo riêng người ấy
thôi. Đệ sợ rằng những việc đệ bàn với tôn huynh hồi tiễn tống cố Tổng đốc
Hoàng tướng công nay đã thành sự thật rồi đấy. Giá mà ta cứ lập Nghĩa hội ngay
từ dạo ấy, để cùng với các nơi cùng nổi lên đánh...
Ông Cử thong thả ngắt:
- Tết năm nay kể cũng kém vui thật, nhưng nói ra thì việc đã
rồi, chả nhẽ làng mình có người làm quan ở đấy bảo mình mà mình không nghe à?
Thôi năm mới, mời cậu uống rượu ăn bánh lấy may đã, rồi ta sang chơi quan Tuần
một thể, mừng tuổi và hỏi xem binh tình ra sao? Tôi định sang rủ quan lớn cùng
sang lễ bên từ đường thầy...
- Vâng, năm mới, tôn huynh cho uống nước thôi, còn rượu bánh
để dành đến khi khác. Ta đi ngay đi, ngộ bận việc quan Tuần không ở nhà được hết
ngày hôm nay, lại phải vào thành.
Ông Cử đành phải chiều ông bạn trẻ, con thầy học. Uống nước,
ăn giầu xong, hai người cùng đi sang nhà Vũ Nhự ở cùng phường. Vũ Nhự đã đỗ Tiến
sỹ, lại đỗ Hoàng giáp khoa, uyên bác, nổi tiếng hay chữ, vốn được bà con hàng
phố trọng vọng. Từ khi được cử ra làm Thương biện rồi thăng Tuần phủ, ông tự nhận
là người sở tại khuyên bà con nên tin theo các quan, chớ nên ngang ngạnh mà gây
thêm khó khăn. Ông Cử là bạn đồng hương và đồng môn, nên cũng dễ nghe theo.
Nhưng gần một năm rồi, mà thành vẫn không giao trả, quân Tây không rút đi một mống,
lại có phần tăng lên, dân hàng phố kêu ca, ông Cử cũng đâm ra ngán nỗi sự hòa hảo
mà các quan hứa hẹn. Ông cũng thích đi với cậu ấm để hỏi thêm cho ra lẽ. Hai
người đến nơi giữa lúc ông Tuần vừa lễ từ đường xong sắp sửa trở vào dinh. Hai
người chào chúc tết, quan Tuần vui vẻ chúc lại. Ông Cử đáp lễ rồi lựa lời hỏi đến
thời thế. Vũ Nhự cười đọc ngay mấy câu thơ:
Thương thuyết không thành luống hổ ngươi,
Ruộng vườn tính chuyện trở về thôi
Quê ta khốn nỗi không vườn ruộng,
Hàng phố bon chen đã chật người.
Rồi ông đưa tờ giấy hoa tiên đỏ viết đặc tám câu thơ cho hai
người xem và nói tiếp:
- Còn đây thơ khai bút, cảm tác Đêm trừ tịch 4 năm
Ngọ và đón năm Mùi đây.
Cậu ấm đỡ lấy tờ giấy nhìn qua bài thơ, đọc câu đầu: “Tuất trừ
biên hoạn thượng nan trừ” (Năm trừ hết, mối lo ngoài biên còn khó trừ) và đọc
luôn hai câu cuối:
Vãng hĩ kim niên đa thiểu sự.
Minh niên lai sự cánh hà như.
(Qua rồi cái năm nay nhiều việc ấy, sang năm những việc sẽ tới
còn như thế nào nữa). Cậu chuyển tờ giấy cho ông Cử và hỏi:
- Bẩm cụ lớn, cứ như câu cuối thì việc năm nay việc sẽ tới
chưa biết sẽ còn khó khăn như thế nào nữa, cụ lớn không thể lường ra được, cho
nên những bài thơ nôm cụ lớn vừa đọc, cụ lớn muốn rút lui đi xa...
Vũ Nhự cười hề hề:
- Ấy mình văn quan, trọng tín nghĩa, kém phần quyền biến, lại
ở ngay nơi sở tại quê hương mình, nên tôi lại muốn xin về kinh như cũ.
- Thế bẩm cụ lớn có tin người Phú thực lòng hòa hảo không?
- Ấy từ nay trở đi theo như Trung Quốc dịch, và cho nó thống
nhất với các công văn của nhà Thanh, ta cũng dùng chữ Pháp thay cho chữ Phú trước
kia, nên bây giờ trong khi nói, chúng ta cũng gọi là người Pháp, người Pháp Lan
Tây. Họ cũng muốn hòa hảo để yên ổn mà buôn chứ.
- Vâng, cậu ấm hỏi, thế sao họ không trao giả thành?
- Vì họ sợ các nơi đều lăm le đánh họ.
- Thế bẩm, các quan nghĩ về việc các nơi lăm le đánh họ là phải
hay là trái?
- Đánh những kẻ lấn cướp, nhưng làm trái mệnh vua để hỏng việc
hòa hảo là trái.
Ông cử Kim Cổ cũng hỏi:
- Bẩm cụ lớn thế có phải ở ta đây làm khác với các nơi, ở ta
đây mà bàn cách đánh Tây là có cữu, sao các nơi người ta lại xôn xao phòng bị
đánh Tây?
- Đều là theo lệnh của đức Hoàng thượng cả. Ở các nơi vì Tây
họ chưa đến nên phải đề phòng, còn ở đây, Tây họ đã lấy thành, họ thương thuyết
trao trả thành mà mình lại phòng bị đánh họ thì sao họ nghe.
Cậu ấm nói ngay:
- Thưa cụ lớn, vì thế nên mới bị họ lấn, thành ra các quan tỉnh
là quan của họ, chứ không còn là quan của dân nữa.
Ông Cử phải nói đỡ:
- Cậu ấm chớ có nói thất lễ thế, đầu xuân năm mới cụ phải quở.
Vũ Nhự nói:
- Không sao! Cậu ấm đừng ngại, cậu không hiểu đấy thôi. Triều
đình đã nhờ được nhà Thanh gửi quân sang giúp hiện đã sang đến miền Cao Thái rồi.
Nên ở đây, thánh dụ bắt phải giao thiệp khôn khéo, giữ cho ổn thỏa, đừng khích
động họ mà làm hỏng việc. Mỗi nơi một khác chứ...
Cậu ấm nói:
- Đệ chỉ sợ bọn nó cứ cố thủ lấy thành tăng thêm quân, rồi tỏa
đi đánh các nơi, mình không củ hợp dân, huấn luyện dân thì làm sao mà chọi được
với bọn nó. Nó đánh bất thình lình lại đến như thành Hà năm ngoái.
- Bảo cho dân biết thì dân làm náo động lên mất. Vũ Nhự nói,
quân Thanh chưa sang đến nơi, mà nó đánh rộng ra thì mình đối phó lại thế nào
cho kịp được. Chế ngự nhất thời 5 ,
rồi để mất đất lại bị trói gô giải về kinh chịu tội cho mà xem.
Ông cử Kim Cổ nói xen vào:
- Vâng kể cũng khó khăn thật, được vừa ý dân thì dễ mắc tội với
triều đình.
Cậu ấm nói:
- Bẩm cụ lớn, lần này khác năm Dậu trước, là vì dân tin theo
quan cố Tổng đốc Hoàng tướng công. Năm Dậu, các quan tỉnh ngăn cản dân, nhưng sỹ
phu và dân chúng cứ họp nhau thành Nghĩa hội nên đã làm cho tụi lõ bị khó khăn,
sau phải rút lui. Lần này dân tin Hoàng tướng công sỹ phu không họp thành Nghĩa
hội ngay, đến sau này, ông Cử đây thấy cụ lớn về, lại tin theo cụ lớn, bảo dân
hãy tin đợi sự thương thuyết của các quan, nên chần chừ không làm gì cả. Bây giờ
thì đã muộn. Nên đệ xin trình thực với cụ lớn và bác Cử rằng, chúng ta nên họp
Nghĩa hội bí mật.
Vũ Nhự gạt ngay:
- Ấy lỡ ra thì khốn đấy. Tây nó bắt, mà quan ta rồi đến cũng
phải bắt. Không bắt thì nó thúc ép, nó tâu lên.
- Đệ cứ nhớ lời bác cử Tam Sơn thấy đúng mãi đến bây giờ, cậu
ấm nói, không biết bác ấy đâu, đã lâu nay không thấy đến không gặp nữa...
- Lão gì gàn gàn ở Tam Sơn à? Vũ Nhự giật mình hỏi. Hắn ta bị
ghép vào nghịch án 6 cùng
với lũ đồ tạo ở Phù Lưu và Cao Bá Thuyên, con Cao Bá Quát đấy, đang có án truy
nã, chớ có liên can với hắn...
- Thế à? Thảo nào bẵng đi không gặp, ông Cử nói, tội nghiệp!
Thôi chúng ta xin phép đi về đi, để cụ lớn còn vào dinh.
Hai người đứng lên chúc mừng một lần nữa, rồi chào ra về. Vũ
Nhự tiễn chân ra đến tận sân, còn nói với cậu ấm:
- Tôi bận chưa kịp sang lễ nhà thờ thầy, mồng ba tôi sẽ xin
ra. Nhưng này liệu mà nghĩ kỹ, chớ có nghe dại mà oan gia đấy!
Hai người vái chào rồi đi ra đường. Cậu ấm khẽ nói chuyện:
- Kìa bác trông, phố xá bơ phờ, người đi lễ tết hối hả, có
còn ra vẻ tết của dân mình nữa đâu. Tình thế khó khăn, nên quan Tuần muốn cáo
lui đi xa... đỡ phiền, nhưng mà thế thì kém lắm. Ở đây, bây giờ chỉ có tôn
huynh đấy. Tôn huynh phải đứng ra cho lũ tiểu đệ theo, quốc gia hưng vong thất
phu hữu trách, huống chi cánh mình ít ra cũng là nho gia tử đệ, có học...
- Vâng, rồi ra giêng ta sẽ bàn, ông Cử nói, cậu vào chơi để
tôi sửa lễ sang lễ thầy một thể.
- Thôi tôn huynh ạ, cứ theo lệ mồng ba nhà thầy, cậu ấm đáp.
Đệ xin phép, đệ còn đi đằng này một chút.
- Đi lễ đâu đấy?
- Dạ, đi lễ tổ tiên nội ngoại đã có các anh chị − Đệ chỉ đi
vì những việc cần, như lại hầu tôn huynh...
- Thế có lại chơi ông Thương không? Ông Cử hỏi vui.
- Ông Thương nào nhỉ, cậu ấm ngớ người ra hỏi.
- Quan Thương mới huyện ta ấy mà, vờ thế?
- À đệ vô tình không kịp nghĩ ra, cậu ấm cười vui vẻ. Có chứ.
Đệ cũng đang có việc muốn sở cậy cô ấy.
Cậu chào ông Cử rồi đi thẳng phố Hàng Bài trở về nhà lấy năm
quả cau, một lá giầu, một nậm rượu, bỏ nậm rượu vào túi áo trong, gói giầu cau
vào khăn tay, đi ra quanh bờ hồ sang làng Yên Trường tìm vào nhà anh Thạch. Cậu
biết anh Thạch từ chín năm nay. Sau vụ di táng ngôi mộ ở Tháp Rùa, thỉnh thoảng
cậu có vào chơi, bên bà mẹ anh Thạch đã biết mặt. Anh Thạch đi lễ tết vắng. Bà
cụ rất vui mừng thấy cậu đến chơi vào dịp tết năm mới, đỡ giầu rượu để lên bàn
thờ, không để cho cậu lễ, ngăn cậu ngồi xuống giường luôn miệng nói:
- Quý hóa quá! Tết năm sớm, cậu có lòng quá bộ lại chơi thế
này, thật quý hóa quá, thật rồng đến nhà tôm, cậu ngồi chơi xơi giầu, cháu nó về
bây giờ đấy ạ... Quý hóa quá!
Một lúc sau, anh Thạch về, anh mặc chiếc áo thâm Xuân Cầu
giãi hạt cau, quần vải nhỏ trắng, cái khăn lượt rối quấn lấy búi tóc củ hành
cài trâm xương, trông có vẻ trẻ hơn ngày thường, cậu ấm đứng lên tươi cười chúc
ngay:
- Chúc anh năm nay trẻ ra, và đẻ thêm con giai.
Anh Thạch cũng tíu tít mừng tuổi lại. Chị Thạch đã bưng mâm cỗ
từ trong buồng ra chào cậu ấm và đặt cỗ xuống giường. Bà cụ cũng theo ra mời:
- Quý hóa quá, tết năm sớm, chả thiếu gì, nhưng cậu đã quá bộ
đến chơi mừng mẹ con nhà cháu. Xin rước cậu ngồi xơi chén rượu nhạt ăn bánh lấy
may cho nhà cháu.
Anh Thạch cũng nói:
- Quanh năm mới được mấy ngày rỗi, em xin ngồi uống hầu cậu mấy
chén, gọi là đầu năm được may.
- Để tôi xin phép vào lễ cụ đã, cậu ấm nói.
- Thôi, thôi xin cậu, cậu tha cho, cụ tôi lù đù hiền lành, cậu
mà lễ, cụ tôi sợ, cụ tôi đến xuất ngoại 7 .
Cậu ấm đành ngồi xuống giường vui vẻ uống rượu với anh Thạch
và gợi chuyện đưa dần ý định của mình. Sau mấy câu chuyện về làm ăn, cậu hỏi
anh Thạch về tết năm nay. Anh Thạch đang vui, nghiêm nét mặt lại nói:
- Cậu hỏi thì em mới nói. Thật tình mình sống gần Tây Tàu đã
tám chín năm nay. Nhưng chửa thấy năm nào khó khăn và khó chịu như cái tết năm
nay. Tụi lõ nó không hoạnh họe như thời lão Đồ Phổ Nghĩa, lão Ngạc Nhe. Nhưng
chúng nó nghi ngờ khám xét lối ra vào, chúng nó lại đông, có sẵn thông ngôn,
nên chúng nó canh ngặt lắm, thành ra hàng họ không đem vào được, bà con anh em
khó đi lại thăm nhau, có kêu quan ta thì cũng như nước đổ lá khoai, Tây nó cứ
làm... Ở đây mình quen đi rồi còn ức thế nữa là các nơi.
Cậu ấm thủng thẳng nói nhỏ:
- Phải các nơi người ta tức lắm nên người ta đang rầm rập chuẩn
bị đánh Tây. Hôm trong năm, tôi về Phủ Bình, thấy ở miền tỉnh Đông, tỉnh Nam,
người ta xay lúa, rèn khí giới, quyên tiền sửa soạn đánh giặc, vui như hội, có
nhà dồn đến năm sáu chục công xay vào xay thóc, có nơi nuôi hàng mấy chục lò
rèn ở trong nhà. Ở ta đây thì các quan ta bị lừa cứ nhân nhượng để mong cho nó
mau trả thành, cấm dân không được làm gì cả để cho nó khỏi ngờ, sỹ phu văn thân
thì thấp cơ thua trí bọn lõ, thấy nó để cho đưa đón linh đình đám ma quan Tổng
đốc Hoàng Diệu, tưởng nó đã chịu ta rồi, không cần đánh chác gì nữa, cứ đợi nó
trả thành rút quân là xong. Ai ngờ đến ngày nay, nó cứ ỳ ra đấy, mà nó lại trói
buộc các quan mình theo như ý nó, làm cho dân ta khổ cực.
- Bọn nó đã lật lọng như thế, thế sao các quan ta không đánh?
Anh Thạch vừa rót rượu cho cậu ấm vừa hỏi.
- Vì bị nó kiềm chế trói buộc lâu ngày thành như người của nó
rồi. Bây giờ chỉ còn ngồi trông chờ ở các nơi đánh về và mấy chục doanh quân
nhà Thanh tiến sang giúp.
Anh Thạch cũng nói ngay:
- Em cũng nghe nói có quân nhà Thanh đã sang đến Bắc rồi, ối
dào, lại những ông tướng Tàu ấy thì rồi cũng chả nước nôi gì. Vả việc mình chứ
có phải việc người ta đâu mà người ta thiết.
- Phải, cậu ấm vui vẻ nói to lên tỏ ý tán thành, rồi hạ thấp
giọng: Vì thế nên tôi mới đến chơi bàn với anh.
- Lại bàn cách lập hội đánh Tây chứ gì? Anh Thạch đang cầm
chén rượu chực uống, vội đặt xuống hỏi ngay. Cậu cứ họp đi, em sẽ rủ anh em vào
còn đông hơn hồi năm Dậu kia. Dù bây giờ em đã có vợ hai con, em cũng xin ký cả
hai tay.
- Tốt quá, cậu ấm cười ha hả nói, năm mới nói chuyện mới, lại
có người theo ngay.
- Nhiều người theo ấy chứ lị, mọi người đang tức đây, chúng
em đang bàn nhau, cùng ra, cứ một đổi một khử nó đi cho bõ ghét.
- Đâu đã đến nỗi thế. Còn có nhiều người hợp lại nên sức mạnh
chứ. Tôi chỉ tiếc giá như ông Cử ông ấy nghe tôi thì ta mưu sự ngay từ sau đám
ma quan Tổng đốc. Ông ấy lại nghe quan Hoàng giáp gàn chúng tôi lại.
- Úi chà các ông quan thì các ông ấy sợ dân ta hơn sợ Tây ấy
chứ. Sao lại đi nghe các ông ấy. Mình làm thì cứ việc làm, để lâu mèo già hóa
cáo lại càng khó.
Cậu ấm tự rót lấy một chén rượu, uống một nửa, còn một nửa, hất
xuống đất và nói:
- Uống mừng xuân và mừng nhau thế là đủ, anh nhớ nhé, biến
báo cho anh em, và ngay trong dịp tết, có gặp, anh rủ cả anh thợ thêu Tín Mỹ nữa
nhé.
Rồi cậu đứng lên trước bàn thờ vái ba vái, chào mọi người để
ra về. Bà cụ và chị Thạch ở trong buồng chạy ra đưa trả cái nậm và cùng với anh
Thạch tiễn chân khách ra đến tận cổng. Cậu Phách trở về lại lấy lễ vật đi xuống
Phúc Lâm, lấy cớ đi chơi tết, vào mừng tuổi bác Hai Phúc gái và tìm anh Tín và
em Phú, con giai bác Phúc.
Trong khi ở Hà Nội, những người nhiệt tâm yêu nước đang cố gắng
nhóm họp nhân dân, thì một sự thực hiển nhiên đã đến đã làm tăng lòng phẫn nộ của
mọi người: Tàu Pháp chở đến bốn trăm lính thêm cho Ri-vi-e. Đoàn quân rầm rầm
đi từ Đồn Thủy qua cửa ô Long Tường qua trường thi vào cửa Nam thành, các quan
tỉnh phải dọn kho thóc đi cho quân lính nước Đại Pháp đóng tạm. Dân chúng xôn
xao, toàn thành náo động. Lãnh sự Kê-la-đích sợ xảy ra biến loạn vội vào thành
báo cáo với Ri-vi-e. Tên này cười khoái chá nói:
- Không ngại, ông Lãnh sự ạ, quân đội ta đã đóng yên ổn ở đây
một năm rồi. Giờ ta có thêm gấp rưỡi số quân nữa, thì họ không dám làm gì ta
đâu. Vả chính các ông quan tỉnh sẽ bảo vệ ta.
Ngừng một lát, hắn nói tiếp:
- Mấy ngày nữa, có cố Phước hay vị đại diện của cố có Kẻ Sở đến
đây nói rõ tình hình dò xét và thu xếp ở vùng Nam Định, Ninh Bình cụ thể ra
sao, tôi sẽ xin mời ông đến, ta cùng bàn cách mở rộng phạm vi đất đai của chúng
ta. Ta tránh sự hấp tấp của ông Gác-nhi-ê ngày trước. Ta đi từng bước chắc chắn,
không sợ kẻ địch đánh lại − Ở đây, ông cứ khéo léo, hòa nhã, để giữ lòng dân,
tránh mọi sự gây khích nộ, rất có hại cho ta... Tôi hiện đang bận nghĩ cách chiếm
lấy vùng mỏ Hồng Gai. Ông Lê-na ở Huế vừa bảo cho tôi biết Lý Hồng Chương nhà
Thanh đang điều đình với triều đình thuê mỏ Hồng Gai, nên ta phải chiếm trước,
để mất mỏ này không những là mất mối lợi thiên nhiên vô tận, mà còn sẽ gặp khó
khăn sau này, vì Lý Hồng Chương sẽ nhờ vào kỹ thuật và tư bản của người Anh,
người Anh sẽ vào đây. Cho nên tôi đã phái một trăm quân ở Pháp gửi sang đóng ở
Hải Phòng cùng với một số ít quân đã ở Hải Phòng lên chiếm ngay vùng mỏ than và
vịnh Hạ Long. Cũng chỉ nay mai là có tin. Tôi nhất định là được vì ở đấy không
có đồn lũy gì cả.
Ri-vi-e cười đứng lên thân mật vỗ vai Kê-la-đích:
- Ông bạn cứ yên tâm, cuộc họp sau ta sẽ ăn mừng mùa xuân này
của chúng ta... mừng thắng lợi của chúng ta.
Đúng như vậy, Ri-vi-e đã lấn từng bước vững chắc, tiến hành mọi
âm mưu một cách nhanh và gọn. Đầu tháng hai ta (3-1883), quân Pháp chiếm đóng Hồng
Gai một cách dễ dàng, và đến trung tuần tháng hai cuộc họp tay ba ở phòng khách
thiết lập trong hành cung giữa Ri-vi-e, Kê-la-đích và linh mục Nghiêm đại diện
của cố Phước, Ri-vi-e đã hào hứng báo tin thắng này:
- Tôi đã giữ đúng lời hứa với ông Lãnh sự: Sự chiếm đoạt cả
phía tây vịnh Hạ Long cho ta cái chìa khóa nắm giữ cả mặt bể Bắc kỳ và cho ta
chủ quyền trên đất mỏ. Ta được rảnh tay về mặt ấy.
Hắn quay sang phía cha Nghiêm và nói:
- Bây giờ ta bàn đến việc mở rộng ra đồng bằng. Tàu ta đã đi
lại được trên sông như thế là hành quân vẫn được dễ dàng. Thư của đức cha nói
rõ các vùng dân giáo ở Ninh Bình, Nam Định và miền Nam tỉnh Hà Nội đã được chuẩn
bị sẵn sàng đón chúng ta. Tôi sẽ giao súng nhờ đức cha lập quân địa phương và
chính quyền địa phương. Nhà thờ là một tổ chức kiên cố và rất có kỷ luật, cho
nên sẽ trợ thủ đắc lực nhất cho ta trong cuộc chiến tranh ở xứ An Nam này. Thay
mặt quân đội, tôi xin hết lòng khâm phục và tỏ lòng biết ơn đức cha, các cha và
các hàng giáo phận đất An Nam.
Sau khi mời hai người uống rượu, lão ta hỏi cha Nghiêm về cặn
kẽ tình hình cụ thể ở các nơi, về hoạt động của Phạm Quang Diệu ở Kẻ Tâng, của
cha Sáu ở Phát Diệm, hắn đã ghi chép kỹ càng từng điểm, rồi hắn hỏi thêm ý kiến
của Kê-la-đích về những tình hình ấy. Cuối cùng hắn trình bày rõ kế sách mở rộng
ra vùng đồng bằng sông Hồng một cách rất trơn tru, quả quyết:
- Tôi sẽ cho quân đi từ Hà Nội đánh lấy Ninh Bình, lấy Nam Định,
rồi từ đấy ra Hưng Yên. Xong đâu đấy ta xây dựng lại chính quyền theo như mẫu mực
tỉnh Hà Nội này, ngoài mặt thì vẫn là chính quyền của họ, quan lại của họ, của
triều đình, nhưng thực quyền là của ta. Rồi hai mặt ta tiến đánh Hải Dương, sau
đó mới đến lượt Bắc Ninh, Sơn Tây.
Kê-la-đích vẫn tỏ vẻ ngại:
- Nhưng tôi sợ dân tình xôn xao họ cố liều đánh.
- Tôi cũng đã nghĩ đến điều đó. Ri-vi-e nói, nhưng không ngại,
ông bạn ạ, ta có quân mạnh, tàu nhanh, súng phá dữ, lại có người đánh các nơi.
Bên họ tuy dân có sốc nổi, nhưng quan không tin dân, cứ ở lì trong thành, dân
thì sốc nổi thường bị triều đình ngăn cấm và lừa gạt không nắm được thời cơ và
dễ bị ta làm lạc hướng đánh không trúng chỗ.
Cha Nghiêm và Kê-la-đích cũng nói một ý:
- Dù sao vừa chiếm Hồng Gai xong thì cũng nên để thong thả
đã, không thì triều đình Huế thấy ta làm già, có thể gây ra chiến tranh toàn cục
huy động toàn dân đánh lại ta thì khó khăn sẽ lớn.
Ri-vi-e vui vẻ nói:
- Họ chưa dám làm thế đâu. Ông Lê-na ở Huế đã gửi thư ra cho
tôi rõ nếu ta cứ nay lấy thành này mai lấy thành khác mà không tổng tấn công một
lượt khắp nơi thì Tự Đức cũng sẽ không làm gì đâu, mà cứ trông mong ở cuộc
thương quyết.
Hắn đứng lên đi lấy bức thư mới nhất của Lê-na đưa cho
Kê-la-đích và bảo:
- Thư ông Lê-na viết ngày 17-3 mới năm hôm nay. Đây ông đọc
cái đoạn tôi gạch bút chì đỏ này mà xem và để cha Nghiêm cùng nghe.
Kê-la-đích, cầm lấy bức thư đọc lướt qua một lượt rồi đọc to
cái đoạn có viết bút chì:
“Ở đây người ta ngồi không và vô tư vô lự trông đợi kết quả của
hai phái đoàn. Không có ai tin tưởng lắm đâu, tâm trạng của một người là chắc rằng
phải nhượng bộ khi chúng ta đòi hỏi nước An Nam từ biên cảnh Trung Quốc đến Nam
kỳ phải trở thành xứ bảo hộ của ta. Nhưng không ai dám nói thẳng với nhà vua
cho nhà vua nhìn nhận ngay từ giờ. Người này đánh lừa người kia, bảo nhau tin cậy
ở hai phái đoàn, tin cậy ở cái sức cản bên ngoài. Nhưng mà tất cả cái đó đánh lừa
được ai họ cũng hiểu với nhau cả”.
Ri-vi-e khuơ hai tay xòe rộng ta và nói:
- Đấy, các ông xem tâm trạng các quan triều như thế đấy. Chỉ
sợ các ông Tổng đốc ở các tỉnh và ông Thống đốc Hoàng Tá Viêm thôi. Nhưng mà đã
gần một năm nay rồi, mà chỗ chúng ta đóng quân ở đây chưa hề được hân hạnh có vị
nào đến thăm viếng.
Rồi hắn đứng dậy vồn vã:
- Vì vậy hôm nay mời hai ngài cùng dự bữa tiệc xuất quân của
chúng tôi và mừng thắng lợi của chúng ta.
Hắn dí sát gần cha Nghiêm và nói thêm:
- Mai cha sẽ đi tàu của chúng tôi về đến Kẻ Sở để cha về ngay
trình với đức cha, mọi ý định chúng ta vừa bàn để đức cha kịp thời xếp đặt công
việc.
Ngày 24-3. Ri-vi-e giao quyền giữ thành cho tên Thiếu tá
Vi-lê (Berle Devillers), tự mình chỉ huy đoàn quân xuất phát từ Hà Nội. Đoàn
quân gần 500 lính tinh nhuệ đi trên 10 tàu máy và một số thuyền gỗ đi theo sông
Hồng vào sông Đáy. Sáng ngày 26 quân Pháp lên chiếm thành Ninh Bình không một
tiếng nổ: thành bỏ trống không. Ri-vi-e đóng quân ở đó nghỉ ngơi và gửi thư cho
Tổng đốc Nam Định Vũ Trọng Bình buộc phải nộp thành rồi lại tiến quân đi. Sáng
27, súng bắt đầu nổ suốt một giờ rồi quân xông đến cửa Đông. Cuộc đánh nhau kéo
dài từ sáng đến đúng trưa thì thành bị hạ, quan năm Ca-rô của Pháp bị đạn chết ở
cửa Đông, Đề đốc Lê Văn Điếm bị tử trận ở trên tường thành. Án sát Hồ Bá Ôn bị
đạn. Tổng đốc Vũ Trọng Bình và các quan khác bỏ thành chạy, Kinh lược sứ Nguyễn
Chính đóng quân ở làng Đặng Xá huyện Mỹ Lộc, không hề ứng cứu, khi được tin
thành vỡ liền rút lui về Vụ Bản. Ri-vi-e vào thành thu được 98 khẩu đại bác và
các kho tàng khóc gạo, tiền kẽm và đồng còn đầy ăm ắp y nguyên. Hắn chia quân
đóng giữ thành xếp đặt việc trị an, trả lương trước cho các cấp quan lại ở lại
làm việc với hắn. Và hắn lấy làm tự hào báo cáo với Sài Gòn về sự thắng trận mới
này và kết luận rằng: Chiến tranh Bắc kỳ không tốn kém mà lại có lợi: “Một năm
rồi, cuộc viễn chinh ở Bắc kỳ chẳng tốn kém gì cho nước Pháp, cho xứ Nam kỳ mà
còn đem lại lợi to: Chiếm Hà Nội lấy được 12 vạn đồng, Nam Định 18 vạn đồng,
riêng thuế thương chính hàng năm thu vào 18 vạn đồng. Còn số thuế trưng thâu và
thuốc phiện là 82.000 quan phờ-răng mỗi năm” và hắn lấy làm thích thú báo tin
cho Kê-la-đích bằng một bức thư ngắn:
“Ông bạn thân mến! Bây giờ ở trong cái thành bé nhỏ, bé hơn
thành Hà Nội – và kiên cố xinh xinh như ngự trên một quả đồi thấp, tôi đang bận
mọi công việc ổn định cái tỉnh lớn ở đồng bằng này, tôi cũng vội báo tin thắng
trận cho ông biết. Cuộc hành quân dễ dàng quá sức tưởng tượng. Trên đường đi ở
sông chỉ có sự cản trở lẻ tẻ không đáng kể, tàu đi thông thống như đi trên đất
nước của ta, đến Ninh Bình như đến chỗ không người. Còn ở Nam Định, mặc dầu có
Đại tá Ca-rô bị đạn rất nặng phải đưa về trên ấy cứu chữa, nhưng đó là ngẫu
nhiên, không may! Còn thắng lợi thì thật to lớn vô cùng. Xin báo để ông bạn mừng,
mừng cho chúng ta: Một cái đặc sắc của nước An Nam này là sự không đồng tình giữa
các ông Tổng đốc khi một ông Tổng đốc nào bị đánh, thì ông ấy mới lo, chớ không
hề ai lo đến tỉnh gần bị đánh... Vì thế cho nên ta cứ việc sắp đặt, ổn định trật
tự trong tỉnh theo như kinh nghiệm và mẫu mực ở tỉnh Hà Nội của ông đấy.”
° ° °
Nhưng bức thư văn vẻ và khoe khoang của gã tổng chỉ huy xâm
lược vẫn không đủ trấn tĩnh ông bạn cai trị lâu năm đã hiểu rõ tâm tình chất
phác và yêu chính nghĩa của nhân dân Hà Nội. Kê-la-đích lo ngại có cuộc đánh úp
Đồn Thủy, nên hắn đã đề phòng nơi này rất cẩn mật. Hắn thân vào thành bàn với
Vi-lê và bày cách cho tên này làm nghi binh để đánh lừa dân chúng. Vì hắn đã được
tin báo hai đạo quân của hai tỉnh Sơn Tây và Bắc Ninh đang thắt chặt vòng vây
quanh thành Hà Nội. Thật vậy, khi ấy ở bên kia sông Hồng, Tổng đốc Trương Quang
Đản và Kinh lược phó sứ Bùi Công Niên đã điều động các đạo quân đến đóng ở bờ
sông khắp miền Gia Lâm, Văn Giang, Đông Ngàn để sẵn sàng đánh vào Hà Nội. Bọn họ
đã dâng sớ về triều nói rằng:
“... Hiện nay hàng trận quân lính mọi đạo đều đã nghiêm chỉnh,
nghĩ nên trước hết khởi sự ở chỗ nó đóng ở Hà Nội, may nhờ uy phách của nhà
vua, có thể xảy đến nhổ cái Đồn Thủy của nó, rồi một là để quân chiếm giữ lấy
hai là chọn mấy đạo quân tinh luyện đi nhanh nuốt đường xuống cứu viện Nam Định,
ngõ hầu đuổi kịp cơ sự...”
Ở trong thành phố, nhân dân đã được anh em Nghĩa hội liên lạc
lại thấy tướng Pháp đem quân đi, và có tin quân ở các tỉnh Bắc đã về đóng sát ở
bên kia sông, mọi người cùng hăng hái bảo nhau chuẩn bị sẵn sàng để phối hợp
chiến đấu và làm thanh thế cho quân ở ngoài. Những gia đình đông người, những
ông già, những đàn bà trẻ con đã tản bớt về vùng quê. Phố phường xôn xao. Tổng
đốc Nguyễn Hữu Độ viết đề thông sức yết thị khuyên dân chúng yên tĩnh làm ăn và
cấm hội họp tụ năm, tụ ba. Nhưng mọi người cứ công nhiên đi lại tụ tập. Để thị
uy, Vi-lê cho dàn 230 quân súng ống đầy đủ, lưỡi lê sáng quắc đi vòng quanh
thành và diễu qua các phố dưới trời mưa tầm tã. Hắn dẫn quân ra tập trận ở trên
đê ngắm súng thẳng sang bên kia sông và bắn đạn giả. Hắn lại bắt Nguyễn Hữu Độ
ra lệnh cho gọi hết các thuyền ở bên tả ngạn phải rời sang đỗ ở bên bờ này, tập
trung quanh chiếc tàu chiến Lê-ô-pa (Leopard). Hắn bắt Tổng đốc sai Đề đốc chia
quân canh giữ các nơi trấn áp dân chúng. Nhân dân trong phố vẫn không nao núng,
vẫn bình tĩnh chờ đợi. Và suốt ngày đêm nhóm nào toán ấy, với vũ khí thô sơ, vẫn
nghe ngóng theo dõi tăm hơi quân ngoài vào để cùng nổi dậy. Đợi không lâu đã được
dịp. Thì đúng đêm 17 tháng 2 (26 rạng sáng 27 tháng 3-1883) quân đội của các
quan ta từ bên Gia Lâm đã qua miền Tứ tổng chập tối, vượt qua sông vào cửa ô
Hàng Đậu, được nhân dân dẫn tắt qua các phố vào đánh cửa Đông, bao vây hai kho
thóc, nơi quân Pháp đóng từ mấy hôm trước. Ở đấy, quân Pháp chỉ còn lại một số
ít, chống cự yếu ớt, bắn vu vơ mấy phát súng, rồi bỏ chạy rút cả vào trong
thành. Vi-lê ngờ ý định của quân ta đánh thành là để dử cho Đồn Thủy đưa quân
lên cứu, để thừa cơ sơ hở mà qua sông đánh chiếm Đồn Thủy, nên hắn rút hết quân
về giữ quanh thành cung và thúc số quân của Tổng đốc ra đánh nhau giành lại kho
thóc. Hai quân của triều đình gặp nhau nghe tiếng nói và trông lờ mờ thấy nhau,
chả nhẽ lại đánh nhau, quân ngoài liền kêu gọi quân trong vào vây đánh tiêu diệt
bọn Pháp ở hành cung. Bọn quân trong sợ lệnh Tổng đốc và các quan trong tỉnh,
không dám theo ý quân ngoài, có kẻ nói lớn:
- Không biết gì cả, xin các anh lui ra. Không chúng tôi bắn
đây này! Xuống mà vây đánh Đồn Thủy! Chúng tôi kìm bọn nó ở trên này. Hai bên cứ
nhủng nhẳng, nhân dân Nghĩa hội sốt ruột cứ hò reo tiến lên, nhiều người thét lớn:
- Tiêu diệt giặc ở hành cung đã!
- Ai không đánh giặc tức là theo giặc!
Đoàn quân ào ào tiến vào, quân bên trong không dám cản. Vi-lê
cuống sợ vội bắt ép các quan tỉnh ra dàn xếp. Hữu Độ liền giục Vũ Nhự, người sở
tại, ra hiểu dụ, mang theo cả cờ biển Khâm sai cũ ra làm vai vế. Quả nhiên,
quân lính triều đình trông thấy cờ biển của nhà vua và quan Tuần phủ Hà Nội, liền
đứng dừng cả lại. Vũ Nhự sai lính cản nhân dân đứng lùi xuống, rồi nói dõng dạc:
- Tôi xin truyền lệnh của quan Tổng đốc xuống cho anh em như thế
này: ném chuột phải giữ lấy bình ngọc. Hai bên đều là lính và dân con của triều
đình cả. Thế mà kéo nhau vào đánh phá nơi các quan ở thế này, thì tránh sao khỏi
tội?
Mấy thanh niên hàng phố nói to:
- Chúng tôi đánh Tây, chứ không đánh các quan!
Vũ Nhự cười cướp lời ngay, nghiêm nghị hơn:
- ... Nhưng mà Tây chưa thấy đâu, chỉ thấy các quan đây thôi.
Các quan thương dân không nỡ ra lệnh bắt giết. Làm dân phải biết phép nước chứ...
Vậy tôi hạ lệnh cho các người phải ra ngay! Các thầy Quản cơ Vệ úy đâu, dọn
hàng quân đuổi họ ra! Quân đội tỉnh Bắc phải rút ngay đi... Không tôi làm sớ hoặc
là theo phỉ!
Quân lính bên Bắc vội rút ra trước, dân đành lục đục theo
sau, đi ra ngoài thành. Bà con trong phố bàn với mấy vị cai đội chỉ huy quân
lính cứ kéo xuống đánh Đồn Thủy. Nhưng họ không nghe lại theo lối cũ, họ vội vã
rút quân về bên kia sông. Thế là suốt một đêm, hơn bốn nghìn quân và dân đánh
thẳng được vào thành Hà Nội mà không nên công trạng gì!
Sáng ra, yên tĩnh. Vi-lê đem một trăm quân sang sông đánh trả
thù. Nó sục sạo tiến vào hai làng Gia Quất và Thượng Cát. Nhưng ở bên trong,
nhân dân đã đào hào chiến đấu, quân lính nấp ở trong bắn đại bác ra chặn đánh,
quân giặc không vào được. Đến chiều chúng phải rút lui, lại bị quân ta truy
kích gây cho chúng nhiều thiệt hại. Hôm sau, Vi-lê lại đem hai trăm quân sang
sông, có đại bác ở tàu Lê-ô-pa bắn lên dọn đường trước. Hắn lại tiến quân vào
đánh hai làng Gia Quất và Thượng Cát. Hai bên đánh nhau ác liệt. Đến trưa quân
và dân ta rút ra khỏi hai làng. Giặc tiến vào phóng lửa đốt cháy trụi hai làng.
Giữa lúc ngọn lửa đang bốc cháy thì hai đạo quân của quan Thương biện Nguyễn
Cao và của Lãnh binh Hồ Văn Phấn tiến đến đánh chẹn hậu. Giặc Pháp vội vàng vừa
đánh vừa chạy, đốt hết các xóm ven sông để che chở lối thoát xuống sông rút về
Đồn Thủy.
Bọn Pháp bưng bít kín số thiệt hại ở ngoài không ai có thể lượng
đoán được. Các quân tỉnh Bắc đã thắng trận, nhưng không tiến ngay sang đánh bên
này, nhiều người nóng ruột, liền lén sang sông thăm dò tin tức, thấy xóm làng bị
đốt phá tan hoang, xơ xác mà quân lính đã rời đi xa. Mọi người mới suy đoán là
các quan sợ địch đánh báo thù nữa, nên các người không nghĩ đến việc sang Hà Nội.
Anh em Nghĩa hội liền họp bàn thấy nên cử người sang tìm gặp hẳn các quan bên tỉnh,
trình bày rõ kế đánh thành có dân phố bên trong làm nội ứng. Cậu ấm Ba Tự Tháp
tình nguyện xin đi, được mọi người đồng ý, vì cậu đã nhiều lần sang thăm cảnh
chiến tràng, và cậu lại là thế huynh của quan Thương biện Nguyễn Cao, vị thủ
khoa nổi tiếng của làng Cách Bi, học trò giỏi của quan nghè Tự Tháp và hiện
đang là người cương quyết đánh đuổi giặc Pháp. Cậu ấm liền sang bên Gia Lâm lần
mò thăm hỏi mãi, mất hai ngày mới tìm được đến nơi quan Thương biện đóng quân, ở
một làng trong phủ Thuận Thành. Cậu trình bày rõ tình hình bà con trong thành
phố, mọi người nguyện cùng nhau một lòng diệt giặc và mong mỏi các quan tỉnh Bắc
tiến quân vào, bà con sẽ làm nội ứng cùng đánh giặc. Nguyễn Cao hỏi rõ thêm từng
chi tiết cụ thể ở các phố, tư tưởng của các sỹ phu, của mấy ông Cử quen biết. Sau
cùng ông nói:
- Bà con nghĩ như thế là phải. Mà lại biết cử cậu sang bên
này trình rõ với các quan lại càng tốt. Nhưng trước hết cậu phải làm hai việc
đã: cậu phải đi Sơn Tây yết kiến quan Thống đốc Hoàng Tá Viêm, dựa vào Sơn có
thể hơn dựa vào Bắc. Hai là cậu phải bắt mối giao thiệp được với thân tín của
Pháp để dò biết mọi hướng hành quân của nó...
Thấy cậu ấm Ba ngồi ngẩn người ra có vẻ nghĩ ngợi lo ngại,
ông cười vui vẻ nói tiếp:
- Việc có vẻ khó, nhưng không khó lắm đâu. Tôi sẽ viết giấy
trình cậu với Hoàng Thống tướng. Và khi cậu có được người liên lạc với Pháp thì
ông ấy quý cậu đáo để. Việc này thì tùy ở cậu, làm thân với bọn thông ngôn cũng
dễ ấy mà. Còn các quan ở đây thì tôi xin hết lòng tỏ bày với các quan rõ lợi hại
việc nên tiến thẳng vào Hà Thành. Nhưng mà, có lẽ phải lâu lâu chưa ngay được...
Ông ngừng lại đứng lên đi mở tráp lục lấy một tờ giấy khổ rộng
đưa cho cậu ấm và nói:
- Nó thế này, đây cậu xem, sớ của quan Phó sứ Bùi Di đấy.
Cậu ấm đỡ lấy và đưa mắt đọc ngay đoạn chính:
“... Một việc tiễu Hà, đã từng phụng chỉ dụ nghiêm khắc thiết
tha sai Thống đốc thần lập tức tiến quân vào bức bách Hà Thành trước khi Nam Định
hữu sự, để cho bọn nó trông chỗ này thì mất chỗ kia, không sính chí xuống Nam.
Như thế há chẳng là khéo liệu trước ư? Thế mà cứ đóng ở Sơn không tiến đến nỗi
nó được nhàn rỗi, định lẽ đánh chiếm được Nam Định. Sự thế thành ra khó thêm.
Ví phỏng Lưu Đoàn 8 không
đến mà mọi tỉnh Bắc kỳ vạn nhất có ngại, thì Thống đốc thần ấy cũng cứ trơ vậy
ngồi trông. Điều độ như thế mà mong thành đại cục thực biết là muôn vạn khó
khăn. Nay Lưu Đoàn đã đến, lại đem triệt hết đạo quân ở Bắc về Sơn. Mới đây người
Pháp mưu quấy tỉnh Bắc, việc đóng quân giữ tỉnh Bắc là rất khẩn, đã từng đem việc
ấy phúc trình lên, mà Thống đốc thần ấy không xét kỹ bàn bạc gì cả, luôn luôn tự
đi kéo lấy quân về, tất muốn hậu cho mình mà bạc láng giềng, lại muốn làm trái
lệnh trên để nhân cơ hội thêm tội cho người khác. Bậc đại thần mà dụng tâm như
thế, thực không thể hiểu.
Gần đây cứ theo lời Lưu Vĩnh Phúc, đáp lại phái viên thì tiến
đóng, nhanh, chậm Thống đốc thần ấy cũng chỉ theo Vĩnh Phúc chủ trương, thế là
không nghĩ đến việc nước, chỉ biết nắm quyền đè nén kẻ dưới khiến người đó
không cất tay lên được và việc đánh ở Gia Lâm thần và Trương Quang Đản cũng làm
được dư thưởng, còn Thống đốc thần ấy lại đội ơn được khiển trách nhẹ không khỏi
để ý oán giận. Thánh Minh ở trên có hiềm ghét gì ai, thần chỉ biết hết sức mưu
báo đền, dám có lòng gì đâu, nhưng thấy sự như vậy nói ra cố nhiên là có tội,
không nói ra cũng sợ có tội”.
Cậu ấm đọc lướt nhanh hết cả chính ý trong tờ sớ, để tờ giấy
xuống án thư, ngước mắt nhìn ông bạn, người nhỏ nhắn, trán cao và bóng, đôi mắt
sáng quắc đang đăm đăm nhìn thẳng ra ngoài sân, như mải theo dõi tình hình ở
mãi xa xôi, cậu không dám hỏi mà cũng chưa dám lên tiếng thì Nguyễn Cao đã nói:
- Kể ra thì quan Thống đốc cũng có cữu là chậm trễ thật đấy,
nhưng các quan tỉnh Bắc và quan Kinh lược phó sứ cũng cứ nghe ngóng không chịu
tiến, tôi đã mấy lần bàn cứ đánh thẳng sang Đồn Thủy, nhưng các quan cứ sợ hao
quân bị cữu. Rõ dở quá, chung quy chỉ nghĩ đến riêng mình cả chứ có phải nghĩ đến
nước đâu.
Ông bỗng cười lớn:
- Chết cái bây giờ đánh vào Hà Nội không khéo lại hóa ra mình
đánh mình, đánh ông Nguyễn Hữu Độ và cả cái ông Vũ Nhự nhà cậu. Cho nên mấy ông
quan lớn đại thần có cớ mà chùng chình, dun dẩy nhau. Thằng Tây nó khôn thật,
nó đi những nước cờ cao hơn mình nhiều. Nó cứ đem triều đình dọa quan, đem quan
nạt triều đình, rồi cứ nhẩn nha lấy dần từng tỉnh một.
Cậu ấm liền hỏi:
- Thế bẩm cụ lớn, sao không thông đồng cả hai bên cả Sơn lẫn
Bắc, các đạo quân cùng chia nhau đánh cả vào Hà Nội một lúc.
Nguyễn Cao thở dài nói:
- Ấy tôi cũng đã bàn như thế từ trước kia đấy. Lúc này tôi
cũng lại đưa giấy ra, vì nó đã chia quân đi Ninh Bình, Nam Định, thì ở Hà Nội số
quân ít đi. Nhưng các quan ở đây còn nghe ngóng bên Hoàng Thống đốc. Vì thế,
tôi mới bảo cậu nên đem yết kiến Hoàng Thống đốc ngay. Còn ở đây, nhất định tôi
sẽ giục... bằng được. Cứ chùng chình mãi thì có khi Tây nó lấy hết Bắc kỳ...
- Vâng! Cậu ấm nói, dân chúng thì sốt ruột, tức tối lắm, chỉ
lo Tây nó lấy dần hết Bắc kỳ, nên mong ngày mong đêm có quan quân kéo đến đánh
trừ bọn giặc lõ ấy...
Cậu ngập ngừng, rồi đánh bạo hỏi:
- Thưa cụ lớn, cụ lớn có biết bác Cử già Tam Sơn lâu nay thế
nào? Ở đâu không ạ?
- Bác ấy vì bị liên can vào phỉ án 9 cùng
với lão đồ Tạo chợ Dầu, quan Thương biện chép miệng nói thong thả, đầy vẻ ngao
ngán. Bị truy nã bác ấy đổi tên giấu tích, có lẽ lúc này, bác ấy lại mưu đánh
Tây dữ dội hơn bọn mình...
Ông ngồi thừ một lúc lâu rồi mới nói:
- Lực độc thế cô 10 .
Thấy việc nghĩa thì làm, chứ còn sợ gì! Cứ binh tình này rồi thì có lẽ những
người cứ khăng khăng một mực đánh Tây sẽ hóa ra phỉ đô bị truy nã cả! Cẩn thận...
Cẩn thận...
Cậu ấm cũng ngồi ngẩn ra nhìn ông bạn, kính trọng luồng suy
nghĩ của ông, không dám ho, không dám hỏi. Một lúc lâu sau, ông đứng lên, tự đi
lấy giấy bút ra viết bức thư riêng trình lên quan Thống đốc quân vụ Hoàng Tá
Viêm, đưa cho cậu ấm và dặn thêm cặn kẽ mọi điều nữa.
° ° °
Cậu ấm Ba trở về đến nhà liền đi báo tin cho bà con Nghĩa hội.
Cậu đi tìm ấm Vẽ, bàn riêng với nhau về cách cầu thân với thông Lộc để thăm dò
tin tức của địch như quan Thương biện đã dặn. Có nắm được rõ mọi mưu mô của địch,
biết mình, biết người thì mới mong thắng được địch, quan Thương thật là cao kiến.
Một việc đơn giản tầm thường như thế, có thể tiến hành lúc nào cũng được, thế
mà chả ai nghĩ đến. Bọn nhà nho khí khái không muốn dây với bọn đi làm với Tây,
chỉ sợ mang tiếng. Bây giờ thì rõ ràng là cần thiết rồi. Nhưng làm thế nào mà
biết được những mưu kế của địch, những tin cụ thể chính xác, nếu không phải là
đôi bạn tri kỷ cùng một hoài bão, hoặc là người yêu thương đằm thắm, thì không
khi nào người ta thổ lộ hết tâm tình. Vậy thì phải làm thế nào bây giờ? Hai người
ngồi cùng nhau bàn bạc xem xét rõ tình hình, thấy lúc này có thể dựa vào thông
Lộc, vì hắn đương lép vế thông Phong. Mọi quyền hành lợi lộc đều về tay thông
Phong cả. Có thể nhân đó mà khích thông Lộc lên. Nhưng muốn moi được những tin
bí mật quân cơ thì ngoài tiền tài danh vọng ra còn cần phải có cái gì hơn nữa.
Hai người liền cùng nghĩ đến mỹ nhân kế, cùng quyết định phải nhờ đến hai cô bạn
gái: cô Cúc, em ấm Vẽ và cô Xuyến con gái Bá Kim, cả hai người đã cùng dự Nghĩa
hội. Hai cô sẽ làm quen với thông Lộc, rồi cố gợi làm mối cho hắn một cô vợ trẻ
đẹp. Cô vợ ấy phải là người của ta và sẽ nhặt tin dần báo cho ta − ấm Vẽ dặn
thêm ấm Tự Tháp. Đằng nào cũng phải dựa vào giai nhân mới xong được việc. Thế
thì chú mình liệu mà nói khéo với cái Xuyến, không có nó ngảng ra thì hỏng bét,
sẽ lộ mất.
- Được! Phải bắt tay vào việc đã chứ, cậu ấm Ba cười trả lời.
Hôm sau, hai cô được mời đến chơi ở một nhà ở phố Hàng Bát.
Đây là nhà bà dì cô Cúc và ông ấm Vẽ. Hai anh em ông ấm thành ra chủ ân cần vui
vẻ tiếp hai người khách là cô Xuyến và cậu ấm Ba. Cuộc họp bắt đầu ngay. Cậu ấm
Ba thuật lại ý kiến của quan Thương biện tỉnh Bắc và nêu rõ cái khó khăn của sự
bắt mối làm quen lúc đầu, rồi cuối cùng đưa ra dự định như hai người đã bàn hôm
trước. Cô Cúc nghe xong tỏ ý tán thành ngay và nói:
- Được đấy! Chị Xuyến vốn đã quen biết thông Lộc chị có thể gợi
cớ làm thân với hắn. Rồi hắn muốn lấy vợ trẻ thì ta sẽ chọn một cô nào kha khá
làm mối cho hắn...
Cậu ấm Ba vốn say mê cô Cúc từ lâu đã định tâm lấy cô, không
muốn để cô dây vào cái việc khó khăn khuất khúc này, nên cũng nói đế theo:
- Phải! Phải... Cô Xuyến đã biết hắn và lại có cụ Bá đấy, dễ
làm quen, cả hắn lẫn người ngoài đều không nghi ngại...
Vì cậu nói nhanh quá cô Xuyến tinh ý biết ngay tâm địa của cậu,
vả cô ngờ họ đã bàn với nhau từ hôm trước, nên cô chối:
- Em xin chịu thôi. Hai cậu và chị cũng biết đấy. Thông Lộc
nó ranh mãnh lắm. Chưa chắc nó có thèm lấy vợ Bắc không mà gợi chứ? Ít ra cũng
phải khôn ngoan đởm lược như chị Cúc... Em nói thật đấy, vì việc nghĩa, em sợ
không khéo lại hỏng cả.
Ấm Vẽ vội dàn xếp:
- Không! Anh em chúng tôi không có ý đóng sống vào cho cô phải
làm đâu! Ấy là hãy bàn thế. Nhưng mà xét ra có cụ Bá đấy cô vẫn có thể làm quen
với hắn dễ hơn mà không bị nghi ngờ, không bị lộ. Vậy thì cô nên vì nghĩa lớn
nước nhà mà nghĩ cách giúp đỡ. Bà con hàng phố xưa nay vẫn quý trọng cô, lại
càng kính mến cô hơn, chứ không ai dám nghi ngờ gì.
Cô Cúc cũng nói thêm vào:
- Chỗ chị em nói tình thực cả. Có khó khăn mới phải nhờ đến bọn
mình. Vậy chị cứ vui lòng nhận giúp đi. Rồi lúc nào cần phải có em thì chị cứ bảo
là em xin theo ngay. Miễn là việc nghĩa.
Cô Xuyến lắng nghe, suy nghĩ rồi nói thong thả:
- Ông ấm và chị nói thế em còn tin, chứ cậu Ba vừa nói, em
khó tin lắm. Chả gì em năm nay cũng nhiều tuổi rồi, con gái lớn chưa lấy chồng
cũng lắm chuyện lắm. Mà quanh đây, người ta vẫn đồn đại rằng em không chịu lấy
chồng là vì có ý muốn ve vãn cậu Ba. Điều ấy chưa biết có đúng hay không? Nhưng
đủ ba mặt một nhời đây, em xin cậu Ba hứa với em một điều: em có gần gũi với
thông Lộc, cậu cũng không tung điều kia tiếng nọ về em. Còn người ngoài nói
năng gì, em cóc sợ!
Cô nói rắn rỏi trân trân một mạch, không ngượng nghịu, làm
cho hai anh em ông ấm phì cười và cậu Ba đâm ra bẽn lẽn lúng túng. Ông ấm Vẽ
tươi cười giục:
- Đúng đấy! Vì việc nước, hứa đi nào, chú Ba! Phải khuyến
khích đại hành bất cố tiểu tiết 11 .
Cậu ấm Ba ra vẻ không bằng lòng, nhất là lại thấy bị phá đám
ngay trong mối tình của mình với cô Cúc, nên nói lảng ra cố ý thanh minh với cô
Cúc:
- Việc chị chị làm, có liên can gì đến tôi, mà chị bảo tôi phải
hứa.
Cô Xuyến cũng thản nhiên nói:
- Thì thôi vậy, em cũng không vạ gì mà xông vào cái việc oái
oăm ấy.
Cô Cúc vội đấu dịu với cả hai người:
- Chị Xuyến chị ấy nói thực đấy cậu Ba ạ. Vì việc lớn, cậu cứ
hứa đi. Chị ấy vừa vì nước lại vừa vì cậu mà bầy mưu định kế, chả khôn ngoan gấp
mười và thành công gấp bội sao?
Cậu ấm vẫn còn tức, nói choãi ra:
- Nhưng mà tôi không thích cái lối ăn nói sỗ sàng đem việc nước
ra mà phá đám, bắt bí nhau thế!
Cô Xuyến tức tối to tiếng:
- Tôi nghĩ thế nào nói thế, chứ tôi phá đám bắt bí gì nào? Ấm
Vẽ vội nói đỡ, dàn hòa cả hai bên:
- Thôi tôi xin cả hai ông bà, Thiên ngôn vạn ngữ bất quá hồ
thực. Cô Xuyến nói thế là chân thực, vừa cả tình vừa cả nghĩa chứ sao! Vậy ông ấm
công tử làm sao lại không chịu hứa đi một tiếng. Có hại cho danh giá mình ư?
Danh giá của chú hơn việc nước à?
Cậu ấm cùng đường, vả nghĩ đến lời dặn ân cần của quan Thương
biện, cũng dịu dần lại và nói thong thả rành rọt.
- Hứa thì xin hứa, miễn là những việc cô làm thật có lợi cho
công cuộc đánh Tây cứu nước.
Rồi cậu nói thêm có vẻ nghiêm nghị:
- Nhưng tôi không thích những người cứ trơ ra như vậy không
biết gì là ngượng.
Hai anh em ông ấm vui mừng vỗ tay reo lên. Cô Cúc nói đỡ:
- Nói thẳng thế, chả hơn cứ úp mở, mánh khóe, thớ lợ như Điêu
Thuyền ấy à!
Cô Xuyến thấy đã gieo được mối hoài nghi vào lòng cô Cúc,
cũng vui vẻ tươi cười nói:
- Tôi nói thế để thử xem cậu Ba có thực sự lo buồn vì nghĩa lớn
không. Hai nữa là để cậu khỏi vịn cớ ấy khinh em tâng bốc người khác. Còn việc
của em tự em định lấy chứ cần gì đến cậu. Đấy rồi cậu xem. Có ông ấm và chị Cúc
làm chứng.
° ° °
Việc liên lạc với Sơn Tây và Đồn Thủy đã thiết lập được, tin
tức được đưa thường xuyên và nhanh chóng. Vòng vây Hà Nội được khép chặt hơn.
Quân của tỉnh Sơn Tây và nhất là quân Cờ đen đã tiến đến đóng ở làng trên ven
sông Nhuệ, sát gần thành Hà Nội. Bên bờ sông Hồng, quân của tỉnh Bắc Ninh đóng
liên tiếp ở các làng, đêm đêm bắn đại bác qua Đồn Thủy uy hiếp tinh thần quân
lính địch. Thấy tình hình Hà Nội như thế, Ri-vi-e lật đật trở về Hà Nội. Hắn
xin thêm quân viện. Hạm đội thủy quân Pháp của tân Đô đốc May-e (Mayer) tự
Hương Cảng được rời đến đóng ở vịnh Hạ Long gửi thêm tàu chiến và lính lên Hà Nội.
Tên Thiếu tá Vi-lê được tiếp viện thêm một số lính bộ từ Hải Phòng lên giúp việc
trấn giữ thành Hà Nội. Hắn vạch một con đường phòng ngự nối liền từ Đồn Thủy chạy
thẳng vào đến cửa Nam Thành. Hắn bắt các quan Đề, Lãnh phải đem quân đi bắt dân
phu về cùng với quân lính triều đình và quân lính Pháp đào giao thông hào và đắp
ụ súng trên con đường ấy, nói là để chống giữ quân Cờ đen. Dân chúng phải dỡ
nhà cửa, phá hoa màu đi để đào đường hào. Sâu một thước và đắp cao lên một thước,
đường hào chạy dài sừng sững như một dãy núi, hai bên lại rào tre chéo cánh sẻ
kín mít, ngăn cản không cho dân qua lại, cắt đứt khu vực từ Hồ Gươm trở lên
cách biệt hẳn với những làng Vũ Thạch, Phụ Khánh, Vọng Đức ở phía dưới. Sự giao
thông đi lại giữa phố phường làng xóm bị chặn lại. Tình thế chiến tranh đã rõ rệt.
Các quan tỉnh Hà Nội trơ mặt ra là kẻ làm việc cho giặc. Dân chúng căm phẫn sôi
sục, chờ đón quân đội ở ngoài tiến vào. Tin tức hoạt động của địch vẫn được bí
mật đưa ra đều đặn. Dân chúng đang mong mỏi thì thời cơ đã đến. Đầu tháng tư (tức
ngày 8 tháng 5-1883), quân Sơn Tây dẫn quân Cờ đen tiến đánh mấy đồn dân giáo ở
Giáp Bát, tước hết khí giới và đốt phá đồn lũy. Tối hôm sau, được dân Nghĩa hội
phối hợp, quân Sơn dũng vây đánh quân lính tay sai của giặc ở nhà thờ Hàm Long
là nơi giặc đã giao cho nhiều vũ khí súng đạn để bảo vệ vòng ngoài cho chúng. Đồn
bị phá hủy gọn, mà quân Pháp ở trong thành cũng không dám ra ứng cứu. Đương đà
thắng, những tối sau, quân ngoài đều vào quấy rối ở gần Đồn Thủy và ở ngoài cổng
thành để cho quân Pháp ra đánh. Nhưng chúng đều cố thủ ở trong đồn lũy, không
dám thò ra. Xét thấy quân giặc đang sợ sệt, không còn có vẻ xông xáo như trước
nữa, nhân dân trong phố liền cử người ra bàn kế đánh chiếm khu Nhà chung cắt
ngang đường hầm giao thông, không cho Đồn Thủy thông được vào thành, rồi chia
nhau quân Bắc đánh Đồn Thủy, quân Sơn hai mặt đánh thành. Cần phải đánh khu Nhà
chung trước là để cắt đôi quân giặc làm hai khúc nhưng chính yếu vì đây là nơi
tai mắt của giặc, trong đó có một số lính ăn mặc theo lối tu hành để canh giữ
con đường hầm và bảo vệ các khu người Pháp mà dã tâm xâm lược đã quá rõ rệt trước
mắt nhân dân Việt Nam. Hoàng Tá Viêm thấy luôn mấy đêm quân Pháp không dám ra ứng
chiến những đồn lẻ, liền nghe theo, và quyết định đánh thử Nhà chung để xem
thái độ quân Pháp. Lão liền cử một ít lính đi với quân Cờ đen vào đánh, và hy vọng
có thể phục kích quân cứu viện.
Trời tháng tư đầu mùa hè đã bắt đầu oi bức. Trăng thượng tuần
chiếu ánh sáng trong nhạt bàng bạc. Làng mạc phố xá im lìm trong bóng tối lờ mờ.
Bốn bề im lặng, xa xa chỉ văng vẳng tiếng gõ tụng kinh đều đều từ các chùa đưa
ra trong dịp lễ Phật đản, mồng tám tháng tư. Thỉnh thoảng điểm một tiếng chuông
rời rạc. Đợi cho trăng lặn, tiếng mõ im dần, đoàn quân xuất trận do Tuyên úy của
Cờ đen là Dương Trứ Ân và Cai đội Cơ Sơn dũng tỉnh Sơn Tây chỉ huy từ lối Ô Chợ
Dừa tiến thẳng vào địa điểm đã định. Những dũng sỹ của Nghĩa hội do cậu ấm Ba dẫn
đầu đưa đường. Đoàn quân đi lối tắt tiến thẳng tới sát đường hào, ào ạt phá
hàng rào, vượt qua hào, chạy như lao vào bao vây khu Nhà chung. Tự trong nhà thờ
súng bắn ra lác đác, rời rạc. Quân Cờ đen xông lên trước đã châm lửa đốt mấy
nhà gianh chung quanh, lửa bốc cháy rầng rậc. Dưới ánh sáng của lửa cháy, quân
lính Sơn dũng tìm chỗ nấp chĩa súng bắn vào nhà thờ vu vơ, đì đẹt, bắn cầm chừng
để dử cho quân địch bắn trả lại. Dũng sỹ Nghĩa hội bắc loa gọi vào nhà thờ:
- Quân lính triều đình chỉ đánh Tây, bắt Tây và tay chân của
giặc. Còn bà con đi đạo nên ra hàng ngay khỏi phải cháy thành vạ lây.
- Hỡi anh em đi đạo! Đừng dại dột đem thân chết oan vì bọn
lõ! Đức Chúa có cứu đâu nào!
Tiếng loa kêu gọi cùng nhịp nhàng với tiếng súng bắn. Trong
nhà thờ im hẳn tiếng súng. Bên ngoài cũng thôi bắn để nghe ngóng. Tiếng loa vẫn
gọi tiếp. Có một hai, rồi ba bốn người từ trong nhà thờ chạy ra. Mấy dũng sỹ
quây lại hỏi:
- Tụi Tây đá?
Một người run sợ nói:
- Bẩm... bẩm... bẩm các quan, các cha vào trong thành cả.
- Cha chúng bay chứ cha chúng tao à? Một dũng sỹ quát hỏi.
Chúng nó chạy từ bao giờ?
Cậu ấm Ba chạy vội lên mắng gạt đi:
- Không được nóng nảy trêu tức thế. Cậu nói nhỏ lại cho mấy
dũng sỹ đủ nghe: trêu tức họ sinh liều.
Rồi cậu hỏi nhẹ nhàng:
- Thế họ chạy từ lúc nào? Mới chạy hay đã lâu rồi?
- Bẩm... bẩm các quan, họ đi từ chiều. Người run sợ nói. Mấy
hôm nay cứ tối đến là họ đi.
- Thế ai vừa bắn?
- Bẩm chúng con bắn để giữ thánh đường ạ!
Cậu ấm cười:
- Nói láo! Ngữ các anh mà bắn được!
- Dạ bẩm, bẩm... bẩm, chúng con được bề trên dạy bắn để bảo vệ
đạo!
- Láo toét! Ai làm gì đạo mà các anh phải bảo vệ, chẳng qua
các anh mê muội đi hầu hạ giữ gìn bè lũ cướp nước.
Một dũng sỹ hỏi xen vào:
- Thế sao không bắn nữa đi để mà giữ đạo? Có chết cũng được
tiếng tử vì đạo!
Nhưng cậu ấm đã hỏi át ngay:
- Trong nhà thờ còn ai không?
- Bẩm... bẩm không ạ, xin mời các quan vào xem.
Mấy người vác súng chạy ùa vào. Cậu ấm chạy lên ngăn:
- Khoan khoan đã! Coi chừng bị mắc lừa đấy! Bắt mấy anh này
trói lại cho họ đi trước dẫn đường.
Mọi người tuân lệnh ngay. Và một đoàn dẫn những người kia lên
thành hình chữ nhất đi vào nhà thờ, mỗi người nấp sau một người đi đạo, lăm lăm
cây súng trong tay. Vào đến bên trong cái nhà thờ làm theo kiểu đình cổ rộng
thông thống với hai hàng cột thẳng tắp. Tức thì có tiếng súng tự các góc bắn ra
tỉa từng người một. Một hai chiến sỹ bị thương ngã xuống. Đoàn người ở ngoài
nghe tiếng súng ùa vào, bất chấp nguy hiểm. Cuộc chiến đấu trở nên ác liệt. Người
ta vội dồn những người bị thương vào một góc. Đánh nhau giáp lá cà vào sát tường
bên nhau, đâm nhau bên từng cái cột. Mấy anh Tây lõ bị dồn đến dưới bệ thờ tượng
Chúa sát tường. Rồi tiếng súng im. Mọi người xúm quanh bên bệ thờ, không thấy bọn
Tây đâu nữa.
- Có đường hầm! Phá cái bệ này đi! Anh em!
- Lục soát tìm lối đã!
Tiếng anh khác đáp lại. Và mọi người đều đưa mắt tìm kiếm. Có
cửa ngách sau bệ. Mấy người ở trong tuồn ra một cái vườn con. Không thấy một thằng
Tây, một người lạ nào, chỉ gặp đồng đội đã vây kín nhà thờ. đức Chúa thiêng đã
cứu giúp chúng chăng? Không có lẽ. Cậu ấm Ba ra ngoài vườn lại trở vào hỏi mấy
dân đạo còn sống sót:
- Tụi lõ biến đằng nào?
- Đức Chúa thánh thần đã cứu! Một tên nói.
- Sao Chúa không cứu chúng mày, cậu Ba tức tối hỏi. Chúng mày
là người lương thiện bị mê hoặc mới đáng cứu. Chứ còn chúng nó là bọn dối trá,
mượn cảnh Chúa để lừa người, âm mưu cướp nước, thí trẻ con ăn cứt gà! Sao lại cứu
tụi nó! Biến lối nào nói mau! Không ông giết tất!
- Giết càng được lên thiên đàng, một tên nói.
Tức thì một tên lính cầm dao ngắn, tiện tay lúc đang bực giơ
phạt luôn đầu tên kia rơi xuống. Cậu ấm Ba quát dũng sỹ trói luôn tên lính phạm
pháp giết người đã hàng giải ra ngoài. Rồi cậu quay lại ôn tồn nói với dân đạo
rằng:
- Đằng nào thì chúng tôi cũng tìm ra được. Cùng nữa chúng tôi
sẽ phá bệ thờ, phá tượng Chúa đi, tất phải tòi hầm ra. Các anh là người mộ đạo
mà lại ngu ngốc để người ta phá tượng Chúa ư! Rút cục vẫn không giữ được thân,
giữ nổi Chúa và cha! Vậy nói mau lên, không Cờ đen họ vào bây giờ, ngôn ngữ bất
đồng họ sẽ giết hết!
Một dũng sỹ giục thêm:
- Nói mau! Không chúng tao phá tượng!...
Mấy người kia vẫn lầm lì đứng im. Cậu Ba nghiêm nghị nói:
- Chúng tôi chỉ bắt những kẻ âm mưu cướp nước, chứ không bắt
cha, không phá đạo. Các anh không nghe thì chúng tôi phải phá... để tìm bọn kẻ
cướp!
Một người làm dấu rồi nhân đà chỉ tay lên tượng đức Mẹ. Cậu
Ba chạy lên bệ thờ đến sau tượng, bên tượng bệ có một cái cửa gỗ tròn quét vôi
cùng với màu tường. Đẩy cửa ra thấy một lối rỗng tối om. Cậu sai đốt hỏa ném
vào trước. Rồi mấy người thắp đuốc nối nhau ùa vào, luồn qua một lúc thì đến
mép bờ một cái lạch con, bên ngoài hàng rào, trên cánh đồng làng Tiên Thị.
Không thấy một bóng người nào. Họ gọi dân ra tìm kiếm. Lính ở trong cùng phá
hàng rào ra chia nhau đi lùng đuổi ở chung quanh Nhà chung. Hai toán quân liền
được cử ngay đi đuổi theo hai phía đường hào: cậu ấm Ba dẫn một toán theo đường
hào xuống phía Đồn Thủy. Một toán Sơn dũng đi theo một số dũng sỹ Nghĩa hội đuổi
lên cửa thành. Vừa đuổi vừa đón chặn đánh quân cứu viện, néo vó. Quân Cờ đen đi
vây khám khắp miền quanh Nhà chung.
Nhưng bọn Tây đã chạy thoát. Ra khỏi Nhà chung lần theo con
ngòi dẫn nước, bọn chúng lừa lúc vắng vẻ, vùi súng ở đồng làng Tiên Thị, rồi chạy
tất cả vào chùa Linh Quan. Bọn chúng cả thảy chín người: ba linh mục Pháp là cố
Lan, cố Mỹ, cố Phước (Landais, Rival, Bertrand), một quan một và mấy thủy thủ
tàu Phăng-pha (Fanfare) cùng với con mụ Be (Beire). Các cha và mụ Be cùng với mấy
tên lính ra trước để tìm lối vào thành, nhưng bị nghẽn cả không đi thoát. Cố
Lan và cố Mỹ ở đây lâu, quen biết nhiều, thuộc đường lối, đợi cho cả bọn ra cả
ngoài đồng, liền dẫn cả bọn vào chùa gần đấy. Đêm nay đúng ngày lễ Phật đản, cổng
chùa mở rộng. Nhưng đêm đã khuya. Các già đến lễ đã về cả. Trong chùa chỉ có mấy
vị sư còn đang ngồi tụ tập trước bàn thiêu hương, nghe ngóng và bàn tán về tiếng
súng nổ ở phía Nhà chung. Chợt cố Mỹ chạy vào trước hớt hải nói với sư tổ trụ
trì:
- Bạch cụ, xin cụ mở lượng từ bi. Quân Cờ đen đánh phá giáo
đường, xin sư cụ cứu mạng.
Các sư ngồi im lặng cả. Sư tổ đứng lên nói, hốt hoảng ái ngại:
- Mô Phật! Vào cả đây! Vào cả đây!
Rồi cụ nghiêm trang nhìn thẳng vào mặt từng người và bảo:
- Mấy anh có tóc này chạy nấp vào gầm bệ tượng Tam thế trong
kia!
Cụ chỉ vào phía trong và sai một sư bác dẫn vào.
- ... Còn các ông trọc đầu đều có tràng hạt thì ngồi cả vào
đây. Cả mụ kia nữa, cởi áo để thay áo khác.
Sư cụ sai sư bác đi lấy áo các sư cho mấy ông cố và gọi bà
vãi đem váy áo lên cho mụ đầm. Khi mọi người mặc xong đâu vào đấy, sư cụ truyền
các sư lại ngồi vào chiếu. Thẳng hàng cùng với những người mới đến, cử hành một
khóa lễ nữa. Tiếng mõ cốc cốc đều đều, tiếng đọc kinh rì rầm, thỉnh thoảng vị
sư bác chủ lễ ngồi ở trên cùng lại đưa tay ra mở trang quyển kinh đặt trên cái
kỷ thấp soai soải ở trước mặt. Sư cụ bảo mấy người mới đến cứ chắp tay và lễ
theo đúng nhịp như các sư. Không khí tĩnh mịch, lờ mờ, trầm lặng và trang
nghiêm. Mấy tên lính Cờ đen đi lùng sục đến chùa, thấy cổng mở cứ lanh lẹn tiến
vào sân. Trước quang cảnh tôn nghiêm, chúng liền dừng lại ngập ngừng. Cảnh trí
yên tĩnh và thiêng liêng quá. Sư tổ già mặc áo cà sa vàng đang đi đi lại lại lặng
lẽ ở bên ngoài chiếu lễ. Thêm mấy lính Cờ đen và mấy chú Sơn dũng nữa sồng sộc
vào đến sân. Họ đều đứng dừng lại cả. Một người hỏi:
- Sao lễ khuya thế nhỉ?
- Hôm nay Bụt sinh Bụt đẻ. Một anh lính Sơn dũng đáp.
- À phải rồi! Một chú nữa nói. Thảo nào! Thôi A-di-đà-Phật.
Chúng ta đi ra thôi.
Chú quay ra kéo mấy anh lính Cờ đen và nói với họ.
- A-di-đà-Phật. Ngày Phật sinh. Cửa Phật từ bi. Ta chớ nhạo
báng.
- A-di-đà-Phật! A-di-đà-Phật!
Cả bọn đồng thanh đọc ngân vang câu niệm Phật rồi quay gót trở
ra. Sư tổ chắp tay lên ngang mặt, miệng đọc to câu “na-mô a di đà Phật” đủng đỉnh
bước ra sân. Ở trong chùa, những tiếng “na-mô cứu khổ cứu nạn” được đọc ngân
vang lên cùng một lượt như để tiễn tống mấy người khách lạ. Bọn này trở về Nhà
chung cùng với quân lính ở đấy, sau khi lục khắp nơi không thấy bóng dáng bọn
Tây đâu cả liền xếp tất cả đồ đạc tre gỗ, vật liệu, mọi thứ có thể chuyển được,
ở ngoài vào trong nhà thờ, rồi phóng lửa đốt. Ngọn lửa bốc lên ở nhà thờ lan
sang mấy cái nhà gạch và nhà lá sót lại! Ở chung quanh, ngọn lửa cháy to hơn
trước vì có tre gỗ của cố Phước mua trữ để sửa soạn làm nhà thờ lớn. Ngọn lửa
lên cao bốc sáng rầng rặng soi tỏ cả vùng Hồ Gươm như cây đình liệu ở trường thi
trong những năm trước vậy. Nhưng bốn bề đều im lặng, quân địch không dám ra cứu.
Dân chúng cũng không ai muốn đến chữa cháy. Thế là đám cháy cứ mặc sức tung
hoành thui trụi cả khu Nhà chung thành một đống lửa đỏ ngòm chỉ còn trơ mấy bức
tường gạch loang lổ. Những lính nấp ở đường hào đợi mãi không thấy gì, đều trở
về. Cờ đen và Sơn dũng được lệnh rút quân ra, cậu ấm Ba thấy một mình bà con
Nghĩa hội không thể tấn công được, đành cũng thu quân về. Cuộc chiến đấu kết
thúc, ai nấy đều xuýt xoa lấy làm tiếc không bao vây rộng ra cánh đồng, để sổng
mất bọn cáo già. Có ai ngờ đâu các cha cố ở Nhà chung đã được cứu thoát do lòng
từ bi bác ai và kỵ sát sinh của sư cụ chùa Bà Đá, nhất là đêm hôm ấy lại đúng
vào đêm Phật Đản.
° ° °
Vòng vây quanh thành Hà Nội đã xiết chặt dần.
Quân lính của giặc ở trong thành đang hoang mang lo sợ. Nhưng
trái với lòng mong mỏi của mọi người, Thống đốc Hoàng Tá Viêm không muốn đánh
thẳng vào thành, chỉ chuẩn bị sẵn sàng đón địch ra là đánh. Địch lại chỉ cố thủ
không ra. Lưu Vĩnh Phúc phải viết giấy thách thức nhờ nghĩa dũng đem vào dán ở
cổng thành và tìm cách đưa hẳn vào đến bọn chỉ huy khiêu khích Ri-vi-e. Lời
khích nộ này có phần nào tác động đến tên tướng xâm lược hiếu thắng. Lúc này hắn
đương bàn với bọn tướng lĩnh phải “nới bớt vòng vây cho không khí dễ thở một
chút”. Pa-ri và Sài Gòn đã gửi thêm quân ra và cũng đồng ý cho hắn làm như vậy.
Cho nên năm ngày sau khi Nhà chung bị đốt phá, hắn nhất định tự đem quân ra
đánh Phủ Hoài, nơi có quân Cờ đen và quân Hoàng Tá Viêm đóng giữ. Hắn giữ bí mật
kế hoạch hành quân, sáu giờ chiều ngày 16 tháng 5 tức 12 tháng 4 âm lịch mới
phát rượu mạnh và thịt tươi cho lính. Ba giờ rưỡi sáng quân lính dậy ăn uống rất
êm. Bốn giờ sáng bắt đầu lên đường. Hắn để lại hai trăm quân giữ đồn và thành,
còn cho đi ra trận năm trăm năm mươi tên với ba đại bác dã chiến. Đi đầu là đại
đội lính thủy đánh bộ do quan ba hải quân Săng-tít (M. Sentis) chỉ huy, giữa là
bộ binh với súng đại bác do quan hai hải quân Pít-xe-rơ (Pitsère) chỉ huy. Sau
cùng, hậu quân là một đội lính thủy đánh bộ khác. Tất cả đều theo sự chỉ huy của
tên quan tư Vi-lê đi với đại quân ở chính giữa. Khí giới đầy đủ, mỗi cây súng
có 100 viên đạn. Ri-vi-e ngồi xe ngựa kéo đi kèm bên. Đây là lần xuất quân đông
đảo nhất từ khi đem quân đến đất này, nên ngồi trong xe, nhìn theo đoàn quân đi
cuồn cuộn như dòng thác, hắn lấy làm khoái chí nói với tên quan hầu rằng:
- Quân nhiều và hàng ngũ nghiêm chỉnh thế này, súng đạn đầy đủ,
nhất định ta phải thắng bọn quân ô hợp kia!
Tất cả đoàn quân hùng dũng theo đường Sơn Tây tiến lên phía
phủ Hoài tưởng sẽ giữ được thế chủ động đánh úp quân ta trong lúc bất ngờ.
Nhưng do nguồn tin của thông Lộc được Nghĩa hội đưa ra, quân dân ta đã sẵn sàng
đối phó. Quân ta vội rút khỏi những làng ven đường để làm kiêu thêm lòng quân địch.
Tiền quân của chúng chia nhau đi rẽ vào lục lọi các thôn xóm không thấy gì vội
tiến mau lên Cầu Giấy tranh giữ lấy cầu. Tiền quân giặc vừa qua khỏi cầu thì
súng phục kích của ta nổ lên cách địch chỉ độ ba mươi mét, quét một lượt chết
nhiều địch ngay phút đầu. Biết lỡ bước rồi, địch vội bắn đại bác yểm hộ cho
quân cố vượt qua cầu, liều chết chiếm trận địa ở trên con đường lớn trên sông
Tô, bên làng Hạ Yên quyết. Trên đường đê, chúng dàn đại bác về phía Cầu Giấy bắn
qua cầu. Đoàn quân của Săng-tít xông vào Hạ Yên quyết vào bao vây làng này. Một
toán đánh vào thôn Dịch Vọng tiền trung quân địch cũng vừa đến nơi. Vi-lê và
Ri-vi-e cùng tiến qua cầu đốc thúc quân đánh vào thôn Dịch Vọng trung, nơi đang
có súng trường và liên thanh của ta bắn ra tiếp ứng cho Hạ Yên quyết ở đây có
lũy tre dầy, có đường hào, quân ta ở trong bắn ra địch không thể nào vào được,
hễ tiến đến gần là bị bắn rát, bị thương vong phải tháo lùi. Vi-lê và Ri-vi-e đều
bị đạn chết ngay tại trận ở đây. Hai bên bắt đầu hỗn chiến. Bên quân Cờ đen,
Tuyên úy cánh tả là Dương Trứ Ân từ Dịch Vọng tiến ra bị đạn chết; Tuyên úy
cánh hữu Ngô Phượng Điển lại cũng bị thương phải cõng chạy vào thôn Trung.
Thình lình Lãnh binh Lưu Vĩnh Phúc và Tuyên úy Hoàng Thủ Trung xông ra trận, điều
ngay cánh tả đánh vào sườn bên phải của địch. Địch chết rất nhiều, bị chặn đứng
tại đấy. Địch bắn liên thanh tới tấp đến để bảo vệ sườn bên phải nhưng không
ngăn nổi quân của Lưu Vĩnh Phúc. Núng thế, giặc Pháp hối hả cho đi gọi cánh sườn
bên trái đang đánh ở thôn Trung ra, sợ bọn này lại bị bao vây. Tất cả đều dồn
ra phía cầu. Một toán quân vất vả lắm mới vượt được qua cầu núp sau để bắn yểm
hộ cho đại quân của chúng rút qua cầu. Ta liền thổi còi thét xung phong, đánh
hăng cả ba mặt bắn xả vào đạo quân của địch dồn chật trên cầu, đang chen lấn
nhau chạy thục mạng. Chúng bỏ cả đại bác lại. Bọn võ quan phải xúm lại mà kéo lấy
đại bác. Chúng hốt hoảng bỏ chạy không kịp mang theo những người bị thương và tử
trận. Nhưng tên chỉ huy sống sót sợ có phục kích ở hai bên đường liền tách một
toán quân chạy mau rẽ sang phía đê La Thành cũ, nơi Gác-nhi-ê đã bị chết cách
mười năm trước đây, để giữ thế thủ, mở một hỏa tiến thứ hai bắn che chở cho đại
quân của chúng hớt hải hỏa tốc chạy về thành.
Quân triều đình đã thắng trận, không truy kích nữa. Chỉ có
quân Nghĩa hội trở về chạy ùa vào các làng ven đường giục tuần tráng trong làng
đem gạch đá ra ném đuổi những tàn quân chạy qua, làm cho quân địch càng hoảng sợ
tán loạn, bị thương thêm một lượt nữa.
Trận này quân dân ta thắng lớn. Giặc Pháp bỏ lại năm sỹ quan
chết, 28 lính tử trận và 45 lính bị thương nặng. Hai tên tổng chỉ huy Ri-vi-e
và Vi-lê đều phải gửi xác lại ở đầu làng Dịch Vọng và nộp đầu cho quân triều
đình. Còn sáu sỹ quan bị thương cùng rất nhiều lính bị thương nhẹ phải khiêng tải
về Hà Nội càng làm cho quân lính giặc ở nhà hoang mang lo sợ thêm.
Mọi người đều mong mỏi, ai nấy đều sẵn sàng, cậu ấm Ba lại trở
thành con thoi cần thiết... đi thúc giục hành động cho kịp với cái thế thiên thời
địa lợi nhân hòa đang có lợi cho ta.
Nhưng cái thế đi nhanh mà đoàn quân vẫn chưa thấy tiến vào
như vũ như bão. Bà con cứ phải nóng ruột mong chờ. Chờ mãi, đùng một cái trở
tay không kịp! Cái thế đã mất, bàn cờ đã thay: vua Tự Đức chết ngày 16 tháng 6
(17-7-1883) và triều đình ký hòa ước nhận sự bảo hộ của nước Pháp, ngày 23
tháng 7 năm Quý Mùi (25-8-1883). Và đi trước cả hòa ước, ngày 11-8-1883,
Bôn-nan đã đến làm Chánh công sứ tỉnh Hà Nội.
--------------------------------
Càng già càng khỏe. |
|
Tiểu đăng khoa: lấy vợ − Đại đăng khoa: thi đỗ. |
|
Giữ gìn, làm theo những điều chính thôi, không nên câu nệ. |
|
Đêm cuối năm. |
|
Ngăn giữ được một ít lâu. |
|
Án làm loạn chống lại triều đình. |
|
Chết. |
|
Quân Lưu Vĩnh Phúc. |
|
Án liên quan đến giặc. |
|
Sức có một mình thế thì cô lập. |
|
Việc lớn không cần chú ý đến điều nhỏ nhặt. |
Chương IV
Một buổi sáng tháng tám giữa thu đẹp giời gió mát thổi lồng lộng
từ ngoài sông Hồng qua sông Tô, quạt vào chợ Đồng Xuân mát rợi, lật tung những
tà áo tứ thân của các bà các cô đi chợ. Phiên chợ Đồng Xuân hôm nay đã đông hơn
mấy tháng trước nhiều vì phố phường dạo này đã nhan nhản những người qua lại
đông đúc, không vắng tanh vắng ngắt như trước nữa. Các gia đình chạy loạn đã lục
tục về. Nhất là từ khi hòa ước Pháp Nam “giao hảo” được công bố và niêm yết ở
khắp nơi, các quan tỉnh cử những vị công sai đi xuống từng làng hiểu dụ, dân
các xã ven quanh đô thành và xa một tí, cũng đã qua lại thăm phố phường nhiều
hơn và đã tự ý nhớ ngày phiên đem sản vật đến chợ trao đổi mua bán thức dùng.
Cho nên phiên chợ hôm nay có lẽ là phiên đông nhất từ sau hồi loạn và sẽ mở đầu
cho những phiên sau đông hơn như quan Hộ đốc Nguyễn Hữu Độ mong mỏi cho cuộc sống
ở đô thị mau trở lại bình thường. Chợ đương đông. Người các nơi vẫn tiếp tục đến.
Bến Hà Thanh cũng tới tấp thêm nhiều thuyền nan, thuyền thúng. Chợ đang náo nhiệt
đông vui, bỗng có tiếng ồn ào nổi lên ở dãy hàng gà. Mọi người đổ xô đến. Đám
người xúm đông nghẽn cả lối đi. Những tiếng hỏi đáp nhanh gọn vọng ra: − Gì vậy?
Con mẹ đội Chóp - Sao? - Thôi đừng dây với tinh. Nó như con trâu lấm bùn, nó vẩy
vung lên.
- Ừ, vẩy phải ai nấy thiệt.
Có người lách vào. Cũng có người lảng ra, không muốn dây với
tinh thật! Không muốn nhìn đến mặt con đĩ theo Tây. Nhưng một tiếng quát lớn đã
giữ mọi người ở lại:
- Nó láo à! Đánh trói nó lại!
Lại có tiếng người khác quát theo:
- Nó cậy thế Tây khinh nhờn cả vua cha à?
Anh Thạch thôn Yên Trường vừa đến nơi vội lách vào hẳn tận chỗ
và hỏi giật:
- Cái gì thế?
- Con mẹ Đội Chóp ăn mặc điều đỏ đi chợ, bảo nó, nó còn nói
láo.
- Thì cứ trói nó lại giải đến nơi phải trái.
Anh vừa nói vừa chen vào hẳn tận nơi. Một cảnh tượng lố nhăng
đặc biệt đập ngay vào mắt anh: Một mụ búi tóc cài trâm bạc, mặc áo đầm xòe sặc
sỡ với cái váy màu hồng lòa xòa, hai cô con gái độ ngoài hai mươi tuổi, áo tứ
thân đổi vai sang sợi, quần lĩnh chấm gót với cái cạp điều cao đến tấc rưỡi, tất
cả quần áo lòe loẹt ấy đã bị xé dọc ngược lên, bay lỏa tỏa như những dải cờ Ngũ
hành, ba người phải ngồi thu hình cho khỏi lõa lồ.
- Đánh à? Sao đánh người ta thế? Giải đi chứ! Anh Thạch nói.
- Chúng nó nói láo thì xé cho một mẻ cho biết tay. Chứ không
thèm đánh!
Một người đáp. Một người nữa thêm:
- Đang lúc cấm điều đỏ này mà ăn mặc thế. Bảo nó, nó lại cậy
có thế Tây.
- Ấy thế mới giải nó đi chứ. Đứng nhìn nhau ở đây, đợi Tây nó
đến cướp đi vô tang à. Anh Thạch nói với vẻ thông thạo. Để tôi giải đi cho.
- Quản thị 1 sợ
lảng rồi. Họ không dám xét đâu. Một người nói.
- Được bà con giúp tôi một tay thêm ba bốn anh em vào đây áp
giải đi. Tôi dẫn trình cụ Cai tổng Đồng Xuân!
Thế là đến chục người trai tráng đổ xô cả vào giơ đòn gánh
lên tua tủa, đòi cùng đi áp giải. Một cụ già nói:
- Phải trói ba đứa vào một dây, không nó chạy mất! Tội bất
kính với vua đáng lăng trì 2 ấy
chứ trói mà thôi à?
Mọi người làm theo lời cụ, lấy thừng trói nối tay ba người
cùng một dây, dòng đi theo anh Thạch. Anh dẫn cả đoàn đến đình Vĩnh Trù, báo tuần
ra canh giữ ở ngoài, không cho người lạ vào, rồi anh thân chạy vào thôn Huyền Đại
tìm cụ Bá Thìn, Cai tổng Đồng Xuân, cụ Bá Thìn vốn ghét Tây, nhưng nhút nhát,
ra đến nơi thấy vụ này có dính dáng đến Tây, chần chừ, không muốn làm biên bản,
may gặp ngay cậu ấm Ba Tự Tháp, hay tin cũng từ Yên Ninh chạy sang, vừa đến
nơi, bảo nên giải đi ngay, cụ mới chịu đứng ra chứng nhận. Hơn nữa mụ Đội Chóp
không chịu khai tên thật, còn có vẻ ỷ vào bọn Tây, động chạm đến lòng công phẫn
của cụ, càng làm cho cụ thêm cương quyết, nên đơn dẫn trình được viết ngay, gọn
và đanh thép, khác với tính tình nước đôi do dự ngày thường.
Cụ đọc to tờ biên bản rồi bảo những người áp giải ghi rõ tên
tuổi quê quán vào đấy và cùng ký tên vào. Khi mọi người đã ghi tên ký hoặc điểm
chỉ xong, cụ Bá cầm lên đọc vui vẻ nói:
- Đủ cả dân bốn tổng, lại có cả người Bắc Ninh, Hưng Yên nữa
kia đấy. Tốt quá.
Anh Thạch cười vui vẻ, nói nửa đùa nửa thật:
- Thưa cụ chúng cháu góp đủ mặt tứ chiếng như con ruồi đỗ nặng
đầu cân để cụ khỏi ngại.
Cụ Bá nói:
- Tôi chả ngại. Nhưng lúc đầu tôi không muốn dây... Giờ thì
Trương tuần Vĩnh Trù đi với các cậu này giải ngay bọn này xuống huyện nha giao
cho cụ Đề hoặc cụ Trợ, rồi mang chữ ký nhận về cho tôi. Thôi đi đi!
Quay sang bọn can phạm, cụ bảo mụ Đội Chóp:
- Tôi không có quyền tha và cũng không muốn tha chị. Chị về
huyện đem Tây ra mà nạt quan huyện xứ Nghệ.
Đội Chóp nói gặn:
- Rồi chúng bay sẽ biết! Cụ Thượng chúng bay còn đến cửa tao
kia.
- Im cái mồm! Bốp! Bốp! Anh Thạch quát, tát luôn hai tát vào
má Đội Chóp, rồi giục: − Đi!
Cả đoàn tức tốc đi một mạch đến huyện vừa gặp ngay Bá Kim ở đấy.
Trương tuần Vĩnh Trù đưa trình giấy giao can phạm lấy giấy ký nhận, rồi cả bọn
kéo ra về, mới hay rằng chợ đã tan ngay từ sau khi bọn này giải mụ Đội Chóp đến
đình Vĩnh Trù. Người nọ truyền tin cho người kia, vui mừng phấn khởi có, nhưng
rồi ai nấy lại nghĩ ngay đến bọn lính Tây có thể đến đánh tháo cho tụi con gái
kia, mà gây ra cướp chợ chăng. Cho nên, tự nhiên có người thốt lên:
- Coi chừng. Tây nó ra đấy!
Rồi những tin phao đồn đi. Loáng một cái, chợ vãn người dần,
rồi tan hẳn, mới cuối giờ Thìn, chợ đã lại vắng ngắt. Và những người đi chợ về
đã mang theo tin mụ Chóp bị tuần đinh bắt giải đi với đủ mọi vẻ thêm thắt hoang
đường. Và mọi người vô sự ngồi rỗi đang đoán già đoán non mọi việc sẽ xảy ra.
Cho nên khi cậu ấm Ba từ Vĩnh Trù về đến nhà ông cử Kim Cổ, đem việc ông bá Đồng
Xuân làm đơn áp giải mụ Đội lên huyện kể cho ông Cử nghe, thì ông Cử hỏi ngay:
- Cậu có biết ai bắt giải con mụ Đội?
Và không để cậu kịp trả lời, ông nói tiếp luôn:
- Thật là dở toen toét! Dây làm chi với tinh cơ chứ! Quân bất
đẳng ấy có ra gì! Bắt bớ làm chi kia chứ. Để rồi Tây nó bênh, nó trả thù lại khổ
dân thôi! Dân lại thêm oán!
- Oán Tây chứ oán mình à! Cậu ấm cãi. Đệ thiết nghĩ, nó phạm
pháp vua không bắt, thì cứ để nó ỉa lên đầu lên cổ cũng chịu à?
Ông Cử ôn tồn giảng giải:
- Đành rằng thế! Nhưng con mụ Chóp không phải giống người, nó
nanh ác chỉ biết cậy quyền ỷ thế làm càn, nó có sợ ai, còn các quan ta thì...
thì sợ Tây nên đều ôm chân nâng váy nó cả, cậu không biết à?
- Đệ biết nó từ lâu kia, bác ạ, đệ biết nó quê ở dưới Hải
Dương lên đây vào làm phu ở trường Tây, rồi lấy thằng Đội Tây, được lão
Kê-la-đích tin, nên sau khi Tây lấy thành Hà Nội, các quan tỉnh ở đây đều phải
kiêng nể nó.
- Ấy đấy, thế thì bắt nó làm gì. Ông Cử nói, đọc luôn một bài
thơ của ông bạn Ba Giai...
Rồi nói tiếp:
- Đấy cậu thấy không? Quan Khâm mạng nhất phẩm triều đình là
quan Tổng đốc Trần Đình Túc còn phải vâng vâng dạ dạ nó, thì tôi cho là trị được
nó khó lắm. Tróc nhân dị phóng nhân nan 3 tha
nó bây giờ khó chứ chả dễ đâu.
- Cứ nghĩ vạn toàn như tôn huynh thế thành ra chẳng dám làm
gì cả, cứ để cho Tây nó lấn, cho quan bắt nạt mãi à. Đây dân chợ họ bắt, rồi
ông bá Đồng Xuân làm đơn giải trình, tội trạng rõ ràng, nếu quan tha, thì dân
càng rõ quan là đầy tớ Tây, càng lợi cho công việc mộ nghĩa đánh Tây chứ sao. Đệ
chỉ sợ họ không thả bọn ấy ra mới là khó nói cho mình sau này.
Ông Cử ngồi ngẫm nghĩ một lúc, nghe cũng xuôi xuôi, gật gù
nói:
- Tôi tưởng cậu có dúng tay vào việc này thì nên liệu liệu
cách nói với Bá Kim thế nào để đỡ sinh ra tai vạ cho dân. Hóa ra là người ngoài
bắt, ra tự dân, người ta tức, người ta bắt.
- Đấy tôn huynh xem, cậu ấm nói, lòng dân căm tức tụi giặc cướp
và bọn theo giặc như thế, mà mình không trị, chả hóa ra mình cũng là kẻ theo giặc
à? Cho nên đệ lo bọn họ mà không thả chúng nó ra thì bất lợi cho mình.
- Nhưng làm việc gì cũng cần trông trước nghĩ sau, ông Cử
nói, cậu đã không dự vào việc ấy song cũng cần nghĩ đến cách đối phó hộ dân, nếu
chúng nó trả thù.
Hai người đang nói chuyện, chợt ở ngoài có một ông khách bước
vào sân. Hai người dừng chuyện đón khách. Ông tú Yên Thái phe phẩy cái quạt,
cúi chào hai người vừa bước vào nhà vừa nói:
- Khá thật! Lão thương Cựu Lân thế mà khá. Ông ta không thả
con Đội Chóp.
Ông Cử vội hỏi:
- Sao? Ông huyện đi vắng? Ông Thương không tha?
Ông Tú ngồi xuống ghế, thuật lại rõ thêm:
- Vừa vào huyện, tôi thấy cha Nghiêm bên Nhà chung đã ở đấy,
đem lời cố Phước đến nói với ông Thương xin tha cho con mẹ Chóp. Ông Thương
không tha, ông ấy bảo việc này phải có lệnh của cụ thượng, ông ấy mới dám thả.
Tay làm việc quan lắm lý sự thật. Hơn cánh nhà nho mình, có khi chỉ cuống lên với
Tây, còn đánh chác gì kia chứ.
Ông Cử cười bảo bạn:
- Cậu ấm cậu ấy đang lo các quan ta không thả nó đấy.
- Nói lạ! Ông Tú quay sang hỏi cậu ấm. Thế cậu có nhận ông bá
Đồng Xuân bắt giải nó là phải không?
- Thưa tôn huynh, bắt nó là phải, cậu ấm nói, lúc ấy, đệ cũng
có mặt ở đấy.
- Thế sao cậu lại mong cho nó được tha? Bắt cũng phải mà tha
cũng phải, có họa là ba phải.
- Kể thì lẩn thẩn thật đấy. Nhưng chính là như thế. Cậu ấm
nói có vẻ phân trần. Nó phạm pháp mà không bắt thì ra thể thống gì nữa. Nhưng
các quan mình mà trị tội nó, không tha nó, thì lại hóa ra các quan mình có thực
quyền. Tây cũng phải sợ, mọi người sẽ lầm tưởng là Tây nó tôn trọng mình, không
lấn cướp nước mình. Công việc đánh Tây đã xẹp, vì thế lại càng khó khăn thêm.
Ông Cử nói như để dàn hòa:
- Cuộc đời oái oăm thật, trong lúc quốc gia đa sự này, phải
biết khôn khéo quyền biến mới được. Không khéo thì bản tâm muốn làm lợi cho nước
hóa ra hại nước.
Cậu ấm nói vội:
- Ấy cứ đắn đo thận trọng quá như tôn huynh rồi thành ra thấp
cơ thua trí chúng nó cả. Các tôn huynh cứ hay ngăn cản bọn đệ.
Trong khi ấy ở bên nha huyện Thọ Xương, Thương biện huyện vụ
nhận được đơn áp giải can phạm, liền đúng lúc cha Nghiêm bên Nhà chung sang xin
tha cho chúng. Song lão nghĩ vụ này đã có đủ giấy tờ chứng cớ và Lãnh sự
Kê-la-đích không còn ở đây, không có kẻ trực tiếp bênh vực nữa, lão không tha
và bảo cha Nghiêm sang bên quan Thượng mà xin, rồi lão quay trở vào, nói với
viên đề lại đang đứng đợi lệnh:
- Bác cứ tạm giam chúng nó lại đấy. Việc này là hệ trọng để
tôi sang trình với cụ lớn xem sao. Kim chỉ có đầu. Vả bây giờ cụ lớn ở liền
ngay đây, tội gì mà không hỏi ngay, có sao, cũng đỡ tội vào mình.
Thương Kim dặn đề lại trông coi huyện nha rồi cầm tờ đơn thân
đi sang dinh Đốc bộ, qua phố huyện ra khỏi làng Tiên Thị, thoắt đã tới nơi. Vì
dinh thự của quan Tổng đốc hiện ở đầu làng Chân Cầm, cùng trong tổng Thuận Mỹ
huyện Thọ Xương gần ngay huyện lỵ và thẳng đường lên phố Hàng Gai. Vì sau khi
Ri-vi-e đền tội ở Cầu Giấy, kẻ thay quyền chỉ huy là tên Thiếu tướng Bu-ê, đem
thêm nhiều quân đến Hà Nội. Ngày 15-8-1883, hắn chiếm giữ hẳn thành, đuổi các
quan chức ở Hà Nội ra ở ngoại thành và sau trận tiến quân đánh báo thù bị thua ở
làng Vòng ngày 16 tháng 8, hắn bắt các quan tỉnh Hà Nội phải rời công sở lên
đóng ở phủ Hoài (thuộc địa phận làng Vòng). Ngày 20 tháng 8, cửa bể Thuận An bị
quân của tướng thủy quân Cuốc-bê đánh chiếm, triều đình Huế đang rối ren từ khi
Tự Đức chết (các quan thụ chính bỏ Hiệp Hòa, lập Phúc Kiến, đám tang của Tự Đức
chưa cử hành), liền xin đầu hàng. Toàn quyền A-măng cùng với Cuốc-bê vào kinh
buộc triều đình phải ký hòa ước 27 khoản, nhận quyền bảo hộ của giặc Pháp. Hòa
ước do Trần Đình Túc và Nguyễn Trọng Hợp ký ngày 25-8-1883 tức ngày 23-7 Quý
Mùi. Theo hòa ước này, mỗi tỉnh có một quan cai trị Pháp đóng lưu trú để làm cố
vấn, kiểm soát công việc hành chính. Hòa ước vừa ký xong chẳng cần đợi hai bên
Chính phủ phê chuẩn, giặc Pháp đã bỏ Lãnh sự quán, thăng Kê-la-đích đi nơi khác
và cử ngay Bôn-nan đến làm quan lưu trú đầu tiên ở tỉnh Hà Nội, đóng tại một
nhà dân trước đình đức Thánh Tản, làm trụ sở công khai. Bôn-nan đến đây từ trước
thay Kê-la-đích làm công việc Lãnh sự, nay bỏ tòa Lãnh sự, nhưng sự hoạt động vẫn
thế, chỉ thu nhỏ vào trong một tỉnh, nên vẫn được coi như Lãnh sự và gọi theo
âm consul thành Công sứ để phân biệt với Lãnh sự trước. Do đấy Bôn-nan mở đầu
cho việc dùng tiếng Công sứ. Và cũng do đấy dinh thự Đốc bộ cũng được dọn về
đình Chân Cầm để hai bên ở gần nhau dễ thương thuyết bàn bạc. Rồi chỉ trong
chưa đầy một tháng, các dãy nhà tơ tào ở hai bên, và trại lính tùy tùng đã làm
xong cả, một bờ rào tre chéo cánh sẻ vây kín xung quanh. Bên ngoài hàng rào là
cái cổng gạch mới xây quét vôi trắng toát, trên là chòi canh trông ra tứ phía.
Trong cổng, một người lính đội nón lá chóp đồng, mặc áo cánh chẽn thắt đai da,
đeo bao đạn, bồng cây súng trường bên vai canh lối ra vào. Thương Kim là quan
chức sở tại đi lại nhiều lần, mọi lính canh đều quen mặt, nên đi vào tự nhiên,
không bị hỏi han lôi thôi. Lão rẽ sang nhà tào nhờ viên Kinh lịch đưa tờ áp giải
vào trình quan Thượng. Nguyễn Hữu Độ đang ngồi ở phòng khách trong công đường
tiếp một người bên tòa Công sứ, liền chạy ra hồ gọi với xuống:
- Thầy Trợ Thọ vào đây!
Thương Kim vội bước lên hè, vừa kịp chắp tay lạy chào, đã bị
hỏi ngay:
- Thầy không giải can phạm sang à?
- Bẩm cụ lớn ngay gần đây, nên con hẵng tạm giam ở bên huyện.
Thương Kim trả lời. Vả bên Nhà chung cha Nghiêm có sang xin tha cho chúng, con
không dám mạn phép, nên cứ giam đấy để đợi lệnh cụ lớn. Vì thế con thiết nghĩ
chưa tiện giải ngay chúng nó sang đây.
Hữu Độ đi vào phòng khách vừa hỏi:
- Ý thầy nghĩ thế nào? Hay thầy muốn tránh tiếng với họ mà
quy cả quyền hành ở tôi!
Bị hỏi vặn bất ngờ, Thương biện huyện Thọ không hề lúng túng,
cứ thẳng trả lời theo ý nghĩ:
- Dạ! Bẩm cụ lớn không phải thế ạ! Chứng cớ rành rành quá,
con nghĩ không nên tha, tha cho chúng tức là phạm điều cấm của triều đình, ta
còn bảo được ai nữa. Và bẩm cụ lớn, con mụ Đội Chóp có phải là Tây đâu. Mà quan
Chánh công sứ bây giờ lại là người mới... Mình tha, là mình tự giảm quyền mình,
họ lại cười cho...
- Vâng, bẩm cụ lớn không tha là phải, không nên tha.
Tiếng người khách ngồi khuất sau cái cột nói ngắt lời Thương
Kim, khiến lão quay lại nhìn, nhận ra người quen khẽ cúi chào, nói nhỏ:
- Kính chào thầy bát Đông Thành.
Bỗng lão vụt nghĩ: “À tay lang thuốc này khôn thật, giờ đắc
thời đắc vị hơn cả bọn Tú Tích cùng làng. Thế mà từ trước mình vẫn coi thường”...
Nguyễn Hữu Độ lại hỏi ngắt đứt luồng suy nghĩ của lão:
- Thầy Bát cũng nghĩ như Trợ Thọ à? Thầy thấy bên tòa Công sứ
họ sẽ coi vụ án này như thế nào? Người khách tức Bát phẩm ở làng Đông Thành
đáp:
- Bẩm cụ lớn theo ý con, vụ này không có liên can gì đến Tây
cả, họ sẽ mặc kệ mình. Bẩm cụ lớn, con xin về bên ấy nói rõ sự thể với các quan
Tham biện, quan Đốc phủ để nói thẳng lên với cụ lớn Bôn-nan.
- Thầy nên nói ngay.
- Bẩm cụ lớn vâng, nó xúc phạm đến vua quan mà để yên thì còn
ra thể thống gì nữa. Tây nó cũng phải giữ thể diện cho các quan ta chứ. Cho nên
con xin cụ lớn cứ xử trí chúng nó theo pháp luật của triều đình.
Thương Kim hỏi ngay:
- Không những không tha, mà còn trừng trị theo luật phạm cấm?
Nhưng bẩm cụ lớn, bên Nhà chung họ cố tình xin tha cho chúng nó thì sao?
Bát phẩm Đông Thành nói ngay:
- Bẩm cụ lớn, họ có xin hộ, thì cho chúng nó được giảm đẳng
là tốt lắm rồi. Cần nói cho họ rõ thế. Và hạ chức chúng con xin hết sức nói cho
họ hiểu ra.
Nguyễn Hữu Độ gật đầu khen phải và vui vẻ nói:
- Được, ta cũng nhân dịp này làm cho dân chúng biết đến uy
quyền của các quan chứ, bấy lâu họ chỉ biết có Tây. Vậy thầy Bát về trình bày
rõ cho bên tòa sứ biết, còn thầy Trợ về cứ cho áp giải bọn chúng nó sang đây
tôi cho gọi quan Án đến định tội.
Hai người khách đều chắp tay lạy chào Nguyễn Hữu Độ, lui ra.
Đi khỏi công đường rẽ xuống dãy nhà ngang, người khách khen Bá Kim:
- Cụ Trợ giỏi thật, không nể cha và cũng không sợ kẻ bất đẳng!
Không tha bọn nó là đúng. Nhưng cũng phải là tay cứng.
Bá Kim nói nhún:
- Chứng cớ rành rành, chúng khẩu đồng từ 4 ,
quan huyện đi vắng tôi lại chỉ biết thừa hành. Tôi đâu có được quyền...
Lão ngừng một lát đi lướt nhanh qua dãy nhà ngang, nói khẽ:
- Tôi chỉ hơi lạ, quan Bát mà cũng xin trị mụ Chóp!
Ông Bát kia thấy lời nói có vẻ soi mói, liền chống chế:
- Việc quan thẳng tắp như mực Tàu, phép nước không thân. Vị nể
tình riêng là những kẻ chỉ mưu tư lợi, không nghĩ gì đến dân đến nước. Ở gần
Tây mình phải làm sao cho họ phục nước mình chứ.
Bá Kim cười vui, nói như tán đế vào:
- Vâng, quan lớn có lòng nghĩ đến nước thế thì phúc cho dân
quá. Thảo nào thầy bói Thịnh chả bảo vận quan lớn còn là hoạnh phát tợn.
Ông Bát đứng phắt lại quay mặt nhìn thẳng vào Bá Kim, hỏi:
- Nó nói với cụ thế à? Cái thằng mù ấy chỉ được cái ba hoa
nói láo, để phải trị cho nó một mẻ mới được!
Và vì đã đến cổng rồi, ông ta trở lại niềm nở chào:
- Thôi, chào cụ về nhá. Tôi cũng vội về bên tòa trình lên
quan Công sứ rõ sự thể.
- Vâng kính chào quan lớn về nhà.
Bá Kim vái chào người khách và đứng lại bên ngoài hàng rào
vái nhìn theo hắn đang thoăn thoắt đi lên phía Hàng Gai, tự nhủ:
- Mày mà dọa được ông à? Ông mà luồn lọt theo cái ngữ mày,
thì bây giờ ông ngồi ngang hàng với cụ thượng. Ông không thèm làm thế nghĩ còn
để đức cho con...
Trông theo cái dáng đi có vẻ dương dương tự đắc kia, lão chợt
nhớ đến mới năm nào, hắn còn là cái anh hàng thuốc quèn ở chợ cửa Đông. Anh ta
là Vũ Văn Hoạt, người thôn Đông Thành tổng Thuận Mỹ này, có học đòi nghiên bút
đi thi mấy khoa không vào lọt nhất trường, quay sang học thuốc, làm thầy lang
bán hoàn tán ở chợ, không ăn thua gì mấy, anh ta kiêm cả buôn gà, do đấy người
ta quen gọi là Lang Gà. Bọn Pháp đến chiếm đóng khu Đồn Thủy, anh ta đem gà vào
bán ở trường Tây rồi đi lại quen thân với mụ Đội Chóp, nhờ mụ cho buôn bán với
Tây kiếm được nhiều lời trở nên giàu có. Khi Pháp đánh chiếm Hà Nội, Trần Đình
Túc, Nguyễn Hữu Độ ra nhận chức cần người đi lại đưa tin giữa các quan ta và
quân đội Pháp, mụ Đội Chóp tiến cử lang Hoạt, Nguyễn Hữu Độ dùng và phong thưởng
cho sắc Bát phẩm văn giai, dân chúng gọi hắn là Bát Gà. Đến nay, thi hành hòa ước
mới ký tháng trước, tòa Công sứ Hà Nội đã thiết lập, Bát Gà được cử sang giúp
việc từ hàn 5 và
làm con thoi liên lạc giữa quan Tổng đốc với bên tòa sứ. Hắn tự coi mình là một
tay quan trọng và giờ đây, vớ được vụ này, hắn muốn giật dây thị uy nạt kẻ đã
làm ơn cho mình để nâng thêm tiếng tăm cho quan chức Nam triều mà hắn cũng mới
được dự phần. Bá Kim từ trước vốn khinh thường hắn, biết rõ tâm địa hắn, giờ lại
biết thêm dụng ý của hắn, lão càng không ưa, nên lời khen trên kia, lão thực bụng
thốt ra và thực bụng lão không thấy sợ gã lang thuốc quay quắt ấy. Lão đứng
nhìn xem gã kia đi khuất mới đủng đỉnh đi về bên nhà.
Đội Diệu thấy bọn Đội Chóp bị giải sang dinh Đốc bộ đợi làm
án, liền vội chạy vào Nhà chung van xin cố Phước đi bắt các quan Nam phải thả bọn
chúng ra. Cố Phước thấy cha Nghiêm vào huyện không được việc gì, án tại hồ sơ
mà lại không bưng bít bỏ đi được, để phải chuyển lên trên, mọi việc vỡ vung ra,
khó bề bắt dập im đi. Vả đường đường một viêm giám đứng đầu cả giáo hội thừa
sai ở Bắc kỳ, có rất nhiều công trạng lớn với nhà nước Đại Pháp mà lại tự hạ
sang nói với một anh quan Tổng đốc tỉnh về một sự nhỏ mọn, đâu có đáng công xứng
vị. Nên lão chần chừ mãi. Cuối cùng do Đội Diệu kêu nài, lão mới quyết định
sang tòa sứ yêu cầu Bôn-nan ra lệnh cho các quan Hà Nội thả bọn can phạm. Lão
sai đánh cái xe kiểu ma-la-ba Ấn Độ ra, cái xe bốn bánh gỗ thấp, bành vuông như
một cái ghế tựa hai tay vịn xòe như hai tay ngai. Lão ngồi lên xe, tự cầm dây
cương lấy, cho ngựa lọc cọc kéo xe vòng qua bờ Hồ Gươm, qua làng Bảo Khánh rẽ
vào Hàng Gai ung dung bệ vệ như đi chơi mát. Đến trước cửa nhà Bôn-nan, cố Phước
dừng xe ở cổng đình đức Thánh Tản, lanh lẹn bước xuống đường đi rẽ thẳng vào
nhà. Hai tên lính Tây canh ở trước cửa, đứng nghiêm bồng súng lên ngang ngực
đón chào. Lão giơ tay đáp lễ, rồi bước lên bậc hè. Bôn-nan đã bước ra hẳn ngoài
hè vồn vã chào hỏi. Cố Phước giơ tay cho Bôn-nan hôn nhẫn, rồi bắt tay Bôn-nan
dắt vào nhà. Bôn-nan mời lão đến phòng khách ở gian giữa, mời lão ngồi lên cái
ghế bành gỗ, còn hắn ngồi ở chiếc ghế đối diện hầu chuyện. Cố Phước hỏi qua về
tình hình tổ chức trong tòa sứ, về cách thức giao thiệp với quan chức An Nam, với
bọn Khách trú, về sự xếp đặt cai trị sau này, sau cùng dẫn đến việc xin tha cho
bọn mụ Đội Chóp. Bôn-nan ứng đối rất lễ phép, trình bày rõ công việc đối xử
hàng ngày và hướng tiến rộng nay mai lên đức cha soi xét và luôn luôn ca ngợi
công ơn đức cha đã ban giúp cho quan quân nước Đại Pháp. Nhưng đến việc Đội
Chóp, Bôn-nan đang nói thao thao bất tuyệt tán dương đức cha, bỗng ngừng lại
suy nghĩ một lát, rồi mới lựa lời từ chối một cách khéo, nói rất chậm chạp:
- Thưa đức cha, con thiết tưởng việc này là việc riêng của
người An Nam. Con có biết từ hôm qua. Nhưng con thấy quan An Nam phải có quyền
với dân An Nam. Vả lại điều quan trọng nhất là những người An Nam ấy và cái
pháp luật An Nam ấy không có liên can gì đến người Pháp của chúng ta và không
có hại gì đến uy tín chúng ta cả...
Cố Phước lắc đầu cười xòa, xòe năm ngón tay luồn qua râu vuốt
rẽ tỏa ra như một cử chỉ tỏ ý bác bỏ, rồi thong thả nói:
- Quan Công sứ lưu trú nghĩ nhầm rồi, quan ngài ạ, quan là
người thay mặt nước Cộng hòa Đại Pháp thường trú ở đây, quan có trách nhiệm bảo
vệ quyền lợi nước Đại Pháp, quan có bổn phận phải bênh vực những người đã chiến
đấu vì quyền lợi thiêng liêng ấy. Những người này là tôi con của đức Chúa, họ
có quyền đòi quan ngài phải che chở...
Bôn-nan cố phân trần rất ôn tồn lễ phép:
- Thưa đức cha, nếu là hàng giáo phẩm, hay là những quan chức
có tiếng tăm làm việc với người Pháp chúng ta thì dù cho đức cha chưa truyền bảo,
con cũng phải hết sức bênh vực. Đằng này mấy con mụ đàn bà hạ cấp đê tiện này
không phải là kẻ ngoan đạo, chỉ là một bọn đĩ thõa, bị người An Nam ghét bỏ. Nếu
ta dây vào chỉ mang tiếng cho nước Pháp.
Cố Phước đã nổi nóng nháy nháy mũi làm phập phồng chòm râu,
nói có vẻ gay gắt, mất hẳn giọng từ tốn ban đầu:
- Ấy chính những người đê tiện ấy và đã mở đường dọn cho quan
ngài đến đây đấy. Họ tin đạo. Họ mở rộng nước Thánh, làm sáng danh Chúa. Nếu
không bênh vực che chở họ thì không còn lý do để các quan lưu trú đại diện nước
Pháp ngồi ở đây nữa. Và ai đưa các quan đến đây kia chứ?
Giá như là một kẻ chân thành mộ đạo, tin ở Chúa, hơn nữa, giá
ở vào tình cảnh trước mấy tháng, khi tướng Bu-ê mới đến thay Ri-vi-e làm tổng
chỉ huy, thì Bôn-nan đã phải phát hoảng lên vì lời nói chỉ trích ấy và tất
nhiên “con” sẽ ngoan ngoãn vâng theo “cha”. Nhưng Bôn-nan lại là tay chính trị
thực dân sành sỏi lõi đời, và tình thế lúc này lại khác hẳn với mấy tháng trước.
Bác sỹ A-măng, một anh quan văn làm Cao ủy toàn quyền cho quân đánh thẳng vào
Huế với ý định dùng áp lực chính trị với triều đình đã thu được kết quả quá sự
mong muốn. Hắn liền thay đổi chiến lược, chỉ thị cho các quan Công sứ mới đặt
và các tướng lĩnh quân đội phải khéo dựa vào các quan chức triều đình, phải biết
nâng cao uy danh của họ và đồng thời, không chỉ hoàn toàn tin vào lực lượng của
dân giáo và cha cố. Bôn-nan thấm nhuần đường lối ấy và lại càng rõ tình hình cụ
thể ở đây, nên trước lời nói khích nộ của cố Phước, hắn vẫn bình tĩnh lễ phép
đáp:
- Thưa đức cha, con nói là có chứng cớ và có đắn đo suy tính.
Những con mụ kia là cặn bã xã hội, theo đạo cũng theo giả dối, trong nhà mụ
Chóp có điện đồng bóng thờ tạp thần nhảm nhí. Ngay đối với người Pháp chúng ta,
bọn chúng cũng chỉ là những con đĩ không hơn không kém. Thì làm sao đức cha cứ
muốn chúng ta phải quan tâm quá mức đến chúng nó.
- Ngay việc làm đĩ của họ cũng là vì lợi ích của người Pháp
chúng ta. Cố Phước cố ý nhấn mạnh.
– Vâng thưa cha, điều đó thì tất nhiên con phải hiểu hơn cha.
Bôn-nan vừa nói vừa cười ranh mãnh, với vẻ tự tin đắc thắng. Nhưng cái lợi nhỏ
nhặt và nhất thời. Làm việc lớn phải biết nhìn cái lợi to lớn và xa rộng. Thưa
đức cha, ông Han-ri Ri-vi-ê-ra phải hy sinh bỏ rơi Tôn Thất Bá cũng vì nhìn xa
thấy cái lợi to lớn hơn. Xin đức cha cứ để cho con làm theo ý con để nâng danh
giá ông Tổng đốc lên, chắc chắn rồi ông cũng sẽ làm lợi cho chúng ta, cho nước
Pháp và cho nhà thờ nhiều nhiều hơn nữa.
Cố Phước không còn đủ lý chọi được với viên quan cai trị này,
đành ngồi im một lúc rồi đứng lên hậm hực từ biệt ra về. Bôn-nan đứng lên tiễn
chân cố nói vớt:
- Thưa đức cha, xin người xét lại cho, con chỉ biết nghĩ đến
quyền lợi của người Pháp, chứ không dám có ý gì khác.
Đành rằng thế. Nhưng đức cha vẫn không thấy hài lòng. Lão ngồi
trên xe giật dây cương cho ngựa bước nhanh lộc cộc lộc cộc phóng qua phố Hàng Gai
rẽ vào đường làng Chân Cầm qua Thiên Trị không dừng một bước nào. Đi qua cổng
chùa Lý Quốc Sư, lão buông lỏng dây cương cho ngựa đi thong thả, đến khu chân
tháp Báo Thiên lão cho ngựa dừng xe lại ở dưới bờ giậu duối. Ngồi trên xe, lão
nhìn bao quát cả cái khu cây cối hoang vu, lão gật gật đầu lấy làm đắc ý, lão
nhìn thẳng con đường thôn Tự Tháp ra đến bờ Hồ Gươm, miệng lẩm bẩm một mình:
- Phải làm sáng danh Chúa, tỏa ánh hào quang của Chúa sáng ngời
khắp vùng này. Rồi cũng phải cần đến nó... Chỗ này rất tốt. Gió nhẹ từ ngoài hồ
thổi lướt nhẹ vào đến khu chân tháp, rung rinh những cánh lá tung bộ râu của
lão bay lòa xòa, lão xòe năm đầu ngón tay vuốt râu mỉm cười miệng lắp bắp:
- Tốt lắm! Tốt lắm!
Trong khi ấy, những người quanh vùng Nhà chung đi qua, chắp
tay cúi đầu vái chào lão, vẫn tưởng là lão khen mình. Gió mát và niềm vui đã
xua tan nỗi bực dọc của lão, nghĩ đến dự định xa xôi, lão hả lòng hả dạ, lão
ung dung nhàn nhã, giật cương cho ngựa bước đủng đỉnh từng bước cộc cộc cộc...
về phía Nhà chung.
Hôm sau Án sát tỉnh Hà Nội Nguyễn Xuân Duẩn đã làm xong bản
án đệ lên Tổng đốc Hà Ninh. Nguyễn Hữu Độ cho đem thi hành ngay trước mặt công
chúng. Ba can phạm được giải đến khu đất rộng trước Quảng Văn đình. Hoàng Cao
Khải, Tri huyện Thọ Xương kiêm Bang biện Hà Nội được chỉ định làm giám xử. Hai
hàng lính nón dấu chóp đồng áo vàng nẹp xanh, đai xanh đứng chống đồng giáo
canh giữ trật tự. Một hồi ba tiếng trống tiêu cổ báo hiệu bắt đầu xử quyết.
Hoàng Cao Khải đứng dưới lọng xanh, truyền lệnh tuyên đọc bản án. Đề lại Thọ
Xương đứng ra giữa bãi đọc vắn tắt những án đã xử:
“Quan Tổng đốc đại thần tỉnh Hà Nội xử phạt: Tên thị Chóp 50
tuổi ở ô cửa Tây Luông phạm điều cấm điều đỏ để tang tiên đế, lại có những lời
lẽ xúc phạm, nay phạt đánh bốn mươi roi, tiền một trăm quan. Tên thị Là ba mươi
tuổi cùng ở ô Tây Luông; tòng phạm luật cấm điều đỏ, nay phạt đánh 20 roi nộp
tiền 50 quan. Thị Lượt 28 tuổi cũng cửa ô Tây Luông, tòng phạm luật cấm điều đỏ,
nay phạt đánh 20 roi nộp tiền 50 quan. Án này giao cho huyện nha Thọ Xương đem
xử quyết công khai để treo gương cho dân chúng”.
Viên Đề lại đọc xong, một hồi trống tiêu cổ nữa vừa dứt, hai
người lính lần lượt giải từng can phạm ra giữa bãi, nọc nằm sấp sóng soài, cho
thầy Đội lệ cầm roi mây vụt tới tấp xuống mông bị can đủ số roi đã phạt. Kẻ tội
nhẹ được dẫn vào trước, kẻ tội nặng bị đánh sau cùng. Đánh xong mỗi tên lại có
một tiếng trống tiêu cổ báo dứt. Đánh xong cả ba tên, một hồi trống dài kết
thúc cuộc xử quyết. Can phạm được thả ngay tại chỗ. Dân chúng đứng xem thích
chí reo hò vang cả lên, kéo nhau tản về các ngả, bàn tán xôn xao khắp dọc đường.
Vì dân thành phố vốn ghét cái bọn đánh đĩ với Tây ấy từ lâu. Họ đã từng đặt những
câu hát mỉa. Nhất là từ khi giặc đánh chiếm thành, bọn này dựa vào thế Tây càng
ra vẻ hống hách dương dương tự đắc, các quan cũng phải kiêng sợ, dân phố càng
thêm khinh ghét bọn đĩ rởm ấy, nay mụ Đội Chóp, đàn chị của bọn ấy, bị đánh ở
giữa nơi công cộng, mọi người đều thấy hả lòng hả dạ. Và tự nhiên họ khen ngợi
quan Tổng đốc công minh cứng cỏi dám trừng trị cả những kẻ tôi tớ thân yêu của
Tây. Có người cao hứng đã phỏng theo câu thơ mỉa Trần Đình Túc “nhất phẩm...”
làm thành câu thơ tán thưởng Nguyễn Hữu Độ: “Quan thượng ra oai tiếng khét
vang”. Do đó một số người thêm tin phục vào quyền thế của các quan tỉnh. Độ-Khải-Kim
nhất thời được tiếng là đã có gan giữ được thể diện cho nước nhà. Bà con đường
phố nhẹ dạ cả tin lại có thêm cớ ngả theo lời dụ đường mật của Độ-Khải-Kim.
Riêng Bát Gà đứng ngoài đã thu được hai điều lợi: Được Độ khen thưởng và tin dùng
thêm, đặc cách tư cho những hàm Hàn lâm điển tịch và mặt khác dựa vào phép nước
trị được con mụ Chóp, ân nhân của hắn, để rồi lại xum xoe ve vãn giả vờ che chở
và mách nước cho con mụ đã lão luyện trong nghề chiều khách, nhưng lại quá hợm
đời.
Vụ án Đội Chóp cũng đã nâng cao thêm tiếng tăm bọn quan chức
triều đình trước bà con hàng phố mới chạy loạn trở về. Và đúng như cậu ấm Tự
Tháp nói nó có phần nào cản trở mọi hoạt động của Nghĩa hội. Những người can
tràng kiên quyết phần đông còn ở bên ngoài hoặc đi theo đội quân của Thống đốc
Hoàng Tá Viêm. Những người ở lại và những người mới trở về, tuy cũng có lòng
tham gia vào việc nghĩa, nhưng vẫn còn đắn đo đợi thời và nghe ngóng cách đối
phó của các quan tỉnh để lựa chiều. Mấy ông văn thân có uy tín lại không nhất
trí với nhau và thái đội cũng không rõ rệt. Công việc chung hóa ra không được
hướng theo một ngả dứt khoát. Dân chúng luống những trông chờ. Trong khi ấy giặc
Pháp tiếp viện thêm quân đến Hà Nội. Không đủ trại trú quân, chúng mượn cớ chiếm
đóng yên ổn và lễ phép những đình chùa quanh Hồ Gươm và đền Thánh Trấn Vũ trên
Hồ Tây hình thành một vành đai bảo vệ khu trung tâm thành phố có tòa Công sứ,
tòa Thương chính và công sở của các quan tỉnh. Đô đốc hải quân Cuốc-bê thay làm
tổng chỉ huy đến Hà Nội, vạch kế tiến đánh Sơn Tây. Hắn thân cầm quân đi đánh từ
14 (12-1983) đến ngày 16 (tức ngày 16-10 Quý Mùi) chiếm hẳn được thành Sơn. Về
phía đông hắn cho quân đánh rộng lên tỉnh Bắc. Thành phố Hà Nội được bọn giặc bố
trí thành một cơ sở kiên cố của chúng. Cuốc-bê tự coi Độ là Kinh lược sứ, yêu cầu
Độ bổ Tổng đốc và Tuần phủ Sơn Tây để mượn tiếng nhà vua làm việc cho chúng, Độ
cử hai người trong tỉnh là Nguyễn Khuyến và Thành Ngọc Uẩn, nhưng hai ông không
nhận. Hắn lại cử Tú tài ngũ phẩm Nguyễn Trần Cáp lên làm việc, và Phó quản lý
thương chính Nguyễn Hậu làm Bố chính Sơn Tây, có tên lang thuốc Lương Văn Đạt
giúp việc đều là dân giáo. Độ nghiễm nhiên trở thành Khâm mạng duy nhất của triều
đình có quyền hành tuyệt đối ở đây. Tuy vẫn với danh nghĩa của triều đình,
nhưng lão không hề nghe theo lệnh của nhà vua, mà chỉ vâng theo kế hoạch của
Tây. Phái đoàn khâm mạng Đoàn Văn Hội, Nguyễn Hữu Thường ra đầu năm 1884 đòi
lão về kinh, lão đã nhờ tướng Mi Lộ cho lính Tây đến canh cổng và nói thẳng với
các quan triều rằng:
- Hạ chức không thể tuân lệnh được, vì nhà hạ chức ngày đêm bị
cái lũ mọi Tây nó canh giữ không cho rời khỏi nhà.
Ấy thế là Tổng đốc Hà Nội vẫn cứ ung dung ở lại Hà Nội trực
tiếp cắt cử những quan chức ở địa phương ngoài Bắc này, mỗi khi quân Pháp đánh
chiếm được. Và do đó lão được bọn Pháp rất trọng vọng; lão lại càng tỏ ra mẫn
cán sốt sắng làm theo mọi yêu cầu của Pháp mà giữ vững địa vị và uy quyền. Lão
không bỏ lỡ một dịp nào có thể làm vừa lòng bọn chủ mới.
Đầu xuân năm ấy, sau khi đã tiễn tống đoàn đi rồi, lão ung
dung mở một bữa tiệc mừng xuân rất linh đình vui chung với cả bọn Pháp gồm đủ
các trò vui. Lại có cả nghi lễ bái vọng đức Vua được đông đủ các quan chức Pháp
tham dự. Uy quyền của quan Tổng đốc đã thành tuyệt đối không còn ai dám ho he dị
nghị nữa. Cố Phước nhận thấy rõ điều đó trong ngày hội mừng xuân, liền nghĩ
cách lợi dụng cái uy quyền ấy vào công việc riêng của mình. Hôm sau, lão sai
linh mục Nghiêm đem lễ vật đến mừng riêng quan Tổng đốc. Họ vui vẻ tiếp đón người
của nhà xứ và để tỏ rõ lòng kính phục và tin cậy đức cha, ngay từ phút đầu, lão
đã ngỏ ý mời khách ở lại ăn cơm để cùng nói chuyện thân mật. Cố Phước chỉ mong
mỏi được như thế và đã dặn cặn kẽ cha Nghiêm phải tìm mọi cách để cầu thân. Cho
nên khách được mời đã không ngập ngừng từ chối như thường lệ mà nhận nhời ngay.
Và nhập gia tùy tục, khách tỏ ra rất thông thạo những lề thói đầu năm bằng một
gia đình quan cách, khách đi lại đứng ngồi nói năng rất từ tốn lễ phép biết
tránh trước mọi điều kiêng kỵ. Độ rất bằng lòng về thái độ cang thuận ấy, đứng
lên đi trước thân mời khách vào phòng khách riêng để nói những chuyện quan trọng
đến nước nhà. Trong gian phòng kín đáo ấm cúng xa hẳn mọi tai mắt tò mò, cha
Nghiêm lanh lẹn trình bày mọi thắng lợi của Tây, của đạo và dự định “mở mang” của
bọn chúng sau này. Sau cùng hắn đưa câu chuyện đến mục đích chính của cuộc gặp
gỡ: việc làm nhà thờ đạo ở trong thành phố. Độ vui vẻ nói ngay:
- Thế còn gì bằng! Quý hóa quá. Đạo là đạo chung, ở giữa nơi
phố phường cố đô này phải có một nhà thờ thánh đường thờ đức Chúa để dân chúng
cùng ngưỡng mộ thì mới xứng. Đốc bộ đường chúng tôi xin đem hết sức mình góp
vào công việc hoằng đạo 6 ấy.
- Vâng, xin bái tạ cụ lớn. Cha Nghiêm lễ phép nói tiếp: Đức
cha và các cha bên Nhà chung tin chắc rằng cụ lớn và các quý đài 7 sẽ
hết lòng giúp đỡ dân đạo làm thánh đường. Thưa cụ lớn, vật liệu và công sá thì
không lo, chỉ khó khăn nhất là nơi dựng. Xa thì không tiện mà gần thì không có
chỗ nào vừa ý. Được một nơi khoáng đãng trung độ khả dĩ chọn làm nơi linh địa 8 để
tụ tập tín đồ thì lại đang còn mắc mứu, nên đức cha muốn trình lên cụ lớn, nhờ
cụ lớn...
- Chỗ nền tháp chứ gì? Độ hỏi ngay và nói tiếp. Quan Chánh
công sứ cũng mới nói với tôi. Kể ra đức cha cũng giỏi địa lý, tinh phong thủy lắm
nhỉ! Cái nền ấy là chỗ ông thánh Nguyễn đời Lý, ông ấy cắm đất xây cột tháp Báo
Thiên đấy.
– Vâng thưa cụ lớn ấy chính vì thế mà đức cha tôi mới sai tôi
đến trình lên cụ lớn, mong cụ lớn tìm cách giúp đỡ thế nào cho ổn thỏa. Chỗ đất
ấy bây giờ bỏ hoang, cây cối rậm rạp, để không không sao, nhưng nay chúng tôi lại
đụng vào sợ lại mang tiếng là đất chiếm của đạo Phật, rồi sinh ra thù nghịch
tôn giáo thì không lợi cho cả đôi bên.
Thấy Độ còn đang đắn đo suy nghĩ, cha Nghiêm nói cứng cỏi nhấn
mạnh thêm:
- Thưa cụ lớn. Sở dĩ phải trình với cụ lớn là vì đức cha muốn
để quyền cho cụ lớn chứ như quan Công sứ nói đã trong lúc tình trạng chiến
tranh này, Nhà chung vẫn có quyền chiếm cái khu đất bỏ hoang ấy, nhất là khu đất
ấy lại ở trong khu vực quân đội Pháp đóng giữ... mà.
Hữu Độ vội nói tỏ ra giọng kẻ cả:
- Phải phải, tôi biết cả, quan Công sứ cũng đã bảo tôi biết
như thế. Tôi đương nghĩ làm thế nào cho được cả lý và tình, cái chỗ đất bỏ
hoang ấy chiếm lúc nào mà chả được. Cái khó là tìm ra cái lý công nhận cho mình
chiếm. Có lý rồi sẽ có tình, không lo.
Cha Nghiêm vội vồn vã:
- Thưa cụ lớn, thế nên đức cha tôi mới cần phiền đến cụ lớn.
– Chết cái nơi ấy lại là đất quý của cố đô. Độ nói vẻ làm
cao. Mọi người đều biết cả. Tìm ra được lý cho xuôi không phải dễ.
Cha Nghiêm càng tỏ vẻ nịnh nọt và gợi ngay vào công việc:
- Bẩm vâng thưa cụ lớn, có khó mới phải nhờ đến cụ lớn, gặp mấu
vầng mới hay búa sắc 9 ,
chắc cụ lớn đã có cao kiến tìm ra được cái lý chính đáng để đức cha và dân giáo
chúng tôi mãi mãi được nhờ công cụ lớn.
Độ cười ra vẻ đàn anh thắng thế:
- Khó nhưng mà cũng dễ. Nhưng bên phía các ngài phải làm. Thế
này nhé. Tôi sẽ sức hỏi kẻ kế thừa hai khu đất ấy, tất nhiên dân họ sẽ khai là
vô thừa nhận, vì ông Nguyễn Minh Không là nhà thiền sư tu hành làm gì có con
cháu nối dõi, đất ấy trở lại là quốc gia công thổ. Còn cái chân tháp đổ nát kia
thì các ông về bảo dân Nhà chung rủ thêm mấy người dân ở Tự Tháp, Tiên Thị cùng
làm đơn đệ lên quan trên xin dỡ đi cho khỏi vương vãi gạch ngói vào khách bộ
hành qua lại. Đơn ấy đưa qua huyện Thọ sang đây, cho phép phá đi đem gạch ngói
bán đấu giá. Sau đó Đốc bộ đường tôi sẽ làm giấy bán khu đất ấy cho đức cha. Như
thế được chứ?
Cha Nghiêm ngập ngừng thưa:
- Bẩm cụ lớn, cụ lớn dạy như thế cũng gọn, nhưng...
- Nhưng sao? Độ hỏi ngay. Các ông chỉ phải bảo dân họ ký vào
đơn mà thời buổi này những kẻ nào còn quanh quẩn ở lại làng là cũng dễ mua chuộc,
điều đó các ông tất rõ hơn tôi. Vậy mà các ông còn ngại gì?
- Dạ thưa cụ lớn, không ạ. Cha Nghiêm lễ phép phân trần. Nhà
chung chúng tôi chỉ còn hơi sợ đơn từ khai báo như thế có lâu quá không?
Độ cười lớn đáp:
- Lâu hay chóng là do các ông ấy chứ. Tôi hỏi là hỏi cách làm
như thế có được không? Được thì về làm đi rồi lên đây, Đốc bộ đường tôi làm giấy
báo cho.
Cha Nghiêm vội nói lấy lòng:
- Bẩm cụ lớn, cụ lớn hết lòng giúp đỡ cho như thế. Tôi về
thưa lại với đức cha, đức cha sẽ hết sức cảm động và ghi nhớ công đức cụ lớn
mãi mãi. Sự giúp đỡ ân cần của cụ lớn, thật sánh đôi ngang hàng với sự giúp đỡ
của quan Đô đốc toàn quyền Cuốc-bê. Tháng trước đây, quan Đô đốc vừa ký giấy
cho phép Nhà chung mở cuộc đánh số một vạn đồng để xây nhà thờ.
Hắn lấy ở trong túi ra một mảnh giấy chữ nhật có hình vẽ đưa
trình Nguyễn Hữu Độ và giảng:
- Thưa cụ lớn, đây là tấm phiếu đánh số đấy ạ. Phiếu mới in tại
Hương Cảng đưa về. Giá mỗi phiếu là một đồng nên trên phiếu có in chữ nho: “nhất
nguyên” và con số một chữ La-tinh, một bên là hình nhà thờ lớn có hai tháp
vuông và cây thánh giá, một bên là hình đức Thánh Giô-se là ông thánh đỡ đầu nhà
thờ này. Đức cha cho in một vạn phiếu để mọi người cùng dự đánh số...
- Sao lại gọi là đánh số?
- Dạ thưa cụ lớn, đánh số như là đánh bạc, tiếng Phú Lãng Sa
gọi là Loterie 10 ,
nghĩa là trong một vạn phiếu ghi số từ 1 đến 10.000, người ta định mức mấy số
trúng, và ngày mở số. Khi mở, người ta quay hay gắp rơi ra những con số nào đấy.
Phiếu nào đúng với con số ấy là trúng, được cuộc, nhận được tiền hay đồ vật.
Độ cười vui vẻ:
- À, thế cũng là đánh bạc, ai cũng chơi được mà ai cũng may
trúng, cũng như lối chơi gắp thăm của ta.
- Thưa cụ lớn vâng ạ. Như cuộc đánh số một vạn bạc này đức
cha đã ấn định một giải nhất trúng 1.000đ, hai giải nhì trúng 500đ và 20 giải
ba trúng 100đ. Như vậy người nào may mắn được Chúa ban phước cho trúng giải nhất
thì chỉ phải bỏ ra có một đồng mua phiếu mà được những 1.000 đồng vị chi là
5.000 quan, của trời ban đến tự nhiên phút chốc trở giàu lớn.
Hắn đứng hẳn lên nghiêm trang đĩnh đạc hai tay nâng tấm phiếu
kính cẩn trước mặt Hữu Độ, nói rằng:
- Thưa cụ lớn, Nhà chung chúng tôi mong rằng con người may mắn
ấy phải làm lớn, nên đức cha nhờ tôi chuyển dâng lên cụ lớn tấm phiếu này.
Hữu Độ vội chối:
- Ấy để tôi mua một phiếu chứ. Có bỏ tiền ra mua mới có may
chứ ai lại may ăn người. Vả cũng gọi là có chút ít cúng vào việc xây dựng giáo
đường.
Cha Nghiêm đã ngồi xuống ghế, ung dung thong thả nói:
- Dạ thưa cụ lớn, cụ lớn giúp cho nơi dương cơ đã là cúng nhiều
lắm rồi. Công đức ngang với núi sông. Vả Nhà chung còn muốn dựa vào uy thế của
cụ lớn để bán một số phiếu này. Đức cha đã chia 5.000 phiếu này cho quân lính
Pháp, 4.000 phiếu cho dân giáo, còn 1.000 phiếu dành lại muốn nhờ cụ lớn cho
chuyển bán cho bên lương để làm duyên.
- Được, Độ nói rất thản nhiên. Cũng là dịp để bên đạo bên đời
thân nhau, may ra Chúa ban phước cho trúng giải thì càng tốt, thân lại thêm
thân. Để đấy tôi mua cho 10 phiếu, các quan tỉnh mua cho một ít, còn thì giao
cho sở tại đem bán cho hàng bang và hàng phố, việc công đức chắc ai cũng vui
lòng.
- Vâng! Thưa cụ lớn, cụ lớn định bố trí công đức như thế, kể
cũng tiện và chu đáo lắm. Nhà chung lại được nhờ ơn cụ lớn thêm lên trăm phần nữa.
Chợt bên ngoài có tiếng gõ cửa. Độ lên tiếng hỏi và trông ra.
Một người lính tại phòng đẩy cửa thò đầu vào báo có Thương biện Thọ Xương xin
vào hầu. Lão vui mừng hẳn lên truyền:
- Dẫn hắn vào đây.
Rồi lão thích chí quay lại nói với linh mục Nghiêm:
- Cho hắn vào đây, giao cho hắn làm ngay những công việc này,
khích hắn lên để hắn sốt sắng được việc.
Người lính gõ cửa mở ra đưa Thương Kim vào, lão lạy chào Hữu
Độ, vái chào cha Nghiêm. Độ đẩy ghế cho Thương Kim ngồi và nói ngay:
- Thầy hỏi việc gì có cần không? Không thì hãy để đấy, nói
sau, bây giờ ta hãy nói đến việc bên nhà xứ nhờ chúng ta đây này.
Thương Kim quay lại hỏi linh mục Nghiêm:
- Thưa cha việc gì ạ?
Linh mục Nghiêm thuật lại tường tận gọn gàng hai việc vừa
trình bày với Hữu Độ và quyết định của lão.
Hữu Độ nói thêm:
- Tôi bảo với ông ấy như thế đấy. Về việc thứ nhất, có phí tổn
tiền nong gì các ông bên nhà xứ phải chịu cả, ta chỉ giúp đỡ giấy tờ thôi. Về
việc thứ hai, các quan sẽ mua cho một số, còn bao nhiêu, thầy chịu khó giao
Bang trưởng và Tổng lý bán cho các nhà giàu... À này, bên tòa sứ vừa có giấy
báo sang bảo làm bằng thăng bổ thầy làm Tri phủ phủ Thường Tín rồi đấy. Thầy
tuân hành nhanh xong việc này để rồi mà đi cung chức. Cũng là một dịp thân tình
chót với Nhà chung.
- Bẩm cụ lớn, còn thân tình mãi mãi chứ, cha Nghiêm đỡ.
Thương Kim nói vồn vã lễ phép:
- Dạ bẩm cụ lớn, việc công đức thờ Chúa cũng như việc quyên
giáo thờ thần cúng Phật hạ chức chúng con xin làm ngay. Thần thánh chúa bụt,
các ngài cao xa ở trên đầu trên cổ, chúng con đều một lòng thờ kính, không bao
giờ dám trễ nải việc gì. Còn việc bán phiếu này cũng dễ, cúng mà còn mong có lợi
ai mà chả cúng.Có thể còn cúng nhiều là đằng khác.
Linh mục Nghiêm thấy mọi việc đều trôi chảy cả cần phải nói lấy
lòng cả hai người:
- Thưa cụ lớn, quan Thương nói đúng. Việc là việc công đức
nên Nhà chung chúng tôi mới được cụ lớn và các quan hết sức vê tròn quả phúc.
Nhà chung chúng tôi sẽ cử đại lễ cầu nguyện đức Chúa. Lời ban phước lành bằng
yên cho các quan và ban diễm phúc cho quan lớn và quan Thương trúng giải đánh số.
Thương Kim nói để nịnh Hữu Độ:
- Bẩm cụ lớn, cụ lớn được cả phúc cả danh, dân đạo ở đây sẽ
nhớ mãi công cụ lớn cắm ngôi đất này làm Nhà thờ và dân phố cũng sẽ lấy làm
thích nơi Kinh đô cũ, bên cạnh Hồ Gươm này sẽ có thêm một tòa đền đài nguy nga
tráng lệ làm đẹp cho cả phố phường hơn cái tháp Báo Thiên ngày trước nhiều.
Cha Nghiêm mỉm cười gật đầu và tán nịnh thêm:
- Vâng chính thế. Dân giáo chúng tôi sẽ rất lấy làm sung sướng
có nơi thánh đường để giảng kinh ngắm Chúa cho lọn đức tin ở Chúa và ở đức Mẹ
thánh thần. Và như thế tất nhiên sẽ nhớ đến cụ lớn và quan Thương.
Hữu Độ nói như kết luận:
- Thôi được! Thế là ổn. Việc phúc đức thờ Chúa cũng như thờ
Phật, Đốc bộđường đều phải trông coi cho chu đáo để mong các ngài phù hộ độ trì
cho trong tỉnh được vật phú dân khang, ông về nói với đức cha rằng mọi việc có
chóng vánh hay không là đều do bên phía đạo chứ không phải là do bên tỉnh chúng
tôi.
Linh mục Nghiêm phải tỏ ra chân thành cảm tạ một lần nữa:
- Đức cha rất lấy làm cảm ơn cụ lớn và xin cụ lớn tin cho rằng
trong bất cứ cuộc lễ nào, đức cha và các hàng giáo phẩm chúng tôi cũng đều cầu
nguyện đức Chúa thánh thần hằng ban phước lành lọn đời cho cụ lớn và ban bằng
yên phú túc cho toàn tỉnh. Đức Chúa thánh thần hằng ngự trị xua tan mọi tai vạ
chăn dắt chiên lành.
Hắn làm dấu chữ thập rất nghiêm trang tin tưởng. Hai người
kia đều ngồi im lặng, chắp tay có vẻ thành kính và thỏa mãn.
--------------------------------
Người chức việc trông coi chợ. |
|
Cắt tay chân, xẻo từng miếng thịt cho chết dần (một hình phạt
dã man thời phong kiến). (BT) |
|
Bắt người thì dễ, tha người thì khó. |
|
Trăm người như một đều nói như nhau. (BT) |
|
Việc giấy tờ, văn phòng. |
|
Làm rộng cái đạo lý. |
|
Tên xưng hô tôn kính. |
|
Đất thiêng. |
|
Mấu thành vầng, rất khó bổ (củi, gỗ). |
|
Lô-tơ-ri nghĩa là đánh xổ số. |
Chương V
Ngày mồng hai tháng năm, năm Ất Dậu.
Tiết trời nóng bức. Nhưng buổi sáng hôm nay trong vắt như pha
lê tươi đẹp và có gió nồm hây hẩy dịu mát từ ngoài sông tỏa vào bờ phe phẩy ngọn
cây cành lá rung rinh. Quanh bờ hồ đã sửa dọn quang đãng, sạch sẽ, rải rác và đều
đặn, cân đối, những cột cờ thẳng tắp mang những lá cờ tứ phong và đuôi nheo năm
màu sặc sỡ cùng xen với những lá cờ ba sắc đua bay lượn phất phơ như viền lấy mặt
hồ xanh thẳm, càng tô cho quang cảnh bừng sáng thêm. Nổi bật bật bên cái khung
cảnh rực rỡ ấy, dinh thự của quan Kinh lược đại sứ Bắc kỳ vừa mới xây xong ở
trên nền trường thi cũ, tường vôi trắng, ngói mới đỏ, tươi tắn như muốn át cả
màu xanh của cây cối chung quanh. Cái lầu vọng khuyết 1 ở
ngoài cổng xây hai tầng cao vượt lên trên ngọn cây, nhìn thẳng đến tận hồ, bên
trên lại kéo một lá cờ vuông tứ linh thêu rồng phượng lồ lồ, càng tăng thêm vẻ
tôn nghiêm. Ngang giữa lầu, bên trên tầng dưới lối ra vào, bốn chữ đại tự “Bắc
phương tỏa thược” 2 ,
nét to ba tấc, ánh mực đen nhánh hòa hợp với màu giấy đỏ và trang kim mới kết
khung trang trí hôm nay khiến cho ai nấy đều phải chú ý đến một cách kính cẩn
mà nhớ đến uy quyền của nhà nước. Trên con đường từ đấy chạy thẳng tắp qua ngã
tư Vũ Thạch, ngay từ Hàng Khay, Tràng Tiền đến cửa ô Long Tường vào Trường Tây
hai bên cắm đều đặn và cân đối, và xen kẽ, những cây cờ ngũ hành và cờ ba sắc
đang cùng phe phẩy là là trước gió hớn hở đón chào. Và khi mặt trời đã lên cao,
cứ giữa hai cây cờ mỗi bên đường lại thêm một người lính cơ của tỉnh mặc áo
vàng, khăn đại xanh, đội nón dấu chóp đồng, bồng súng đứng túc trực. Đúng giờ
Mão, hai cỗ xe song mã bánh to vành sắt, mui vải xanh có rủ rèm chân chỉ hạt bột 3 leng
keng lốc cốc từ trường Tây đi ra tiến vào cửa ô Long Tường, hai bên có hai hàng
lính kỵ binh đi kèm. Mỗi hàng là sáu lính đội mũ bon-nê mào bông đỏ, mặc áo
quân phục trắng thắt đai da, quần mốt dọc đỏ, đi giày đinh, ngang lưng đeo
súng, một tay cầm kiếm giơ lên, một tay ghì cương ngựa. Trên mỗi xe ngoài người
lính đánh xe, có ba người ngồi, một Nam và hai Tây. Cả đoàn xe ngựa ấy đi đều đều
nhịp nhàng thẳng đến trước nha Kinh lược thì dừng lại. Hàng ngựa bên trái đứng
tại chỗ quay dồn thành hàng ngang ở bên phải vọng khuyết lâu. Hàng ngựa bên phải
tiến lên mấy bước, đứng dàn thành hàng ngang quay đầu ra ở bên trái. Trong khi ấy
tiếng trống trên lầu nổi ba tiếng giục giã. Một viên quan đại thần mặc áo triều
phục nhất phẩm đội mũ cánh chuồn thêu chỉ vàng, nghiêm trang đĩnh đạc bước xuống
bậc cổng, đi ra giữa mặt đường chỗ xe đứng vái chào. Sáu người trên xe đã xuống
cả đường. Trong khi mấy người Tây rảo bước đến cúi chào và bắt tay đáp lễ, người
Nam thông ngôn nói:
- Bẩm quan Kinh lược đại sứ, quan Thống tướng toàn quyền nước
Đại Pháp thân mến mừng lễ Hưng quốc khánh niệm của nước ta.
Kinh lược sứ Nguyễn Hữu Độ vội nói:
- Vâng, quan lớn nói giùm là bản nha chúng tôi rất lấy làm
vinh hạnh và đã chuẩn bị đủ cả.
Rồi lão dang hai tay chỉ vào phía cổng, nói mấy tiếng Tây mới
học lỏm được để tỏ vẻ thân mật:
- Me-sừ hô péc-son-na, a-lê 4 đi...
Mấy người Tây mỉm cười vui vẻ bước vào cổng lầu, lên bậc bước
vào sân. Một hàng dài các quan Nam áo mũ hia hốt chỉnh tề đang rung rung tay áo
sắp xếp cho phẳng nếp toan sụp xuống lạy, mấy người khách đã vội xua tay chạy
ào cả tới, miệng nói: “no.. no.. no” 5 .
Thông ngôn nói lễ phép:
- Xin các quan miễn lậy. Tây họ bảo đừng.
Hữu Độ mời mọi người vào nhà bái đường. Trước hương án và
ngai vàng bái vọng vua, một bàn dài với hai dãy ghế tựa hai bên bày theo lối
Tây đã được trang trí thanh nhã, có khăn giải bàn trắng muốt, có bình hoa, có
tách cốc pha lê, có khay khảm đĩa bạc. Hữu Độ mời khách ngồi hàng ghế trong,
năm người Tây ngồi liền nhau, lão ngồi ghế đầu bên trái, thông ngôn ngồi ở ghế
đầu bên phải. Ở hàng ghế ngoài có tám vị quan lớn lần lượt ngồi vào. Thông ngôn
đứng lên nói trước:
- Bẩm thưa quan Kinh lược đại sứ, thưa các quan lớn, theo lối
Tây, người ta cần giới thiệu cho nhau biết họ tên chức tước, nên tôi xin phép
giới thiệu các quan Tây trước, rồi cụ lớn Kinh lược giới thiệu các quan Nam.
Rồi hắn chỉ lần lượt từng người và nói:
- Quan Thống tướng toàn quyền ngồi bên cụ lớn Kinh lược là
quan Đại tướng Đờ Cuốc-xy coi mọi việc binh lương hành chính ở cả hai xứ Trung
và Bắc kỳ. Ngài là bậc văn võ toàn tài thay mặt nước Đại Pháp có mọi quyền tiện
nghi hành sự ở bên nước ta. Ngồi liền đấy là quan tướng Bờ-ri-e-đơ Lin, tổng chỉ
huy quân đội Pháp ở Bắc kỳ. Đến quan Công sứ Bôn-nan mà các quan đã biết cả. Rồi
đến quan Phó công sứ Ha-le mới được cử kiêm cả chức Hiệp lý Hà Nội. Còn đây là
Trung úy Giôp-phờ-rơ, quan võ hầu cận quan Thống tướng.
Hắn giới thiệu xong, ngồi xuống còn nói thêm:
- Giờ đến lượt cụ lớn.
Nguyễn Hữu Độ cũng đứng lên và nói:
- Tôi trước là Tổng đốc Hà Ninh, giờ là Kinh lược sứ Bắc kỳ,
các quan Tây đều đã biết. Còn đây, từ trái sang phải là quan Tổng đốc Ninh Thái
Nguyễn Tư Giản, quan Tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên Nguyễn Trọng Hợp, hai quan đều là
người quê quán gần ngay đây, đều là những bậc văn học lão thành đỗ cao, có
chính tích lớn, có lòng thương yêu dân, nên vừa mới lại ra lĩnh chức; rồi đến
quan Tổng đốc Đinh An Phan Đình Bình, Tiến sỹ hội nguyên, quan Tổng đốc Hà Ninh
Nguyễn Khắc Vĩ Cử nhân, quan Tuần phủ Hà Nội Lê Đinh Tiến sỹ, quan Án sát Hà Nội
Cao Xuân Dục Cử nhân, đều đã làm quan lâu năm ở tỉnh này, quan Đề đốc Đặng Văn
Tại, người đã dẹp được nhiều đám phỉ ở tỉnh này và tỉnh Sơn. Sau cùng ngồi liền
nhau kia là quan Bố chánh sứ Hoàng Cao Khải và Án sát Nguyễn Hữu Luân mới được
cử lên trọng nhậm tỉnh Lạng Sơn, sắp sửa lên đường cho kịp với khi quân đội nhà
Thanh rút lui hết.
Rồi lão quay lại nói với Đờ Cuốc-xy:
- Bẩm quan Thống tướng toàn quyền, xin phép quan lớn cho phép
được nổ pháo mừng ngài. Đáng lẽ theo lễ nước của chúng tôi, pháo phải nổ ngay
khi khách mới đến, nhưng vì ngài mới ở xa đến, lại trong một nước chưa thật được
ninh thiếp, sợ có gì thất thố chăng nên bây giờ xin các quan cho được tỏ nỗi
vui mừng chung.
Thông ngôn phiên dịch. Đờ Cuốc-xy đồng ý gật đầu mỉm cười. Hữu
Độ đưa mắt ra hiệu cho một quan Tri huyện đứng đầu ở gian bên. Lập tức một
tràng pháo dài hơn chục thước được treo trên cửa nhà ngang tả vu, châm ngòi nổ
vang vọng giòn giã. Các quan Tây đứng lên vỗ tay rối rít, các quan Nam cũng đứng
lên vỗ tay theo. Tiếng pháo vừa dứt, Đờ Cuốc-xy vẫn đứng, khuơ tay nói luôn.
Công sứ Bôn-nan đứng dịch ra tiếng Việt:
- Quan Thống tướng vừa mới đến rất là sung sướng được đến
chúc mừng quan Kinh đúng vào dịp lễ mừng dựng nước của quý quốc. Quan Thống tướng
và quan chức Pháp nhân dịp này có lời kính chúc đức Hoàng thượng An Nam sống
lâu muôn tuổi và các quan lớn An Nam mạnh khỏe thăng quan tiến chức làm lợi cho
dân, cho nước. Hòa ước Pa-tơ-nốt ký ngày 6 tháng 6 năm 1884 đến nay vừa tròn một
năm. Ngày 9 tháng 6, vừa mới cách đây bốn hôm, Tể tướng nhà Thanh là Li Heôn
Seng đã phải ký hòa ước xin rút hết quân khỏi Bắc kỳ.
Thông ngôn chữa thêm cho đúng âm chữ Hán:
- Lý Hồng Chương.
Công sứ Bôn-nan nói tiếp:
- Vâng... Lý Hồng Chương phải rút hết quân Thanh. Tỉnh Lạng
Sơn giao trả lại quan An Nam. Nước Pháp sẽ giúp các quan khai hóa thành một nước
thịnh vượng... Mai đây quan Thống tướng sẽ vào kinh bái yết đức Vua và xếp đặt
mọi việc ở trong ấy cho có trật tự, tiện việc khai hóa.
Đờ Cuốc-xy và Bôn-nan nói xong ngồi xuống, tất cả mọi người đều
ngồi xuống. Các quan hầu dâng trà, rượu quả và bánh ngọt. Hữu Độ mời khách dùng
các thức ăn chay. Qua một tuần nước lão đứng lên nói mấy lời cảm tạ. Các quan
Pháp và Nam lại đều đứng cả lên theo nghe lão nói. Lão ầm è lấy giọng nói:
- Bẩm thưa quan Thống tướng toàn quyền đại thần, bẩm thưa
quan lớn Đại tướng thống lĩnh Bắc kỳ đại thần, thưa quan Công sứ đại thần, thưa
các quan đại hiến, tôi xin thay mặt các hàng quan lại Bắc kỳ cảm tạ quan Thống
tướng toàn quyền và các quý quan đã đến chúc mừng ngày lễ Hưng quốc của bản quốc.
Từ khi quan Toàn quyền Ba Đức Nô ký hòa ước với quan Hình bộ thượng thư Phạm
Thân Duật công nhận quyền bính của vua quan triều đình ngày 13 tháng 5 năm Giáp
Thân năm ngoái, không kể tháng nhuận thì đã được quá một năm rồi. Một năm giao
hảo đã có nhiều phúc lộc cho hạ quốc. Thành phố đã được mở mang. Nay quan lớn
Thống tướng sang đây làm Toàn quyền, dốc tâm vào khai hóa nước này, chắc sẽ có
lợi nhiều nữa. Vậy xin chân thành dâng lời chúc đức Đại Hoàng đế nước Đại
Pháp 6 và
Đức Đại hoàng đế nước Đại Nam thánh cung vạn tuế, vạn thọ vô cương, kính chúc
quan Thống tướng toàn quyền đại thần và các quan đại hiến bách phúc biền trăn
thiên tường vân tập 7 để
làm lợi nhiều cho hạ quốc chúng tôi.
Thông ngôn dịch xong, các quan tây vỗ tay. Mọi người lại cùng
vỗ tay theo. Bôn-nan nói thêm bằng tiếng Việt:
- Hôm nay, ngày 13 tháng 6 năm 1885, nhân ngày mừng dựng nước
của nước An Nam, để mừng một năm ký kết Hòa ước 1884, và mừng thắng lợi việc
quân Thanh phải rút hết khỏi Bắc kỳ, quan Thống tướng có cho mở cuộc đua thuyền
vui chơi ở Hồ Gươm chiều nay, cho quân lính vui chơi. Và tối nay, có mở tiệc
chiêu đãi. Xin kính mời cụ lớn Kinh lược và các quan lớn tới dự cùng vui chung.
Xin phép mời trước, lát nữa sẽ có thiếp mời gửi đến. Thôi kính chào cụ lớn,
chào các quan lớn, chúng tôi xin về.
Mọi người đều đẩy ghế đứng ra ngoài. Các quan Tây lần lượt đi
chào bắt tay từng người. Các quan Nam đi theo tiễn các quan Tây ra đến tận xa.
Lại vái chào và bắt tay một lần nữa. Rồi đoàn xe lại nghiêm chỉnh hàng ngũ như
trước tiến theo con đường mới sửa thẳng tắp vào tới cửa Nam. Các quan Nam vẫn
trang trọng trong bộ áo triều phục đứng dưới vọng khuyết lâu cho mãi đến khi
đoàn xe ngựa khuất hẳn, mới lui và cởi áo thoát khỏi cái nóng bức tháng năm. Cuộc
đón tiếp vừa đúng nửa giờ.
Hôm ấy, bờ hồ đông vui nhộn nhịp khác với ngày thường. Khắp bốn
phía đều có Căng-tin 8 của
nhà binh mở ra bán giải khát và quà bánh cho quân lính. Từ phía trên, ở khu vườn
dừa mới quét dọn sạch sẽ, những lều vải dựng lên trắng xóa. Ngã ba Bảo Khánh và
ngã ba Tự Tháp bị rào vít lại. Khu đất trống ấy dùng làm nơi đấu võ và đánh vật.
Ngoài phía bờ hồ đều có lều vải căng-tin. Ở đình Phúc Tô, nơi chỉ huy sở của tiểu
đoàn phụ trách an ninh cảnh sát đóng, việc trang hoàng bố trí lại càng đẹp đẽ
quy mô hơn. Mỗi một trụ ngoài tường hoa đều đặt một cái đèn lồng sặc sỡ. Trong
sân đình, bàn ghế bày đặc cả, trên mỗi bàn đều có một lọ hoa đủ hoa tươi thắm cả
sắc lẫn hương. Suốt phố Hàng Khay mới mở rộng, các nhà đều căng đèn kết hoa và
treo cờ ba sắc. Và ở đầu phố gần ngã tư, hiệu thuốc Bờ-lăng mới mở, nhà gạch
hai tầng, sơn mầu xanh sáng rực đèn lồng và cửa kính. Một lá cờ ba sắc dài hai
thước treo ngang trên hiên nhà bay phất phơ ra giữa phố, liền đấy trên các nhà
mới một tầng rộng rãi, cửa hàng giải khát của mụ Bảy, một mụ đầm Pháp đến đây từ
thời Đồ Phổ Nghĩa mới sang năm Dậu, cửa hàng lúc nào cũng đông khách ra vào tấp
nập. Căn nhà rộng và sâu, tường vôi trắng toát, ngoài hiên treo cái biển sơn
vàng kẻ chữ đỏ Café Beire, bên trong lố nhố những cô gái người Việt mặc áo bờ-lu
trắng, đội mũ nồi trắng, quàng tạp dề xanh đi đi lại lại thướt tha, uyển chuyển.
Bên này đường, trên bờ hồ, cũng căng sẵn mấy cái lều vải trắng. Leng keng! Leng
keng! Lộc cộc!.. lộc cộc lộc cộc lạch cạch lạch cạch xịnh! Hai con la khổng lồ
kéo một toa xe gỗ bốn bánh gỗ vành sắt, chạy trên đường ray sắt từ cửa Nam xuống
đỗ xịch trước cửa hàng cà phê. Người đánh xe đánh một hồi chuông ngắn gọn. Xe dừng
hẳn. Hai mươi người ở trên xe mở cửa nhảy xuống chạy ùa vào hàng cà phê ồn ào
và tíu tít. Mấy cô hầu bàn trong hiệu cũng chạy ra cười nói với những người mới
đến và nhảy lên toa xe ngồi, cười nhăn nhở, vẫy tay lung tung. Anh phu đánh xe
vừa dẫn hai con la lại đằng này để đối chiều hỏi vọng vào trêu chọc:
- Mấy bà cô tổ đi đâu đấy? Muốn vào thành cho Tây nó mần
tuông các cô à?
- Ê! Phải gió nhà anh! Chúng tôi đi lấy hàng. Thế không xuống
Đồn Thủy à?
- Được, các cô cứ ngồi đấy, tôi chở luôn vào thành. Xe tôi
hôm nay chạy luôn sáu chuyến từ đây vào cửa thành, chiều tối mới chạy suốt đến
Đồn Thủy.
Anh kia đã mắc ách vào lừa xong, vừa nói vừa nhảy lên xe ngồi
cầm cương và cầm dùi gõ vào chuông ba tiếng. Người lái xe Tây ở trong hiệu chạy
ra nhảy vội lên xe, giục:
- A-lê đi!
Mấy cô hấp tấp nhảy ào xuống, cười rúc rích. Một cô nói với
theo:
- Mẹ kiếp! Mọi ngày có ba chuyến. Hôm nay chỉ riêng buổi chiều
đã sáu chuyến. Cho là chết lử cò bợ.
Xe đã leng keng, lạch cạch, xịch, đi nhanh, anh phu còn ngoái
cổ ra nói quẳng lại:
- Lử nên phải để em cho Tây hôn.
Xe vút đi. Người vào, những đám người đi bộ kéo đến. Trước cửa
chùa Quan Thượng, đông binh lính tụ tập đợi lĩnh tiền và vật thưởng. Vì đây là
trụ sở anh-tăng-đăng 9 .
Ở đấy được trang hoàng rực rỡ nhất. Những đèn lồng các màu được treo đăng đối
khắp trong hiên và ngoài tường ra đến ngoài cửa tam quan. Từ đây đến đình bà
chúa thôn Yên Trường, cờ tam tài ba sắc hẹp ngang, dài hơn một thước được treo
trên cột sơn ba màu cắm nối cách hai ngũ 10 một.
Đình Yên Trường đã được sửa sang chia ngăn thành sở Hiệp lý Hà Nội 11 .
Ở đây chiều nay, các công chức nghỉ việc để trang hoàng trụ sở góp vào cuộc vui
chung. Ở đây cũng là nơi chỉ huy sở của ban tổ chức ngày vui thắng lợi hôm nay
do quan Đại tá Pec-nốt và quan Hiệp lý Ha-le đứng đầu. Từ đấy nối sang đền Bà
Kiệu lại một hàng cờ tam tài cắm liền như dăng phía chùa Quan Thượng. Đại tá
Pec-nốt chỉ huy binh đoàn bộ binh dã chiến, đã đóng Bộ tham mưu của binh đoàn ở
đây, và đã nhờ chủ thầu Nguyễn Sơn Tăng chữa lại cho vừa ý. Nguyễn Sơn Tăng là
một chú Khách từ Sài Gòn ra chuyên xây nhà cho quân đội Pháp và đã xây dinh
Kinh lược. Hắn đã ngăn nơi thờ cúng này thành từng phòng riêng và làm thêm mấy
nhà phụ thuộc. Binh đoàn đã hành quân đi xa, Bộ tham mưu không còn ở đây nữa, đền
này trở thành nhà riêng của Pec-nốt dùng làm nơi lui tới hội họp của mấy mụ vợ
theo chồng sang thuộc địa. Hôm nay một tiệm đăng-xinh 12 được
mở ở đây dành cho các sỹ quan cao cấp đến khiêu vũ. Ở giữa Hồ Gươm, đền Ngọc
Sơn được chăng đèn lồng vây chung quanh. Sở truyền tin và báo chí của nhà binh
đóng ở đấy gần một năm nay, chiều nay được giao cho trang trí chỗ Trấn Ba Đình
thành một lễ đài để quan Thống tướng với các quan khách tới dự. Cho nên cờ và
đèn được treo khắp từ đây theo cầu Thê Húc ra đến đài Nghiên và tháp Bút. Trên
tháp Rùa một lá cờ tam tài lớn bằng ba cái chiếu bay là là tỏa ánh hồng xanh xuống
mặt nước. Trên mặt hồ, một trục thuyền bơi nan và hai thuyền ván, hai thuyền
nan lớn thả lỏng lững lờ trôi, đợi binh lính đến bơi đua và dạo chơi. Quanh bờ
hồ đều đã quét dọn sạch sẽ, cỏ cắt, cây nhỏ bị chặt đi. Các cầu rửa nhô ra ven
hồ không còn nữa. Thuyền bơi đi lại như thoi không còn vướng mắc. Cờ ngũ hành,
cờ tứ phương, cờ tam tài, đèn lồng, đèn xếp hoa dây hoa cài sáng rực cả hồ.
Đúng năm giờ chiều, mọi lối đi vào khu bờ hồ đều vít hết, có
quân lính Pháp và lính tỉnh cùng đứng canh. Chỉ trừ lối đường ray sắt có xe la
đi và cốt để cho lính Pháp ở trong thành ra và ở trường Tây lên. Rất ít người
Nam và người khách được vào dự. Ai có mặt trong này đều phải có một tấm vé có dấu
chứng nhận của tòa Hiệp lý. Những dân các làng quanh bờ hồ như Tự Tháp, Bảo
Khánh, Yên Trường đều vào dự đông hơn, nhưng đều phải có vé cấp của tòa Hiệp lý
giao cho hương lý chia cấp. Những người được cử vào hầu thuyền, khuân vác và dọn
dẹp đều đeo băng tam tài riêng ở cánh tay trái.
Sáu giờ. Không khí đã mát dịu. Một tràng pháo nổ chào mừng
quan Thống tướng và quan Kinh lược đến mở đầu cuộc vui. Đờ Cuốc-xy, Bờ-ri-e đờ
Lin, cố Phước, Nguyễn Hữu Độ đã có mặt ở Trấn Ba Đình. Chuông trống ở đền Ngọc
Sơn nổi lên một hồi ba tiếng báo tin cuộc đua thuyền. Mười thuyền bơi trên mũi
cắm một lá cờ ba sắc do năm người lính Nam và năm người lính Pháp cởi trần mặc
quần cộc, cầm dầm bơi sắp thẳng hàng trước Trấn Ba Đình, nghe tiếng còi lệnh đều
ào ào khua dầm bơi vút vòng quanh Tháp Rùa ven theo bờ quanh thôn Bảo Khánh
vòng trước cửa đền Bà Kiệu men cầu Thê Húc, quanh đền Ngọc Sơn trở về Trấn Ba
Đình. Đoàn lính Việt về nhất, đoàn lính Tây về sau một phút có một gã bị lật
thuyền, thuyền hộ vệ phải quăng phao xuống cứu. Sau đó, mười cô hầu bàn ở cửa
hàng mụ Be được cử ra đi bơi thuyền diễu hành. Mười cô chít khăn vành dây vàng,
mặc áo cánh trắng nõn, váy xòe đổ xuống thuyền từ cầu Thê Húc uyển chuyển bơi dầm
vào trước Trấn Ba Đình xếp thẳng hàng dọc giơ dầm lên chào quan khách được tất
cả mọi người hò reo vỗ tay khen ngợi. Một hồi còi lệnh mười cái thuyền đều quay
mũi rẽ ngang tỏa ra bốn phía rồi lượn quanh ven hồ đuổi nhau gặp nhau và tranh
nhau theo đường rắn lượn, cuối cùng chụm lại cả ở Trấn Ba Đình. Các quan Tây đứng
lên vỗ tay khen, vẫy tay gọi: vẻng-xi-vơ-nê-i-xi 13 đòi
các cô lên bộ. Các quân lính đứng hầu vội chạy ra đỡ giữ lấy thuyền cho mười cô
bước lên lễ đài, đứng xếp hàng trước quan khách. Đờ Cuốc-xy và Bờ-ri-e đờ Lin
thân ra bắt tay các tay và ôm hôn mấy cô tỏ vẻ khen thưởng trìu mến. Mọi người
lại vỗ tay reo vui. Đoàn bơi thuyền nữ đi khỏi, các quan cao cấp ở lễ đài cũng
đứng lên theo quan Thống về trường Tây dự tiệc. Cuộc vui ở đây vẫn tiếp tục,
quân lính được tự do vui chơi theo ý thích. Các cây đèn kính thắp dầu hỏa và những
đèn lồng thắp nến đều đã thắp sáng. Những lều căng-tin sáng rực. Những cô bán
hàng ăn mặc cùng một kiểu, áo bờ-lu trắng, mũ nồi trắng trùm kín đầu vấn tóc,
đi lại tíu tít. Quanh bờ hồ, quân lính đi lại nườm nượp. Những khu đấu kiếm,
khu đánh vật, khu đăng-xinh đều chật ních những người vây quanh. Những lính
tranh nhau xuống thuyền bơi dạo mặt hồ. Hai thuyền nan thúng và hai thuyền ván
đều đầy ắp lính, mỗi thuyền đều do con gái chèo, đưa đi chơi hồ. Mỗi khi thuyền
ghé vào bờ, bọn lính dưới thuyền chưa lên hết, bọn ở trên đã ào nhẩy xuống, làm
thuyền chòng chành, bọn nào cũng không quên xì xồ trêu chòng mấy cô lái, có cô
còn sấn sổ đấm và tát bọn lính túi bụi. Bọn này càng thích chí cười ngặt nghẽo.
Trong các lều giải khát cũng vậy, bọn lính Tây cứ sán lại xúm quanh những cô
bán hàng.
Giời tối đã lâu. Bờ hồ sáng rực ánh đèn ánh đuốc. Trên cạn,
dưới nước đều lập lòe như đom đóm. Người đi lại tấp lập. Cây bông cây hoa do Bang
biện Phạm Quang Diệu thuê làm đưa đến giúp vui đã được đốt phóng ở bên tháp
Bút, đang bắn phọt lên những màu xanh, đỏ, tím, vàng. Và pháo thăng thiên nổ chạy
vút lên cao như sao bay ngược... Cuộc chơi đang vui và náo nhiệt. Bỗng ào ào hốt
hoảng ở một góc hồ với tiếng kêu “Ô sơ cua! Ô sơ cua!” 14 .
Mọi người dồn đến. Ở giữa mặt hồ hai thuyền nan chòng chành, đang chìm, lính nhẩy
ào ạt ra ngoài, và mấy cô lái đò đang vác dầm chèo phang vào lính túi bụi. Tụi
lính ở thuyền ván xô đến cứu đồng bọn và dìm chết mấy cô lái. Chúng ôm cả các
cô lái ở thuyền ván quẳng luôn xuống hồ. Mấy cô này cũng đã phang dầm chèo đánh
túi bụi và sau cùng cô níu lấy một hai tên lính cùng ngụp theo. Trong khi ấy,
chợt một phát súng nổ ở hiệu cà phê mụ Bẩy. Một cô hầu bàn nằm chết giãy đành đạch
ở giữa sàn. Ba bốn cô khác đang vác chai lọ quẳng vào đầu Tây. Lính tuần cảnh ập
vào bắn lia mấy phát súng nữa. Đạn nổ. Hai cô nữa chết. Lính tuần cảnh vào bắt
hết các cô hầu bàn đem sang giam ở bên chùa Quan Thượng. Ngoài kia lẻ tẻ ở mấy
lều mấy cô bán hàng cũng đã vác chai lọ dao thớt đánh bổ vào bọn Tây, mặt hầm hầm,
miệng luôn luôn chửi rủa bọn cướp nước hôi tanh đểu giả.
Trống ngũ liên nổi lên báo động, đình chỉ cuộc chơi. Tiếng
còi tập hợp quân lính nổi lên inh ỏi. Lính tới tấp chạy về xếp hàng ở những chỗ
đã quy định. Cửa hàng cà phê, chùa Quan Thượng, đình Yên Trường, đền Bà Kiệu,
đình Tô Mộc thôn Phúc Tô. Những người ngoài dự cuộc bị dồn lên cả phía vườn dừa.
Các ngã đường bị vít chặt. Lính tuần cảnh đeo súng cầm lưỡi lê tiến đến canh giữa
thềm các lối ra vào. Chợt một đám cháy bốc sáng rực ở phía góc đông bắc Hồ
Gươm. Tiếng kêu ồn ào và tiếng trống ngũ liên vọng tới. Mọi người nhốn nháo. Tiếng
loa hô cả bằng tiếng Pháp và tiếng Việt nhắc mọi người ai nấy tập trung tại chỗ
không được chạy hốt hoảng. Đội quân mới kéo đến đóng ở đền Bà Kiệu tỏa ra ngăn
kín lối đi lên phố và ra phía bờ sông. Chúng giơ súng và lưỡi lê đâm thẳng vào
những ai chực chạy đi chữa cháy. Một người lính Nam cầm loa vung lên luôn luôn
gọi:
- Không ai được ra cả! Việc chữa cháy đã có dân phố và quan
quân tỉnh.
Chúng không cho một ai ra ngoài. Một mặt chúng cho dồn ngay
các cô hầu bàn về hàng cà phê Hàng Khay, bắt giam thêm một số cô. Một mặt cho cứu
chữa những lính bị thương, khâm liệm những người bị chết đuối. Số quân canh giữ
các nơi đã tăng nhiều với đầy đủ súng đạn và được phân bố chu đáo. Bọn chỉ huy,
ban tổ chức thấy giải tán ngay cuộc vui có thể gây ra lộn xộn nguy hiểm, mà để
tập trung đông đúc tại chỗ cũng không tiện. Và đám cháy đã ngớt, bên ngoài mọi
nơi đều trở lại yên tĩnh, chúng báo xuống trường Tây xin cho tiếp tục cuộc vui.
Chúng cho rằng vì bọn lính Tây say rượu trêu chòng các con gái hầu bàn quá nhả
nhớt làm cho bọn họ quá tức giận, liều chết chống lại mà gây ra như vậy. Nên
chúng dồn hết con gái bán hàng về trả mụ Be và thay lính vào bán hàng. Chúng
cũng cho liệm quàn những cô bị chết và băng bó mấy cô bị thương để xoa dịu người
bản xứ. Và cuộc vui lại bắt đầu.
Lúc ấy bữa tiệc chiêu đãi ở phủ Thống tướng cũng vừa xong.
Quan khách đang ăn tráng miệng. Câu chuyện đang vui. Bỗng tin lộn xộn ở ngoài bờ
hồ báo vào Nguyễn Hữu Độ muốn tỏ rõ sự quan tâm của mình để bảo vệ người Pháp,
liền xin phép cho các quan Nam trở về dinh để đi kiểm soát việc canh phòng và
đôn đốc quân lính ra trấn áp. Nhưng Đờ Cuốc-xy lại nghĩ khác, hắn muốn giữ tất
cả bọn quan này làm con tin, nên làm ra vẻ bình thản và niềm nở nói:
- Việc thường thôi! Quân canh đã bố phòng cặn kẽ. Xin mời các
quan cứ ở lại đây.
Và hắn quay sang khẽ nói với Công sứ Bôn-nan. Tên này nói tiếng
Nam như ra lệnh:
- Chỉ mình quan Đô đốc về đi tuần!
Đề đốc Đặng Văn Tại vội đứng lên chắp tay vái chào mọi người.
Trung úy Giôp-phờ-rơ đưa Đề đốc ra ngoài sân giao cho hai lính Tây và hai lính
Nam dẫn đi như áp giải một người bị bắt. Đề đốc đi khỏi rồi, quan khách trong
này vẫn cứ ung dung ăn bánh uống nước và nói chuyện đối đáp nhát gừng, chứ
không được chân thực như trước nữa. Vì ai nấy đều đang ngóng tin ngoài bờ hồ và
mải lo lắng đuổi theo ý nghĩ của mình. Đờ Cuốc-xy cố vồn vã nói lấy lòng Nguyễn
Hữu Độ đồng thời để lung lạc mấy ông quan to:
- Mấy hôm nữa vào kinh, tôi sẽ đòi triều đình giao hẳn mọi
quyền quân dân ngoài này cho quan Kinh lược. Hai quan phụ chính không biết rõ
hiện tình ở đây. Không thể quyết định công việc ở đây. Chỉ có thực quyền của
quan Kinh lược kết hợp với sức mạnh của quân lính chúng tôi mới làm cho xứ này
yên ổn thịnh vượng. Cho nên mới đến đây, đi xem xét mọi nơi tôi rất lấy làm hài
lòng về việc quân Pháp đã bắt quan Tổng đốc Hải Yên tháng trước đây đưa vào Gia
Định. Quan Kinh lược ạ, những kẻ chống lại quan lớn cứ bắt giao cho tôi đem đày
đi Côn Đảo. Sức mạnh sẽ bình định hết cả.
Bôn-nan nói xen vào:
- Chính quyền hai bên vững mạnh thì tình giao hảo mới lâu bền.
Cuộc nói chuyện rời rạc quanh chính quyền và sức mạnh. Thấy
ngoài bờ hồ đã yên tĩnh, cuộc vui đã tiếp tục, Bôn-nan nói với Đờ Cuốc-xy nên để
các quan trở về. Đờ Cuốc-xy liền đứng lên nói rất lễ phép và từ tốn:
- Bẩm quan Kinh lược và các quan lớn, bữa tiệc vui trong quân
đội chúng tôi sẽ còn kéo dài đến nửa đêm, đáng lẽ chúng tôi cố giữ các quan lớn
ở lại vui chung cùng với chúng tôi. Nhưng bấy giờ đến cuộc khiêu vũ, các quan lớn
chưa quen với cách nhảy, nên chúng tôi thiết nghĩ nên để các quan lớn lui gót,
có lẽ sẽ tự do hơn là ngồi lại xem các trò mà mình chưa quen, chưa thích. Có phải
không à?
- Dạ bẩm quan Thống tướng toàn quyền, chính phải ạ. – Hữu Độ
trả lời thay.
- Đấy cụ lớn xem, Đờ Cuốc-xy nói tiếp, còn nhà võ chúng tôi rất
thẳng thắn tự nhiên không muốn gò bó ai. Đến đâu là cũng chỉ có mục đích đem an
ninh và phước lành cho ở đấy.
Bôn-nan cũng đứng lên hỏi:
- Bẩm cụ lớn Kinh lược, bẩm các quan lớn, cụ lớn và các quan
lớn đã không định ở lại dự hết cuộc vui đêm nay với chúng tôi, chúng tôi đã xin
sắp đủ xe để đưa cụ lớn và các quan lớn vô dinh. Xin kính mời cụ lớn và các
quan lớn ra xe.
Mọi người đều đứng lên đi ra sân. Các quan Nam vái chào. Đờ
Cuốc-xy bắt tay Nguyễn Hữu Độ và lần lượt các quan Nam, vái và bắt tay hết lượt.
Chúc nhau bon-nuy 15 .
Bốn người lính xách đèn dẫn ra xe. Một hàng lính đứng thẳng bồng súng chào. Đờ
Cuốc-xy thân tiễn Nguyễn Hữu Độ và ba quan Tổng đốc mời lên xe trước. Còn các
quan khác ngồi ở xe sau. Quan hầu Giôp-phờ-rơ lên theo xe thứ nhất. Hiệp lý
Ha-le lên xe thứ hai, đi tiễn các quan về tận dinh. Lại vái và chào nữa. Các
quan Tây gật đầu, giơ tay vẫy. Lộc cộc, lạch cạch... két, hai xe song mã chuyển
bánh ra cổng. Hai lính bồng súng chào chia làm hai đi thẳng hàng kèm hai bên. Đờ
Cuốc-xy và bọn Pháp đứng trông theo đoàn xe đi khuất mới trở vào.
Cuộc họp của bọn chỉ huy cao cấp lúc này mới chính thức bắt đầu.
Ở đây, không có khiêu vũ, không có diễn kịch. Đờ Cuốc-xy nghe Pec-nốt tường
trình về cuộc vui từ đầu đến cuối xong, hắn tươi cười nói:
- Tốt! Tốt! Cho tiếp tục vui hơn, náo nhiệt hơn. Đốt thêm đuốc
cho thật sáng! Thiếu chất đốt cứ cho quân lính vào các làng quanh đây khuân tất
cả những thứ nào có thể chất đống mà đốt được. Không sợ gì cả. Tôi đã đưa cả
các cấp khiêu vũ ở đây ra dự vui ở nhà Đại tá đấy. Và màn kịnh đặc biệt định diễn
ở đây tôi cũng đưa cho ra nhà anh-tăng-đăng. Đại tá ra ngay đi, truyền lệnh thế
nào cho sắp xếp thật vui thật đẹp. Đó là một cách thưởng công tốt nhất cho quân
lính ta. Và cũng là cách tỏ cho dân An Nam biết chúng ta rất vững vàng, không hề
nao núng với bất cứ sự quấy rối nào nếu có. Vậy Đại tá nên đi ngay. Xong việc sẽ
trở lại đây nhé.
Péc-nốt đứng nghiêm chào, đi ra. Ba lính hầu xách đèn hộ vệ
soi đường đưa đi. Trong phòng còn lại Đờ Cuốc-xy, Bờ-ri-e đơ Lin, Bôn-nan và mấy
Trung tá sỹ quan tham mưu. Đờ Cuốc-xy nói ngay:
- Giờ chúng ta bàn vào việc ngay thôi. Trước hết cuộc vui hôm
nay thế nào? Anh em ở đây lâu có nghi ngờ gì về vụ lộn xộn lúc nãy không?
Bôn-nan nói trước:
- Thưa Thống tướng đúng như ngài vừa nói, cuộc vui tổ chức
thưởng công cho quân lính ta rất đúng lúc, mà nó lại khiến cho các quan và dân
Nam biết rõ sự thắng thế và vững vàng của chúng ta. Còn việc lôi thôi vừa nãy
theo tôi chỉ là một sự không may xảy ra, do lính ta quá say nghịch nhả nhớt
quá, xúc phạm quá đáng đến cả bọn gái đĩ cũng không chịu nổi. Bọn này lại là bọn
gái đĩ, bị xã hội ghét bỏ, bị các quan lại An Nam bắt đi cung phụng hầu hạ bọn
lính Tàu mấy năm trước, và trong những ngày hội chung. Bây giờ chúng được chị
Be của chúng ta thu dụng, nuôi nấng dạy dỗ để làm vui cho quân lính chúng ta.
Chị đối với chúng rất tử tế, nên chúng nhớ ơn lắm, chắc không phản lại chúng ta
đâu, cái bọn không nhà không nước ấy. Cho nên tôi nghĩ nên răn quân lính ta
không nên quá sỗ sàng thô bạo với bất cứ hạng người An Nam nào.
Bờ-ri-e đơ Lin nói đắn đo hơn:
- Tôi là nhà binh, thấy những vụ lộn xộn, tôi phải ngờ có địch
nhúng vào. Mà ở đây, tôi cho tất nhiên là có. Nhưng nhờ sức mạnh của ta, nhờ sự
phòng bị chu đáo của ta nên địch có âm mưu cũng không làm gì được. Cho nên sau
cuộc vui này tôi xin ngài Thống tướng khen thưởng cho Trung tá chỉ huy đơn vị bảo
vệ Hà Nội.
Đờ Cuốc-xy nói với vẻ quả quyết:
- Tôi cũng nghĩ như Trung tướng vậy. Dù không phải là một âm
mưu đi nữa, tôi cho là dám xúc phạm đến quân lính của nước Đại Pháp hùng cường
cũng là một tội lỗi phải trừng trị, phải dập tắt sự chống đối ngay từ trong trứng.
Cho nên những đứa nào đã bị bắt cứ giam đấy. Mai tòa án binh phải đem ra xử
công khai làm oai với kẻ khác.
Hắn ngừng lại hỏi:
- Các ngài cùng nghĩ thế chứ?
Rồi không đợi ai nói gì, hắn nói luôn:
- Về đại cục, như tôi đã bàn với Trung tướng buổi sáng nay,
chúng ta đã làm xong, quân Tàu phải rút hết, chúng ta đã chiếm giữ được hết các
tỉnh lỵ và các địa điểm chiến lược. Như vậy, ở đây, tôi rất hợp ý với kế sách
bình định chi tiết của Trung tướng chỉ huy đạo quân Bắc kỳ. Tôi chỉ cần nói
thêm là việc bình định cần phải hợp các quan An Nam bắt các ông ấy phải đem hết
sức làm việc cho ta, nếu ông nào có vẻ ngập ngừng ta cứ cắt chức đi, quá nữa
thì cho đi Côn Đảo. Tôi đã nói hở cho ông Kinh lược biết thế. Đối với bọn An
Nam này, quan cũng như dân, phải nện vào đầu họ, cho họ biết sức mạnh và uy quyền
của ta. Tôi sẽ vào Huế, bắt cái triều đình ở đấy phải làm theo đúng ý chúng ta.
Đó là mặt quân sự chung, còn giờ đây tôi xin nói chuyện chính trị với quan Công
sứ. Chúng ta nhất thiết phải mở mang ở nơi đây một nơi thủ phủ của hai xứ Bắc kỳ
và Trung kỳ này, một thành phố, một khu phố riêng của người Pháp chúng ta.
Bôn-nan nói:
- Thưa Thống tướng, chúng tôi đã có ý định mở như thế, đã vạch
ra những phố, đã có dự định làm những công sở. Nhưng mọi việc ban đầu còn bề bộn,
nên từ từ.
- Tốt! Đờ Cuốc-xy nói. Nhưng cần khẩn cấp hơn nữa. Cuộc vui vừa
rồi bị lộn xộn, báo cho ta biết phải cần làm nhanh hơn nữa, không làm thế thì
ta đóng không yên.
- Vâng tôi cũng biết thế, thưa Thống tướng, nhưng cũng phải
có cái lý gì để dựa, mới thúc bọn quan An Nam làm nhanh như Thống tướng vừa
nói, phải làm sao cho ông Kinh lược có toàn quyền, không cần đến triều đình.
Hơn nữa phải đòi cho cái thành phố thuộc hẳn về ta như cái khu nhượng địa này.
Đờ Cuốc-xy vui vẻ nói:
- Đúng quá! Tất nhiên sẽ phải như thế. Cái thành phố này mai
mốt sẽ phải là một thành phố riêng của ta, có quan chức riêng của người Pháp,
chứ không cần có ngạch quan Nam. Nhưng chúng ta phải đi trước thế kia. Chúng ta
cứ làm xong trước đi, việc đã xong đâu vào đấy, pháp lý sẽ công nhận sau. Như
cái đường Hồ Gươm vòng quanh vạch ra từ thời tướng Bu-ê mà đến nay vẫn chưa làm
xong. Thế là quá chậm. Đáng lẽ cứ phải làm bừa đi xong rồi để còn mở rộng ra. Đối
với dân xứ này, không cần bàn bạc gì cả, chúng nó biết gì đâu, cứ làm đi, rồi
chúng nó chịu. Đứa nào chống thì cứ giết hoặc cho đi tù.
Bờ-ri-e đơ Lin cũng nói:
- Tôi cũng bàn với ông Công sứ Bôn-nan dự định cắm cái khu phố
mới cho người Pháp chúng ta. Nó sẽ nối từ thành ra đến khu Đồn Thủy, bao gồm cả
khu Hồ Gươm ra đến bờ sông. Nhưng bận công việc bình định, nên việc mở phố còn
phải dần dần.
Đờ Cuốc-xy nói với vẻ tự phụ:
- Bây giờ khác rồi! Ta đã thắng và đang thắng thì ta càng phải
mở phố nhanh để cho người của chúng ta đến ở. Các vị cũng cùng một ý đấy chứ? Vậy
thì ta nên bàn đến cách thi hành tỉ mỉ. Tôi cho là trong lúc còn đang tình trạng
chiến tranh bình định này, mọi cách tiến hành để lấy đất mở rộng đường đều có
thể làm được cả. Và nếu có cần đến mệnh lệnh, nghị định của tôi, tôi đều xin
ký. Tất quan Công sứ đã có quy hoạch về mở phố từ lâu, ông thử nói qua những
cách ông đã làm và dự định làm.
- Thưa Thống tướng, Bôn-nan đáp, đồ bản các phố đã dựng xong,
nhưng phố thì chưa có phố nào thành hình. Chỉ mới có con đường đặt ray từ cửa
thành xuống Đồn Thủy là làm xong và khúc đường này từ đầu phố Hàng Khay qua
Tràng Tiền ra cửa ô đã là thành một phố lớn có dăm ba hiệu Tây. Mà mở đường phố
này dễ làm, dân ở đây họ sợ, họ đã đòi đi nơi khác cả. Còn đường quanh Hồ Gươm
thì chưa xong được vì các chủ đất ở đấy họ không chịu bỏ đất ra.
Đờ Cuốc-xy nói ngay:
- Ấy đấy, để cho họ chịu bỏ đất ra thì có đến đời mục mả. Cho
nên tôi nghĩ thế này: chúng ta cứ cho mở đường. Chỗ nào chủ đất không chịu, ta
cứ bắt giam nó lại, rồi cứ làm cho xong hãy thả ra. Nhưng điều cần nhất là những
đất thổ cư làm nhà. Vậy tôi bàn ta nên làm thế này. Trên những phố đã vạch,
làng nào họ bỏ đi cả hay gần hết ta cứ chiếm lấy mở phố xây nhà luôn, như cái
phố Tràng Tiền ấy, còn những chỗ khác ta bắt quan Nam sức dân dời đi, đổi lại đất
cho ta theo giá nhất định. Mà ở những chỗ cần làm ngay ta sẽ dùng cách bắt phạt
cả làng đuổi đi nơi khác lấy đất ấy sung công thuộc của nhà nước... mà phạt thì
thiếu gì cớ lúc này.
Một Trung tá tham mưu góp ý:
- Những nơi dân bỏ đi thì dễ mở phố. Vậy nên để cho lính vào
quấy ở các làng có lợi là vừa làm vui cho lính, vừa dễ đuổi dân.
Bơ-ri-e đơ Lin khen:
- Hay đấy! Có chỗ giải buồn cho lính mỗi khi đi trận về. Mà
những nơi nào ta muốn ban ơn cho dân ở đấy tin phục ta, thì ta treo biển cấm
quân lính đến đấy...
Đờ Cuốc-xy quay sang hỏi Bôn-nan:
- Thế nào? Quan Công sứ!
- Kể thì cũng hay. Nhưng e rằng sẽ gây thêm cho dân oán ghét
như thời ông Đuy-puy mới đến.
Đờ Cuốc-xy cười nói tiếp:
- Bây giờ khác chứ. Bây giờ chúng ta đã thống trị ở đây rồi,
bắt dân thế nào dân phải theo thế. Vả ta chỉ tấn công vào những nơi nào ta định
mở phố làm nhà thôi. Ta quấy rồi lại có giấy sức đổi đất để trả tiền tất nhiên
dân họ so sánh, họ sẽ đòi đi cho mà xem. Còn thằng nào bướng thì bỏ tù.
Bờ-ri-e đơ Lin nói thêm vào:
- Vâng phải dùng đủ mọi cách, tùy cơ ứng biến chứ, miễn là được
việc, cũng như đánh địch vậy.
Đờ Cuốc-xy nói như đắc thắng:
- Quan Công sứ vui lòng chứ?
- Dạ, thưa quan Thống tướng, tôi xin tuân hành.
- Vậy thì ngay từ phố quanh hồ nhé. Phải làm sao cho cái hồ ấy
phải thuộc về chúng ta, phải là của chúng ta để chúng ta được vui chơi tự
nhiên. Và để sau này những người Pháp ở đây sẽ mãi mãi nhớ ơn chúng ta, nhất là
quan Công sứ Bôn-nan.
Bôn-nan cũng nói:
- Bẩm Thống tướng cả người bản xứ nữa chứ, rồi người bản xứ sẽ
phải nhớ ơn chúng ta, nhất là nhớ ơn Thống tướng.
Mọi người đều cười vui vẻ.
Cuộc dạ hội chơi thuyền và vui đùa ở quanh Hồ Gươm kéo dài đến
mãi quá mười một giờ đêm, đã có kết quả mỹ mãn như ý muốn của bọn quan Pháp. Nó
có vẻ khích lệ tinh thần quân lính đồng thời nó tỏ rõ hẳn sự thắng thế của bọn
chúng đối với dân chúng phường phố ở đây, sự đắc thắng của kẻ xâm lược văn minh
đã làm chủ được cái đất nước, dân trí còn bán khai này, theo như chúng nghĩ. Và
tất nhiên bóng tối trùm đến xóa nhòa ánh sáng. Cuộc thắng lợi của đêm vui đã
làm xẹp hẳn mọi hoạt động bí mật của anh em Nghĩa hội trong thành phố. Bao mưu
mô cố gắng đến đây hình như bọt nổi mặt sông. Nhiệt tình của những người tham
gia đã giảm sút càng nguội lạnh thêm. Và những người trong cuộc càng căm tức tiếc
cho công phu uổng phí từ bấy lâu nay, nhất là từ đầu năm nay, Pháp đã đặt xong
tất cả các quan chức ở mấy tỉnh quanh nơi cố đô này, mà phần đông đều là người
sở tại và là đồng môn Tự Tháp: quan nghè Kim Lũ Nguyễn Trọng Hợp làm Tổng đốc
Sơn Hưng, quan Hoàng giáp Dụ Lâm Nguyễn Tư Giản, tiếng tăm vang lừng trong triều
ngoài nội, làm Tổng đốc Ninh Thái, quan Bảng làng Ném Dương Danh Lập làm Tuần
phủ Thái Nguyên. Còn ở Văn hội Thọ Xương, Lương Huy Ý, Hoàng Xuân Kỳ đều có chức
vụ mới. Tú Tích, Tú Tốn, những người bị can năm Dậu trước nay đều làm quan ở
tòa Hiệp lý. Đồng môn và văn hội không còn đủ danh nghĩa tập hợp khuyên răn được
ai. Làng Đông Ngạc, nơi quê hương mà ấm Vẽ dựa vào để cổ động lôi kéo anh em
các nơi thì nay đã theo về Nguyễn Hữu Độ rồi. Làng này đã quyên nhau được một
nghìn quan tiền cúng vào việc xây sinh từ của quan Kinh lược và cử người cùng
làm hưng công với Bát Gà, lúc này đã được bổ Tri huyện, đi mua vật liệu và coi
thợ thuyền xây đền. Họ trở vào phố buôn bán và làm hàng bán cho Tây. Quân viễn
chinh Pháp thường trú đóng ở Hà Nội là một nguồn tiêu thụ lớn. Mặt trận mở rộng,
hành quân đi xa, việc cung cấp đòi hỏi thêm nhiều thứ thiết dụng. Phường phố Hà
Nội trở thành nơi tiêu dùng cả mọi thứ hàng cần thiết và xa xỉ. Đồ thêu, đồ khảm,
đồ gỗ bán chạy. Phố Hàng Hòm, Hàng Gai, Hàng Bông, Hàng Hài, Hàng Sắt... trở lại
sầm uất. Nhiều người đứng ra mở hiệu, mộ thợ sản xuất thêm nhiều thứ hàng mới,
hợp với sở thích của Tây. Mọi người mải làm ăn. Thành thử việc chống Tây không
còn sôi nổi nữa. Người ta chỉ thường bàn đến chuyện ông này ra nhận chức, ông
kia được mời đi ăn tiệc, ông nọ mới làm bộ ghế quý cho quan Kinh lược... để che
giấu nỗi lòng tự cho phép mình nghỉ ngơi không dự vào việc nước nữa. Từ mùa
xuân năm nay, sống giữa những người mải mê công việc mới như vậy, ấm Cầu làng Vẽ
càng thấy chán nản không còn hăng hái như trước nữa, không còn dám nói thực với
ai, ngoảnh đi ngoảnh lại, coi ai cũng như người xa lạ, liền mò xuống Tự Tháp
tìm cậu ấm Phách để cùng bàn bạc cách đối phó lúc này. Ở dưới phố này cái vẻ
thanh bình phồn hoa bề ngoài lại còn rõ rệt hơn ở trên làng. Tây đóng giáp
làng, đi lại luôn ngoài phố, người người coi quen mặt, những người nào kiên quyết
chống giặc đã bỏ đi hẳn. Còn những người ở lại hay mới trở về đều nghĩ cách yên
thân, không bận đến Tây Tàu để sống riêng với hạnh phúc gia đình. Cậu ấm Ba
cũng đang ngán ngẩm với thế sự nhân tình, chưa biết tìm mưu kế gì ứng phó được
cả với quan ta và giặc Pháp. Cậu đang băn khoăn bức bối thì gặp ông ấm Vẽ đến
chơi. Ông vốn vui tính nói trêu ngay:
- Nước nhà đang bề bộn mà tráng sỹ lại nằm khoèo ro ró ở nhà.
Mong mất mặt không thấy đến. Thế thì còn gì là việc nghĩa nữa. Thôi lấy vợ đi để
về nhà mà hí hú cho vui.
Ấm Phách cũng nói thẳng:
- Nhưng bây giờ thì chẳng ma nào nó muốn lấy mình nữa.
- Thế thì đi chơi với tớ nào! Đi!
- Đi đâu.
- Đi đâu thì đi, đi bàn việc nghĩa. Cứ đi khắc biết.
Ba Phách vui vẻ theo ấm Vẽ đi ngay. Hai người đi thẳng lên
phía Hàng Hài. Ba Phách đang nói về chuyện cố Tây làm nhà thờ, thấy đi theo hướng
này hỏi ngay:
- Vào bác Cử à?
- Không! Để im cho ông già ấy nghỉ. Ấm Vẽ nói thủng thẳng. Cứ
đi sẽ đến. Cứ đi khắc biết.
Hai người luồn sang Hàng Quạt, lên qua đình Xuân Yên, lên
Hàng Mã qua chợ Đồng Xuân, không dừng vào đâu cả. Ấm Tự Tháp sốt ruột hỏi:
- Đi đâu mà xa vậy? Mà len lén len lén như cun cút chẳng kịp
chào hỏi ai.
- Vào xóm vui xuân! Ấm Vẽ trả lời một cách dõng dạc:
- Chết tiệt, ấm Ba đấm vào lưng bạn và nói. Thế mà bảo là việc
nghĩa.
- Chứ lại không à? Ấm Vẽ nói một cách thản nhiên. Thấy cậu buồn
chẳng ma nào nó lấy, tớ rủ đi chơi cho vui. Vả lâu nay không đến người ta nhớ
mong nể lòng phải đến tạ lòng.
- Vào nhà ai? Đào Huệ hay đào Cúc?
- Chú mình chỉ được cái thế. Thích nơi nào lắm đào trẻ. Chúng
ta vào nhà đào Nhung. Mụ này quen biết nhau đã lâu lại có vai vế ở đây.
- Rõ vẽ chuyện đi hát còn cần vai vế. Để tôi về tôi mách bác
gái cho mà xem.
- Được, thách đấy. Nhưng có vào không đã.
- Có chứ, đã là việc nghĩa thì đệ xin theo.
Hai người đi sang phố Hàng Giấy. Từ khi không thi hương ở đây
nữa và từ sau khi quân Pháp chiếm giữ thành phố, việc học chữ nho bỏ bê, việc
bán giấy ở phố này không còn sầm uất. Xóm cô đầu đã ở lấn vào, có nhà dọn ở
ngay cả ngoài phố. Hai người thủng thẳng đi giữa phố, đến một ngôi nhà lá có ba
chuồng cửa bướm đóng kín, một cửa ngách ở bên hé mở. Ấm Vẽ đẩy cửa bước vào,
tranh tối tranh sáng trông thấy lờ mờ lố nhố những người, vội kêu:
- Ô! Sao lắm khách thế này? Nhỡ bét cả rồi!
Hai người cùng bước vào đứng sững. Một mụ đàn bà nạ dòng quấn
khăn nhiễu tam giang bỏ đuôi gà chấm vai, hai tay nắn lại khăn vội chạy ra miệng
cười duyên dáng, nói:
- Nhỡ gì ạ? Thưa hai cậu, lâu lắm mới lại được hầu tiếp hai cậu,
ngỡ là hai cậu cứ mải lo việc nước, quên cả chúng em, chúng em cứ nhớ nhớ là.
- Thật à? Thề đi nào! Ấm Vẽ nói.
- Cậu bảo nhỡ em bảo nhớ, làm gì mà phải thề!
- Rõ ỡm ờ! Nhưng đông người thế kia còn ngồi kề cà vào đâu được
mà chả nhỡ. Chị Nhung đâu?
Người đàn bà mỉm cười, cúi đầu, xoay người giơ tay vào phía
trong nói ngọt ngào:
- Rước hai cậu vào ạ. Đây là người nhà cả, mà cậu đã giận rồi!
Thưa cậu ngồi chơi, em đi gọi chị Nhung em. Chị em đang có việc nhờ cậu giúp đấy.
Chị em ra ngay.
Một cô gái mặc áo tứ thân hai vạt thắt chéo, tóc vẫn cài lược
xương trắng vội chạy giải ngay ngắn cái chiếu đậu cạp đỏ cho đúng mép sập, bưng
một trống con đặt lên chiếu, để chiếc dùi lên mặt trống, đon đả mời:
- Rước hai cậu ngồi chơi, thưa trống đây, cậu khai dùi ra lệnh.
Chị Nhung em phải ra ạ!
Ba Phách vẫn không nói gì cả bước vượt hai bước nhảy ngồi tót
lên sập, vớ lấy cái dùi và trống đánh luôn một nhịp xuyên tâm tom chát tom rồi
lại để dùi nằm ngay trên mặt trống. Đào Nhung vừa ở nhà trong ra đến cửa vội
reo lên:
- Tưởng quan lớn nào mà ác thế! Hóa ra hai cậu, may quá thật
phúc bằng bố tôi sống lại!
- Chúng tôi sẽ ở lỳ đây ám ảnh suốt từ nay cho đến mai, chị
có thù tiếp được không?
- Chỉ sợ các cậu mải lo việc vua việc quan, việc Tây việc Tàu
các cậu lại đi ngay. Đào Nhung đáp, chứ các cậu cứ ở đây một tháng chúng tôi
cũng xin vâng.
Rồi mụ tíu tít đuổi mọi người:
- Vào đi, vào nhà trong, chúng bay vào cả đi để chị ngoài này
nói chuyện với các cậu. Em Lan, em Can ở đây chị bảo.
- Sao nhà đông thế? Có đám khách nào? Đón Tây à?
- Đón các cậu đấy. Đào Nhung cười rất tươi. Và đón cả Tây nữa
đấy.
- Ô, thế thì thèm vào, ta đi nhà khác, ấm Ba nói.
- Nhà nào thì bây giờ cũng thế cả, các cậu chưa biết đấy
thôi. Chứ nói giấu gì hai cậu, nhà em hôm nay đông thế này là có việc gả chồng
cho cô em nó, nên các bạn đến mừng đấy ạ.
Đào Nhung nói xong, quay ra giục hai cô em:
- Các em đi quạt nước pha chè mời hai cậu đi.
Hai cô đi sắp bàn chè, ấm Vẽ ngạc nhiên hỏi:
- Lạ nhỉ, gả chồng cưới ngay ở nhà cô đầu à?
- Vạn bất đắc dĩ cả. Vì thế may quá em muốn nhờ các cậu. Chả
biết các cậu có đánh chữ đại xá đi cho, em mới dám nói.
- Được cứ nói, ấm Ba nói lạnh lùng. Nên thì giúp, dở thì
thôi.
- Nhưng thưa hai cậu, đối với hai cậu có lẽ cho là dở, em
cũng xin cứ nói. Chả là cô Tín nhà này được ông quan ba Tây cập-tên là Đa-giăng
ông ấy cứ nằng nặc đòi lấy, không gả không được. Mà cái ông ấy chả trách tên là
đa điếc có khác, ông ấy cũng đa đoan đa sự thật, lại bắt phải ra tòa làm giấy
giá thú, họ nhà gái phải có người đàn ông thay mặt ký tên vào đấy, nên em muốn
phiền hai cậu hạ cố đi dự giúp cho...
Cậu ấm Ba đang nằm dài trên sập, ngồi nhỏm dậy, cười lớn:
- A ha! Ấm Vẽ có con gả chồng... là bố vợ Tây.
- Im tao nói chuyện nào, ấm Vẽ gắt, rồi nói riêng với đào
Nhung. Chị muốn thuê tôi ra ký vào giấy chứ gì? Thuê bao nhiêu? Thuê thế nào?
- Em nhớ hai cậu, gặp hai cậu em mừng quá. Đào Nhung nói ỏn
thót. Em mới dám nói tình thực như thế. Còn hai cậu thương cho được phận nào em
nhờ phận ấy, hai cậu bảo thế nào em xin theo thế, em có dám nói thuê đâu ạ!
Cậu Ba Tự Tháp nói dắm dẳn choãi ra:
- Chị nói dễ nghe nhỉ, các con em nhà chị quyền quý lắm đấy,
mà bảo chúng tôi phải vác mặt ra tòa Hiệp lý để cho bọn Tú Tồn, Tú Tích, Bát Gà
chúng nó... vỗ tay reo à?
Ấm Vẽ hỏi một cách bình thản hơn:
- Tôi hỏi thật nhé. Chị có thích việc này không? Và chị em ở
đây có coi đó là một sự danh giá không?
- Ối giời ôi! Khổ cho chúng em ấy chứ, đào Nhung kêu giãy nảy
lên. Bọn chúng em bị mọi người đứng đắn ghét bỏ, khinh bỉ, chỉ mong sao được
yên thân, thế mà hết quan bắt, Khách bắt, nay lại đến lượt Tây bắt. Cùng bất đắc
dĩ phải chiều nó cho xong chuyện.
- Dù sao thì cũng nên mừng, ấm Ba nói. Đây là một đám cưới đầu
tiên giữa hai giống người Nam, Tây được các quan chứng nhận giữa lúc nhà nước
đương thi hành lưỡng quốc bang giao hòa hảo.
- Vâng. Đào Nhung phân trần. Vả lão cập-tên này sang ta đã
lâu từ thời loạn năm Dậu, nói sõi tiếng ta, lại rất lễ phép, say mê con Tín,
ngoan lắm, bảo sao lão nghe vậy.
- Được! Ấm Vẽ nói đĩnh đạc. Vậy chị hãy đi vào nhà trong để
chúng tôi thử bàn xem có thể giúp được gì không? Một lúc thôi. Rồi chị ra ngay,
tôi bảo.
Đào Nhung ra khép chặt cửa, trở vào, gọi cả hai cô em cùng
vào. Ấm Vẽ liền tươi cười bảo bạn:
- Việc nghĩa đấy, bàn đi! Mình phải giúp họ, họ mới giúp mình
chứ. Ông có mất chân giò bà mới thò chai rượu.
- Thôi, xin nhường phần anh, cậu ấm Ba nói có vẻ giận dữ. Anh
đi mà kết nghĩa với Tây, để mà hết nạc vạc đến cả xương.
Ấm Vẽ ghé vào tai bạn nói khẽ:
- Ngu như bò ấy, người ta nói thật lại dỗi. Này bọn Tây nó
đang mê và tin bọn này, ta nên nhân dịp khích lệ tụi này giúp ta trừ bọn lõ một
phen. Vậy cao kiến thử nghĩ mưu đi nào! Nghĩ không được lợi thì thôi, nào ai bắt
bò mà đã dỗi.
- Nhào! Cậu ấm Ba nói. Chuông khánh còn chẳng ăn ai, huống
chi mảnh trĩnh vất ngoài bờ tre. Tụi nó lại ton hót ngọn ngành với Tây thì có
mà lại tự nhiên lạy ông tôi ở bụi này.
- Vì thế mới phải bàn, ấm Vẽ nói nghiêm nghị. Cứ thử dò xét
khích lệ họ xem. Chả hơn cứ nằm dí ở nhà mà trông bọn Tây chúng nó hoành hành
à? Còn nước còn tát.
Ấm Tự Tháp ngồi im. Ấm Vẽ thủ thỉ bàn kế hoạch: cửa trong kẹt
mở, bức màn hoa cuốn lại một bên. Đào Nhung bước ra tươi cười chưa kịp nói, ấm
Vẽ đã hỏi ngay:
- Chị có ghét Tây không?
- Thưa cậu, khác giống, khác hơi, lại hay nạt nộ chúng em, bảo
chúng em không ghét sao được. Đào Nhung đáp.
- Thế chị có biết bấy lâu nay chúng tôi thường làm gì không?
- Dạ, nghe nói các cậu cùng văn thân văn hội họp nhau đánh
Tây, mưu đuổi Tây đi.
- Thế sao lại mượn chúng tôi đi ký giá thú với Tây?
- Vì các cậu nghỉ rồi, văn hội nghỉ cả rồi, các ông Cử, ông
Tú dạo này lại hay đến đây, các ông ấy đều nói thế.
- Sao chị không mượn các ông ấy?
- Vì hạnh ngộ có các cậu đến. Việc hôn nhân lại vừa mới ngã
ngũ tối hôm qua. Mà chiều nay đã đón dâu rồi. Vả chúng em quý các cậu hơn, có
các cậu, chúng em cũng được thơm lây.
Ấm Tự Tháp hỏi xen vào:
- Văn thân nghỉ rồi, bây giờ các chị mới lộ rõ mặt thích Tây
ra đấy nhỉ. Cháy nhà mới ra mạch chuột!
- Ối giời ôi! Đào Nhung lại kêu giãy nảy lên. Cậu đổ chết cho
chúng em như thế, còn giời đất nào. Chúng em là hạng người bỏ đi, động một tí
là họ bắt đi hầu hạ, phải đi ngay. Mấy chị ở bên Bắc năm ngoái bị cụ thượng Bắc
bắt đem nộp cho quan lính Tàu, trốn bỏ về đây lại bị gọi đi hầu lính Tây đấy,
không đi không được. Lệnh cụ thượng ban xuống, rồi quan huyện Thọ với chị Bảy
suốt ngày ở đây xem xét, đòi hỏi, chả triệu được đứa nào! Rõ quỷ tha ma bắt cậu
bảo còn thích nỗi gì.
- Chị Bảy nào? Ấm Vẽ hỏi.
- Mụ đầm Bảy, hiệu cà phê bờ hồ ấy mà, đào Nhung nói. Mụ ta tự
nhận là chị Bảy cho nó ra vẻ An Nam, nên chúng em cũng quen gọi thế.
- Vậy các chị có muốn đánh Tây với anh em chúng tôi không? Ấm
Vẽ hỏi đột ngột.
Đào Nhung ngớ người ra một lúc mới dám nói:
- Thưa cậu, chúng em là hạng người bỏ đi, ai lại đi bàn việc
đánh Tây với chúng em. Chính bọn Tây nó cũng biết thế đấy. Cho nên hễ cùng bất
đắc dĩ, thằng Tây nào hoạnh họe giày vò quá là tức lên chỉ thụi cho nó mấy quả,
nện cho nó một trận, tát cho nó hộc máu mồm ra, rồi muốn ra sao thì ra. Đã có
ba bốn đám như thế đấy.
- Thế thì được! Ấm Vẽ nói giọng quả quyết. Tôi định hỏi ướm
chị, nếu chị biết nghĩ, tôi sẽ mượn người hàng phố ra tòa cho chị. Nhưng nay đã
thế, tôi bàn với chị thế này nhé, chị mà bằng lòng, tôi sẽ xin đứng ra ký cả
hai tay hộ chị.
Ông hạ giọng nói thầm riêng với đào Nhung một lúc, rồi lại
nói to lên như bàn thêm với ấm Tự Tháp:
- Chỉ sợ để lộ ra lại hại lây đến cả nhà chị và chúng tôi.
Đào Nhung nói ngay không đắn đo gì cả:
- Chả ai họ để ý gì đến chúng em đâu mà sợ. Mà chúng em để lộ
thì được lợi cái gì. Vả lại có chị Bảy đi lại đây em sẽ càng dễ ứng biến. Còn
tin hay không là tùy quyền ở các cậu chứ.
- Được rồi cứ thử xem đã. Hễ chị phản chúng tôi, chúng tôi sẽ
có cách trừng trị.
- Gớm nhỉ ghê thế. Đào Nhung cười nói tiếp. Vâng sau việc
này, mai em sẽ chọn một số cô bàn riêng với nhau, rồi hai cậu phải khích lệ
chúng nó nữa chứ.
Ấm Vẽ nói rất cởi mở thân thiết:
- Thế bây giờ chúng tôi cứ ở lì đây đến chiều nhé, tùy ý chị
muốn bảo làm gì cũng làm, không nề hà, người nhà mà.
- Vâng, đào Nhung đứng lên đi vào vừa nói. Hai cậu cứ ở đây đến
mai. Chỉ sợ không ở được thôi. Trống phách đàn hát cái gì cũng xin có đủ. May
quá, để em vào em báo chúng nó mừng.
Thế là thoáng một cái, cả bọn đào và kép ùa cả ra nhà ngoài
reo lên vui vẻ ồn ào. Có cô reo to:
- A ha! Có bố vợ rồi. Tín ơi đi ra nhận bố đi!
Mọi người cảm thấy vui như ngày tết.
Sau cái đám cưới Pháp Nam đặc biệt này, cả thành phố đồn rầm
lên việc ông ấm Cầu làng Vẽ làm chủ hôn cho nhà hát cô đầu, được Tây chiều chuộng
đủ điều. Những người lâu nay giấu mặt buôn bán với Tây và những người hám lợi
nhưng còn sợ mang tiếng chưa dám hành động gì, nhân dịp này đã công nhiên đi
tìm thế lực cố làm quen được với Tây. Người ta hùa nhau đặt thêm điều chê trách
ấm Vẽ để giữ lấy tiếng thanh cao, đức độ cho bản thân mình. Mặc! Ấm Vẽ vẫn đi lại
phố Hàng Giấy, ra vào xóm bình khang như thường, để ngoài tai mọi người bóng
gió. Cả ấm Tự Tháp cũng vậy. Một hôm hai ông lại dẫn thêm hai người bạn gái nữa
đến nhà đào Nhung. Một số chị em được báo trước đã đến họp cả ở đấy. Đào Nhung
ra đón khách cài chặt cửa lại, rồi mời bốn người vào ngồi lên sập khách và nói:
- Bây giờ thì nội bất xuất ngoại bất nhập, giầu chè thuốc
bánh đủ cả rồi không phải chạy đi đâu cả, xin hai cậu cứ bàn tính cho kỹ, xem
xét cho tường.
Ấm Vẽ vui vẻ cười mời mọi người ngồi gần lại và nói tiếp:
- Hôm nay xin dẫn thêm hai bạn gái đến bàn thêm với các chị,
các chị biết đấy, bọn đàn ông chúng tôi vô dụng, vỡ tiếng lộ liễu cả rồi, nói
chẳng ai nghe mà Tây thì nó cứ lấn, nên phải núp đằng sau các chị mà giật dây vậy.
Một cô đào nói rào đón trước:
- Thưa các cậu, các mợ, chúng em...
- Ấy chết chớ! Ấm Vẽ vội nói. Chớ gọi thế, mợ mà đến được đây
chết cả nút, chết cả tôi, cả chị. Đây là cô Cúc em tôi, đây là cô Xuyến con gái
cụ Thương Kim hiện bây giờ là Tri phủ Thường Tín. Đều là con quan mà hăng hái
đi làm việc nghĩa cả đấy. Hai cô đi lại nhiều, quen biết nhiều, biết rộng địa
thế, biết cách sắp xếp, tiến lui, sẽ chỉ vạch rõ cách đánh và đỡ. Vả có cô Xuyến
là con quan đương làm việc, nhỡ có lộ cũng không ngại lắm.
- Vâng, thưa hai cậu và hai cô, cô đào kia nói tiếp. Chúng em
thất thố xin hai cậu, hai cô đại xá cho. Chúng em là hạng đê tiện cỏ rác mang
tiếng là làm tan cửa nát nhà người ta. Chả ai thèm đếm xỉa đến, xưa nay vốn dĩ
đã thành lệ, lấy quan cách, lấy Khách Khách về Tàu, lấy nhà giàu nhà giàu hết của.
Thế mà nay các cô các cậu là con nhà quyền quý lại có lòng đoái tưởng đến chúng
em, dạy bảo mở đường cho chúng em biết làm việc nghĩa, thật là ơn tầy non Thái.
Các cô lại thân đến đây với chúng em thế này, không sợ điều tiếng gì, chúng em
rất là xúc động, nguyện dốc một lòng theo các cô.
Cô Cúc nói vẻ thân mật khích lệ:
- Các chị bất tất nói đắn đo quá lời như vậy. Vì thằng Tây đến
đây quấy rối làm cho bà con ta mọi người đều khốn khổ, nên toàn dân ta đều muốn
đánh đuổi tụi nó đi. Các chị cũng vậy, chị em chúng tôi cũng vậy. Đã cùng chung
một chí hướng thì không nên đắn đo khách sáo với nhau. Tôi xin nói tình thực,
các chị đừng giận, mất lòng trước hơn được lòng sau. Trước khi bắt tay vào công
việc, chị em ta nên rõ lòng nhau đã. Tôi chỉ sợ nửa chừng hoặc vì Tây nó dụ dỗ,
hay đe dọa đánh đập mà rồi bỏ chúng tôi, làm hại chúng tôi thì chả bõ...
- Thưa cô, cô đào kia nói đỡ, các cô tin hay không, đó là tùy
ý các cô chứ bụng chúng em có phải là bánh thì chúng em bóc cho cô xem. Đằng
nào thì thân chúng em cũng vẫn vậy, cũng phải chịu cay chịu đắng chứ có lợi lộc
gì đâu. Không làm theo các chị thì chúng em cũng vẫn bị Tây nó khinh rẻ đánh đập,
có khi tức nước vỡ bờ, đánh lại là bị nó giết ngay. Đã có hai ba đứa bị bắn chết
rồi đấy. Mạng chúng em không bằng mạng con ngóe, chết có ai thương. Đằng nào cũng
chết. Theo các cô các cậu, có làm được việc gì có lợi cho nước, cho dân, các cô
các cậu biết cho, có chết cũng mát lòng mát dạ đỡ tủi cái linh hồn ăn cháo lá
đa, chúng em có ăn ở hai lòng xin giời tru đất diệt.
Đào Nhung nói xen vào:
- Thật đấy các cô ạ. Chị Huệ này ở Bắc sang đấy, đã bị bắt đi
theo Tàu theo Tây đủ cả, và mấy cô đây này cũng vậy, có cô đã vác cả dùi đục
đánh Tây mà còn thoát chết về đây đấy. Cho nên điên tiết lên, thì Tây, quan,
Khách, chúng nó đánh tất. Chỉ cần mưu kế của các cô các cậu là chúng nó đánh tất.
Bây giờ xin em làm người giữa em bàn như thế này nhé. Nếu đã tin nhau trông cậy
nhau thì xin bàn ngay vào việc: con Tín, nó được yên thân, được chồng nó chiều,
ta cứ để nó nằm yên đấy, dùng nó để bòn mót tin tức và của cải của Tây. Còn chị
Huệ, chị Hoa, chị Bưởi đây đã được chọn đi hầu ở hàng chị Bảy, các chị sẽ phải
đốc suất mọi đứa hầu hạ trong ấy. Chị Huệ phải cố làm sao cho con mụ Bảy nó tin
mình. Rồi cần gì, cần người cần của, thì tôi xin xoay. Xếp đặt ở ngoài xin do
các cô các cậu.
Cô đào Huệ nói ngay:
- Các cô các cậu có tin chúng em thì xin cứ bày cách cho
chúng em làm. Hiện mẹ Bảy nó đang bảo em về bảo chị Nhung tìm thêm con gái bán
hàng hầu hạ cho nó. Mai nó sẽ đến đấy. Tụi Tây sắp mở hội thắng trận ở bờ hồ đấy.
Có đủ trò vui, mà bọn con gái chúng em cũng là một thứ trò vui cho chúng nó. Thế
nào rồi cũng có Tây say rượu, có đánh nhau.
Ấm Vẽ vội hỏi ngay.
- Thế à? Chị phải hỏi lại cho rõ mọi kẽ tóc chân tơ nhé. Và
chị Nhung cho gọi cô Tín lại, dặn nó hỏi dò thêm nhé. Giờ ta hãy bàn sơ qua,
chia tạm mỗi người mưu một việc, hai cô sẽ đem các bạn gái cùng hành động ăn nhịp
với các chị, còn chúng tôi sẽ đem dũng sỹ Nghĩa hội thừa cơ quấy rối lộn xộn mà
tấn công vào phá cuộc vui...
Đào Nhung chăm chú nghe rồi trông sang cô Cúc nói:
- Các em, chúng nó ngu dốt, không biết ứng biến đâu. Hai cô
đây đứng chỉ huy là chúng nó tin và sướng lắm đấy, chết chúng nó cũng không sợ.
Chỉ cần các cô giao cho mỗi đứa từng việc một và dặn nó cặn kẽ phải làm như thế
nào và ăn nhịp với ai, nghe theo hiệu lệnh nào?
- Đúng rồi! Phải thế. Ấm Vẽ nói. Nhưng phải đợi chị Huệ báo
cho biết rõ cách tiến hành các trò vui của tụi nó thế nào. Bây giờ chúng ta chỉ
bàn xem ba cánh chúng ta đây, mỗi cánh nhận công việc gì, cử ai đứng chỉ huy
liên lạc và hẹn ngày và nơi gặp nhau.
Mọi người đồng ý như vậy, phác qua việc mỗi bên phải sửa soạn
và định cuộc gặp gỡ sau.
Qua mấy lần họp, việc chia cắt đã rõ ràng, việc chuẩn bị cũng
chu đáo. Các đội đều sẵn sàng. Nhưng như chúng ta đã biết, đêm hội vui của giặc
chỉ bị gián đoạn một lúc vì có sự ẩu đả lộn xộn rồi lại tiếp tục yên ổn và tưng
bừng cho đến mãi khuya. Bọn Tây đã thắng ở ngoài mặt trận, lại thắng lớn ở đêm
vui này. Biết bao mưu mô bàn bạc và đem ra khuyên nhủ nhau từ hơn tháng nay đến
đây đã tiêu tan hết. Lại có người bị chết, người bị thương, người bị giam nữa.
Ơ! Hỏng quá! Hẹn hò gì mà làm dở dang, đánh rắn giữa khúc như thế kia chứ! Mà
sao hôm nay đã hẹn rồi, mãi đến giờ cũng chưa thấy lại? Hay là lại có chuyện
gì? Cô Cúc thấy mọi người đến đủ, chỉ còn thiếu có ấm Tự Tháp, liền giục anh Thạch
ở Yên Trường đi tìm cho được mới về. Những người có mặt cứ họp, bàn ngay về
công việc đã làm hôm qua. Chị đào Huệ được mời nói trước. Chị bán hàng ở cửa hiệu
cà phê, được mụ Be tin cậy, đã chia cắt các cô hầu bàn và bán hàng ở khắp bờ hồ
đêm hôm ấy theo như sự sắp xếp đã bàn bạc trước. Các cô này đã làm đúng được
như dự định. Nhưng vì không có sự tấn công kết hợp của các đội khác, nên kế hoạch
bị bỏ dở, có bốn cô bị giết chết, ba cô bị thương, bốn cô hiện còn bị giam. Chị
Huệ thuật xong, đào Nhung nói thêm:
- Em đã bảo con Tín nói với chồng nó xin tha cho mấy cô kia.
Nhưng nghe đâu, chồng nó bảo quan trên cứ bắt xử tội để làm gương cho người Nam
không được động chạm đến người Tây. Được cái trong bọn có con Bưởi, nó đủ mồm
mép cãi lý được với Tây.
Chị Huệ cũng nói:
- Chị em chẳng ai cung khai gì cả, nên con mẹ Bảy nó cũng
không nghi ngờ chúng em. Nó bảo vì bọn Tây say rượu nhả nhớt quá, nên con hầu
nó đánh lại mà thành to chuyện. Em chỉ tiếc sao các đội khác không ùa vào tức
khắc, lúc ấy mà đánh túi bụi thì chúng nó trở tay không kịp. Đằng nào thì cũng
phải có người chết, em chỉ thương mấy chị em chết uổng.
Cô Cúc nói khuyên giải:
- Việc nhỡ ra như thế, chính là lỗi chung của anh chị em
chúng tôi. Chị không nỡ trách, chúng tôi cũng rất lấy làm đau xót. Chúng tôi
xin cố hết sức tìm cách đền bù lòng cao cả của các chị ấy. Ngay bây giờ xin chị
Nhung cố nói với chị Tín tìm mọi cách xin tha cho các chị bị giam, nếu cần cả
anh ấm cũng phải thân đến nói với chồng chị ấy, cũng phải đi cho được việc. Nếu
chưa lộ mà chỉ là một cớ để giữ thể diện cho lính Pháp thì ta bày vẽ cách phạt
thế nào cho xong chuyện thì hơn, cho các chị ấy đỡ bị oan tội nghiệp. Còn về
cánh anh chị em chúng tôi, chúng tôi cũng phải truy cho ra lỗi chậm trễ lỡ việc
vì ai? Việc là việc lớn mà như trò đùa, thế là không được. Bác ấm ở ngay đấy mà
cũng để ra cơ sự như thế thì lạ thật.
- Bọn tôi ở trong này có mười người chia cắt đâu vào đấy cả rồi
chỉ đợi ở ngoài đánh vào làm cho chúng nó lộn xộn xuất kỳ bất ý chúng tôi đánh
tung ra, trong ngoài cùng hợp sức làm cho chúng nó rối loạn. Nhưng đợi mãi
không thấy, lỡ mất thời cơ chúng nó đủ thì giờ tập hợp đề phòng, bọn tôi phải vội
rút mau, không thì lộ mất. Thế mà cũng có mấy anh múa gậy phang cho mấy thằng
Tây bị thương nặng rồi trốn thoát ra đấy. Còn hỏa mù, thuốc nổ và thuốc cháy
chưa kịp phóng, sợ lộ.
- Thế thì lỗi tại ông tướng Tự Tháp rồi. Cô Cúc nói, ông ấy
lóng ngóng để lỡ dịp, hỏng việc, ông ấy không dám đến họp. Được thế nào cũng mời
cho ông ấy đến bằng được. Bác ấm phải đi tìm cho được ông ấy về đây. Cô Xuyến
và tôi ở trong này giúp các chị, khuyến khích các chị, khi không thấy tiếp ứng
đúng hẹn, cô Xuyến nhanh trí đã ra ngoài cùng với mấy chị em ở ngoài phóng lửa
đốt luôn dãy nhà lá của tụi lính Khách Phúc Châu để báo hiệu thúc giục cánh
quân nghĩa dũng sỹ vào đánh úp. Ấy thế mà cũng lỡ, hỏng việc, uổng quá, thành
thiệt thòi riêng cho mấy chị em của chị Huệ, chị Nhung. Tội quá. Thật chúng tôi
lấy làm xấu hổ. Xin các chị đừng giận và nói lại với chị em thế nào cho chị em
đừng trách oán chúng tôi.
- Không sao đâu, cô ạ, chị Huệ nói. Chị em chúng em là hạng
người bỏ đi, nay được các cậu các cô coi ngang hàng thân thiết như người nhà
khuyến khích chúng em làm được việc có ích lợi cho giống nòi, thế là chính
chúng em phải biết ơn các cậu các cô. Cho nên dù có mệnh hệ nào, chúng em cũng
không có ân hận oán trách gì. Xin các cô các cậu đừng lấy làm nghĩ ngợi, chúng
em sẽ bảo nhau, chúng em chỉ tiếc là chưa giúp làm nên trò trống gì.
- Hỏng việc là lỗi tại chúng tôi, ấm Vẽ nói. Còn các chị đã
giúp được nhiều việc đấy chứ. Không kể mấy chị đã liều chết bỏ mình làm theo
mưu kế của chúng tôi. Chị Huệ đã đưa một số anh em chúng tôi vào hầu ở đám hội
có đủ giấy má hợp lệ, băng tam tài. Chị Tín nói với chồng cấp giấy cho tôi được
vào vui chơi... để mà chỉ huy. Chị Nhung đã đi lại biến báo và khuyên nhủ chị
em vững lòng tin ở chúng tôi.
Đào Nhung bưng dứa và nước chanh quả ra mời mọi người, rồi
nói:
- Thôi thưa cậu và hai cô, không cần phải nói nhiều đến chị
em của chúng em. Chúng em vốn khéo thớ lợ với khách chơi, còn về việc này chúng
em rất thực lòng có thế nào xin nói thế không ân hận gì cả. Chỉ xin cậu và các
cô đừng có khinh thường chúng em. Vụ này chưa lộ, các cô các cậu vẫn có thể bày
cho chúng em làm những việc khác nữa.
- Vâng, nhất định rồi. Ấm Vẽ vội đỡ lời. Thế nào chúng tôi
cũng phải nhờ đến các chị. Dù sao chúng tôi cũng phải tìm ra cái lỗi của chúng
tôi quy xem tội về ai để mà tránh chứ. Binh cơ phải linh hoạt, sai một li đi một
dặm, chậm một nháy mắt là thời cơ tiêu tan không thể cứ để trì trệ như thế nữa.
- Giá cậu ấm cứ cho phóng hỏa mù và thuốc nổ ngay lúc ấy lại
hóa hay. Đào Nhung nói, nhưng chưa dứt câu đào Huệ đã cãi:
- Ấy chết, thế thì chết cả nút, nếu thế thì Tây nó bắt hết,
giết hết, vỡ vung ra rồi, nó triệt hạ cả xóm này ấy chứ.
- Thế thì vẫn là tội cậu ấm bờ hồ chúng em à? Đào Nhung cười
hỏi lại. Cậu ấy đem quân đánh vào được kịp thì cũng đã vỡ vùng ra rồi. Tây nó
không bắt giết hết à?
- Nhưng đó là đánh nhau thực sự có chết cũng đáng. Mà nó
không thể ngờ từ đâu ra. Cô Cúc giảng giải. Và như thế Tây nó mới sợ ta, mới
khua động được lòng dân. Ta phá được đêm vui thắng trận của bọn nó làm cho bọn
nó và bọn quan Nam không còn khoe huênh hoang được nữa. Ta mới có đà mà đi cổ động
mọi người đánh Tây. Cho nên bỏ lỡ mất thời cơ lúc này vẫn là có tội, đáng
trách. Chúng ta phải đợi cậu Ba Tự Tháp đến nói rõ đầu đuôi xem sơ suất vì đâu.
Vừa lúc ấy anh Thạch đưa ấm Phách đến. Cuộc họp im lặng, trở
nên nghiêm trang. Ấm Vẽ ngồi ngay ngắn lại cất tiếng hỏi dõng dạc từ tốn mà
nghiêm trách:
- Chú mình có hai tội nặng, không ứng công đúng lúc, lại tự ý
rút lui, đến cuộc họp không đúng hẹn để phải cử người đi tìm. Hai lần đều chậm
trễ, sai trái. Vậy chú mình nên tự xử đi.
Ấm Phách thản nhiên cãi:
- Ở ngoài, Đề đốc lãnh binh chúng nó đưa quân đến dàn kín cả,
thằng Nguyễn Hữu Độ nó cho canh giữ kỹ hơn giữ mả tổ nhà nó. Lúc động thì trong
ngoài chúng nó đã đề phòng cả rồi, súng ống sẵn trong tay, tôi mà đánh vào, có
mà nó làm cỏ.
- Phải đánh nhanh, đánh xuất kỳ bất ý, khiến chúng nó đang hoảng
hốt trở tay không kịp chứ! Ấm Vẽ nói nhấn mạnh.
- Làm cỏ thì làm chứ. Cô Xuyến nói khích. Chỉ có tiến chứ
không lùi. Đã hẹn cùng đánh là phải cùng một lúc, nó mới sợ...
- ... Đã thế, ấm Vẽ tranh ngắt lời cô Xuyến, sao hôm nay lại
sai hẹn để người ta phải chờ đợi, phải đi tìm. Dễ thường không có người tìm
không đến chắc?
- Tôi tưởng việc không thành, chưa cần họp vội cho chúng nó
khỏi ngờ. Ấm Ba trả lời ngay không úp mở.
- Việc quân không thể trẻ con thế được, ấm Vẽ nói. Tôi với cậu
chỗ tình thân cái chấy bửa làm đôi có nhau. Nhưng việc nghĩa phải vô tư. Ngày
trước Khổng Minh khóc mà chém Mã Tắc, thì bây giờ tôi cũng phải nén tình riêng
mà xử phạt cậu để tạ tội với chị em.
- Việc Mã Tắc khác mà việc tôi bây giờ khác. Ấm Ba cãi. Tôi
mà cho đánh vào lúc ấy thì Tây nó giết hết cả rồi, còn đâu mà ngồi đây để hỏi tội
tôi. Phải tùy cơ ứng biến chứ.
- Trí ư tử địa nhi hậu sinh 16 .
Cô Cúc lúc này mới lên tiếng. Cùng rồi tất biến. Mưu trí là ở đấy. Bốn mặt cùng
đánh dồn vào trong lúc bất ngờ thế nào cũng thắng. Thế mà cậu lại tự ý bỏ chạy.
Còn những người bị chết trong ấy thì cậu bảo sao?
Ấm Phách ngồi im chưa kịp cãi, anh Thạch đã nói:
- Tôi chỉ tiếc công lao chị Huệ uổng phí. Hai cậu ấm đều có lỗi
cả. Lỗi chính là ở cậu Ba. Cậu đã không cho quân đánh vào để mọi người đều
ngóng chờ lỡ cả việc. Nhưng cậu Vẽ cũng chả ra sao, cứ cho mấy anh em chúng tôi
đánh vung lên, đánh túi bụi cho chúng nó chết một mẻ, có phải sướng không? Cậu
cứ bắt đợi lệnh, rồi sau lại cấm chúng tôi đánh. Rõ chán quá!
- Ấy các cô ở đây cũng vừa bàn thế, đào Nhung nói. Nhưng chị
Huệ chị ấy bảo không đốt là phải. Đốt đánh to ra mà ở ngoài không đánh vào được,
Tây nó ngờ có mưu mô chống nó, nó sẽ giết hết và bắn vung ra nhiều người thì hỏng
hết mọi việc sau này.
Cậu ấm Tự Tháp được thể vơ ngay lấy dịp cãi:
- Đấy tôi mà đánh vào còn vỡ vung nữa. Nó sẽ quét sạch vùng
này chứ chả chơi: công chửa thấy đâu, đã thấy tội.
- Ấy là nói trong hồ chứ, đào Huệ thanh minh, còn ở ngoài mà
đánh vào thì lại khác. Đằng nào cậu Ba cũng vẫn có lỗi.
- Các chị thì biết gì, ấm Ba cáu tiết nói gắt. Chỉ được thế
nói theo.
Ấm Vẽ vội mắng át đi:
- Chú không được nói láo! Lỗi sờ sờ ra đấy không nhận, còn
coi khinh ai? Thế những ai bị chết ở trong hồ kia?
Anh Thạch thấy mọi người ngồi im thủng thẳng nói:
- Bọn chúng tôi chỉ muốn nện thôi rồi ra sao thì ra. Bọn ở
trong thế. Anh em bên ngoài cũng thế. Thằng Tấn Thuận Mỹ nó bảo chính cậu Ba cấm
không cho chúng nó chạy vào thành, chùng chình mãi. Mấy lần nó xông lên đều bị
cậu cản lại, nó tức lắm, nó bảo cậu ấy sợ chết mất cô Cúc.
Thấy nói chạm đến mình, cô Cúc vội thanh minh:
- Ơ hay! Can gì đến tôi kia chứ.
- Nó bảo cậu Ba bắt đợi hễ thấy cô Cúc ra mới cho đánh. Thành
thử bọn Tây và bọn lính ta mới kéo đến vây kín.
- Nói láo! Cô Cúc nói tiếp, thế còn cô Xuyến và các chị đây
thì sao?
- Nó bảo chả vì cô Xuyến là con cụ Thương, Tây nó biết nó
không nghi. Còn cô Cúc, người xa lạ. Anh Thạch nói rõ thêm.
Cô Xuyến từ nãy vẫn ngồi im chạm lòng tự ái, liền nói sấn sổ:
- Cậu ấy chỉ cần giữ gìn cho chị Cúc thôi, vì cậu ấy rắp ranh
lấy chị ấy, còn ai chết mặc ai.
- Cậu ấy muốn lấy cả cô Cúc và cô Xuyến kia đấy. Anh Thạch
nói một cách tự nhiên. Tôi thấy nhiều người đồn đại thế.
- Nói thế mà nói được! Cô Cúc gắt. Mà chị cũng đến là hồ đồ.
- Đấy, chị thử hỏi cậu ấy xem. Cô Xuyến nói. Chả thế sao lại
ngồi thừ ra đấy không nói năng gì. Sao lại rút lui không đánh vào đúng lúc. Đằng
nào cũng là lỗi nặng, phạm quân luật cả. Nhát sợ hay tư tình đều là hạng bỏ đi
cả, đều là hèn nhát. Những người ấy có chó nó lấy.
Cậu ấm Phách tức phát khùng lên:
- Làm ăn dở toen toét lại đổ lỗi cho người ta rồi lại còn nói
láo. Tao không thèm dây với các người! Nghĩ quý quyền lắm!
Ấm Vẽ vội xua tay nói ôn tồn:
- Không được, Không được! Sao đương việc nọ lại sọ ra việc
kia thế này. Chú mình phải điềm tĩnh mà nhận lấy lỗi mình chứ. Tri quá cận hồ
dũng 17 đã
nhỡ ra thì phải biết can đảm nhận lấy lỗi sơ suất, lòng riêng có vấn vương gì
thì cũng phải chân thành nói ra người ta mới có thể tất cho chứ.
Ấm Tự Tháp bị thẹn đã quá nóng, được giận mất khôn, nói
toáng:
- Tao dại, tao nhát, tao cũng chẳng cần đến ai. Nó dồn cho chết
cả nút. Tao không đánh vào là cứu sống cho đấy. Đã không biết thì thôi, còn nói
láo, đã thế tao đếch cần, ai thiết gì các người...
Cậu gườm gườm nhìn ấm Vẽ rồi mở cửa bước ra ngoài.
Im lặng một lúc, ấm Vẽ nhìn theo ra cửa mãi mới lên tiếng nói
phá bầu không khí nặng nề, trong khi cô Huệ đi ra cài cửa:
- Để rồi tôi bảo nó.
Cô Cúc cũng nói theo:
- Đâu lại có người nông nổi nóng nảy thế. Mà cũng tại chị Xuyến
nói chạm vía anh ta.
- Tại à? Tại anh ta chỉ chăm bề toan tính lấy chị rõ rành
rành ra đấy còn gì nữa.
Cô Xuyến trả miếng lại nói móc.
- Thôi thôi xin các bà, ấm Vẽ vội dàn hòa. Nói làm chi đến thằng
dở hơi ấy. Ta hãy trở lại bàn việc của ta.
Chị Huệ sốt ruột, vẻ lo lắng:
- Em sợ cậu ấy tức, cậu ấy đi nói toạc ra lạy ông tôi ở bụi
này. Tây nó biết lại khổ bọn chúng em.
- Không! Không đời nào, ấm Vẽ nói với vẻ quả quyết để yên
lòng mọi người. Thẹn thì phát khùng lên thế, chứ con nhà gia giáo nghĩa khái,
long đong mười mấy năm nay vì việc nước. Nỡ nào!
Đào Nhung tiếp lời, giọng từ tốn vừa có tình có lý:
- Việc riêng của các cô với cậu ấy thế nào chúng em không dám
biết. Nhưng hai việc công tư bỗng nhiên vỡ lở liên tiếp nhau. Cậu ấy tức giận bỏ
đi, ngộ nhỡ do đấy xảy thêm chuyện gì nữa ta phải phòng trước. Nên em xin bàn
thế này. Chúng em cứ đi chạy lo cho mấy cô em bị giam mau được tha, và nghe
ngóng xem nó có bắt bớ thêm ai, xem có bị lộ không. Nếu cứ thế này im đi không
thấy động tĩnh gì thì xin các cô các cậu cứ lui tới đây chúng em làm được việc
gì có ích là chúng em làm ngay để cảm tạ tấm lòng quý hóa của các cô các cậu đã
tin yêu chúng em.
Chú thích:
1. |
Trông cửa nhà vua. |
2. |
Then khóa ở cửa phương bắc. |
3. |
Tua bằng chỉ màu có kết hạt trang trí, thường được đính vào
mép các bức thêu. (BT) |
4. |
Monsieur hout personnage, aller: Ngài nhân vật cao cấp,
đi... (Tiếng Pháp nói sai ngữ pháp). |
5. |
“No” hay “non” (nông) tiếng Pháp, nghĩa là không. Ở đây là
đừng... |
6. |
Nước Pháp lúc này không còn chế độ quân chủ. Nhưng bọn thực
dân thường gọi thủ tướng Pháp như là Hoàng đế để lừa bịp bọn phong kiến Việt
Nam. |
7. |
Trăm phúc kéo đến nghìn lành như mây tụ về. |
8. |
Cantine: Quầy ăn uống. |
9. |
Intendance millitaire: Hậu cần nhà binh. |
10. |
Đơn vị đo lường cũ của Việt Nam. Ngũ hay tầm dùng để thay
cho từ bộ (5 thước), 1 ngũ = 5*0,32 = 1,6 mét. (BT) |
11. |
Như tòa thị chính hay UBHC thành phố ngày nay. |
12. |
Tiệm nhảy. |
13. |
Lại đây, Venez ici. Vẻng-xi tức là Vơ-nê-i-xi đọc theo cách
nói của bồi bếp làm cho Tây. Cũng đều nghĩa là lại đây. |
14. |
Au secours! Cứu tôi với. |
15. |
Bonne nuit: chúc ngủ ngon. |
16. |
Đặt vào đất chết mà lại sống được. |
17. |
Biết lỗi đã gần dũng cảm rồi. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét