Bóng nước hồ Gươm 4
Chương VI
Cuối mùa thu năm Ất Dậu, hương lý và hào phú các làng ở ven hồ
được huyện nha Thọ Xương sức đòi từng người liệt tên hẳn hoi, đến họp ở
đình Tô Mộc thôn Phúc Tô để nghe quan trên về hiểu dụ. Đúng giờ ấn định, tám giờ
sáng theo đồng hồ của Tây, khoảng giờ Mão, mặt trời đã lên cao độ ba bốn con
sào, tỏa xiên khoai ánh nắng xuống mặt hồ lóng lánh. Một số đông hương chức đã
tề tựu ở sân đình, có cả chánh phó tổng của ba tổng Thuận Mỹ, Đông Thọ, Phúc
Lâm, cũng được mời đến dự. Quan huyện Thọ Xương cùng đi với viên Đề lại và mấy
người lính cơ đem điếu tráp đến. Quan huyện mới nhậm chức mấy tháng nay tên là
Nguyễn Nhã, người huyện Thanh Trì, trước là Thông lại huyện Phú Xuyên, rồi làm
Đề lại ở huyện này luôn mấy năm, nên đã thuộc mặt và thuộc tên hết hương chức
và những người có tiếng tăm, có máu mặt ở mấy thôn xóm này, nên khi đến nơi vừa
vào sân, hắn ta đã hỏi ngay:
- Các thầy đã đến đủ chưa?
Lý trưởng Phúc Tô, sở tại nhanh nhảu nói ngay:
- Bẩm quan lớn cũng đông đông rồi đấy ạ, đứng ra chào quan lớn
đã đặc cả sân đình.
Huyện Nhã không bắt lời, đưa mắt nhìn một lượt rồi nói:
- Lý trưởng Phó lý Bảo Khánh chưa có đây, Tự Tháp thiếu thầy ấm
Phách, thầy Tú Hài, Yên Trường thiếu Bá Thọ, Vũ Thạch thiếu thầy Nhì Tuấn. Việc
họp này quan trọng thầy Đề sai lính đi mời ngay. Đi mau ba chân bốn cẳng lên
cho kịp giờ các quan đến.
Quay lại trừng mắt nhìn Lý trưởng Phúc Tô, hắn hỏi soi mói:
– Hương chức và kỳ mục làng anh có đủ số liệt danh không.
Làng anh là làng sở tại, huyện kê tên đủ số mười sáu người, thế mà (hắn giơ tay
đếm) đấy mới có chín người. Phải đi gọi mau!
- Bẩm quan lớn, con đã mời, đưa đủ cả giấy sức cho họ ký tiếp
nhận, lý trưởng phân trần, nhưng...
- Chẳng nhưng gì cả. Huyện Nhã quát đi gọi ngay Cửu Hỗ, Ba
Sán, Hương Tín ra, bảo hễ không ra quan cho lính tróc 1 . Đi đi!
Lý trưởng Phúc Tô đi khỏi, huyện Nhã bước lên sân đình ngồi
vào chiếu, vít xe điếu ống hút thử kêu sòng sọc, buông xe lên nói vọng ra
ngoài:
- Các thầy đứng đợi một tí các quan trên tòa xuống.
Một lúc sau, một số người được đi gọi đã lục tục đến. Đúng
chín giờ một viên Tham biện Tây cùng đi với Vũ Văn Hoạt, một thông ngôn, một ký
lục và sáu lính tập khoác súng giắt lưỡi lê đi từ bên tòa Hiệp lý sang. Mọi người
đứng xúm lại, chào ồn ào. Tên Tham biện gật đầu chào lia lịa, miệng luôn luôn
nói: Tốt, tốt. Hắn niềm nở bắt tay huyện Nhã, và mấy ông Chánh tổng do huyện
Nhã giới thiệu. Vũ Văn Hoạt cũng vui vẻ chào mọi người rồi thân mật nói:
- Thôi chúng ta đi vào, mời cả vào trong đình.
Lão cùng với huyện Nhã đưa tên Tham biện, tên thông ngôn vào
ngồi ở hai cái ghế bên cái yên thư trước hương án ở giữa đình, lão và huyện Nhã
ngồi ở hai ghế đối diện bên này. Ba Chánh tổng và tên ký lục ngồi ở hai bên cái
yên thư thứ hai gần sát cửa. Viên Đề lại ngồi trên cái ghế đẩu kê ghé bên ký lục,
đặt cái tráp trên mặt yên thư, mở tráp ra, sắp sẵn giấy tờ. Vũ Văn Hoạt đứng
lên, chỉ lên sàn gỗ và lên những chiếu giải trên sàn đình, giục mọi người ngồi
xuống rồi nói vẻ vỗ về thân mật:
- Mời các thầy ngồi cả xuống, đông người chật chỗ, ta ngồi cả
trên sàn cả trên nền, ai tiện đâu ngồi đấy, đến trước ngồi trước, đến sau ngồi
sau, bây giờ quan tân chế độ tân 2 bình đẳng cả, chỉ khác nhau về phận sự.
Thấy mọi người đã ngồi đâu vào đấy cả rồi, lão liền ngồi xuống
và tươi cười nói chuyện với huyện Nhã.
- Xin trả lại phận sự của quan huyện sở tại, theo lối mới bây
giờ, quan huyện sở tại là chủ trì cuộc họp, phải giới thiệu khách quan, và công
việc trong buổi họp. Quan huyện cứ làm đi, chỗ nào chưa quen, hay cần giúp gì,
bản chức sẽ xin giúp thêm.
Huyện Nhã đứng lên dõng dạc nói:
- Các thầy thuộc hạ, tôi nói cho các thầy biết, hôm nay các
quan trên tòa Hiệp lý tỉnh ta về đây hiểu dụ các thầy mở mang thành phố ở quanh
hồ này. Có quan Chánh tham biện chủ sự, người quý quốc, quan Tri huyện quyền
phó Vũ đại nhân, quan thông ngôn, quan ký lục đến nói chuyện, cho các thầy rõ,
các thầy nghe rồi phải tuân hành.
Hắn quay lại nói với Tham biện Tây và Vũ Văn Hoạt:
- Xin mời các quan lớn hiểu dụ.
Vũ Văn Hoạt lại đứng lên, nói rất trơn tru hoạt bát:
- Tôi xin giới thiệu quan Tham biện chủ sự, nói rõ sự thiết yếu
phải mở mang thành phố, quan lớn là người chuyên lập họa đồ, vạch ra các đường
phố sao cho đẹp, cho văn minh như kinh đô Ba-lê bên quý quốc. Đáng lý như trước,
các quan đã cắm đâu rồi, thì cứ việc sức bắt dân làm, dân phải làm cho kỳ được
mới thôi, nhưng bây giờ quan Tây theo phong tục châu Âu, coi dân là chủ, làm việc
gì cũng cần bàn bạc với dân, nên các quan mới sức các thầy đến đây để các quan
hiểu dụ cho các thầy biết mọi sự đẹp đẽ, mọi sự ích lợi của phố xá mở mang để
các thầy rõ có phận sự về đôn đốc khuyên nhủ dân tuân hành. Lão quay sang nói với
tên Tham biện:
- Me sừ, xin mời quan lớn nói.
Tên chủ sự Pháp cười đứng lên, chào bằng tiếng Việt.
- Chào các ông.
Rồi hắn xì xồ nói luôn một mạch tiếng Pháp. Tên thông ngôn dịch
ra tiếng Việt mỗi lần hắn ngừng lại. Hắn nói đại ý: Tôi lấy làm sung sướng được
thay mặt quan Chánh hiệp lý Ha-le kiêm Phó công sứ đại thần tỉnh Hà Nội, đến
đây chào mừng các ông là những người tiêu biểu cho xóm làng ở quanh cái hồ lịch
sử của nơi đế đô cổ kính và phồn hoa này, và trình bày với các ông việc mở mang
phố xá ở khu vực này thật khang trang mỹ lệ cho xứng đáng với cảnh trí thiên
nhiên. “Thưa các ông ở bên nước chúng tôi ở các thành phố, các đường phố đều rộng
rãi thẳng tắp, có hai bên hè, có cây đèn thắp sáng ban đêm, các phố ngang dọc
như bàn cờ. Nay vì sự hòa hảo giữa hai dân tộc chúng ta chúng tôi sang đây bảo
hộ nước các ông, đem văn minh đến khai hóa, tất nhiên cũng phải nghĩ đến mở
mang nơi thành phố đô hội này cũng phải giống như những thành phố văn minh rực
rỡ ánh sáng bên nước chúng tôi. Mà trước hết là nơi khu vực cái hồ này. Đó là
niềm sung sướng đầu tiên của tôi và cũng là vinh dự của các ông. Bây giờ xin mời
các ông xem các phố dự định”.
Tên chủ sự Pháp ngừng lại bảo tên ký lục giở tờ bản đồ bản bằng
giấy bìa bồi khổ rộng căng lên kín mặt trước hương án nhờ hai người đứng hai
bên giữ lấy mép giấy, hắn cầm bút chì đỏ chỉ lên những đường phố mới vạch, tên
thông ngôn nói theo, giảng cho mọi người thấy những phố sẽ mở. Chung quanh bờ hồ,
suốt từ vườn dừa vòng qua các làng Trừng Thanh, Yên Trường, Nghĩa Lâu, phố Hàng
Khay, làng Vũ Thạch, làng Yên Trung trở lại làng Phúc Tô, làng Tự Tháp, làng Bảo
Khánh, đến làng Cổ Vũ trở lại đến vườn dừa, sẽ mở một con đường rộng cả mặt đường
và hai bên hè là mười sáu thước tây, vị chi là bốn mươi thước ta. Đấy là con đường
mở trước tiên, phải làm ngay và tòa Hiệp lý đã ấn định ngày khởi công vào tháng
sau. Tiếp theo là con đường thẳng từ khu nhà thờ lớn đang làm ra đến bờ hồ, đi
ngang qua làng Tự Tháp, một con đường chạy qua làng Vũ Thạch ra bờ hồ, trên đồ
bản tạm ghi con đường qua Tự Tháp là phố Tự Tháp, con đường qua Vũ Thạch là phố
Vũ Thạch. Con đường từ trường Tây qua cửa ô thẳng đến Hàng Khay đã thành hình rồi,
nay mở cho rộng thêm tạm ghi là phố Tràng Tiền. Con đường từ Hàng Khay qua Vũ
Thạch, qua Tràng Thi đến Bích Lưu đã thành hình nay cũng mở rộng ra tạm ghi là
phố Tràng Thi chạy tắt qua các làng Bích Lưu, Phụ Khánh, Phúc Lâm, Vọng Đức...
Những con đường ấy sẽ tiếp làm sau. Tất cả các đường ấy đều rộng ít nhất là mười
thước tây tức bằng năm ngũ ta.
Tên thông ngôn nói đến đây, vòng tay cả khoảng về bờ hồ vui vẻ
nói với mọi người:
- Đấy các ngài xem, thành phố sẽ được mở mang đẹp như thế, đường
rộng thênh thang, hàng cây thẳng tắp rủ bóng mát, đèn cây chiếu sáng choang,
cái hồ này sẽ trở thành vườn hoa trên thiên đường, một viên ngọc quý ở Á Đông
ta. Cho nên các ngài ạ, cần phải mở mang từ hồ này trước, vì vậy tòa Hiệp lý mới
có cuộc họp với các ngài hôm nay để bàn bạc, mong các ngài cũng giúp vào việc
công ích.
Trong khi tên Tham biện Tây luôn mồm nói tốt–tốt–tốt Vũ Văn
Hoạt đứng lên nói thêm không úp mở:
- Nói gần nói xa chẳng qua nói thật. Quan Thống tướng toàn
quyền đã thương đồng với quan Kinh lược quyết định mở mang nơi cố đô ta đây là
một nơi Thư phủ. Cụ lớn Kinh lược đã ra lệnh cho quan Tổng đốc Hà Ninh thông sức
cho các xã huyện Thọ Xương biết mà tuân hành. Việc mở mang này do tòa Hiệp lý đứng
trông coi tiến hành. Nên hôm nay tòa Hiệp lý mời quan Tham biện ngài vốn là một
nhà bác vật 3 chuyên xây dựng các thành phố, đến nơi cho
mọi người biết cách mở phố như thế nào, rồi nhân thể thông đạt tờ sức của Đốc bộ
đường để huyện Thọ dễ làm việc. Quan chủ sự đã chỉ cho chúng ta rõ bản đồ của
các đường phố rồi, bây giờ xin đọc tờ sức của cụ thượng.
Lão mở to tờ giấy đang cầm sẵn trong tay è một tiếng lấy giọng
rồi đọc dõng dạc nghiêm túc.
Lão đặt tờ sức xuống bàn nói thêm:
- Vì tòa Hiệp lý có sở Lục lộ chuyên làm đường phải đặc trách
việc mở phố, nên bên tòa đã thừa sao tất cả các giấy sức gửi các xã, thôn thay
quan huyện Thọ nhân tiện đây xin giao thầy để phát xuống các xã.
Lão sai ký lục đưa sang cho Đề lại tập sao giấy sức đã in sẵn
cả dấu son của tòa Hiệp lý. Tên Tham biện thấy công việc chuyên môn của mình đã
xong, liền hất hàm ê một tiếng giục tên thông ngôn, tên này đứng lên nói:
- Dự định của tòa Hiệp lý như thế các ngài đã rõ cả rồi. Vậy
chúng tôi xin cáo lui để các ngài bàn việc thi hành. Huyện Nhã vội đứng lên
nói:
- Thưa quan lớn Tham biện huyện nha chúng tôi xin cảm tạ quan
Tham biện đã đến đây nói cho dân chúng rõ cung cách các phố xá sau này. Huyện
nha chúng tôi xin chào quan lớn lại nhà.
Mọi người cùng cười ồ. Tên quan Pháp cũng cười xì xồ mấy câu
từ biệt, tên thông ngôn phiên dịch lại, tên Pháp giơ cả hai tay chào và vẫy vẫy
bảo mọi người ngồi im, rồi hắn lách qua dẫy người ngồi đi ra ngoài, Hiệp Hoạt
và Huyện Nhã tiến ra mãi ngoài đường, chào bắt tay rồi mới trở vào.
Chờ cho mọi người nghỉ ngơi hút thuốc ăn giầu xong đâu vào đấy,
huyện Nhã lại gọi mọi người trở lại cuộc họp rõ ra vẻ con người chủ trì:
- Ta họp đây, các thầy biết đấy. Việc mở phố cần như vậy, rất
cần, cần lắm, người Tây họ không chần chừ đâu. Vậy các thầy phải về bàn với
dân, liều liệu thu xếp dỡ nhà cửa, bỏ đất.
Lý trưởng Yên Trường hỏi:
- Bốn mươi thước vị chi là tám ngũ bằng dẫy đình tám gian rộng
thế thì hết cả làng à? Và còn đình chùa sao? Đình chùa cũng dỡ đi à?
Huyện Nhã vui vẻ nói:
- Các thầy không lo điều ấy. Đình chùa cũng dỡ, rồi có tiền
phát hoàn 4 cả, có đi đâu mà thiệt. Không ở chỗ này
quan trên cắm cho chỗ khác. Cốt làm sao cho phố xá đẹp chung; chúng mình đi
chơi mình cũng sướng, đấy nghe quan Tham biện nói thành phố bên quý quốc, ở ta
cũng phải làm như vậy chứ.
Lang Hoạt nói rành rọt thêm:
- Nhất định như thế chứ. Đường phố vạch thẳng rồi hai bên sẽ
làm toàn nhà ngói, hai ba tầng, nguy nga, đồ sộ đẹp lắm. Người có đất mà không
làm được nhà ngói thì bán đi cho người khác làm, không thì bán cho nhà nước
làm, bán cho tòa Hiệp lý làm.
Lý trưởng Bảo Khánh liền hỏi:
- Thế ra các quan đuổi dân đi à? Nhưng chôn rau cắt rốn ở đấy,
mồ mả cha ông ở đấy, dân họ không chịu đi thì các quan bảo sao?
- Lệnh trên quan sức xuống các thầy phải tuân hành, phải nói
cho dân nghe ra chứ, huyện Nhã nói, không xong các thầy bị cữu.
- Quan lớn có bắt tội thì chúng tôi chịu, chứ dân họ không chịu
đâu, Lý trưởng Bảo Khánh nói tiếp, họ cứ ỳ ra đấy, chả nhẽ phụ mẫu chi
quan 5 không che chở cho dân thì chớ lại đi đuổi
dân, ép dân.
Lang Hoạt lại phải giảng giải:
- Dân không bằng Tây, Tây người ta thắng thế, người ta sang
đây bảo hộ, vua quan mình đã ký hòa ước với người ta rồi, người ta đến đây đem
tài trí ra mở mang cho đất nước mình thêm đẹp. Đấy mấy trăm năm nay ta có mở
mang gì đâu. Thế mà họ vừa mới đến, họ đã cho người họa đồ vẽ kiểu ngay giúp
mình. Quan đã nghe theo thế tất dân cũng phải nghe theo, trên bảo dưới mới là một
nước văn hiến.
Tú Hài Tự Tháp vốn hiểu dã tâm Lang Hoạt, vốn không ưa hắn từ
lâu, nên bốp chát ngay:
- Người ta đi theo Tây thì nói thế, cái gì của Tây cũng tốt
cũng thơm, người không theo Tây lại nghĩ khác. Tôi thấy các đường phố mới mở đè
lên cả nhà thờ quan Nghè chúng tôi, cậu ấm Ba và quan huyện San không chịu đâu,
các ông ấy sẽ chống đến cùng.
Huyện Nhã khôn khéo nói có vẻ dàn hòa và lấy lòng Lang Hoạt:
- Thầy Tú nói thế không đúng, quan trên đã sức ai cũng phải
tuân. Nhà thờ quan Nghè tôn nghiêm đáng kính thật nhưng chưa bằng đình chùa. Cậu
ấm Ba có chống Tây mãi được không? Hay là bây giờ cũng về nhà hàng phục. Mà học
trò quan Nghè là quan Hoàn Văn Lộc Tổng đốc Ninh Thái, quan nghè Kim Lũ Tổng đốc
Tam Tuyên đấy, các cụ lớn sẽ lo đến nhà thờ quan Nghè, các thầy ở đây không nên
bận tâm đến đấy, các thầy hãy lo lấy phận sự các thầy.
Thấy mọi người ngồi im cả, Lý trưởng Phúc Tô nghĩ mình là sở
tại có công hầu hạ chịu sai bảo trong buổi họp liền nói kể công:
- Bẩm quan lớn, đình của thôn chúng con to rộng, thường được
các quan trên dùng làm nơi hội họp. Mấy tháng trước đội sen đầm 6 của quý quốc cũng đóng ở đây rất tiện. Vậy
xin quan lớn đề đạt lên trên cho để lại ngôi đình này. Cả đông đủ kỳ lý thôn
con đấy, chúng con xin làm đơn. Vũ Văn Hoạt đưa mắt nhìn Nguyễn Nhã. Lão này vội
nói:
- Không được. Làng này phải triệt hạ trước để làm gương cho
những thôn xóm khác trông đấy, vì vậy ta mới gọi đông đủ lý dịch đến để biết mà
tuân hành. Đây là trát nghiêm sức của Đốc bộ đường.
Hắn gọi Đề lại:
- Đưa tôi cả ba giấy sức!
Đề lại mở tráp đưa tập giấy đã xếp sẵn lại, hắn đỡ lấy tách
riêng ra một tờ đưa cho Chánh tổng Thuận Mỹ ngồi liền đấy nói: Thầy Chánh đọc
to tờ sức này cho mọi người cùng nghe.
Chánh tổng giơ hai tay đỡ lấy mở ra lên tiếng đọc:
“Quan huyện Biện đại học sỹ tỉnh Hà Ninh Tổng đốc Nguyễn...
khẩn sức chi huyện Thọ Xương tuân: Thừa lệnh quan Thái tử Thiếu Bảo Vĩnh lại bá
sung chức Bắc kỳ kinh lược sứ Nguyễn tướng công, chuyển đạt nghị định của quan
Thống tướng toàn quyền đại thần phạt thôn Phúc Tô xã Phúc Tô, tổng Thuận Mỹ
trong hạt về tội tàng giấu khí giới âm mưu chống lại quý quan và triều đình.
Theo pháp luật của hoàng triều, thôn này bị triệt hạ, xóa tên, đất đai bị sung
công. Vậy sức Tri huyện ấy chu tri cho dân chúng thôn ấy chiếu lệnh tuân hành,
hạn trong mười lăm hôm phải xong. Nay khẩn sức”.
Chánh tổng Thuận Mỹ chưa đọc hết, huyện Nhã đưa luôn tờ thứ
hai và giục:
- Thầy đọc tiếp tờ này. Người kia đỡ lấy tờ mới vừa gấp tờ cũ
lại vừa đọc tiếp:
“Thái tử Thiếu bảo sung Bắc kỳ kinh lược đại sức Vĩnh lại bá
Nguyễn nghiêm sức Hà Ninh Đốc bộ đường tuân xét xã Phúc Tô, tổng Thuận Mỹ, huyện
Thọ Xương chứa chấp trái phép và ngầm mưu chống quý quan (có biên bản bắt được
súng đạn ngày 20 tháng 9) phạm tội nặng với quốc gia xã tắc, chiếu theo phép nước,
triệt hạ thôn ấy, xóa tên trong địa bạ, di dân đi nơi khác, ruộng đất sung công
vào hoàng triều cương thổ, phạt hương chức Lý trưởng 40 đồng, những người khác
mỗi người 20 đồng. Vậy nghiêm sức Đốc bộ đường chiếu luật thi hành”.
Mọi người xôn xao. Mấy người chức dịch xã Phúc Tô đứng lên nhớn
nhác. Ba Sán, Hương Tín cùng nói hung hăng:
- Quan đánh lừa dân à?
Vũ Văn Hoạt vội đứng lên giơ tay khua khua nói từ tốn:
- Khoan khoan cứ điềm đạm, nông nổi nóng nảy có được việc gì
đâu. Hãy khoan nghe cho hết đã. Còn tờ này nữa bằng chữ quốc ngữ ngù ngoèo tôi
xin đọc cho.
Lão cầm lấy tờ giấy ở tay huyện Nhã và đọc:
“Chính phủ nước Cộng hòa Đại Pháp.
Phủ lưu trú toàn quyền Trung Bắc kỳ,
Quan Thống tướng toàn quyền đại thần chiếu quyền hạn và nhiệm
vụ phải làm trong thời chiến tranh và bình định, xét nhu cầu về an ninh và trật
tự, đã thương đồng với quan Kinh lược đại sứ Bắc kỳ Nguyễn tướng công ra nghị định:
Điều 1: Xóa bỏ tên làng Phúc Tô, tổng Thuận Mỹ huyện Thọ
Xương tỉnh Hà Nội, vì làng này chứa chấp khí giới và có âm mưu chống lại người
Pháp (5 súng và 2 hòm đạn giấu trong một cái ao). Đêm dạ hội ở hồ Hoàn Kiếm có
kẻ ẩn nấp ở làng này, ngầm đợi cơ hội âm mưu quấy rối.
Điều 2: Làng bị triệt hạ, dân phải di chuyển đi nơi khác, ruộng
đất thuộc về thành phố.
Điều 3: Hương chức bị phạt tiền, Lý trưởng 40 đồng, mỗi người
khác 20 đồng.
Điều 4: Quan Công sứ tỉnh Hà Nội, quan Hiệp lý thành phố Hà Nội
và quan Đại tá binh đoàn thường trú tại Hà Nội, mỗi người theo quyền hạn của
mình, thi hành nghị định này.
Làm tại Hà Nội ngày 16 tháng 11 năm 1885
Quan Thống tướng Đờ Cuốc-xy ký”.
Lang Hoạt vừa đọc xong mọi người ở bên ngoài đứng lên lộn xộn.
Có người nói bô bô:
- Thôi chịu thua ông Tây cả. Quan lớn quan bé đều làm theo lời
Đờ Cuốc-xy cả. Còn kêu nỗi gì, nói chuyện với quan lặng thà vạch đầu gối ra mà
nói.
Vừa nói người ấy hầm hầm chạy ra sàn, một tên lính giơ súng cản
lại, ông ta hẩy súng ra và quát:
- Anh bắn ngay tôi đi xem nào?
Rồi ung dung bước đi, ông vừa lẩm bẩm.
- Chết vinh còn hơn sống nhục.
Tên lính phải lui lại để ông ta đi ra. Trong khi ấy Lý trưởng
Phúc Tô cố nằn nì với Nguyễn Nhã.
- Bẩm quan lớn súng đạn ở cái ao sau làng gần ngay lũy tre của
Nhà chung, do người của Nhà chung quẳng xuống, hôm các quan về vớt lên, hương
chức chúng con cũng khai như vậy kia mà sao bây giờ phạt vô lý thế. Xin quan lớn!
- Không biết! Quan huyện Nhã gạt đi. Quan cứ lệnh lại cứ truyền.
Việc quan có giấy tờ. Giấy sức thì phải thi hành như thế. Các thầy phải tuân,
chần chừ là bị trách phạt.
Tú Hài Tự Tháp đứng lên nhảy tót ra ngoài:
- Nước mất nhà tan, nói làm gì nữa. Thôi đi về! Lão đồ Vũ Thạch
đi trước thế mà khôn.
Ông ta đi bừa ra, mấy tên lính đều không dám giữ lại. Vũ Văn
Hoạt tức giận quát.
- Sao không lôi cổ nó lại. Việc quan phải có văn phép chứ
ngông nghênh như đi chợ thế mà được à?
Lý trưởng Yên Trường là đất sở tại của tòa Hiệp lý, phải luôn
luôn ra vào đây chịu mọi sự sai phái vặt, đã biết rõ mọi hoạt động của lang Hoạt,
thấy vậy liền thủng thẳng nói:
- Thôi ông lang ôi! Cánh ta cả ấy mà, làm gì mà chực nạt nộ
nhau vậy, chúng tôi về cả đây, có giỏi cứ bắn chết đi nào. Lão thản nhiên bước
ra cửa một số đông ùa ra theo ồn ào đặc cả sân đình rồi ai nấy nhanh chân rẻo cẳng
chuồn trước. Mấy người lính đành cắp súng ngơ ngác nhìn theo. Một lúc sau trong
đình ngoài sân đều không còn một người dân nào, trơ lại có mấy thầy trò hai
quan lớn huyện Nhã xếp lại giấy sức đưa cho để lại đủng đỉnh trách Vũ Văn Hoạt:
- Tại bác nói găng quá. Để yên tôi dụ từ từ cho mọi đứa chúng
nó nghe ra, rồi giữ luôn hương lý Phúc Tô lại có phải vừa được việc vừa làm
gương cho chúng nó sợ.
Lang Hoạt cười nói chữa:
- Đằng nào rồi chúng nó cũng chống. Rồi đến phải có bọn Tây
nó đem lính đến nó phá mới được. Ta chỉ làm bước đầu báo cho dân xã biết, để
xem dân chúng nó chống lại như thế nào, mà tìm cách đối phó thế là tốt rồi.
- Tốt cho bác nhưng khổ cho tôi. Huyện Nhã nói. Rồi cụ Thượng
cụ trách phạt.
- Không sao! Đã có Tây nó bênh, lang Hoạt nói, bác không biết
à, đi xa nó mới cần các quan to, còn ở gần nó cần các quan nhỏ, gần dân, vì thế
thường thường nó vẫn bênh vực các quan nhỏ ấy.
- Thế à? Huyện Nhã hỏi tỏ vẻ mừng rỡ. À phải rồi! Phải, phải ở
gần dân nó phải cần mình, mà các cụ lớn... thì cũng... chứ gì?
Lang Hoạt vui vẻ nói:
- Nhưng mọi việc Tây nó đã định, rồi nó sẽ làm được cả. Cho
nên cũng cần cho nó thấy khó khăn để nó ốp các quan trên phải làm cho nó mà nó
lại biết công cho mình. Cho nên hôm nay như thế đối với chúng ta là tốt...
- Tôi lo cái kỳ hạn 15 ngày khó xong được lắm, huyện Nhã nói,
hương chức chúng nó khảng tảng đi cả rồi. Giá bác không nói hộ, có phải tôi đã
tạm giam Lý trưởng và mấy đứa nữa để thúc chúng nó làm xong.
- Mười lăm ngày chưa xong thì ba mươi ngày, lang Hoạt nói, ba
mươi ngày chưa xong thì hai tháng, việc quan nóng như nước lã mà lị... Đằng nào
nó cũng phải nhờ mình cả, làm nhanh nó lại tưởng là dễ, nó coi thường mình. Và
dân nó âm mưu chống thật sự thì trên mấy thúc ép mình được, đằng này việc còn hồ
đồ, cốt yếu có cớ đuổi dân đi nên cần gì ta phải làm nhanh đúng kỳ hạn.
- A à khôn! Chí lý thật, huyện Nhã khen, gần Tây ít lâu có
khôn hơn thật.
Ngồi im một lúc huyện Nhã nói:
- Nhưng mà quan bác ạ, của đau con xót, bọn này rồi thế nào
chúng nó cũng chống lại đến cùng, không chịu đi đâu, chúng nó mà liên đới lại,
chúng khẩu đồng từ thì khó khăn lắm đấy chả thuận buồm xuôi gió đâu.
Lang Hoạt bắt chân chữ ngũ rung rung bàn chân cười đáp:
- Đành rằng khó khăn. Nhưng có khó khăn đã có Tây, Tây nó biết
khó khăn nó mới biết công cho mình chứ. Mình chỉ cần báo nó cách không cho dân
liên đới với nhau là tức khắc Tây nó làm được. Tây nó cao cờ bao giờ nó cũng đi
nước trước. Vua quan ta thua liểng xiểng nữa là dân. Phương chi lại có ta mách
nước cho nó. Lo gì?
Huyện Nhã lại gật gù khen:
- Khuyên! Lại cho là giỏi, đệ xin bái phục. Nhưng này, như thế
là ta đã thông đạt cho dân xã biết cả rồi, bây giờ ta về thôi chứ. Về bẩm lên
trên.
Lang Hoạt đắc thế nói có vẻ trịch thượng:
- Không về thì ngồi lỳ ăn vạ ở đây à? Nhưng mà thông đạt như
thế chưa đủ, dân họ chưa biết hết. Ta phải sao tờ nghiêm sức này niêm yết khắp
nơi quanh hồ này, để tỏ cho mọi người biết là ta đang tuân hành lệnh trên. Bác
về cho sao tờ sức của nha Kinh lược, tôi sẽ bảo mấy ông “lét-té” 7 bên tôi sao bản nghị định của quan Thống
tướng ra chữ nôm rồi đưa sang bên bác chụp dấu son đưa đi niêm yết một thể. Bác
nghĩ có phải?
- Vâng vâng, phải làm như thế. Huyện Nhã vui vẻ đáp. Đối với
quân này không làm thế không được. Thế quan bác cho đem những tờ sao sang ngay
bên nhà tôi nhé. Giờ xin mời quan bác về trước, tôi nán lại chờ Lý trưởng sở tại
ra đây. Nó mà trở ra tiện thể tôi giữ luôn. Xin bác cho tôi mượn mấy anh lính.
Vũ Văn Hoạt đồng ý để lại ba người lính tập, đứng lên đi ra dặn
dò những người này, ngoảnh lại chào huyện Nhã và Đề lại, rồi cùng với ba tên
lính kia trở về phía phố Hàng Khay. Đi khỏi cửa đình mấy bước, lão lại quay vội
vào sân gọi huyện Nhã ra dặn khẽ:
- Này đòi nó không ra thì thôi, ta về liệu cách đã. Đừng có bắt
bớ vội, chó cùng đứt giậu, có đứa xui bẩy, bày vẽ, nó biết liên đới với nhau
thì ngầy ngà đấy quan bác ạ. Đã có Tây nó lo.
- Vâng vâng, huyện Nhã nói, quan bác cẩn thận quá, tôi cũng
cho đòi lấy lệ, nó ra hay không cũng thôi, để có cớ mà bẩm chứ.
Hai quan cùng tương đắc, cùng vui vẻ chào nhau lượt nữa.
***
Đúng như Vũ Văn Hoạt nói, bọn Pháp đặc biệt chú ý đến việc
thi hành nghị định của quan Thống tướng toàn quyền, vì đây là một bản án đầu
tiên ra oai với dân bản xứ và cũng là bản án đưa ra thí nghiệm xem các quan chức
Nam triều sẽ tuân hành như thế nào. Họ có phản ứng gì không? Hay họ sẽ gặp những
khó khăn vấp váp gì trong khi tiến hành việc trừng phạt ấy của người Pháp. Đó
là việc cần thiết cấp bách phải làm ngay để rút kinh nghiệm đem áp dụng rộng khắp
ở cái miền đất đã đặt dưới quyền bảo hộ, mà còn đương phải bình định bằng vũ lực.
Mặt khác việc xóa bỏ làng này để mở mang phố xá sẽ giúp cho chúng nó rộng được
khu vực xây dựng tòa Giám mục. Cái làng bị xóa đi thì con đường vòng lớn vòng
quanh Hồ Gươm sẽ mở được dễ dàng vì theo gương làng này việc đuổi dân lấy đất
cũng sẽ không gặp khó khăn mấy, nhất là sau khi xóa bỏ làng này, thành phố lại
nhân đà chiếm cứ đất của trường học Vũ Thạch và đất nhà thờ quan nghè Tự Tháp bắt
nhà trường và nhà thờ đều phải rời đi nơi khác. Hai nơi tiêu biểu cho sự ngưỡng
mộ của dân chúng đã bị rời đi chỗ khác rồi, thì mọi việc ở đây đều như dòng nước
chảy xuôi, làm lúc nào xong lúc ấy, trên đất những dân cư đã rời đi ấy, hai bên
đường rộng thênh thang sẽ dựng lên những dinh thự của nhà nước bảo hộ của người
Pháp, những lâu đài biệt thự của Nhà chung, của các bậc giáo phẩm An Nam, các rạp
hát dành cho người Pháp. Đường phố sẽ khang trang đẹp đẽ như những thành phố
Tây phương, dễ thích nghi cho người Pháp, đem thân sang giành giật mảnh đất
này. Và như thế cái vẻ văn minh và hùng cường của nước Pháp đã đóng đinh hẳn ở
đây sẽ tỏa ra sáng ngời mãi mãi cho mọi người dân bản xứ đều biết người Pháp sẽ
ở đây, không một sức mạnh thần bí nào có thể thắng nổi, để kẻ hợp tác sẽ vững
lòng tin theo và làm việc đắc lực hơn nữa. Còn những kẻ âm mưu chống lại, cũng
sẽ bị cái cảnh xây dựng lớn lao, đồ sộ này ngăn chặn lại làm cho xẹp dần, nguôi
đi và đến ngày tắt hẳn. Đó là thâm ý của bọn Pháp. Cho nên khi nhận được tờ bẩm
của Vũ Văn Hoạt và Nguyễn Nhã bọn chúng thấy rõ sự khó khăn trong việc thi hành
bằng đường hành chính. Chúng liền quyết định dùng vũ lực giúp bọn tay sai thực
hiện cho được những dự định trên. Trước hết để giữ cho nội bộ chúng được nhất
trí, tránh những ý kiến nhỏ nhặt trái nhau giữa Nhà chung và quan cai trị, tướng
Bờ-ri-e đờ Lin bàn với Thống tướng Đờ Cuốc-xy, chuyển đổi Bôn-nan làm Chánh
công sứ Hải Phòng, vì ở đây Bôn-nan thường làm trái ý cố Phước. Chúng giao cho
Ha-le tạm quyền. Bờ-ri-e đờ Lin ký thêm nghị định, căn cứ theo tình hình chiến
sự của Bắc kỳ bắt Tổng đốc Hà Ninh và Công sứ Hà Nội phải thi hành bằng được bản
án trừng phạt làng Phúc Tô. Tuần phủ Lê Đĩnh mới bổ về phải đích thân đi xử quyết
bản án. Lê Đĩnh đem lính tập của tòa Hiệp lý, đến vây bắt 16 người hương chức kỳ
mục về giam lại, và cho lính đi từng nhà bảo dân phải rời đi nơi khác. Chúng
gia thêm hạn cho một tháng, tất cả mọi nhà đều phải dỡ dọn đi, quá hạn ấy quân
lính Pháp sẽ đến phá hủy hết, hàng ngày lính cơ và lính tập đến đóng ở đầu làng
trông coi cho dân thu dọn gồng gánh rời đi, chỉ trong mười ngày cả một thôn hơn
một trăm nóc nhà đã bị phá hủy đi thành bình địa, tre gỗ, gạch vụn vất bừa bãi
ngổn ngang, đúng như bị giặc phá. Mà đây lại bị giặc công nhiên phá phách dưới
sự đôn đốc của quan tỉnh huyện dựa theo pháp luật của nhà vua. Chỉ còn trơ cái
đình Tô Mộc to lớn bị giữ lại để sung công. Một số bà con trong làng bực tức
kéo ra toan phá dỡ đình bị lính bắt giải vào giam ở nhà lao tỉnh. Những người
này cùng với những hương chức không chịu nộp phạt, mấy hôm sau bị lùa lên Bắc Lệ
làm phu mở đường cho giặc Pháp tiến quân bình định vùng Cao Bằng, Lạng Sơn.
Một tháng sau, sang đầu năm Bính Tuất (1886) quang cảnh hồ đã
toang hoang khác hẳn. Đường bờ hồ mở rộng từng đoạn. Làng Phúc Tô không còn nữa.
Đứng ở bờ hồ trông thông thống đến mãi chân tre chùa Linh Quang. Thấy rõ khu
nhà thờ lớn đang làm, từ chỗ nhà thờ một con đường lớn đã thành hình, chạy thẳng
đúng vào đường Bờ Hồ tạo thành ngã ba Bờ Hồ Tự Tháp. Cái khu đất rộng quang đã
được cắm cọc chia thành từng ô. Đây đó đã có những đống gạch, đống tre xếp gọn.
Đình Tô Mộc đã trở nên sở Lục lộ thành phố trực tiếp trông coi việc mở phố dựng
nhà. Ở đâu đánh nhau, súng đạn... Mặc! Ở đây có quân đội Pháp và những công sở
của Pháp đóng vây quanh, thì ở đây việc xây dựng sửa sang cứ tiến hành khẩn
trương đều đặn, sao cho thật ngăn nắp, khang trang thoáng đãng, cho xứng đáng với
nền văn minh rực rỡ của nước Đại Pháp “bảo hộ” và cho thêm sáng danh đức Chúa
Giê-su trị vì các nơi và đang mở nước ở đây. Tên Tham biện chủ sự sở Lục lộ
thành phố luôn luôn có mặt ở nơi đang mở mang này để đôn đốc mọi công việc, đã
có lần nhắc lại ý tên Phó lưu trú toàn quyền Pa-rô (Parrau) cho những nhân viên
và thợ thuyền biết:
– Mở mang thế này cũng là một cách chiến thắng. Mà đây là chiến
thắng lâu dài, vĩnh cửu của người Pháp chúng ta. Nhân dân các làng ở đây mấy
năm trước bị vua quan bỏ mặc, nay bị bọn quan lại mới cúi đầu theo lệnh đàn áp
ép buộc, thúc bách, nên cứ bị thua hoài, cứ lui dần. Trước hết phải kể ông cử
Vũ Thạch Nguyễn Huy Đức, một người đã mở trường ngay ở làng đạo tạo ra nhiều sỹ
tử, nhưng vốn chỉ biết mũ ni che tai, nay đã phải đội mũ ni về làng Hạ Thái huyện
Thanh Trì, bỏ mặc cái trường học bề thế ở đầu làng kia cho giặc Pháp dỡ đi mở
phố. Ông đành cứ mũ ni che tai, khuất mắt khôn coi, không nghe không biết chi cả,
nhưng bọn Pháp lại đưa ông ra làm bung xung để dọa dân.
- Đấy chúng bay coi. Ông Cử thầy học của các ông quan An Nam
tao còn phải bắt đi, nữa là ngữ chúng bay! Liệu đấy! Do đấy những người muốn
yên thân và hám lợi ngả theo dần. Mà ở phường phố thì cũng dễ có hạng người như
thế. Họ ngóng trông bắt chước nhau. Làng Cựu Lâu bên kia hồ còn lèo tèo mấy
nhà. Thấy trường ông Cử đã dỡ đi, cũng đành đến tòa Hiệp lý xin lĩnh tiền phát
hoàn về cuốn gói đi nơi khác. Làng Yên Trường sở tại của tòa Hiệp lý được gần lửa
rát mặt, sáng tỏ hơn ai. Một số người được quan trên cho là bướng bỉnh bất trị
đã bị đưa đi làm phu mở đường. Còn những người khác được tòa Hiệp lý cho nhân
viên đến từng nhà trả tiền, trừ đi một số tiền trả công cho lính ra dọn giúp.
Như vậy là đường lớn Bờ Hồ đã mở rộng đến đền Bà Kiệu. Còn những làng Trừng
Thanh bên này, Cổ Vũ, Bảo Khánh, Tự Tháp bên kia đường lớn chưa mở được, vì ở đấy
dân vẫn bướng không chịu rời bỏ đất của họ. Cuộc tranh chấp còn đang giằng co.
Bọn Pháp bèn thay đổi sách lược. Chúng không làm bừa làm mạnh như trước. Một mặt
bỏ thêm công thêm của vào sửa sang những nơi đã mở đã cắm được. Chúng trích
ngân quỹ chi ngay một lúc 25 vạn 5 nghìn quan tiền về khoản mở rộng và tu sửa bờ
hồ. Mặt khác chúng tạm hoãn với làng dùng âm mưu chính trị, lừa phỉnh và dụ dỗ,
chia rẽ, tìm cách trừng trị riêng những người có vẻ chống đối thực sự. Chúng
giao việc nham hiểm và khôn ngoan ấy cho Vũ Văn Hoạt và Nguyễn Nhã là hai người
vốn quê quán ở quanh đây thuộc thung thổ biết mặt biết người. Tòa Hiệp lý thành
phố, đại diện của chính quyền thực dân xâm lược, đã dàn quân sẵn sàng, có kế
sách rõ rệt, có những nước cờ đi đã tính toán trước để dồn đối phương vào thế
bí. Trong khi ấy dân làng vẫn khảng tảng, cứ nghe ngóng, mỗi người nghĩ một đường
thành ra nước đến chân mới nhảy cứ bước hụt và chạy giật lùi, luôn luôn trong
thế chống đỡ. Cho đến nay họ mới biết liên đới với nhau bàn mưu tính kế thì đã
muộn. Muộn nhưng sức liên đới cũng đã làm cho công việc mở mang của giặc Pháp bị
chậm trễ. Việc mở phố và làm đường đến Tự Tháp và Trừng Thanh phải gián đoạn
khá lâu. Việc liên doanh ký kết bắt đầu từ thôn Tự Tháp lan ra đến tất cả thôn
khác. Trước hết là do Tú Hài Tự Tháp nêu ra. Ông Tú thấy Pháp tạm đình việc mở
phố, lại thấy Nguyễn Trọng Hợp Tổng đốc Tam Tuyên vừa mới được cử quyền Kinh lược
đại sứ Bắc kỳ thay Nguyễn Hữu Độ lai kinh 8 liền nảy ra một ý dựa vào nhà thờ quan nghè
Tự Tháp mà xin với Nguyễn Trọng Hợp bênh vực cho được giữ lại. Nhà thờ mà đã được
để y nguyên thì đình chùa và đất của dân làng cũng theo đấy mà không bị triệt
phá. Nhưng trước hết phải bàn mưu với Ba Phách, thì cái ông ấm Ba này luôn vắng
mặt mấy tháng nay, ông Tú không gặp ở đâu cả. Ông vốn trọng cậu ấm Ba là người
có tài hay chữ, phóng khoáng, nhưng vốn nhút nhát yên phận, ông không dám theo
đòi tham dự vào những công việc của cậu làm mà ông cho là táo bạo, liều lĩnh,
ông chỉ thỉnh thoảng góp của thôi gọi là cũng có chút hằng tâm hằng sản với đời.
Ông vẫn ung dung làm theo ý mình, không bao giờ chịu ngồi đàm luận lâu với cậu.
Lần này thì là nước cờ cuối cùng nếu không có cậu ấm giúp vào thì có thể không
xong, mà không xong thì cơ nghiệp nhà ông cũng tan nát, vừa mất của vừa bẽ mặt,
giá hẳn là người chống đối từ đầu cho nó cam. Cho nên ông lùng đi tìm cậu ấm.
Ông cả vốn biết tính em bất đắc chí hay làm những việc vượt pháp nên ông chỉ ầm
ừ cho qua chuyện không mách bảo ai, dù ông có biết đích xác em ông ở đâu chăng
nữa. Huống chi lần này ông cũng không biết rõ hành tung của em! Ông Tú đi hỏi
các nhà quen. Lúc này mọi việc đều dồn dập quá, quan nói quan phải, dân nói dân
hay. Chẳng ai tin ai. Khó phân phải trái, nên chẳng ai để ý biết cậu ấm đi đâu.
Và có người nói cậu nhập bọn với Tư So, có người lại nói cậu xuống bãi Sậy với
quan Tán Đông. Cũng rất khó tin. Mà dù đúng ra nữa, thì ông Tú đâu có dám mò
vào đấy mà tìm. Cuối cùng ông đến thăm ông cử Kim Cổ ốm, mong mỏi may tìm được
manh mối. Ông Cử mệt không ngồi dậy được, không nói năng được. Học trò và khách
khứa đến đông. Người ta nhắc đến cậu ấm Phách. Ông Tú gợi chuyện ngay có ý dò
la tin tức.
Một ông nói ngay:
- Tìm người như thể tìm chim, chim ăn bể bắc đi tìm bể đông.
Gặp thế nào được. Mình đến thì người ta đi rồi, nhưng ông cứ nán đợi, được tin
thầy tôi mệt nhất là thầy tôi có mệnh hệ nào thì cậu ấm Ba cũng về.
- Muốn gặp ngay kia chứ, đợi thì đến bao giờ. Bác đồ Phúc Lâm
có biết à? Ông Tú hỏi và trông theo người kia.
- Ra đây! Ông đồ vẫy tay gọi rồi kéo ông Tú ra hè. Ông nói sẽ.
Ông cụ mệt lắm rồi. Không lâu đâu, cũng đang muốn đi nhắm mắt là vạn sự
hưu 9 . Ông Tú liền nói ý định của mình và nhấn
mạnh:
- ... Ấy các thôn chúng tôi đã bàn thỏa thuận cả rồi. Chỉ cần
cậu ấy vin vào nhà thờ quan Nghè mà cùng với dân vào xin cụ lớn Kim Giang. Chả
cụ lớn là học trò quan Nghè mà lại là Kinh lược đại thần, thế nào mà chả được
vì thế mới cần...
- A thế tốt. Ông đồ Phúc Lâm nói. Làng tôi chúng nó cũng đang
đuổi. Các thầy làm đơn trình đi, có được để chúng tôi làm theo. (Ông hạ giọng
nói khẽ). Vậy để tôi mách nhé. Kín đấy, cậu ấy đang coi thuốc cho chị Hai Phúc
làng tôi đấy. Chị ấy ốm đến mấy tháng nay. Tội nghiệp thằng cháu Hiển, nó theo
anh nó đi xa ở nhà chỉ có chị ấy với thằng Đạt còn phải đi làm nuôi mẹ, nên cậu
ấy ở đấy vừa bốc thuốc vừa sắc thuốc cho chị ấy.
- Ở ngay Phúc Lâm ấy à? Sao không ai biết.
- Không, cháu Hiển nó đi ra ngoài kia mẹ con chị ấy sợ đã dọn
xuống quê ngoại Vân Hồ từ năm kia cơ mà. Vả còn nhiều tình tiết lắm, ông bạn cứ
xuống đấy rồi sẽ rõ. Đừng bảo tôi mách nhé!
- Được, cốt sao được việc của tôi, tôi không nói!
Ông đồ Phúc Lâm cười hì hì hạ giọng nói nhỏ vào tai ông Tú.
- Làng Vân Hồ, xóm Đình hỏi thăm nhà ông Hai Đệ, rồi hỏi nhà
bà Hai Phúc. Ở ngay bên cạnh ấy.
- Được rồi! Thế để tôi đi. Thôi chào ông nhé.
Tú Hài chào mọi người, rồi tất tả vào nhà lấy nón đội đi thẳng
xuống Vân Hồ. Xóm Đình nhỏ ở xa tách hẳn xóm Chùa. Nhà ông Đệ lại ở mãi trong
xóm hẻo lánh ít người qua lại. Đến đây đi qua vườn cau của ông Đệ đến mảnh vườn
con nhà bà Hiển. Tú Hài được ông Đệ dẫn đi qua vườn cau trông thấy ấm Phách
đang vun ngô cùng với một cậu bé độ 14, 15 tuổi, không đợi đến giáp mặt đã nói
oang oang.
- Này thầy trò làm gì vậy? Định đi trốn biệt tăm à?
Ấm Phách đứng chống cuốc trông ra hỏi sững sờ:
- Ai cho vào đây mà vào?
- Ông ấy hỏi thăm đến nhà tôi, nhờ tôi chỉ sang nhà cô Hai,
nên tôi dẫn ông ấy sang. Ông Đệ nói đỡ lời ông khách.
- Ông Cử mệt nặng mà cậu không về thăm à? Tú Hài hỏi.
- Ông cụ ấy có chết thì tôi về, cậu ấm Phách đáp, giờ còn phải
bới đất nhặt cỏ tìm cách cứu cơ đã, ông cụ nhờ bác đi tìm tôi à?
- Không, tôi thân đến tìm anh, có việc cần, vào nhà ta nói
chuyện, cậu này là học trò đấy à?
- Không chú em tôi đấy, ấm Phách đáp, nhưng này việc gì vậy?
Công hay tư hay là ông ấm Cả nhà tôi nhờ bác xuống thuyết phục.
- Cả công lẫn tư, nói hơi dài dòng. Để mình anh ấy làm cũng
được. Tôi phải ngồi nói lâu lâu kia.
Ấm Phách liền đưa khách vào nhà liền ngay đấy, ba gian nhà
tranh vách đất nhưng gọn ghẽ. Ông Tú ngồi vào cái giường tre kê liền với cửa sổ
phía tây trông ra vườn rau, hỏi ngay:
- Vườn cậu giồng đấy à? Định ẩn tích điền viên thật à?
- Chứ còn gì nữa, còn muốn phong trần ngoại vật 10 nữa kia.
Ấm Phách vừa nói, vừa chạy rẽ xuống bếp:
- Long đong nào có ra trò trống gì.
- Ấy vào đây đã, ông Tú gọi giật, chưa thể là ngoại vật được.
Tôi biết ý cậu rồi, nhưng việc này rất cần, tôi thân đến đây cố lôi cậu ra,
không cho cậu trốn đâu, cậu mà trốn tôi phá.
Ấm Phách vội hỏi:
- Gì mà ghê gớm thế?
Tú Hài nói thẳng ngay vào việc, nói rõ mọi người đều thỏa thuận
cách thức đã bàn xong, giấy tờ đã làm sẵn cả rồi, chỉ còn chờ có cậu.
Ấm Phách ngồi xuống giường nói ngay:
- Những cái ấy tôi chả thiết gì, bác ạ, mà sao trước kia tôi
rủ bác đánh Tây, bác chỉ ư hữ, bây giờ Tây thắng, tôi thua, bác lại đến bảo tôi
đi lạy lục. Bác định chửi mát tôi chứ gì? Nước mất nhà phải tan đó là lẽ tất
nhiên, bác còn nói gì nữa.
Ông Tú vội nói chữa, chống chế:
- Không, không tôi đâu dám thế. Tôi chỉ nghĩ rằng nỡ nào cậu
bỏ từ đường cụ lớn, nhà phải dỡ đi. Còn nước còn tát chứ. Và bây giờ có cụ lớn
Kim Giang làm Kinh lược là học trò cụ lớn nhà. Tất nhiên nhà thờ cụ lớn mà giữ
lại được, thì đình chùa nhà đất của dân làng cũng giữ lại được thế là làm một
việc báo đức tổ tiên, mà lại làm phúc cho dân.
- Sao bác không bảo anh tôi?
- Cậu ấm Cả bảo đi tìm cậu. Vả có cậu thì cụ lớn Kim Giang mới
nể, cậu ấm Cả bảo thế.
- Nể gì? Lão ấy nó ghét tôi khinh khỉnh, nó bảo tôi nghe dại
đi quấy rối nói sằng, hại dân, đời nào muốn trông thấy mặt tôi.
- Ấy! Tú Hài reo lên. Như thế bây giờ từ đường thầy mà cậu ký
tên vào và đến xin thì lão ta mới vui sướng giúp mà đỡ ngượng. Cậu vì hiếu với
gia đình mà đến, lão vì nghĩa với thầy mà xin cho. Lão ta sướng mê đi chứ. Còn
cậu thì cũng chả mất gì lời chào hỏi.
- Để tôi còn nghĩ kỹ đã, bác cứ ngồi chơi đây tôi bảo đi đun
nước uống đã.
Tú Hài sợ để ấm Phách suy nghĩ lại lảng ra mất, vội cầm tay
kéo lại và lựa lời nói khích.
- Khoan khoan bàn xong đã, chưa cần uống, tôi biết thừa cậu
thất chí thất tình thành chán đời, không thiết gì nữa. Cậu bẽ vì con Xuyến nhà
Thương Kim nó nói mỉa mà bỏ đi, không nghĩ gì đến nhà thờ cha mẹ tổ tông thì
càng tổ người ta cười cho. Việc nhà cũng như việc nước, mình lo lắng hết mưu kế,
mà không xong là tại đâu đâu chứ không phải tại mình. Nước mất, ai ai cũng oán
trách vua quan, chứ nào có ai dám nói xấu gì cậu. Bây giờ việc nhà mà cậu bỏ mặc
ông anh, thì người ta chê thật đấy.
Cậu ấm lại ngồi xuống giường hỏi:
- Thế thì bác muốn tôi phải làm gì?
- Muốn cậu về họp với bà con dân làng ký vào đơn chung, rồi
nhờ cậu đệ vào cụ lớn Kinh lược. Ý bà con muốn thế, ý cậu Cả cũng muốn thế, nên
mới sai đi tìm cậu.
Ông Tú nói một mạch như đã lôi kéo được kẻ đối thoại.
Cậu Ba im lặng một lúc rồi mới nói.
- Tôi ký tên thôi, còn vào nhà Kinh lược xin để ông anh tôi.
- Vâng cũng được, Tú Hài trầm ngâm nhìn cậu Ba, vừa nói vừa
có vẻ suy nghĩ. Nào ta đi thôi!
Cậu ấm Ba vội đứng lên giơ hai tay giữ ông Tú lại và nói:
- Trưa rồi, ở đây tôi bảo làm cơm ăn đã. Ngoài việc này ra
còn nhiều chuyện khác nữa. Tôi sẽ khảo bác một mẻ.
Cậu quay ra đến cửa còn bước trở vào nói:
- À hôm nay mười tư, bác ở chơi đây, tối tôi với bác ta cùng
lên chùa Bà Đá. Bảo sư cụ bắt đền cố Lan giữ chùa cho 11 nhân thể nhờ sư cụ nói giúp cho cả làng một
thể.
- Ừ cũng được. Tú Hài đành phải nghe theo, đáp gọn. Ngần ngừ
một lúc ông hỏi thêm có ý thóc mách:
- Có phải chui đầu vào bếp không? Chưa có nội trợ để tôi xuống
giúp một tay.
- Vẫn chui đầu vào bếp đấy chứ, nhưng ít lâu nay vào bếp sắc
thuốc hộ, cậu ấm vui vẻ đáp, khắc có cơm ngon canh ngọt.
- Bác cứ yên chơi. Coi đây cũng như là nhà của tôi.
- Vâng tôi biết, nhưng nói thực với cậu, cậu có muốn bảo tôi
làm gì giúp vào chuyện trăm năm lá thắm chỉ hồng này, tôi xin làm ngay, xin ký
cả hai tay.
- Được lắm, cậu ấm cười, đứng lại nói. Khi nào bà Hai tôi đây
khỏi, sẽ mời bác đến uống rượu mừng.
Chiều tối hôm ấy hai người đến thẳng chùa Bà Đá, chiều trời
tháng ba mát đẹp, tháng ba là tháng hội hè. Mọi khi tháng này ở vùng này, các
đình chùa mở hội nhộn nhịp. Ở chùa Bà Đá thiện nam tín nữ lui tới lễ Phật đông
vui. Năm nay khu bờ hồ bị triệt phá mở phố, còn một mình chùa ở phía bên này
thôn Tự Tháp đứng trơ vơ như ở giữa cánh đồng hoang. Khách trên phố ít xuống, cảnh
chùa vắng vẻ, lơ thơ mấy tín lão quanh thôn xóm. Các già đang xúm xít. Hai người
đi qua miệng đọc “A di đà phật” chào các già rẽ sang lối ngang tiến thẳng vào
phòng trai của sư cụ. Một sư ông ở trên chùa chạy theo nhận ra Tú Hài hỏi ngay:
- Ai đi trước thế. Cụ tôi hơi mệt.
- Cậu ấm Ba đấy, ông Tú đáp.
- Cụ mệt cũng xin vào hầu. Chào sư ông, ấm Phách chào và vào
luôn. Sao hôm nay tuần mà chùa vắng thế?
- Tây nó đuổi làng xây nhà thờ, lừa ngựa đi lại rình rịch suốt
ngày, còn ai muốn đến, sư ông vừa nói vừa đi vượt lên trước. Ba người cùng bước
vào trai phòng. Sư ông khêu to bấc đèn ở đĩa đèn đặt trên cây đèn đồng soi sáng
khắp gian phòng. Sư cụ đang tĩnh tọa trầm lặng ở một góc giường, ngẩng mặt lên
nhìn ra hỏi:
- Ai đấy?
- A di đà phật. Bạch cụ ạ! Hai người cùng chào trong khi sư
ông trả lời sư cụ:
- Thầy Tú Hài và cậu ấm Ba đấy ạ?
Sư cụ bỗng hoạt bát hẳn lên, nhổm dậy và nói:
- Thầy và cậu ngồi chơi trường kỷ tôi ra đấy.
- Bạch cụ, cụ mệt xin cụ cứ ngồi yên. Chúng tôi xin vào gần đấy
thăm cụ và hầu chuyện. Cậu ấm nói.
- Không sao, sư cụ đã đứng lên xỏ chân vào dép, vừa nói, mệt
tâm, mệt ý, mệt thần, chứ người có mệt lắm đâu. Nhưng này, sao mất mặt mấy năm
nay không lai vãng đến đây?
Sư cụ đã đi ra đến trường kỷ vịn tay vào thành kỷ nhìn ấm
Phách cười, cậu ấm cũng cười đáp:
- Long đong như thư kiếm bất cố gia 12 , mọi việc không thành, nay đành trở về
xin núp bóng từ bi.
- Bóng từ bi bây giờ cũng dãi nắng lắm rồi, sư cụ đã ngồi vào
trường kỷ nói với vẻ tư lự. Đấy cậu xem đấy, bây giờ thông thống từ hồ vào đến
đây, không còn cái gì của ta nữa. Ruộng nhà chùa ở Phúc Tô bị mất cả, tre pheo
và cả chùa họ cũng sắp bắt phá đi. Đành rằng đi nơi khác nhưng địa linh nhân kiệt 13 chứ.
- Đất có đẹp đền mới thiêng, chả thế mà nhà xứ chiếm nền tháp
làm nhà thờ. Rõ ngán quá!
- Thế cụ mới dại, ai bảo cụ đi cứu bọn đồ Nhà chung ấy. Để mặc
cho Cờ đen họ giết quách đi cho mình, có phải bây giờ ở đây đỡ phải chịu cái tụi
ngồi bới lông tìm vết bày vẽ ra mọi mưu thâm chước độc để đuổi chúng ta đi, đuổi
cả cụ đi. Chính do tụi ấy, mà tụi Tây mới đến được đấy...
Thấy ấm Ba nói trêu sư cụ quá, sợ lỡ việc, Tú Hài phải nói chữa:
- Bạch cụ, cậu Ba muốn trêu cụ một tí thế thôi. Chứ bản tâm
chúng tôi đến đây cũng muốn nhắc lại cái chuyện cũ ấy để nhờ cụ đứng ra xin cho
cả dân làng.
Sư cụ càng không hiểu hỏi sửng sốt:
- Sao! Tôi làm gì được kia chứ?
- Bạch thế này ạ! Tú Hài giãi bày thong thả. Dân mấy thôn xã
chúng tôi họp nhau xin giữ lại đình chùa và nhà ở. Nhờ có từ đường quan Nghè, lại
nhân có cụ lớn Kinh lược là môn sinh quan Nghè dân chúng tôi chắc có thể xin được,
liền cử tôi đi tìm cậu Ba mò mẫm mãi mới vớ được đấy cụ ạ. Cậu ấy bảo cụ có ơn
với Nhà chung, nên đến bàn với cụ, nói với Nhà chung giữ chùa lại cho, hai bên
cùng làm, có được thì được cả. Ấy sự thể là như thế.
- À! Sư cụ thở mạnh một tiếng, vui vẻ nói giục sư ông. Sư thầy
bảo chúng nó đưa nước nóng. Xem có lộc đem ra đây các thầy thụ trai 14 rồi ta nói chuyện.
Tú Hài vội đỡ ngay:
- Vâng cụ bắt ngồi hầu chuyện cụ thì xin vâng. Bạch cụ nhưng
ý cụ thế nào?
Không trả lời, sư cụ nói sang chuyện khác.
- Cụ Cần bên Nhà chung vừa mới đưa sang cho tờ văn chiêu dụ của
ông Toàn quyền mới đến ở Hải Phòng. Ông ta bảo quan Toàn quyền nói rõ cho dân
chúng An Nam biết nước Pháp rất trọng phong tục An Nam, việc thờ cúng đình
chùa, miếu mạo vẫn giữ nguyên như cũ. Sư thầy đâu? Đem tờ giấy ra đây cho cậu
Ba xem.
- Thế thì hay, việc ta làm vừa dịp, Tú Hài nói.
- Phải, cậu ấm đủng đỉnh đáp. Thế mới cần phiền đến sư cụ. Sư
ông ở phòng bên đưa ấm tích đựng nước sang và chuyển tờ giấy tây cứng có sao
bài dịch ra chữ nho, bài nói chuyện của Toàn quyền Bôn-be (Paul Bert) ở Hải
Phòng ngày 8-4-1886 và nói như đọc:
- Đây lời kính cáo dân, quan, sỹ, thứ An Nam cử ông Bôn-be Tướng
công Trung Bắc lưỡng kỳ lưu trú toàn quyền đại thần, cậu ấm xem, lời rất trang
trọng.
Tú Hài giơ tay đỡ lấy ấm nước rót ra chén, ấm Phách đón tờ giấy
lật xem ngay và nói:
- Lại lời lời trân trọng lời lời mến yêu nhưng mà...
- Nhưng mà sao! Kệ nó, sư cụ gật gù nói, ta cứ vin vào lời nó
mà tiến hành mưu của ta như cậu Ba và thầy Tú vừa nói.
- Mưu bác Tú đấy, chứ không phải tôi, cậu ấm nói. Thế sư cụ
cũng định hùa theo để xúy xóa chuyện cũ đó chăng?
Tú Hài lại phải nói chữa để lấy lòng sư cụ:
- Con cháu nhà Phật cụ từ bi quảng đại. Cụ thương người, cụ
có ngờ đâu bọn bạch quỷ nó vô ơn bội nghĩa, nó hại cụ, cụ nhỉ, chứ lòng cụ bao
giờ cũng thương xót chúng sinh.
Sư cụ cười, ấm Phách đang nhẩm đọc nói:
- Nhưng mà bọn bạch quỷ nó có thương cụ đâu nhỉ, giọng lưỡi
thằng Bôn-be này cũng chỉ thương miệng thương môi thôi, cũng tuồng Đồ Phổ Nghĩa
cả thôi.
Sư ông đứng lên nói ngay:
- Đồ Phổ Nghĩa cũng lại đến đây, nó cùng đến với Bôn-be lên
đây hôm qua. Tụi Tây đón to lắm. Những 19 phát súng đại bác chào inh lên đấy.
- Đồ bất nghĩa đến lại có nhiều chuyện bất nghĩa cho mà xem.
- Không, Đồ Phổ Nghĩa bây giờ có nhà có đất rồi, sư ông nói,
nó tử tế chứ không như trước đâu. Hôm qua nó đến thăm khu đất mới của nó ở đây,
nó chào hỏi dân ta lễ độ lắm. Cả khu ruộng đất làng Phúc Tô bây giờ cắm cho Nhà
chung một nửa khoảng phía tây. Còn một nửa chia cho Đồ Phổ Nghĩa già nửa, và
Nguyễn Thị Sen và chủ Khách chủ thầu Nguyễn Tăng Sơn một ít, Đồ Phổ Nghĩa và
Nguyễn Tăng Sơn đã cho khởi công xây dựng nhà hai tầng đấy.
- Thế có phải rõ ràng nó cướp đất của ta không nào. Ấm Phách
hỏi có vẻ tức.
- Vì thế chúng ta mới phải lo giữ lấy. Tú Hài nói.
Sư cụ cũng nhanh ý muốn tránh nhắc lại việc cũ cũng nói.
- Phải! Phải! Nhân có ông Bôn-be mới sang đã nói tất phải giữ
lời làm tin. Ta đồng dân thiên hạ đồng đứng ra mà xin là phải được, lại có thế
của quan Kinh lược và các cố Tây.
Thấy ấm Phách ngồi im, Tú Hài vội hỏi để giục đồng tình.
- Thế nào cậu Ba? Cụ dạy phải đấy, ta làm theo chứ?
- Cũng được. Ấm Ba nói thong thả. Nhưng tôi chỉ ký thôi đấy
còn lên trình quan Kinh lược tôi không lên đâu: Có cần thì mời anh...
- Được rồi cậu cứ ký cho đã, ông Tú vội vồ giựt ngay lấy. Khi
nào cụ lớn Kinh lược muốn gặp cậu, chúng tôi lại sẽ đi tìm.
- Gớm thầy Tú làm như không có cậu Ba là cụ lớn không cho. Sư
ông nói xen vào. Được hay không là còn ở như thằng Tây chứ, cho nên việc trước
nhất là phải bàn, ta phải làm đơn như thế nào rồi cậu Ba tôi mới ký chứ nhỉ?
- Sư thầy chớ nói leo, sư cụ mắng, việc can hệ chớ có nói
quàng nói xiên mà lỡ việc. Bụng cậu Ba như bể, cậu tự có chủ định, không phải
ai cũng nói kháy được.
Quay sang với ấm Phách, sư cụ nói ôn tồn từ tốn:
- Cậu Ba ạ! Đã đến nước này, bỏ đi đâu thì thôi, chứ còn nhớ
đến nhà đất ông cha thì ta cũng cứ làm đơn xin cho nó hết nhẽ. Sau này nếu
không được thì là tại họ, chứ không ai đổi lỗi tự ta không xin.
Mà xin cũng ba bảy đường xin. Ta đòi chứ ta không thèm xin.
Nhân có lời của lão Bôn-be đấy, ta vin vào đấy mà đòi, chúng phải tôn trọng
phong tục ta, không được triệt phá từ đường, chùa đình nhà cửa của làng ta. Thế
thì cái đơn thầy Tú đọc cho tôi nghe hôm nọ ấy chưa được đâu. Phải chữa lại
thêm lời ông Bôn-be vào rồi lấy chữ ký lại, cậu Ba ký, tôi ký, thầy Tú ký, mọi
người cùng ký, làm ra nhiều tờ gửi tòa Hiệp lý, gửi quan Kinh lược, gửi quan Tổng
đốc. Và dịch cả ra quốc ngữ, chữ Tây gửi cả cho quan Công sứ, gửi cả cho ông
Bôn-be. Đã làm thì làm cho ra trò. Cần viết ra chữ Tây tôi đi mượn cho. Sư cụ
nói một mạch, rắn rỏi hào hứng như người cường tráng, ba người ngồi nghe đều tỏ
vẻ khen phục và lấy làm mừng sư cụ đã khỏe mạnh. Cậu ấm Ba nói với vẻ chân
thành:
- Bạch cụ, cụ nói còn hay hơn lão Bôn-be, mà tín nghĩa thì vượt
lão ta nhiều. Nó chỉ có mẽ, miệng nam mô bụng một bồ dao găm. Còn cụ mới thật
là từ bi quảng đại như bác Tú vừa nói. Cho nên tôi cũng vui lòng xin ký theo cụ,
và cũng xin theo ý cụ phải dẫn lời lão Bôn-be vào trong đơn.
***
Mấy hôm sau đơn đã viết thành nhiều bản gửi lên tòa Hiệp lý,
lên quan Tổng đốc, quan Kinh lược. Sư cụ chùa Bà Đá đã nhờ người viết ra chữ quốc
ngữ, và nhờ một người thông ngôn người Sài Gòn đem gửi thẳng lên quan Công sứ
Hà Nội, và lên quan Toàn quyền Bôn-be tướng công. Người thông ngôn này mộ Phật
thường lui tới chùa, biết rõ chuyện sư cụ đã có công cứu các cha cố bên Nhà
chung liền làm thêm một lá đơn riêng của sư cụ, nhắc lại ơn ấy để làm đà xin giữ
nguyên cảnh trí ngôi chùa. Đơn đã gửi đi xong xuôi cả rồi.
Mọi người yên trí chờ đợi. Bẵng đi hơn hai tháng giời không
thấy tòa Hiệp lý nói đến việc mở thêm đoạn đường Bờ Hồ nữa. Sở Lục lộ chỉ chú
trọng mở to rộng đường phố Tràng Tiền ra trường Tây, đường phố nha Kinh lược,
đường phố Nhà chung tới nhà Thánh Giô-se đang làm và mải xây dựng nhà của khu vực
ấy. Mọi người càng tin rằng những lá đơn gửi lên quan trên đã được xét đến vì
có đủ tình đủ lý lại được viết ra chữ quốc ngữ, chữ Tây nên chỉ ông Bôn-be ông ấy
hiểu ngay, đúng ý với ông ấy, ông ấy phải ưng chứ. Nói lời phải giữ lấy lời thế
mới là quân tử nhất ngôn, người trong mấy làng hý hửng mừng thầm, và cho rằng
các quan Tây sẽ chỉ mở mang ở khu vực có đường sắt xe chạy nối từ trường Tây
vào đến thành, là những nơi mà dân cư đã chạy đi từ trước. Những người đứng đầu
ký vào đơn càng thêm mừng hơn, nhất là bỗng cùng một hôm cậu ấm Ba Tự Tháp được
mời vào nha Kinh lược thì ông Tú Hài cũng được Thọ Xương cho lính đến tận nhà mời.
Ông Tú vui thích đi ngay. Đến nơi ấy thấy huyện Nhã vui vẻ ra tận sân đón chào
ông càng thêm tin việc làm của mình đã đến ngày trông thấy kết quả, có thể kể
công được với dân làng. Huyện Nhã mời ông vào phòng khách ở công đường đon đả
nói:
- Xin mừng thầy Tú công danh hoạnh phát thăng quan tiến chức.
- Dạ thưa quan lớn dạy gì ạ? Tú Hài chưa hiểu vội hỏi.
- Xin mời thầy ngồi chơi xuống ghế này đã. Huyện Nhã đẩy ông
Tú ngồi xuống chiếc ghế bành đối diện với mình.
Rồi lão đứng lên đi lại chỗ yên thư ở gian bên lấy một tập giấy
đem đến, lại ngồi xuống ghế, mở ra tìm lấy ba tờ với vẻ thong thả từ tốn rất
khoan thai đĩnh đạc, làm cho ông Tú càng thêm sốt ruột, đồng thời thêm tin tưởng.
Lão mở từng tờ một bày lên bàn và nói thong thả rành rọt.
- Quan Toàn quyền Bôn-be lai kinh bệ kiến 15 đã xin với đức Kim thượng 16 trao hẳn mọi quyền hành ngoài Bắc này cho
quan Kinh lược đại sứ, và lập ở ngoài này một viện Hàn lâm. Đây tờ này là chỉ dụ
của Kim thượng ban xuống trao quyền ngày mồng 3 tháng 5, năm Đồng Khánh nguyên
niên đã được quan Toàn quyền ký cho ban hành ngày 20 tháng 6 năm Thiên chúa
giáng sinh 1886, tờ giấy Tây một bên chữ quốc ngữ một bên chữ nho này là tờ nghị
định của quan Toàn quyền Bôn-be ký mới có mấy ngày hôm nay, ngày 2 tháng 7 năm
Thiên chúa giáng sinh 1886, tức Đồng Khánh nguyên niên tháng 6 ngày 3 này cho
thành lập viện Hàn lâm Bắc kỳ do chính quan Toàn quyền Bôn-be đứng đầu chủ tọa
mọi cuộc họp và cụ lớn Kinh lược làm phó, điều thứ hai ấn định số các quan Hàn
lâm nhiều nhất là 20 vị đều do quan Kinh lược đại thần đề đạt và quan Toàn quyền
đại thần chuẩn định. Và đây tờ giấy chi chít dấu son vuông và tròn này có chữ
ký của quan Toàn quyền đại thần Bôn-be tướng công, là tờ giấy chứng chỉ của thầy
làm quan viện Hàn lâm...
Huyện Nhã đứng lên, hai tay nâng tờ giấy đặt trước mặt Tú Hài
khẽ cúi đầu chào, nói một cách trịnh trọng trước khi ngồi.
- Bản chức xin kính mừng quan Hàn lâm mới, thưa quan lớn đây
mới là giấy nhận tạm quan Kinh lược đạt đến quan lớn, còn rồi sẽ có bằng in lưỡng
long triều nguyệt 17 rất đẹp do chính tay cụ lớn Kinh lược
phát cho quan lớn. Đó cũng là nhất tự cách trùng 18 xin mừng quan lớn.
Tin đột ngột bất ngờ quá, Tú Hài không kịp suy nghĩ đến lợi hại
vội hỏi bâng quơ:
- Thưa quan lớn, sao lại là viện Hàn lâm Bắc kỳ. Không phải của
triều đình à? Và những ai được cử vào đấy?
Huyện Nhã tựa lưng vào ghế bành cười khà khà nói:
- Quan tân chế độ tân quan lớn ạ. Đức Kim thượng đã trao mọi
quyền ngoài này cho quan Kinh lược, thì cái viện Hàn lâm Bắc kỳ, cũng giống như
viện Hàn lâm của triều đình chỉ hơi khác là các quan hoàn toàn là người Bắc kỳ
cả, để giúp cụ lớn Kinh lược. Và đều là những bậc danh vọng.
Huyện Nhã cúi xuống mở tập giấy ở bàn tìm lấy một tờ cầm giơ
lên đọc vừa nói:
- Có các quan Hoàng giáp Văn Lộc, Nguyễn Tư Giản, Tam nguyên Quế
Sơn Nguyễn Khuyến, nguyên Kinh lược phó sứ Châu Giang Bùi Dị... và huyện ta có
quan thương Hoàng Trọng Kỳ, quan thương Bùi Khánh Diễn và quan lớn.
- Thưa quan lớn, sao huyện ta không đề bạt hai quan cử Vũ Thạch
và Kim Cổ. Tú Hài hỏi.
- Còn phải do quan Toàn quyền chuẩn định chứ. Người Tây người
ta khôn lắm, chọn những người làm được việc chứ, còn cụ Kim Cổ thì già ốm rồi,
cụ Vũ Thạch thì mũ ni che tai có biết gì. Cho nên rất là vinh dự cho quan lớn,
sẽ được gặp quan Toàn quyền đại thần Bôn-be tướng công và ngồi cùng hàng với
ngài, người Tây người ta ngồi họp bàn đều ngồi ngang hàng. Bản chức chưa biết
bao giờ mới được diễm phúc ấy. Rồi như không muốn để Tú Hài có thì giờ suy nghĩ
và hỏi vặn lôi thôi, khó trả lời, Huyện Nhã nói chuyển ngay sang việc khác.
- Quan lớn ạ, còn về việc mở đường của thành phố quan trên bảo
vẫn cứ phải tiến hành, và phải làm cho bằng được, xong trước năm tây này, để cuối
năm còn mở hội đấu xảo 19 có nhiều khách vạn quốc đến. Quan Toàn
quyền đã ký nghị định cho mở đấu xảo vào cuối năm giáng sinh 1886, đầu năm 1887
này. Vì thế quan Toàn quyền mới ký thêm cho Nhà chung một kỳ đánh số rút thăm nữa
là sáu ngàn đồng để làm cho xong nhà thờ lớn đang xây dở. Người Tây người ta
quý cái hồ Hoàn Kiếm của ta lắm, người ta định mở mang thành nơi trung tâm của
thành phố, phố xá sẽ mở thẳng tắp như bàn cờ, ở chung quanh hồ. Quan Toàn quyền
Bôn-be lại là một quan văn thông thái, ngài tinh thông thiên văn địa lý, ngài định
dùng sức nước sông Nhị chế ra điện thắp sáng cả thành phố này. Dự định thì lớn
lao mà lợi cho dân cho nước không phải nhỏ. Mình là người sở tại thế tất mình
phải giúp đỡ công đức vào đấy cho nên tòa Hiệp lý cũng ủy cho tôi thưa lại với
quan lớn.
Tú Hài ngồi nghe thấy dài dòng hơi lâu sốt ruột vội hỏi:
- Thưa quan lớn, thế nghĩa là các quan trên cho tôi cái chức
Hàn lâm để bảo tôi thôi đi đừng xin xỏ giữ đất cát lôi thôi gì nữa có phải
không?
- Không phải thế, huyện Nhã cười nói. Quan lớn hãy nghe tôi
nói hết đầu đuôi đã, hai việc khác hẳn nhau. Tôi cho đó là vinh dự, còn quan lớn
có nghĩ khác quan lớn không muốn nhận thì xin tùy ý quan lớn, chứ việc mở phố lại
khác, Tây họ quyết là họ làm bằng được. Mình cưỡng cũng không được. Vả cũng lại
là lợi chung cho mọi người sau này. Bậc tuấn kiệt phải biết thời vụ. Thời vụ
lúc này là việc mở mang một nơi đô hội phồn hoa. Thế thì người ta nghĩ đến lợi,
mình cũng phải biết đến lợi chung. Quan lớn là bậc tuấn kiệt. Cho nên toà Hiệp
lý muốn nói rõ để quan lớn biết: việc mở phố vẫn cứ làm, còn số vườn đất nhà cửa
còn lại của ai vẫn là của người ấy, nếu có tiền làm nhà gạch như thành phố vẽ
kiểu thì tốt, bằng không có tiền làm thì bán lại cho thành phố, cho người Pháp.
Đối với quan lớn, tôi thiết tưởng quan lớn có thể bỏ tiền xây nhà, rồi mở hiệu
buôn bán với người Pháp. Như thầy tú Nam Phố đấy, phi thương bất phú quan lớn ạ.
Nhất là quan lớn lại có cả thế và địa lợi.
- Vâng, Tú Hài nói, thưa quan lớn, tôi cũng biết thế. Đối với
tôi không sao, nhưng như quan lớn đã biết đấy tôi đã cùng ký đơn với dân làng
xin với sư cụ chùa Bà Đá với cậu ấm Ba chả nhẽ tôi lại bỏ họ.
- Ấy chính vì thế, nên tôi phải mời quan lớn đến đây: bàn
nhau xem làm thế nào cho lưỡng lợi. Không ai mang tiếng cả. Quan lớn biết rồi đấy
chứ, cụ lớn Kim Giang tướng công đã cho gọi cậu ấm Ba vào. Chắc sẽ có cách thu
xếp. Nhà thì quan Nghè không liên quan gì đến quan lớn, còn chùa Bà Đá chắc Nhà
chung cũng không nỡ nào đuổi đi, vì đấy thuộc vào đất thành phố nhường cho Nhà
chung. Vậy quan lớn chẳng nên e ngại, có ai hỏi đến, quan lớn cứ lựa lời nói
xuôi xuôi, khuyên người ta nên nhìn đến cái lợi chung và bày vẽ cho họ cái lợi
riêng của họ khi đã giúp cho nhà nước:
Tú Hài ngần ngừ nói:
- Tôi vẫn thấy nó thế nào ấy...
- Vâng xin tùy ý quan lớn nghĩ. Huyện Nhã cười ha hả nói với
vẻ thắng thế. Tôi thiết tưởng Tây nó cứ làm theo ý nó, tòa Hiệp lý sẽ cử người
đi gặp riêng từng người hào lý các làng, nói rõ cho họ biết lợi hại rồi đưa mối
lợi đến cho họ, họ sẽ vui theo còn mặc kệ quan lớn muốn cố chấp ý cũ, không nhận
phẩm chức của nhà nước họ cũng mặc quan lớn. Quan lớn có vững mãi một lòng một
dạ không?
- Nếu quan lớn trước sau vẫn một lòng kiên trì như vậy, tôi
xin chịu thua không dám nói nhàm tai quan lớn nữa.
Huyện Nhã xếp gọn những tờ giấy vào một tập lại rồi đứng lên
toan đi.
Tú Hài cũng đứng lên theo và nói:
- Vâng thưa quan lớn tôi không muốn tiếp nữa, xin kính chào
quan lớn, tôi về. Nhưng thưa quan lớn, tờ giấy này không gấp cất đi quan lớn có
ý để trả tôi à? Huyện Nhã đứng sững lại, tươi cười vui vẻ nói khiêm tốn:
- Dạ giấy chứng chỉ của quan lớn. Xin tùy ý quan lớn, tôi
không dám có quyền giữ lại.
Rồi lão kéo tay Tú Hài ngồi xuống và nói:
- Xin mời ngồi chơi một chốc để đệ thưa hết lời. Lão ngoảnh lại
gọi to.
- Lệ đâu, pha trà đem giầu lên đây.
Đoạn lão quay mặt lại nhìn Tú Hài nói tiếp:
- Tôi biết thế nào quan lớn cũng nhận, cũng làm một dịp may
công tư lưỡng lợi. Nhiều người mong mỏi không được đâu. Thời thế thay đổi, các
ông Tú Tích, Tú Tốn, Tú Cẩn mới có dịp làm nên chứ. Thời trước thì có mà tây tịch 20 đến già. Mà các ông ấy còn phải mưu mô chật
vật lắm mới được như thế. Còn bây giờ nhà nước đương cần mở mang. Quan lớn lại
có nhà đất ngay ở đấy. Quan lớn có thiên thời ấy, địa lợi ấy mới được dễ dàng
như thế. Tự dưng được làm nên quan lớn, ngồi ngang hàng với các bậc khoa giáp.
Cho nên tôi mới thành thực kính mừng quan lớn ngay từ lúc đầu mới đến.
- À thưa quan lớn. Tú Hài hỏi, sao bác Nam Phố buôn bán với
Tây từ lâu mà các quan lại không chọn bác ấy.
- Ấy đấy! Quan lớn xem, tôi đã nói đấy, thầy tú Nam Phố cũng
chưa có được vinh dự như quan lớn. Nhưng mà thầy tú Nam Phố này là nhà buôn,
tòa Hiệp lý có ý để dành để đưa vào ban đấu xảo và làm quan hội viên Hội đồng
thành phố và Hội đồng thương mại. Sắp sửa thành lập nay mai. Ấy bây giờ cứ có
tài nào thì có chức ấy. Tùy tài định vị 21 người Tây họ khôn ngoan lắm. Nghe bên tòa
Hiệp lý các ông ấy nói, viện Hàn lâm này hơi khác viện Hàn lâm trong kinh. Đây
giống như một tòa hội đồng gồm toàn những quan văn người Bắc kỳ họp bàn nhau những
việc về văn chương, chính sự, kinh bang tế thế 22 nên giá trị tự do lắm. Rồi ra cứ hết một
khóa mỗi khóa là ba năm, các ông Hàn, có ông được cử nữa, có ông thôi, nhưng đều
có chức hàm cả rồi, xin tuyên bố sang chức gì mà chả được. Vạn sự xuất ư
nho 23 cả.
Vui mừng thấy Tú Hài đã ngả theo về mình, để ra làm việc với
Tây, công việc ủy thác đã làm xong, Huyện Nhã không cần phải dài dòng hơn nữa
vui vẻ mời khách uống nước ăn giầu, rồi khéo léo chuyển câu chuyện sang những
khía cạnh nào khoe được sở trường của khách để tâng bốc khích lệ thêm. Tú Hài bị
lôi cuốn vào chuyện vui như lạc vào bát trận đồ của Gia Cát Khổng Minh mà không
biết. Đến khi đứng dậy cáo từ chào nhau, huyện Nhã vui vẻ tiễn chân khách, ra
sân còn đứng lại nói:
- Mọi việc sẽ xong xuôi hết quan lớn ạ, tòa Hiệp lý sẽ thu xếp
đâu vào đấy cả. Quan lớn cứ yên tâm. Khi nào có giấy mời đến viện xin quan lớn
nhớ đến tiểu đệ, cho tiểu đệ uống rượu với.
- Dạ, Tú Hài nói, thời thế mới nhưng giấy rách phải giữ lấy lề
chứ. Thế nào chả còn phải trông nhờ vào quan lớn nhiều nữa. Còn khao vọng bao
nhiêu thứ nữa. Tôi còn có nhiều dịp muốn hầu rượu quan lớn.
Hai người chào nhau vui vẻ.
Ông tú Tự Tháp về nhà yên trí đợi cậu ấm Ba về bàn lại.
Nhưng đợi mãi vẫn không thấy cậu Ba về. Một ngày, hai ngày, rồi
ba ngày, mọi người cứ tưởng là lâu không gặp nhau, cụ lớn Kinh lược giữ cậu Ba
lại làm thượng khách. Cậu mải vui quên cả ngày về.
Nhưng lâu nữa ở nhà thấy sốt ruột, ông ấm Cả phải đến nha
Kinh lược xin vào hầu cụ lớn Kim Giang để hai mặt một lời hỏi cho đích thực,
tránh nghe những lời phao đồn quàng xiên. Ông được đón mời tử tế, được lưu lại
ăn cơm, dặn dò cặn kẽ mọi lẽ đến chiều mới về. Ông bảo với mọi người quen rằng
cậu ấm em được cụ lớn Kinh lược mời ở lại đưa xuống Hải Phòng làm phái viên đi
đón sứ nhà Thanh vì cậu biết nói tiếng Quảng Đông và quen nhiều Khách buôn Đại
Thanh, nhưng nhiều người không tin. Những lời đồn đại vẫn không ngớt, trong khi
sở Lục lộ thành phố dồn phu mở rộng nốt con đường vòng từ bờ hồ từ thôn Tự Tháp
đến đền Bà Kiệu bên kia hồ. Nhà thờ quan Nghè bị dỡ đi, chuyển xuống Bạch Mai
cho gần nơi ruộng giỗ. Chỉ trong vòng mấy tháng, mà tất cả khu quanh hồ đều
quang đãng. Không còn vướng mắc một làng xóm nào nữa. Đứng trên cầu gỗ đầu phố
Hàng Đào, người ta có thể nhìn bao quát suốt cả đến chùa Bá Đá, đến cái nhà thờ
đạo đang xây ở bên này hồ và ở phía bên kia, người ta trông thấy cả dãy phố
Tràng Tiền mới mở ở đằng sau chùa Quan Thượng. Một con đường rộng thênh thang,
hai bên có giồng cây đối nhau, vòng bao lấy hồ như một cái vành đai lụa khổng lồ
gài lá. Ở đầu phố Tràng Tiền và ở vườn dừa dưới cầu gỗ có dựng một cái biển gỗ
chữ nhật sơn trắng trên đề hai hàng chữ đỏ hàng trên chữ quốc ngữ: “Phố Hoàn
Gươm” 24 hàng dưới có năm chữ nho. “Hoàn Kiếm hồ đại
lộ”. Rải rác những lều vải được dựng lên tạm thời để bán các quà bánh hoa quả
và giải khát cho người Pháp. Bờ hồ đã trở thành nơi “la mát” 25 của binh lính và quan chức Pháp và bọn
thông ký Sài Gòn. Và vì thế phố này được sửa sang liên tiếp, hè được lát gạch,
mặt đường giải đá mịn nhẵn, hàng ngày có phu Lục lộ quét dọn sạch sẽ. Một vài
công sở của thành phố đã bắt đầu xây dựng. Tây và Khách thường qua lại chơi
quanh hồ, coi đó như cảnh trí riêng của chúng vậy.
Việc mở phố vẫn tiến rộng ra chung quanh. Phố Tự Tháp đã mở
xong. Phố Nhà chung được cắm thẳng từ Tràng Thi qua cửa nhà thờ lớn, qua làng
Tiên Thị làng Chân Cầm nối vào đầu phố Hàng Bông. Cuối năm giời hanh khô. Phố
phường đông đúc chật chội. Có những đám cháy lẻ tẻ ở Hà Khẩu, ở Hàng Bạc, ở
Hàng Bè, ở Hàng Tre, tiếp sau đó một đám cháy thật lớn lan gần khắp phố Nhà
chung, thiêu hủy hơn năm trăm nóc nhà, cháy sém hết quá nửa dinh Tổng đốc. Đội
cứu hỏa của quân đội Pháp đến cứu chữa giúp, cũng bất lực trước ngọn lửa hung
tàn. Những ống phun nước phì phì càng như thổi cho ngọn lửa bốc thêm to, thêm mạnh.
Vợ lẽ và cháu gái Lê Đĩnh chạy không kịp, bị chết cháy. Hôm sau các quan chức
Pháp đến hỏi thăm, Lê Đĩnh chân thành cảm tạ và thản nhiên nói:
- Thưa các quý quan, đó là số mệnh. Con hỏa ở đây dữ lắm, nó
tưới ướt như thế là thường lắm. May nhờ có quý quan cho quân lính đến cứu giúp
không thì cháy hết cả dinh Đốc bộ này. Bản chức tất cũng được rước đi theo tiện
nội 26 . Thưa các quý quan phải cầu đảo lễ lậy rồi
mới yên được.
Sau đấy các quan tỉnh, huyện đều cho sửa lễ chay và áo mũ giấy
đỏ cúng lễ tạ thần hỏa. Dân chúng cũng xôn xao bàn tán vì con hỏa ở nơi cố đô
Thăng Long này. Nhiều người đem làm câu chuyện cãi lý nhau. Người thì cho là
mình bất cẩn, giời hanh, củi lửa xô bồ, cháy như thế là thường. Kẻ thì bảo là đất
thiêng con hỏa dậy. Có điều là vì cháy nhiều quá nên cũng ít người chú ý tìm ra
nguyên nhân, và tòa Hiệp lý và nha Thọ Xuân cũng khó mà tìm ra kẻ gây vạ, phần
đông đều tin vào con hỏa. Chợt một hôm một đám cãi nhau tay đôi to tiếng ngay
giữa phố Bờ Hồ đông người qua lại, khiến mọi người nghe lạ tai đổ xô cả lại.
- Mày ngu! Nó đốt nhà mày!
- Mày ngu! Nó dỡ nhà mày!
- Mày ngu! Nó đốt nhà!
- Mày ngu! Nó dỡ nhà mày!
Nhiều người vây quanh hai người đàn ông áo kép quần trắng chững
chạc đang nhìn vào mặt nhau hét to như thế. Có mấy người reo lên:
- Cậu ấm Ba Tự Tháp và quan Bảng Trần Hàng Bạc.
Mấy người lách vào kéo rời hai người ra và hỏi:
- Sao hai ông bạn thân lại mắng mỏ nhau thế?
Hai người cố co lại gần nhau, và cứ trơ trơ nhìn mọi người, lặp
lại mãi câu mình vừa nói:
- Mày ngu nó đốt nhà mày!
- Mày ngu nó dỡ nhà mày!
Viên đội phòng thành đang đi khám phu làm đường, thấy tụ tập
đông người vội chạy đến lách vào hỏi, liền bị hai người nhìn chừng chừng quát
vào mặt.
- Mày ngu, nó đốt nhà mày!
- Mày ngu, nó dỡ nhà mày!
Lão đội huýt còi gọi lính đến xua mọi người đi và nói lớn dọa
nạt.
- Xê ra, các ông các bà đi đi mau lên, xem làm gì hai ông
điên dại ngộ chữ ấy, các quan Tây đến bắt đi bây giờ, đầu không phải, lại phải
tai rồi lại kêu ca tai bay vạ gió.
Rồi lão nhờ mấy bạn quen của hai người cùng với lão khôn khéo
dìu hai người về nhà ông Tú Hài ở phố Tự Tháp gần đấy, trong khi hai người vẫn
lặp lại một câu.
- Mày ngu nó đốt nhà mày!
- Mày ngu nó dỡ nhà mày!
Đám đông bị đuổi tản đi, ra vẻ bực tức, công nhiên đứng túm
năm tụm ba bàn tán, nhận định. Một người nói bô bô:
- Các ông ấy nói thật đấy, các ông ấy có ngộ có điên chán ra
đấy, Tây nó đốt chứ còn ai. Đấy rồi mọi người xem còn là cháy nữa, chưa yên
đâu, mà chẳng phải con hỏa con hiếc gì đâu...
- Này có mồm thì cắp, có nắp thì đậy, mọi người nói gạt đi.
Không có nó bắt cả nút bây giờ. Hai ông kia bị nó bắt giam mới được thả ra đấy.
- Đã nói không sợ, bắt thì bắt chứ gì, người khác nói thêm
vào, nhưng sao bảo cậu ấm Ba đi sứ đón quan Tàu.
- Tây nó đã đến Tàu còn sang làm gì. Chắc cậu ấy bị giam mới
phát điên, phát ngộ.
Người nói lúc trước vẫn khăng khăng cãi.
- Cậu ấy nói thật, cậu ấy chả điên đâu, chính Tây nó lập tâm
sai người đốt nhà đấy, còn là cháy nhiều nữa kia! Chả thế cậu ấy bảo ông Bảng
ngu, vì nhà ông Bảng bị cháy tháng trước.
- Ông Bảng nào Hàng Bạc nhỉ, một người hỏi, sao tôi ít gặp và
ít thấy nói đến.
Một người nói rành rọt:
- Không phải ở Hàng Bạc mà ở thôn Dũng Thọ gần Hàng Bạc chứ,
quan bảng Trần Duy Tích, con quan đốc Trần Văn Vi ở Dũng Thọ, đỗ Phó bảng cát sỹ,
không làm quan nhưng từ khi Tây đến đây, ông bỏ đi giả ngây giả dại, xuống ở
đâu mãi miền Thanh Liêm Kim Bảng chứ có ở đây đâu. Nhưng cũng không đi đánh Tây
nên cậu ấy mới nói được.
- À phải rồi, người kia nói, ra quan lớn bị nói kháy, quan lớn
tức, quan lớn mới nói móc cậu ấm bị dỡ nhà.
Người nói trước tiên lúc nãy, nay lại càng thêm quả quyết:
- Các ông ấy giả điên giả dại thế chứ chả phải thực bụng mắng
nhau đâu. Các ông ấy nói thật đấy. Đánh không được Tây hay không chịu đánh Tây
bây giờ Tây nó thắng, nó bắt dỡ nhà đi cho nó xây nhà, nó đốt nhà đi để tiện mở
phố. Thì đều là ngu cả chứ gì. Nước mất nhà tan, phẫn chí... không làm gì được,
thành ra ngu tất.
Một người khác nói vào:
- Các đám cháy khác thì không biết, chứ cái đám cháy ở dãy phố
Chân Cầm – Tiên Thị, tôi cho là có người đốt mới cháy nhiều đến thế.
- Có lẽ gì nữa, nó đốt thật đấy rồi các ông xem còn cháy nhiều
nữa. Cái thân trâu ngựa còn biết kêu ai. Đâm ra cắn quẩn nhau cho... khuây.
Sang tháng sau còn tiếp luôn mấy vụ cháy lớn nữa. Cháy ở phố
Hàng Đào và Hàng Bạc thiêu hủy tám mươi nóc nhà trong đó có sáu tòa nhà gạch.
Cháy ở phố Hàng Mắm thiêu bảy mươi nóc. Cháy lần thứ hai phố Nhà chung thiêu
hai mươi ba nóc nhà.
Trước những vụ hỏa tai liên tiếp, tòa Hiệp lý liền công bố
thông sức hẹn bắt đầu từ năm 1888 tất cả các nhà trong thành phố đều phải là
nhà gạch.
--------------------------------
(Từ cũ) bắt cho bằng được. (BT) |
|
Quan mới, chế độ mới. |
|
(Từ cũ) kỹ sư. (BT) |
|
Tiền trả lại. |
|
Quan là cha mẹ dân. |
|
Gendarme: hiến binh. Chỉ lực lượng vũ trang đặc biệt chuyên
giữ gìn an ninh chính trị ở các nước đế quốc, thuộc địa. (BT) |
|
Lettré: người làm chữ nghĩa. Ở đây là bọn làm văn thư. |
|
Về Kinh đô Huế. |
|
Mọi sự đều xong. |
|
Đại ý: Đứng ngoài sự long đong, vất vả, không màng đến thời
cuộc. (BT) |
|
Tức cố đạo Landais đã chạy vào chùa nhờ sư cụ cứu mạng hôm
bị quân ta vào đánh khu Nhà chung. |
|
Long đong mang gươm và sách đi, không biết đến nhà cửa. |
|
Đất linh thì người giỏi (theo phép phong thủy tin như vậy). |
|
(Oản chuối ở bàn thờ Phật hạ xuống) ăn chay, ở đây là ăn lộc
Phật. |
|
Gặp vua. |
|
Vua. |
|
Đôi rồng chầu mặt trăng. |
|
Một chữ đã là cách nhau xa lắm rồi (Nói về phẩm trật của bọn
quan lại). |
|
Hội thi khéo. Hội chợ. |
|
Tây tịch là đứng ở địa vị làm khách. Ở đây có nghĩa là đứng
chân ngoài. |
|
Tùy tài năng mà có chức vị tương xứng. |
|
Trị nước cứu đời. |
|
Mọi sự đều ở nhà nho mà ra cả. |
|
Tức là Hoàn Kiếm. |
|
Dạo mát. (BT) |
|
Vợ (nói một cách khiêm tốn) về vợ mình. |
Chương VII
- Bác Phúc! Bác Phúc! Bác Phúc ơi!
Một phụ nữ nửa tỉnh nửa quê, vấn khăn nâu bỏ đuôi gà chấm vai
mặc áo dài vải đồng lầm đổi vai, quần nái thâm, tất tả chạy theo một người đàn
ông đi phía trước, vừa chạy vừa gọi. Người đàn ông đội cái mũ to vành, mặc áo cộc
đen, quần đen rộng, cứ thản nhiên đi như không có ai gọi, cứ thoăn thoắt bước,
dận 1 đôi
giày Gia Định kêu loẹt quẹt. Cô gái đuổi kịp, quay mặt nhìn lại gọi.
- Bác Phúc.
Người đàn ông đứng lại, nhìn thẳng vào mặt cô gái, mỉm cười
nói giọng Sài Gòn.
- Ủa bà lầm rồi!
Rồi nhân tiện, tay đang cầm tấm thẻ căn cước gấp, người này mở
ra đưa cho cô gái xem và nói.
- Đây tôi có tít 2 là
dân Sài Gòn, bà có đọc được chữ quốc ngữ không, tên tôi đấy.
Cô gái cầm cái thẻ ngắm nhìn cái ảnh nghiêng mặt, rồi nhìn thẳng
vào mặt người đàn ông và nói quả quyết.
- Tôi không biết chữ quốc ngữ nhưng ba chữ nho viết kèm đây
là Nguyễn Văn Hai. Vậy chính bác là bác Hai Phúc.
- Bà nhầm, tôi không phải Hai Phúc.
Cô gái vẫn khăng khăng cãi:
- Chính bác là Hai Phúc. Dù bác có ăn mặc và nói lối Sài Gòn
tôi vẫn nhận ra bác vì cái nốt sẹo ở má bác kia, cái vết bác ngã bị thương, dập
má ở đình Tô Mộc, trước hồi lão Đồ Phổ Nghĩa đến đây mà lúc ấy tôi phải đi lấy
lá dấu và thuốc dịt cho bác, bác có nhớ không?
Người đàn ông nhấc mũ lên lấy tay xoa đầu gãi gãi tóc cười lớn
ha ha rồi hạ thấp giọng nói tiếng Bắc:
- Nhớ ra rồi, xin chịu. Cô Xuyến phải không? Cô nhớ giỏi thật.
- Bác giỏi chứ! Cô Xuyến nói. Bác nhận ngay ra tôi.
- Giỏi cũng không bằng cô. À ha xin lỗi, người đàn ông nói!
- Tôi ở sở Sen đầm Hàng Bồ gần nửa buổi, ra tòa Hiệp lý chầu
chực gần hết buổi đến bây giờ về sở Cẩm Hàng Bè này khai báo chứng nhận xong mà
chẳng ai biết là tôi cả. Tú Tích, Lang Gà ở tòa Hiệp lý cũng chả nhận ra tôi.
Thế mà bà!
- Bác có giáp mặt họ không?
- Có chứ! Ngồi đối diện hẳn hoi. Họ tử tế với dân Sài Gòn lắm.
Giá mà họ biết là Hai Phúc ở bờ hồ trước đây nhỉ. Nhưng này bà có thong thả xin
mời đến phố Hàng Buồm ta nói chuyện. Thế nào? Ông nhà làm gì? Được mấy cháu rồi?
Cô Xuyến bỗng cười khanh khách nói:
- Quá lứa nhỡ thì chẳng ma nào lấy, nên bây giờ mới có thì giờ
đi được với bác lên phố Hàng Buồm.
Hai người liền rẽ quặt vào phía chợ Hàng Buồm. Hai Phúc vừa
đi vừa nói:
- Ủa kén kỹ lắm chứ gì? Cụ Bá giờ làm gì?
- Đi Tri phủ, cô Xuyến đáp.
- Ủa chết rồi à? Hai Phúc sửng sốt hỏi.
- Không đi Tri phủ thật. Cô Xuyến vui vẻ đáp, hiện làm Tri phủ.
Phủ Hoài Đức ta kia đấy bác ạ.
- Thế à? Hai Phúc hỏi mà lòng thờ thẫn tự nghĩ. “Ái chà ra là
con gái quan Phủ kia đấy. Không khéo lại lỡ lời thì bỏ mẹ”. Bác đắn đo, nhưng lại
nghĩ “Cô này vẫn giữ được vẻ hồn nhiên như trước, và hỏi cô ta có thể biết được
nhiều chuyện hơn bất cứ một người nào khác”, nên bác vui vẻ nói đùa:
- Con quan nên khó lấy chồng. Thôi để rồi tôi làm mối lấy các
quan lớn Sài Gòn.
- Quá tuổi rồi chả cần lấy chồng, cô Xuyến nói, đi tu đây, đã
học thuộc kinh cúng Phật rồi.
- Thế ấm Tự Tháp đâu? Cậu ấy lấy cô nào?
- Ông ấy lấy cái Hiền nhà bác đấy. Cô Xuyến cười ranh mãnh.
Hai Phúc đứng sững lại nhìn cô Xuyến có vẻ không tin, nhưng rồi lại điềm nhiên
đi vừa cất bước vừa nói:
- Phải tìm một hiệu cao lâu nhậm sực 3 tí
cho vui chứ.
- Theo bác để được hỏi chuyện bác, cô Xuyến nói, còn bác ăn,
tôi chả ăn uống đâu, đàn bà con gái đi cao lâu người ta cười cho chết.
- Chả sao, bây giờ theo lối Tây tự do, vả đi hiệu mừng khách
một ông lão bạc đầu kia mà, sợ gì? Cô bằng lòng chứ?
Cô Xuyến không trả lời, còn mải gật đầu, bẻo lẻo lời lẽ đáp lời
chào những người qua đường chào hỏi. Hai Phúc nói sẽ.
- Con gái quan lớn, nhiều người vị nể quá. Thảo nào cô sợ vào
hiệu ăn với tôi.
Cô Xuyến đưa mắt nhìn Hai Phúc nói một cách nghiêm nghị:
- Không phải tôi sợ đi với bác, tôi bảo tôi không ăn thôi.
- Được thế ta cứ đi.
Hai người đi tắt qua thôn Trung Yên, qua miếu Thanh Gấm, rẽ
sang phố Hàng Giầy. Vào một hiệu cao lâu nhỏ ở cổng đình Hàng Giầy. Hàng vắng,
chú Khách chủ hiệu ngồi bên chồng bát đĩa, lim dim ngủ gật. Bác Hai đến trước
quầy nói to làm cho chú Khách choàng tỉnh dậy. Bác dặn làm mấy món ăn, rồi cùng
với cô Xuyến đi vào mãi bàn trong cùng sát tường, ngồi xuống hai ghế đối diện
nhau, bác vui vẻ nói:
- Vắng vẻ tốt. Được, ông cứ chùng chình muốn đến bao giờ có
món ăn cũng được. Bây giờ thì tôi nói chuyện thành thực và đứng đắn với cô. Tôi
xa quê hương chốc đã gần mười lăm năm rồi. Về đây cái gì cũng khác cả. Tôi phải
hỏi cặn kẽ mới lần ra manh mối. May mắn cho tôi người tôi gặp đầu tiên lại là
cô. Vậy xin cô cứ để cho tôi hỏi cô trả lời. Cô muốn hỏi gì tôi, xin để đợi
sau.
- Được bác cứ hỏi, tôi biết gì nói nấy. Cô Xuyến đáp.
Hai Phúc ngồi suy nghĩ một lúc, không biết bắt đầu từ đâu, liền
hỏi:
- Ông cử Tam Sơn còn không?
- Không biết cụ ấy còn hay chết rồi. Từ khi có trường Tây ở
đây không thấy cụ ấy đâu nữa, nghe nói hình như cụ ấy bị triều đình truy nã vì
án khởi ngụy.
- Ông cử Kim Cổ còn không?
- Tiên sinh mới mất năm ngoái.
- Ông cử Vũ Thạch còn không?
- Còn, cụ rời xuống ở làng Hạ Thái.
- Ông mền Kim Liên còn không?
- Còn, ông ấy vào làm Hành tẩu trong Bộ trong kinh.
- Ấm Vẽ còn không?
- Còn, ông ấy vẫn thường lui tới nhà bà dì ở phố Hàng Nón.
- Các ông ấy có đánh Tây không?
- Trừ ông ấm Vẽ và cô Cúc là có nhiệt tâm đi bàn góp sức cùng
với bà con đánh Tây. Bác còn nhớ cô Cúc nhỏ, cô em ông Ấm ấy mà. Các ông kia chần
chừ, thành ra không ai ra mặt đối địch với Tây cả.
- Thế ấm Ba Tự Tháp có tham dự đánh Tây không?
- Có, cũng lăn lộn mãi, có công đi đây, đi đó liên kết vận động.
Đến mãi tháng bảy tháng tám năm ngoái mọi mưu mô kế sách chống Tây đều tan vỡ
nguội lạnh hết, cậu ấy mới chán nản bỏ đi rồi lấy cái Hiền nhà bác.
- Bây giờ ở đâu?
- Nhà thờ quan Nghè bị dỡ đi, cậu ấy tức, vợ chồng đem nhau
đi theo ông bảng Dũng Thọ xuống ở dưới mạn Thanh Liêm, Kim Bảng miền sông Đáy.
- Nhà tôi u nó còn không? Thằng Hiển, thằng Phú đâu?
- Bác gái còn. Nghe nói bác gái và thằng Phú đi theo vợ chồng
cậu ấm, vì đất nhà ở Phúc Lâm cũng bị cắm mở phố rồi.
Chủ hiệu đưa bát đĩa đến, rồi chuyển hai đĩa món ăn vào. Hai
Phúc đứng lên đỡ lấy đem bày ngay ngắn đăng đối trên bàn và gọi lấy rượu, thêm
chanh ớt rau thơm, có ý kéo dài cuộc chờ đợi. Cô Xuyến nói ngay.
Rồi không để cho bác kịp nói, cô tranh lấy hỏi luôn dồn dập.
- Bác ra đây từ bao giờ?
- Tôi mới ra đến đây hôm qua. Hai Phúc thủng thẳng giả lời có
vẻ suy nghĩ.
- Bác đã đến nhà ai chưa?
- Chưa. Ở dưới tàu lên còn loanh quanh đi trình giấy, may lại
gặp cô để hỏi thăm.
- Bác định về thăm gia đình không thôi hay còn có ý gì nữa.
- Thăm nhà và cũng muốn biết tình hình ngoài này ra sao?
- Tình hình gì? Tình hình yên ổn, theo Tây hay chống Tây?
- Chống Tây ấy chứ. Hai Phúc nói sẽ. Theo Tây thì rõ ràng hiện
lên bề mặt rồi ai mà chả biết.
- Thế bác đi do thám à? Cô Xuyến hỏi nửa đùa nửa thật, ranh
mãnh.
- Đi do thám mà lại hỏi vào con quan Phủ mới đắc thời đắc vị
thì lặng thà đi ra giữa chợ yết bảng mà hỏi người đi chợ còn hơn. Hỏi xem ông
Giáp làm gì. Ông Ất ở đâu? Ông Bính đang mưu mô gì?...
Hai Phúc rót rượu uống luôn hai hớp rồi đủng đỉnh nói:
- Tôi muốn hỏi chuyện cô Xuyến ngày xưa kia chứ.
Cô Xuyến đang ăn bỗng ngừng lại nhìn thẳng vào người đối diện
nói.
- Tôi thì vẫn chưa thể tin bác vẫn là bác Hai Phúc bờ hồ ngày
xưa, cũng như bác chưa nên tin tôi mới phải. Câu nói của cô gái, có vẻ bộp chộp,
nhưng có lý khiến Hai Phúc phải suy nghĩ, bác ngồi lặng im, lần lượt, thong thả,
uống từng hớp rượu, gắp từng miếng nhắm. Cô Xuyến ăn xong bát phở đứng lên lấy
nước uống rồi quay trở lại nói với bác Hai Phúc.
- Thôi bác ở lại uống rượu nhé. Tôi đi đây, tôi sẽ không nói
đến chuyện bác về đây đâu, tự bác tung tin ra tùy ý. Tôi chỉ khuyên bác nên đi
thăm bác gái và vợ chồng ấm Ba trước. Tuy cùng tỉnh Hà Nội này, nhưng đường đi
khó khăn đấy, văn thân nghĩa hội chống Tây chống các quan còn nhan nhản khắp
nơi, ngay từ các huyện quanh đây. Năm ngoái thầy tôi quyền Tri phủ Thường Tín, sợ
các ông văn thân quá, thầy tôi xin từ chức, họ không cho thôi, mới đưa về phủ
Hoài Đức. Nói rõ thế để bác biết mà phòng, nhưng bác đi thì cũng dễ... Cô Xuyến
cười vui vẻ và chào Hai Phúc thong thả đi ra.
Bác Hai vội đứng lên hỏi giật.
- Cô đi thật à? Khoan đã! Thế ngộ tôi muốn gặp cô.
- Lúc nào mà chả được, nếu bác thấy cần, và tôi tin được bác.
Cô Xuyến nói, vẫn tươi cười và chào đi ra.
Hai Phúc đứng sững nhìn theo một lúc lâu, mới lẩm bẩm.
- Con bé vẫn ngang như cũ, có lẽ tâm địa nó vẫn thế, chưa
thay đổi.
Cô Xuyến đi khuất rồi, ông mới trở vào ăn vội vàng cho xong rồi
đứng lên trả tiền ngay tại bàn rồi đi ra thẳng. Ông trở lại qua hồ Thái Cực rẽ
sang Hàng Đào tắt qua vườn dừa, đi vào phố Bờ Hồ. Thông qua Vũ Thạch thẳng xuống
Phúc Lâm làng ông. Tất cả đều đã quang đãng. Những làng xóm không còn nữa. Những
đường phố thẳng tắp đã được cắm thành hình như ô bàn cờ. Làng Phúc Lâm chỉ còn
dấu vết loáng thoáng vài nóc nhà gianh chưa dỡ đi mà ông cũng không nhận ra nhà
của những ai nữa. Thật đúng là cảnh dĩ phi 4 và
những người qua lại gặp trên đường không còn ai nhớ ra mình nữa. Cũng đúng là
nhân giai dị 5 nốt.
Nhưng ngổn ngang trăm mối bên lòng ông không còn có thì giờ ngắm lại cảnh và
nghĩ đến người. Ông cắm đầu cắm cổ đi cho mau cho chóng về đến làng, tới nơi
không gặp ai quen ông lại đi thẳng xuống Vân Hồ, nhớ lối tìm đến đúng nhà ông
Hai Đệ. Hai người cùng nhận ra nhau ngay, đứng ngẩn người ra nhìn nhau một lúc.
Bỗng Hai Phúc giơ tay lên khỏa khỏa ra hiệu và nói:
- Im, đừng làm ồn lên vội!
Rồi ông kéo ông Hai vào nhà mà hỏi ngay tình hình vợ con. Hai
Đệ trả lời tường tận từng câu hỏi mãi không hết. Hai anh em nói chuyện với nhau
cho đến tối, khi ăn uống cũng mải nói không nghỉ, mãi khuya đi ngủ mới thôi.
Hôm sau Hai Phúc mượn quần áo Hai Đệ mặc đúng như người Bắc, rồi đáp đò dọc
xuôi sông Đáy đi đến nơi bác gái ở cùng với vợ chồng ấm Ba Tự Tháp. Đấy là làng
Võ Giang, một xã nhỏ hiền lành tịch mịch trên bờ trái sông Đáy nước trong như bạc,
một xã trong tổng Kiện Khê thuộc huyện Thanh Liêm. Làng Võ Giang ở phía dưới xã
Kiên Khê với nhà thờ Sở Kiện, mà lúc ấy còn quen gọi là Kẻ Sở, là nơi gốc đạo
Thiên chúa của cái tỉnh Hà Nội. Ông Hai đi thăm khắp cả vùng Sở Kiện, rồi mới lần
mò hỏi thăm đến nhà ấm Phách ở Võ Giang. Vợ chồng bố con nhận ra nhau khôn xiết
mừng mừng tủi tủi. Bữa cơm hội họp gia đình rất là đầm ấm vui vẻ. Có cả ông Bảng
Trần Duy Tích đến chơi, uống rượu ăn cơm như người nhà, ông này mấy năm nay như
ngây như dại, có khi ngồi suốt cả ngày không nói một câu, có khi lảm nhảm nhắc
đi nhắc lại một câu vô nghĩa, khó hiểu nên người ta thường gọi là ông Bảng ngộ.
Nhưng hôm nay nghe nói có ông Hai Phúc đi xa mới về ông thân hành sang chơi
ngay, và ông tranh hỏi về tình hình sáu tỉnh Đàng trong bây giờ ra sao. Ông hỏi
dồn dập luôn mấy câu, bác Hai trả lời xong nói ngay:
- Sao người ta bảo ông ngộ, ông điên. Té ra ông hỏi khôn gớm!
Cậu ấm Ba nói xen vào cho vui:
- Ai rằng ông ngộ với ông điên. Ông ngộ vì chưng dạ chẳng
yên... Trốn đời cũng khó mà đi, thoát nên... điên!
- Tôi cũng vẫn biết thế, Hai Phúc nói, nhưng mà điên ngộ như
thế chẳng qua cũng chỉ là che mắt thế gian thôi, càng tỏ ra là mình ươn hèn khuất
phục. Tây nó lại được thế dùng ngay mình làm bung xung để lừa dối lung lạc người
khác. Nó coi khinh mình, mà dân chúng cũng chả ai người ta trọng mình. Ấy trong
Nam cũng có ông nghè Phạm Hiển Tích chẳng ra chống Tây, chẳng ra theo Tây, bị mọi
người khinh bỉ đến nỗi phẫn lên mà chết đấy, “Chết chẳng ai thương”.
Cảm thấy có vẻ động chạm đến mình, ấm Phách vội nói:
- Kể ra cũng là cùng “Bất đắc dĩ vô khả nại hà” 6 thời
thế bị dồn vào lối nghẽn, vua quan sỹ thứ đều đã đầu hàng, khắp nơi binh
chính 7 đều
trong tay dị tộc 8 cả
rồi, người của họ đông như rươi, thế của họ vững như bàn thạch thế mà mình còn
mưu toan cựa quậy cũng chẳng nên trò trống gì nên đành ngoảnh mặt làm ngơ. Sống
qua thì mà đợi, may ra thời cơ.
Hai Phúc bỗng cười lớn át cả lời Ba Phách rồi nói:
- Ai cũng muốn đợi thời cơ. Nhưng thời cơ chỉ đến với ai biết
mưu toan xếp đặt: dọn sẵn lối đón nó. Chứ còn ngồi im lẩn tránh ở một nơi thì
nó đến nó đi lúc nào ai bảo cho mà biết. Ở trong Nam người ta không thế, nước mất
hơn hai mươi năm nay rồi, người ta ở với Tây đã lâu nhưng người ta vẫn tìm cách
chống Tây. Trong ấy có lối tị địa 9 tránh
không ở chung với Tây, đi nơi khác ở, như các ông Cử Trị, ông Đồ Chiểu. Dân
chúng rất quý mến các ông, còn bọn Tây cũng chẳng làm gì được các ông.
Hai Phúc ngừng lại nhìn thẳng vào Bảng Tích và ấm Phách hỏi:
- Quan Bảng và cậu ấm cũng tị địa, bỏ Hà Nội xuống đây ở có
phải là đến đây để ghé bóng cầu rợp nhờ cảnh thổ của cố Phước, cố Đông cho được
yên ổn không hay là có ý định gì khác?
Bảng Tích chỉ hoạt bát khi hỏi mấy câu ở miền lục tỉnh rồi
sau đó bị hỏi đến lại ngồi ngây như phỗng chẳng nói, chẳng rằng mắt cứ trừng trừng
nhìn thẳng ra xa làm như vẻ không nghe không biết gì hết. Ấm Phách thấy câu hỏi
bất ngờ khó trả lời cũng ngồi thừ ra im lặng ra chiều suy nghĩ. Không khí trở
nên nặng nề, thiếu tự nhiên, kém phần thân mật. Ông Hai liền vui vẻ lái câu
chuyện sang hướng khác:
- Người ta ai cũng nghĩ và làm theo ý mình, chứ chả ai xui bẩy
được. Quan Bảng xưa nay vốn mũ ni che tai, thì bây giờ tất mũ phải che kín hơn
nữa. Còn cậu Ba vốn dĩ hăng hái xốc nổi. Việc gì cũng muốn làm ngay, làm cho được,
thế mà nay về ngồi lì ở đây giương mắt nhìn ngày tháng trôi qua, đủ biết tâm
tình đã bị dập gẫy nhiều rồi cũng không đáng trách. Chỉ nên nhớ rằng đừng nên lấy
bụng ta mà suy ra bụng người, cho rằng ai cũng như mình.
Ông quay sang nói với ấm Phách:
- Cậu Ba ạ, vì duyên vì số, cậu có lòng yêu thương đến cháu
Hiền nhà tôi. Vì cây ràng quấn gia đình tôi cũng theo cậu về ở dưới này tôi rất
lấy làm cảm ơn. Và cũng vì vậy hôm nay tôi thân về đây thăm gia đình và thăm cậu
nhân tiện có ba mặt một lời xin nói thẳng với cậu thế này. Tôi ở lại đây mấy
hôm rồi tôi đem thằng Phú đi tìm hai anh nó, thằng Hiển và thằng Tín. Tôi đã
bàn với bà nó, bà nó sẽ ở đây với vợ chồng nhà cậu.
- Thế ông không ở lại, với gia đình chúng con à? Ấm Phách vui
vẻ hỏi. Con thiết tưởng ông nên ở lại với gia đình.
- Được còn bà nó ở đây, rồi thế nào tôi cũng về chứ. Nhưng
tôi sống sót về đây không phải về với gia đình. Vả còn vắng thằng Hiển và thằng
Tín thì cũng chưa gọi là xum họp được. Nếu sau này các em nó muốn về rồi cả em
Phú nữa nếu muốn về ở đây tôi sẽ đưa về. Bây giờ chính thằng Phú nó đòi theo
tôi đi. Vâng, cậu đã tìm chỗ này để yên phận thời cũng tốt thôi. Vợ chồng nên bảo
nhau ăn ở cho hòa thuận, và đừng làm gì trái với đạo làm người. Cậu học nhiều cậu
biết, tôi chả dám nói. Con tôi có phúc nó có phận không lo. Tôi chỉ mong trong
thời buổi loạn lạc này cậu đã muốn yên phận, thì cũng phải nghĩ đến yên phận
làm sao cho khỏi mang tiếng khôn quá hóa dại. Người ngoài người ta khỏi chửi
cho là được.
- Thế ông định đem cậu Phú về ở trên phố à? Hay đi đâu? Ấm
Phách hỏi.
- Đất cát nhà cửa mất cả rồi, vốn liếng không, nước mất nhà
tan, tôi cũng chẳng có ý định gây dựng lại cơ ngũ làm gì vội. Chẳng qua phận sự
làm cha thì phải đưa con đi cho nó biết đó biết đây, cho nó từng trải việc đời,
biết người. Chứ tuổi thằng Phú chưa phải là lúc nó an cư lập nghiệp, ngồi yên một
chỗ cho nên tôi đem nó về Hà Nội cho nó gặp anh gặp em, nó bay nhảy rồi khi nào
nó muốn trở về đây hay ở đâu tùy ý nó chọn tôi không bắt buộc.
Ông quay sang nói với ông Bảng.
- Còn quan Bảng nữa... Quan lớn bực vì thời thế, quan lớn giả
điên dại, lui ẩn ở một nơi chắc chắn. Quan lớn cũng định điên mãi đến cùng. Kẻ
hạ ngu này chỉ còn một mối lo là mươi mười lăm vài chục năm nữa, Tây nó yên ổn ở
đây rồi, đất nước tạm bình thì mọi việc cứ quên đi, kẻ trung bọn nịnh hòa thành
cá mè một lứa, miệng thế chê bai không còn nữa, lúc ấy quan lớn lại tỉnh ra
không điên nữa, du sơn ngạo thủy, vịnh núi đề non, vui với mọi người, chẳng hóa
ra uổng công lắm ư?
Ông Bảng đang ngồi thu hình co ro hai tay luồn vào bọc phía
trên háng, bỗng ngồi thẳng ưỡn người lên, giơ hai tay vươn vai quắc mắt nhìn
ông Hai rồi vung tay lia lịa ra hiệu quát lớn:
- Chém tất chém tất! Tỉnh điên trung nịnh chém tất.
- Khá. Khá lắm! Ông Hai vui vẻ nói lớn khen quan lớn khá lắm,
hạ ngu xin bái phục.
Ông tươi cười thấy cô Hiền bưng mâm cỗ ra vội nói:
- Bây giờ cậu Ba nhà cháu thành tâm có mâm cơm chén rượu nhạt
mời quan lớn ở chơi cho hạ ngu được hầu tiếp, quan lớn có vui lòng nhận cho
không?
Ông Bảng ngồi lại nghiêm trang hai tay chắp vào nhau nói từ tốn:
- Kiến thực bất thực vị chi cuồng 10 nay
gặp tôn ông ở xa về, nói chuyện thời thế, tất nhiên có cơm rượu tôi phải ăn uống
tỏ ra không điên để đón tiếp tôn ông mong được biết thêm về chuyện nhà chuyện
nước.
- Khá lắm! Quan Bảng tôi lại khá lắm. Hai Phúc khen. Thì ra
quan lớn điên hay không điên đều rất đúng lúc, đúng chỗ. Dám mong quan lớn mãi
mãi giữ được như thế.
Ấm Phách đứng lên thu dọn chỗ ngồi đặt lại mâm cỗ cũng chêm
vào:
- Quan Bảng lấy tên là Hậu Phủ. Ngụ ý trung hậu nên trước sau
như một, tấm lòng đôn hậu không lúc nào sai, vì thế vợ chồng chúng tôi mới theo
quan lớn về đây, dựa vào quan lớn để tạm khuây thế thái nhân tình.
Mọi người cùng cười vui vẻ. Ông Hai nói thêm:
- Tạm khuây thì được, chứ quên hẳn việc đời khì không nên!
Sông trong, núi biếc, cảnh lặng như tờ này, dễ đánh lừa người ta lắm đấy.
° ° °
Hai Phúc đã trở về nhà ông Đệ ở Vân Hồ. Thay quần áo, mặc lại
áo cánh rộng đội mũ to vành theo lối Sài Gòn. Ông dẫn con giai đi lên phố chơi,
không vội vàng nhưng không chậm, ông đi nhẩn nha như một người vô tư lự đi dạo
cảnh phố phường, thỉnh thoảng nói bâng quơ mấy câu về cảnh cũ người xưa. Đi qua
khu chợ Hàng Bài nay đã bỏ không thành khu đất rộng, rào lại xếp gạch để xây
nhà, ông quay lại hỏi con:
- Hồi trước con ở trên này, chợ này còn họp không?
- Còn bố ạ! Anh Phú đáp, một tháng chín phiên, ngày 3, ngày
6, ngày 9 nữa; người ta cắm đất xây trại lính đấy, mỗi thời một khác. Nghe nói
đâu người ta xây trại lính khố xanh, lính người Nam mình để đi đánh người Nam
mình.
Đi hết phố Hàng Bài đến đầu bờ hồ ông dừng lại trước cổng
chùa Quan Thượng. Tần ngần đứng ngắm hồ và bảo con:
- Ngày trước bố mở hàng cơm ở chỗ kia. Hàng ngày anh Hiển cứ
sang chùa chơi, bắt tổ chim ri. Bây giờ thì Tây đóng ở trong chùa, không ai được
vào xem nữa. Chùa cũng hóa ra trại lính.
Hình như để tránh xúc động không để cho con kịp hỏi han gì
thêm, ông Hai rảo bước đi ngược lên phố Cầu Gỗ im lặng không nói, đến chỗ vườn
dừa cũ bây giờ đã phá quang san phẳng lắp liền lạch nước, thấy mấy người phía
đó đi ra có vẻ lấm lét sợ hãi, ông hỏi:
- Gì vậy các ông?
Một người nói sẽ:
- Sợ quá, họ bêu đầu quan tán Cách Bị.
Ông dẫn con rẽ vào đến gần để xem, một cảnh dã man khủng khiếp
hiện ra trước mắt. Một cái đầu lâu cắm trên cái cọc tre tươi cao vừa tầm mắt.
Khuôn mặt nhỏ hốc hác đôi mắt nhắm nghiền, nhưng làn tóc lơ thơ và chòm râu bạc
vẫn vểnh lên phất phơ. Thân cọc buộc một mảnh gỗ quét vôi trắng, trên đề mấy
hàng chữ, vừa chữ nho vừa chữ quốc ngữ. Ông Hai lẩm bẩm đọc phần chữ quốc ngữ:
“Ngụy tặc, Nguyễn Cao, xử tử ngày 14 tháng 4 năm 1887, theo lệnh chỉ của quan
Kinh lược đại sứ Bắc kỳ ngày 12 tháng 4 năm 1887. Nguyên quán: xã Cách Bị, huyện
Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh, tội trạng âm mưu khởi ngụy chống triều đình và chính
phủ bảo hộ”.
Anh Phú hỏi.
- Ông cụ này tội gì vậy?
- Tội chống lại bọn Tây.
- Thế ai giết?
- Quan Kinh lược.
- Thế Tây họ không giết à?
Không trả lời cậu con hỏi, ông thẫn thờ nói một mình:
- Quan Kinh lược Nguyễn Trọng Hợp giết quan thủ khoa Nguyễn
Cao, người Bắc giết người Bắc, tụi Tây thâm thật, mà lại là học trò quan nghè Tự
Tháp cả. Đồng môn bây giờ hóa ra củ khoai mò cả rồi... Không thể để thế được,
không thể để thế được...
- Gì hở bố? Anh con không hiểu hỏi.
Ông Hai lơ đãng nhìn con như nói giảng giải:
- Tây nó không giết mà nó để quan Kinh lược giết ông cụ này.
Quan Kinh lược lại là bạn học của ông cụ cùng học quan nghè Tự Tháp, ông thân
sinh ra ấm Phách, chồng con Hiền đấy. Nhưng thôi chuyện còn dài, bố sẽ nói cho
con biết sau. Giờ con hẵng đi một mình lên chợ Đồng Xuân mua những thứ cậu Đệ dặn
rồi về trước đi nhé. Nói với cậu đừng thổi suất cơm bố nữa. Độ tối khuya bố mới
về. Hôm nay có giăng bố phải đi đằng này có chút việc cần...
Ông Hai thò tay vào túi áo bốc ra một dúm vừa tiền xu thau và
tiền kẽm, đưa cho con, và giục con đi ngay, rồi ông đủng đỉnh đi quay trở lại
đường Bờ Hồ. Ông đi quặt lại phố Tràng Tiền vào một hiệu Tây bán rượu và đồ giải
khát. Một lúc sau ông lại đi ra cùng với hai người nữa đều là người làm công
trong hiệu, ăn mặc cùng một kiểu và cùng là người miền Nam cả. Người trẻ nhất
xách một cái hòm đựng rượu rỗng không. Ông Hai cắp cái nắp gỗ. Ba người đi thẳng
hàng và rảo bước, vừa nói chuyện rôm rả. Ông Hai đưa cả bọn đến trước cái cọc
bêu đầu đứng lại và nói nhanh gọn:
- Đây hai chú gói cái đầu đóng hòm lại đem ra bờ sông. Hai
chú cứ đi qua Tràng Tiền, không ai ngờ đâu, còn tôi ở lại đây đối phó.
Khu vườn quang rộng trơ trọi nhưng vắng vẻ. Hai người nhanh
nhẹn nhấc cái đầu ở cọc tre xuống bỏ vào hòm lấp vải lại, ông Hai rút cái biển
gỗ để lên trên, hai người đậy nắp ấn đinh xuống cho khít rồi nâng tót lên vai
khiêng đi thoăn thoắt. Việc làm nhanh quá, anh lính đứng canh ở phía xa không
ngờ tới, đến khi thấy mất vật quốc cấm, hắn chạy lại quát hỏi thì hai người
khiêng đã đi xa, ông Hai đứng lại, nói giọng miền Nam hạch lại:
- Đồ con heo! Có im không chúng ông đánh cho bỏ mẹ. Quân dã
man! Làm mất vệ sinh thành phố. Tây nó bảo dọn đi đấy. Đi mà hỏi Tây. Anh lính
còn đang cuống cuồng chưa kịp đối đáp, ông Hai lại sừng sộ dồn luôn một câu nữa.
- Tao tay không đây nhé. Mày có giỏi kêu lên tao xem nào! Liệu
hồn! Đừng có vác mặt qua Tràng Tiền, Bờ Hồ.
Thấy hai người đi đã quá đền Bà Kiệu, và anh lính chưa tìm được
ra lý để bắt bẻ, ông Hai gườm gườm nhìn anh ta, rồi quay ngoắt đi đủng đỉnh bước
như người đi chơi. Đi một quãng xa không thấy tên lính đuổi theo ông rảo bước
đi nhanh...
Đi đến ngã tư đầu phố, ông còn lưỡng lự chưa quyết rẽ lối nào
bỗng có tiếng người lanh lảnh gọi ở phía sau.
- Ông Hai, ông Hai ơi, đợi cháu với!
Ông quay lại nhìn và quen miệng nói:
- Ủa lại nhầm rồi!
Một người con gái đã thoăn thoắt đến bên cạnh ông sẽ nói:
- Bác khéo giả vờ thế. Nhưng tôi có gọi ông Phúc đâu!
- À cô Xuyến! Hai Phúc khẽ kêu lên mừng rỡ.
- Bác giỏi thật! Tôi tin bác rồi. Bác đi lối này chứ?
Cô Xuyến vừa nói vừa vui vẻ nhanh nhẹn bước rẽ sang phía đường
Bờ Hồ trước. Đang định tâm đi tìm cô Xuyến để hỏi thêm những điều cần thiết, lại
tự nhiên được gặp ở đây. Hai Phúc vui vẻ đi theo ngay, không do dự. Sang bên đường
Bờ Hồ đi qua tháp Hòa Phong cổng chùa Quan Thượng đương ít người qua lại, cô
Xuyến đi chậm bước, khẽ hỏi ông Hai:
- Hôm nay bác lại rỗi có thì giờ đi nhởn à? Mấy hôm bác đi
đâu? Tìm mãi không thấy?...
- Tìm làm chi vậy? Có việc chi cần?
- Định tìm nhờ bác một tí việc, chả biết bác có vui lòng?
- Ủa việc chi vậy, tôi rất sốt sắng.
- Tôi muốn nhờ bác làm mối cho một tấm chồng Sài Gòn, cô Xuyến
cười tủm tỉm, ngước mắt nhìn ông Hai.
- Thật à? Cô không đùa đấy chứ? Hai Phúc cười hỏi lại.
- Thật chứ, con gái ế chồng ở ngoài này cao không tới thấp
không thông nên như bác bảo hôm nọ ấy. Tôi muốn lấy chồng xa, thật xa. Xa chùa,
vắng trống cho khỏi điếc tai...
- Thế à? Thế thì được, nào Tham biện Huyện hàm, thông ngôn ký
lục, cô muốn hạng nào?
- Dạ soàng thôi ạ! Chỉ như mấy anh khiêng hòm rượu ở cửa hiệu
Tây ấy mà.
Hai Phúc đứng dừng lại, sửng sốt hỏi gặng:
- Phu khuân vác à?
Cô Xuyến cười ranh mãnh với vẻ đắc thắng.
- Không ạ! Cốt ở người can đảm biết trọng nghĩa, như hai anh
khiêng cái hòm rượu lúc nãy ấy mà, bác biết đấy.
Hai Phúc quắc mắt hỏi sừng sộ:
- À ra cô đi rình theo dò công việc người ta làm phải không?
- Chả rình mò gì cả. Con gái ế chồng đi bông lông theo giai
thấy việc là lạ thì...
- ... Thì rình để báo chứ gì? Hai Phúc hỏi gắt.
- ... Rình để kiếm tấm chồng, chứ báo thì cũng đã báo rồi mà
ngay bây giờ, tôi cũng vẫn còn đủ tang vật để đưa bác vào trình tòa Hiệp lý...
Nhưng mà...
Hai Phúc đuối lý, vội đấu dịu:
- Thôi thôi! Xin chịu. Tôi phục cô đấy, vậy bây giờ cô muốn bảo
tôi làm gì.
Cô Xuyến cười khanh khách nói:
- Trước hết bác vùi tạm bợ như thế là không được rồi, tôi
cũng đã đắp điếm lại cẩn thận, nhưng nhất định phải di đi nơi khác.
Hai Phúc lại càng sửng sốt hỏi?
- Thế ra cô theo chúng tôi mãi đến đây kia à? Chúng tôi định
chiều tối sẽ ra đắp lại. Nhưng cô đã biết chúng tôi xin nhờ cô chuyển giúp đi
nơi khác, vì cô quen thung thổ.
- Được tôi xin nhận làm chu tất. Cô Xuyến nói quả quyết. Sở
dĩ tôi chạy theo bác là để nói cho bác biết, chúng tôi anh chị em ngoài này tin
bọn bác và phục bọn bác đã dám làm một việc táo bạo như thế. Cái dạo năm Dậu
bác bị kết án ấy mà, tụi Ngạc Nhi bêu đầu Ả Chí và ông Cử Đình, bà con mộ nghĩa
cũng đến thu lượm thủ cấp đem chôn, nhưng mãi đến tối mới dám đến lấy, chứ
không đường hoàng ban ngày như bọn bác. Buồn cười quá cái đêm hôm ấy, con Hiền
nhà bác nó theo anh em ra tìm thủ cấp, nó không thấy nó khóc sướt mướt. Bác hỏi
lại nó mà xem. Bác đã gặp nó chưa?
- Đã, tôi đến thăm vợ chồng nó rồi, nó sắp có cháu rồi, mới
có mang được năm tháng.
- Thôi cũng mừng cho nó, có chồng có con như thế là yên thân,
mà bác gái có cháu bế cũng vui thêm tuổi già.
Hai Phúc bỗng đứng lại trước cửa đền Bà Kiệu nhìn cô Xuyến hỏi
đắn đo:
- Tôi hỏi thực cô câu này nhé, tại sao ấm Phách không lấy cô,
lại đi lấy con Hiền nhà tôi? Vả tại sao bây giờ cô vẫn chưa lấy chồng? Tôi cứ
tưởng cô con dắt, con bế, con bồng, con mang rồi mới phải.
Cô Xuyến cũng đứng lại mân mê tà áo trả lời thành thực:
- Về câu hỏi thứ nhất, bác nên hỏi thằng ấm Phách thì rõ hơn.
Còn tại sao mãi đến bây giờ tôi vẫn chưa có chồng thì là ế chồng chứ còn sao nữa.
Vả lại cũng tại tôi muốn học đòi làm những việc mà nước nhà đang cần đến thành
ra cũng có người cho là con gái mà làm những việc của con giai người ta không
ưa, nên tôi cũng chán đường chồng con, muốn đi tu nương nhờ cửa phật.
Bỗng cô trở lại vui vẻ cười khanh khách nói thêm:
- Và cũng vì duyên cửa Phật, mà hôm nay tôi may mắn, và cũng
là cố tình muốn gặp bác để mời bác cùng đi.
Hai Phúc bỗng trợn tròn hai mắt hỏi sửng sốt:
- Cô rủ tôi cùng đi tu nương nhờ cửa Phật?
- Không, không, cô Xuyến nói và cười rũ rượi, bác chưa hiểu hết
ý tôi. Hôm nay tôi định làm hai việc, chưa kịp bắt tay vào làm thì hai việc đều
đã thành cả. Và định đi tìm bác thì ngẫu nhiên được gặp, đó chả phải là duyên cửa
Phật là gì? Tôi lại là kẻ phật tử đang học đạo tu hành, nhà sư truyền đạo cho
tôi là người lục tỉnh, được tin bác ở trong ấy mới ra, có ủy thác cho tôi đi mời
bác, tôi chưa đi tìm đã được gặp bác, đó chả phải là duyên cửa Phật là gì? Cho
nên gặp bác ở đây tôi tin chắc chắn rằng bác sẽ không nỡ từ chối tôi để cùng đi
với tôi, đến vãn cảnh chùa, và thăm nhà sư trụ trì người miền Nam đang mong mỏi
tin tức quê nhà!
- Cô tin rằng tôi sẽ cùng đi với cô đến thăm chùa? Bác Hai hỏi
một cách nghi ngại.
- Vâng! Tôi tin chắc. Cô Xuyến nói quả quyết, và tôi tin ở
duyên may của con người tu hành, và nhất là tôi tin ở bác, đang đi tìm lại những
tấm lòng cũ ngày xưa, mà tấm lòng ấy có lẽ bác chỉ mới thấy lại ở tôi là lần đầu
tiên.
- Lại xin chịu, tôi xin phục cô lần nữa. Hai Phúc tấm tắc
khen. Xin làm theo lời cô. Vậy bây giờ cô bảo tôi đi đâu nào?
Cô Xuyến nói ngọt ngào từ tốn:
- Hôm nay nhà chùa sắp sửa làm lễ vào hè sớm. Tôi muốn mời
bác đến vãn cảnh chùa lễ Phật và nhân thể cho sư thầy tôi hỏi thăm tin miền
Nam.
Ngừng một lát, cô vui vẻ nói thêm:
- Vả lại, bác có thể gặp lại thêm những tấm lòng ngày trước.
Hai người nhẩn nha đến chùa Hòe Giai. Ở đây các sư, các lão,
các thiện nam, các tín nữ đã đến đông đủ.
Trong chùa ngoài sân dưới nhà tổ đều đông rộn rịp, lố nhố những
người. Nhiều người quen biết chào hỏi cô Xuyến, nhưng không ai nhận ra Hai
Phúc. Cô Xuyến đem một thẻ hương và một gói hoa đưa cho ông Hai và dặn sẽ:
- Bác cứ đem lễ theo mọi người đặt lên bàn thờ Phật rồi làm lễ
xong bác đi quanh quẩn xem lại cảnh chùa. Hễ có nhà sư Sài Gòn nào ra gặp bác,
thì bác cứ theo ông ta.
Cô bỗng cười thành tiếng và chào:
- Thôi chào bác nhé, tôi không dám quẩn chân bác nữa.
Hai Phúc lặng lẽ gật đầu chào lại, và tự lẩm bẩm một mình.
- Con bé đến lạ. Nó làm như giăng bẫy mình. Không cứng bóng
vía cũng hoảng với nó!
Ông vào lễ Phật xong đi ra ngoài sân dạo quanh ngắm cảnh. Ông
luôn miệng đọc “A di đà phật” cúi đầu chào lại những bà con tò mò nhìn theo
ông. Một lúc lâu sau, một nhà sư đã đứng tuổi đi đủng đỉnh từ nhà tổ lên, vào
chùa rồi qua sân trông thấy ông Hai đang đứng bên am chúng sinh 11 liền
thong thả đến bên cúi đầu chào to bằng giọng Bắc:
- Nam mô a di đà Phật! Kính chào tín chủ.
Khi đến gần bên, nhà sư khẽ nói bằng giọng Sài Gòn.
- Mời tín chủ vào chơi trai phòng.
Rồi ông sư thoăn thoắt đi trước dẫn lối vòng xuống nhà tổ,
ông Hai lẽo đẽo theo sau, đi qua hàng hiên quành ra phía sau, vào buồng riêng ở
phía trái bên tây. Bên trong một cụ đầu trọc, áo dài nâu ngồi trên ghế trường kỷ
đang phe phẩy cái quạt nan, liền đứng dậy gật đầu chào ông Hai trước, và bước
ra ngoài trong khi sư ông giới thiệu.
- Sư tổ chúng tôi đấy, người nhường chỗ cho chúng ta.
Rồi sư ông mời ông Hai ngồi, và không rào đón đắn đo gì, bắt
đầu tự giới thiệu, và nói ngay vào câu chuyện đã định.
- Thưa tôn ông! Tôi người lục tỉnh nhưng ra ngoài này đã lâu
nói quen giọng Bắc, cố tránh giọng nên bây giờ xin nói chuyện với nhau giọng
ngoài này cho người ta khỏi ngờ.
Sư ông khép chặt cửa lại, mở hé cửa sổ sau, rồi trở vào ngồi
ngay đối diện với ông Hai, nói tiếp:
- ... Cái việc các ông vừa làm xong lúc buổi chúng tôi dự định
làm từ hôm qua mà chưa làm được. Chỉ nguyên việc làm táo bạo ấy cũng đủ chúng
tôi tin ông, huống chi cô Xuyến có nói ông vừa mới ở trong kia ra, nên chúng
tôi đang muốn gặp. Nay hạnh ngộ được ông đến đây, chúng tôi giãi tỏ với ông, đầu
đuôi ý định chúng tôi như sau. Tôi là Phan Ngan Bác quán xã Bình Dương tỉnh
Vĩnh Long. Trước học văn, sau theo võ, mấy năm trước đây làm Hiệp quản, coi một
vệ tinh binh đóng ở Bắc Ninh. Khi Tây tiến đánh Bắc Ninh tôi đem quân lui giữ
phủ Thuận Thành. Sau khi triều đình ký nhận nước Pháp bảo hộ, đòi quân về, tôi
bỏ quan, đổi tên cạo đầu đi tu, được sư tổ ở đây thu nhận. Cụ tốt lắm, cụ biết
tôi trốn quan nhưng cụ cứ nhận. Bây giờ tôi là Phan Hy Văn, hiệu là Tâm Tĩnh,
trụ trì chùa Tào Xá, xã Quảng Bá trên Hồ Tây. Tôi vốn là bộ hạ của quan tán
Cách Bi, khi người cầm quân chống Pháp ở Bắc Ninh. Đại cục hỏng, ngài vẫn ẩn
tích, mưu khởi sự. Bọn chó săn của giặc bắt được ngài ở Kim Giang, giải về đây
ngài cắn lưỡi và cấu bụng lòi ruột ra tự tử, tụi Tây cứu chữa cho sống để xử tội
không được chúng liền sai lão Kinh lược Nguyễn Trọng Hợp ký giấy chém đầu đem
bêu. Chúng tôi là tôi tớ cũng đang tìm cách cướp đầu ngài, việc chưa làm thì
các ông làm trước chúng tôi. Việc làm giống nhau tất cùng chung một chí khí. Chắc
các ông cũng nghĩ như chúng tôi, việc làm ấy đủ để chúng ta tin nhau rồi. Vả
ông ở trong Nam ra chắc không phải chỉ cốt là thăm quê, mà tất có đem theo mối
manh gì. Vậy mạo muội giải tỏ lòng thành, mong ông chỉ giáo may ra có làm được
mảy may gì ích lợi cho lúc sống thừa.
Mười phần đã chắc tin nhau cả mười. Hai Phúc mới nói qua tình
hình đại thể miền Nam, lòng dân vẫn còn nhớ nước cũ. Kể cả những người hiện phải
làm việc với Tây. Và ông trở ra ngoài này trước hết là tìm manh mối liên lạc, đứng
trung gian làm cho dân hai miền hiểu rõ nhau Bắc, Nam là một, người trong một
nước phải thương nhau cùng, tránh âm mưu chia rẽ của giặc, cố xóa bỏ mọi hiềm
khích do bọn Tây dụng tâm gây ra, sau đó hai bên sẽ dựa vào nhau, giúp đỡ nhau
cùng đánh kẻ thù chung. Sư Tâm Tĩnh hỏi thêm về tinh thần của nhân dân trong
Nam, về số người cùng chung một chí hướng đã ra ngoài này và về công việc liên
lạc ở đây định như thế nào và đã làm được đến đâu. Ông Hai nhất nhất tỏ bày tường
tận. Nhà sư cũng nói thêm về tình hình ngoài này. Cuối cùng hai ông bàn bạc thống
nhất với nhau, cần phải tạo ra cơ hội gây rối ren trong thành phố Hà Nội này để
khua động lòng người, làm thanh thế cho các nơi khác và bắt mối với những đám
nghĩa quân nào đang hoạt động để cùng giúp đỡ nhau. Hai ông liền phác họa đến
công việc trước mắt. Chùa Tào Xá của sư Tâm Tĩnh hẻo lánh ở trên bờ Hồ Tây có
thể là nơi lui tới của vài ba người tâm huyết đến họp bàn. Còn nói trung gian
liên lạc, biến báo tin tức, chia cắt công việc thì phải ở dưới phố này. Mà chùa
Hòe Giai đây thì không thể dùng được. Vì là nơi mà tòa Hiệp lý thành phố và nhà
nước bảo hộ thường dùng để lập đàn chay lễ cầu siêu độ cho những binh lính tử
trận trong khi đi dẹp nghĩa quân. Việc cần thiết phải tìm một nơi đáng tin cậy
làm trung gian đã dẫn hai ông bàn đến cách lựa chọn người. Hai ông lại thống nhất
với nhau, việc nên dựa vào hạng người nào ở nơi đô hội này. Trong lúc này,
không thể trông chờ vào nhà nho và phái nhà giàu có của. Sư Tâm Tĩnh ngồi ngay
người lại, cười nhìn bạn nói.
- Gương quan Kinh lược đấy. Gương Bá hộ Kim đấy. Người ta đã
theo quan Kinh lược làng Lủ hơn theo quan tán Cách Bi.
Nhưng bọn nhà giàu thường vẫn nước đôi. Hai Phúc cũng cười
nói đế theo. Họ không dám theo quan tán Cách Bi, nhưng họ cũng chả theo ông
Nghè làng Lủ. Tôi cho bọn nhà giàu còn khá hơn bọn nhà nho. Ta phải khéo lựa mới
được.
Tự nhiên hai ông cùng nghĩ đến cô Xuyến. Sư Tâm Tĩnh khen.
- Cô ấy tốt, thông minh. Cô ấy phẫn chí đến chùa xin đi tu đã
dăm tháng nay, kinh kệ thông đáo để. Nhưng sư cụ đây là người nghĩa khí yêu nước,
cụ tinh lắm, cụ chưa cho cô ấy thệ phát 12 mặc
áo. Do cụ tôi mới được gặp cô ấy, và cái việc cứu quan tán Cách Bi ngay từ khi
mới bị bắt, chúng tôi đều trông cậy phần lớn vào cô ta, cho nên sư cụ và tôi có
ý nấn ná muốn khuyên cô ấy lấy chồng.
Sư ông ngừng một lát đưa tay với tích nước rồi vừa rót ra
chén vừa nói tiếp:
- May lại gặp được tôn ông ra đây, cô ta có vẻ tin tôn ông,
tôn ông cố khuyên vào. May ra cô ấy nghe. Ý tôi muốn...
Ông Hai tươi cười nói đỡ:
- Ý sư ông muốn tôi làm mối cô ấy cho người Sài Gòn chứ gì. Ấy
tôi cũng đã nói về chuyện lấy chồng với cô ấy như thế đấy.
Sư ông cười nói đỡ.
- Gớm, tôn ông đi dép trong bụng tôi thật. Tôi định cô ấy cứ
lấy người chồng nào mà có lợi cho việc nghĩa là được. Nếu được người trong ấy
mà có quyền thế thì càng quý, Tây nó lại càng tin.
- Được buổi đầu gặp gỡ xin hãy bàn đến đây. Bạch sư ông, tôi
xin nhận đi tìm nơi liên lạc. Còn việc của cô Xuyến tôi sẽ dò ý cô ta xem thế
nào rồi thu xếp sau. Bây giờ xin tạm biệt.
Hai Phúc nói và đứng lên chào. Sư ông không giữ, mở rộng cửa
tiễn chân khách ra ngoài. Chắp tay cúi đầu đọc A di đà Phật chào khách. Ông Hai
đứng lại cắp mũ vào nách chắp tay cúi đầu vái đọc A di đà Phật chào lại. Ông vẫn
đứng yên, ngẩng đầu nói thêm.
- Bạch sư ông người có thấy cô Xuyến nhờ người bảo hộ cô ấy
trưa mai đón tôi, ở hiệu rượu Ba Lê phố Tràng Tiền.
Ông cúi chào một lần nữa, rồi đội mũ lên đầu đi ra cổng.
Hôm sau đúng trưa cô Xuyến đi qua cửa hiệu Ba Lê. Ông Hai
Phúc đã đứng đợi ở ngoài hiên. Ông cúi chào cô rồi đi theo ngay, vừa đi vừa
nói:
- Mời cô, ta lại đi lên phía Bờ Hồ. Thế nào? Tôi đã lộ lắm
chưa hả cô!
- Ở trên phố này, chưa ai nhận ra bác, ngoài tôi.
- Vậy xin cô giữ kín cho nhé. Bây giờ tôi mới thấy cần phải
giấu mặt. À anh em ông ấm Vẽ bây giờ thế nào?
- Cũng vẫn còn tin được, nhất là chị Cúc.
- Chắc sư ông cũng đã nói với cô. Tôi đang cần tìm một nơi đặt
mối liên lạc.
- Nhưng nhà bà dì chị Cúc thì nay không tiện.
- Thầy bói Thịnh thế nào?
- Vẫn như xưa, thẳng và hay vạ mồm vạ miệng, lúc nào cũng sốt
sắng với việc nghĩa, chỉ phải cái bây giờ thầy ấy lại đông khách.
- Cô đưa tôi lại xem bói nhé, cô cứ giới thiệu tôi là một lão
Sài Gòn mới ra kinh doanh, đi xem một quẻ cầu tài, rồi để kệ mình tôi với ông
ta, tôi sẽ dò la ý tứ và tùy cơ quyết định.
- Khéo mà hỏng lại hóa ra lạy ông tôi ở bụi này, chả bõ.
Nhưng bác đã muốn tôi xin dẫn... Nào ta đi mau không có chiều thầy ấy lại lắm
khách.
Quả là đáng mừng cho ông Hai. Cuộc gặp mặt rất là bổ ích. Thầy
bói Ba Thịnh sốt sắng tham gia ngay vào việc nghĩa. Ông Hai biết thêm hiện tình
ở thành phố này, nơi quân Pháp đã ngự trị, ông lại đặt được trụ sở liên lạc, vừa
tiện lợi, vừa đáng tin, từ đó công việc tuyên truyền vận động đã được mở rộng
ra nhiều nơi vào nhiều hạng người. Ba Thịnh và ấm Vẽ đặt liên hệ với lớp sỹ
phu, lớp nhà buôn ở thành phố, bắt mối với được cả mấy ông ở trong dinh Tổng đốc
và nha Kinh lược. Cô Xuyến và cô Cúc liên lạc trong giới phụ nữ và vẫn liên hệ
nối lại với chị em xóm Bình Khang ở Hàng Than, hàng Giấy với cả những cô bán
hàng hầu hạ trong các cửa hiệu Tây và Khách. Sư ông Tâm Tĩnh và sư cụ chùa Hòe
Giai liên lạc với các già, những người mộ đạo. Hai Phúc ngao du rộng với những
người làm công trong các cửa hiệu Tây, với những bồi bếp trong nhà Tây, với những
người miền Nam công chức ở ngoài này, rồi qua họ bắt mối được với những người
theo đạo Thiên chúa, với các thầy giáo trường Tây ở bờ sông, ở Hàng Bông và với
học sinh trường tu sỹ. Ông gửi con, anh Phú, vào làm trong một cửa hiệu Tây, vừa
làm vừa học chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Được anh em giúp vốn ông cùng với một người
Sài Gòn mở một hiệu cà phê bán rượu ở đầu phố Vũ Thạch, trên nền trường cũ của
ông cử Vũ Huy Đức, lấy tên là hiệu Cà phê Sài Gòn. Và cũng từ đấy mọi người
quen gọi ông là ông Hai Sài Gòn. Trong vòng hai tháng, mọi việc sắp xếp manh mối
đã xong. Hai Phúc mới họp lại lần đầu tiên với ấm Vẽ và sư Tâm Tĩnh ở trên chùa
Tào Xá để bàn đến cách hoạt động. Việc họp bàn cơ mật, thì tùy nơi tùy lúc gặp
nhau nhóm lại, chứ không phải nhất thiết một nơi cố định còn chỗ liên lạc nơi
thông tin tức, mệnh lệnh tất nhiên phải là nhà thầy bói Thịnh. Thầy ta luôn
luôn có mặt ở nhà để nhận và báo tin, người các nơi, người giới khác nhau,
không cần thiết phải biết nhau, nhưng tất cả đều phải cổ vũ ủng hộ mọi hành động
yêu nước, chống Pháp và khi có kế hoạch chung thì phải thực hiện phối hợp. Mọi
người đều đồng ý với nhau, nên bắt đầu bằng những việc nhỏ lẻ tẻ nhiều nơi
trong một lúc, sẽ là tiếng vang lớn, và mới có quà làm lễ ra mắt để liên hệ với
nghĩa quân ở các tỉnh. Một chương trình cụ thể được vạch ra để tiến hành ngay
trong tháng, việc đầu tiên giao cho ông Hai phải làm, là việc trừ một thứ trò
chơi đang bêu riếu người Việt Nam. Lúc ấy cứ chiều chiều ở hiệu cà phê hay
khách sạn của Pháp, khi đã đông bọn Pháp lui tới thường thấy một đứa bé 15 – 16
tuổi đầu đội mũ phớt, mặc áo sơ mi trắng dọc đỏ, quần dạ chẽn ống, đi đôi giầy
vải nâu, vai khoác thanh gỗ đẽo cong hình cái súng, để làm trò vui cho bọn
Pháp. Nó đứng thẳng người, xòe tay để lên miệng thổi toe-toe-toe! Rồi cầm súng
ngắn chĩa và hùng hổ hét ala sô 13 chạy
lên, vừa kêu đùng đẹt làm tiếng súng bắn. Đó là màn kịch quân Pháp tấn công. Đoạn,
nó nhắc mũ cắp nách, quẳng súng xuống, ôm đầu chạy, ngã bò lê bò càng, xiêu bên
nọ, đổ bên kia, có lúc nằm sóng soài, như người chết sấp, rồi lại đứng lên cắm
cổ chạy... Đó là tả quân Việt Nam thua chạy. Rồi nó tụt giầy, cắp mũ đứng lên
run lẩy bẩy chắp tay phủ phục người xuống lạy bọn Tây, miệng nói líu lại: “Bẩm
lạy quan lớn Tây con xin hàng”. Tay vái đầu cúi, miệng nói thành một điệu nhịp
nhàng, trước còn đứng lạy xuống, sau ngồi phệt xuống vái như đàn bà lễ Phật, lê
đít bốn phía lạy bọn Tây ngồi đấy, đó là cảnh dân Việt Nam sợ hãi đầu hàng. Cuối
cùng nó đi giầy đội mũ vào, phủi quần áo vác súng lên vai bước đều nhịp nhàng,
miệng nói, “ắc đê ắc đê” và hát “a-lồng ăng-phằng đờ la pa-tờ-ri” 14 đó
là cảnh bọn Tây thắng trận trở về.
Tụi Tây reo, lắm đứa chạy hẳn ra ôm, bắt tay thằng bé đưa thuốc
lá cho hút. Chúng nó thi nhau quẳng những đồng xu, đồng săng-tin, và cả đồng phờ-răng
nữa để thưởng công cho thằng bé. Thằng bé mồm ngậm thuốc lá phì phèo vênh vang
kiêu hãnh, đi sang hiệu khác. Một số trẻ con hàng phố chạy theo nhìn ngắm và
thèm muốn cuộc đời của nó. Dân phố thì căm ghét nó, nhưng không trừng trị được
nó. Vì nó được bọn lính Tây nuôi và che chở, bọn này quý nó lắm gọi nó là “Lơ bế
coong đờ Sơn Tây” 15 bọn
lính ta quen gọi tắt là thằng Sơn, không ai biết gốc tích nó ở đâu. Người ta
nói tên lang thuốc Lương Văn Đạt đã nhặt được nó ở đâu đưa cho quân lính Pháp
đem bỏ lẻn vào thành Sơn Tây làm nội ứng, sau đó lấy được thành. Bọn lính Pháp
nuôi nó cho mãi đến bây giờ và dạy cho nó làm cái trò vui ấy. Hai Phúc quyết định
xóa bỏ trò chơi ấy và đồng thời cảnh cáo cả bọn Tây láo xược. Một buổi chiều
trong khách sạn lớn “Ma-nhi-phích” ở Bờ Hồ, khi thằng Sơn sắp sửa làm trò, thì
một cậu bồi bàn cùng trạc tuổi nó nhưng cao lớn hơn, quần áo trắng bốp, cổ áo
cao, hàng cúc đóng sáng loáng trước ngực đi ra, bập bẹ nói với bọn Pháp ngồi ăn
trong khách sạn.
- Tu át giu đơ a la phoa 16 .
- Ủy bồng 17 ,
bọn Tây vui vẻ đáp.
Thế là anh ta nhanh nhẹn xông ra đóng trò với thằng Sơn. Nó
đóng Tây bắn thì anh ta chống trả quyết liệt. Khi nó đóng ta chạy, anh đóng Tây
đuổi đánh thúc vào mạng mỡ nó thật đau và “bú dù, hèn nhát, phản quốc”. Khi nó
đóng ta đầu hàng, anh lại sấn sổ đến đá cho nó một cái, chửi là chết giẫm, chết
ngay đi có được không, nó vội bỏ cảnh ấy, đóng cảnh Tây thắng hùng hổ bước một
hai, liền bị anh dùng lối chơi phục kích quật ngã xuống đánh cho túi bụi, cho
nó nằm chết dí ở dưới đất, rồi vùng lên bỏ chạy. Trò vui có hai người đối đáp
loạn xạ rối mắt bọn Pháp đang mải vui thích khen ngợi, đến khi thằng Sơn ngã vật
xuống bất tỉnh, mới kịp nhận ra, và ùa ra đuổi bắt đối thủ, thì anh kia đã chạy
xa. Những bồi bếp ở khách sạn và những thông ký người Sài Gòn có mặt ở đấy đều
chạy đến phân đôi bọn Tây và tìm cách bênh vực anh bạn cùng nghề chạy trốn. Một
ông phán Sài Gòn nói thẳng vào mặt bọn Tây:
- Các anh phải biết các anh cứ giở cái trò chơi mất dạy ấy phạm
đến lòng tự trọng của người An Nam, lăng nhục cả người An Nam thì không những
người ta đánh nhừ tử cái thằng mất gốc kia, mà người ta còn giết cả các anh nữa.
Đó là danh dự con người.
Bọn Tây đành chịu lui, và thằng Sơn bị trận đòn đau, đánh
toàn những miếng hiểm, nên ốm âm mấy ngày rồi chết, thành phố bớt được một trò
hề nhục nhã. Sau đó liên tiếp xảy ra mấy vụ bồi bếp giết chủ Tây lấy của rồi đi
biệt, không tìm ra thủ phạm làm xôn xao cả thành phố và nức lòng mọi người là vụ
giết một thiếu phụ Nhật Bản 23 tuổi, cô Symalaya, vợ tên quan năm tình báo, coi
việc do thám và bắt người tình nghi. Cô này nói thạo tiếng ta, thông tỏ và len
lỏi như người dân nước ta, nên đã giúp cho Pháp được nhiều việc và gây tổn hại
rất lớn cho nghĩa quân. Nó đã bị đền tội ở ngay nhà riêng tên quan năm, bên cạnh
khu Đồn Thủy, có lính canh suốt ngày đêm, mà việc cung cấp hầu hạ đều do người
nhà binh đảm nhiệm. Dân chúng càng thêm phấn khởi, thấy bọn Pháp không tìm ra
được manh mối, chỉ bắt giữ người tình nghi thôi, và để đền bù công lao của nó,
bọn Pháp đã cử hành đám ma rất trọng thể, đưa hài cốt nó chôn vào nghĩa địa
Tây, cạnh đền thánh Trấn Võ, nơi chỉ dành cho quan cao tử trận. Tiếp đến ngày
27 tháng 7, giữa lúc thành phố đang tưng bừng đón tiếp quan Kinh lược đại thần
Nguyễn Hữu Độ tự kinh ra nhậm lại chức cũ, một loạt 19 phát súng của quân đội
Pháp bắn chào mừng vang trời dậy đất, khi tàu vừa cặp bến, thì ở Bờ Hồ, kho
hàng lớn của nhà buôn Pô-ti-ê, trên đất thôn Bảo Khánh cũng bốc cháy. Trời hè
các thứ đều khô nỏ, ngọn lửa cứ việc thiêu trũi, không có sức gì cản nổi. Nó có
phần nào làm giảm vẻ đón tiếp long trọng hôm nay. Bọn Tây tức lắm, khác với bọn
quan chức bên nha Kinh lược và dinh Tổng đốc cho những sự kiện xảy ra trong mấy
tháng nay đều là ngẫu nhiên và không may đáng tiếc. Bọn Pháp cho đây là một kế
hoạch chống đối có suy tính, và tìm mọi cách đối phó. Trước hết chúng bắt Nguyễn
Hữu Độ thay đổi một lượt các quan chức thừa hành ở tỉnh và các huyện. Chúng
không để một người có danh vọng nào ngồi yên ở nhà, Nguyễn Tư Giản ở Du Lâm bị
giữ rịt ở nha Kinh lược cho Nguyễn Hữu Độ kiềm chế, Nguyễn Trọng Hợp quyền Kinh
lược sứ vừa được về nghỉ ở Kim Lũ chưa được một tháng đã phải lên đường, vào
kinh nhậm chức Lại bộ thượng thư. Rồi tháng 11 năm ấy 1887, nhân bắt được người
là Năm Xuân, mà nha Kinh lược coi là một kẻ chống đối mãnh liệt, bị bắt ở một
xã trong tỉnh Hà Nội, bọn Pháp cho xử án công khai chém ở giữa vườn hoa thành
phố, chúng cho mọi người đến xem để uy hiếp tinh thần dân chúng, và tuyên truyền
cho uy thế của nhà nước bảo hộ. Một buổi sáng tháng mười ta, trời quang tạnh
mát mẻ. Khu vườn hoa mới mở rộng thênh thang ở ngoài Bờ Hồ, bên cạnh tòa Hiệp
lý cây cối còn thưa thớt, ở giữa một cái bệ sừng sững mới xây cao trên đặt pho
tượng thần Tự do, đầu tỏa hào quang ra tua túa như cắm gai sắt, hôm nay bên tượng
cắm một lá cờ ba sắc lớn phe phẩy trên không như tỏa thêm rực rỡ oai quyền của
nhà nước bảo hộ. Dưới chân bệ hai hàng ghế dài đón các quan khách Tây, ta. Hai
hàng lính khố xanh súng cắm lưỡi lê sáng quắc, đứng dàn hai bên cạnh pháp trường
ngăn dân chúng đến xem đứng ra bên ngoài. Bên trong hàng lính ở góc thẳng với
hàng ghế ở phía bắc, có một yên thư và một ghế bành, trên ghế ngồi bệ vệ quan
Chánh án sát tỉnh Hà Nội, người giám trảm buổi nay, đội khăn xanh, mặc áo gấm
lam, có hai người lính cầm hai lọng xanh đứng che, và hai người lính nón dấu thắt
lưng da có gài lưỡi lê, tay cầm lăm lăm cái roi song dài như cái gậy đứng hầu
hai bên. Ngoài yên thư, ở góc phía nam cũng có một yên thư, một ghế bành có một
lọng che, một lính hầu, trên ghế quan Kinh lịch giãi giấy tờ văn án, ngồi để tiến
trình của cuộc hành quyết và công bố tội trạng can phạm. Bên trong hai hàng
lính, chạy dọc cách đầu yên thư độ 5 thước tây là chỗ dành cho những nhà buôn lớn,
những người Sài Gòn, những công chức Pháp được mời dự. Còn dân chúng đứng cả ở
ngoài hai hàng lính. Pháp trường chính xử chém là khu đất trống ở phía trước,
bên trong hai hàng lính đóng cọc giăng dây ba phía ngoài, ở giữa cắm một cái cọc
cao và hai cái cọc thấp gần mặt đất ở chếch hai bên, bên ngoài nữa là mặt đường
phố Hoàn Gươm, Bờ Hồ, có lính cầm súng canh giữ, hai đầu khách bộ hành được đi
trên vỉa hè phía mép hồ, có thể đứng bên kia nhìn pháp trường. Mặt trời đã lên
quá ngọn cây. Không khí bắt đầu nóng, đúng tám giờ khách mời đã ngồi đủ các
hàng ghế, phần lớn là Tây, công chúng bên ngoài còn thưa thớt, chỉ loáng thoáng
cả bốn dãy trong ngoài độ non trăm người. Ông Kinh lịch cũng cứ ra lệnh cho bắt
đầu, tên lính hầu ở bàn ông Kinh lịch cầm dùi ra đánh một hồi ba tiếng trống vừa
dứt. Một đoàn lính khố vàng đủ cả súng gươm giáo mác áp giải phạm nhân, từ bên
tòa Hiệp lý sang. Đi đầu là bốn người lính khoác súng vây hai bên một cụ già đầu
trọc tóc bạc trắng đâm lên tua tủa, cổ đeo gông gỗ, hai tay bị trói quặt ra đằng
sau, tiếp đó là sáu người lính cầm gươm, giáo mác rong hai người búi tóc vấn
khăn rối, tay bị trói thõng trước bụng. Đến pháp trường, hai người lính dẫn ông
cụ đến trước mặt quan Án sát, người lính kia dẫn hai người búi tóc đến trước
yên thư ông Kinh lịch. Sau ba tiếng trống hiệu, ông Kinh lịch đứng lên mở tờ giấy
trịnh trọng nói:
- Hôm nay tòa Án sát đề hình tỉnh Hà Nội, công khai xử quyết
mấy can phạm bạn nghịch: có quan Án sát sứ tỉnh Hà Nội Phạm đại nhân giám trảm,
và nhiều quý quan bên chính phủ bảo hộ đến chứng kiến. Bây giờ bắt đầu việc điểm
danh và điểm tội.
Hắn nhìn xuống những can phạm, hất hàm giục:
- Những tội phạm phải quỳ xuống. Bắt nó quỳ lạy! Bay!
Hai anh búi tóc đã quỳ lạy từ trước, ông cụ già vẫn đứng thẳng
ngửa mặt nhìn lên hàng ghế quan khách, mấy tên lính ấn ông cụ quỳ, ông không chịu,
ngồi phệt xuống mà lẩm bẩm nói lớn:
- Tấm thân này không biết quỳ lạy!
Kinh lược è giọng nói tiếp ngân nga như đọc văn:
- Tên chính phạm Phạm Văn Tích tức Nguyễn Văn Xuân lại có tên
là Phạm Văn Tích tức Đồ Tịch, tuổi 70, là một tội phạm nguy hiểm âm mưu chống lại
triều đình và chính phủ bảo hộ, ám hại quan quân. Đang trốn lẩn ở xã Xa La huyện
Thanh Oai, bị quan quân tóm cổ. Lưới trời lồng lộng, phép nước oai nghiêm, kẻ
làm ác phải đền tội ác, hôm nay được dẫn đến pháp trường xử chém để làm gương
cho mọi người, xã Xa La chứa chấp kẻ trọng phạm, khinh nhờn phép nước, tội
không thể dung được phạt hai trăm đồng bạc bằng một nghìn quan tiền. Hai tên
Nguyễn Văn Tự, Trần Nhật Tề Lý trưởng và Phó lý xã Xa La không biết ngăn kẻ
gian vào xã được, phạt Lý trưởng đánh 40 trượng nộp tiền 30 đồng bạc, Phó lý
đánh 20 trượng nộp 20 đồng bạc, hôm nay cũng đương xử phạt tại pháp trường.
Hắn ngừng lại đặt tờ giấy xuống dõng dạc ra lệnh:
- Kẻ nào việc ấy. Quân lính tuân hành, xử tòng phạm trước. Xử
chính phạm sau.
Pháp trường bỗng nhốn nháo hẳn lên. Người ta cố chen lách nghển
chân cho cao để nhìn vào. Ba tiếng trống ra lệnh, bốn người lính giải ông cụ ra
giữa pháp trường, mấy người lính bên này giải hai người lính búi tóc sang phía
trước mặt ông Án sát, bắt hai người nằm sấp sóng soài, song song ở ngay quãng
trống bên ngoài yên thư, kẻ giữ chân, người giữ tay, người đè đầu. Sáu tiếng trống
lệnh, ông Kinh lịch đứng lên nói:
- Xử trượng Lý trưởng, Phó lý xã Xa La.
Hai người lính hầu quan Án cầm roi song đi ra, giơ lên vụt xuống
đều đặn đủ số roi quy định, rồi ngừng lại nói buông thõng:
- Đứng dậy lễ tạ đi!
Hai người đứng lên phủi phủi quần áo rồi chắp tay cúi xuống
phủ phục lạy ông Án hai lạy, đứng lên vái hai vái, rồi đứng trông vọng sang
phía ông Kinh lịch vái hai vái, giữa lúc ấy ở đám đông bên ngoài có người đang
lách qua hàng lính canh bên ngoài len vào và nói:
- Đù mẹ nó! Bị đánh còn phải lạy kia à?
Mấy tên lính miệng quát “Láo nào! Im” và định cản người ấy ra
nhưng trông thấy người liền đổi giọng ngay nói:
- À, ông Hai Sài Gòn, để ông ấy vào.
- Tội gì vậy? Các thầy? Ông Hai hỏi.
- Lý trưởng ẩn nặc 18 giặc
trốn không báo.
Ông Hai chen qua hàng người vào hẳn trong. Lý trưởng, Phó lý
đã lạy xong, đứng ra một bên. Mọi người đều dồn mắt nhìn ra giữa pháp trường.
Ông cụ đã bị trói chặt vào các cọc, hai tay quặt đè lên cọc, hai chân bị ghìm
vào hai cái cọc thấp. Gông đã được lấy ra để phơi cái cổ cao ngẩng. Ông cụ mắt
vẫn sáng, chòm râu vểnh lên, cụ mỉm cười bảo mấy người lính.
- Các chú chả cần trói chặt vậy!
- Dạ! Bẩm cụ, phép nước như vậy, một người khẽ nói, cụ đừng oán
chúng con nhé.
- Các chú ở lại, nghĩ đến nhà thì nên nhớ đến nước.
Tên đao phủ đã đến. Hắn vấn khăn đầu rìu, mặc áo cộc vải xanh
tay rộng, thắt dây lưng đỏ ngang lưng, bỏ múi ra hông, tay xách con dao lưỡi
mác to bản sáng loáng.
Mấy người lính tản ra, hắn đến bên cọc xem lại nút trói.
Ông cụ trợn mắt bảo:
- Không can chi đâu! Chém cho ngọt nhé.
- Ồ! Ông cụ điềm tĩnh, thật anh hùng! Mấy người xuýt xoa
khen.
- Ngợ quá... Như là... Hai Phúc lẩm bẩm, cố lách ra ngoài
cùng nhìn cho rõ.
Chợt chín tiếng trống báo hiệu. Ông Kinh lịch nói dõng dạc.
- Xử chém Năm Xuân chính phạm!
Tên đao phủ cắp dao đến trước mặt Án sát, hai tay bưng chuôi
và lưỡi giơ lên vái hai vái như nhận lệnh, rồi cầm chuôi vừa múa vừa đi từng bước
nhịp nhàng đến trước mặt ông cụ, hắn khua dao bước lùi lại cũng nhịp nhàng lẩm
bẩm đọc:
“Vốn không quen biết! Thù ghét chi nhau, sống không thù nhau,
chết không oán nhau...”
Bỗng Hai Phúc chạy xô ra chỗ dây căng chực nhảy xả vào và gọi
to.
- Bác Cử! Bác Cử! Tiên sinh! Tiên sinh!
Mấy lính canh chạy ra kéo ông lại, ông cố giằng ra không được,
mắt cố nhìn ông cụ và tai còn nghe rõ:
- Hàng cơm. Hàng cơm. Lý trưởng nó phản nó bảo đấy!
- À!
Ông Hai mới kịp à một tiếng thì tên đao phủ đã chạy trở lại
khua ngay lưỡi dao chém phập một cái, đầu ông cụ đã rơi xuống. Ông Hai vội rú
lên một tiếng “trời” rồi nhắm mắt lại choáng váng, khi định thần lại thì một hồi
trống dài dồn dập chấm dứt buổi hành quyết. Các quan khách đã ra về, và bọn
lính xua công chúng giải tán. Ông Hai thẫn thờ như người mất hồn, ở giữa đám đông,
bị dồn đẩy sang tận bên kia hè đường, ông đứng thừ ra bên một cây sấu còn tơ, mắt
lơ đãng nhìn sang cái tháp Rùa xa lạ mà bây giờ người ta quen gọi là tháp
Thương Kim. Chợt có tiếng gọi ở đằng sau:
- Bác sợ lắm à? Cháu cũng kinh lắm. Cháu bỏ về ngay từ khi nọc
đánh hai tòng phạm.
- À cô! Cô đi đâu thế, Hai Phúc quay lại thấy cô Xuyến liền hỏi.
- Cháu ra đằng hiệu, không thấy bác, bác đứng làm gì vậy?
- Đang ngắm cái tháp của quan Phủ nhà ta xây lại và nhớ đến
kiểu đất của ông cử Tam Sơn. À này đầu đuôi câu chuyện vụ án này ra sao?
Ông Hai đã bước ra cùng đi bên cô Xuyến và sẽ hỏi. Cô Xuyến
đáp:
- Ông cụ bị can chống lại nhà nước tên là Năm Xuân, lại có
tên là Đồ Tịch còn hai người kia là Lý trưởng, Phó lý xã Xa La huyện Thanh Oai
bị can là che giấu ông cụ.
- Cô thấy ông cụ thế nào? Cô có ngờ ngờ gì không?
- Cháu chỉ trông ông cụ khi mới giải đến, ông cụ có vẻ bình
thản lắm. Khuôn mặt trông cũng hơi quen quen...
- Cụ cử Tam Sơn đấy, cụ ấy đổi tên đi, cụ ấy nhận ra tôi. Tôi
chạy xô đến gọi, bị lính nó giữ lại, tôi còn nghe cụ ấy nói “hàng cơm” đúng là
cụ ấy nhắc đến hàng cơm của tôi, tiếc quá tôi đến hơi muộn.
- Tội nghiệp cụ ấy quá nhỉ.
- Thương cụ ấy nhưng cũng phải phục cụ ấy là anh hùng. Đã nói
là làm, việc không thành nhưng ít ra cũng là cầm gươm đánh Tây đến cùng, chứ
các ông nhà nho khác chỉ đắn đo mãi hóa ra nằm bẹp cả một lũ, chịu thua thằng
Tây cả.
Thấy bên vườn hoa đã vãn người, chỉ còn lại một số cu li
thành phố đến dọn dẹp pháp trường, ông Hai dẫn cô Xuyến đi sang vườn, vòng lại
đằng sau bức tượng, tìm một chỗ ngồi để nói chuyện lâu. Vườn hoa mới mở rộng
thênh thang, chung quanh đều là thôn xóm dân cư mới bị đuổi đi, mà phố xá thì
chưa xây dựng được nhà cửa, nên lại càng thêm rộng vắng vẻ, ít người qua lại.
Hai người ngồi trên phiến đá lớn kê làm ghế, ông Hai nói tiếp:
- Mà bọn Tây chúng nó xảo quyệt thật, chính Lý trưởng báo bắt
cụ Cử đấy, thế mà nó cũng đem ra xử để đánh lừa dân ta, cụ ấy nói “hàng cơm, Lý
trưởng nó báo đấy” chính là cụ có ý bảo tôi rằng bọn Tây nó đánh lừa ta, chứ
chính thằng Lý trưởng bị phạt kia đã báo bắt cụ ấy, cụ bị chết vì nó phản. Thằng
Tây xảo quyệt thật.
- Ừ có lẽ thế thật! Cô Xuyến nói, cháu thấy hai tay Lý trưởng
Phó lý không có vẻ sợ sệt, hay tức giận gì cả. Nó thế nào ấy...
- Giá cứ thẳng ngay một chiều cũng còn đỡ tức, đằng này nó lại
giở lối lộn sòng như mấy thằng Lý trưởng Phó lý kia bị đánh đứng dậy phủi đít lễ
tạ, rồi nhăn nhở cười ra vẻ mãn nguyện lắm, trông ghét quá. Nó nham hiểm như thế
đấy. Mưu nó thâm thì mình cũng phải có mẹo giỏi. Vỏ quýt dày đã có móng tay nhọn.
Ta phải dùng mọi cách để đánh lại nó, cho nên như tôi đã nói với cô hôm nọ, muốn
cho công việc liên hệ với nhau được mật thiết hơn, và công việc tung hứng cũng
làm được nhanh chóng hơn, thiết tưởng cô nên lấy chồng, lấy cái đám mà tôi đã
nói rõ cả tính tình, tư cách, nếu cô bằng lòng tôi sẽ dẫn ông ta đến.
- Cháu cũng đã nghĩ kỹ rồi bác ạ. Cô Xuyến nói thành khẩn dịu
dàng. Cháu nhiều tuổi rồi, lấy chồng vẫn ngài ngại. Không còn trẻ trung gì nữa,
mà mưu cầu việc nọ, việc kia e người ta khó tin. Chi bằng ta kiếm một cô em nào
trẻ đẹp của đào Nhung gả cho ông ta có lẽ sẽ tốt hơn.
- Không được! Ông Hai ngắt luôn, người Sài Gòn người ta không
lấy những cô lăng nhăng ấy đâu, những cô ấy nếu đáng tin cậy có thể đem gả cho
Tây nó giúp được một việc nào đó. Nhưng phải thận trọng lắm mới được. Kẻo lỡ ra
thì khốn. Đằng này người ta là người quyền quý, lại có tâm huyết biết trọng
nghĩa. Thế tất phải là người thế nào người ta mới ưng ý chứ. Vả còn muốn mưu
chung kế sách, nói cho người ta nghe, thì phi cô ra, khó có người làm được. Chỗ
ấy bây giờ rất can hệ, nằm ngay trong vùng Bãi Sậy, liên lạc rất có lợi. Cần có
cô đến đấy lắm. Nên lấy người ta cô ạ.
- Gớm, bác chỉ tán vào, cháu xưa nay quen văng mạng rồi sợ
khuôn theo nề nếp, lại hóa làm hỏng việc.
- Tự mình cả chứ. Đã quyết là được, vợ chồng như đũa có đôi,
có âm có dương, cân đối mới nảy nở chứ, cô có chồng có con rồi sẽ càng thông
minh, lanh lợi, quyền biến hơn. Công tư vẹn cả. Mà lại làm vui lòng ông cụ nhà
ta, vừa gỡ được tiếng cho ông cụ nữa. Chả còn ai chê trách được.
Cô Xuyến ngồi lặng một lúc rồi đứng dậy nói:
- Vâng bác đã dạy để cháu hỏi ý kiến thầy cháu thế nào đã. Có
thế nào cháu xin thưa với bác sau, thôi chào bác, cháu đi nhé.
Ông Hai Sài Gòn quả là một tay mối lái. Ông Nguyễn Nhuận người
Nam kỳ, Tri phủ phủ Ninh Giang tỉnh Hải Dương, đã được ông Hai chính thức đưa đến
hỏi cô Xuyến con quan phủ Hoài Đức làm vợ chính thất. Nhà trai đã đi ăn hỏi vào
tháng chạp năm Kỷ Hợi. Sang đầu xuân năm Mậu Tý, mồng mười tháng giêng âm lịch,
đám cưới được cử hành rất linh đình ở phố Tràng Tiền Hà Nội, cái phố mới mở đẹp
nhất, đông người Tây ở nhất, mà mấy tháng trước đây, nhân dịp giỗ đầu quan cố
Toàn quyền Bôn-be thành phố đã đặt cho tên mới là phố Bôn-be. Đây là một đám cưới
đầu tiên chồng Nam vợ Bắc rất sang trọng, rất bề thế, rất môn đăng hộ đối, mà mọi
người đều khen ngợi. Người ta khen cô dâu tốt số, muộn mà chắc, người ta khen
đám cưới đã giữ được đủ nghi thức, bà con thân thuộc bạn bè quen biết họ nhà
gái được mời đến dự đông đủ. Chú rể cô dâu đi lễ khắp lượt từ đường trong họ,
và dẫn nhau đi chào khắp các bậc chú bác, cô dì. Nhất là người ta khen đám cưới
lại có thêm được nhiều vẻ mới đặc biệt, mà từ trước tới nay ở đây chưa từng có.
Đám cưới được kéo dài hai ngày. Ngày hôm trước là tiệc rượu mời bà con họ hàng
làng xóm. Ngày hôm sau, ngày lễ cưới chính thức có các quan Tây và ở tòa Hiệp
lý thân đem sổ đến làm giấy chứng nhận khai giá thú cho hai vợ chồng. Sau đó là
một bữa tiệc lớn có đủ các quan khách bên nha Kinh lược, bên chính phủ bảo hộ,
các nhà buôn lớn Tây Tàu, các cha cố bên Nhà chung, các vị hòa thượng ở các
chùa lớn đến dự mừng hạnh phúc gia đình đoàn viên, bách niên giai lão, và Bắc
Nam xum họp một nhà. Buổi chiều lễ đón dâu về nhà chồng cũng được mọi người chú
ý đặc biệt. Từ nhà gái ở cạnh khu Tràng Tiền cũ giữa phố Bôn-be đến đầu phố
Hàng Khay, cũng nhà của Thương Kim mới làm dành riêng cho đôi vợ chồng mới,
quãng đường dài độ ba bốn trăm thước Tây mà hành trình kéo dài hơn một tiếng đồng
hồ. Cô Xuyến chít khăn vành dây vàng, mặc áo mớ ba phủ ngoài áo nhiễu màu thanh
thiên, mặc quần lĩnh Bưởi, chân đi đôi hài cánh phượng thêu kim tuyến tay cầm
cái nón thúy khua đan bằng những sợi đỏ, quai thao đỏ, mỏ vịt bằng vàng óng ánh
kêu lách cách, ung dung cùng với hai cô phù dâu cũng ăn mặc tương tự như thế bước
lên xe song loan đi trước tiên, có hai con ngựa mặc áo nâu đỏ kéo. Sau đó là xe
song mã của chú rể cũng hai ngựa kéo, tiếp mười tay xe nhà sơn đỏ, vải đỏ có viền
chân chỉ hạt bột, mỗi xe có một người phu đội nón dấu chóp đồng, mặc quần áo đỏ,
quấn sà cạp đỏ, đứng vào trong càng, hai tay nắm vịn kéo đi, trên xe có một người
khách ngồi. Sau cùng là một xe ngựa kéo, trên để những hòm sơn đen bọc vải đỏ đựng
của hồi môn 19 của
cô dâu và những tặng phẩm của quan khách mừng cô dâu và chú rể. Các xe đó đều
là của quan Tây và các hiệu buôn lớn cho mượn. Các xe đi nối đuôi nhau, diễu
hành từng bước một. Đến nơi nhà mới của cô dâu, các người cùng đi được mời đón
ăn một bữa cơm thanh lịch do cửa hiệu của ông Hai Sài Gòn ngay bên kia phố sửa
soạn và hầu hạ.
***
Cô Xuyến theo chồng đến phủ Ninh Giang đã gần được một năm.
Qua manh mối văn thân trong vùng gắn với văn thân tỉnh Hà Nội cô đã bắt liên lạc
được với nghĩa quân Bãi Sậy (Hưng Yên), với nghĩa quân của Đốc Tít ở Hai Sông
(Hải Dương), với nghĩa quân của Đốc Đen ở Tiên Hưng (Thái Bình). Cô Cúc đã nhận
lấy Nguyễn Hữu Dương Tri huyện huyện Yên Mỹ, có cớ để đi lại vùng này, cũng thường
đến chơi thăm vợ chồng cô Xuyến để dò xét tình hình, thu nhận tin tức bằng kế
hoạch cùng kết hợp tiến công và phòng thủ làm đảo lộn cả mưu đồ của địch. Tri
phủ Ninh Giang và Tri huyện Yên Mỹ cũng nhiệt tình giúp đỡ. Ở Hà Nội thầy bói
Ba Thịnh suốt ngày đông khách, qua những quẻ bói thầy lôi kéo được thêm nhiều
người. Và mỗi ngày hai lượt buổi trưa và tối, thầy nhận tin và truyền tin rất đều
đặn. Thầy phát những mệnh lệnh rất nhanh chóng kịp thời một cách thông minh quyền
biến, những tiền của, súng đạn đã được đem phân phối đến giúp nghĩa quân. Nhiều
trận đánh phối hợp thu được thắng lợi. Nghĩa quân của ông Hai Kế, em ông Tán
Thuật, đã được báo cho bày cách và giúp cho đánh phục kích bắn đắm một tàu thủy
của Pháp trên sông Luộc thu được một số súng đạn. Nhiều nghĩa quân từ căn cứ
Bãi Sậy đã được dẫn đi đánh phối hợp với nghĩa quân ở huyện Phú Xuyên, phủ Thường
Tín, huyện Thanh Oai đến mãi phủ Ứng Hòa. Dân chúng khắp nơi quanh tỉnh thành
Hà Nội đang nức lòng sắm sửa sẵn sàng ngóng đợi.
Nhưng tình thế bỗng xoay đổi một cách bất ngờ. Giữa năm 1889,
sau khi căn cứ ở Bãi Sậy bị đánh tan, đột nhiên một số đầu mối quan trọng bị
khám xét và bắt bớ. Hai Phúc, thầy bói Ba Thịnh, cô Cúc, vợ chồng cô Xuyến, những
người trong cửa hiệu ông Hai Sài Gòn đều bị bắt giam. Ông ấm Vẽ không bị ai
khai ra nên không bị bắt, thăm dò tin tức mới biết rõ đầu đuôi sự việc. Chính
Hoàng Cao Khải Tổng đốc Hải Dương kiêm Khâm sai tiễu phủ sứ đã theo dõi và sắp
đặ --------------------------------
(Khẩu ngữ, Ít dùng) mang (giày dép) ở chân. (BT) |
|
Titre d’ identité: thẻ căn cước – (chứng minh thư). |
|
Tiếng Quảng Đông: ăn uống. |
|
Cảnh đã khác. |
|
Người đều khác. |
|
Không thể làm gì khác được. |
|
Quân và quyền. |
|
Giống khác. |
|
Bỏ đất, tránh đi nơi khác. |
|
Trông thấy có ăn mà không ăn là điên rồ. |
|
Nơi thờ những linh hồn không có ai thờ cúng. |
|
Cắt tóc. |
|
A lassaut: xung phong. |
|
Một câu trong quốc ca Pháp – đi lên, những người con của Tổ
Quốc. (Allons enfants de la Patrie). |
|
Thằng bé con người Sơn Tây. |
|
Tiếng Pháp nói sai, đại khái là: Tôi xin cùng làm trò. |
|
Ừ, tốt. |
|
Giấu. |
|
Của người con gái khi về nhà chồng, mang theo làm vốn. |
Chương VIII
Ra đến cổng nha Kinh lược, bốn cái xe tay đã sắp hàng đợi sẵn
đấy, ông Đào Thúc Chính, Tư vụ nha Kinh lược, mời hai vị tân khoa lên ngồi ở
hai xe đầu, rồi đến quan Phó bảng Thành Ngọc Uẩn, Thị giảng Học sỹ Quang Lộc tự
Thiếu Khanh, hội trưởng hội Tư văn huyện Thọ Xương, còn ông ngồi vào xe cuối
cùng. Khách đã yên vị tề chỉnh, bốn cái xe xếp dài thành hàng một, tám người
phu, kẻ kéo người đun, bon bon chạy theo đường đã dặn trước, qua phố Đấu Xảo,
phố Hàng Khay vòng quanh bờ Hồ Gươm. Quan Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền vừa mới
ở kinh ra, ngồi trên cái xe tay mới lạ, có người cầm càng cứ đầu gò cổ kéo đằng
trước, kẻ khom lưng vịn hòm xe đun sau, ông cả thấy là lạ, khó chịu đang muốn
lên tiếng gợi chuyện, thì cảnh Hồ Gươm hoàn toàn đổi khác đã hiện ra trước mắt,
làm ông sửng sốt, bỡ ngỡ, xúc động không nói nên lời. Ông Tư vụ họ Đào như hiểu
ý, giục xe chạy lên song song, vừa đi vừa giảng giải:
- Thưa các quan, quanh hồ này về phía tây và phía nam được
quy định là khu phố Tây, nên phố xá được mở mang rộng rãi khang trang lắm. Các
đình chùa cổ sẽ phải chuyển đi hết, dân cư phải dọn đi, nhường chỗ cho thành phố
làm nhà gác cho các quan Tây ở cho đẹp. Chỉ còn giữ lại đền Ngọc Sơn ở giữa hồ
để dùng làm chỗ các quan bảo hộ ra chơi mát...
Xe đi hết phố Hàng Khay đến ngã tư Hàng Bài góc hồ, ông Tư vụ
bảo các xe chạy quặt lên Bờ Hồ tiến về đền Ngọc Sơn, và nói tiếp:
- Cái nhà Tây hai tầng sơn trắng đẹp ở đầu phố Hàng Khay kia
là hiệu thuốc tây Bờ-lăng mở đã bốn năm nay. Góc phố Bôn-be bên kia là hiệu cà
phê bà đầm Be-lơ. Cái biển gỗ mun khảm sà cừ lưỡng long triều ba chữ “Bôn-be phố”
là tấm biển của phố Hàng Khay làm ra, do cụ Thương Kim đem cung tiến từ ngày mở
phố kỷ niệm cụ lớn cố Toàn quyền, đã ba năm nay. Con đường Bờ Hồ này mấy năm
trước gọi là đường “Hoàn Gươm”, thì từ năm kia, dỡ chùa Quan Thượng đi mở rộng
thành phố đổi tên là phố Ngạc Nhi...
Xe chạy qua trước vườn hoa tượng Bôn-be. Mọi người im bặt. Bức
tượng đồ sộ đứng thế tiến lên ở trên cái bệ cao, một tay giương cao lá cờ nước
Pháp, một tay xòe ra như che chở một ông đồ búi tóc củ hành, chít khăn chữ
nhân, ngồi xếp bằng, khom lưng, tay cầm quyển sách mở, ngửa mặt, ngước mắt nhìn
lên một cách tâm phục... Cái cảnh thực ấy đánh mạnh vào tâm hồn mấy người chung
quanh tượng, những dãy hoa trồng tươi đẹp đang đua nở trăm hồng, nghìn tía. Xa
xa đằng sau tượng, một cái lầu bát giác cao rộng, bên trong kê những hàng ghế
bóng nhoáng. Hôm nay lại là buổi chiều thứ bảy, trời xuân nắng đẹp quang đãng,
từng cặp Tây đầm tấp nập đi lượn quanh vườn hoa. Những cô vú em người Việt, áo
dài thụng tay, trắng lốp tung tăng chạy đi chạy lại. Nguyễn Thượng Hiền tưởng
chừng như bị lạc vào một đất nước xa lạ nào, lòng se thắt lại. Ông Tư vụ họ Đào
cũng lẳng lặng vẫy xe đi nhanh lên đỗ trước cửa đền Ngọc Sơn. Bốn người cùng xuống
xe đi qua tháp Bút, qua cổng đài Nghiên để vào đền, Nguyễn Thượng Hiền khẽ nói:
- Đi xe làm gì vừa nhiêu khê tốn tiền, vừa không nhã.
Ông Tư vụ đỡ ngay:
- Bẩm lễ nghi của thời đại phải thế. Trước kia, khi cụ thống
Bôn-nan đưa vào đây hai chiếc xe Nhật Bản, tặng cụ thượng Nguyễn Hữu Độ một chiếc,
thì chả ai dám nghĩ đến đi xe. Nhưng từ khi hãng Héc-mơ-ni-ê và Pờ-lăng-tê đứng
ra đóng một lúc 120 chiếc cho thuê, thì từ đấy tự nhiên thành cái lệ quy định,
việc quan việc dân to tát đều phải tính đến món tiền đi xe. Đón mời các quan
đây mà không có xe, thì vừa là thiếu lễ phép với các quan, mà còn lại bị bọn
Tây, bọn Khách, bọn ký phán Sài Gòn chúng nó khinh nữa...
Đến đầu cầu Thê Húc, ông Tư vụ vội chạy lên trước để trình giấy
vào thăm đền, vì các “quan bảo hộ” hiện đang dùng nơi này tạm làm nhà hát vui
chơi cho “đạo quân bình định” đang hành quân ở Bắc kỳ. Nguyễn Thượng Hiền thấy
khó khăn, vội kéo ông Tư vụ lại:
- Thôi, không cần vào, quan lớn ạ.
- Bẩm các quan vào lễ đức Văn Xương đế quân để thêm tứ mà đề
thơ.
Thám hoa Vũ Phạm Hàm nói:
- Thế này cũng đủ tứ lắm rồi!
Ông Tư vụ nói tiếp:
- Ít lâu nay, các vị khoa bảng về qua đây đều muốn qua thăm đền
Ngọc, vào đền có nhờ tôi đưa đi cho chắc chắn, vì chả nói giấu gì các quan, người
nhà quan Kinh lược, Tây nó có gặp nó cũng nể... Mấy hôm trước, cụ lớn Tam
nguyên Yên Đổ cũng đứng ở đây làm bài thơ ngẫu đề toàn hồ, tôi đã mài mực để cụ
lớn viết vào tường, nhưng tên lính Tây gác ngăn không cho viết. Bài thơ thế
này:
Ba chục năm nay trở lại hồ,
Bây giờ cảnh sắc khác ngày xưa!
Nhà tranh đâu cả toàn lầu gác,
Súng lạ đì đòm tịt trúc tơ.
Chim chóc đi về lầm lối cũ,
Cốc cò chiều tối ngủ sương mưa.
Đáng thương vạn vật năm trăm ấy,
Còn lại bên hồ một đá trơ!
Nguyễn Thượng Hiền bật lên tiếng nói:
- Một đá trơ! Không biết là cái tháp Bút này hay là cái anh đồ
ngồi xếp bằng tròn dưới bàn tay bảo hộ của Bôn-be đại vương nhỉ?
Ông Tư vụ thủng thẳng nói:
- Quan Hoàng giáp nghĩ tai ác thật, chỉ cái tháp Bút này thì
còn được một hòn đá chứ, nếu nói đến đằng kia thì cả hòn đá cũng không còn là của
mình!
Bốn người lại cùng đi ra lên xe, không ai nói thêm một câu
nào nữa, mỗi người đều trầm lặng trong ý nghĩ riêng. Xe chạy qua Hàng Đào, Hàng
Ngang rẽ sang Hàng Bồ, phố chợ Đông Thành, ra phố Hàng Điếu đến cổng đền Thần Hỏa.
Ở đây trang hoàng rực rỡ, hai hàng cờ ngũ hành cắm rải hai bên bay phấp phơ trước
gió như tung tỏa ánh xuân tươi, ngoài cổng vào dựng một cổng chào lớn, kết lá
cài hoa rực rỡ.
Một tràng pháo dài chào mừng bốn người từ ngoài sân. Mọi người
có mặt đều đứng ở dưới sân và trên hè vái chào hai vị khách. Quan Thị giảng
Thành Ngọc Uẩn thân dẫn hai vị đi chào các bậc khoa hoạn tiền bối như quan Tam
nguyên Nguyễn Khuyến, quan Tổng đốc Lương Huy Ý, quan Tuần phủ Hoàng Xuân Kỳ. Rồi
quan Thị giảng và quan Tư vụ mời tất cả mọi người cùng vào trong nhà chia nhau
mỗi người ngồi vào ghế. Quan Thị giảng và quan Tam nguyên ngồi đầu hai hàng,
hai vị khách được mời ngồi vào ghế thứ ba mỗi hàng, đối diện nhau. Dưới ánh đèn
tỏa sáng, hai bên góc tường hai cành đào đang e lệ hé nụ cười thầm, các khách dự
cũng đang thân mật vui vẻ trò chuyện nho nhỏ đủ nghe... Qua tuần trà, một bọn
cô đầu hát mười người mặc toàn trắng ra dọn ấm chén nước chè đi rồi đặt các món
thức ăn vào. Khi trên bàn tiệc đã bày biện đầy đủ tinh tươm rồi, quan Thị giảng
Thành Ngọc Uẩn đứng lên trịnh trọng nói:
- Bẩm các quan lớn, các quý vị, hôm nay, giờ này đúng giờ
Thân bước sang giờ Dậu, ngày 16 tháng giêng năm Quý Tỵ, một ngày xuân đẹp, trăm
hồng nghìn tía đua tươi, bà con trong Văn hội Thọ Xương, trong hội đệ tử đức
Thánh Trấn Vũ, trong hội thiện tín đền Ngọc Sơn cùng họp nhau ăn tết ở đây một
lần nữa để vui đón hai vị Tiến sỹ tân khoa của tỉnh ta là quan Đệ nhất giáp Tiến
sỹ cập đệ đệ tam danh Thám hoa Tam nguyên Vũ Phạm Hàm và quan Đệ nhị giáp Tiến
sỹ Hoàng giáp Á nguyên Nguyễn Thượng Hiền, hai vị thanh niên đỗ nhất nhì khoa
Xuân thí Nhâm Thìn năm ngoái. Thật là vẻ vang cho tỉnh ta, cho văn thân, văn hội
chúng ta. Tôi xin thay mặt Văn hội Thọ Xương mời các quan các vị nâng chén uống
rượu xuân mừng hai vị tân khoa, và mừng cho tư văn nước ta...
Nhưng quan hội trưởng chưa nâng chén, ông vẫn nói thong thả:
- Sở dĩ từ xuân năm ngoái đến đầu xuân này mới mở tiệc mừng
là vì riêng quan Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền mãi đến nay mới tự kinh ra Bắc.
Và hân hoan hơn nữa là lại có được cụ lớn Tam nguyên tiền bối và các cụ lớn
khoa bảng bên nha Kinh lược, nha Thương chính, và quan Thương biện tỉnh vụ Nguyễn
Ngọc Kim cũng đến dự góp vui mừng. Hội chúng tôi lại xin nhớ công sức quan Tư vụ
Đào Thúc Chính đã tần tảo chủ trì cho bữa tiệc được họp mặt đầy đủ như thế này,
trong lúc thế gian chưa đã hẳn bình thì. Vậy xin nâng chén chúc mừng sự thành
công và vui xuân của tất cả các vị.
Mọi người đều nâng chén lên mời. Quan Tam nguyên Thám hoa Vũ
Phạm Hàm đứng lên nói mấy lời cảm tạ thấm thía. Rồi cuộc tiệc bắt đầu. Có rượu
ngon có cô đầu hầu rượu, có đào nương hát hãm, có trống phách, khách dự lại hầu
hết là văn nhân thi bá, nhưng văn chương lúc này hình như lép vế, ai cũng thấy
ngài ngại, không dám thổ lộ tâm tình, mà thù tặc tâng bốc nhau phù phiếm như
thói thường, trong khi tao loạn, thì lại không muốn tự hạ quá như thế, nên chuyện
trò cũng thành ra dè dặt, nhạt phèo. Các quan truyền cho cô đầu cứ dềnh dang trống
phách hát những bài cũ quen thuộc cho nó ra vẻ tiệc vui... Và có ai bông đùa
cho thêm dấm ghém thì cũng là lời nói bâng quơ vô thưởng vô phạt, không ai mặn
mà lắm, nên cũng phào lên như mảnh ngói vỡ ném tõm xuống nước, phun tăm lên mà
thôi. Bữa tiệc tàn dần trong lặng lẽ. Bỗng ngoài sân lộp cộp tiếng giầy đinh, bốn
người Tây và bốn người Nam mặc võ phục vai khoác súng, đã đứng dàn hàng ở ngoài
hè. Trong này xôn xao, đã có mấy vị nhấp nhỏm đứng dậy. Ông Tư vụ vội đứng lên
nói:
- Các quan bình tĩnh ngồi yên đã. Ba-trui 1 nó
đi tuần đấy. Nhốn nháo, nó thêm nghi.
Ngoài hè, tên thông ngôn hỏi vào hách dịch:
- Làm gì họp đông thế này? Giấy phép đâu?
Ông Tư vụ móc túi áo lấy tờ giấy gấp tư mở ra đem đưa cho hắn,
cúi gật đầu chào tên quan Pháp và nói thêm:
- Bẩm có cả chữ vi-da 2 quan
Chánh đốc lý.
Tên thông dịch lại lời tên cẩm Tây vừa hỏi xì xồ:
- Ai đứng ra mở cuộc họp này?
Ông Tư vụ đáp lại tên cẩm:
- Bẩm quan, tôi ạ. Tôi được cụ lớn Thống sứ và cụ Võ cấp giấy
cho đi mua gỗ đem về trùng tu đền đức thánh Trấn Võ, nên có xin phép biện lễ
thánh ăn mừng để mai lên đường.
Tên cẩm hỏi vặn:
- Thế sao lại mời cả các ông nhà nho kia?
Ông Tư vụ trả lời rắn rỏi:
- Các ông là hội viên hội đệ tử thờ thánh.
- Thế còn hai anh mới đỗ có ghi tên trong đơn, ông mời đến
làm gì?
- À, bẩm quan, đó là vì hai lẽ: một là vì ông Nguyễn Thượng
Hiền là con quan Hiệp biện đại học sỹ Nguyễn Thượng Phiên, ở trong hội đệ tử
phò thánh và trước đây đã đứng hưng công làm đền này, hai là các ông ấy mới đỗ
đầu cả nước, chúng tôi cũng mừng, cũng như Nhà nước bảo hộ đã mừng các ông ấy.
Tên cẩm lắc đầu, nói gắt:
- Cho xem giấy phép đi mua gỗ?
Câu hỏi sẵng đột ngột quá, khiến ông Tư vụ khó chịu đã toan nổi
nóng cự lại, nhưng ngẫm nghĩ sao, lại kìm ngay được, ông xin phép vào trong đền
chính mở tráp lấy ra một tờ giấy bản đưa cho tên thông ngôn. Tên cẩm nhìn qua một
lượt, bắt dịch lại cả nội dung giấy phép.
Nghe dịch xong, tên cẩm gật đầu, đưa trả lại giấy và dùng dằng
suy nghĩ một phút, bảo thông ngôn:
- Đi hỏi thẻ các khách ăn.
Ông Tư vụ nói khẩn khoản:
- Bẩm quan lớn, đây là bữa tiệc hợp pháp, lại toàn là hội thờ
thánh cả, có cả các quan bên nha, quan Thương Kim trong ban Hội đồng thành phố,
xin quan lớn miễn.
Thương biện Kim cũng đứng ra nói:
- Đây là tiệc vui đầu năm thờ thánh, người trong tỉnh này cả,
tôi công nhận.
Tên cẩm Tây còn ngần ngừ, đưa mắt như giục mấy tên lính Tây cứ
bước vào nhà, mấy tên này đã sồng sộc bước qua cửa, một người khách dự liền đứng
lên bước hẳn ra trước mặt tên cẩm và tự giới thiệu bằng tiếng Pháp:
- Thưa ông, tôi là Phán sự tòa Đốc lý. Đây là bữa tiệc hội họp
có mục đích chính đáng, có giấy phép hẳn hoi, bây giờ lại chưa đến quá chín giờ
tối, theo như luật cấm của thành phố. Thế mà ông định hỏi thẻ những khách dự ở
đây, tức là ông đã phạm vào một cái quyền nhỏ mọn cuối cùng mà các ông đã thí lại
cho bọn người bản xứ. Vậy chính ông đã phạm vào luật của thành phố. Tôi sẽ hỏi
thẳng quan Đốc lý xem...
Tên cẩm thấy có người nói sõi tiếng Pháp và đúng lý lẽ liền vẫy
gọi bọn lính đi ra, gườm gườm nhìn ông Phán Đốc lý và dọa:
- Được, chín giờ đúng, tôi trở lại mà còn đông thế này, thì
a-lê về bóp tuốt!
Tên kia cồm cộp bước xuống sân đi ra, ông Phán còn nói theo một
câu tiếng Việt:
- Bóp cái tổ sư mày! Chỉ hoạnh láo!
Nhưng rồi bữa tiệc cũng tan một cách lặng lẽ mau chóng. Quan
Thị giảng hội trưởng có việc bận đã xin cáo về trước. Các quan khách khác cũng
lục tục chào nhau ra về cho đúng trước chín giờ, giờ quy định giới nghiêm. Chỉ
còn ở lại vừa đúng tám người: ba vị khách và năm người vốn được mời lưu nán lại
từ trước. Ông Tư vụ họ Đào mời tất cả vào căn phòng ở chái Tây nghỉ ngơi uống
nước để ở ngoài lính hầu dọn dẹp. Ông đi ra cắt đặt công việc xong, một lúc
sau, lại trở vào vui vẻ nói:
- Thưa các quan, yên ổn cả rồi, bây giờ nó có đem đến cả nước
nó sang cũng không hoạnh được ta nữa, mọi thứ đều là hợp pháp.
Rồi ông cười nói tiếp:
- Trong cái không may, có cái may, thế là tự nhiên đuổi được
hết các vị không đáng ở lại mà cứ tò mò muốn gạ chuyện... cho rõ “ý họ định làm
gì chăng?”. Và chắc bấy giờ các quan mới tỏ trong bữa tiệc này có hàm cả ý
nghĩa “trong quân mặc trắng” 3 đấy
nhỉ?
Hoàng giáp Nguyễn Trọng Hiền nói ngay:
- Thưa quan Tư vụ, trong lúc nhân dân đang khổ và tình thế
nhiễu nhương, quan lớn bày vẽ ra linh đình quá thế này vừa phí tổn vô ích, vừa
dễ sinh cho người ta ngờ.
Ông Tư vụ nói:
- Bẩm đấy là ý định chung của bà con tỉnh nhà cả đấy ạ. Trước
hết là nghi lễ lúi xùi coi không tiện. Năm ngoái khóa đầu tiên trường
Anh-tét-pét 4 quèn
tốt nghiệp mà lão Lý trưởng Quỳnh Lôi có em theo học, đã đứng ra đốc thúc dựng
rạp ở giữa trời treo đèn kết hoa mở yến khoản đãi hai ngày, có cả quan Tây,
quan ta về mừng, bức ảnh chụp bữa yến trên căng bức hoành “Quỳnh Lôi hoan
tân” 5 còn
bày ở phòng khách nha Kinh lược đấy. Lại cũng năm ngoái, những học trò ta học
trường Tây đỗ Séc-phi-ca 6 được
thành phố mở tiệc ăn mừng rất to, coi như hơn cả đỗ trạng ngày trước. Nay các
quan đỗ đầu cả nước, tiêu biểu nhất cho đạo nho, mà đón tiếp không bằng họ, thì
là tự mình hạ giá mình, cũng cần phải nhĩ mục quan chiêm chứ. Hai là có mở to
thế này, thì mới mời được đông, mới trà trộn trót lọt được, và ở trên họ mới
tin mình đã nhất tâm thán phục danh vọng, mới cho phép mình dễ dàng hội họp.
Chúng tôi đã nghĩ chán rồi, nát cả tâm can, vạn bất đắc dĩ cả.
Ông đứng lên, nói thêm:
- Bây giờ mời các quan tạm nghỉ một chút, đến độ nửa đêm
khuya tĩnh, ta chính thức bàn đến công việc cuộc họp của chúng ta. Tôi cần đi
ra ngoài một lúc.
Ông đi khỏi, còn lại bảy người đều đã biết rõ đang có một
công việc lớn lao chờ đợi mình, mà thì giờ chờ đợi tuy phút chốc mà ai nấy cũng
thấy đằng đẵng như là ba đông. Nhưng có lẽ vì cái đại sự sẽ bàn nó lớn lao quá
chăng, mà ai nấy còn có vẻ dè dặt, như không dám tin hẳn ở mình cũng như ở người,
nên vẫn chưa thể cởi mở tâm tình mà hàn huyên vui vẻ ngay được, căn phòng nhỏ hẹp
vẫn trầm lặng, mọi người vẫn mải thả lòng theo những suy nghĩ lo lắng riêng.
Nguyễn Thượng Hiền chợt hỏi nhỏ Vũ Phạm Hàm:
- Tôn huynh có quen biết quan Tư vụ lắm không?
Vũ Phạm Hàm đăm đăm nhìn ngọn đèn như cố nhớ lại mọi việc xa
xăm, trả lời thong thả:
- Tiểu đệ cũng như ngô huynh, cũng chỉ biết qua loa ông ta được
tiếng là người trọng nghĩa...
Cụ Tam nguyên Yên Đổ đang nằm lim dim trên sập cũng mở bừng mắt
ra, nói xen vào như giảng giải:
- Ông này khá, làm việc quan lâu năm vừa thạo việc vừa gần
dân, biết kẻ trên, người dưới. Tôi biết ông ta đã lâu. Mấy năm trước đã ở đây
phải đổi đi Hải Dương. Từ năm kia mới lại được chuyển về đây. Tôi lên trên này
cũng được ông ta giúp đỡ, mách bảo nhiều chuyện...
Thấy bậc tiền bối lão thành bị ho ngừng lại, Nguyễn Thượng Hiền
thốt ra ý nghĩ băn khoăn:
- Tất nhiên là người tốt mới có được tâm trí. Xử sự mọi việc
đâu ra đấy trong lúc khó khăn này và khéo vê tròn vào cho ta. Nhưng theo đuổi
việc nghĩa cao hơn nữa, thiết tưởng mỗi người vẫn được phép đắn đo... truy cứu...
ngộ nhỡ một cái thì sao, vô số gương tầy liếp sờ sờ trước mắt đấy...
Cụ Yên Đổ hết cơn ho, lại nói ngay, thong thả rành rọt:
- Nắm nắm nơm nớp, phòng vi đỗ tiệm 7 như
thế cũng phải. Vả lại cũng là cái lối xảo quyệt của bọn Tây ly gián đối phó với
dân ta đấy. Mấy năm trước, chúng nó đặt những quan đầu chóp là người địa phương
như Kinh lược Nguyễn Trọng Hợp, Tuần phủ Vũ Nhự đấy, còn thuộc quan thì hầu hết
là người Đàng trong. Bây giờ thì lại khác, các quan chủ chốt đắc lực là người
miền trong, còn thừa hành ở dưới lại đều là người quê hương bản quán ở đây cả,
tất lại cũng có ý tứ...
Một vị khách nói xen vào:
- Bẩm cụ lớn và các vị, bọn giặc cướp nước và bọn tôi đòi bán
nước tất nhiên tinh ma ranh mãnh lắm, nó dùng mọi cách để ly gián dân ta. Nhưng
nếu đã nghi quá thì chả lẽ cứ chịu ngồi yên khoanh tay hay sao? Phải tin rằng
trí thành thông thánh 8 sẽ
cảm hóa được tất cả mọi người, chứ huống hồ những người tốt hẳn hoi. Quan Tư vụ
đây là người tỉnh nhà được anh em văn hội tin cẩn từ lâu. Hồi còn sinh thời cụ
cử Kim Cổ, cụ đã rất coi trọng ông ta, cụ quý ông ta là người nói ít làm nhiều,
cụ đã bàn cách nhờ vả nhiều nơi để cho ông ta được về đây đấy. Để mà có mối biết
được mánh khóe của giặc mà liệu.
Một vị khách nữa tiếp lời:
- Lo xa rất phải. Nhưng lo quá rồi thôi không làm gì nữa cũng
là hỏng! (ông ta cười vui vẻ đổi giọng): Có lẽ vì chán đời, chán người quá, nên
nghe đâu như quan Hoàng giáp mấy năm trước đã đi ở ẩn và làm ra những bài thơ
xuất thế hơn cả Uyên Minh 9 .
Xin quan lớn cho lũ tiểu đệ được trộm nghe...
Trong khi chờ đợi, chuyện phiếm, thì nói chuyện văn thơ vẫn
là cách thích hợp nhất với mọi người, nên nhiều vị khách tán thành ngay.
Mọi người đang vui vẻ ngân nga, chợt có tiếng khẽ đập vào cửa
phòng, một người rón rén đứng ra khẽ kéo then cài, cánh cửa tung ra, ông Tư vụ
theo gió ùa vào, hỏi ngay tíu tít:
- Các vị làm gì thế? Bình thơ à? Không cho tiện chức dự với
à?
Cụ Tam nguyên ngồi gọn vào một bên giường, đáp:
- Trong lúc đợi quan lớn, cũng đọc mấy bài thơ cho có việc,
chứ có dám bàn riêng ăn lén quan lớn đâu.
Quan lớn có muốn chủ trì cuộc bình thơ, chúng tôi xin lĩnh
ý...
Ông Tư vụ khoanh tay, giơ tay phải lên gãi tai, nói rất lễ
phép:
- Ấy chết! Cụ lớn dạy quá thế, tiện chức đâu dám. Sở dĩ ta
nán lại ở đây, đêm hôm khuya khoắt thế này, là vì công việc khác kia chứ; đâu
có phải là để bình thơ... Xin cụ lớn xá cho cái tội bộp chộp nói vui...
Ông quay lại đóng chặt cửa cài then hẳn hoi, rồi đi thẳng vào
phía trong cùng khẽ mở một cái cửa nách ở bên tường ra ngó qua cửa, rồi lại
khép ngay lại, trở vào đứng bên bộ ghế nhựa, chắp tay nói:
- Bẩm cụ lớn và các vị, giờ thì vững như bàn thạch, chả còn
lo ai quấy rầy nữa, nhưng thản hoặc có động, thì cụ lớn và hai quan tân khoa cứ
ở lại đây, còn các vị sẽ theo cửa ngách này ra vườn, sẽ có người dẫn sang nhà
bên, cửa ngoài và cửa ngoài kia, tôi cài kỹ cả rồi, bên ngoài nữa còn có lính
canh dềnh dàng vào được đến đây còn ối thì giờ, ta có thể đã rút đi ngủ yên bên
hàng xóm được một giấc rồi... ấy là phòng xa thế chứ, bây giờ chúng nó còn mải...
Ông ngồi lên ghế nhựa với lấy cái ấm ủ nhấc bình tích rót nước
ra chén đủ mời lượt các vị khách, rồi ngồi xếp bằng tròn, ông nói:
- Mời các vị xơi nước, rồi xin phép cụ lớn và các vị, ta ngồi
nhích lại gần nhau, bàn cho nó ấm cúng...
Nguyễn Thượng Hiền nói đỡ ngay:
- Thưa quan lớn, cơm no, rượu say, nước uống đủ lửng bụng rồi,
bàn gì xin cứ bàn thẳng ngay đi ạ... Vậy quan lớn đứng chủ cuộc họp.
Ông Tư vụ vội vàng trình bày lễ phép:
- Bẩm quan lớn không dám ạ, bẩm đã có cụ lớn Tam nguyên, cao
tuổi đứng đầu chỉ giáo cho chúng ta... Nhưng thưa các vị, trước khi vào họp, mỗi
người mỗi chốn mỗi nơi, cũng cần phải biết mặt tỏ lòng để nói năng cho nó dễ,
không phải giữ gìn tai vách mạch rừng, tôi xin làm môi giới nói rõ cả. Cụ lớn
và hai quan tân khoa, các vị đều biết rõ cả. Xin bắt đầu từ bên phải cụ lớn, từ
quan phủ Thịnh Hào trước. Bẩm quan Phủ tôi mỹ danh là Đỗ Uẩn, đỗ Cử nhân khoa
Tuất trước, đang làm Tri phủ Tĩnh Gia, cáo quan về đã lâu, ngài là môn đệ cụ cử
Kim Cổ, hiện là cước sắc của Văn hội Thọ Xương, kế đến cậu ấm Đông Ngạc, quý
tính phương danh Nguyễn Cầu, quý công tử quan Bố chánh Sơn Tây trước. Bên trái
cụ lớn, ngồi bên quan Hoàng giáp mới là quan Phán sự tòa Đốc lý quý danh Phạm
Như Sơn, quán làng Dũng Thọ, phố Hàng Bạc là bậc Tây học đầu tiên của huyện Thọ
Xương, người lúc nãy đã cãi lý với thằng cẩm Tây mà các vị đã biết cả, liền bên
cạnh là nhà buôn lớn của Hà Thành chúng ta là ông Nguyễn Quang Minh sản xuất đồ
gỗ ở phố Hàng Quạt. Còn tôi là Đào Thúc Chính, Tư vụ ở Đốc bộ đường Hà Nội trước,
bây giờ ở nha Kinh lược, đã lâu năm đi lại hầu hạ các bậc văn thân trong tỉnh,
được các bậc quá yêu, thường bảo ban dạy dỗ và cũng thường được dẫn dắt đi theo
đường quang lối thẳng.
Ông Tư vụ ngừng lại, làm cho không khí trong phòng trầm lặng
trang nghiêm hơn, ông khêu to ngọn đèn dầu lạc ở trên cây đèn, thấy chưa ai nói
gì, ông lại tiếp lời, nói rành rẽ đầm ấm hơn:
- ... Các vị đều là chỗ thanh khí cả, đã chạm trán nhau ở những
nơi tụ nghĩa, lại đã đụng nhau trong những dịp bắt bớ trên phủ dưới đồn, riêng
tôi trước đây đã được cụ cử Kim Cổ ủy thác, nên anh em gặp nhau tâm sự cũng vẫn
muốn lại quấy động một phen cho bõ lòng địch khái 10 ...
chỉ ở ngay nách bọn giặc, chồn cáo như rươi, bọn mặt người dạ thú hàng ngày soi
mói tìm cách tâng công, nên chưa tiện bề lẻ loi hành sự, nên anh em bàn hãy tìm
cách liên lạc với khắp nơi trong Nam ngoài Bắc... để xem biết binh tình các nơi
xem sao liệu có thể làm thanh viện ỷ dốc được cho nhau không? Tôi cố nhẫn nhục
làm việc ở đây, và năm nay lại nhận đứng ra hưng công làm lại đền Trấn Võ cũng
vì thế. Cũng nhờ vào công việc tin cẩn của quan Võ Hiển như thế, nên được dịp
quan Hoàng giáp mới từ Kinh ra, mấy anh em nghĩ cách nên mở một cuộc đón rước
linh đình để có cơ hội họp rồi nán lại mà bàn bạc cho ra lẽ, cho rõ lối mà đi
chứ cứ chịu lép mãi như cái giọt bọc không chịu được, quốc thù bất cộng đái
thiên kia mà! Huống chi cái bọn giặc này lại rất nham hiểm tàn ác! Cho nên, hiện
những người có mặt ở đây ta đều đã rõ mục đích cả, đều là đại biểu cho một số lớn
bạn bè hằng tâm hằng sản 11 muốn
làm việc nghĩa cả... Vì thế, xin cụ lớn và các vị ta nên bàn ngay vào việc...
Vũ Phạm Hàm nói tiếp ngay:
- Bẩm cụ lớn, bẩm các quý vị, anh em được mời ở lại đây đều
rõ ý nghĩa thận trọng của cuộc họp, quan Tư vụ lại nói rõ thêm, bây giờ mười điều
ta đã tin nhau cả mười, vậy xin cụ lớn cho bắt đầu ngay vào cuộc họp, kim chỉ
phải có đầu, xin cụ lớn ngồi làm trụ cho.
Mọi người đều phụ họa theo tán thành. Cụ Tam nguyên Nguyễn
Khuyến phải nhận lời, ngồi ngay ngắn lại, đĩnh đạc, nói rất nghiêm túc:
- Việc lớn nước nhà, mọi người dân đều phải biết, huống chi bọn
nho giả chúng ta đã được đọc sách thánh hiền, chúng ta phải làm trước thiên hạ
chứ. Nhưng tri kỷ tri bỉ, sở trí tất thắng 12 lúc
này muốn đứng ra đối chọi với giặc Pháp, ta phải rõ tình hình bên địch, ta lại
cần biết lực lượng bên ta cái đã, nhiên hậu ta mới vạch ra mưu kế dụ địch, công
địch, phá địch. Ta phải biết rõ tình hình dân chúng, tình hình hàng ngũ ta ở khắp
nơi. May được quan Tư vụ có lòng trượng nghĩa đã khéo bày ra bữa tiệc cho chúng
ta có đủ người ở kinh, ở tứ chiếng về như thế này được ngồi họp mặt với nhau,
ta hãy cứ nói rõ tình hình mỗi nơi cho nhau biết đã, nghe đồn nó hồ đồ lắm. Tin
tức trong kinh, trong Trung, ta có quan Hoàng giáp, mưu mẹo và chính sách của
Tây, ta có quan Phán đây... và cả bọn chúng ta ai biết gì nói ấy, rồi sau ta
căn cứ vào đấy mà bàn, mà định ra phương lược... Có phải thế không các vị?
Mọi người đều dạ, tỏ ý tuân lời cụ dạy. Ông Phán Hàng Bạc Phạm
Như Sơn nói:
- Bẩm cụ lớn, cụ lớn dạy thật chí lý, rất hợp với lòng mong
muốn của mọi người, ai cũng muốn biết rõ lực lượng của mình ở các nơi thế nào.
Vậy xin để quan Hoàng giáp cho biết những việc ở trong kinh trước, vua quan sỹ
thứ ở trong ấy thế nào?
Cụ Tam nguyên gật đầu nói:
- Phải, phải chuyện bên ta trước, chuyện trong kinh là chuyện
mà mọi người chúng ta cần biết trước hết, mà cũng là cái cớ chính cho cái cuộc
họp này, có phải không nào? Thứ nữa là chuyện bên địch, quan Án và quan Tư vụ sẽ
kể lại cho chúng ta biết những điều mà hai quan đã được mục kích, được biết
đích xác, giờ cậu Nguyễn hãy kể trước đi.
Nguyễn Thượng Hiền vâng theo, lên tiếng phân vua trước:
- Tuân mệnh cụ lớn, tôi xin nói qua về tình hình trong kinh,
tôi nói có lộn xộn, lúng túng, xin cụ lớn và các vị bỏ quá đi cho... Thần kinh
ta bây giờ quả là “Văn vũ y quan dị tích thì 13 ”,
Thánh thiên tử không còn thánh thần văn võ nữa, mà chỉ còn là anh bù nhìn coi
dưa không xong, giữ nhà thái miếu không xong, quyền hành ở cả thằng Khâm sứ bảo
hộ công hay bảo quốc công gì đấy. Bọn Tây nó xông xáo và lục lọi nhà thế miếu,
lần mò khắp cả Nội cung, bắt cả Thái hậu, Hoàng phi nằm tênh hênh trên giường
cho chúng nó chụp ảnh, thế thì còn tôn nghiêm cái gì nữa! Các quan thì đều một
bọn cúi luồn chủ mới, những ai hơi có ý chống đối đều bị giam cầm, cụ già Tôn
Thất Đính thân sinh quan Phụ chính Tôn Thất Thuyết đã ngoài bảy chục tuổi cũng
bị bắt đem đi đày ở hòn đảo ngoài khơi xa tận bên Tân thế giới. Còn bọn theo giặc
thì tha hồ sung sướng: đức ông Tuy lý vương được bọn tây che chở, kẻ ra người
vào quỵ lụy, còn hơn cả vương giả. Những cái gì tiêu biểu cho một nước nhà độc
lập thì đều bị phá hủy hay bỏ bễ hết. Như thế thì cái mẽ vua quan ở chốn miếu
đường bây giờ chỉ còn là cái bộ đồ giấy để lừa bọn nhà nho chúng ta tôn quân,
còn nặng lòng lăng miếu, ngỡ rằng vua nhà Nguyễn còn là nước còn! Than ôi! Nham
hiểm vậy thay!...
Cụ Tam nguyên giục:
- Cậu Nguyễn nói nốt đi!
Nguyễn Thượng Hiền lễ phép nói:
- Dạ!... Bây giờ cảnh Huế còn đau xót hơn nhiều, nói ra khôn
xiết, còn người trong cánh nhà nho ta lại càng tệ hơn nữa, sở dĩ hỏng việc đều
là huynh đệ tương tàn cả, năm trước Cử nhân Nguyễn Thân đi làm Tiễu phủ bắt giết
Phó bảng Nguyễn Duy Hiệu, Cử nhân Lê Trung Đình, người cùng quận; rồi Phò mã Đặng
Hữu Phổ, con quan cố Tổng đốc Hà Ninh Đặng Văn Khiêm, vì có tư tưởng chống
Pháp, đã bị đưa đi an trí ở trên nguồn sông Hương thế mà con ông chú là Phó bảng
Đặng Huy Sáu lại tâng công bịa chuyện đi báo giặc đến bắt đem về kinh hành
hình... Ở Thanh Hóa thì Tổng đốc Nguyễn Thuật, Án sát Vương Duy Trinh điềm
nhiên ngồi xử án và xem hành hình quan nghè Tống Duy Tân... Thế thì còn giời đất
nào nữa, còn đâu là đạo thánh nữa. Dân ai người ta còn dám nghe theo cánh nhà
nho ta nữa!...
Nguyễn Thượng Hiền ngừng lại, cả phòng im lặng nặng nề, ông ấm
Vẽ Nguyễn Cầu, đằng hắng xin phép nói:
- Tôi xin nói qua tình hình ngoài này: Ở đây tuy chưa đến nỗi
tệ lắm như cảnh anh em giết hại lẫn nhau để tâng công cầu vinh, nhưng đại để
cũng lần mò ra đầu hàng theo giặc gần hết, những ông to đầu đều mặc áo thụng
xanh ra chắp tay lạy me-sừ để mong lại ra làm quan cả, trừ cụ lớn tôi đây và...
Ông Tam nguyên cố pha trò làm vui:
- ... Thì cũng bị bắt cóc giam lỏng chứ gì?
Ông ấm cứ nói tiếp, và mọi người vẫn lắng nghe:
- ... Và một vài ông nữa chịu khó ngồi im ở nhà. Còn gương tiết
liệt như quan Nghè làng tôi đấy. Hoàng Tướng Hiệp vừa mới được triều đình truy
tặng Lễ bộ Thượng thư vì đã bị quân nhà Thanh bắt ép không chịu mà tuẫn tiết.
Thì nay mới vỡ lẽ ra là cái triều đình Đồng Khánh đã truy tặng thì tất là có lợi
gì cho giặc Pháp đấy chứ không đâu, còn những người nào chống Pháp thì còn tội
đến cả con cháu, chứ đừng nói đến phong tặng. Việc rành rành là hôm nọ tôi được
một chú Khách Quảng Đông đưa cho xem bản sao bức điện của Tổng đốc Lưỡng Quảng
Trương Chi Động gửi Tổng đốc Vân Quý Sầm Dục Anh truyền chỉ vua Thanh chính
pháp ngay bọn bạo nghịch Việt Nam, theo Pháp là Hoàng Tướng Hiệp, Tuần phủ
Tuyên Quang, Trần Khắc Lương, Tri phủ Yên Bình, Nguyễn Kỳ, Tri huyện Hạ Hòa. Cả
một bọn theo Pháp bị giết là đáng lắm rồi. Tiến sỹ, Cử nhân, con nhà gia thế cả
chứ thường đâu! Thế mà mình không rõ.
Ông Tư vụ cười nói đỡ một cách lơ lửng:
- Bẩm nói thế thì vô cùng ạ, bẩm các cụ lớn hiện ở bên nha
Thương chính, bên nha Kinh lược và các quan Tổng đốc, Bố, Án các nơi, vẫn là
làng nho ta cả, hàng khoa hàng hoạn cũ cả, các cụ phải ra làm là vạn bất đắc dĩ
cả, các cụ ra cũng còn có ý lựa gió che chiều mưu đồ việc khác lớn hơn, hoặc giả
là giúp cho người khác làm nên nghĩa lớn.
Ông ấm cãi lại:
- Bẩm tôi lạy quan lớn cả nón thôi ạ, xin quan lớn xá tội,
nói đường đột, quan lớn chớ mất lòng, chứ các cụ lớn kia mà che chở cho ai được,
tôi cứ bé lại bằng con kiến, có các cụ lớn ấy cứ hớ hênh đem bà con anh em bè bạn
ra phó để che chở cho riêng mình được chức trọng quyền cao thì có.
Sợ sinh ra cãi cọ, mất hòa khí, cụ Tam nguyên giơ cả hai tay
xòe lắc lắc ra hiệu dàn hòa cả hai bên, rồi từ tốn nói:
- Bên ta biết đại khái thế cũng tạm đủ, bây giờ ta thử xét
xem bên địch nó sắp đặt đối phó với ta thế nào xin quan Tư vụ và quan Phán sự
cho bà con ta được biết rõ thêm.
Ông Tư vụ đang cúi đầu suy nghĩ, nghe nói, vội đáp trước:
- Bên nha Kinh lược chỉ biết được qua qua thôi, không bằng
quan Phán tòa Đốc lý, quan lớn vừa biết tiếng Tây đọc được báo, biết nhiều việc
mới, xin để quan lớn nói sau, tôi xin nói trước, trình cụ lớn và các vị rõ cái
mưu mô của bọn Pháp cai trị ở đây.
Ông ngừng lại đợi ý kiến mọi người, thì cụ Tam nguyên giục:
- Được xin quan lớn cứ nói những điều quan lớn đã mục kích ở
đây cần nhất anh em chúng tôi không muốn nghe cái gì hồ đồ, vì chúng tôi bị nghe
họ tuyên truyền nhiều quá rồi nên dễ sinh ra bán tín bán nghi...
Ông Tư vụ nói rành rẽ nhưng vẻ đăm đăm ngùi ngùi:
- Bẩm chuyện thì nhiều, nhưng xin nói tóm tắt một ít thôi và
với những cái có bằng chứng rõ ràng nhất. Nha Kinh lược là đầu cả cái xứ Bắc kỳ
này, nó như cái kiểu tổng trấn Bắc thành ngày xưa, ấy thế mà bây giờ nó chẳng
có một tí quyền hành gì, đến cả cái triều đình bệ rạc như quan Hoàng giáp vừa
nói, nó cũng không được phép biết đến. Mọi việc ở đây đều phải qua tay phủ Thống
sứ cả. Nha Kinh lược chỉ còn là một kẻ thừa hành, thiên lôi chỉ đâu đánh đấy, bắt
dân phu cho bọn Pháp đi đánh dẹp, đi mật thám dân tình để giúp Tây đánh lại văn
thân các nơi, và cố gắng đôn đốc thúc giục các quan các tỉnh làm mọi việc theo
ý muốn quan Pháp, còn ngay việc bổ bán các quan từ viên chức ở phủ huyện trở
lên cho đến quan tỉnh đều do quan Thống sứ quyết định cả. Nha Kinh lược chỉ còn
là kẻ đòi đắc lực của bọn Pháp và những người làm ở đấy tất cả đều là thân trâu
ngựa, sợ Tây như sợ cọp, nhưng soi mói dân mình thì lại quá diều hâu, cú vọ! Đấy
các vị xem, vừa mới sang xuân, “Cụ” thống đã gửi cho quan Kinh lược một bức thư
thế này đây...
Ông Tư vụ móc ở trong túi ra một tờ giấy bản gấp làm tám đưa
trình cụ Tam nguyên. Cụ mở rộng tờ giấy ra bên trên viết chữ nôm có in dấu son
tròn hình bà đầm xòe đội mũ gai chống gậy, cụ đưa cho ông Phủ Thịnh Hào bảo đọc.
Ông này đỡ lấy lẩm bẩm đọc trước trong khi ông phán Phạm Như Sơn giảng cho cụ
Tam nguyên rõ:
- Bẩm cụ lớn, nó viết bằng tiếng Pháp, đây là bộ phận lét-tờ-rê 14 ,
tức là ông nho sỹ làm từ hàn ở bên phủ Thống sứ dịch viết ra chữ nôm có lão
Che-on hay lão No-đơ-man, là hai thằng Tây giỏi chữ nho xem lại...
Cụ Tam nguyên cười, hỏi thêm:
- Chúng nó ranh ma nhỉ? Thế ngộ bọn dốt nó dịch sai thì sao?
- Bẩm cũng có khi nó dụng ý dịch sai đi một tí cho nghĩa nó
mơ hồ đi, hiểu thế nào cũng được, nhất là những tờ hòa ước, có nhiều điều khoản
buộc chặt mình, mà dịch ra chữ nho, nghe cứ như là thân thiện cởi ruột cởi gan
giúp đỡ mình. Đặc biệt nữa là nước nó không có vua, chỉ có giám quốc thôi,
nhưng đối với ta là dân tôn vua, nên nó dịch đổi ra là “Đại Pháp quốc Đại Hoàng
đế” để đối với “Đại Nam quốc Đại Hoàng đế” cho các cụ nhà nho ta dễ tin...
Cụ Tam nguyên gật gật đầu cười móm mém rồi giục Đỗ Uẩn đọc
cho mọi người nghe. Ông này lên tiếng:
“Quan Thống sứ đại thần xứ Bắc kỳ trình quan Kinh lược. Tôi
xin lật lại tờ quan lớn từ ngày 6 tháng chạp An Nam về việc tỉnh Nam Định làm sổ
bạ lại. Theo như ý quan lớn đã nói trong tờ tư thì tôi đã tư cho Công sứ Nam Định
mà bao biện ý rằng đến sang năm thì số đinh nội tịch tỉnh Nam phải tăng cứ mức
trung bình là 100 tăng 50. Lại tôi cũng tư cho các quan các tỉnh Công sứ Bắc kỳ
mà báo trong việc làm sổ thì nên bắt các dân tăng vừa vừa, vậy 100 tăng lên 20
thì là trung bình. Song tôi cũng để cho các Công sứ được tăng thêm hơn hay giảm
nhẹ đi tùy tiện. Nhưng là phải liệu cho khôn ngoan và chuyên cần mà thu lấy thuế
cho nhà nước cho đủ, cho phải.
Bôn-nan – Quý Tỵ tháng giêng ngày mồng 2”
Ông phủ Thịnh Hào đọc xong, ông Tư vụ tiếp ngay:
- Nó bắt buộc tăng đinh để nó thu thuế cho nhiều, đặt ra mọi
thứ để vơ vét. Và bẩm đây là tờ sức của nha Kinh lược.
Ông phủ Thịnh Hào cầm lấy tờ giấy đọc ngay:
“Phụ chính đại thần Thái tử Thiếu bảo. Võ hiền điện Đại học sỹ,
Khâm sai Bắc kỳ Kinh lược đại sứ, Duyên mậu bá Hoàng mật phi sức Thương biện
huyện vụ Thanh Trì đến khám xét các nhà kê sau đây và bắt dẫn lên nha xét hỏi,
Thanh Trì: xã Vũ Đức, Nguyễn Bính; Yên Duyên xã: Vũ Tạo, Đặng Bạc; Hạ Thái xã:
Nguyễn Bật; Đại từ xã: Nguyễn Long.
Tri huyện Nguyễn Văn Xiển, Thương biện Bùi Khánh Diễn tuân.
Thành Thái năm thứ 5 tháng giêng, ngày mười lăm”.
Ông Tư vụ nói tiếp luôn với vẻ căm tức:
- Mấy ông có tên trong tờ sức đều là nhà nho cả, có lẽ lúc
này chúng ta đương yên ổn ở đây thì các ông đã bị giam ở nha Thanh Trì hay ở Đốc
bộ Hà Nội, mà ai đi bắt? Lại quan Thương Bùi, người trong Văn hội Thọ Xương ta
đấy.
Ông phủ Đỗ Uẩn nói theo:
- Con sâu bỏ rầu nồi canh, mà bây giờ Thương biện lại có quyền
hơn Tri huyện kia, vì Thương biện được tin cẩn hơn, được Tây giao cho quyền
hành như Thương Kim ở đây ấy. Nhưng cứ gì Cử nhân họ Bùi, mấy quan lớn Lương
Huy Ý, Hoàng Xuân Kỳ ở nha Thương chính, các cụ lớn Phạm Hy Lượng, Vũ Nhự đều
là người Văn hội Thọ Xương cả đấy, và cũng đều được Tây tin.
Cụ Tam nguyên thấy cần phải nói đến những điều chính trước,
liền hỏi ông Tư vụ mà có ý như giục ông Phán sự Phạm Như Sơn:
- Quan lớn còn nói gì thêm không thì xin để nhường quan Phán.
Ông Tư vụ nói:
- Nhà cháu chỉ cốt trình cụ lớn và các vị hai tờ sức ấy thôi,
chuyện thì còn nhiều, nhưng xin để nhường quan Phán.
Một phút im lặng, mọi người như chờ mong. Ông Phán tòa Đốc lý
Phạm Như Sơn, ngồi ngay ngắn lại, nói vào đề ngay rất thong thả và nghiêm túc:
- Tôi xin nói tình hình ở thành phố trước, rồi nói đến các
nơi sau. Ở Hà Nội, theo như chỉ dụ nhượng địa của vua Đồng Khánh ngày 1 tháng
10 năm 1888, thì Tây nó biến cái thành phố này riêng quyền của nó, quan An Nam
không có quyền gì nữa, vì thế chúng nó mới hống hách bắt nạt mình như ban nãy.
Nó cần nắm giữ mọi oai quyền và cố tỏ ra là chủ cái đất này là để vơ vét thuế
cho nhiều để nuôi chúng nó và để mở mang phố Tây rộng rãi, xây dựng nhà cửa làm
chỗ ở riêng cho bọn chúng nó ở lâu dài bên nước ta để thống trị nhân dân chúng
ta. Về vơ vét thuế, tôi không kể những thằng quan Tây nó sang đây ăn lương gấp
10, 20 lần lương quan ta, mà đều do thuế của toàn dân ta chịu cả, không kể mà mỗi
thằng lại tìm cách xoay xở bòn mót của cải dân ta bằng mánh khóe riêng của chúng
nó, chỉ kể cái số chúng nó thu riêng của thành phố ta hàng năm thôi. Như năm
nay dự toán chúng nó sẽ thu là: tiền phạt cỏ-vê 3.000 đồng, thuế thân theo định
số: 600 đồng. Nhà cầm đồ: 3.200 đồng, đánh cá Hồ Gươm và hồ Trúc Bạch 322 đồng
58 (đây mới là một nửa thôi, còn một nửa nộp vào quỹ Bảo hộ trên phủ Thống sứ;
thuế thổ trạch 11.350 đồng, thuế môn bài 25.150 đồng, bán thẻ cho gái nhà thổ
800 đồng, thuế xe tay 1.700 đồng, thuế chợ 800 đồng, thuế sát sinh a-ba-toa
13.200 đồng, tất cả thu là 114.118 đồng. Nó thu như thế mà nó trả lương cho người
mình là thông ngôn hạng nhất 675 đồng một năm, lét-tờ-rê 210 đồng một năm, cu
li Lục lộ làm đường công nhật 15 xu một ngày. Còn bọn chúng nó thì ít nhất là từ
100 đồng một tháng trở lên...
Vũ Phạm Hàm hỏi xen vào:
- Tôi tưởng nó ăn lương ngạch nó, nó lĩnh lương bên nước nó
chứ.
Ông Tư vụ cười nói vui:
- Quan Thám thực thà quá, nếu nó đem lương bên nước nó đi thì
nó đã ở nhà chả tội gì mà đi sang đây đánh nhau, đi cướp nước chỉ có nghĩa
tranh cơm thôi. Nói bảo hộ cho nó mỹ miều đấy thôi, ấy thế mà thường dân ta có
người nghe cũng bùi bùi tai kia đấy.
Ông Phán Sơn nói tiếp:
- Cứ so với số thực thu năm 1888 là 84.716 đồng, từ 8 vạn lên
đến 11 vạn, trong có 5 năm đã thu hơn 3 vạn rõ ràng là số vơ vét mỗi ngày một
tăng lên. Cái món thuế bán thẻ cho gái đĩ cầm các để được công nhiên đi dắt
giai về nhà, năm 1888 mới có 50 đồng, năm 1893 năm nay đã lên đến 800 đồng đông
gấp 16 lần, năm nay mới là dự tính thế có thể thực thu còn nhiều hơn nữa, ấy đấy
cái lối khai hóa như thế, và cái lối đối xử với những viên chức làm cho nó tuy
bề ngoài có gọi là quý hơn các viên chức bên quan An Nam, nhưng cũng rõ ra cái
lối con ở chủ nhà, sai bảo và khinh miệt như trâu như chó. Một số anh em cũng tự
thấy nó tủi nhục lắm, cũng đương nhấp nhỏm ngóng chờ bên ngoài thế nào nhưng có
điều nếu không làm gì, cứ để im lìm mãi thế này khúc gỗ quẳng mãi ngoài mưa
thành ải mục, ở lâu mãi với Tây, tiêm nhiễm cái tính nạt nộ của nó, quá mù ra
mưa, quá đĩ ra thõa, rồi đâm thành bản tính nô lệ cho bọn mũi lõ mất. Ấy cũng
vì lo như thế, tối nay tôi mới dám đường đột ở lại đây ở lạm bàn với các vị...
Ông Phán ngừng lời, thò tay vào túi ngực trong cái áo dài năm
thân, lấy ra một tập giấy báo gấp nhỏ lại, ông mở tờ báo ra lấy bàn tay xoa vuốt
cho phẳng, vừa thong thả nói:
- Đây lại một cách mới nó đưa ra để đuổi dân đi cho chúng nó
xây dựng phố xá cho chúng nó. Nghị định của quan Đốc lý thành phố ngày 20 tháng
12 năm 1892, năm ngoái quy định thuế thổ cư ít nhất mỗi thước Tây là một xu,
cao nhất là năm xu, chia làm bốn hạng, mà những đất quanh gần khu vực chúng nó
định mở phố Tây đều thuộc vào hạng nhất cả. Có một sào đất hàng năm phải nộp đồng
bạc thuế, thì lấy tiền đâu ra mà nộp, đành để cho nhà nước Đại Pháp sung công,
hay là bán rẻ bán đắt cho các quan Tây dăm ba đồng, rồi dỡ nhà dỡ cửa cao chạy
xa bay cho rảnh! Ấy sau cái lệnh cấm làm nhà lá ở thành phố của thằng Bô-răng
năm 1888, đến cái nghị định của thằng Ti-răng này là gây khốn khổ cho dân mình
nhiều nhất. Chung quy chỉ có lợi cho bọn nó thôi. Và bây giờ tôi xin đọc mấy
tin ở tờ Công báo năm nay. Tin thứ nhất: Thống sứ Sa-vát-si-ơ 15 ký
phạt một cái súng tìm thấy ở một cái ao làng Phú Vinh, tổng Cao Mỗ huyện Thần Khê
tỉnh Thái Bình, Nguyễn Hữu Yên có ao bị phạt 40 đồng bạc, Phạm Đồng Tân bên cạnh
30 đồng và các kỳ mục chính 30 đồng. Ngày 23 tháng 12 năm 1892, Thống sứ ký lệnh
triệt hạ phá hủy san bằng làng Vạn Hạnh phủ Vĩnh Tường. Làng ấy còn phải chịu
phí tổn in 200 bản nghị định xử phạt ấy để phát cho các làng tỉnh Sơn Tây. Và
đây nữa, một cái bản danh sách tám mươi hai nam nữ phạm nhân bị đưa đi Côn Lôn
và bên Guyan ở châu Mỹ. Đấy là chỉ mới kể ở một số báo tháng giêng Tây năm nay
đấy!
Ông Hoàng giáp trẻ nói:
- Vạn Hạnh mà chẳng được một tí may nào đã phải bồng bế nhau
đi lại còn phải chịu tiền in cáo bạch.
Ông nhà buôn Nguyễn Quang Minh ngồi im lặng nghe từ nãy đến
giờ, bây giờ mới lên tiếng góp vào:
- Ấy năm kia, làng Bưởi cũng vậy đấy, ban đêm cướp vào làng
không báo đồn mà bị phạt 120 đồng kia đấy!
Ông ấm Vẽ chữa:
- Anh em Tín Nghĩa hội đi qua đấy bọn nó cố gán cho là cướp,
nếu có cướp thật, chúng nó đã không hề nhắc đến, chúng nó mặc kệ dân. Đằng này
Tín Nghĩa hội có làm gì dân đâu mà dân đi báo, ấy thế mà có đứa tồi, chúng nó
làm dữ để triệt nhuệ khí dân ta.
Ông Phán Sơn vội nói ngay:
- Ấy chính thế, nó cốt triệt lòng dân, nên mấy năm nay nó cố
tình làm dữ lắm, phá hủy làng, chém giết, tù đày hàng loạt, mà chả cần xử gì cả,
chỉ lão Toàn quyền ký nghị định là xong. Và đây một số báo năm ngoái. Cái tin
này cũng đáng buồn: quan Toàn quyền đồng ý số tiền 40.200 đồng để nuôi quân của
Lương Tam Kỳ. Quan thống sứ Bôn-nan ký nghị định ngày 26 tháng giêng 1892 hàng
tháng trả 3.350 đồng cho Lương Tam Kỳ, có Công sứ Thái Nguyên chứng nhận khi
lĩnh tiền.
Vũ Phạm Hàm hỏi ngay:
- Lương Tam Kỳ cũng đầu hàng à? Sao bảo Lương cũng kết vây
cánh với Đề Thám?
Ông phán Sơn cứ nói:
- Thế mới là nham hiểm xảo quyệt, vừa là thu phục, vừa ly
gián. Chỉ biết đã có đăng trên Công báo thì là có thật chứ không phải còn là úp
mở. Ngược với tin ấy thì trong số báo này lại có tin: Đồng Ngộ, Tri huyện Tiên
Lãng, Nguyễn Hữu Dương, Tri huyện Yên Mỹ, đều bị đày đi Côn Đảo hai năm, vì...
vì một tội không dẹp giết dân như ý quan Tây muốn. Rõ ràng tụi nó cố ý bắt người
mình trở thành con chó săn cho chúng nó, chứ chẳng chơi đâu! Càng nói càng như
say, càng bừng bừng phẫn khí, ông rằn từng tiếng như hờn giận:
- Ấy thế mà người mình lại đổ xô vào mà đi làm cho chúng nó,
họ lầm tưởng rằng vua còn, nước còn, nước Pháp bảo hộ là anh em sang khai hóa,
cho nên tôi thấy cần phải làm gì để thức tỉnh nhau chứ để yên mãi rồi cả lũ
thành ra ngựa trâu cả, đến đắc tội với non sông, với tổ tiên...
Vũ Phạm Hàm hỏi ngay:
- Tôi nói khí đường đột, xin quan Phán thứ lỗi, quan Phán
cũng đi làm cho Tây đấy thôi?
Câu hỏi có vẻ soi mói, ông Tư vụ nói đỡ:
- Bẩm các vị, người năm bảy đấng, của chín mười loài, quan
Phán đây tuy làm việc với Tây, nhưng chỉ tìm cách che chở cho dân, và vẫn thường
có đi lại với các cụ trong văn hội.
Nguyễn Thượng Hiền và ấm Vẽ toan nói để dàn hòa, ông phán Phạm
Như Sơn đã nói tranh trước:
- Ấy bẩm quan lớn, có nằm trong chăn mới biết chăn có rận, vì
tôi làm việc cho Tây tôi biết rõ cái chỗ tụt xuống vực của người mình, trong
người có chút lương tri, nên mới tỏ mối lo cùng các vị.
Ông Đỗ Uẩn Thịnh Hào đỡ lời:
- Quan Thám hỏi cũng có lý mà quan Phán nói cũng đúng. Ở đây
chỉ xin phân biệt, quan Phán học ở trường Tây, biết nói tiếng Tây ra làm với
Tây nó đi một nhẽ. Đằng này lại có người danh tiếng trong làng nho, chẳng biết
một chữ Tây cóc khô nào, ấy thế mà đi làm cho Tây, đứng ra xét xử bắt bớ đồng bào,
đồng chủng, quan Phán có ý nói như thế, và chính bọn ấy mới càng tinh ma khôn
khéo biết được và chủ tâm phá những mưu mô của anh em mưu việc nước.
Ông ấm Vẽ ngắt:
- Đúng như thế đấy. Vậy thì ta phải làm thế nào bây giờ?
Ông Tư vụ sung sướng tươi hẳn nét mặt lên, nói chắc nịch:
- Thưa cụ lớn và các vị, chính cuộc họp này cốt ý bàn xem
chúng ta phải làm gì lúc này... để cứu nước. Tôi sở dĩ nấn ná nhẫn nhục làm việc
ở nha này cũng là do một số các vị văn thân ủy thác, và bây giờ đứng ra nhận
hưng công làm đền Quán Thánh cũng là cốt ý muốn mưu một cái gì giúp bên ngoài.
Nay cuộc họp này là đầu mối của các nơi: Hà Nội, Đông, Đoài, Nam Bắc có cả, các
nơi muốn nối lại với nhau biết rõ hiện trạng từng nơi, rồi tìm cách bốn phương
cùng nổi lên một phen cho nó bõ lòng phẫn nộ bấy lâu...
Ngừng lại thăm dò ý mọi người, không thấy ai nói gì, ông tiếp:
- ... Tôi thấy nổi lên được lúc này có ba điều lợi: Tây nó
đương thắng thế có vẻ khinh miệt ta không làm gì được nữa, ta xuất kỳ bất ý, nó
không kịp đề phòng, đó là một điều lợi; ta bắt mối được các nơi, bốn phương
cùng nổi dậy, làm cho Tây lúng túng trở tay không kịp, đó là hai điều lợi; ta nổi
lên được lúc này có dịp tốt kích thích được những người đi làm cho Tây biết
quay trở lại con đường chính đuổi giặc cứu nước, nếu để lâu quá nữa, họ sẽ quen
đi, tâm địa thành chai ra, không còn thấy gai mắt tủi nhục khi bọn Tây nó hành
hạ, sai khiến làm điều bạc ác. Vậy cử sự được lúc này thật là đúng dịp. Đó là
ba điều lợi.
Nguyễn Thượng Hiền hỏi:
- Vậy lực lượng các nơi ta đã nắm được đích xác chưa?
Ông Tư vụ trả lời rất đắc ý:
- Các vị ở đây đều có lực lượng ở các nơi, bà con ở khắp nơi
đều đang ngong ngóng trông chờ một sự bàn định chung cho tất cả cùng hành động,
nhưng rất khó liên lạc được cho nhất trí. May sao có dịp hai quan tân khoa về
đây, vừa được biết thêm tình hình trong kinh, vừa có cớ để mà hội họp, hợp chứng
tri dĩ thành đại sự 16 ,
bấy giờ các vị bàn bạc cho phải lẽ, nêu ra một phương hướng cử sự, rồi bàn ra một
mệnh lệnh thì chỉ nội nhật ngày mai thôi, các nơi quanh Hà Thành này cho đến tận
tỉnh Nam, tỉnh Bắc, tỉnh Sơn đều có thể biết ngay và răm rắp noi theo. Mọi nơi
đang trông chờ ở chúng ta tối nay.
Nguyễn Thượng Hiền hỏi:
- Lòng người còn nặng hơn lòng cố quốc đến như thế ư?
Ông Nguyễn Quang Minh trả lời ngay:
- Thưa quan lớn, nước mất nhà tan, ai mà không đau xót. Đến
nay dân buôn chúng tôi ở Hà Nội là người ở thành phố, gần sát ngay bọn quan đại
thần của bọn nó, nên không bị nó tàn phá, lại được khuyến khích buôn bán, cho
người vào dự Hội đồng thành phố, ấy thế mà mình thấy bọn nó là dị tộc lai
sâm 17 ,
nghĩ mình là dân một nước, đồng bào đồng trạch không nỡ nào mà ngồi yên cho được,
nên xin thề có bóng đèn đây, nhân dân các nơi thế nào thì bà con buôn bán chúng
tôi cũng xin theo như vậy... vẫn một lòng giúp đỡ, theo đòi góp công, góp của...
Ông Phán tòa Đốc lý nói:
- Đã là dân mất nước thì là đày tớ tuốt. Nó cho ngồi vào Hội
đồng để làm phỗng cho dễ sai chứ được cái đếch gì. Vả đều là người tay chân của
nó như Thương Kim, như Đặng Trần Hậu đấy. Lão Vương Kỳ Hàng Đào ti toe cậy ta
là Hội đồng nói láo với Tổng đốc Lê Đĩnh bị nó phạt 60 trượng và Thống sứ
Bôn-nan cách chức ngay, và cử luôn Nguyễn Duy Nhiếp, Hàng Gai vào thay đấy.
Nguyễn Duy Nhiếp thì còn ai lạ nữa, làm với Tây từ hồi còn là
Công-sét-si-ông 18 ...
cho nên chỉ có dốc một lòng hay không chứ đừng có hão huyền...
Ông Tư vụ vội đỡ lời:
- Vâng, chính bây giờ đương lúc các nơi đều sôi nổi căm giận
bọn Tây, cả những người đã đụng chạm lâu với nó như cái dân Hà Thành này cũng
đang rục rịch muốn khử chúng nó một mẻ rồi muốn ra sao thì ra. Vậy thiết tưởng
nhân dịp này ta nên có một kế chung cho các nơi cùng làm khớp với nhau, thì nhất
định có lợi lớn. Bằng không bốn phương họ cứ nổi lên lẻ tẻ, địch nó càng có thời
cơ đánh lại mình dễ dàng... Cho nên tôi xin cụ lớn và các vị bàn ngay vào điều
cốt yếu ấy.
Cả phòng họp im lặng, mọi người như đang suy nghĩ kỹ càng, rộng
rãi để tìm một kế sách lớn lao vì nước vì dân mưu tống cổ bọn sài lang hôi tanh
cướp nước! Chẳng gì thì đây cũng đều là những tai mắt cho các nơi được thiên hạ
trông mong vào cũng đúng thôi, và cái công ông Tư vụ khéo sắp xếp cho thành cuộc
gặp gỡ này, theo như ý muốn của một số đông bà con Hà Nội, kể cũng đáng để cho
suy nghĩ hơn nữa, nếu không phải là đáng nghi ngờ. Cho nên ai nấy đều thận trọng,
đắn đo, chưa ai dám lên tiếng vội. Vả lại có lẽ chưa ai dám tin ý nghĩ của mình
là xác đáng, nên cũng có ý đợi người khác nói trước xem sao đã, giờ phút quyết
định việc lớn nước nhà có liên can đến hàng nghìn vạn người, chứ có phải chơi
đâu. Sự im lặng hơi kéo dài một cách nghiêm trang đang làm cho ông Tư vụ vui vẻ
yên tâm chờ đợi. Bỗng cụ Tam nguyên đứng phắt dậy bước xuống đất đến trước mặt
ông Tư vụ chắp tay vái rạp xuống tận đất, và nói:
- Tôi lậy quan Tư vụ, người hàng hào mà lòng cao đạo nghĩa.
Ông Tư vụ vội đứng lên, luống cuống run như cầy sấy, thì cụ
đã quay phắt sang vái rạp trước mặt ông phán Phạm Như Sơn và nói:
- Tôi lậy quan Phán đầu tòa người Tây học mà hiểu sâu đạo gốc
thánh hiền...
Mọi người đều sửng sốt, kinh lạ, đứng cả lên chắp tay trước
ngực mà chăm chăm như vẻ giữ thế thủ phòng có kẻ sắp choảng phải mình, trong
khi ông cụ già vẫn vái lia vái lịa và nói liền một mạch:
- Tôi xin lậy các quan xin đem lòng thành kính tạ tấm hùng
tâm trung nghĩa của hai quan lớn đã bỏ bao mưu trí ra xếp đặt cho được cuộc hội
ngộ đủ mặt anh hào này. Nhưng nước ta đương lúc đường cùng, vận làng nho lại
đang kỳ bĩ cực, loài bạch quỷ hung tàn xảo quyệt đã vào sâu đóng cọc lên giữa
tim gan của cả nước giương đôi mắt ma cú vọ mà soi mói mọi hành động của ta,
tìm mọi cách nham hiểm ly gián dân ta, trong khi bên ta thì nhân tâm ly tán,
chính bọn nho giả chúng tôi lại càng nghiêng ngả hơn ai! Giời đã chẳng chiều
người biết làm sao được! Cho nên vạn sự đều xin trông đợi hậu sinh. Nhà nho
chúng tôi tạm xin thúc thủ 19 vì
những kẻ làm, người phá, chỉ tổ hại dân. Nó đốt, nó phá, nó triệt hạ cả làng...
Chửa nên công trạng gì mà dân gian chịu trăm điều khổ cực lầm than! Bởi vậy
riêng tôi, tôi không dám nghĩ đến cử sự lúc này. Tấm thân già lão sống thừa,
xin lậy tạ hùng tâm của hai quan lớn, và các vị...
Cụ ngừng lại, nhưng ý kiến của cụ chuyển chiều một cách đột
ngột còn đương làm cho mọi người bàng hoàng, ngơ ngác, nên cả phòng lại rơi vào
một sự im lặng nặng nề, ai nấy đều đứng ngây như phỗng... Một lúc, ông Tư vụ
dìu cụ vào giường rồi lên tiếng trước:
- Bẩm cụ lớn, hay cụ lớn và các vị ngờ tôi có ý gì khác, định
lừa các vị vào tròng để làm cầu danh lợi chăng?...
Ông nói chậm lại rằn từng tiếng, rắn rỏi như vẻ giận dỗi.
- ... Nhưng thưa cụ lớn, ngay bây giờ đây, dù cụ lớn và các vị
rõ ràng đã tự tháo, chạy làng không dám nghĩ gì đến nước nữa, tôi cũng vẫn có
thể báo với quan Pháp đến vây bắt để tâng công, thể nào tôi cũng được khen thưởng,
được mề đay 20 vàng
hạng nhất, hơn hẳn quan phủ Đoàn Triển, quan bố Đỗ Văn Tâm và quan lãnh Đỗ Đình
Thuật, chỉ mới được mề đay bậc hạng ba, hạng hai thôi!
Nguyễn Thượng Hiền thấy cần phải đỡ lời để dàn hòa:
- Thưa quan lớn, cụ lớn và anh em chúng tôi không dám lòng
nào có ý nghĩ nông nổi như thế. Chỉ vì tình cảnh nước ta bây giờ thật thiên nan
vạn nan, hàng ngũ văn phả lại khảng tảng, một người nổi lên chống nó, thì đến mấy
chục người đi theo nó, đứng ra bắt bớ chém giết đồng bào cho nó. Cụ lớn thấy
hơi nho nhe lúc này là cớ cho nó triệt hạ chém giết đồng bào, nên cụ lớn ngài mới
muốn tạm thôi. Người là quý, nhân mạng chí trọng 21 ,
nó tàn sát hết thì sau này lấy người đâu mà cùng nhau mưu việc!
Vũ Phạm Hàm cũng nói thêm:
- Thực tình, trong nhân gian ta đã có những cảnh dòi tự trong
xương dòi ra, nên cụ lớn nghĩ cũng phải, lúc này làm ra chỉ hại dân!
Ông phán Phạm Như Sơn, có lẽ cũng cùng một ý nghĩ như ông Tư
vụ, cho là cánh cựu học có thể ngờ mình, lại nhớ đến câu Vũ Phạm Hàm vừa nói
mình lúc nãy, liền nói bâng quơ một câu cũng có vẻ soi mói:
- Có lẽ dòi tự quan lớn dòi ra chăng?
Thấy câu nói qua lại có vẻ găng chọi nhau, ông Tư vụ vội
trang trọng, vồn vã mời mọi người lại ngồi xuống giường để cùng nói với nhau
hòa nhã, thân mật. Và ông nói tiếp vẫn giọng nghiêm trang rành rọt lúc đầu:
- Xin dĩ hòa vi quý, bồng bột tức tối nào có lợi gì đâu. Thế
bẩm hai quan tân khoa cũng nghĩ như cụ lớn?
Nguyễn Thượng Hiền nói:
- Thưa quan lớn, từ năm sáu năm trước, tôi đã trở về núi như
một ông cụ tám mươi đi ở ẩn, chính là vì như thế, và đến nay ra đi thi đỗ đạt rồi,
có danh vọng, được các vị ở đây đón rước, nhưng tự xét vẫn không thấy có cơ làm
gì hơn, nên đành lại phải nấn ná đợi thời...
Ông Tư vụ hỏi thêm:
- Thế bẩm còn quan Thám?
Vũ Phạm Hàm phải đáp rõ ý mình:
- Thiết tưởng cụ lớn vừa dạy cũng đúng. Cử động vì nghĩa lớn
lúc này chỉ có hại làm tan rã sức dân, mà dân đã sợ, thì mọi việc tan cả.
Cụ Tam nguyên ngồi ngay ngắn lại và nói:
- Tôi, là phái nhà nho già, tôi nhìn thấy như thế, tôi không
dám tự dối tôi, làm đã không lợi, tất nhiên là hỏng việc và rồi chết nhiều sinh
mạng, nên tôi không dám vì sự liều lĩnh của mình mà hại đến người. Đấy là phần
tôi, còn ai nấy nghĩ thế nào xin các hành kỳ chí 22 ,
tôi không dám có ý gì ngăn cản... và xin thề không dám phản.
Nguyễn Quang Minh cũng hỏi cho có chuyện:
- Bẩm cụ lớn thế nhà buôn chúng tôi không làm được gì thì
đành lại cứ buôn bán với Tây ư?
Nguyễn Thượng Hiền nói ngay:
- Buôn bán mà tranh được lợi quyền về cho dân cho nước cũng
là làm lợi cho nước đấy. Tây nó sang đây, nó cướp đất, rồi lại giữ lấy đường
sông, đường bể, cho người nó khai mỏ, chiếm đất mở đồn điền, những nhà buôn
kinh doanh của ta biết tranh giữ lấy mối lợi ấy, để mà giúp đỡ dân nghèo, và
khi cần đến có được hằng tâm, hằng sản mà góp phần vào việc chung... tức cũng
là các hành kỳ chí tốt.
Ông Tư vụ buồn nản thiểu não nói:
- ... Thế này ra các vị đành bỏ chết cho tôi, mặc cho tôi cứ
phải làm tôi tớ trong nha Kinh lược, làm hưng công làm đền, rồi làm rạp khánh
thành, mở hội cho Tây đầm nó ôm nhau nhảy trước tượng thánh thôi! Biết bao tâm
cơ mưu mẹo để có được cuộc hội họp này, kết cục vẫn lại là phong trần còn có
phong trần nào hơn!
Phạm Như Sơn chép miệng nói một mình:
- Rõ ra kiểu hội đồng của “Pháp La Phông-ten” 23 .
Nguyễn Thượng Hiền hỏi ngay:
- Quan Phán nói gì đến người Pháp?
- Bẩm không ạ, tôi nói rõ như trong bài ngụ ngôn của La
Phông-ten, hội họp bàn, rồi cuối cùng không thành cái gì cả!
Ông Phán chưa nói hết câu, Nguyễn Thượng Hiền đỡ ngay:
- Như cụ lớn đã dạy các hành kỳ chí, ai ai cứ làm theo ý nghĩ
của mình sao cho nó phải đạo, ích cho nước, đuổi được giặc... thế cũng là thành
đấy chứ...
Ông Tư vụ nói:
- Ai cũng làm theo chí mình thì là tôi cứ việc hầu hạ quan
Kinh lược, làm tôi tớ cho giặc Pháp, và mọi người rồi đều đổ xô theo Pháp càng
có lợi, nào ai cản! Nhưng mà rồi chỉ chết dân...
Nghĩ sao, ông đổi giọng nói thêm:
- Nhưng mà khổ lắm, cũng đến cách làm thế nào mở được cuộc yến
lớn để tụ tập đông đủ chúng nó lại cho chúng nó nô giỡn rồi hỏa công thui chúng
nó cho hả giận!
Thấy không ai nói gì, ông quay nhìn sang ông ấm Vẽ và ông phủ
Thịnh Hào là hai người từ nãy đến giờ vẫn ngồi im thin thít chưa nói câu gì,
ông nói có vẻ như phân bua:
- Thế là không phải tự tôi không sốt sắng nhé! Sau này có thế
nào chăng nữa, cũng là tại thời thế thì phải thế... có phải không, thưa các
quan? Thôi đêm khuya canh tàn rồi xin mời các quan đi nghỉ, cụ lớn với hai quan
tân khoa nghỉ ở đây, còn bốn vị xin mời sang chái bên kia.
Ông Phán nói:
- Cho tôi mượn cái đèn hay nắm hương tôi về để mai đi làm cho
kịp giờ...
Cụ Tam nguyên lại đứng dậy, mọi người đang luống cuống sợ cụ
lại lậy nữa, ông Tư vụ vội chạy đến ôm dìu cụ ngồi xuống giường và nói:
- Xin cụ lớn bình tâm tha lỗi cho hạ chức...
Cụ nói ngay:
- Không phải thế. Chính tôi là người đã làm hỏng cuộc họp
này, làm phụ lòng, phụ công quan Tư vụ và phụ chí tiến thủ của các vị ở đây, thật
là đắc tội...
Cụ bỗng sụt sùi khóc và nói trong nước mắt:
- Nhưng tôi tuổi già sức yếu trí quẩn, nguyện với các vị xin
giữ một lòng trong sạch không dám có một tóc tơ gì có hại đến việc lớn của nước
nhà mà các vị đang mưu tính. Tôi mong rằng các vị chớ vì tôi mà bỏ bễ công việc
đã mưu tính. Và cũng mong quan Tư vụ cũng đừng vì tôi mà ngã chí. Xin quan lớn
đại xá cho tôi.
Cụ nằm vật xuống giường phủ phục khóc nức nở. Mọi người im lặng.
Không một tiếng động. Ngọn đèn dầu lạc le lói trên đĩa đèn đã lụi dần, tỏa ánh
sáng vàng kệch như cùng vào hùa với cảnh tĩnh mịch đêm khuya làm tăng thêm nỗi
bi đát trong lòng những người đang đối cảnh.
--------------------------------
Patrouille: toán lính đi tuần. |
|
Visa: chữ ký thị thực. |
|
Trong quân mặc trắng: ngụ ý để tang cho chính nghĩa theo
tích Bái Công cho quân lính mặc trắng để tang nghĩa đệ bị Hạng Vũ giết chết để
phát động tinh thần chống Hạng Vũ. |
|
Interprète: thông ngôn. |
|
Làng Quỳnh Lôi vui đón khách. |
|
Certificat: bằng sơ học. |
|
Một việc không luận là lớn hay nhỏ, lúc mới phát sinh phải
dự phòng ngay, chặn đứng, không để nó phát triển. (BT) |
|
Lòng thành thì thông đạt tới thần minh. |
|
Uyên Minh, tên chữ của Đào Tiềm đời Tấn, bỏ quan trở về,
làm bài cả “Quy khứ lai từ”. |
|
Lòng căm thù giặc. |
|
Sẵn lòng, sẵn của. (BT) |
|
Biết mình, biết họ, đến đâu cũng chắc thắng được. |
|
Quan văn, quan võ mũ áo ở triều đình bây giờ khác hẳn trước
kia. |
|
Cũng như lét-té (Lettré), xem chú thích trang 255. (BT) |
|
Chavassieux. |
|
Hợp trí khôn mọi người để làm nên việc lớn. |
|
Người giống khác đến lấn cướp. |
|
Concession: nhượng địa, khu đất nhường cho Pháp theo Hiệp ước
1874. |
|
Bó tay chịu không làm gì được. |
|
Médaille. Huân chương hoặc huy chương của nhà nước thực
dân, phong kiến. (BT) |
|
Mạng người rất trọng. |
|
Mỗi người đều làm theo chí mình. |
|
Fable de la Fontaine: thơ ngụ ngôn của ông La Phông-ten. Ở
đây muốn nhắc đến bài thơ ngụ ngôn tả bọn chuột họp hội đồng bàn việc đeo
chuông vào cổ mèo. Bàn thì rất hăng nhưng đến mục tìm kẻ nào đeo chuông cho
mèo thì lảng hết. |
Chương IX
Trời xuân trong tiết Vũ thủy, Kinh trập ở cái đất Hà Thành
này thường luôn luôn mưa phùn ướt át lội lặn. Nhưng mấy hôm nay, giữa tháng
hai, giời tự nhiên luôn mấy hôm tạnh ráo bừng sáng ấm áp như cuối xuân sang hè.
Trời nắng cây cỏ mơn mởn lộc xanh tươi dưới ánh nắng vàng màu lụa bạch. Trên đường
bờ sông, từ cửa ô Hàng Cau qua dãy phố Hàng Tre, ngã tư phố Phúc Châu thẳng xuống
đến phủ Toàn quyền ở khu Công-séc-si-ông ngoặt qua cửa Đại Pháp quốc vào phố
Bôn-be, sang phố Hàng Khay, phố Đấu Xảo đến cửa nha Kinh lược, cứ cách mươi thước
lại cắm một lá cờ ngũ hành và một lá cờ ba sắc của nước Pháp bảo hộ, các màu đỏ,
tím, trắng, vàng của cờ rất ăn ý với cảnh vật tươi sáng hôm nay, như cùng với sức
cờ tung bay trước gió để thỏa sức tung hết vẻ rực rỡ của tuổi thanh xuân. Trên những
quãng đường sạch sẽ rợp bóng cờ bay ấy, từng tốp người ăn mặc lịch sự tề chỉnh,
lũ lượt kéo nhau ra phía bến Đông Hà ở bên trên ô Hàng Cau. Những quan chức ở
nha Kinh lược, ở bên dinh Tổng đốc, ở hai ty Phiên Niết 1 ,
đều mặc áo chẽn màu lam, ngực đeo bài ngà, hoặc bài đồng lủng lẳng. Những viên
chức bên phủ Thống sứ, bên tòa Đốc lý, một số ít ăn mặc âu phục còn đa số mặc
nam phục, áo lót cổ là rất cứng, giầy bốt tin lộp cộp trên đường đá, vừa đi vừa
nói chuyện, tiếng mình pha lẫn dăm ba câu tiếng Pháp xì xồ vui vẻ. Những vị hội
viên hội Trí tri gài thêm trên ngực áo cái anh-si 2 hình
cô tiên hai cánh giương ngang đầu cầm lá cờ ba sắc, cái hãnh diện của con người
đã bập bẹ tiếng Pháp. Họ đi thong thả, nghiêm trang, vui vẻ như đi vào dự đám
khao hay yến tiệc. Từng tốp người nói chuyện với nhau theo sở thích. Chàng
thanh niên Bùi Đình Tá khăn lượt áo the chải chuốt, bệ vệ đi bên cụ thượng
Lương Huy Ý nguyên Tổng đốc Ninh Thái, áo sa lam tay chẽn đủng đỉnh bước và nói
chuyện tương đắc, ông già gật gù thích chí, chàng trẻ vừa nói vừa ngửa mặt lên
cười như cố khoe cái anh-si với cái băng tam tài của ủy viên Ban trị sự hội Trí
tri đủ sánh đôi với bài ngà có chữ “Thương chính nha Tổng đốc” của ông già. Nhà
buôn lớn Nguyễn Quang Minh phố Hàng Quạt, một trong số những người không có thứ
gì trên ngực, cố đi vượt lên níu lấy ông Phán Đốc lý Phạm Như Sơn, ghé vào tai
nói nhỏ:
- Kìa bác trông: một già một trẻ bằng nhau ý hợp tâm đầu quá.
Ông Phán quay lại, cười:
- Đôi bạn keo sơn mà!
Nguyễn Quang Minh cãi:
- Bác nói thế mà được à? Đôi bạn vong niên chứ!
Một người vạm vỡ đội nón dứa chóp bạc quai lụa bạch đi ngang
bên nghe lỏm được nói xen vào:
- Ông phán nói đúng, keo sơn gắn bó với nhau vì thuốc phiện:
cụ lớn có bà con dâu được đứng môn bài bán thuốc phiện với ông thông trẻ làm
thông ngôn ở tòa thuốc phiện mà lị!
Phạm Như Sơn hơi né ra bên như nhường người kia đi lên mỉm cười
cố nghĩ một câu châm chọc được cả hai người:
- Thưa rằng hai nhà buôn đều lọc lõi cả, nên mỗi ngài đều mải
nghĩ theo địa vị của mình, ông bạn Hàng Quạt chưa chức tước gì thì nghĩ đến
danh vọng của đôi bạn kia, còn ông hội viên thành phố đây, thân danh công-sây-ê
muy-ni-xy-pan 3 mà
lại không được môn bài bán thuốc phiện nên nghĩ khác.
Cả hai người cùng xì một tiếng, ông đội nón chóp bạc nói:
- Bậy nào! Hội đồng Đinh Gia Tráng này chỉ có một lòng vì
dân, vì nước mà phải ra gánh việc, quyền rơm vạ đá, vất vả mà nào có được lợi lộc
gì như các quan Phán làm việc ăn lương đâu.
Như Sơn chưa kịp nói gì thì từ phố Hàng Thùng rẽ phố Phúc
Châu đi thẳng ra nhập bọn, ông đốc Bùi Xuân Phái, Đốc Nam ở trường Pháp Việt phố
Hàng Bông, hoạt bát lanh lẹn như một luồng gió mới vừa thổi vào, bắt tay lia lịa
mọi người và nói:
- Trời xuân đẹp quá, giời cũng chiều người nhỉ, cờ quạt hoa
lá đón tiếp gặp dịp đẹp như thế này thật là vui, thật xứng.
Quay vồ lấy ông Hội đồng Đinh Gia Tráng, ông Đốc người Nam ở
trường Tây vội tỏ bày ý kiến:
- Đám rước kiểu Tây thế này giản dị và thân mật đấy, nhưng
bác hội ạ, giá mà bác bàn với hội đồng chủ trì cho cả dân thành phố có lọng,
hương án bái vọng đi đón có phải hay không? Cũng là lễ vinh quy bái tổ như các
quan Trạng, quan Bảng, quan Nghè ngày trước để khuyến khích học trò nó học chứ!
Chả gì cũng là người đỗ đầu tiên, vẻ vang cho cả nước...
Nguyễn Quang Minh hỏi:
- Sao nghe nói cậu Hai mới đỗ Tú tài?
Ông giáo Bùi Xuân Phái trừng mắt nhìn rồi giảng, quen như nói
với học sinh:
- So sánh xô bồ như thế không được, ta gọi thế cho nó tiện,
chứ Tú tài người ta biết đủ mọi thứ thiên văn, địa lý, toán học, cách vật trí
tri 4 ,
tú tài ta chỉ biết văn chương thơ phú, bì thế nào được với người ta, và các ông
không xem Đại Nam công báo năm ngoái à, báo đăng nghị định quan Toàn quyền định
rõ Tú tài Tây bổ ngay quan ngũ phẩm hơn cả Tiến sỹ Phó bảng của ta đấy là gì?
Hơn nữa lại là người đỗ đầu tiên, đỗ ở nước ngoài, mang chiêng đi đấm nước
ngoài.
Ông phủ Lê Nguyên Huy, chân lét-tờ-rê bập bẹ tiếng Pháp đổi
sang ngạch Tri huyện đã bốn năm nay, vừa thăng Tri phủ quyền lĩnh chức Hiệp lý
thành phố Hà Nội, cũng vừa đi xe tay đến nơi, xuống xe, đi nhập bọn, nghe thấy
ông giáo nói như thế liền đỡ ngay lấy:
- Ấy moa 5 cũng
nghĩ thế, moa bàn làm thật linh đình để mở đầu cho đường học vấn mới, khuyến
khích bọn hậu tiến đi vào tân học, chứ cứ chi hồ giả dã 6 ,
cổ lỗ hủ lậu mãi thì bao giờ cho mở mắt. Nhưng cụ Võ không cho, cụ bảo bày vẽ
ra Tây họ cười cho. Thôi đành chịu vậy, moa phải đi xua tất cả viên chức các
công sở sáng nay nghỉ việc đi đón hết đấy cho nó bố-cu bồng 7 và
cụ lớn công-tăng 8 .
Ông giáo Đặng Văn Mỹ, dạy học ở trường Bờ Sông, mà người ta
quen gọi là quan Đốc Trí tri, vì ông là Phó thư ký Ban trị sự hội Trí tri, mặc
âu phục, đội mũ cát trắng, anh-si cô tiên và băng tam tài gài ở ve áo cũng vừa ở
phía trường đi ra, ngả mũ chào mọi người, bắt tay một lượt, rồi vừa thong thả
đi xuống phía bên vừa nói một cách trịnh trọng với ông bạn đồng nghiệp và đồng
hội, ông Bùi Xuân Phái, ủy viên trị sự của Hội:
- Này tôn huynh ạ, đệ định bàn với tôn huynh, ta trình với
quan Đốc Ngô đặt một cái băng-kê nho nhỏ mừng làng Tây học ta chứ. Chính là một
dịp vui chung đáng mừng cho hội ta.
Bùi Xuân Phái vui vẻ tán thành ngay:
- Đệ xin ký cả hai tay, để đệ gọi bác Phán Tá bàn thêm.
Bùi Xuân Phái mừng quá đi vượt lên, cũng vừa đúng dịp mọi người
đã tỏa ra đi và xuống bãi sông. Hôm nay, bãi được quét dọn sạch sẽ, có hai dẫy
cột cờ cắm thẳng từ trên đường phố xuống đến gần lòng sông ngăn riêng thành một
khu rộng, có lính cú-lít 9 canh
không cho người thường vào. Những người đi đón tỏa xuống khu bãi ấy, ở trên bờ
đằng xa trông như đàn kiến đi tìm mồi. Người quen, người lạ cùng xô xuống vui vẻ
vồn vã, cởi mở.... Và những câu chuyện từ trên đường bị bỏ dở, cắt đứt, vì những
lôi cuốn bất ngờ khác. Keng! Keng! Keng! Cái xe song mã của nha Kinh lược đã đến
dừng ngựa ở lối xuống bãi. Cửa sau mở, quan Thương tá nha Kinh lược Dương Khuê
và cậu cả cụ thiếu, viên Tri phủ trẻ tuổi, Hoàng Mạnh Trí, trên xe bước xuống
chắp tay cúi đầu chào mọi người rồi tiếp đến xe độc mã, song mã của các quan
Tây, xe tay của hàng bang Khách trú cùng đến dồn dập. Mọi người tíu tít nói nói
cười cười, xun xoe chào hỏi. Trời nắng vàng, gió đông nam từ mặt sông thổi vào
lành lạnh tung bay phất phới những lá cờ sặc sỡ. Bỗng từ ngoài giữa sông Cái,
tàu Con Hổ mới đến đấy từ sáng, kéo một hồi còi gầm lên như tiếng hổ, nhổ neo từ
từ quay mũi vào phía bên, làm dạt nước lên bãi cát. Tàu đến gần bến, một cái
thuyền ván tiến sát ra tàu, một người lao một tấm ván lên tàu, phu trên tàu đỡ
lấy đem xích sắt móc chặt vào cửa tàu, thành cái cầu nối xuống thuyền, từ thuyền,
một tấm ván nữa được lao xuống bãi cát nối với đất liền. Quan Thương tá Dương
Khuê và quan Phủ trẻ Hoàng Mạnh Trí đi xuống tàu trước, mấy người Pháp và người
Nam nữa cũng xuống theo. Rồi pháo nổ ở dưới thuyền. Mấy người vừa xuống đã trở
lại thuyền, theo sau một thanh niên mặc nam phục nhưng đầu đội mũ dạ cong vành
lanh lẹn bước xuống thuyền chắp tay giơ cao, vái lia lịa về phía đông người.
Trên bãi, một bánh pháo dài lại nổ ran mừng người khách quý đi xa mới về: Lệnh
lang quan Kinh lược Thái tử Thiếu bảo Hoàng tướng công, đệ nhị công tử Hoàng Trọng
Phu du học bên Pháp thành tài trở về. Cả đoàn đã qua cầu ván lên cả bãi. Trong
làn khói pháo và giẫm lên xác pháo, cậu Hai lần lượt đi bắt tay các quan Tây, rồi
chắp tay vái chào các quan lớn nhỏ và thân hào thành phố ra đón. Cậu cảm động
nói những câu văn vẻ cảm tạ mọi người. Rồi cậu cùng với anh và quan Thương tá
lên xe song loan, mọi bạn bè tân khách đều lên xe cả. Ông Tư vụ Đào Thúc Chính
đã ở đây, cho gọi được bốn mươi cái xe tay để mời cho hết các người có mặt ở
ngoài bãi hôm nay. Các ông Phán công sở đều cáo từ ra về lấy cớ là không được
nghỉ cả buổi. Ông Tư vụ nói quả quyết:
- Cụ lớn đã thương thuyết với quan trên xin phép cho các quan
nghỉ cả buổi này! Chả là một dịp vui chung mà! Và các quan hội viên Trí tri lại
càng nên nghỉ nữa. Đây giấy đây xin quan Hiệp lý bảo các quan lên xe về cho kịp...
Ông Tư vụ cầm giấy đưa cho Lê Nguyên Huy. Ông này đỡ lấy tờ
giấy có dấu son đỏ chóe, giơ lên bô bô nói:
- Cụ lớn cho nghỉ đi ăn tiệc đấy! Chúng ta lên cả xe đi cho
nó linh đình để nhĩ mục quan chiêm.
Ông Tư vụ vui vẻ nói tiếp:
- Thưa các quan, đến thẳng với chủ xe Pờ-lăng-tê cũng chỉ gọi
được có bốn chục cái xe, mời các quan ngồi chung hai ba người vào một xe.
Ông Phán Phạm Như Sơn:
- Thế để chúng tôi đi bộ vậy, xin để các cụ lớn và quan khách
đi xe.
Ông Tư vụ cãi ngay:
- Không được đâu quan ạ, cụ Thiếu đã bảo thuê đủ xe, nếu để
các quan đi bộ, về cụ lớn quở cho chết! Vả cũng là một kiểu rước vinh quy lối mới.
Ông Hiệp lý thành phố Lê Nguyên Huy cũng nói:
- Cụ lớn đã bảo đi xe mà không đi, cụ lớn mắng cho cả nút. Vả
đã bảo đi xe cho nó linh đình mà, cho Tây họ biết người Nam ta trọng đạo chứ!
Nào mời các me-xừ lên đi.
Mọi người đành vui vẻ, hãnh diện được quan Kinh lược cho mời
đi xe một cách bất ngờ. Ông Tư vụ mời mọi người lên xe hết, bảo bọn phu xe chạy
hàng một nối sau đoàn xe ngựa của quan Tây và quan ta, đi cho nghiêm chỉnh, đều
đặn thẳng hàng như đi dẫn cưới vậy. Mọi người đã lên xe rồi, ông Tư vụ chạy lên
chỗ xe song loan báo với quan Thương tá cho xe khởi hành về dinh. Bốn cái xe ngựa
lọc cọc đi trước, rồi bốn mươi cái xe tay với từng cặp phu xe đội nón dứa và quấn
sà cạp, kẻ đun người kéo bon bon chạy theo sau thẳng hàng tăm tắp. Ông Tư vụ đứng
vẫy ra hiệu cho từng xe một chạy tiến lên, cuối cùng ông đi bộ theo sau, mặc có
người cố mời ông cùng lên ngồi ở trên xe. Ông lắc đầu đáp lại:
- Bẩm không được ạ, phận sự tôi là phải đi ở dưới này mới
trông quán xuyến được tất cả đoàn xe, ngộ có điều gì sơ suất!
Ông phán Phạm Như Sơn nói:
- Đằng nào quan lớn nói cũng được cả, lý sự bên nha có khác.
Vậy xin để tôi cùng đi bộ với quan lớn cho vui.
Như Sơn nói rồi nhảy tót xuống, đứng chờ ông Tư vụ, ông này
đang đi đủng đỉnh ngắm nhìn đoàn xe thẳng tít vừa chạy qua trước mặt, đang kéo
dài mãi ra xa, không để ý đến lời nói ông Phán Đốc lý, chỉ đưa mắt nhìn và nói
với ông Phán mà như nói một mình:
- Trông đẹp không, thật là đẹp hơn cả cuộc thi xe tay hồi tết
chính trung năm ngoái nhỉ quan Phán nhỉ?
Ông Phán không đáp thẳng vào câu chuyện, hỏi lại:
- Hai vị tân khoa cũ còn ở đây không nhỉ?
Ông Tư vụ được gợi đến chuyện, liền có dịp nói ngay:
- Còn chứ, cụ Võ cũng cho mời đến dự tiệc đấy, mời tất cả các
vị mới đỗ khoa Thìn này, các quan nghè Chu Mạnh Trinh, Từ Đạm đã đến cả rồi.
- Thế họ không ra đây đón à?
- Ấy chưa thấy quan Thám và quan Hoàng giáp đến, nên cụ lớn
có ý giữ hai quan Nghè ở nhà, không muốn để các ngài ra đây, sợ miệng thế xì
xào...
Ngừng lại một tí, ông Tư vụ nói tiếp thêm:
- Đấy quan bác xem, người ta đón rước linh đình như thế, chả
bù với mình hôm nọ, cả cái văn hội và hội công tải mà bảo thuê mấy cái xe, căng
mấy lá cờ, các cụ cứ kêu giãy nảy lên là tốn, rồi cả cái ông Hoàng giáp nữa
cũng cứ kì kèo bày vẽ... Các ngài có biết đâu rằng còn thể thống tiếng tăm của
cả đạo nho chứ...
Phạm Như Sơn nói thủng thẳng, chua chát:
- Bì thế nào được với bên nha Kinh lược quyền hành ở cả xứ Bắc
Hà này, còn văn hội chỉ quèn quèn mấy ông nhà nho ở cái xó Hà Thành này, mà lại
đang lúc không còn có tí quyền hành gì, giá có mở miệng nói ra chắc cũng chẳng
ai nghe.
Ông Tư vụ vừa đi rảo bước theo xe, vừa nói:
- Mình thấy nó tưng tức thế nào ấy, cái gì của mình thì cứ
ném đi, còn của nó một cái tơ cái tóc, cũng cần phô trương ra to như cái cột
nhà, tôi lấy làm lạ cho các ông khoa bảng. Chả hòng mưu tính cái gì được với
các ông ấy nữa. Tôi đợi làm xong đền Trấn Võ, rồi cũng đến xin quan cho về làm
phủ từ thắp hương thờ thánh vậy!
Ông Phán Phạm Như Sơn cười hóm hỉnh hỏi lại:
- Định trốn việc quan núp bóng thánh để mở nhà thổ thay mụ Be
à?
Ông Tư vụ mải chạy theo đoàn xe vội quay lại nói:
- Láo nào, lão này mà là mụ đầm ấy thì khối anh chết, ta,
Tàu, tân học, cựu học, chết tuốt.
Ông Phán đủng đỉnh đi còn ngoái trông đám trẻ con và người
qua đường đang dừng lại nhìn ngắm đoàn xe đi, cũng nói đuổi theo:
- Ấy bây giờ cũng đã quyền hành hét ra lửa khối đứa chết đấy
rồi. Ông vội đi vượt lên sát ông Tư vụ và nói nhỏ:
- Nhưng này trông bọn dân họ đứng nghiêm chỉnh xem bọn ta đi
thế này, chắc là họ thích lắm đấy nhỉ? Họ biết ơn cái lệnh của quan Đốc lý
Ha-le thông báo cho nhân dân không phải chạy lẩn tránh và nằm phủ phục giữa đường
mỗi khi có các quan tỉnh đi qua. Giá không họ đã thất đảm kinh hồn vì những cái
roi của lính quan Tư vụ...
Ông Tư vụ quay lại nhìn hàng người đứng bên đường, nói:
- Đến mình cũng thích chả là... Nhưng mà này bọn Tây nó ranh
lắm nhá. Nó lấy lòng dân thành phố đấy nhé. Còn ở nhà quê và các tỉnh, cái tệ lạy
lục ấy vẫn còn, mình đi ở trên trông đến là buồn cười.
Hai người mải đi vừa nói chuyện nghe câu được câu chăng, phút
chốc đã qua hết phố Bôn-be, qua Bờ Hồ và đầu phố Đấu Xảo. Ông Tư vụ vội chạy
lên trước rảo cẳng về trước cổng nha, bảo bọn lính canh đứng dàn ra hai bên bồng
súng đón các quan khách. Xe song loan của nha Kinh lược và xe ngựa của các vị
khách vào cả trong sân. Xe tay đậu làm bốn hàng dọc theo hai bên đường ở hai ngả
ngoài cổng nha. Một tràng pháo dài nổ vang giòn bên trước cái tạc môn xây cuốn
lưỡng long triều nguyệt ở giữa cận ngoài lầu công đường làn khói tỏa mà làm thấp
thoáng như rồng múa trong mây. Các khách đã vào cả trong sân. Ông Tư vụ và mấy
ông Kinh lược mời các quan khách vào ngồi bên trong nhà khách ở công đường. Mấy
vị khách người Pháp đã cùng với quan Thương tá và hai lệnh lang quan Võ đi vào
nhà khách riêng ở tư thất bên trong. Cả gia đình nhà quan Kinh lược đều được tụ
tập cả ở đấy, Hoàng Trọng Phu đã chạy tót vào trước với mẹ lại chạy ra làm
thông ngôn cho cha nói chuyện với mấy viên quan Pháp đại diện phủ Thống sứ và
phủ Toàn quyền đi đón và đến mừng. Ông Võ Hiển Đại học sỹ, Kinh lược sứ Bắc kỳ
Hoàng Cao Khải cao lớn đẫy đà trong cái áo gấm năm thân tay chẽn, đầu quấn khăn
nhiễu rối vành chữ nhân, trên ngực lấp lánh cái mề đay đệ Tam hạng Bắc đẩu bội
tinh của nước Đại Pháp bên cạnh cái kim khánh lớn rồng bay chạm nổi bốn chữ “mậu
công thị đức” của triều đình Thành Thái, ông khoan thai đĩnh đạc bưng chén nước
chè Thiết quan âm thơm phức đưa mời từng vị khách một theo nghi thức của vị
quan nhất phẩm triều đình Đại Nam. Trong câu chuyện ông tỏ ý mừng cậu con đã
thành tài và cảm ơn nước Đại Pháp bảo hộ giáo dưỡng tài bồi cho lũ tôi con xa
xôi, đồng thời phô trương cho bọn quan Nam rõ thể thức học tập và tài năng của
cậu con đã được đào tạo ở một nước văn minh hùng cường. Sau một lúc chuyện xã
giao, bọn quan Tây cáo từ ra về, Hoàng Cao Khải lanh lẹn và đường bệ đứng lên bắt
tay và tiễn chân họ ra đến cổng vừa đi vừa mời họ chiều tối hôm nay đến dự tiệc
mừng vì giấy mời đã gửi đi sáng rồi, và dặn Hoàng Trọng Phu cùng đi với bọn họ
sang chào hai quan thủ hiến một thể. Bọn họ lên xe ngồi, y mới trở vào nhà công
đường chào các vị khách người nhà. Mọi người đứng lên cả một lượt chắp tay vái
chào. Y cũng chắp tay bỏ thõng trước bụng, gật đầu chào lại và nói:
- Các quan và các thầy ngồi chơi. Người nhà cả với nhau, các
vị đến đông thế này mừng tôi, tôi rất lấy làm cảm tạ. Lễ nghi là để đối với người
ngoài, với người Tây cho họ biết ta là dân có văn hiến, có lễ nghĩa, có học thức.
Chứ còn chúng ta đây người nhà cả, lễ quý hồ giản, cần họp mặt với nhau cho vui
vẻ, thân tình. Trước anh em trong nhà, sau mới ra làng nước. Cho nên tôi có
lòng mời các quan, các thầy lui lại uống rượu mừng cho tôi và cậu Hai nhà tôi
đem chuông đi đấm nước người đã có những tiếng ra tiếng. Còn buổi chiều tôi mới
mời các quan Tây. Lệ của họ thường hội họp, yến tiệc vào buổi chiều... vả phong
tục khác, ngồi ăn với ta không tiện... Các vị xơi nước đi...
Rồi y quay lại hỏi ông Tư vụ đứng ở phía sau, gần cửa:
- Quan Tư xem độ bao giờ xong cỗ?
Ông Tư vụ tiến lại gần, chắp tay bỏ thõng, cúi đầu kính cẩn:
- Bẩm độ một nửa giờ đồng hồ nữa. Bây giờ mới chín giờ rưỡi.
- Quan lớn cho ngồi ở đâu đây?
- Bẩm cụ lớn, ở bên nhà hộ tào ạ. Hạ chức đã cho bày biện tử
tế. Còn dành chỗ cho...
Hoàng Cao Khải vội gạt đi:
- Tốt. Quan lớn cho mời các cụ lớn sang thẳng bên ấy. Còn ở
đây, chúng tôi uống nước ăn giầu xong rồi chuyển sang là vừa... A này, quan lớn
cho đi gọi ông Thám, ông Hoàng chưa?
- Bẩm cụ lớn, có người đi rồi ạ! Hạ chức xin đi ạ.
Ông Tư vụ đáp xong, lùi mấy bước, rồi mới quay ngoắt đi ra.
Trong này, Cao Khải thân mật đi lách qua từng hàng ghế một, lấy từng khẩu giầu
thân mật bỏ vào tận tay các vị khách nhiều tuổi. Y gợi chuyện và đáp chuyện vui
vẻ và có duyên. Hầu hết các tân khách đua nhau ca tụng công đức y để dẫn đến
phúc đức các con được hưởng, công danh sự nghiệp lưỡng toàn, giời riêng biệt
đãi. Qua tuần giầu nước, y sai mấy ông Kinh lịch đứng hầu ở đấy dẫn khách sang
bên hộ tào rồi lui vào trong tư dinh mời cụ Tam nguyên Nguyễn Khuyến là gia sư
cùng sang bên hộ tào dự tiệc. Từ dinh thự đi sang qua một vườn hoa cây cối râm
mát bước vào một cái sân nhỏ, lên một cái nhà ngồi kiểu mới chạy dài bảy tám
gian làm lối thượng thực hạ hư. Các vị khách đã ngồi đông đủ ở trong nhà theo
thứ tự như ông Tư vụ đã sắp đặt, ăn cơm ta nhưng ngồi theo lối Tây cho rộng chỗ,
mỗi người ngồi trên một ghế quay mặt vào nhau, thành bốn dãy ghế ngót một trăm
con người. Thoáng thấy bóng hai người đến, mọi người đều đứng cả lên. Thương tá
nha Kinh lược, Tổng đốc Hà Nội, các ông Tổng đốc bên nha Thương chính, mấy vị
nhiều tuổi đi hẳn ra ngoài sân đón Hoàng Cao Khải và cụ Tam nguyên. Cao Khải
vào trong nhà mời cụ Tam nguyên ngồi lên ghế nhất hàng đầu rồi đến các vị Tổng
đốc cao tuổi, rồi y ngồi vào hàng ghế thứ hai, sau đến các khách ăn ngồi theo vị
thứ đã định sẵn. Y mời mọi người ngồi xuống đâu đấy rồi tự đứng lên nói mấy câu
mào đầu mời khách:
- Các quan lớn và các thầy có lòng yêu đến chơi mừng chúng
tôi, xin gọi là bữa cơm thường thích ngộ mời các vị chiếu cố cùng vui chung với
chúng tôi. Ở nơi công đường việc công bề bộn mà bầy xen việc tư như thế này nên
có điều không được như ý, xin các vị thể tất cho. Đợi đến khi tư đệ của bản chức
ở dưới Thái Hà làm xong, xin mời các quan và các thầy xuống chơi nhà mới, có
nơi riêng biệt, bà con ta ngồi ăn uống sẽ được khang trang hơn. Bây giờ mời các
vị nâng chén đưa cay...
Tổng đốc Lương Huy Ý bên nha Thương chính đứng lên nói thay mặt
tất cả các quan khách:
- Bẩm thưa cụ lớn, cụ lớn ban cho cơm rượu, chúng tôi xin bái
lĩnh. Nhân dịp đến mừng quý công tử vinh quy, xin cụ lớn cho phép được đợi hai
quý tử cùng đến dự chung với anh em chúng tôi.
Hoàng Cao Khải nói ngay:
- Vâng ạ, đáng lẽ trẻ nhà phải có mặt ở đây để hầu rượu các vị,
nhưng em nó chả ở bên nước người ta về, lại có các quan Tây đi đón về đến mãi
đây, nên anh em nó phải sang chào hai quan đại hiến, cũng sắp về hầu đấy ạ. Xin
mời các vị cứ tự nhiên trước đi cho ạ, nhân tâm tùy thích, không nên bó buộc.
Y nhìn về đầu bàn tiệc đằng kia, bảo ông Tư vụ:
- Quan Tư ở đằng ấy tiếp các quan ở đằng ấy chu đáo nhé!
Rồi y tiếp ngay:
- Nào xin mời các vị lên chén đưa cay đi ạ, hôm nay cũng là một
dịp hiếm có đông đủ các phái tân học, cựu học ta chuyện trò hòa lẫn với nhau
thêm vui.
Mọi người đều đứng lên nâng chén chúc tụng phúc đức nhà chủ.
Các lính hầu lanh lẹn, nhẹ nhàng và kính cẩn lách qua những hàng ghế, rót rượu
hầu khách chuyển thêm những thức ăn, những gia vị. Và câu chuyện học hành đỗ đạt
cũ và mới cũng được nhiều người nhắc đến đem ra so sánh và khen ngợi đệ nhị
công tử mới đỗ cao ở nước ngoài, tuy họ chả biết cách học cách thi ở đấy như thế
nào. Người ta làm thơ, người ta ngâm thơ để mừng chủ nhân. Phạm Văn Toán, Bố
chính thư Tuần phủ Hải Phòng, vốn thích nôm, nhìn ra sân thấy đàn chim bồ câu
đang nô giỡn trên chuồng, liền ngâm tức cảnh một bài thơ tứ tuyệt:
Bốn cọc trơ trơ đứng giữa giời
Anh thì bay ngược chú bay khơi
Sinh sôi nẩy nở đàn con cháu
Cặp chả dâng thầy đánh chén chơi.
Mấy ông khoa bảng không ưa lối văn thơ nôm na như thế, nhưng
lại sợ thế lực của quan Tuần, nên đều ngồi im không nói gì. Chỉ bọn tân học còn
thanh niên cả, không nể nang ai, đều phá ra cười vui vẻ sặc sụa. Một ông Phán
phủ Thống sứ nói:
- Thơ của quan Tuần ngon quá, lại thoang thoảng cả mùi
húng...
Ông giáo Đặng Văn Mỹ bênh vực vị bảo trợ hội Trí tri.
- Quan lớn Tuần phủ Hải Phòng làm thơ tức cảnh mà có ngụ ý, vừa
thiết thực mà vừa hàm súc ai cũng hiểu được, mà ít người hiểu hết nghĩa, thế mới
là tả chân, tiếng Pháp gọi là rê-a-lit-tơ 10 .
Lối tả chân của ông giáo đưa ra cũng không thuyết phục được
ai, trong từng dãy ghế tiếng xì xào bàn tán vẫn râm rả, Tiến sỹ Đỗ Văn Tâm,
cũng hàm Tuần phủ đang được nghỉ ở nhà, thấy cần bênh vực ông bạn đồng liêu
hơn, liền nói:
- Quan Đốc nói đúng. Thơ của quan Tuần Phạm có nhiều ý nghĩa
sâu xa. Này nhé: bốn cọc là tứ trụ đứng giữa dòng, là nói các quan đại thần, tức
là ý nói đến cụ lớn Hoàng tướng công; anh bay ngược là chỉ quan Phủ anh cả, hiện
đang là Tri phủ Từ Sơn chả ở phía trên là gì, chú ra khơi, ý nói đệ nhị công tử
vượt tàu ra bể khơi, sinh sôi nảy nở đàn con cháu, cặp chả dâng thầy đánh chén
ngon, ngụ ý con cháu sẽ nhiều hơn, hội họp lại ăn mừng vui như thế này đây.
Trói tròn lại trong bốn câu hai mươi tám chữ mà gồm được ý như thế là tài lắm đấy
chứ.
Phạm Như Sơn, Phán sự tòa Đốc lý, cười nói thêm:
- Bẩm các quan, cũng vì tài thế nên ông bạn bên phủ Thống sứ
mới bảo là có mùi húng thơm ngon.
Ý chừng để gỡ cho mọi người khỏi chú ý đến một kẻ thuộc hạ
trung thành của mình và để cho tiệc vui chuyển hướng đẹp hơn, Hoàng Cao Khải
vui vẻ lên tiếng dàn hòa:
- Các quan và các thầy ạ, tiệc vui có thơ tức cảnh mới vui,
nhưng không có một cảnh thống nhất để ngụ ý thì rồi mỗi người nghĩ một cảnh, có
thể chưa hiểu ý nhau dễ sinh ra bắt bẻ, chi bằng tôi xin mạn phép đưa ra một đề
để các vị góp phần nhả ngọc phun châu cho thêm vui...
Mấy ông thông phán bên phủ Thống sứ nói ngay:
- Bẩm cụ lớn Kinh lược, ý cụ lớn rất hay, nhưng xin cụ lớn
cho làm thơ quốc âm cho anh em chúng con thưởng thức với chứ...
Hoàng Cao Khải tươi cười tiếp nhận ý kiến và nói:
- Vâng, đúng thế ạ, tôi xin ra đề chữ nho, mà làm thì làm bằng
thơ nôm để các quan Tham, quan Thám, quan Đốc, quan Giáo bên trường Tây cũng dự
được. Đề thế này ạ: “Thiên hà ngôn tai”, nghĩa là Giời có nói gì đâu! Xin các vị
cùng làm, cũng là các ngôn kỳ chí 11 .
Đào Trọng Kỳ đứng lên giải thích thêm:
- Đề lấy ở lời đức thánh Khổng: “thiên hà ngôn tai, tứ thời
hành yên, vạn vật sinh yên”... nghĩa là giời có nói gì đâu mà bốn mùa vẫn tuần
tự đi, vạn vật vẫn sinh sôi nảy nở, cái ý dễ mà cũng khó hợp với đủ mọi người
chúng ta ở đây, nhưng muốn cho tiền đầu thắng lợi, tôi xin các bậc giỏi thơ nôm
như cụ lớn Tam nguyên và cụ lớn Thương tá và các quan Nghè tân khoa khơi mào
cho trước...
Bùi Đình Tá và Đặng Văn Mỹ vốn quen thân Chu Mạnh Trinh cùng
lên tiếng phụ họa ngay để tâng bốc bạn:
- Xin mời quan nghè Chu Mạnh Trinh ạ, thơ nôm quan lớn du
dương réo rắt dễ xâm chiếm tâm hồn mọi người.
Một số lớn Thông ký, Phán Tây học đều phụ họa theo giục Chu Mạnh
Trinh, ông Nghè trẻ tuổi này vốn mẫn tiệp lại không muốn để mất thể diện lúc
này, ở giữa nơi trù nhân quảng tọa 12 này,
liền xin phép chủ nhân, xin phép các cụ lớn và mọi người rồi ầm è lấy giọng
ngâm ngân nga:
Thăm thẳm giời xanh chẳng nói ra,
Văn chương sự nghiệp khác đời xa
Năm châu bốn biển lừng danh tiếng
Tước lộc dành riêng thưởng một nhà!
Hầu hết anh em tân học đều khen hay, có người gật gù quen miệng
thốt ra những tiếng: bồng, tờ-ré-bồng 13 .
Có người thích chí nhắc đến ông Thám hoa Tam nguyên. Trong số cựu học, cũng nhiều
người gật gật đầu tỏ vẻ tạm nhận, và chính Hoàng Cao Khải cũng lấy làm ưng thuận
cái lời lẽ tâng bốc ấy, nên tự tay rót một chén rượu sai lính hầu bưng lại cho
Chu Mạnh Trinh, và trịnh trọng nói:
- Xin thưởng vị văn tinh tiên phong xuất trận!
Mọi người đều vui vẻ mừng cho Chu Mạnh Trinh và đang có ý
ngóng chờ ở ông Tam nguyên trẻ lên tiếng. Bỗng cụ Tam nguyên già lên tiếng:
- Tôi có bài thơ, tôi xin đọc.
Tất cả bọn trẻ tuổi đều vui sướng ồn ào đứng cả lên. Hoàng
Cao Khải lấy làm sung sướng đã kéo được con người có danh vọng lớn mà hơi có vẻ
bất trị ấy làm thơ mừng mình ở ngay chỗ nhĩ mục quan chiêm đông bọn trẻ như thế
này. Y thân rót một cốc rượu, đứng lên hai tay bưng đưa đến trước mặt cụ Tam
nguyên và nói:
- Bẩm cụ lớn, kính lão đắc thọ, xin mừng cụ lớn trước một
chén.
Cụ Tam nguyên giơ tay đỡ lấy chén rượu. Có người nài:
- Xin cụ lớn viết ra để chúng con ngâm cho nó hay ạ.
Cụ nói:
- Thơ tôi làm, tôi có không ngâm được thì tôi đọc chứ. Có phải
pháo đâu mà mượn người đốt.
Mọi người cười ồ vui vẻ. Cụ uống cạn chén rượu, khà một tiếng
ầm è lấy giọng ngâm:
Chót vót trên này có một tao
Mày xem tao có nói đâu nào?
Da tao xanh ngắt pha đen trắng
Bởi tại dì Oa vá váy vào!
Bọn Tây học trẻ tuổi đang bồng bột phá lên cười vui vẻ khen
hay. Ông Phạm Như Sơn nói thêm:
- Thật đúng là ông giời...
Và nói nhỏ vào tai hai người ngồi bên cạnh:
- Thật đúng cụ Tam nguyên.
Phái cựu học cũng cười theo, nhưng thấy chủ nhân không vui ngồi
nghiêm trang chứ không cười nói như lúc nãy, thì ai nấy ngồi im bặt, có người lấm
lét đưa mắt liếc trộm cả cụ Tam nguyên và quan Kinh lược. Không muốn để cho bọn
Tây học bàn tán mãi về bài thơ, một vị cựu học, Bố chánh Hà Nội đứng lên cắt
nghĩa:
- Thơ cụ Tam nguyên làm đúng với đề nhưng lời không đẹp.
Một ông thông ngôn người Nam kỳ cãi:
- Đúng tức là đẹp rồi! Thế các quan cho giả dối là đẹp à? Lạ
nhỉ?
Thấy kéo dài cuộc cãi vã như thế này không có lợi cho cụ Tam
nguyên, Nguyễn Thượng Hiền vội lên tiếng xin đọc thơ của mình. Mọi người liền
quay dồn cả về phía ông Hoàng giáp trẻ tuổi, lắng nghe ông ngâm:
Giời xanh cao tít nói gì đâu?
Cảnh sắc luôn luôn chuyển đổi mầu
Lúc thịnh lúc suy là vận số
Bây giờ họp mặt cả năm châu.
Bài thơ chung chung chẳng nói lên ý nghĩa gì cảm định đưa ra
để cứu vớt hòa khí trong bữa tiệc, đã không được như ý Nguyễn Thượng Hiền mong
mỏi, nó bị rơi tõm vào trong sự đón nhận nhạt nhẽo bằng những tiếng “À... – Tạm
được”. Nguyễn Thượng Hiền đành bẽn lẽn ngồi im, làm không khí nặng nề thêm, hầu
như không ai dám nói gì nữa. May sao Hoàng Mạnh Trí và Hoàng Trọng Phu đã về,
vào chào quan khách dự tiệc, mọi người lại vồn vã vui vẻ. Bữa tiệc trở lại vui
tươi, xoay quanh những lời chúc tụng kẻ du học thành tài và chuyện học hành thi
cử và những chuyện vui lạ ở bên nước Đại Pháp, cái nước mà tất cả mọi người có
mặt ở bữa tiệc hôm nay, kể cả mấy ông Thông ngôn Ký lục người Nam kỳ chưa ai được
tận mắt nhìn thấy, và ai nấy đều phải nhận là văn minh giàu có hùng cường và có
nhiều sự lạ tai lạ mắt hơn ở nước ta.
***
Buổi chiều hôm ấy khắp thành phố đều xôn xao bàn tán về lễ
vinh quy của cậu Hai con của cụ lớn Võ hiển, Kinh lược đại sứ Bắc kỳ Hoàng tướng
công. Người ta còn xì xào cả về bữa tiệc ở nha Kinh lược, và xì xào đọc cho
nhau nghe bài thơ ứng khẩu của cụ Tam nguyên trong bữa tiệc ấy. Đỗ Uẩn từ khi
cáo quan về ở làng Thịnh Hào, chỉ ở nhà ít đi chơi đâu, cùng bất đắc dĩ có việc
gì cần thiết làm không có mình không xong, ông mới thân hành ra đi thôi. Cho
nên từ khi mở khu phố Tây, bọn Pháp chiếm giữ các đình chùa quanh hồ Hoàn Kiếm,
ông không hề đặt chân đến miền này. Chiều nay có cái tin xôn xao ấy và nhân dịp
quân đội Pháp đã trả lại đền Ngọc Sơn cho dân để làm nơi du ngoạn, không còn
đóng giữ làm ô uế như trước nữa, ông cũng muốn một công đôi việc, đi thăm mấy bạn
bè quen biết cho rõ thêm câu chuyện ở dinh Kinh lược, và nhân thể dẫn cậu con
giai đi thăm cảnh sắc Hồ Gươm một thể. Cậu con mới mười hai tuổi, đẻ đúng năm
Hà Thành thất thủ, ông cho là số phận sẽ long đong, việc đời sẽ chẳng được như
lòng mong muốn, nên ông thương lắm, trong thời buổi Tây Tàu loạn lạc này, ông
muốn cho con biết đến gốc, nhớ đến gốc, ông thường cho phép con cùng đi, để
nhân có cảnh mà dẫn giải cho con biết. Hôm nay, thấy có người đến mách bảo chuyện
như thế, ông ăn cơm sớm hơn mọi ngày, rồi hai bố con đủng đỉnh dắt nhau xuống
thẳng Vũ Thạch, nơi trường học của thầy học ông trước là cụ cử Nguyễn Huy Đức.
Làng Vũ Thạch nay đã thành phố, thuộc vào khu phố Tây rồi. Một số nhà đã bị dỡ
đi. Một số dân cư đã phải dọn đi nơi khác. Ông rẽ vào thăm một ông bạn gốc người
ở thôn này, trước là ông đồ dạy trẻ, bây giờ đổi sang làm nghề thợ may. Ông vào
đến nơi, ông bạn dồn cả kéo, vạch, vải vào một xó, vui vẻ đón bố con ông vào và
giục con đi đun nước, têm giầu và sửa soạn cơm thết khách. Đỗ Uẩn gạt đi, nói:
- Nhân dẫn cháu xuống xem đền Ngọc Sơn, qua cửa phải ghé vào
thăm sức khỏe đại huynh cho phải đạo. Ăn cơm rồi mới đi đây, xin đại huynh cứ
khâu đi...
Ông bạn cãi ngay:
- Người là vàng của là ngãi, thời buổi này được gặp nhau là
quý, chứ chả khâu lúc này khâu lúc khác, cần gì. Vả lại, số mình vất vả, mới đổi
sang nghề thợ may mấy năm thì bây giờ Tây, Tàu ăn mặc lối mới, mình đến lại phải
gác nghề mất.
Không để cho khách nói, ông đồ kiêm thợ may hạ thấp giọng hỏi:
- Thế nào? Việc ấy thôi thật à?
Đỗ Uẩn thẫn thờ:
- Chả thôi thì còn biết làm thế nào? Sự thể phải như thế, tôi
đã nhắn bác cử Nhị Khê đến nói rõ với đại huynh mà...
- Có! Có! Bác ấy có nói. Nhưng mà thôi thì ức lắm! Đến đấm ngực
mà chết mất!
- Cũng đành vậy! Đệ cũng ức lắm, nên hôm nay thấy ở dưới này
có chuyện vui vui, nên mới lần mò xuống cho nó khuây khuây!
Ông đồ Vũ Thạch bỗng vui hẳn lên, mắt sáng ngời, nói:
- À có! Định còn để lòe quan bác cơ. Thế ra quan bác đã biết
rồi à? Kể cụ Tam nguyên nhà mình chơi cũng khá đấy chứ. Ít ra cũng phải đập vào
mặt nó được một mẻ như thế mới hả. Cho bọn ti toe lên mặt theo Tây nó phải cúp
đuôi lại...
Đỗ Uẩn tiếp lời:
- Kể nghe được chuyện như thế cũng thích, mát lòng mát dạ.
Ông chợt ngần ngừ:
- ... Nhưng đấy mới là câu chửi xỏ của quan Tam nguyên. Còn
cánh ta thì sao?
Hai người lại cùng im lặng ngồi bần thần ra một lúc. Rồi Đỗ Uẩn
đứng lên nói trước:
- Thôi, chả ăn giầu uống nước gì, tôi cho cháu ra chơi ngoài
hồ thăm đền một nhát đây.
Ông đồ Vũ Thạch nói ngay:
- Uống nước đã nào, để đợi đệ đi với! Đệ ở ngay đây mà mấy
năm nay Tây nó chiếm, đệ có dám thò ra đến đền đâu.
Đỗ Uẩn đành phải ở lại ăn giầu uống nước đợi bạn cùng đi. Ở
trong nhà tự trên hè bước chân xuống là đi trên đường phố ngay, ba người đi hết
phố Vũ Thạch đã đến ngã tư đầu phố Hàng Khay và phố Đấu Xảo. Quang cảnh ở đây
đã khác hẳn, làng Phục Tô không còn nữa, thay vào đây là một dãy phố mới mở rộng,
lác đác có mấy cái nhà ngói kiểu Tây mới làm. Thấy bạn tần ngần nhìn những ngôi
nhà mới, ông đồ Vũ Thạch nói:
- Cả một rẻo đất ở phố này và bên phố bên kia là của Đồ Phổ
Nghĩa và của Nhà chung bên đạo đấy.
Đỗ Uẩn không nói gì, nhưng cậu bé con hỏi:
- Đồ Phổ Nghĩa là ai hở bác?
Ông đồ cười:
- À thằng này hỏi khá.
Rồi ông âu yếm giảng lại câu hỏi của chú bé:
- Cháu Quang ạ, đây trước kia là thôn Phục Tô. cũng như thôn
Thịnh Hào nhà cháu ấy mà. Nhưng nay các quan Tây cần mở phố làm nhà để các quan
Tây ở, cũng như chỗ nhà bác đây, sân vườn của bác bây giờ là đường phố cả...
Chợt đến trước một tòa nhà mới làm đồ sộ, có bờ rào gỗ sơn
xanh bao vây, bên trong có sân giồng nhiều cây hoa, có lối đi vào lát sỏi, có
nhiều người ra vào. Bên ngoài có mấy cái xe tay ở dưới đường để càng ghếch lên
hè. Mấy bác phu xe đang ngồi túm tụm trên hè nói chuyện gẫu, một bác trông thấy
cậu bé, gọi đùa:
- Nào bảo bố cho lên xe tôi kéo đi chơi một “cuốc” nào!
Chưa ai kịp nói gì, một người ở trong tòa nhà đi ra đã gọi rối
rít:
- Quan Phủ, quan Phủ Thịnh Hào ơi!
Đỗ Uẩn chắp tay vái chào:
- À kính chào tôn ông, tôn ông đi chơi?
Quay lại, ông nói với bạn như giới thiệu:
- Tôn ông đây là quý tính danh Nguyễn Quang Minh phố Hàng Quạt.
Ông đồ nói:
- Bẩm vâng đệ có biết...
Rồi quay sang ông khách mới, ông hỏi:
- Bẩm tôn ông đi lĩnh tiền?
Nguyễn Quang Minh hớn hở như gặp người tri kỷ, hỏi lại:
- Thế tôn ông cũng đi lĩnh tiền à?
- Không ạ, bỉ nhân là thợ may áo năm mình thì làm gì được
lĩnh tiền ở đây, có như tôn ông đóng nhiều đồ gỗ cho quan Tây thì mới có nhiều
tiền phải ra nhà băng mới đủ mà lĩnh...
Đỗ Uẩn phải chào khéo để lấy lòng:
- Thôi kính chào tôn ông nhé, chúng tôi cho cháu đi vòng chơi
quanh hồ.
Nhưng Nguyễn Quang Minh cũng cứ đi theo để nói rõ việc lĩnh
tiền.
- Bẩm hai ngài, trước kia mình là người biết nghề, có cửa hiệu,
Tây nó đến nó bắt đóng đồ cho nó, mình lấy làm ức là. Nhưng từ hôm được quan
Hoàng giáp bảo phải tranh nắm lấy thương trường giữ lấy lợi quyền cho dân mình,
tôi rất lấy làm phải, nên mới yên tâm chú ý đến thì công việc phát đạt lắm, xuất
nhiều phải giao thiệp qua nhà băng...
Ông đồ Vũ Thạch nói:
- Ấy bán không chưa ăn thua, đứng nhận thầu làm đồ gỗ và bán
đồ gỗ cho Tây mới chóng phất như diều.
Nguyễn Quang Minh chân thật đáp:
- Vâng. Nhà băng họ cũng bảo tôi thế...
- Ấy... nhất là làm một số gông, cùm gỗ lim loại to lúc này
đang cần...
- Vâng.
Hình như cốt thanh minh rõ ý mình đi lĩnh tiền là để buôn bán
tranh lợi quyền về tay người mình là đủ, nên không để ý thêm đến gì nữa, đến
ngã ba rẽ lên phố Hàng Bài, Nguyễn Quang Minh chào hai người rồi đi thẳng. Ba
người lại đủng đỉnh theo đường Bờ Hồ mới mở. Ông Đồ hỏi:
- Quan Hoàng giáp nào bảo nó đi làm gông cho Tây nhỉ? Vũ Nhự
à? Hoàng giáp Kim Cổ à?
Đỗ Uẩn cười đáp:
- Không phải, Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền nói tối hôm nọ đấy.
Rồi ông thuật thêm lại ý của Nguyễn Thượng Hiền tối hôm ấy.
Ông bạn phố Vũ Thạch chán ngán nói:
- Tôi đã bảo mà, mình không làm gì lúc này là như có ý thúc
giục bọn chúng nó đổ xô vào đi buôn bán hầu tạ Tây cả. Tiền làm tối mắt lại,
tôi nói như thế mà nó cứ vâng tràn... Cứ nay nhà băng mai nhà băng thì rồi Tây
nó bảo bán bố mẹ cho nó cũng bán tất, chả nể nang sợ hãi gì. Cho nên đệ vẫn bán
tín bán nghi cho là quan bác thử đệ...
Đỗ Uẩn không nói, vẫn thủng thẳng bước, cậu con chán câu chuyện
của hai người lớn, nhìn thấy cảnh lạ bên bờ hồ mới dọn sạch sẽ quang đãng, có
giồng hoa thẳng hàng, có đặt ghế gỗ quay mặt ra hồ, cậu reo lên:
- Đẹp quá nhỉ...
Ông đồ Vũ Thạch nói ngay:
- Đẹp cho người nhưng khổ cho dân mình đấy cháu ạ. Làng Tự
Tháp đằng kia thành phố, nhà thờ quan Nghè cũng phải dỡ đi. Đây cả thôn Bảo
Khánh phải rời đi để làm chỗ cho chúng nó chơi mát. Rồi lù lù cái kho chứa hàng
của lão Pô-chi-ê 14 kia.
Đỗ Uẩn phải khẽ bảo:
- Này khéo không vạ miệng đấy, tai vách mạch rừng, huống chi
là ở đây giữa thanh thiên bạch nhật đông người qua lại, cháu nó còn trẻ dại có
hiểu được ý đại huynh đâu.
Ông bạn nói:
- Phải nói cho cháu nó biết chứ, để một vài năm nữa thì rồi đến
chúng mình cũng quên đi hết nữa là.
Đủng đỉnh thế mà đã vòng hết phía bờ hồ bên kia sang đến đầu
bờ hồ bên này, ông bạn Vũ Thạch trỏ cái nhà ngói mới làm nói:
- Mời quan bác vào xem chiếu hình Tây đầm nhảy múa.
Đỗ Uẩn nhìn ngắm cái nhà duyên dáng có vẽ chữ Tây to như kín
cả cái chiếu, hỏi:
- Nhà gì đẹp thế nhỉ.
- Nhà xi-nê-ma Mô-ních 15 đấy,
trong ấy họ chớp phim có hình người đi đứng lên bức màn trắng.
Cậu bé con thích chí lại reo lên:
- Hay nhỉ? Bác cho cháu vào xem nhé!
Ông đồ Vũ Thạch bỗng nói với giọng dịu dàng nhưng nghiêm nghị:
- Nhưng bác không phải là cụ lớn Kinh lược, nên bác không vào
được, cháu Quang ạ! Nhà đẹp đấy, cảnh vui đấy nhưng đâu có phải của người mình.
Của Tây đấy, mình không được vào. Năm ngoái, ngay chỗ ngoài mé hồ này, người
mình cũng không được bén mảng đến...
Bỗng ở phía bên kia đường xồng xộc đi sang một người đã đứng
tuổi búi tóc củ hành, mặc cái áo the bạc màu, quần nái nhuộm nâu sẫm, lưng hơi
khom; vừa sang đến bên này, người ấy chắp tay vái rạp đầu xuống đến đất, nói:
- Bẩm lạy hai quan lớn, bẩm lạy quý công tử, con lạy các quan
cao xa đèn giời soi xét, con là dân sung sướng được các quý quan bảo hộ...
Người ấy lại rối rít làm cho chú bé Quang sợ đứng nép vào hai
người. Ông đồ Vũ Thạch vỗ vào vai người kia bảo:
- Này bác Nhì, ta với nhau cả đây mà, bác lạy chúng tôi thì
chúng tôi làm gì được! Chúng tôi cũng xin lạy lại bác thôi!
Người kia cứ lạy rối rít nói cảm tạ lảm nhảm. Bỗng người ấy đứng
phắt lên, thẳng người, hai mắt đỏ ngầu nhìn trừng trừng nói rằn rõ từng tiếng:
- Tôi xin lạy các quan vì các quan là kẻ thắng thế, các quan
đi với Tây!
Rồi người ấy ngoắt vượt lên trước thất tha thất thểu đi thẳng.
Ông đồ Vũ Thạch chép miệng bảo bạn:
- Tội nghiệp! Cũng vì phẫn khí mà đâm ra điên cuồng như vậy!
Lão Nhì Tuất ở Yên Ninh bạn với Ba Thịnh phố chợ Đông Thành. Từ ngày ông thầy
bói ấy bị giết, lão ta phát điên lên cứ lang thang nhận người lạ làm quen, coi
người quen ra lạ...
Đỗ Uẩn không để bạn nói hết ý, ngắt:
- Tôi xem hình như lão không điên, lão nói có vẻ trách móc.
Có lẽ nào biết ý định ở cuộc họp hôm nọ...
Ông bạn ở Vũ Thạch nói:
- Mọi người đều đang ngóng chờ, rồi bẵng đi không thấy gì nữa,
làm gì mà lão ta chả hỏi ra lẽ. Cho nên mới lại càng điên! Nhưng thôi kệ lão ta
vào đền đã.
Ba người qua cổng đài Nghiên, qua cầu Thê Húc đi vào thẳng
trong đền. Dấu vết quân đội Pháp đóng giữ ở đây chưa sửa chữa xóa bỏ được hết
càng đeo nặng thêm nỗi ngao ngán vào trong lòng những con người tự trọng biết
suy nghĩ thấy những nơi cảnh trí linh thiêng danh thắng của đất nước bị xâm phạm,
bị làm ô uế. Đỗ Uẩn buồn nản bùi ngùi dẫn con đi xem hết một lượt, nói cho con
biết nơi thờ đức Văn Xương đế quân, nơi thờ đức Thánh Quan, đền thờ đức Trần
Hưng Đạo... giảng cho con nghe bài văn bia của quan nghè Tự Tháp, đôi câu đối
thờ đức thánh Trần của quan nghè Bình Vọng Lê Duy Trung... rồi lân la đến ngoài
sân trước, đứng Trấn Ba Đình, chợt trông thấy một bài thơ đề trên vách, chữ viết
tươi và nét mực còn mới, Đỗ Uẩn giơ tay chỉ, nói với bạn:
- Quan Hoàng giáp Liên Bạt cũng đã đến vãng cảnh. Kìa đại
huynh coi tâm sự của quan ngài đây.
Ông bạn đến gần tường nhìn kỹ lẩm bẩm đọc:
Hồ bể mười năm dốc một lòng,
Gió tây dừng ngựa ngắm non sông.
Trước lầu mây tía tan đâu cả?
Tìm sách trăng vàng những luống công!
Tránh đục đã toan tìm biển bắc
Tu chay may được đến rừng đông.
Bình sinh chí khí theo mây khói
Giấc mộng non xanh tự ngóng trông.
Để cho bạn đọc đi đọc lại kỹ rồi, Đỗ Uẩn mới nói:
- Không còn phải là thoái thác che đậy nữa nhé. Đây rõ là ý
nghĩ của quan Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền. Tình thế khó khăn thật, mà mong
như Trương Lương tìm được Hoàng Thạch công cho sách cẩm nang binh thư binh pháp
ở bên cầu dưới ánh trăng vàng là điều không thể nào có được, nên đành tạm nhẫn
nhục đợi thời cơ vậy. Tạm im chứ không phải là bỏ...
Ông bạn thẫn thờ...
- Đành rằng thế, nhưng im lúc này như chịu thua, chịu lép một
bề khiến cho kẻ hữu tâm bế tắc thành phát điên phát dại và những kẻ do dự dễ xu
thời trục lợi. Kẻ nhân nhân chí sỹ 16 có
nên như thế chăng?
Ông phủ Thịnh Hào không trả lời bạn, đọc lại và giảng cho con
nghe bài thơ đề trên vách, rồi ba người quành lại cầu Thê Húc trở ra đường cái
Bờ Hồ, cả bọn lại lần theo bờ hồ đi xuôi theo con đường Thập Lý, mà nay đã mở
mang thành con đường rộng rãi khang trang, hai bên giồng cây thẳng tắp, gọi là
đại lộ Ngạc Nhi 17 .
Đến trước vườn hoa Bôn-be, chợt thấy lão nhì Yên Ninh lúc nãy đang sì sụp lạy
trước tượng đồng Bôn-be và tượng lão đồ búi tóc củ hành và luôn miệng nói:
- Bẩm lạy hai quan lớn, con là dân bảo hộ ạ! Con không có nước.
Nước con là nước Đại Pháp ạ!
Muốn đứng lại xem lão điên còn giở thêm trò trống nhục nhã
nào nữa không, vả đi lâu cũng mỏi chân, Đỗ Uẩn cố mời bạn ngồi nghỉ ở ghế bên hồ
một lúc, cho cậu bé con được nhìn ngắm vườn hoa và mặt hồ nước trong xanh. Bên
kia đường, ở trong vườn hoa, hai người Pháp và một người thông ngôn từ trong
tòa Đốc lý đi ra, dắt nhau đến ngồi ở một cái ghế dài ở gần chỗ tượng Bôn-be và
kê quay mặt vào tượng. Lão nhì Yên Ninh, quay phắt ngay lại, chổng đít lên phía
tượng Bôn-be, chắp tay vái lấy vái để ba người ngồi trên ghế và một cách trơn
tru ngồ ngộ:
- Bẩm lạy ba quan lớn, con là kẻ có tội, là dân bảo hộ, con
xin lạy ba quan lớn, con không có nước, con được nhà nước bảo hộ che chở...
Một tên Pháp gật gù khen:
- Bồng! Bồng!
Tên khác hỏi người thông ngôn người Nam kỳ:
- Nó muốn gì thế?
Tên thông ngôn đáp:
- Nó điên dại.
Tên kia cười hỏi lại:
- Phu ? Tay e phu? 18
Lão Nhì vẫn lạy, vẫn nói và lặp lại theo:
- ... Phu! Phu!
Thằng Pháp kia cười thích chí cầm tay dí đầu ông Nhì xuống đất
và vừa cười vừa nói:
- Tay e phu, phu, phu. Lan-na-mit phu! 19 hả!
Nó vẫn cười và tay vẫn dí đầu ông kia xuống. Thằng Pháp khác
và thằng thông ngôn đều cười phụ họa vào cách nô đùa ấy. Bỗng hai người trai trẻ
coi có vẻ là thợ nề từ khu vực dinh Thống sứ đang xây đi tắt qua vườn hoa đến gần
đấy, một anh đứng lại nói với thằng Pháp:
- Người ta điên, ông không nên trêu chòng người ta như thế!
Và anh nhìn thẳng vào tên thông ngôn nói với vẻ trách cứ:
- Ông phải bảo ông ấy chứ, người ta có phải súc vật đâu mà
các ông tàn tệ thế!
Tên thông ngôn bĩu môi tỏ vẻ khinh bỉ, nói xì xồ với hai tên Pháp,
rồi quay ra nhìn trừng trừng vào mặt anh trai và nói dọa:
- Mày muốn bênh nó à? Đồ chúng mày không bằng súc vật, còn
nói gì?
Anh thợ xây cũng nói rắn rỏi:
- A! Nghĩ Nam quốc Nam nhân với nhau, tôi mới nhờ anh nói với
ông ấy đừng đùa thế. Cũng là người cả thôi.
Tên thông ngôn đứng lên sừng sộ:
- À mày láo à?
Anh thợ xây vẫn điềm tĩnh:
- Tôi nói với Tây, chứ không nói với anh!
Thằng Pháp kia bỏ ông Nhì điên ra vừa đứng lên vừa lúc tên
thông ngôn giơ tay lên tát anh thợ, anh này đỡ gạt đi được, thì bị tên Pháp đá
luôn vào bụng một cái, anh nhanh tay nắm ngay được cẳng nó làm nó mất đà ngã phệt
xuống. Nhanh như cắt, ông lão điên xả đè lên thằng Pháp, tay cầm con dao díp nhọn
– ông đã giấu ở trong người từ bao giờ − đâm lia đâm lịa vào cổ thằng Pháp. Thằng
Pháp kia phải đâm xổ vào cứu bạn đá văng mạng và thất thanh kêu cứu. Sự việc biến
chuyển một cách bất ngờ không ai có thể lường được. Bọn lính Tây đóng canh giữ
tòa Đốc lý vác súng tới tấp chạy ra. Bên này đường, Đỗ Uẩn và ông thợ may Vũ Thạch
vội dắt con chạy rảo bước về phố Hàng Bài thì tiếng nổ đoành đoành như đuổi sau
lưng. Hai người vội rẽ ngoặt vào ngõ Hàng Bài luồn qua lối ngách sang bên chùa
Vũ Thạch. Đây là một ngôi chùa cổ, khuất nẻo và nhỏ bên cạnh đền Thiên Hậu to
hơn. Đến đây là thung thổ của bác đồ thợ may rồi, dù bên ngoài Tây có vây bắt
thế nào cũng không sợ nữa, bác đồ mới hoàn hồn vừa thở vừa nói:
- Kể bọn mình co cẳng chạy cũng hèn thật! Kiến nghĩa mà đếch
dám làm gì. Thua bác thợ nề, mình nghĩ cứ thương bác ta quá.
Đỗ Uẩn nói một cách thẫn thờ như nói riêng với mình:
- Chết! Thế nào chúng nó cũng bắn chết! Phẫn khí, khảng khái,
nhưng một chọi một thì rồi chúng nó giết chết hết mất!
Ông bạn nói ngay:
- Ấy thế mới cần họp lại mà mưu cùng làm một lượt chứ! Đấy
bác thử xem cái ý định đình chỉ mọi cử sự lúc này nó tai hại lắm nhé. Quan bác
hãy ngồi chơi đây, tôi chạy đi tìm sư già.
Ông bạn chạy xuống nhà tổ ra vườn sau, Đỗ Uẩn dắt con đi vào
chiêm ngưỡng bàn thờ Phật, chợt trông thấy ở phía tường đông có một bài thơ có
vẻ mới đề, ông vội đến nơi xem, thì ra là thơ ngẫu đề của quan Thám hoa Tam
nguyên Vũ Phạm Hàm, ông liền ngâm to vừa giảng cho con nghe. Bài thơ rằng:
Mười năm nhang thế đến chùa xưa
Hoa cỏ xanh tươi thơm mát đưa
Quanh ngõ ánh hồ trăng thấp thoáng
Ngoài rèm ngọn tháp bóng đong đưa
Bể dâu qua mắt sư cằn cỗi
Kèn trống inh tai Phật ngẩn ngơ!
Quét vách nhân đề câu ngẫu hứng,
Lầu son màn biếc tỏa điềm mơ!
Ông bạn đã chạy đi tìm được vị sư già trụ trì chùa này về,
hai bên chào hỏi nhau xong, Đỗ Uẩn nói với bạn:
- Có thơ quan Thám đây này, đại huynh xem chưa?
Ông bạn quay sang hỏi nhà sư:
- Bạch cụ, quan Thám đề thơ bao giờ thế hả cụ? Tôi chưa biết.
Sư già nói:
- Độ giữa tháng trước đấy, thầy ạ! Cũng vào buổi chiều như thế
này, quan Thám ngài ở chơi đến tối nên có cả ánh trăng!
Đỗ Uẩn hỏi:
- Bạch cụ! Thơ hay, ngụ cả cảnh cả tình, nhưng sao quan Thám
lại hạ câu “Phật ngẩn ngơ?”.
Sư cụ cười thích chí:
- Quan Phủ Thịnh Hào hỏi hóm thật! “Sư cằn cỗi” già nua, tôi
đây có già sọm đi thật, tức vì việc nước, việc dân, việc đời, việc Phật đều trải
qua dâu bể, nên tức mà già thêm. Ngay ruộng vườn Tam bảo hẳn hoi mà nó cũng bắt
cho ra làm đất công để mở phố hết. Nhưng còn “Phật ngẩn ngơ” thì là thế này:
Hôm ấy vô phúc ngoài phố, Tây nó gọi lính vây bắt cái gì ấy, kèn Tây nó cứ tổi
toe toe, rồi các đồn thúc trống ngũ liên, quan Thám đang định lên lễ từ đường
quan Hoàng giáp Kim Cổ, không đi nữa, ngài ở lại đây cho đến tối có giăng, bần
tăng cho người đưa ngài về đằng quan Tuần Nam Ngư. Cái tiếng kèn tiếng trống
lúc bấy giờ rất khó chịu, nên ngài đem ngụ ngay vào đấy, bần tăng là người xuất
gia mộ đạo, không dám có ý gì nhạo báng, nhưng cũng thấy thích câu ấy.
Ông bạn thợ may Vũ Thạch nói:
- À ra quan Thám cũng chạy trốn như chúng mình nhỉ!
Sư già nói:
- Chạy là phải chứ, tránh voi chẳng xấu mặt nào. Trong lúc hỗn
quân hỗn quan đứng lại nó bắt cho thì thiệt thân, một mình chống lại thế nào được
với bọn chúng nó. Hôm ấy nó làm dữ cơ chứ...
Đỗ Uẩn nói một cách từ tốn:
- Bạch cụ, cụ dạy đúng ạ, biết lai lịch như thế, mới thấy
thích câu thơ và phục tài quan Thám.
Ông quay sang hỏi bạn:
- Đại huynh xem bài thơ thế nào?
Ông kia chạy ra hẳn tận nơi đứng ngắm nghía bài thơ đọc kỹ, rồi
quay lại vừa lúc sư cụ mời khách xuống chơi nhà tổ uống nước, hai người dắt chú
bé đi theo sư cụ, vừa đi ông bạn vừa nói:
- Thơ hay lắm, có ấm ức...
Sư cụ mời hai người vào ngồi trên sập, rồi quay ra đi gọi chú
tiểu quạt nước pha chè, ông bạn nói tiếp:
- ... Nhưng xem ra có vẻ yên phận hơn quan Hoàng giáp.
Đỗ Uẩn tán thành:
- Phải! Phải! “Lầu son màn biếc tỏa điềm mơ” là một mình yên
thân trong cảnh phú quý rồi!
Ông bạn nói thêm:
- Tâm sự rõ rồi đấy. Là nghĩa tử 20 quan
Tuần Nam Ngư và quan Tham tri Kim Cổ 21 lại
nát đảm vì những cuộc vây bắt như thế, thì dễ yên phận ra làm quan lắm!
Đỗ Uẩn đăm đăm nhìn qua cửa sổ ra ngoài vườn, nói thẫn thờ
như lạc sang chuyện khác:
- Đệ đi hôm nay, thế mà may, được biết thêm tâm địa con người,
bác gì ở Yên Ninh ấy nhỉ, bác ấy không điên đâu ạ; lại bác thợ nề giỏi, giỏi, đệ
có người có cảnh mà dạy con... Mà này đại huynh ạ, cõ lẽ cũng không thể cứ ngồi
im mãi...
Ông bạn tiếp lời:
- Thì quan bác cứ liên lạc, cái cánh áo ngắn chúng tôi đây
anh em dăm ba người gắn bó bao giờ cũng xin đứng lên chạy theo trước tiên...
Thấy sư cụ đã bưng tráp giầu con từ ngoài bước vào, ông bạn
im ngay nói lảng sang chuyện khác.
--------------------------------
Ty coi về việc hành chính. |
|
Insigne: huy hiệu. |
|
Conseiller municipal: hội viên của Hội đồng thành phố. |
|
Tìm hiểu sự vật đến cùng. (BT) |
|
moi: Tôi (đại danh từ). (BT) |
|
Chỉ những người học cao hiểu rộng, bụng mang một bồ sách, mở
mồm ra là dùng cách nói chữ, khiến những người chung quanh không hiểu nổi.
(BT) |
|
Beaucoup bon: tốt lắm. |
|
Content: bằng lòng. |
|
Policé: cảnh sát. |
|
Realiste: tả chân. |
|
Mỗi người đều nói chí của mình. |
|
Chỗ đông người ngồi rộng. |
|
Bon, très bon: tốt, rất tốt. |
|
Pottier. |
|
Cinéma Philharmonique: rạp chiếu bóng đầu tiên, tức rạp Hòa
Bình bây giờ. |
|
Người có nhân nghĩa và chí lo việc đời. |
|
Francis Garnier. |
|
Fou? Tu es fou?: Điên à? Mày điên à? |
|
Tu es fou! Fou! Fou! I’Annamite fou!: Mày điên, điên, điên!
Thằng An Nam điên: |
|
Con nuôi. |
|
Quan tuần Nam Ngư tức Phó bảng Phạm Hy Lượng, Tuần phủ Ninh
Bình. Quan Tham tri Kim Cổ tức Hoàng giáp Vũ Nhự. |
Chương X
Đền thờ đức thánh Trấn Vũ đã làm xong. Nha Kinh lược cho mở hội
khánh thành mừng công luôn năm ngày. Ngày thứ nhất, ngày mười tư tháng mười
năm Quý Tỵ, niên hiệu Thành Thái thứ 5 là ngày quốc tế 1 lạy
mừng đức Trấn Vũ Huyền Thiên đại đế. Quan Kinh lược đại sứ Bắc kỳ và các quan Tổng
đốc, Tuần phủ tất cả các tỉnh ngoài Bắc Hà này đều phải về hội tế. Và cũng nhân
tiện để hội thương 2 và
ở lại dự hội đền luôn một thể. Cuộc tế rất nghiêm trang long trọng. Mũ mãng, áo
xiêm, hia hốt của các quan vào tế đều mới toanh, óng ánh những màu sắc rực rỡ.
Chuông trống nhịp nhàng, đàn sáo du dương. Kỷ luật trong quốc tế rất nghiêm ngặt,
cốt để cho Toàn quyền, thống sứ và các quan chức cao cấp Pháp đến dự phải khen
lễ nghi tôn giáo của nước nhà. Cho nên ngày hội thứ nhất là ngày không một dân
thường nào được vào đền. Ngày thứ hai dựng bia ghi công đức làm đền. Dân sở tại
làm cỗ bàn rất hậu khao thưởng những quân lính, dân thợ đã góp công làm đền và
các khách thập phương góp tiền vào việc xây đền, cả những thiện nam tín nữ đến
lễ khánh ngày hôm ấy. Đấy là một ngày ăn uống linh đình, chén tràn quý tỵ 3 cho
nó đúng với năm Quý Tỵ và đúng với ỹ nghĩa “dân dĩ thực vi tiên” 4 như
cụ lớn Kinh lược thường nói. Và cũng từ ngày hôm ấy bắt đầu mở mọi cuộc vui thường
thấy trong những ngày hội: cờ tướng, đấu võ, đấu roi, đánh vật, múa khiên, đó
là những môn thi có giải thưởng hàng ngày và giải thưởng chung khi ra hội.
Ngoài ra còn có hát chèo, leo dây múa rối, cây đu và đốt cây bông, cây hoa buổi
tối. Lại có cả kèn Tây và trống đồng cả bên đạo đến cử những bài nhạc Tây để
giúp vui. Tối đến đèn đuốc sáng rực rỡ cả một khu phía bắc thành phố, rập rờn
lung linh như cố thi với ánh sáng bàng bạc của giăng tháng mười lạnh lẽo. Người
người đi lại nườm nượp. Các trò vui kéo dài mãi quá khuya. Tây, Tàu, Tây đen
cùng đi dạo chơi chen vai thích cánh người bản xứ, cùng vui chung ngày hội thờ
thánh coi như anh em bốn bể một nhà. Hội thanh bình trong cảnh thanh bình. Vì ở
bên ngoài, lính Tây, lính tập, lính khố đỏ của phủ Toàn quyền, lính khố xanh của
phủ Thống sứ và lính khố vàng của nha Kinh lược đã được chia cắt canh phòng rất
cẩn mật, con chim sẻ bay qua cũng khó lọt. Và một đêm yên tĩnh trôi qua. Ngày
thứ ba, ngày 16 tháng mười, theo như thông sức của tòa Hiệp lý và tờ yết thị
dán ở khắp nơi đã báo trước, là ngày dành riêng cho cuộc thi thơ để đón các quý
quan của nhà nước bảo hộ đến lễ thánh. Cho có vẻ không khí liên tục của ngày hội,
những trò vui vẫn biểu diễn nhưng mật độ thưa thớt và ở khu vực đền chính. Thành
thử, hôm nay chung quanh đền vợi hẳn người. Cuộc thi thơ được mở đầu vào buổi
sáng ngay tại sân đền. Những người có tiếng văn học những người có chân trong
các hội tư văn hàng huyện đều đã nhận được giấy của nha Kinh lược sức xuống báo
cho biết mời đến dự hội đền và dự cuộc thi. Ông Hoàng giáp trẻ tuổi Nguyễn Thượng
Hiền nhận được giấy mời riêng đặc biệt từ mấy hôm trước do lính của nha Kinh lược
chuyển đến tận tay. Nhưng vốn không ưa thích những nơi đình đám ồn ào, bất đắc
dĩ mãi hôm nay, ông mới dẫn thân đến. Trước khi vào đền, ông lảng vảng đảo bước
qua cả khu vực mở hội. Đi cho biết, phải đi cho khắp. Từ chùa Châu Long quanh hồ
Trúc Bạch qua làng Yên Ninh ra đến bờ sông Tô trông sang cửa Bắc, ven sông vòng
lên đến bờ Hồ Tây bao lấy đền, cứ cách năm ngũ lại cắm một lá cờ vuông hoặc
đuôi nheo sặc sỡ; quán hàng bán quà bánh cơm rượu, cũng được dựng lên rải rắc
khắp nơi. Từng chỗ nhất định đã được phân bố các trò vui. Đường Cổ Ngư trên hồ
được vít lại dành riêng làm khu đi dạo ngựa và đua thuyền. Hai bên đường cũng dựng
song song những cây cờ sặc sỡ. Và đặc biệt ở đây, bắt đầu từ cửa đền, lác đác
có xen kẽ lá cờ ba sắc mới toanh bay rất kiêu hãnh. Nguyễn Thượng Hiền tự nhủ
thầm:
- À ra Pháp Nam thân thiện bình đẳng đây!
Đứng tần ngần một lúc nhìn hai thứ cờ đang phần phật đua bay,
ông Hoàng giáp trẻ tuổi lững thững quay rẽ vào đền. Trà trộn vào đám đông chú ý
đi tìm một người quen không thấy, ông lẻn ra ngoài một mình đi xem đền. Một tòa
đồ sộ, nguy nga, mới toanh, ngói đỏ tường vôi sáng ngời, nhưng ông không tha
thiết lắm, trông qua mà chẳng buồn nhìn kỹ. Đến chỗ lầu bia vuông vắn, ông dừng
lại nhìn cái bia mới dựng, ông lẩm nhẩm đọc lướt qua đoạn đầu rồi nhìn thẳng xuống
phần cuối, ông bỗng tự cười nói một mình:
- Lời quan Kinh lược đại sứ mà lại là văn quan Án sát Mai
Trung Cát...
Ông gật gù quay lại đọc tiếp, đang chăm chú đọc kỹ câu “...
các vị đại thần toàn quyền, thống sứ nước Đại Pháp khen việc này, giúp sức cho
hoàn thành, tháng giêng khởi công, tháng mười làm xong, phí tổn rất lớn. Nhưng
quy mô tráng lệ cũng hơn như thế...” Ông đang ngẩn ngơ vì câu ấy tự nghĩ:
- Thì ra đến làm thờ thánh bây giờ cũng là công đức của người
Pháp bảo hộ.
Bỗng có tiếng chào rất lễ phép:
- Bẩm lạy quan Hoàng giáp ạ!
Ông giật nảy mình ngẩng mặt lên nhìn. Một ông khách ăn mặc chững
chạc, đầu chít khăn lượt chữ nhân, chân đi giầy Gia Định bóng, đã thoăn thoắt tới
gần và hỏi thêm:
- Bẩm quan lớn đọc bia? Ra bậc khoa bảng tài danh có khác.
- Dạ! Xin kính chào tôn ông. Nguyễn Thượng Hiền vội chắp tay
cúi đầu chào lại, vừa sực nhận ra nhà buôn lớn Nguyễn Quang Minh.
- Bẩm quan Hoàng giáp thấy thế nào? So với đền trước kia? Ông
khách hỏi thêm.
- Dạ! Bẩm tôn ông đẹp lắm ạ, Nguyễn Thượng Hiền đáp ngay và
nói thẳng luôn cả ý nghĩ của mình đang lởn vởn trong óc. Đẹp hơn trước nhiều mà
lại là công đức của các quý quan bảo hộ như... như trong bia đã khắc.
Ông tự nhiên ngập ngừng nói chậm lại, sợ lỡ lời. Nhưng ông
khách không chú ý đến vẻ lúng túng ấy, vui mừng nói ngay:
- Vâng! Bẩm quan lớn đúng thế đấy ạ. Cho nên, hôm nay các
quan ta mới để riêng một buổi chiều hôm nay ra nghênh tiếp cụ lớn Toàn quyền đại
thần, cụ lớn thống sứ đại thần và các quan lớn bảo hộ, các quý phu nhân đến
vãng cảnh thăm đền, thăm hội.
Ngừng một lát như để dò ý, nhìn Nguyễn Thượng Hiền và giơ tay
chỉ ra phía ngoài tường hoa, nhà buôn lớn Nguyễn Quang Minh nói:
- Bẩm quan lớn, kìa các quan ta bắt sửa sang chu tất lắm.
Chưa đến giờ họp, xin mời quan lớn đi ra xem một tí.
Nguyễn Quang Minh, miệng nói chân bước, tiến theo phía tường
hoa đi giở vào. Nguyễn Thượng Hiền vui vẻ đi theo. Đến một cái cửa ngách thông
qua tường, có một người lính đội nón dấu chóp đồng sáng bóng đứng canh, hai người
lính ung dung thản nhiên bước qua cửa ra ngoài. Đây là khu vực cấm mà Nguyễn
Thượng Hiền không thể nào vào được, nếu không đi với ông bạn nhà buôn. Từ tường
hoa của đền đức thánh Trấn Vũ sang đến bên tường hoa của nghĩa địa Tây mới dựng
mấy năm nay, cả một khoảng rộng quang đãng, nền đất nhẵn mịn, sạch sẽ, cờ Pháp,
cờ Nam được cắm đối nhau rất cân xứng, và những chậu hoa, những khóm cây được
bày rải rác không theo hàng lối nào mà không bề bộn, trông rất ăn ý với toàn cảnh.
Ở giữa một lễ đài rất rộng, tựa lưng vào tường nghĩa trang, lợp và quây toàn bằng
vải xanh màu da trời. Phía cửa vào có kết lá cài hoa. Cái sàn gỗ cao đến vai
người đứng dưới đất, toàn bằng gỗ lim bào nhẵn bóng trông sáng như gương, Nguyễn
Quang Minh mời Nguyễn Thượng Hiền cùng bước lên sàn gỗ ở lễ đài, vui vẻ nói:
Bẩm đây là chỗ nhà ba 5 chơi
đăng-xinh 6 để
các quý quan bảo hộ đến vui chơi. Vì hôm nay là ngày thứ bẩy 24 tháng 11 Tây,
người Tây, người ta nghỉ chiều thứ bảy, nên các quan ta cũng cho mở soa-rê đúng
như phong tục của họ. Nhà nước giao cho chúng tôi đứng trông nom làm cái lễ đài
này. Mọi thứ bài trí ở đây đều làm theo quan Tây bác vật chỉ bảo, tốn kém lắm.
Nhưng mà đẹp, cái gì cũng thượng hảo hạng cả.
Nguyễn Thượng Hiền đi rón rén trên sàn và khen:
- Tôn ông thật có tài quán xuyến, đã khéo dựng lên một cảnh
thần tiên bên cạnh chốn phồn hoa đô hội.
- Dạ. Nguyễn Quang Minh nói rất lễ phép, quan lớn dạy quá lời.
Chúng tôi làm đồ gỗ và có giấy buôn gỗ, nên các quan giao cho làm là phải làm,
còn mẫu mực theo quan Tây...
Chợt nhớ đến người hưng công làm đền, Nguyễn Thượng Hiền hỏi:
- Quan Tư vụ Đào Thúc Chính đâu không thấy nhỉ?
- Dạ, quan Tư vụ vừa được vinh thăng Tri phủ ở trên tỉnh Lạng.
- Ô! Ngài đứng hưng công trông coi đền này, mà lại không dự hội
thánh à? Thượng Hiền hỏi có vẻ lấy làm tiếc.
Quan Tư vụ có công làm xong đền được thăng chức cần phải đi
ngay. Cụ lớn Kinh lược không cho ở nán lại, nên hạ dân chúng tôi mới được gọi
vào làm tiếp những việc này.
- À ra thế!
Nguyễn Thượng Hiền lơ đãng tiếp lời. Đứng trên sàn nhìn ra
cái nghĩa địa Tây, những mộ đá với chữ thập đá hàng thẳng tắp, trên mộ có một
bó hoa tươi rực rỡ, chung quanh cũng có cờ ba sắc bay phấp phới, ông hỏi:
- Tây họ cắm cờ đặt hoa ở nghĩa trang hay là ta thế? Tôn ông?
- Ban nghi tiết chúng tôi đấy ạ! Chả nhẽ nhất thị đồng
nhân 7 cũng
là linh hồn quá cố cả, ngày hội thờ thánh, người ta không dùng hương thắp, thì
mình cũng phải có hoa cho phải lẽ...
- Vâng, thế mới là Pháp Nam thân thiện...
Nguyễn Thượng Hiền chưa nói hết câu, bỗng có người nói lớn ở
sau lưng, đứng dưới sàn:
- Khóa hội đồng thành phố này, tôn ông chủ hiệu nhất định
trúng.
Hai người cùng quay lại. Nguyễn Quang Minh vồn vã chào:
- Kính chào cậu ấm, cậu mà ứng cử mới là chắc cả mười, vì có
bà lớn Năm Tín.
- Nhưng tôi lại không phải là dân thành phố.
Người khách mới đến đáp lại một cách rất tự nhiên lời nói có
vẻ soi mói của ông chủ hiệu, trong khi Nguyễn Thượng Hiền hỏi thân mật:
- Công tử vào lúc nào thế?
- Đệ theo hút quan lớn, thấy đi với ông chủ hiệu vào đây. Đệ
chạy đến, nói khó mãi với anh lính nón chóp đồng, sau phải nói dối dựa vào thế
ông chủ mới vào được đấy.
- Thưa quan Hoàng giáp, cậu ấm nói thế đấy chứ, cậu ấm Vẽ vào
đâu mà chả lọt. Nguyễn Quang Minh vừa cười vừa nói.
Ấm Vẽ không để ý đến lời nói mỉa mai kia, vẫy bạn xuống và giục:
- Sắp đến giờ rồi mời quan lớn xuống đi ra dự với văn hội ta.
Nguyễn Thượng Hiền ở trên sàn bước xuống. Hai người chào Nguyễn
Quang Minh rồi quay trở vào theo lỗi cũ. Khi đã đến trước cửa nhà bia, vắng người,
ấm Vẽ mới khẽ bảo Nguyễn Thượng Hiền:
- Lão này thay ông Tư Chính đây. Tư Chính đổi đi Lạng Sơn.
Phán Sơn cũng bị đổi lên mãi tận Bảo Thắng rồi. Có thể do lão này. Quan lớn nên
cẩn thận chớ nói những câu hớ hênh, lỡ lời.
Nguyễn Thượng Hiền lơ đãng nhìn lại cái bia một lần nữa, bần
thần chép miệng:
- Lại có thể như thế nữa cơ à? Ôi! Thế thì đạo ta suy quá rồi!
Ấm Vẽ vội giục:
- Ta đi ra họp anh em cho vui. Đến giờ rồi kia kìa!
Hai người liền cùng tiến ra sân. Bạn bè trông thấy vội chạy
ra quanh vây lấy ông Hoàng giáp trẻ, chào hỏi nhau tíu tít. Chưa nói thêm được
câu chuyện nào, ở trên hè đền, tiếng một ông trong ban nghi tiết đã vang lên
trong cái loa đồng:
- Ban nghi tiết hội khánh thành, đền đức thánh Trấn Vũ xin
loan báo các vị văn thân sỹ tử biết: Bây giờ đã sang giờ Thìn giờ long phi tại
thiên, con rồng bay lên giời, là lúc mọi người đều có cơ vùng vẫy, đúng là giờ
bắt đầu cuộc thi thơ, cho đến hết giờ Thân, tức chuông nhà thờ đánh bốn tiếng
là hết hạn. Sau khi các vị nghe các quan giám khảo nói rõ đề mục, các vị sẽ ra
lấy giấy bút mực về làm bài. Ai làm xong bài lúc nào nộp bài lúc ấy, và được mời
đến uống rượu ăn tiệc ở đền phía sau. Mỗi vị dự thi sẽ được phát một quyển giấy
trắng, một ngọn bút, một thoi mực. Chúng tôi sẽ đặt bốn bàn phát giấy bút ở hai
bên sân, và một bàn thu quyển ở trên hè. Đây là công việc ngày hôm nay. Ban
giám khảo sẽ chấm chọn lấy mười quyển hay nhất để tặng giải thưởng như đã viết
trên tờ yết thị. Giải nhất của cụ lớn Kinh lược Hoàng tướng công tặng gồm có một
cây lương 8 ,
một tấm nhiễu hoa, một hộp giấy hoa tiên, hai ngọn bút ô long, một thoi mực tàu
thượng hạng và một trăm đồng bạc hoa xòe. Một phần thưởng rất to lớn vinh dự
cho làng nho chúng ta. Số người trúng thưởng sẽ công bố vào ngày hội cuối cùng,
tức ngày mười tám này vào đúng Ngọ, cũng ở sân đền này.
Ngừng một lát, tiếng trong loa lại nói vang lên:
- Bây giờ xin mời cụ lớn nguyên Hà Ninh Tổng đốc, Thượng thư
lĩnh Bắc kỳ Thương tá đại thần Nguyễn Khắc Vĩ tướng công nói rõ về cuộc thi và
ra đề mục.
Mọi người quay nhìn cả lên hiên đền. Mấy vị quan lớn mũ cánh
chuồn lóng lánh áo chầu thụng tay thêu sặc sỡ, đang đứng nghiêm trang đĩnh đạc
trông cả xuống sân, nhìn đám văn nhân sỹ tử đang chăm chú đợi nghe. Một ông cao
lớn, có chòm râu như trong tranh vẽ thong thả bước mấy bước ra ngoài mép hiên,
đằng hắng một tiếng rồi to giọng nói:
- Bà con văn thân sỹ tử ta nên biết. Đến đây là thánh quán của
đức Huyền thiên đại đế, trấn giữ phía bắc, là một trong tứ trấn của cố đô Thăng
Long này. Đền được dựng lên từ năm Thuận Thiên thứ nhất đời vua Lý Thái Tổ. Từ
bấy đến nay đã gần 900 năm, đã có nhiều lần trùng tu, nhưng chưa có lần nào sửa
lại lớn lao tráng lệ như thế này. So với việc đúc tượng đức thánh cao hơn 9 thước
nặng sáu nghìn cân ở đời vua Lê Huy Tôn cũng còn to tát hơn nhiều. Vì vậy, thể
theo lòng thành kính của cụ lớn Kinh lược, Ban nghi tiết có mở cuộc thi thơ lấy
nơi quan thánh này làm đề mục. Thơ bát cú, đường luật, phóng vận. Những bài hay
nhất sẽ được khắc lên những bức hoành để thờ ở đền. Những bài thơ ấy sẽ được
theo đòi với bài thơ ngự đề của đức Thiệu Trị khắc trên biển đồng, lưu truyền ở
đền mãi mãi cho người xem chiêm ngưỡng. Văn hành công khí 9 ,
văn thơ hay là theo ý chung của nhiều người thưởng thức. Ban chấm thi cố gắng lựa
chọn cho đúng với ý kiến chung ấy. Vì vậy trong ban có cả trẻ lẫn già, có các bậc
lão thành và các bậc thanh niên tuấn tú. Tức là có bốn vị: hai bậc khoa hoạn kỳ
cựu là quan nghè Vân Đình Thượng thư Thương tá đại thần Dương Khuê, quan bảng
Khắc Niệm nguyên Tuần phủ Dương Danh Lập, và hai vị Khôi nguyên tân khoa là
quan Thám hoa Đôn thư Vũ Phạm Hàm và quan Hoàng giáp Liên Bạt Nguyễn Thượng Hiền.
Ban chấm thi này tất nhiên sẽ giữ được lòng tin của bà con chúng ta. Vậy mời bà
con ra lấy giấy bút viết bài thi, nhớ viết rõ họ tên quán chỉ. Và nhớ đến hết
giờ Thân là hết hạn. Quá bốn giờ chiều là không nhận quyển nữa coi như ngoại
hàm.
Mọi người xôn xao. Có tiếng hỏi vọng lên:
- Bẩm các cụ lớn, sao không mời cụ lớn Tam nguyên Yên Đổ?
- Bởi tại “chót vót trên này có một tao”, chứ sao!
Ở trong sân có tiếng đáp lại tức thì, trong khi ở trên hiên
Nguyễn Khắc Vĩ lắc lư mũ cánh chuồn, vung vung tay áo thụng, rề rà nói:
- Cụ lớn Tam nguyên mệt, đợi các quan chấm xong, sẽ đưa mười
bài lên hỏi ý cụ lớn để xếp trên dưới. Vả đây có quan Nghè và quan Bảng là đồng
niên 10 với
cụ lớn thì cũng như là cụ lớn vậy. Hơn nữa cụ lớn Dương Danh Lập là bậc lão
thành nghỉ ở nhà gần chục năm nay tiềm tàng uẩn súc, bây giờ cụ lớn lại ra và đứng
làm chủ khảo cuộc thi thơ này, trên kính thần, dưới thể lòng mọi người nhất định
cụ lớn sẽ kén chọn được nhiều thơ hay... Bây giờ mời bà con bắt đầu...
Nguyễn Khắc Vĩ nói dứt, tiếng loa của nhân viên ban nghi tiết
lại vang lên.
- Mời các vị văn nhân sỹ tử ra lấy quyển thi và bút mực, rồi
xin tùy ý, muốn ngồi viết ở đâu cũng được. Hai bên tả vu và hữu vu sau đền,
chúng tôi đã kê sẵn bàn ghế, để sẵn nghiên. Hoặc các vị có thể ra ngoài hàng,
ngoài phố. Làm xong lúc nào đem vào nộp quyển ở hiên này. Bây giờ xin kính mời
quan Hoàng giáp tân khoa Nguyễn Thượng Hiền lên họp với các quan giám khảo.
Ở dưới sân, đám đông tỏa ra ồn ào, đi tản ra bốn cái bàn ở
hai bên giáp tường hoa, trên để đầy giấy bút mực. Đứng bên trong mỗi bàn là một
cô gái rất trẻ, vấn khăn nhiễu tím bỏ đuôi gà, mặc áo the đen tứ thân thắt múi,
yếm đỏ cổ sây, miệng cười nói rất tươi, hai tay thoăn thoắt đưa giấy bút mực
cho từng người một. Người ta vui vẻ chen nhau vào, túm tụm giơ tay nhận giấy và
nói chòng ghẹo mấy cô.
Quang cảnh trong sân rất nhộn nhịp vui vẻ. Nguyễn Thượng Hiền
còn đứng nán lại ở sân, chào hỏi các bạn quen. Ông phủ Thịnh Hào Đỗ Uẩn dẫn ông
đồ Vũ Thạch đến chào. Ấm Vẽ hớn hở kéo hai ông bạn mới đến bảo Nguyễn Thượng Hiền:
- Xong hội, mời quan Hoàng đến chơi với chúng tôi nói chuyện
cuộc thi thơ vui. Xin mời quan lớn đến nhà bác đồ Vũ Thạch cho trung độ nhỉ.
Bác Đồ sửa soạn ở nhà, còn hai chúng tôi đi đón quan Hoàng.
- Vâng, Nguyễn Thượng Hiền vui vẻ nhận. Nhưng trước hết, hãy
phải dự thi tốt cuộc thi thơ này đã chứ!
Nhận xong giấy bút, mọi người tản đi khắp nơi làm bài. Sân đền
thưa thớt dần. Rồi lác đác kẻ ra người vào cứ tiếp tục mãi cho đến bốn giờ chiều.
Trong khi đó, những trò vui ở các nơi bên ngoài vẫn được biểu diễn đều đặn để
thu hút công chúng đến xem. Buổi chiều cả khu vực đền dành riêng cho cuộc dạ hội
đón các quan Tây. Đó cũng là một dịp hội Tây, nằm gọn lỏn giữa trong lòng hội
ta, có Tây đầm ôm nhau nhẩy để thờ thánh. Cũng là một cách thổ lộ tình Pháp Nam
thân thiện, theo như ý muốn của quan Kinh lược. Ngày hôm sau và ngày hôm sau nữa,
tức là ngày hội thứ tư và thứ năm, hai ngày vui chung mở rộng cửa đền đón khách
thập phương đến lễ thánh. Hội càng về cuối càng vui. Người đến đông như kiến cỏ.
Đúng trưa ngày hội thứ năm, ngày 19 tháng 10, mọi người đều ngóng đợi tin cuộc
thi thơ. Thi có giấy yết thị dán ở cửa đền công bố hoãn báo kết quả những quyển
trúng thưởng, vì lẽ số quyển dự thi nhiều quá, nên chưa lựa chọn kịp những bài
thật hay, xứng đáng với công đức của thần. Nhưng hội vẫn đông vui cho đến ngày
rã đám. Ngày 20, các quan họp lại lễ tạ thánh, đóng cửa đền. Hội tan. Như đã hẹn
trước, ấm Vẽ đến đón Nguyễn Thượng Hiền đi chơi với Đỗ Uẩn. Hai người đi ven
sông Tô Lịch qua cầu sang cửa Bắc thì gặp Đỗ Uẩn và đồ Vũ Thạch. Bốn người cùng
đi thẳng đến nhà ông Đồ. Cỗ bàn đã làm sẵn. Bốn bạn tri kỷ cùng nhau họp mặt
chén chú chén anh tâm sự về việc đời việc nước, thế thái nhân tình. Nguyễn Thượng
Hiền mới nói rõ nỗi bí ẩn của cuộc thi thơ. Hoàng Cao Khải muốn nhân dịp này ca
tụng thần để mình cũng được ca tụng, và đồng thời đưa văn thơ ra để dử mọi người
mải vui với chữ nghĩa mà quên việc thời thế. Không ngờ mọi việc lại trái với
lòng mong mỏi của y. Có gần hai trăm bài thơ dự thi thì quá một nửa là những
bài xoàng, không được chỉnh cả ý lẫn lời. Còn những bài hay đều ngụ y mai mỉa,
hoặc kín đáo, hoặc lộ liễu. Có những bài chửi thẳng không úp mở như:
Truyện thần Trấn Vũ nghe lâu nay,
Muốn đến trước thần hỏi câu này:
Trừ hại cứu dân, chỉ chuyện hão,
Hùm beo chẳng giết, giết cáo cầy!
Ngày nay yêu quái thành từng bọn
Hút máu mủ dân khắp đó đây.
Dân đen tội gì mắc tai vạ?
Gươm thần còn thiêng mượn một tay!
Và bài:
Quán thiêng chắn giữ bắc kinh đô,
Trải Lý Trần Lê Nguyễn đến giờ.
Đền mới nguy nga trông khéo đỏm,
Tượng đồng đồ sộ ngẫm càng trơ!
Lừa dân vua nọ thành ăn bám
Mất nước thần kia hóa ở nhờ
Thiên hạ chết nhăn thần có biết?
Chữ đâu mà són thẩn cùng thơ.
Đọc to xong hai bài thơ, Nguyễn Thượng Hiền gật gù nói có vẻ
thích chí:
- Đến hơn chục bài có giọng sỗ sàng cay độc như thế, nên cụ
Phó bảng chánh chủ khảo vội vàng thu tất cả các quyển lại đem vào nha trình với
Hoàng Cao Khải và xin cho bãi bỏ cuộc thi. Cụ còn đề đạt ý kiến xin truy cứu và
trừng trị nữa.
- Trừng trị ai cơ chứ, cóc sợ! Đỗ Uẩn vui vẻ nói.
- Chắc là các tôn huynh đây có phần trong những bài thơ ấy,
Nguyễn Thượng Hiền nói. Nhưng cũng nên đề phòng khéo léo, không họ tra cứu ra
được, họ sẽ trả thù.
- Không sợ! Ấm Vẽ nói, có cần đề phòng là đề phòng cho bác phủ
Thịnh Hào kia kìa, đề phòng vì Nguyễn Quang Minh nó biết mặt bác ở cuộc họp kín
của ông Tư vụ đầu năm nay. Còn ở cuộc thi này, Hoàng Cao Khải nó không dám bới
ra đâu, cái ông Bảng Ném kia cũng chỉ bợ đỡ lấy lòng thế thôi. Chư vị tôn huynh
có muốn rõ lai lịch của ông ta, đệ xin nói cho mà nghe.
- Thì đại huynh cứ nói đi, phủ Thịnh Hào nói, để quan Hoàng
giáp được rõ thêm.
- Này nhé, quan bảng Dương Danh Lập khi làm Án sát sứ tỉnh Hà
Tĩnh, có lần bắt được Hoàng Cao Khải lúc ấy còn hàn vi, đánh xóc đĩa, ngài đòi
ăn lễ đúng mười nén bạc rồi mới tha. Việc đời báo ứng cũng mau. Khi Tây đánh lấy
Bắc Ninh, quan Bảng đang nghỉ tang mẹ ở nhà. Tây mời ra tạm coi tỉnh Bắc, tiếp
đến nó chiếm Thái Nguyên nó cử quan làm Tuần phủ tỉnh Thái. Chả biết lớ ngớ thế
nào, ăn tiền bị dân kiện. Nguyễn Hữu Độ nhân cử Hoàng Cao Khải ra làm Bố chánh
sứ Lạng Sơn, liền cho đi thanh tra luôn cả vụ kiện này. Kẻ cắp bà già gặp nhau,
Hoàng Cao Khải đến nơi nghiêm sắc mặt bảo quan Bảng:
- Giá quan lớn can tội chống Tây nó đi một nhẽ, chả ai dám hoạnh
họe. Đằng này đi theo Tây, tham nhũng, bị dân kiện, tội trạng rõ ràng, chỉ xin
quan lớn trả lại tôi gấp mười lần món nợ mười nén bạc quan lớn lấy của tôi mấy
năm trước, thì tôi cho yên thân trở về.
Quan Bảng lậy van xin mãi, y mới rút mức xuống cho một nửa.
Quan Bảng đút lót 50 lang bạc để được bãi quan về làng. Có lẽ bẽ với danh giáo,
quan mới dời ra ở phố Hà Thành này, chốc đã non chục năm giời. Tết năm nay,
Hoàng Cao Khải đi qua cửa thấy đôi câu đối tết dán ngoài hiên “Trong khăn tóc cỗi
lơ thơ bạc, ngoài phận hoa xuân lúc nhúc hồng” của quan Bảng, y liền vào chơi
thăm và vồn vã ân cần bảo:
- Quan lớn có ý trách những người ngoài phận đều đạt được vận
cả chứ gì? Nhưng không cứ gì ngoài phận những người trong phận cũng sẽ được hiển
vinh hết. Bây giờ nhà nước yên ổn rồi, các quý quan sẽ mời tất cả các vị khoa bảng,
danh vọng ra giúp nước.
Ấy thế là nhân dịp hội đền này, quan lớn được mời ra làm
chánh giám khảo cuộc thi thơ, để sẽ chính thức thực thụ làm Đốc học tỉnh Hà Nội
này đây. Chức này mấy năm vẫn do quan Thương tá đại thần Lương Huy Ý kiêm lĩnh.
Ấm Vẽ kể xong ngừng lời. Nguyễn Thượng Hiền buồn nản tiếp:
- Nho phong sỹ khí là như thế đấy. Thảo nào mà cụ lớn cứ tâng
bốc cụ lớn Kinh lược, xin bỏ cuộc thi thơ và xin giao cho các quan đại thần và
các vị khoa bảng làm thơ câu đối treo thờ ở đền.
- Lệnh quan lớn ra, ai mà chả phải làm, đồ Vũ Thạch nói. Bây
giờ đến lúc họ mời các quan lại cũ phải ra hết để làm vây cánh thêm cho họ. Những
ông có tâm huyết đã bị tống đi hết hồi năm Sửu rồi. Còn toàn những ông ngóng
trông cả, thì chả đợi để ép lần thứ hai đâu. Rồi sau đó họ mới thẳng tay trị những
kẻ có ý khác. Chỉ khổ quan phủ Thịnh Hào tôi đây khó xử thêm. Họ ép không ra liệu
có được không?
Như chợt nhớ ra điều gì, ấm Vẽ cũng nói:
- Quan Tư vụ vừa làm xong đền bị đưa đi ngay. Quan Phán Đốc
lý cũng bổ đi nơi khác từ trước. Tôi nghi lão chủ đồ gỗ nó khai ra cuộc họp của
chúng ta hồi đầu năm, nên tôi cũng thấy cũng e ngại cho quan phủ Thịnh Hào. Ta
phải dè chừng.
Đỗ Uẩn ung dung thanh thản nói:
- Xin chư huynh chớ ngại, lo việc thiên hạ sự, đệ có kém cỏi
vụng về, chứ còn lo cho thân mình, đệ cũng biết nhìn xa đôi chút. Vả đệ đã được
đại huynh Vũ Thạch nhắc nhở ngay từ khi thấy lão chủ đồ gỗ bảo quan Hoàng giáp
Liên Bạt khuyên lão nhận làm gông cùm lim cho nhà nước bảo hộ.
Ô! Đệ có nói như thế bao giờ? Nguyễn Thượng Hiền sửng sốt hỏi.
Ông đồ Vũ Thạch vội giơ hai tay ra hiệu xin mọi người im lặng
bình tĩnh, rồi thuật lại dịp gặp Nguyễn Quang Minh ở trước cửa nhà băng dạo trước.
Mọi người nghe xong, cùng phá ra cười ngặt nghẽo. Một lúc sau, Nguyễn Thượng Hiền
buồn rầu nói:
- Khi lòng đã thay đổi thì như thế đấy! Người ta quay ngoặt
ngay ý của người khác lại để làm chỗ cho mình nương tựa. Chúng ta đang bị dồn
vào thế bí. Giữ cho trọn đạo lúc này đành là rất khó. Nhưng không giữ được thì
đâu còn phải là giống người. Ngay như đệ đây bây giờ bị bắt làm thơ thờ thánh,
tất nhiên phải làm rồi. Để tạ các vị đại huynh tiền bối đây, mong các vị thấu
cho lỗi lòng và tha thứ cho phần nào khi thấy thơ của đệ được khắc chưng lên thờ
thánh, đệ xin mạn phép được đọc trình các vị bài thơ cảm đề đúng với tâm sự của
đệ mới làm ở Hồ Tây cách đây mấy hôm.
Nguyễn Thượng Hiền è một tiếng lấy giọng rồi ngâm to:
Thụ lụi thành Long hương cúc thoảng
Phố phường lầu gác ủ trong mưa
Quán Huyền 11 bóng
hạc trông mờ nhạt
Sông Nhị triều dâng tiếng nhặt thưa.
Bỏ bễ chén vàng bài hát mới
Sênh sang áo gấm bạn quen xưa.
Hồ Tây ngảnh lại nơi dừng ngựa,
Ai oán chiều tà tiếng sáo đưa.
Bài thơ tác động mạnh vào tâm hồn mọi người. Một sự im lặng
trang nghiêm. Bữa rượu kém vui. Nhưng người ta cảm thông nhau sâu sắc hơn. Tinh
thần thanh khí càng thắm thiết hơn. Bữa rượu chỉ còn là hình thức. Bên trong nó
đã chuyển thành một cuộc nhận xét về thời cục và bàn bạc việc lớn nước nhà.
Tan cuộc họp mặt vui vẻ ấm Vẽ cùng đi với Nguyễn Thượng Hiền
mua mấy thứ lặt vặt ở phố Hàng Gai. Đi vòng phố Tràng Thi để rẽ qua trước cửa
nhà thờ lớn, ngắm đôi tháp chuông sừng sững và xem đồng hồ báo giờ, hai người vừa
đi hết phố Tiên Thị nối sang phố Hàng Gai thì gặp Nguyễn Quang Minh ở phố Hàng
Bông đi tới. Lão ta niềm nở chào hai người và mời khan mời vã:
- Xin mời hai quan vào chơi nhà hạ dân ở ngay gần đây mà, nhà
mới, kính mời các quan đến ban phúc cho tệ xá lấy may.
- Thượng với hạ gì, Nguyễn Thượng Hiền nói, xin tôn ông cứ gọi
như người thường cho anh em chúng tôi khỏi ngượng. Tôn ông còn hơn chúng tôi cả
phú lẫn quý, cả thọ khang ninh.
- Vâng, đúng thế, ấm Vẽ tiếp lời và hỏi thêm. Tôn ông mở thêm
hiệu nữa?
- Dạ, Nguyễn Quang Minh nói, giấy rách phải giữ lấy lề chứ.
Thời nào cũng thế, các quan vẫn là các quan được nhà nước tôn trọng, dân chúng
phải kính nể chứ.
Lão xòe cả hai tay giơ ra chỉ lối mời hai người đi trước rồi
vừa đi theo sau vừa nói:
- Cửa hiệu đằng kia chật quá, hạ dân phải kiếm một cái nhà ở
riêng cho nó tĩnh. Định mua mấy lô đất của mụ Lý Tài Chi ở bờ sông Tô Lịch tòa
quản lý văn khế phát mại hồi tháng sáu, để làm cái nhà trông ra sông cho nó đẹp.
Nhưng nghe nói nhà nước sắp dỡ thành lấp sông, nên lại tậu cái nhà giữa phố Hàng
Bông này vậy.
- Chỗ đất bờ sông của ai trước nhỉ? Ấm Vẽ hỏi.
- Của chú Voòng làm ở nhà băng, thành phố sang tên cho chú ấy
từ năm 1888. Nay chú ấy chết, thím ấy đem bán đi, rẻ quá. Cả 17 lô đất mà bán
có 1.000 đồng. Nhưng mà lấp sông đi mở phố, thì chỗ đất ấy mất đẹp. Mà cũng vì
thế chưa làm được nhà ngay. Nên hạ dân tậu cái nhà này sửa sang cho có chỗ ở
cái đã.
- Thế tôn ông đã được tin đích xác nhà nước sẽ phá thành?
Nguyễn Thượng Hiền hỏi, đang mải theo ý nghĩ riêng.
- Vâng, hội đồng thành phố ngày 27 tháng 7 năm 1893 vừa rồi
đã đồng thanh ký biên bản xin phá đi cho khỏi vướng thành phố, mà còn mở rộng
diện tích thêm được 150 mẫu Tây. Lấp sông Tô cũng mở thêm ít nhất là 100 mẫu
Tây nữa. Như thế, thành phố sẽ khang trang. Nghe đâu quan Toàn quyền đại thần
La-nết sang đã ký cho phép trích công quỹ để thi hành.
Nguyễn Quang Minh nói dứt câu thì vừa đến trước cửa một cái
nhà ngói mới, tường quét vôi vàng, cửa chớp sơn xanh, có cổng xép ở bên, cửa gỗ
chắn song cũng sơn xanh. Lão đẩy cổng mở rộng ra và nói:
- Xin mời hai quan vào chơi. Thật là hạnh ngộ, rồng đến nhà
tôm!
Hai người vào chơi thăm chủ nhân, chuyện trò chè nước một hồi
lâu, rồi cố cáo từ lui ra, hẹn một dịp khác sẽ lại đến. Nguyễn Quang Minh cố
nài không được đành phải tiễn chân khách ra đến tận cuối phố. Hai người vái
chào chủ nhân, rồi rẽ lên phía nhà trạm Hà Trung, Nguyễn Thượng Hiền đã đổi ý,
không đi sắm gì nữa. Ông muốn đi ngắm lại thành một lần trót, liền bảo bạn:
- Cuối năm, đệ phải vào kinh đón gia nghiêm. Chưa biết lúc
nào ra, mà ra đến nơi, có lẽ thành đã phá trơn rồi, còn đâu nữa. Nhân tiện có
tôn huynh đây, ta đi vòng một lượt ngắm thành gọi là tỏ chút niệm hoài.
- Vâng. Xin lĩnh ý! Ấm Vẽ nói. Đệ cũng đang bâng khuâng với ý
nghĩ phá thành đây. Chắc là có lắm đứa mừng. Mà lão chủ này là một. Lão ta nói
thì đúng đấy. Vì lão vốn để ý đến công việc của tòa đốc lý. Đang mải làm giàu vả
đang cũng muốn ra làm hội đồng.
- Sao lại không mua số đất của con mẹ Khách?
- Tiếc rỏ máu mắt ra đấy. Có tranh được với tú Tự Tháp và tú
Nam Phố đâu!
- Toàn Tú cả à?
- Phải các ông Tú ngoài này tài một lối, các ông cử lại tài một
lối khác.
Hai người cùng cười chua chát. Rồi cùng lặng lẽ đi men theo
hào phía đông, nhìn hào, ngắm tường. Qua thôn đông thành, trông lên trên chòi
gác cửa Đông, thấy lố nhố mấy tên lính Tây râu sồm mũi lõ, Nguyễn Thượng Hiền bỗng
thở than:
- Tan hết rồi, vượng khí Thăng Long! Thành phá nữa là hết!
- Tan cho mình, nhưng lại vượng cho kẻ khác!
Ấm Vẽ nói theo, rồi lại im lặng đi. Đến thôn Tân khai, hai
người đứng nghỉ dưới gốc đa trước của đình Thái Cam, trông lên thành. Ấm Vẽ bảo
bạn:
- Đình này thờ thần Long Đỗ đấy. Bây giờ thì thần cũng chẳng
còn thiêng nữa.
Nguyễn Thượng Hiền trầm ngâm không nói. Hai người lại đi. Qua
cầu Yên Quan sang bên kia bờ sông Tô, men theo bờ, ấm Vẽ vừa đi vừa nói:
- Thế là ta đã đi hết mặt đông thành rồi đây. Mặt thành này
đông dân cư là vững nhất. Ấy thế mà năm Quý Dậu, Tây nó đi thông qua cửa đông
vào thành. Còn năm Ngọ, thì nó bắn đại bác vào cửa Bắc, vết đạn còn đấy. Nó bắn
có mấy phát là nó vào được thành. Ta đi ra tận nơi mà nhìn vết đạn một lần nữa,
không rồi họ phá đi mất. Thâm tâm chúng nó là muốn triệt phá di tích của ta để
dân ta khỏi nhớ gốc và không biết đến nhục.
- Đúng đấy, tôn huynh ạ!
Hai người men bờ sông đi mau hơn. Đến đúng chỗ cửa Bắc thì dừng
lại nhìn ngắm. Mấy thằng Tây ở trên gác xì xồ, bi bô, giơ súng dọa nạt và đuổi.
Hai người mải suy nghĩ không để ý đến. Một anh lính khố đỏ phải chạy ra mé sông
giục:
- Này hai anh kia, đứng vớ vẩn gì đấy. Tây nó đuổi kia kìa.
Không đi, nó bắn cho đấy!
Nguyễn Thượng Hiền vội kéo ấm Vẽ chạy rẽ vào thôn Yên Ninh và
nói:
- Thôi xem thế đủ rồi! Thành quách còn đâu nữa của mình mà tiếc
rẻ. Thành trì đất nước mình mà vừa đứng ở bên này sông chưa nóng chân đã bị đuổi.
Hai người dẫn nhau vào ngồi nghỉ ở dưới tam quan chùa Phúc
Viên. Trông sang cái cửa Bắc thành cao sừng sững vượt cả ngọn cây, ông Hoàng
giáp trẻ lơ đãng hỏi bạn:
- Tôn huynh đã vào thành lần nào chưa? Trong ấy dinh thự thế
nào?
- Có tôn huynh ạ. Ấm Vẽ cũng đang nghĩ về thành nên trả lời
ngay rất rõ ràng gẫy gọn. Đệ đã được theo tiên nghiêm vào hầu cụ Thượng một lần.
Lâu lắm rồi, đến hơn ba chục năm. Đi vào lối cửa Đông Nam, nhìn sang phía đông
thấy dãy nhà trại lính, kho tàng. Đi theo một con đường thẳng chéo đến cửa Đoan
môn xây ba tầng rất đẹp, bên ngoài cửa có đình bia, kỳ đài có một con đường lớn
lát đá thẳng tắp vào đến điện chính hai tòa năm gian lợp ngói ống, hai bên có tả,
hữu vu trông đẹp hơn cả đền Chèm. Phía trong lại có hai tòa nội điện cũng có tả
hữu vu rất đẹp. Đó là dinh cụ Thượng. Còn điện chính là hành cung tức là điện.
Kính Thiên của triều Lê xưa. Dinh các quan Tuần, Bố, Án ở phía tây. Trông tứ
phía cứ san sát nhà ngói, không được đi đến thành không thể biết hết. Gia
nghiêm bảo thành này xây từ năm Gia Long tứ niên 12,
dân phu chở đất khai hào phải làm hai năm mới xong, vuông bốn bề chu vi 1195
trượng, cao 1 trượng 3 thước 1 tấc, dầy 4 trượng 8 thước, hào rộng 10 trượng.
Có năm cửa thành: Chính Bắc, chính Đông, chính Tây và Đông Nam, Tây Nam, mỗi cửa
ra vào cao 1 trượng 5 tấc, trên có lầu chòi. Chân thành toàn bằng đá xanh,
trong ngoài đều xây hai hàng gạch Bát Tràng, ở giữa lèn đất nện rất kiên cố,
xây tường cao đến đâu lại lèn đất đến đấy. Bên trên mặt thành, lại đắp thêm tường,
đến năm Minh Mạng thập lục 13 ,
nhà vua cho bạt thấp bớt đi một thương tám tấc.
Ấm Vẽ ngừng lại không thấy bạn nói gì, lại uể oải nói tiếp:
- Thành còn cũng không phải là của mình nữa. Thế mà nghe nói
phá đi mình vẫn thấy tiêng tiếc, tiếc cho cái di tích cũ, tiếc cái công trình
khó nhọc của hàng ngàn hàng vạn người xây dựng nên nó.
Nguyễn Thượng Hiền giơ hai tay lên vươn vai, cũng uể oải đế
theo:
- Đệ cũng vậy! Không còn phải là của ta nữa. Nhưng đệ vẫn ao ước cho nó đừng phá.
Nhưng thành vẫn bị phá đi để mở rộng thành phố. Ngày 15 tháng
2-1894, phủ Thống sứ Bắc kỳ ký hợp đồng với hãng thầu Ba Danh (Bazin) hẹn phá dỡ
trong hai năm và trả công sáu vạn đồng. Mọi việc chuẩn bị về vật liệu, công cụ
và nhân công cũng như duyệt y về pháp lý kéo dài đến sáu tháng. Ngày 10 tháng
... 1894, chính thức bắt đầu cuộc triệt phá cái thành vuông đồ sộ kiên cố mà
Gia Long xây lên và đã cho ghi là “Non Nùng sông Nhị, công thánh mãi truyền”. Lễ
khởi công rất trọng thể. Tất cả hơn 500 phu chia ra từng toán từng đội, có người
đứng đầu, xẻng cuốc quang sảo đầy đủ, tập trung cả ở bên hào ngoài cửa Đông.
Trong cửa Đông, treo cờ ba sắc, kết lá cài hoa, đông đủ các quan chức Pháp, Nam
đến dự lễ. Tám giờ đúng. Một hồi ba tiếng trống nổi lên ở trên chòi. Quan Chánh
đốc lý thành phố nói mấy câu về việc phá thành, có thông ngôn dịch lại cho dân
phu rõ, rồi y nhanh nhẹn cầm cuốc bước lên thành bổ mấy nhát cuốc đầu tiên. Đoạn
y giao cuốc danh dự lại cho người chủ thầu trực tiếp đứng chỉ huy, đốc suất dân
phu. Một người đàn bà nạ dòng vấn khăn nhiễu tím bỏ đuôi gà, mặc áo the hoa năm
thân cài khuy, vận quần lĩnh tía, đi giầy cườm mõm nhái tiến ra nhận lấy cuốc.
Chánh đốc lý tươi cười đưa cuốc và nói tiếng Pháp:
- Cuốc ba lần rồi giao cho cu li!
Người đàn bà liếc mắt mỉm cười nhận lấy cuốc, oai vệ bước lên
ba bước giơ cao cuốc bổ mạnh ba nhát, giật ba hòn gạch lên, quay lại vui vẻ, liến
thoắng nói với Chánh đốc lý và bọn Tây:
- Me sừ, tờ roa phoa pi-ôt-sờ tờ roa phoa ga-nhê! 14
Tất cả Tây ta đều vỗ tay hò reo vui vẻ. Chánh đốc lý tiến lên
bắt tay mụ ta rồi ôm hôn, tỏ ý khen thưởng. Mọi người lại vui reo náo nhiệt. Mụ
đàn bà trao cái cuốc cho người cai của bọn phu được chọn vào trước lên hẳn mặt
thành dự lễ để rồi bắt đầu làm ngay. Quan khách xuống thành. Một hồi trống báo
lễ xong. Một hồi chuông dài ngân vang tiếp theo sáu tiếng ngân giục mở đầu buổi
làm việc đầu tiên của toàn thể phu phen dỡ thành thuộc phạm vi nhà thầu. Cùng một
lúc, nhờ có cầu trên hào và khang kè lên thành đã bắc sẵn từ trước, năm trăm
phu nghe theo hiệu chuông, từng toán từng đội theo nơi đã vạch sẵn của mình, đã
nhanh nhẹn leo lên thành và dàn ra khắp mặt tường thành cửa Đông từ góc cửa
Đông Nam lên đến góc Đông Bắc. Tiếng cuốc, tiếng thuổng bậy, búa chim bổ...
thình thịch, chan chát vang lên dồn dập, hấp tấp. Tiếng gạch, đá, đất đổ xuống ầm
ầm. Những gánh, những đội đã tấp nập chuyển ra hai bên. Những gạch lành được chọn
xếp gánh vào bên trong thành. Còn đất và gạch vụn thì chuyển đổ xuống hào.
Trong khi ấy, các quan khách ra về, xe tay kéo chạy qua các phố tới tấp. Các
quan Tây tấm tắc khen bà chủ thầu vừa duyên dáng vừa hoạt bát, có tài cán xếp đặt
công việc. Các quan khách người Nam thì kẻ khen người chê đều tỏ vẻ ghen tị với
con người may mắn được nhà nước giao cho coi sóc cái việc lớn ấy. Ông hội viên
thành phố mới trúng tuyển Nguyễn Quang Minh đi bộ bên hai ông hội viên được tái
cử Đinh Gia Tráng và Đặng Trần Hanh, tỏ ý phàn nàn với họ:
- Rõ thật chúng mình thấp mưu thua trí đàn bà. Làm việc này
được khối lời mà lại có công với thành phố. Tôi mới vào đã xong, hai quan bác ở
trong hội đồng đã lâu mà không biết tranh lấy, lại để rơi vào tay một con đàn
bà!
- Mới với cũ kể gì! Đinh Gia Tráng nói. Cũng là tại bọn chúng
mình có kẻ rụt rè quá, muốn ăn lớn cơ. Đã muốn được giá cao, lại không chịu tốn
tiền lễ lạc. Thời buổi Tây Tàu này chỉ cần thế và tiền thì làm gì cũng được. Thế
cánh mình đã ít, tiền lại không muốn mất thì hỏng ăn là phải.
Đặng Trần Hanh có vẻ không cùng một ý, tiếp lời:
- Bì thế nào được với con mụ ấy. Riêng cái số kia của mụ ta
cũng đã lọt được mọi cửa rồi. Phương chi lại có thế lực của lão quan tư Các Lan
nữa. Hãng Ba Danh là hãng mục thầu của nhà binh lại có lão quan tư là quan
trong, mụ ta lại đem tiền ra giẫy nên dễ được tin cậy...
- Dù sao cũng là tay giỏi đấy chứ. Nguyễn Quang Minh nói. Thời
thế tạo anh hùng. Tuy là một con đĩ nhưng trông dân phu của nó đông như kiến cỏ
ở trên mặt thành kia cũng đủ thấy nó hơn hẳn chúng mình rồi. Bọn mình liệu có mộ
được trăm phu không? Thua nó là phải.
Cứ tung tiền ra là được tất. Cờ đến tay ai người đấy phất. Đặng
Trần Hanh nói có vẻ ấm ức.
- Mụ ta ở nhà quê ra, mụ ta biết rõ tính dân quê hơn bọn ta tất
nhiên mụ cũng khéo mộ hơn. Đinh Gia Tráng nói từ tốn và thấu đáo. Hơn nữa mụ lại
khôn ngoan khéo xử. Vậy bây giờ sự thể đã như thế, ai muốn kiếm lời thì phải tự
hạ thân lại với mụ ta. Lại được tiếng là có công mở mang thành phố. Cụ thượng
Khâm sai ngày trước còn phải lạy cô Đội Chóp nữa là chúng ta ngày nay. Và cô Tư
bây giờ tài giỏi có cơ mưu quyền biến bọn ta cũng thua, thì có kinh doanh với
cô ta cũng đáng, chả sợ tiếng tăm...
Ba người vừa đến đầu chợ Đông Thành rẽ lên phố Hàng Gà, đang
sắp chia tay mỗi người một ngả, chợt có tiếng chào rất trong:
- Bẩm chào ba quan lớn hội đồng ạ. Ba người cùng trông lại: Một
cái xe nhà sơn đỏ bóng nhoáng gọng đồng, sáng choang, mui vải sa-tanh óng mượt,
do một người phu đội nón dứa chóp bạc, chân quấn sà cạp đỏ, kéo chạy lại đỗ xịch
ngay trước mặt bọn họ. Người đàn bà ngồi trong xe vội vàng bước xuống ung dung
lại gần và niềm nở lễ phép:
- Bẩm ba quan lớn, xin ba quan lớn tha lỗi cho. Bận rộn vội
vàng, quá lú lẫn đi. Nhân tiện gặp đây, xin có lời kính mời các quan lớn đến dự
bữa tiệc khởi công mừng cho nhà thầu chúng tôi. Gọi là tuần sơ buổi mới, bữa
cơm chung trong gia đình, các quan là ân nhân của nhà thầu, xin các quan đến chứng
kiến cho. Chúng tôi còn muốn trông cậy nhờ vả các quan nhiều. Tiệc gia đình nên
lúc nẫy chưa tiện nói. Bây giờ hạnh ngộ gặp các quan, xin có lời thành tâm mời
các quan trước. Thiếp mời sẽ đưa đến tận nhà sau.
Ba người cùng chào một lúc, cùng trố mắt chú ý lắng nghe. Bà
chủ thầu nói xong, Đinh Gia Tráng hoạt bát nhất nói thay hai bạn:
- Thưa bà lớn, bà lớn mở tiệc vui lại có lòng bảo chúng tôi,
chúng tôi xin đến dự mừng bà lớn.
Nguyễn Quang Minh đang theo đuổi ý nghĩ riêng của mình, hỏi
thêm:
- Thưa bà lớn, quan lớn tư nhà ta có ngồi ăn chung với khách
không ạ?
- Dạ, tất nhiên là có ạ. Nhưng nếu các quan thấy không nên để
người lạ ăn cùng mất vui, thì ông tư nhà tôi chỉ xin ra chào các quan thôi ạ.
Tôi sẽ bảo nhà tôi ăn riêng, ăn sau.
Mụ chủ ngờ Nguyễn Quang Minh không thích Tây, nên trả lời vậy
nhưng ý ông hội viên thành phố mới lại khác nên ông tiếp:
- Dạ, thưa bà lớn không ạ, tôi hỏi để biết... mà mà mừng!
Cả bốn người cùng cười. Người đàn bà bẻo mép mời lại một lần
nữa, chắp tay chào ba người rất lễ phép, rồi với cử chỉ rất bệ vệ đài các lấy
tay vén vạt áo dài sau và ung dung bước lên xe. Người phu xe nâng càng lên, đun
lùi xe lại một tí rồi ngoắt một cái ra giữa đường phố, bon bon chạy về phía
Hàng Bồ. Mấy ông hội đồng đứng nhìn theo hai cánh mui xe bay xòe xòe ra hai bên
như hai cánh quạt thêu che trên kiệu, tự nhiên cùng có một ý nghĩ như nhau, so
sánh cái xe kia với cái kiệu rước đức Chúa và coi người ngồi trong xe như một nữ
thần, mấy ông đều mến và khen:
- Giỏi và biết điều đấy chứ! Đã biết đến ta thì ta giúp.
- Giúp người lợi ta đã đành rồi. Đinh Gia Tráng nói thêm.
Nhưng sao quý vị chủ nhân phố Hàng Bông lại hỏi đến quan tư?
- Tất có ý tứ. Đặng Trần Hanh đã bằng lòng với sự lễ phép dù
giả tạo của mụ đàn bà cũng nói theo. Ông bạn Hàng Bông muốn nhất cử lưỡng tiện
kia đấy. Ông quan tư chả quen rộng trong nhà binh. Mà nhà binh lúc này là nhất,
vừa lắm thần thế vừa mua sắm nhiều đồ đạc.
Thấy hai bạn chèn mình, Nguyễn Quang Minh nói đỡ:
- Thế hai bác chả cũng vừa bảo phải giúp đỡ mụ ta là gì, và
ngay lúc nãy bác Đinh chả bảo là phải tự hạ đi mà thầu lại với mụ ta, còn cười
gì tôi? Bây giờ mụ ta đã đon đả mời trước, các ngài thích mê đi rồi, quay ra bắt
nạt tôi kẻ hớ hênh. Nói giúp cho nó oai thôi chứ. Định dựa vào nó cả đấy thôi.
- Thôi, tôi xin ông! Đinh Gia Tráng nói dàn hòa xúy xóa, và
giơ tay phải lên quá đầu, khoáng tay vung tàn tán.
Ba người cùng cười vui vẻ thỏa mãn về ý giúp đỡ mụ chủ thầu
tiến hành công việc.
Thế là không phải ngẫu nhiên cô chủ thầu đã có tiếng tăm lừng
lẫy khắp nơi, trở thành một nhân vật lớn trong cả nước. Quan chức các tòa, các
sở đều giúp đỡ cô trong mọi việc mà cô cần đến. Các ông hội viên hội đồng thành
phố rất vui vẻ được cô tìm đến hỏi han, nhờ vả đã không ngớt lời khen ngợi. Các
báo chí Tây, Nam thường nhắc đến tên cô khen cô là người đàn bà khôn ngoan thức
thời. Một tờ báo quốc ngữ trong bài tường thuật lễ khởi công đã tâng bốc lên
thành một người đàn bà An Nam đầu tiên đã chỉ huy hàng ngàn quân xông ra mặt trận
kinh doanh cạnh tranh cả với Tây, Tàu, dưới cái đầu đề chữ lớn: Cô Tư Hồng. Tờ
báo tiếng Việt duy nhất truyền tay qua các lớp người ở thành phố, đã lan cái
tên ấy đi rất nhanh, nên từ đó người ta quen dùng cái tên dễ gọi ấy thay cho tiếng
gọi bà chủ thầu. Và cô Tư Hồng cũng từ đấy nổi tiếng khắp cả trong nước. Cô
không phải là người có học, cũng không phải là con nhà gia thế quyền quý. Cô chỉ
là một cô gái quê nghèo ở vùng đồng chiêm nước đọng, tên là Trần Thị Lan, quán
làng Thành Thị, huyện Bình Lục, khi ấy còn thuộc tỉnh Hà Nội. Mười bẩy mười tám
tuổi bị ép làm nàng hầu một tên cường hào Chánh tổng Bá hộ, cô đã bỏ trốn đi ra
phố Nam Định, rồi ra Hải Phòng, đi ở cho một mụ chủ Khách, sau đó cô lấy một chủ
hiệu Hoa Kiều tên là Hồng, được người ta gọi là thím Hồng. Ít lâu sau chú Hồng
vỡ nợ, trốn về Trung Quốc bỏ vợ bơ vơ một mình ở Hải Phòng. Thím gặp một người
bạn gái me Tây, cô ba La-vích, khuyên thím lấy chồng Tây, và dạy thím học nói
tiếng Tây theo lối diễn ca thực hành:
Tôi đi là moa-a-lê 15
Rê-vây 16 thức
dậy, cu-sê 17 đi
nằm
Toa 18 ba,
cát 19 bốn,
sanh 20 năm,
Sa-loong 21 phòng
khách, la-săm 22 cái
buồng.
Bập bẹ dăm ba tiếng Tây bồi, thím lên Hà Nội giao du với bọn
me Tây và làm nghề mụ Tú Bà. Ngày tết chính trung năm 1892, trong bữa tiệc mừng
của nhà quan ba La-vích, thím Hồng được bạn mời đến dự và được giới thiệu với
quan tư Gaclan, rồi hai người lấy nhau. Đáng lẽ tên vợ là Lan, tên chồng cũng
có vần lan, người ta phải gọi theo thói thường là Cô Tư Lan mới đúng. Nhưng có
lẽ cũng do dụng ý của nhà báo muốn moi cả đời chồng cũ của cô ra chăng, nên mới
gọi là Cô Tư Hồng. Không ngờ cái tên ấy nghe êm dịu hơn, hấp dẫn hơn và trở
thành nổi tiếng hơn. Con đĩ lên bà là do lấy được một tên quan tư trong quân đội
xâm lược thắng thế, cũng như hàng chục hàng trăm mụ me Tây khác. Nhưng được nổi
danh là do thời thế tạo nên. Thời thế lúc này, Tây đã thắng hẳn trong cuộc
“bình định”, đang cần mở mang để khai thác. Ở thành phố, bọn Tây muốn phá hủy
cái thành cổ đi mở rộng diện tích xây dựng lâu đài dinh thự, đồng thời để thu
hút nhân công tranh thủ quần chúng, hòng cô lập những phong trào chống đối.
Hãng Ba Danh làm cho nhà binh quen dùng cu li của các quan tỉnh bắt đem nộp,
nay không thể một lúc mộ được nhiều dân phu. Mà làm việc theo lối trước không
được nữa, trái với chính sách lừa bịp của Toàn quyền Đờ La-nét-săng là mở những
công trình xây dựng cho dân chúng An-nam-mít được tự do đến làm việc kiếm lời.
Các ông hội đồng thành phố các nhà buôn lớn đang muốn đứng ra kinh doanh, nhưng
đều không quen nông thôn, không rõ tính tình dân quê càng rụt rè và không thể mộ
được nhiều dân công ngay tức khắc. Do đó, cô Tư Hồng, tay trắng dựa vào thế của
chồng, nhờ vào vốn của hãng Ba Danh, nhiều từng trải và thấu rõ tình cảnh nông
thôn đã dám liều tung tiền ra cho người đi mộ phu, thưởng cho hoa hồng rất hậu 23 .
Giấy người nứa người, cô phất. Cô đã phất ra trò. Dưới quyền chỉ huy của cô, số
dân phu từ 500 đã lên đến trên 1.000. Nơi công trường ngổn ngang, bề bộn, người
đông như kiến vỡ tổ. Sức người đã san bằng mở rộng. Hết năm 1894 sang đầu năm
1895, toàn bộ mặt thành cửa Đông đã được san bằng, lấp kín hào. Mấy thôn xóm
Yên Trung, Đông Thành, Tân Khai đều bị dời đi, cắm vạch mở thành những đường phố
mới. Sở Lục lộ xây dựng hè đường thẳng tắp. Những nhà buôn lớn, những nhà giàu
bỏ tiền ra tậu đất xây nhà theo sự quy định của tòa Đốc lý và sở Lục lộ để mở
hiệu buôn hoặc cho thuê. Những gạch đá dỡ ở thành ra được đem bán dùng cho sự
xây dựng ấy. Cô Tư Hồng đã phất lại phất thêm. Cô đã chuyển một số phu sang nhận
thầu xây nhà cửa cho tư nhân. Và trước tiên với số tiền lãi bán gạch đá với số
gạch đá tốt nhất chọn được, cô đã đem xây một cái biệt thự hai tầng đủ cửa kính
cửa chớp, có vườn, có tường bao ở phố cửa Đông, vừa để ở, vừa làm nơi bàn giấy
của nhà thầu. Một tòa lâu đài kiểu mới, cao rộng, sang trọng nhất trong thành
phố, trông như một công sở, mà lại là một nhà tư nhân đầu tiên thắp điện trong
thành phố, ban đêm trên gác dưới nhà đèn điện sáng choang rực một góc phố. Chữ
phú tất nhiên sẽ dẫn đến chữ quý. Nắm được kinh tế, tự nhiên sẽ có cơ hội bước
vào trường chính trị. Lúc này không những phu phen cai ký ra vào nơi bàn giấy
nhà thầu, mà cả các nhà nho danh vọng đỗ cao quan to cũng thường đi lại lên
chơi trên tầng gác, uống rượu Tây ngâm thơ dưới ánh đèn sáng trong vắt dịu như
lụa bạch. Thậm chí có những kẻ không muốn ra làm việc cho Tây, tỏ ý chống đối hẳn
hoi, nhưng lại cũng thích đến chơi nhà cô Tư để được cô ta trọng vọng. Cho nên
trong khi công việc dỡ thành mở phố vẫn tiến triển đều đặn, thì ở nhà cô Tư
hàng ngày thường tấp nập đủ các hạng khách khứa cao thấp mà cô đều ân cần đón
tiếp không để mất lòng một ai. Một buổi sáng cuối thu, giời đẹp, gió mát, hương
cúc thoảng đưa. Trong buồng khách lịch sự ở trên gác, cô Tư đang vui vẻ tiếp
chuyện ông Tú Hài thôn Tự Tháp, nguyên Hàn lâm viện Bắc kỳ, hiện là hội viên
phòng Thương mại và Canh nông Bắc kỳ, Hồng lô 24 tự
khanh và là một nhà buôn cộng tác tin cẩn của cô. Hai người đã trao đổi với
nhau xong về công việc chung, đang nói chuyện phiếm về sinh hoạt và tư cách của
mọi tầng lớp trong thành phố. Tú Hài chợt nhớ ra điều gì, nói với cô chủ:
- Này bà lớn ạ, cái lão ấm Phách con quan nghè Tự Tháp mà tôi
nói với bà lớn độ trước ấy mà, vợ chồng lão ta mới về chơi trên phố này mấy hôm
nay, tôi có mời lão lại chơi đằng bà lớn, nhưng xem ý lão không chịu đến. Không
đến thì thôi, kệ cho chết đói rã họng. Hai vợ chồng trông vẻ kiết xác lắm.
Cô Tư ngẩng mặt lên nhìn ông Tú. Nói dịu dàng rành rẽ:
- Quan Hường ạ. Tôi nghĩ không nên thế. Tôi được biết nhiều
người ở đây nói đến cậu ta và khen cậu ta. Thế thì ta phải nói khéo làm sao cho
cậu ta đến đây với chúng ta. Cậu ấy có đến chúng ta chả được lợi đồng nào đâu,
có tốn thêm tiền thì có. Nhưng có quan Tây đã dặn: mở những công việc kinh
doanh lớn là để thu hút đông đảo dân nghèo cho họ khỏi đi theo loạn, và mời giữ
được ông nhà nho nào là ngăn được người gây loạn, xui loạn. Cái lợi sẽ lớn lắm.
Tây họ không mời được mà mình mời được, Tây họ mới nể mình, sẽ quý mình. Quan
Hường không nghĩ đến chỗ đó. Quan lớn thấy cậu ấm là người họ hàng làng nước,
quan coi thường, hoặc là cậu ấy có nói gì mát quan nên quan tức chứ gì?
- Không, tôi chả tức gì lão ta cả. Tú Hài nói – Tôi chỉ cho
lão ta là một anh đồ kiết xác chẳng ai người ta ưa đâu, thế mà nói ướm ngỏ lời
đã làm bộ làm tịch, ra vẻ thanh cao. Có thanh cái tám vạn! Người danh vọng như
giời còn chả giữ được thanh cao nữa là. Nên có việc gì mà tôi phải tức. Tôi hiện
chỉ đang tức lão hội đồng Minh, đang lúc mình cần gỗ thì nó lại khủng khỉnh làm
cao không bán, đòi lên giá...
- Việc ấy xin quan Hường đừng lo, cũng đừng tức cho mệt sức,
cô Tư cười nụ và nói rất nhẹ nhàng từ tốn. Đối với ông hội Minh, tôi đã có cách
đối xử êm thắm, tránh điều tiếng. Xin quan đừng khích nộ ông ta. Còn về cậu ấm
Ba Tự Tháp, quan cũng nên khéo léo thế nào, không mời cậu ta lại chơi đây được,
thì ít ra cũng nói khéo xin cho tôi một đôi câu đối, một bài thơ, hoặc là một
thứ gì đấy tùy ý. Cái nghĩa là cậu ấy mà hơi có ý vệ về ta một tí thôi thì vây
cánh ta lại càng lớn lên... Mà Tây họ càng thêm giúp ta. Ta xin gì cũng được.
Tú Hài ngồi thừ ra một lúc mới nói:
- Vâng. Thực tình tôi không nghĩ xa được như bà lớn. Chứ tôi
cũng chả tức gì cậu ta. Chỉ ghét tính nó bây giờ gàn gàn dở dở.
- Cũng không phải tôi nghĩ xa hơn quan lớn. Tư Hồng vội cướp
lời. Tây nó bảo thế đấy. Dù cho họ có ngang bướng, nói năng không kiêng sợ,
nhưng nói chẳng ai nghe, thì lúc này cũng kệ họ, đừng dồn họ vào đường cùng.
Bỗng người lính hầu ở tầng dưới bưng lên một cái đĩa bạc đựng
một tấm danh thiếp trắng đưa đến tận tay bà chủ và nói:
- Thưa bà lớn, có khách ạ.
- Đâu? Đâu?
Tư Hồng cầm lấy tấm danh thiếp, miệng hỏi, mắt không kịp xem
đến, tai không kịp nghe trả lời, sầm sầm chạy xuống, bước hai bậc thang một, đến
giữa thang gác, đã lên tiếng hỏi:
- Cậu ký phải? Gớm đi đâu mà đến mấy lần không được gặp?
- Ủi, bông-sua ma sơ 25 ,
tiếng người ở dưới đáp, kèm thêm câu: Đâu dám coi thường bà chị. Chân ký lục
quèn, bì thế nào được với bà lớn Tư Hồng.
Tiếng hai người cùng nói một câu tiếng Tây nữa, rồi tiếng
chân cùng đo nhẹ nhàng lên gác, không vội vàng hấp tấp như trước. Hai người lên
đến đầu cầu thang, Tú Hài đã đứng lên tận nơi cúi đầu chắp tay vái chào khách.
Bà chủ đi sau khách vội bước nhanh lên trước, theo lối Tây giơ tay chỉ từng người
giới thiệu:
- Xin trân trọng trình cậu đây là quan Hường lô Vũ Doãn Hài,
hội viên phòng Thương mại Bắc kỳ và thưa quan Hường, đây là cậu ký Bưởi một nhà
kinh doanh tân tiến mới đi dự Đấu xảo bên Tây về.
Hai người đàn ông cùng nói một ý.
- Dạ, chúng tôi đã được hân hạnh biết nhau rồi ạ.
Người khách mới đến mặc đồ Tây vừa nói vừa vội ngả cái mũ cát
trắng xuống cắp vào nách, bước lên cúi chào, bắt tay Tú Hài và nói thêm:
- Quan lớn hội viên, ngài mới đến chơi?
- Dạ tôi đến bàn công việc với bà Tư, cũng xong rồi ạ!
Tú Hài hai tay nắm chặt bàn tay của khách, giật mạnh và nói
thêm:
- Thôi, thưa cậu ký ở lại chơi, tôi xin lui gót.
Ông khách vội nắm tay ông Tú kéo lại và nói:
- Ấy chết xin quan lớn nán lại chứ. Vì tôi đến làm lỡ câu
chuyện của quan lớn với bà chủ, tôi chả dám, quan lớn ra về, tôi cũng về.
- Xin mời quan Hường cứ ở lại chơi đã. Tư Hồng cũng nói. Việc
chung cả, cùng làng buôn bán kinh doanh với nhau cả, có gì mà e ngại.
Tú Hài vẫn đứng ở giữa phòng gần cầu thang, nói và gỡ tay ra:
- Dạ, không ngại gì cả. Nhưng đến giờ hẹn rồi. Tôi phải ra gặp
bọn cai thầu bảo cho họ làm.
- Vâng, thế xin để quan Hường đi. Tư Hồng nói. Làm ăn cần nhất
phải đúng hẹn và đúng giờ. À nhờ quan lớn đưa cái gói cho Cai Bích và bảo hắn đến
trưa về gặp tôi có việc...
Cô quay lại nói với khách:
- Mời cậu ngồi chơi sa-lông. Xin phép cậu một chút để tôi đi
gởi quan Hường.
Tú Hài chào lại một lần nữa. Tư Hồng tiễn chân xuống đến giữa
cầu thang, đi sát lại gần ghé miệng vào tai ông Tú nói khẽ:
- Quan Hường cứ yên tâm. Việc gỗ ông Minh đấy!
- Vâng, vâng, tôi biết ngay. Tú Hài nói vội, nên tôi cáo lui
để một mình bà lớn dễ nói chuyện.
Hai người hiểu nhau đắc ý trông nhau cùng mỉm cười chào nhau.
Tư Hồng trở nên nhanh nhẹn vui vẻ tiếp chuyện khách rất lịch sự và thân mật.
Sau những câu chuyện xã giao hỏi về sức khỏe, về công việc làm ăn, về những sự
mới lạ ở bên Tây mà khách mới ở bên ấy ra về hồi giữa năm nay, cô Tư dẫn đến việc
chính mà mấy lần cô tự thân hành tìm đến định hỏi. Cô chân thành và dịu dàng lễ
phép nói rõ ý mình:
- Thưa cậu, chả nói giấu gì cậu, hai ba lần đến tìm gặp cậu,
chỉ mong nhờ cậu giúp cho một việc nhỏ mọn này. Cậu giúp Tây còn được nữa là
người An Nam mình, nỡ nào cậu không giúp...
- Gớm làm gì mà bà chị phải rào đón kỹ thế? Ông khách nói.
Xin chị cứ nói thực, sức tôi làm được gì, chị bảo tôi xin vâng.
- Thật nhé, bà chủ liếc nhìn khách mỉm cười rất duyên và nói
hối hả: Chả là thế này. Việc chuyên chở đất của chúng tôi bây giờ càng ngày
càng đi xa. Phá hết cái thành, lại còn lấp sông. Cần phải đóng nhiều xe bò. Lại
phải nhiều nhà. Tốn rất nhiều gỗ tốt. Thấy nói cậu nhận thầu bán gỗ tà-vẹc 26 cho
nhà nước làm đường hỏa xa, cậu có péc-mi-cúp 27 , cậu tinh tường mọi thứ gỗ, nên tôi muốn
nói với cậu bán gỗ cho tôi, cũng là một công đôi việc.
- À? Ông khách cười hóm hỉnh và nói thong thả. Ra chị cần gỗ
chị mới đến tìm tôi. Nhưng ông hội đồng Minh của chị đâu? Ông ấy có bao giờ thiếu
gỗ? Chắc lại tại chị đá quá nên ông ấy mới trớ ra chứ gì? Mới đem gỗ ra mà chọi
với đá. Thế thì gỗ tà vẹt của tôi làm còn rắn hơn kia, chọc vào chỉ tổ thêm
đau!
- Láo nào! Chỉ nói bậy, bà chủ vẫn nói dịu dàng vui vẻ, ông
Minh năm nay không chủ tâm kinh doanh hàng gỗ, ông ấy thu bớt vốn lại để mở đồn
điền, mà nhà thầu chúng tôi lại phát đạt, bao nhiêu gỗ cũng vừa, nên mới đi cầu
cạnh với cậu, lợi thì lợi chung. Còn ông Minh với tôi chẳng có điều tiếng gì.
Chính ông quan tư nhà tôi đã thân chinh đem cái đơn của ông Minh đưa thẳng lên
phủ Toàn quyền xin cho ông ấy cái Công-sét-si-ông 150 mẫu Tây ở Thanh Xuân và
Thanh Lang, châu Lương Sơn tỉnh Hòa Bình đấy. Tôi nói ngay, cậu cứ nghĩ quay ra
queo, hóa ra phụ cả cái lòng thành của tôi.
Ông khách vẫn cười vui, nói chớt nhả sống sượng:
- Vâng oan uổng cho cái lòng son của bà chị lắm nhỉ? Nhưng mà
này chị ạ, chị đã quen vuốt râu trên râu dưới của Tây, chán ra rồi, tôi đây
cũng đã từng xoa cả mồm trên mồm dưới của đầm về đây, chả còn lép nước gì, ta
đã biết nhau cả, thì cũng đừng nên nói úp mở nhau nữa. Chị cứ bảo ngay rằng lão
Minh nó bắt bí, nó không bán gỗ cho chị, nay chị cần gỗ của tôi thì chị giả giá
bao nhiêu, được giá tôi bán chứ chả giúp gì cả.
- Gớm, đàn ông sao mà phũ miệng thế? Cô chủ vẫn vui cười nói
dịu dàng. Thì cũng phải nói có đầu có đuôi thế, có bằng lòng thì rồi mới nói đến
giá cả chứ.
- Không được! Tình nghĩa là tình nghĩa. Buôn bán là buôn bán.
Buôn bán kinh doanh theo lối Tây bây giờ là phải tính toán lỗ lãi dứt khoát trước.
Có lãi thì mới làm, không thì để cho thần xác nghỉ. Tính tôi nó thẳng tuột như
mực tàu vậy, chị cứ nói trắng ngay ra lại dễ nghe.
- Vậy thì cậu định giá bao nhiêu mới bằng lòng? Cô Tư hỏi.
- Gỗ của tôi gỗ tốt loại nhất, phải giá cao hơn giá bán cho sở
Hỏa xa thì bao nhiêu cũng có.
- Bì thế nào được với tiền của của nhà nước! Tư nhân chúng
tôi mèo bé bắt chuột con, thế mới cầu phiền đến cậu và mới gọi là cậu giúp đỡ.
- Thế chị có cầu lãi không?
- Cố nhiên buôn bán là cốt lấy lãi rồi. Nhưng cũng còn cái lẽ
là người Nam mình dựa vào nhau, giúp đỡ nhau cùng có lợi mà khỏi để tiền đi đổ
sông Ngô, làm giàu cho Tây, cho Tàu, còn người mình chẳng được lợi lộc gì. Nên
tôi muốn cậu đã sẵn có gỗ, có xưởng, xin cậu bán cho chúng tôi hạ hơn mỗi
quýp 28 mấy xu. Việc này còn việc khác, tôi muốn
buôn bán với cậu về lâu về dài.
- Tôi là người khai khẩn khó nhọc đem bán rẻ cho chị để chị
nuôi không những bọn như Hường Hài ấy chứ gì?
- Có lãi thì phải chia chung, cái đó là lẽ dĩ nhiên thôi. Vả
lại không có người thì phải dùng họ. Họ vừa có công vừa có vốn. Mà chính cũng
vì thế, tôi mới muốn dựa vào cậu chứ cậu có tài, có chữ, tôi có công sức, chúng
ta thầu chung sẽ làm được nhiều việc.
Ông khách được phỉnh, cười có vẻ tự đắc nói:
- Tôi chúa gét bọn nhà nho xu thời, chỉ chạy theo Tây, đi
theo lợi không nghĩ gì đến ai. Tây nó thí cho một tí danh, một tí lợi thì tối mắt
lại, nên tôi không muốn dây với bọn ấy. Nhưng chị đã biết điều biết đến tôi,
tôi cũng vui lòng giúp chị, bán cho chị bằng giá của lão hội đồng Minh. Còn mai
ngày thì tôi ối việc, không cần phải trông vào chị đâu. Tây nó sắp bắc cái cầu
sông Cái này đấy, nó phải cần đến tôi, đến gỗ của tôi. Chị có muồn làm chung với
tôi thì làm.
Cô chủ tươi hẳn lên, cười duyên dáng, nói vồ vập:
- Vâng, chỉ cần cậu bằng lòng bán cho giúp tôi lúc này, làm
cho nhau xong công việc với Tây để Tây nó khỏi khinh người mình, mà lại vừa giữ
được lợi cho dân mình. Rồi sau này, cậu bảo tôi giúp gì, tôi cũng xin vâng.
Ông khách cười kha khá, thích chí nói lớn:
- Rõ nực cười cho cái dân mình lúc này nó đốn mạt đến mức một
anh đi làm thuê cho Tây và một con mẹ lấy Tây lại là những người trước tiên biết
lo làm lợi cho dân, cho nước. Và cũng vì thế, tôi xin vui lòng giúp chị, dù có
rẻ đi một tí cũng chẳng sao. Nó cũng được cái tiếng.
- Vâng, tôi vốn biết cậu hào hoa nghĩa hiệp. Tư Hồng cười lả
lơi nói. Giúp một người làm lợi cho trăm nghìn người, chả hơn chắt bóp để lọt
vào tay người nước ngoài ư? Tin rằng thể nào cậu cũng sẵn lòng giúp đỡ, nên tôi
mới dám thổ lộ tâm tình. Vậy nhân hạnh ngộ đây mời cậu ở lại chơi dự bữa tiệc
thường với nhà thầu chúng tôi, để cùng làm giấy công ta một thể.
- Không cần, chị ạ, tôi bận, phải đi ngay bây giờ. Chè Tàu,
chuối, thuốc lá, bánh ngọt, rượu Tây của chị thế này là đủ rồi. Còn chị có cần
công-tờ-ra 29 thì để tôi bảo buya-rô 30 nó đánh máy đưa lại chị ký cũng được.
- Muốn là lần đầu gặp gỡ có bữa tiệc mừng làm vui nhưng chả
sao! Nếu cậu bận thật thì xin để đến khi khác vậy. Tối thứ bẩy này nhé.
Ông khách gật gù nói:
- Được. Việc đó sẽ bàn sau. Ngày nào tiện cũng được.
- Nhưng thưa cậu, cô chủ ngập ngừng hỏi. Thế còn ngày giao
hàng?
- Mai chị cho người lại, tôi sẽ chỉ bảo ngày giờ và cách thức
giao nhận hẳn hoi.
Khách uống rượu ăn bánh nói chuyện vui phiếm mấy câu, rồi đứng
lên cầm mũ cáo lui ra về. Cô chủ cũng đứng lên đon đả mời:
- Dù bận gì, chiều thứ bẩy này cũng mời cậu quá bộ lại dự tiệc
với chúng tôi gọi là lễ mừng...
Có gì đặc biệt?
- Xin tùy ý cậu, ở đây hay ô-ten 31 cũng được, có cả đăng-xê, đầm 32 thật hẳn hoi.
- Thú nhỉ! Ông khách cười giơ tay bắt tay chủ, nắm giữ tay và
nói rất lưu loát lả lơi. Ở Pháp về nghe tiếng chị đứng nhận thầu việc lớn như
thế, tôi đã rất phục.
Đến nay gặp chị, được nói chuyện với chị, càng thấy chị có
tài cán duyên dáng khôn ngoan, thảo nào các ông Tây đều thích mê.
Cô Tư liếc mắt cười rất lẳng, nói vẻ nũng nịu:
- Và nếu cậu cũng thích...
Câu nói chưa hết đã bị tắt ngấm, vì nhân lúc mấy người hầu vừa
xuống nhà, trên gác vắng vẻ, ông khách một tay vẫn nắm bàn tay bà chủ, tay kia
đã quẳng mũ xuống quàng hôn bà chủ sát gần mình lẳng lặng ghé môi hôn một cái
hôn nồng cháy lên đôi môi mỹ nhân đỏ tươi, như đóa hoa hồng hàm tiếu, và hai
tay ôm ghì ép cái ngực nở nang mịn màng ấy vào ngực mình. Hôn và ôm ghì một lúc
lâu, họ mới buông nhau ra. Tiếng thỏ thẻ nhắc:
- Nhớ tối thứ bảy nhé:
Ông khách gật đầu. Rồi họ mới lại chào nhau chính thức. Khách
tiến ra thang gác. Cô chủ tiễn chân đi sau, bỗng hỏi:
- Cậu sinh năm nào nhỉ?
- Tôi tuổi Tuất, cầm tinh con chó, nên dữ lắm, có sợ không?
- Tướng dữ thế mới làm nên sự nghiệp, cô chủ tươi cười nói.
Nhưng tôi hỏi cậu năm Tây kia. Xem bao nhiêu tuổi mà giỏi thế?
- À, năm 1874 ạ. Thưa bà chị, tính theo tuổi ta thì là 23 tuổi.
Nhưng tính theo tuổi Tây thì mới 22 tuổi, còn trẻ con, dại lắm. Xin chị chớ
trách.
- Ô, cô chủ vội reo lên. Cậu ít tuổi quá nhỉ, kém tôi xa.
- Chị sinh năm nào?
- Năm 1868.
- Ô! Chị còn trẻ quá trẻ, hơn tuổi nhiều. Trẻ dai thế mới quý
mà chị hơn em nhiều tuổi thế, em xin nhận làm đàn em.
Khách đã xuống hết thang gác, đứng lại ngoảnh lên nhìn bà chủ
đang còn ở trên mấy bậc thang, nhăn nhở cười. Bà chủ trách yêu:
- Em gấu!
- Có gấu thế, chị mới càng quý.
Hai người cùng nhìn nhau cười tình. Cô chủ niềm nở tiễn khách
ra tận cổng, vừa đi vừa nói chuyện vui vẻ chào nhau. Hẹn nhau bắt tay nồng nhiệt.
Khách bước lên cái xe nhà, ngồi ngay ngắn rồi còn giơ cao mũ lên vẫy chào một lần
nữa. Chủ cũng đứng ở cổng trông theo mãi đến khi xe đi khuất mới thôi. Đây
không phải chỉ là tình yêu mến. Mà là lòng kính trọng khách thật sự, một người
khách được cô chủ kiêu ngạo và khôn ngoan này yêu quý nhất vì tính thật thà sỗ
sàng của ông ta và vì sự có mặt của ông ta ở hãng thầu này có lợi cho cô rất
nhiều. Hơn hẳn bọn khách khác, dù là quan to, nhà nho khoa bảng, dù thông, ký,
phán Tây học, đến nhà cô đều tỏ ra thớ lợ nịnh nọt và vụng lợi. Hơn nữa, ông
khách này lại là một thanh niên tân tiến mới được đi sang Tây về mà chán vạn
người đang muốn cầu thân, chứ không riêng gì cô. Vì đó không phải ai xa lạ, đó
chính là nhà doanh nghiệp trẻ tuổi Bạch Thái Bưởi mà khắc cả Tây, ta, Khách ở
Trung Bắc lưỡng kỳ này đều biết đến, mà mọi người quen gọi thân mật là cậu ký
Bưởi. Bạch Thái Bưởi quán làng Yên Phủ, huyện Thanh Trì cách Hà Nội hơn chục
cây số, thuở bé đi học quốc ngữ rồi học chữ Tây, vào trường tu sỹ để ra làm
thông ngôn. Nhưng sau cậu bỏ học đi làm ký lục cho hãng buôn Tây ở phố Tràng Tiền.
Năm 1894 cậu chuyển sang làm ký lục ở một xưởng thợ của một hãng thầu Công
chính chú ý xem xét thêm về máy móc. Năm 1895, nhân xứ Bắc kỳ có một gian bày
các sản vật ở Hội chợ thành phố Booc-đô bên Pháp, chính phủ bảo hộ cần người
Nam đến giới thiệu các mặt hàng ở đây, phủ Thống sứ liền chọn cậu cho đi dự hội
chợ và sau đó cho đi thăm các thành phố lớn bên Pháp. Cuối năm về nước, có được
ít vốn, ít tiếng tăm và nhờ quen biết được nhiều Tây, cậu liền cùng với một người
Pháp chung vốn nhận thầu gỗ bán cho sở Hỏa xa Đông Dương. Có giấy phép khai thác
gỗ, cậu đã lấy được nhiều gỗ quý báu bán cả cho các nhà buôn và tư nhân xây dựng
nhà cửa. Tiếng tăm cậu ký Bưởi buôn bán ngang hàng với Tây vang dội khắp nước,
và đột nhiên vượt cả tiếng cô Tư Hồng. Cậu ký Bưởi, cô Tư Hồng nghiễm nhiên trở
thành nhân vật giai thoại với đủ mọi vẻ khen chê. Và bây giờ cô Tư Hồng lại
chính thức tìm đến nhờ cậu ký Bưởi giúp đỡ. Cậu ký đã vui vẻ nhận lời. Từ đấy
đôi bạn trở nên thân, như hùm mọc thêm cánh, không còn ai có thể cạnh tranh nổi.
Ông hội viên chủ hiệu gỗ Nguyễn Quang Minh không dám bắt bí nhà thầu nữa, trở lại
vui vẻ cung cấp gỗ và nhận đóng cho cả xe và các thứ dụng cụ nữa, thành thử mọi
công việc đều trôi chảy nhanh chóng quá mức dự định. Hết năm 1896, bốn tường
thành đã dỡ xong chỉ còn trơ lại cửa Bắc và kỳ đài ở cửa Đoan môn. Hào và sông
Tô Lịch lấp xong, các đường phố mới được vạch ra thẳng tắp chi chít như bàn cờ.
Những nhà ngói mới được dựng lên san sát. Cô chủ thầu Tư Hồng sẵn có nhiều vật
liệu vôi gỗ đá gạch lại chuyển sang nhận thầu xây nhà cửa cho nhiều người. Và
cô đã dành những nguyên liệu tốt nhất để xây dựng cho mình một cái biệt thự đồ
sộ nguy nga nhất lúc ấy, có vườn hoa, có lầu vọng nguyệt, ở một nơi tĩnh mịch
giữa làng Hội Vũ, phía trong phía Hàng Bông. Thật là một cảnh tiểu thần tiên, một
cảnh đế vương nhỏ ở trong làng giữa nơi thủ phủ Đông Dương. Một nhà nho đi qua
các phố mới trên nền thành cũ, về đến cửa Nam, đến cuối phố Hàng Bông, rẽ vào
làng Hội Vũ, nhìn ngắm tòa lâu đài tráng lệ của cô chủ phá thành, đã ngậm ngùi
ngẫu cảm nên một bài thơ:
Than ôi! Đệ nhất cảnh Thăng Long
Vượng khí nghìn năm còn nữa không?
Hai cửa còn trơ hai thánh miếu
Một thành sót lại một hoàng cung
Nhường ngao ngán nỗi công ông Bạch
Cũng gớm ghê cho của chị Hồng.
Còn biết đâu là nền đế bá
Than ôi! Đệ nhất cảnh Thăng Long!
° ° °
Thành phố đã mở mang theo kiểu Tây, thêm nhiều phố, xây nhiều
nhà. Tây, Tàu, ngoại quốc đến ở nhiều. Ngày 24 tháng 2 năm 1897, Toàn quyền ký
nghị định bỏ tòa Hiệp lý Hà Nội, trả các quan chức người Nam cho tỉnh. Ngày 14
tháng 4 cùng năm, Chánh đốc lý Mô-ren ký nghị định chia khu vực hai huyện Thọ
Xương và Vĩnh Thuận cũ ra làm tám hộ tính từ phía Hồ Tây trở xuống, bổ hộ phố,
ăn lương của tòa Đốc lý mỗi năm tám mươi đồng bạc trắng, thừa hành chính, dân sự
ở những phố thuộc trong hộ. Thành phố hoàn toàn tách khỏi sự cai trị của quan lại
An Nam. Toàn quyền Đu-me mới sang nhận chức từ đầu năm. Trong khi hợp nhất cả
năm xứ ở Đông Dương dưới sự chỉ đạo thống nhất của phủ Toàn quyền mở đầu giai
đoạn khai thác thuộc địa hắn đã cho rời tỉnh lỵ Hà Nội ra Cầu Đơ và đổi tên là
tỉnh Cầu Đơ 2. Hắn bắt vua Thành Thái ký dụ ngày 26 tháng 7 năm 1897 bãi bỏ nha
Kinh lược Bắc kỳ và giao quyền Kinh lược cho Thống sứ Bắc kỳ. Ngày 13 tháng 8,
hắn ký nghị định cho thi hành cái dụ trên, coi tên Thống sứ là Khâm sai đại thần
của triều đình. Hắn vạch ra quy mô xây dựng phủ Toàn quyền mới ở nơi thành mới
dỡ và bắc cầu sông Cái để nối liền giao thông đường sắt từ Hải Phòng và thượng
du vào thủ phủ. Và để quảng cáo cho xứ Bắc kỳ và cả cõi Đông Dương nữa, hắn ra
lệnh cho thành phố Hà Nội sửa soạn mở kỳ đấu xảo lần thứ hai, phạm vi và khối
lượng vật phẩm trình bày phải gấp hơn nhiều lần so với kỳ đấu xảo lần thứ nhất ở
Tràng Thi năm 1887. Được lệnh này, tòa Đốc lý thành phố đem toàn lực ra thực hiện.
Khu hội chợ đấu xảo được cắm ở cuối phố lớn Hàng Cỏ vừa mới mở, trên địa phận
các làng Nam Ngư, Liên Trì. Phải lấp hàng chục cái hồ ao rộng, di chuyển tha ma
đình chùa. Sở Lục lộ thành phố cùng với một số chủ thầu thuê mượn hàng nghìn
dân phu làm việc liên tục khẩn trương suốt trong gần một năm giời, lấp hồ bạt đất
mở phố san nền dựng nhà... tốn rất nhiều công nhiều của. Cuối cùng một khu nhà
ngói đã được dựng lên, nhà ngói san sát đỏ tươi tường vôi vàng cửa chớp sơn
xanh tươi mát. Một tòa nhà lớn vừa rộng vừa dài ở giữa. Ở hai bên, những dãy nhà
nhỏ thấp hơn, mỗi nhà sẽ dành cho mỗi tỉnh Bắc kỳ bằng sản vật hàng hóa địa
phương. Lại có bốn nhà cao hơn ở bốn góc xây theo kiểu bốn góc riêng từng xứ là
những gian hàng của bốn xứ Trung kỳ, Nam kỳ, Cao Miên, Ai Lao. Tất cả sức điện
của các nhà máy điện bé nhỏ mới xây dựng được mấy năm nay đều dồn cả về đây để
làm khu Hội chợ ban đêm rực rỡ ánh sáng đứng riêng hẳn ra như một cảnh tiên. Mọi
việc chuẩn bị sắp đặt đến hết tháng 11 năm 1898 là hoàn thành. Các gian hàng đã
làm xong. Những sản vật quý, những đồ công nghệ đẹp khéo, các tài nghệ quý giá,
hiếm có đều được đem trưng bày. Các hàng hóa máy móc của Tây và Anh Mỹ cũng được
đưa đến bày làm mẫu và bán. Các nhà buôn lớn và công nghệ nước ngoài ở vùng
Đông Nam Á, Nhật Bản, Ấn Độ và Nam Dương đều được mời và kéo đến tham dự đông đủ.
Cuộc hội chợ với mục đích quảng cáo sự giàu có và ổn định của xứ Bắc kỳ, một
thuộc địa mới của nước Pháp đã được tổ chức với sự cố gắng phi thường và với
quy mô lớn lao chưa từng có ở khu vực châu Á này. Hội chợ được khai mạc chiều
ngày 4 tháng 12 năm 1898. Đèn điện được bật sáng ngay từ 5 giờ chiều. Ánh sáng
rực rỡ suốt từ phủ Toàn quyền ở trường Tây qua phố Tràng Tiền vòng Bờ Hồ đến đầu
phố Tràng Thi tỏa ra làm hai hàng. Một hàng chạy theo phố Tràng Thi lên đến Cửa
Nam quặt vào làng Nam Ngư xuống đến khu Đấu xảo. Một hàng theo phố Vũ Thạch chạy
thẳng xuống phố Găm-bet-ta, quặt tay phải vào khu Hội chợ. Các nơi khác trong
thành phố đều rút bớt đèn đi. Mỗi phố chỉ còn cách quãng mấy ngọn soi đường. Tất
cả ánh sáng tập trung dồn về khu Đấu xảo. Ở đây sáng choang rực rỡ như một hòn
ngọc châu sáng chói trên biển bạc. Ánh điện rừng rực tỏa lên xua tan bóng tối cả
một góc giời. Đứng đằng xa nhìn đến ai cũng phải ước mơ được đến nơi đảo sáng ấy
thăm cảnh xem hàng. Cho nên sau buổi chiều khai mạc, và buổi tối hôm ấy dành
riêng cho quan khách và người ngoại quốc, những nhà kinh doanh lớn, từ sáng hôm
sau hội chợ mới mở cửa bán vé cho mọi người vào xem. Công chúng các nơi kéo đến
đông như nước chảy. Đông như ngày hội lớn, vui như hội đền Trấn Vũ năm nọ. Dù
vé vào cửa bán những năm xu, trong khi lương công nhật của cu li chỉ có 12 xu,
thế mà người ta cũng cố chen chúc nhau, chầu chực mãi mới mua được một vé vào cửa.
Nhất là buổi tối hôm sau, ngày 5 tháng 12. Chả là tối đầu tiên được vui với ánh
sáng chan hòa của Hội chợ. Người ở đâu kéo về đông như kiến vỡ tổ đặc cả phía
ngoài hội chợ, đông vui khắp cả các ngả phố. Đứng nhìn dòng người đông vui cuồn
cuộn ở ngoài đường, một người đàn ông, trẻ, khỏe, ăn mặc sạch sẽ, quay vào nói
với vợ ngồi ở bên trong các quầy hàng cao lấp cả ngực:
- Xem bảo chúng nó nấu thêm mấy nồi nước chè đặc. Đông khách
nhà quê lắm. Họ thích nước chè, chứ những thứ rượu Tây kia họ không thích đâu.
- Úi giời ơi! Chị vợ vội chu chéo lên. Để cho các bà hàng nước
ngoài kia. Mời cái bọn nhà quê cu li cu leo ấy vào làm gì cho thêm bẩn nhà.
- Nhìn cái nhà ngói ba gian mới làm, có hiên hẳn hoi lại ở
ngay phía trước cửa Đấu xảo, trên đường vào chùa Quán Sứ, anh chồng cười bảo vợ:
- Thế chồng bà ở đâu ra thế? Bố mẹ bà ở đâu ra thế? Hay cũng
là cu li cu leo nhà quê cả. Năng nhặt chặt bị, đông khách nào, ta chào khách ấy.
Hôm nay bọn thông ký phán họ ít đến.
Chị vợ đang lủng bủng một câu gì nghe chưa rõ, thì ở ngoài đã
có tiếng chân người bước vào và tiếng chào:
- À chào cai Soạn! Đứng thẩn thơ làm gì thế? Vô sự à?
Người ấy bước vào nhà trông thấy chị vợ, hỏi ngay:
- Chào chị! Đông khách không chị?
Anh chồng theo vào, kéo ghế mời khách ngồi bên một bàn nước.
Anh ngồi đối diện với khách và trả lời thay:
- Bà ấy đương giận tôi. Cãi nhau về khách đấy.
Anh chồng thuật lại cái ý định của mình vừa nhắc vợ. Ông
khách cười vui vẻ nói đế vào ngay:
- Chị đừng giận chị ạ. Anh ấy nói thật đấy. Mình là con nhà
làm ăn bì thế nào được với nhà buôn Tây, cà phê Tây. Cứ nước chè đặc bán cho
nhiều, ăn lãi mỗi người một đồng kẽm. Đông người thế này là thu được nhiều vô kể,
lại còn quà bán nữa chứ. Chị cho cả các em nó bầy xuống hè đường kia mà bán.
Đèn điện sáng như ban ngày thế này.
Ông khách nói oang oang vui vẻ. Ông gọi mời nhiều người vào
hàng làm cho trong nhà đông khách náo nhiệt nhộn nhịp hẳn lên. Bà chủ cũng vui
lây, hoạt bát nhanh lẹn đi lại chào khách bán hàng và thu tiền. Ông chủ rót rượu
cho khách, tiếp chuyện khách rất vui vẻ cởi mở. Khách đứng lên chào bạn đi ra.
Ông chủ tiễn chân theo ra đến hè đường. Hai người cùng dừng lại nhìn đám đông
người đi hội chợ. Kẻ đi lên người trở xuống huyên náo đông vui. Ông khách ngập
ngừng chưa muốn bước đi, rồi đắn đo, ghé vào tai bạn, nói nhỏ dè dặt:
- Này! Nhưng đông người thế kia, nếu có động rạn gì thì cứ
đóng cửa lại, đừng có chạy nhé. Cốt giữ nhà giữ mình.
- Đèn điện sáng trưng thế này, ông chủ nói, tỏ vẻ cười khách
cả lo. Phú-lít sen đầm 33 đi lại nườm nượp, lo gì.
- Ấy chỗ anh em, nhớ ơn anh chị tôi nói thế thôi! Biết đâu đấy.
Thấy mình nói lỡ khách vội nói chữa:
- Nhưng mà tôi hay nghĩ quẩn... lo xa, nói không đâu vào đâu.
Chứ sáng như ban ngày đến tài thánh như các ông thánh Trần, thánh Nguyễn hiện
lên biến hóa cũng chả làm gì được, cũng chả ai theo.
Ông khách cười khì khì, chào rồi bước thoắt xuống đường rồi
đi thẳng. Anh chủ đứng ở hiên trông theo ông khách mãi đến khi mất hút vào đám
đông và anh đăm đăm suy nghĩ: “Đúng là cái thằng cha này nghĩ lẩn thẩn rồi. Nó
đến hay lo trước, lo sau. Nó đánh bạn nối khố với mình mấy năm nay mình còn lạ
gì nó. Ngang bướng ba gai, ba tóe, nhưng lại cả nghĩ hay lo... À mà có lẽ có bạn
nào chực mưu mô làm gì chăng. Nên nó biết nó nghĩ chỗ thân tình nó nhắc nhủ
mình chưa biết chừng!”... “Có mà đồ thiêu thân, thấy ánh đèn thì bổ nhào vào chịu
chết. Chứ những người có sừng có mỏ như bọn ông Tán Thuật Bãi Sậy cũng còn tan
nữa là...” Chợt hắn lại nghĩ sang chiều khác: “Nhưng ngộ nhỡ xảy ra ở đây thật
thì sao? Thì mình tất sẽ bị hại lây!...” Tự nhiên hắn ta thấy thân phận mình gắn
chặt với khu Đấu xảo này. Một chuỗi đời gian lao vất vả bỗng hiện ra trước mặt
hắn đủ mọi chân tơ kẽ tóc. Từ một chàng trẻ nghèo hèn trộm cắp ở nông thôn người
ta quen gọi là thằng Oản, đến nay đã thành anh cai Soạn nên tấm nên đẫn có nhà
cửa đàng hoàng lắm kẻ ra người vào vị nể, trọng vọng. Ở hiền gặp lành. Đúng thế!
Anh nhớ lại rất rõ. Anh chính quê ở xã Vụ Bản, huyện Bình Lục, lúc ấy đã thuộc
về tỉnh Hà Nam. Tên là Trần Viết Soạn, nhà nghèo, mẹ già ốm, không đủ ăn, thường
đi trộm vặt, bới khoai bẻ ngô có khi bắt trộm cả gà. Nhưng bà con xóm làng cũng
thương không nỡ ghét bỏ. Có khi một hôm anh đào trộm khoai của một mụ chanh
chua nhất trong làng, mụ ta bắt được quả tang, mụ chu chéo làng nước, túm lấy đầu
anh dí xuống đất, vừa chửi vừa đánh, tức mình anh liền ghé răng cắn chặt gấu
váy mụ ta, đứng vụt lên, kéo tốc ngược váy mụ lên tới ngang bụng phơi cả bụng
dưới và cặp đùi trắng hếu. Mọi người quanh đấy chạy đến can, cười ồ cả lên. Mụ
xấu hổ buông anh ra chạy mất, vừa chạy vừa chửi cho đỡ bẽ. Anh cũng nhăn nhở cười
chữa thẹn, nghe những lời mắng mỏ của bà con rồi lẳng lặng lẩn chuồn. Lớn lên đủ
sức đi làm thuê, hàng ngày ai mượn làm công việc gì nặng nhọc, bẩn thỉu đến đâu
anh cũng làm. Anh cũng nghe thấy ở chung quanh vùng, người ta xôn xao bàn chuyện
nơi này nơi nọ đánh Tây. Nhưng chẳng ai rủ anh, vả anh cũng chẳng muốn theo ai
vì anh cho mình là ti tiện chả ai khiến mình nghĩ đến việc cao xa ấy. Rồi nghe
đồn cô Tư Hồng ở thành thị lấy Tây giàu có làm thầu khoán ở Hà Nội, thuê mượn
nhiều nhân công, anh quyết chí lần mò đến tận nơi, đem tình cùng quê quán với
người sang để nhờ vả tiến thân. Anh đã đến Hà Nội và khôn khéo gặp Tư Hồng. Cô
thương hại người cùng quê, đãi một bữa cơm, cho dăm đồng bạc, rồi biên mấy chữ
cho anh tự cầm đến sở Lục lộ xin làm cu li, vì lúc ấy đã thôi không làm thầu
khoán. Trần Viết Soạn được nhận làm cu li xe đất lấp hồ mở khu Đấu xảo, tiền
công mỗi ngày một hào hai. Anh vui vẻ nhận việc làm chăm chỉ, những lúc nghỉ
anh cặm cụi cầm que vạch xuống đất học chữ quốc ngữ, tập viết chữ số, cứ vạch vạch
xóa xóa và hễ gặp Tây su-ba-dăng thì lại xòe tay ra hiệu học tiếng Tây bồi. Làm
được mấy tháng, anh gặp được bước may thứ nhất. Anh được su-ba-dăng cử ra đứng
bỏ thẻ đếm từng xe bò đất đổ xuống hồ, thay người bỏ thẻ trước có vẻ gian lậu.
Bước may thứ hai anh lấy được vợ. Anh ngủ trọ nhờ ở một bà hàng nước bán quà
bánh cho phu. Sớm tối đi về, anh giúp đỡ bà hàng mọi công việc. Tiền chắt bóp để
dành anh đều đem gửi bà. Thấy anh trẻ người đẹp nết và chí thú hai ông bà rất
ưng ý, liền gả con gái cho. Có việc làm, có gia đình, có tiền để dành, anh lại
khéo đối xử với bạn bè cùng làm, được nhiều người tin yêu, nên chỉ hơn một năm,
anh được sở Lục lộ cho làm cai đứng đầu coi một toán phu làm đất san nền, và dần
dần được giao trông cả công việc xây nhà cửa. Vận lên như nước nổi, trên quý,
dưới yêu, được sở Lục lộ bán rẻ cho nguyên vật liệu, rồi toàn phu phen ở
săng-chi-ê túm vào làm giúp luôn trong hai ngày chủ nhật, anh đã dựng nên được
một cái nhà ngói khang trang ở ngay ngã tư đường đông người đi lại này để mở cửa
hiệu bán hàng giải khát cho phu phen và khách qua đường. Anh đã nghiễm nhiên trở
thành một ông chủ nhỏ, một người có tiếng tăm ở khu Đấu xảo. Thấm thoắt chỉ
trong hai năm từ một anh cu li dốt nát nghèo hèn ở nhà quê mới ra, anh đã thành
một người khác hẳn, biết đọc chữ quốc ngữ, nói pa xí pa tú mấy câu tiếng Tây,
có địa vị, có quyền thế, được nhiều người trọng vọng. Gia đình, của cải và danh
giá của anh như gắn liền với khu Đấu xảo này. “Vậy mà ngộ nhỡ khu này rối loạn
bị tàn phá thì sao? Nhà nước có bị thiệt, nhưng chẳng thấm vào đâu. Còn mình...
thì, thì trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết, cơ nghiệp sẽ tan tành...”. Nghĩ đến
đấy, nhìn ra đám đông người xem hội đi lại ở ngoài đường, tự nhiên anh thấy
khang khác, anh liền tự nhủ lẩm bẩm thành tiếng:
- Phải bảo cho người ta đề phòng chứ. Tránh được lộn xộn. Lợi
cho tất cả mà chẳng hại đến ai. Ngờ vậy thì bảo vậy. Chẳng tố giác ai, có biết
ai, có biết gì đâu mà tố giác.
Nghĩ vậy, yên tĩnh và quả quyết, anh chạy vào nhà trong mặc
áo dài đội khăn lượt, rồi đi ra dặn vợ:
- Mình trông hàng đấy. Tôi chạy vào Hội chợ một lúc.
- Vào gì vào lắm vậy. Chị vợ nói ra vẻ gắt. Mê ai trong ấy?
- Trông nhà cẩn thận đấy. Tôi ra ngay.
Anh chạy thẳng vào Hội chợ. Anh là người trông coi xây dựng
và sửa chữa hàng ngày ở đây, nên các lính canh và nhân viên ban tổ chức đều
quen biết cả, anh qua cổng dễ dàng. Anh chạy vội vào bàn giấy ban tổ chức. Thấy
mấy ông Tây đang nói chuyện vui vẻ với Lê Nguyên Huy, Tổng đốc tỉnh Cầu Đơ, mà
là một ủy viên An Nam trong ban tổ chức, anh chạy vội vào chắp tay vái cúi đầu
nói: “Bông xòa me sừ” chào mọi người, rồi nói riêng với Lê Nguyên Huy:
- Khẩn cấp! Khẩn cấp! Ngoài kia đông dân quê lắm, mà có người
nói có động rạng.
Lê Nguyên Huy dịch thông ngôn cho mấy tên Tây nghe. Lão Phó đốc
lý, trưởng ban tổ chức liền nắm lấy tay Trần Viết Soạn kéo hắn gần sát và hỏi dồn.
Lê Nguyên Huy thông ngôn lại lời cai Soạn thuật người khách vào hàng căn dặn.
Tên Phó đốc lý hỏi:
- Người khách đâu? Tên là gì? Ở đâu?
- Bẩm quan lớn, cai Soạn đáp. Nó tên Điền. Phạm Quang Điền
cùng làm với tôi ở đây dạo trước. Nhưng nay ở đâu con không biết.
- Sao nó lại bảo anh? Sao không giữ nó lại?
- Tôi cũng không biết tại sao nó lại bảo tôi thế. Có lẽ nó có
chịu ơn tôi, nên nó bảo. Nó đi rồi tôi mới nghĩ ra.
Mấy người quay lại bàn với nhau. Phó đốc lý quay dây nói gọi
về Chánh đốc lý. Lão này báo ngay lên phủ Thống sứ và lên Trung tướng Bi-sô tổng
chỉ huy quân đội Đông Dương. Phó đốc lý bỏ dây nói xuống đứng lên đi ra bảo Lê Nguyên
Huy:
- Quan lớn nên về ngay Cầu Đơ bố phòng giới nghiêm. Tòa Đốc
lý đã điện về cho Công sứ rồi. Tòa Đốc lý sẽ đưa xe tu vin có đủ lính và súng đạn
đưa quan lớn về.
- Xin các quan lớn cho con được phép lui về. Cai Soạn nói.
- Không, không, anh phải ở đây, − tên Phó đốc lý nói.
- Bẩm quan lớn, con chưa báo cho vợ con biết, và con cũng muốn
được giữ nhà.
- Sẽ có lính đến canh ở nhà anh, không lo. À, vợ anh có biết
tên Điền và những đứa bạn của nó không?
- Dạ, bẩm quan lớn, có lẽ có ạ.
- Thế thì được, anh cứ ở đây. Nhà nước sẽ bảo vệ anh và gia
đình. Lê Nguyên Huy thông ngôn xong câu ấy, cai Soạn được đưa ngay sang ngồi
chơi ở trong buồng của bọn lính khố xanh, canh giữ Hội chợ. Một lúc sau, Lê
Nguyên Huy cũng ra cổng lên xe song mã cho phóng nước đại trở về dinh Tổng đốc
Cầu Đơ.
Ngoài phố, đèn vẫn sáng, người đi lại vẫn đông, hàng quán vẫn
tấp nập người ra vào. Phố lại đông thêm, vì có nhiều toán lính khố xanh, khố đỏ
vác súng đi ra các ngả. Những nơi quan trọng, những chỗ đầu mối giao thông đều
đã thấy lần lượt xuất hiện những đội lính đứng canh, có cả lính Tây đứng bên cạnh,
lưỡi lê sáng loáng, nòng súng đen ngòm. Những người dân thường trông thấy cảnh
lạ ấy nơm nớp lo sợ, dân phố kéo nhau về nhà. Tám giờ kém 15, đóng cửa Hội chợ.
Những người vào xem đã bị xua ra hết. Các ngả đường có lính đứng canh, dân
chúng bắt đầu bị hỏi thẻ. Những người có các thành phố được thả ra cho đi ngay.
Những dân quê có thẻ nội tịch được ghi lấy tên và hỏi qua về lý do đến thành phố,
trọ ở đâu, rồi cũng được thả. Những người không mang thẻ và những người có thẻ
ngoại tịch đều bị giữ lại đem ngay về sở Sen đầm và sở Cẩm để xét hỏi. Sau khi
khám xét một số người bị giữ ở Sen đầm người ta có thấy mang dao nhọn, dùi và
thừng, việc hỏi thẻ gắt gao hơn, bất luận là dân thành thị hay nông thôn đều bị
khám người tại chỗ cả đàn ông lẫn đàn bà. Lúc ấy là tám giờ rưỡi. Thành phố nơm
nớp như đang chờ đợi một tai họa gì kinh khủng. Tuy nhiên, phố xá vẫn yên tĩnh.
Đèn ngoài phố vẫn sáng rực, những phố xá được bật thêm đèn, vì người ta đã tắt
những ngọn đèn cực sáng ở trong các gian hàng. Nhà máy đèn Bờ Hồ được phái thêm
lính đến canh giữ. Kíp thợ làm đêm được thay thế. Những nhà hàng phố theo nhau
đóng cửa sớm. Người đi ra ngoài đường tỏa về các phố vợi dần.
Trong khi ấy ở thôn Thịnh Hào, ngoại ô, trong căn nhà nhỏ của
Đỗ Uẩn, Cử nhân Nhị Khê Lương Văn Can, người bạn đồng môn và đồng niên của chủ
nhân đến thăm bạn, đang nhỏ nhẹ nói với bạn nằm trên giường bệnh. Đỗ Uẩn hỏi khẽ:
- Họ định cử sự đêm nay thật à?
- Thật. Cử Can trả lời thong thả và chắc nịch. Cũng đến lúc
phải làm thôi. Hai mươi giấc tốt, hai mốt nửa đêm, hôm nay hăm ba tháng mười, đến
khuya giăng mới mọc. Trước lúc giăng mọc sẽ tắt điện, có người làm ở nhà đèn nhận
tắt hết điện và dẫn quân chiếm nhà đèn. Đèn tắt quân ta đã vào thành phố từ chập
tối, phối hợp với quân ở trong đánh chiếm các nơi. Nhân lúc Hội chợ đang vui
đông ta xuất kỳ bất ý, chúng nó chưa biết, tất nhiên là dễ...
- Nhưng có chắc không, tôi lo lắm.
- Đệ cũng không muốn làm vội, nên cũng run tay không dám trực
diện đi đánh sợ làm lỡ việc. Nhưng bà con đã cắt cử chu đáo lắm. Đêm nay cùng một
lúc ta đánh cả Hà Nội và Sơn Tây. Rồi các nơi Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định, Hà
Nam, Vĩnh Yên, đều đã có người, có quân lần lượt nổi lên.
- Những ai chỉ huy đánh vào Hà Nội đêm nay?
- Sư cụ chùa Hà Mỗ là Hữu quân chánh tướng kéo quân từ Thường
Tín lên. Đồ Mậu, ở Mậu Hòa, Tán tương quân vụ đánh Cầu Đơ và dẫn quân qua chợ Dừa
kéo vào. Tú Hanh Cổ Nhuế và Hộ lý Hoan vào thành. Đề Kiên Hộ lý của tiền quân
kéo quân qua Cầu Giấy. Lý Diễm Bồng Lai và Đề Hoành Trung Hiệp dẫn quân đợi tiếp
ứng ở Cầu Giấy. Tắt đèn là cùng hành động. Sắp sửa đến nơi rồi. Ta ngóng trông
ánh sáng.
Đỗ Uẩn trằn trọc trở mình rồi hỏi thêm:
- Sao không đợi đến giờ Tý? Vì đợi đến lúc ấy thì giăng lên
và Hội chợ vãn người. Mình phải trà trộn vào lúc đông người.
Cử Can thấy Đỗ Quang Cơ, con giai bạn, ngồi hầu cha gần đấy,
liền giục:
- Cháu ra ngoài sân đứng trông ánh sáng, hễ thấy tắt điện chạy
vào gọi chú. Chú ngồi đây, bố cần gì đã có chú.
Cậu thanh niên chạy ra ngoài một lúc lâu. Chợt có tiếng súng
nổ đì đẹt ở phía bắc, mà đèn điện vẫn sáng. Cậu chạy vội vào nói:
- Hình như có đánh nhau ở phía Hồ Tây. Còn đèn vẫn sáng.
Trong nhà, Cử Can im lặng lắng nghe. Một lúc, Đỗ Uẩn mới động
đậy có vẻ buồn bực, co chân đập tay, thở dài thốt ra tiếng:
- Hỏng rồi!
Cử Can cũng như sực tỉnh giục:
- Cháu cứ ra sân trông ánh điện, nghe ngóng xem sao!
Anh vừa chạy ra phía ngoài thì tiếng súng nổ càng dữ dội, tiếng
chiêng trống đổ hồi ngũ liên giục giã, báo động vang chuyển liên tiếp quanh phố
Hà Nội, tiếng nhân dân sợ hãi cuống cuồng kêu khóc văng vẳng vọng tới. Ở phía bắc,
chỗ có tiếng súng, một đám cháy to bốc lên sáng rực cả một góc giời. Anh lại chạy
vụt vào, nói to:
- Đốt đền Ngọc Hà rồi.
Trong nhà im lặng. Tiếng anh vọng to hẳn lên khiến anh hoảng
sợ, đứng sững lại, rồi rón rén đi vào, ngồi thụp xuống đất, bên giường bố.
Không một cử động. Cử Can ngồi ngay như bụt mọc trên ghế bành, mãi hồi lâu mới
buột ra một tiếng hỏi buồn nản:
- Điện không tắt?
- Vâng, vẫn sáng! Đỗ Cơ Quang đáp và vội giơ tay lên sờ trán
bố đang nằm cứng đờ trên giường. Anh sợ bố ngất đi. Nhưng thấy chân vẫn nóng,
ngực vẫn phập phồng đều đều, anh yên tâm ngồi xuống không dám hỏi, không dám
nói to. Chợt từ ngoài, ấm Vẽ hớt hải bước không vào, len lén ngồi xuống ghế bành
bên Cử Can, không nói không rằng. Ông bạn Nhị Khê ngẩng mặt lên hất hàm ra hiệu
hỏi, ấm Vẽ nói ấp úng ngập ngừng:
- Phá triệt hạ đồn Ngọc Hà rồi. Sạch sành sanh cả... Nhưng
bên ta cũng chết đến mấy chục. Mà bên nó, vợ chồng thằng quan ba thoát...
- Điện thành phố vẫn sáng? – Cử Can hỏi.
- Vâng, mà cũng không thấy gì khác, chỉ có chuông trống ngũ
liên.
- Hỏng cả! Cử Can thở dài.
Hai người cùng ngồi thừ im lặng. Ở ngoài cổng có tiếng xao
xao tiếng người nhà giữ chặt cổng không cho nhiều người chực chen theo vào. Một
người xồng xộc bước vụt vào nhà. Ông đồ Vũ Thạch. Ông nói bô bô phá sự im lặng
nặng nề.
- Sao câm lặng như bãi tha ma thế này? Quan Phủ chết rồi à.
Tôi thấy chúng nó hỏi thẻ, tôi vội về lấy cái đèn hoa kỳ và đem mấy thang thuốc
ra đi qua hẳn cửa Đấu xảo mà nó cho đi đấy. Thế mới xuống được đến đây, không
thì đã về cái nhà pha, hỏng mẹ nó rồi! Thế là công cốc, lộ ngay từ tối. Tây nó
vây nó khám. Lại có đứa làm nên quan to phen này!
- Trên phố không sao cả à?
- Chả suy suyển đến cái chân lông của thằng Tây!
Còn người mình thì chật ních cả. Sở Cẩm, Sen đầm, sở Liêm
phóng, Mật thám và cả trại lính nữa. Rõ chán quá. Thế mà còn khôn nữa chứ. Nó nắm
được thóp rồi, nó cứ khám xét từ từ, không làm xôn xao náo động đến khi có tiếng
súng nổ, nó cũng chỉ cho khua chiêng trống báo cấp ở chung quanh vòng ngoại
thành phố thôi. Bọn Tây buôn các nước ở hai nhà ô-ten thấy lạ hỏi. Nó bảo là
dân quê ngoại thành vui reo hò mừng hội chợ đấy. Thành ra pháo của mình hóa
pháo tịt chứ không được là pháo xì. Một mảy tiếng vang cũng chẳng có, xịt. Ha
ha.
- Thế mà cũng bô bô cười cợt được! Ấm Vẽ gắt.
- Không cười thì mếu à? Đồ Vũ Thạch nói sẵng. Chết đến nơi rồi
còn sợ gì nữa. Còn ông anh này nữa liệu có làm sao không?
Ông Đồ vừa nói, vừa ngồi sấn vào giường đặt tay lên sờ sườn bạn
ốm đang nằm nghiêng quay mặt vào vách im lặng từ lâu. Đỗ Uẩn nặng nhọc giở
mình, quay mặt ra nói rề rà rên rỉ:
- Chẳng sao cả?
Rồi bỗng ông trợn mắt lên trừng trừng bắt tay vẫy ra xua đuổi
nói cố gắng như quát:
- Đi đi! Tránh đi! Chết cả nút, giữ lấy thân!
Ông nghẹn thở như đứt hơi, nằm sóng sượt. Mọi người im lặng
đăm đăm nhìn ông một lúc lâu. Sau cùng ấm Vẽ mới lên tiếng nhỏ và đanh:
- Tôi và bác Đồ là người ở đây, chúng tôi sẽ có cách, còn anh
Nhị Khê nên đi ngay đi. Ra lối Nam Đồng tắt sang An Phú đi về Tó, Hữu, thung thổ
của anh mà ẩn tránh ít lâu. Bây giờ chúng nó còn bận rộn chưa kịp sục sạo đến
ngoại ô. Sáng ra lại khó đi lọt.
Lương Văn Can còn ngần ngừ chưa muốn đi. Đồ Vũ Thạch cũng
nói:
- Tôn huynh Nhị Khê nên đi. Lần này là nó giết tất, giết hơn
năm Sửu trước. Chúng tôi già rồi, đương đầu với bọn nó, có chết cũng đến tuổi,
mà cũng còn đấu lý cho chúng nó hoảng. Còn tôn huynh ít tuổi. Cần tiềm tàng để
đợi lúc dùng đến chứ. Liệu ở đây thế nào được.
Ngồi thừ tần ngần một lúc, bất đắc dĩ Lương Văn Can phải đứng
lên đến bên giường chống tay xuống nói trong tiếng khóc với Đỗ Uẩn.
- Nghe anh, em đi đây nhé. Mong anh chóng mạnh.
Đỗ Uẩn hơi gật đầu, giơ bàn tay khẳng khiu vin vào vai bạn.
Lương Văn Can sụt sịt khóc vái lạy bạn rồi chào ấm Vẽ và đồ Vũ Thạch. Ông này
đi theo tiễn chân ra đến ngoài, khẽ ghé tai bảo bạn:
- Tôn huynh cứ yên chí mà đi, mọi việc ở đây đã có chúng tôi.
Ông Đồ trở vào thì giăng mọc đã lên cao. Ánh sáng đầy sân,
ông đẩy cửa bước vào. Ánh giăng ùa vào theo. Đỗ Uẩn ngoảnh mặt trông ra, nói
ngay:
- Mở to cho ánh giăng vào. Ta nhìn ánh sáng của giời... Thế
là... là.. ánh sáng trên kia vẫn... của nó.
Ông chép miệng thở dài nói tiếp:
- Rõ.. khổ.. hỏng.. tức.. chết... Quang! Đi thay quần áo cho
bố.
Đỗ Cơ Quang khóc nức nở nói:
- Xin cha đừng nói gở.
- Cấm khóc! Đỗ Uẩn nói nhỏ nhưng rõ ràng rắn rỏi. Con giai phải
cứng cỏi chứ... Ta đã chết đâu? Thay áo cho ta thanh khiết ta đón ánh mặt giời
chứ. Chỉ còn ánh giăng và ánh mặt trời là của ta. Ta phải quý.
Ông đập tay chân như giục. Anh con giai chạy đi gọi người nhà
đem mọi thứ quần áo mới đến. Hai ông bạn và con giai đỡ ông ngồi dậy cởi quần
áo, lau nước nóng, vẩy nước thơm ngũ vị, mặc quần áo mới cho ông, rồi giải chiếu
mới ngay ngắn, đặt ông nằm xuống. Ông vẫy tay đuổi tất cả người nhà ra ngoài, nằm
duỗi chân thẳng, có vẻ tỉnh táo, cất tiếng đều đều rành rọt dặn con:
- Có hai bác là bậc phụ chấp của con đây chứng cho. Bố nói
cho con rõ. Lần này nữa, khắp nơi đều cùng rục rịch nổi lên cả. Thế mà cũng lại
hỏng là tại cái đạo của nhà nho ta đã suy hỏng rồi không còn thể đem dùng làm
phương lược được nữa. Ta phải tìm cách khác. Đại phàm mọi việc trên đời sinh
hay diệt đều do lòng người và phải biết thời.
Phương sách ở về phía ấy mà đi tìm ra được cách mới đánh Tây
cứu nước thì bố chết vẫn vui lòng thỏa chí. Việc chi mà khóc. Bố còn đợi ánh mặt
trời tức là bố vẫn còn hy vọng, vẫn tin và đợi sự thắng lợi của cả nước sau
này.
Ông im bặt nằm trơ, mắt vẫn sáng nhìn con và hai bạn. Miệng
như mỉm cười không nói. Cả gian phòng im lặng như tờ. Mọi người không dám nói
gì, sợ xúc phạm đến giờ phút thiêng liêng. Cho mãi đến khi ngoài trời tươi sáng
ấm áp, ánh mặt trời mùa đông rực rỡ và dịu hiền xiên qua khe cửa như dải lụa
vàng, ông khẽ vẫy tay ra hiệu mở cửa. Cánh cửa mở rộng ập vào vách, ánh nắng
tràn đầy tỏa sáng khắp cả. Ông mở to mắt nhìn ánh nắng, rồi trợn ngược mắt chớp
chớp nhắm nghiền lại nằm yên nghỉ như hồn đã bay theo ánh sáng rước đi. Cái
bông nõn, ấm Vẽ vừa khẽ đặt lên mũi ông chỉ hơi thoi thóp rung rinh. Đỗ Cơ
Quang gọi thất thanh. Hai ông bạn vừa gọi, vừa xoa vuốt tay, vuốt mặt. Lúc ấy tất
cả mọi người trong gia đình ngóng đợi hồi hộp... chạy ùa vào như cố sức muốn
giành giật người thân yêu ra khỏi tay thần chết. Nhưng tất cả đều vô hiệu.
23-11-1966
Chú thích
A
An Trung: làng An Trung ở khoảng gần phố Hàng Điếu và khu Nhà
Hỏa ngày nay.
B
Bắc Hà: tên gọi vùng Chúa Trịnh ngự trị để phân biệt với Nam
Hà là vùng Chúa Nguyễn ngự trị, Bắc Hà gồm từ vùng Đèo Ngang trở ra Bắc, ở đây
dùng để trỏ vùng Bắc Bộ, tức là từ Ninh Bình trở ra Bắc.
Bảo Linh (thôn): nay là khu vực phố Hàng Tre.
Bích Câu: làng Bích Câu ngày nay ở khu vực phía sau sân vận động
Hàng Đẫy.
Bích Lưu: tên làng nay ở vào khoảng phố Thợ Nhuộm gặp phố Hai
Bà Trưng, vườn hoa Mê Linh.
Bảo Khánh: tên làng nay ở khu vực phố Bảo Khánh ở phía tây bắc
Hồ Gươm.
Bến Trường Tín: bến đò này ở vào phía nam Hà Nội, khoảng phía
bắc đến Phà Đen ngày nay.
Báo Thiên: tháp Báo Thiên này xây từ đời Lý cùng với chùa Báo
Thiên, đến thời Pháp sang, đã trải qua tám trăm năm. Chỗ tháp Báo Thiên cũ, nay
là nơi dựng Nhà Thờ Lớn.
Bôn-be (phố): phố Tràng Tiền ngày nay.
C
Cổ Tân: làng này ở cạnh làng Cựu Lâu, nay là khu vực cạnh Nhà
Hát Lớn và khu vực viện Bảo tàng cách mạng.
Cựu Lâu: làng Cựu Lâu ở vào vùng Ngũ Long Lâu cũ nay là phố
Tràng Tiền.
Cổ Am: làng Cổ Am thuộc huyện Vĩnh Bảo, thuộc Hải Dương.
Cổ Vu: tên phường, nay là ở khoảng phố Hàng Nón và khúc giữa
phố Hàng Gai.
Cổ Nhuế: tên làng, ở huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội.
Chân Cầm: làng này ở vào khoảng phố Chân Cầm ngày nay.
Cót: tức làng An Quyết, nay thuộc xã An Hòa ở sát phía tây
nam ô Cầu Giấy.
Cống Vị, Vạn Phúc: các địa điểm và làng thuộc huyện Từ Liêm
sát phía tây Hà Nội.
Cách Bi: tên làng (Vật Cách và Cổ Bi) ở huyện Gia Lâm.
Cửa Đại Nam quốc: tức là Ô Tây Long cũ, ở gần Nhà Hát Lớn hiện
nay.
Cổ Ngư (đường): con đường ngăn hồ Trúc Bạch với Hồ Tây. Nay
là đường Thanh Niên.
D
Du Lâm: làng này thuộc huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội hiện
nay.
Dịch Vọng: tức làng Vòng ở huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội
ngày nay.
Dũng Thọ: tên làng, nay là khu vực ngõ Hàng Giầy và phố Hài
Tượng.
Dinh thự của Kinh lược sứ: dinh này ở vào khu vực Thư viện Quốc
Gia và phía sau Bộ Công nghiệp nặng, thuộc phố Tràng Thi ngày nay.
Đông Ngạc: tức làng Vẽ, ở ven sông Hồng, thuộc huyện Từ Liêm,
ngoại thành Hà Nội ngày nay.
Đảo Hòn Ngọc: hòn đảo phía bắc Hồ Gươm, trên có xây đền Ngọc
Sơn.
Đông Thọ: tổng Đông Thọ, thuộc huyện Thọ Xương bao gồm nhiều
làng và phường, nay là khu vực từ phố Hàng Buồm đến phố Tràng Tiền.
Đồng Nhân: tên làng ở phía nam Hà Nội cũ, ven sông Hồng, nay
đã lở. Đền Bà Trưng ở làng đó, đã di vào làng Hương Viên ở sau khu tập thể Nguyễn
Công Trứ ngày nay.
Đông Ngàn: một huyện thuộc phủ Từ Sơn ngày xưa. Phủ Từ Sơn gồm
nhiều huyện. Nhưng thời Pháp thuộc huyện Đông Ngàn cũ được đổi thành phủ Từ Sơn
tức huyện Từ Sơn sau này. Gần đây huyện Từ Sơn lại sát nhập với huyện Tiên Du
thành huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc.
Đông Thành (chợ): chợ này ở phường Đông Thành cũ, nay là khoảng
phố Hàng Phèn, Hàng Vải.
Đông Tân (bến) phường Hà Khẩu: bến Đông Tân hay Đông Hà. Ở cạnh
cửa sông Tô Lịch, khoảng chợ Gạo ngày nay, ở phía đông phường Hà Khẩu (nay là
khu vực phố Hàng Buồm) Ô Đông Hà ở đấy.
Đông Hà (phường): đừng lẫn với Ô Đông Hà. Phường Đông Hà ở
vào khoảng phố Cầu Gỗ và đầu phố Hàng Gai ngày nay.
Đồn Thủy: khu vực Đồn Thủy cũ của ta, về sau nhà Nguyễn dâng
cho thực dân Pháp làm nhượng địa, bao gồm khu vực ven sông Hồng, từ phía sau
Nhà Hát Lớn, Viện Bảo tàng lịch sử kéo dài đến Bệnh viện Hữu nghị Việt – Xô
ngày nay.
Đông Thành (phường): phường Đông Thành gồm khu vực các phố
Hàng Đồng, Hàng Vải, Hàng Bút, Hàng Phèn, phố Thuốc Bắc, phố Bát Sứ.
Đồng Xuân: tổng Đồng Xuân bao gồm khu vực bắc khu phố Hoàn Kiếm
ngày nay.
Đền Bà Chúa: tức đền Bà Kiệu, ở phố Đinh Tiên Hoàng, phía
đông Hồ Gươm.
Đê La Thành: con đê này bây giờ đã thành đường nhựa đi từ Thủ
Lệ (chỗ đền Voi Phục) qua Giảng Võ đến Ô Chợ Dừa. Ở gần Giảng Võ có tấm bia ghi
ngày và nơi tử trận của Francis Garnier (tấm bia mới đổ nát vài năm gần đây).
Đền Thần Hỏa: hoặc miếu Thần Hỏa ở số nhà 30 phố Hàng Điếu
ngày nay.
Đấu Xảo (phố): phố Trường Thi ngày nay. Năm 1887, thực dân
Pháp mở hội Đấu xảo ở khu vực ấy. (Đấu xảo nghĩa là thi khéo).
Đông Thành (thôn): ở vào khoảng các phố Hàng Phèn, Hàng Vải,
Hàng Bút, Hàng Bát Sứ ngày nay.
G
Gia Ngư: thôn này ở vào khoảng phố Gia Ngư ngày nay, đi từ phố
Hàng Giầy ra phố Hàng Đào.
Giảng Võ, Ngọc Khánh, Thủ Lệ: các thôn này ở phía đông và
phía đông nam Ô Cầu Giấy.
Gò Nam Giao: Nam Giao là nơi nhà vua xưa làm lễ tế trời. Nam
Giao thường đặt ở phía nam kinh đô. Đời Lê, vua đóng đô ở Hà Nội. Đàn Nam Giao
đặt ở phía nam kinh thành, thuộc khu vực phố Lê Đại Hành và Đại Cồ Việt của Hà
Nội hiện nay.
Gia Quất, Thượng Cát: làng thuộc huyện Gia Lâm.
Giáp Bát: làng Giáp Bát thuộc huyện Thanh Trì ở phía nam Hà Nội.
Gambetta (phố): đó là tên mà ngày trước thực dân Pháp đặt cho
phố Trần Hưng Đạo ngày nay.
H
Hòa ước Nhâm Tuất: hòa ước 1862 bọn phong kiến nhà Nguyễn bán
đứng Nam kỳ cho Pháp.
Hồ Thủy Quân: tức là hồ Hữu Vọng. Hồ Hoàn Kiếm trước kia gồm
hai phần: hồ Tả vọng tức Hồ Gươm ngày nay, và hồ Hữu vọng kéo dài đến tận phố
Hàng Chuối bây giờ. Tên Hồ Thủy Quân trước đây dùng để chỉ cả hai phần, về sau
quen dùng để chỉ hồ Hữu vọng. Hồ này ngày nay đã bị lấp.
Hương Mặc (làng): tức làng Me, nay thuộc huyện Tiên Sơn, Hà Bắc.
Hồ Thái Cực: hồ này ngày nay đã bị lấp. Địa điểm cũ của hồ là
ở khu vực Hàng Đào, từ phố Trung Yên ăn thông ra phố Hàng Bạc.
Hà Khẩu: xem chú thích Đông Tân (bến).
Hà Thanh (làng): đừng lẫn với làng Thanh Hà. Làng này ở vào
khoảng nay là phố Cầu Gỗ và phố Hàng Dầu, phía đông bắc Hồ Gươm.
Hòa Phong (tháp): tháp này là một bộ phận của chùa Quan Thượng.
Chùa đã mất nhưng tháp vẫn còn. Hiện nay tháp ở ven Hồ Gươm, cạnh chỗ tàu điện
đỗ, gần chợ hàng hoa, ngã tư Tràng Tiền.
Hoàng Mai (làng): ở phía dưới chợ Mơ.
Hương Canh: tên làng ở huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phú ngày nay.
Hòe Nhai (chùa): chùa Hòe Nhai ở phố Hàng Than ngày nay. Người
ta còn hay gọi là chùa Hòa Giai.
Hàm Long: ở địa điểm phố Hàm Long ngày nay.
Hạ Yên Quyết: tức làng Cót nay là xã Yên Hòa, ở tây nam Cầu
Giấy.
Hàng Cỏ (phố): tên quen dùng để chỉ khúc phố từ nhà ga Hà Nội
(tức ga Hàng Cỏ) đến chỗ cắt ngang phố Quang Trung ngày nay.
Huyện Thọ: tức huyện Thọ Xương.
K
Khánh Thụy (làng): ở khu vực ngõ Hàng Hành ngày nay.
Khán Xuân (phường): nay là khu vực phía nam vườn Bách Thảo, gần
Hồ Tây.
Kim Cổ (phường): nay là khu vực phố Hàng Mành.
Khắc Niệm: tức làng Ném thuộc huyện Quế Võ tỉnh Hà Bắc ngày
nay.
Kim Liên: tên làng thuộc tổng Kim Liên ở phía nam Hà Nội.
Khóa Quý Dậu: tức năm 1873.
Kim Lủ: tức làng Lủ thuộc huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội,
ở phía tây nam Ngã Tư Sở.
Kim Mã: làng Kim Mã ở phía tây Hà Nội, cuối phố Hàng Đẫy.
Kính Thiên: điện này xây dựng từ đời nhà Lê ở trong thành Hà
Nội cũ, sau bị thực dân Pháp phá hủy, chỉ còn bực thềm có rồng đá. Hiện ở trong
doanh trại quân đội nhân dân, thuộc khu vực phố Ba Đình, còn di tích.
Khoa thi Tý Ngọ Mão Dậu: ngày xưa cứ ba năm thi hương một lần
vào các năm Tý (Sửu, Dần) Mão (Thìn, Tỵ) Ngọ (Mùi, Thân) Dậu.
Khoa Giáp Tý: khoa thi năm 1864, thi ở Hà Nội.
Khoa Bính Tý: tức khoa thi năm 1876.
Khu trường Tây: tức khu nhượng địa Đồn Thủy.
Khu Nhà chung: khu này ở vào phố Nhà Chung hiện nay.
Khu Công-sét-si-ông: tức là khu nhượng địa Đồn Thủy.
Khoa giáp Tý trường Hà: xem khoa Giáp Tý.
L
Linh Đường: làng này ở phía tây nam Hà Nội thuộc huyện Thanh
Trì.
La Cả, La Khê: hai làng này ở phía tây và tây nam thị xã Hà
Đông ngày nay.
Liên Trì (chùa): còn gọi là chùa Quan Thượng hay chùa Báo Ân.
Gọi như thế vì chùa do Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Đăng Giai (quan Thượng Giai) xây
vào năm 1848. Chùa Liên Trì sau bị thực dân Pháp phá đi để xây dựng các cơ quan
của chính quyền thực dân. Địa điểm của chùa này là khu vực phố Đinh Lễ, Bộ Nội
vụ, Nhà khách của Nhà nước, sở Bưu Điện Hà Nội và trụ sở Ủy ban quốc tế.
Láng: tức An Lãng và Cót tức An Quyết là hai làng ở huyện Từ
Liêm phía nam và tây nam Ô Cầu Giấy.
Linh Quang (chùa): tức chùa Bà Đá, ở phố Nhà Thờ ngày nay.
M
Mọc: tên gọi chung của nhiều làng phía nam Ngã Tư Sở (xem chữ
Nhân Mục).
Minh Giám, Yên Hòa: thôn Minh Giám ở vào khoảng giữa phố Hàng
Bột và phố Khâm Thiên ngày nay.
Miếu Thần Hỏa: ở số nhà 30 phố Hàng Điếu ngày nay.
Mã Vĩ: ngày nay là phố Mã Mây.
N
Nghi Tàm: tên làng ở phía đông Hồ Tây, thuộc huyện Từ Liêm.
Nam Ngư: tên làng, nay là khu vực phố Nam Ngư gần Cửa Nam.
Nhân Mục: làng Mọc ở phía tây nam Hà Nội, gần Ngã tư sở.
Nam Phố: làng Nam Phố ở ngoài bờ sông phía ngoài Hàng Bè, khoảng
từ phố Hàng Thùng ngày nay ra đến bãi sông Hồng.
Ném: xem nghĩa chữ Khắc Niệm.
Ngã tư Vũ Thạch: ngày nay là chỗ gặp nhau giữa phố Bà Triệu,
phố Hàng Khay, phố Lê Thái Tổ và phố Tràng Thi.
Ngã ba Bảo Khánh: ở gần nhà Thủy Tạ ven tây bắc Hồ Gươm.
Ngã ba Tự Tháp: ở gần câu lạc bộ Thống Nhất ngày nay.
Nghĩa địa Tây: nghĩa địa này ở đầu phố Quan Thánh đối diện với
sườn bên trái đền Trấn Võ, xế chỗ tàu điện đỗ ngày nay. Hiện nay mồ mả đã đem
đi nơi khác và nơi đó trở thành một sân vận động nhỏ. Đừng lẫn với nghĩa địa
Tây ở nơi mà ngày nay là khu tập thể Nguyễn Công Trứ.
Nha Kinh lược: trụ sở nha Kinh lược ở khu vực Thư viện Quốc
Gia và Bộ Công Nghiệp nặng, phố Trường Thi ngày nay.
Ngạc Nhi (phố): tức phố Francis Garnier, ngày nay là phố Đinh
Tiên Hoàng chạy từ ngã tư Tràng Tiền, Hàng Khay, Hàng Bài, men suốt phía đông Hồ
Gươm, lên đến ngã tư Hàng Gai, Hàng Đào, Cầu Gỗ.
Nhà trạm Hà Trung: ở vào khu vực phố Hà Trung ngày nay (gần
chợ Hàng Da).
Nhị Khê: làng Nhị Khê ở huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây ngày
nay.
Nghĩa Lâu: làng Nghĩa Lâu ở vào khoảng đầu phố Tràng Tiền và
Đinh Tiên Hoàng ngày nay.
Ngũ long lâu: nay là phố Tràng Tiền (gồm Nghĩa Lâu và Cựu
Lâu).
Ô
Ô Ưu Nghĩa: một cửa ô ở phía đông Hà Nội, nay là ở vào khoảng
phố Hàng Chĩnh và phố Hàng Muối.
Ô Yên Hậu: cửa ô phía đông bắc Hà Nội, nay là khoảng giữa đầu
cầu Long Biên và bến xe Bến Nứa.
Ô Quan Chưởng: ô cửa này ở phố Ô Quan Chưởng ngày nay. Hiện
còn cổng xây gạch.
Ô Đông Hà: xem chữ Đông Tân.
Ô Long Tường: ô này còn gọi là Tây Long hay Tây Luông ở vào
quãng sau Nhà Hát Lớn bây giờ.
Ô Hàng Cau: cửa ô ở phía đông Hà Nội, đầu phố Hàng Bè (Hàng
Bè còn gọi là Hàng Cau).
Ô Hàng Mắm: ở đầu phố Hàng Mắm ngày nay.
Ô Chợ Dừa: cửa ô phía đông nam Hà Nội, ở cuối phố Hàng Bột và
phố Khâm Thiên.
Ô Tây Luông: xem Ô Long trường.
P
Phúc Lâm: tên làng thuộc tổng Kim Liên, huyện Thọ Xương, tỉnh
Hà Nội cũ, nay là khu vực Nhà Máy Rượu, cạnh khu tập thể Nguyễn Công Trứ, phố
Nguyễn Công Trứ.
Phụ Khánh: làng này ở phía nam thành Thăng Long thời xưa. Nay
là khu vực các phố Hỏa Lò, Dã Tượng.
Phủ Phụng Thiên: tên phủ đặt từ đời Lê, bao gồm hai huyện Thọ
Xương và Vĩnh Thuận, tức là gồm chủ yếu bốn khu phố Hà Nội ngày nay.
Phủ Hoài: tức phủ Hoài Đức.
Phúc Tô: thôn Phúc Tô ngày nay là vùng phía tây nam Hồ Gươm,
khoảng từ cửa tòa báo Thủ Đô đến đồn Công an ngã tư Bà Triệu – Lê Thái Tổ.
Phúc Kiến (phố): tên gọi trước kia của phố Lãn Ông ngày nay.
Có tên như vậy vì phố này có đông Hoa Kiều quê ở tỉnh Phúc Kiến.
Phúc Lâm (đình): đình làng Phúc Lâm. Làng Phúc Lâm này không
phải là làng của bác Hai Phúc (nhân vật của tiểu thuyết) thuộc tổng Kim Liên.
Làng Phúc Lâm này thuộc tổng Phúc Lâm ở ven sông Nhị, vào khoảng bãi Phúc Xá,
Phúc Tân ngày nay.
Phất Lộc: ngõ Phất Lộc ngày nay ở sát bờ sông Hồng, đi từ
Hàng Mắm đến phố Nguyễn Hữu Huân.
Phúc Châu (phố): tức là phố Lý Thái Tổ ngày nay.
Q
Quảng Văn đình: đình này ở vào khu vườn hoa Cửa Nam ngày nay.
S
Sông Tô: tức là sông Tô Lịch. Sông Tô Lịch thời ấy chảy qua
làng Thanh Hà ở khoảng phố Hàng Chiếu, ngày nay, đổ ra sông Nhị ở phía ngoài Ô
Quan Chưởng, cạnh chợ Gạo.
Sở tuần Thanh Hà: tức Sở tuần ty ở làng Thanh Hà trên sông Tô
Lịch, làng Thanh Hà, ở vào đầu phố Hàng Chiếu và Ô Quan Chưởng ngày nay.
T
Tượng Bôn-be: tượng tên thực dân Paul Bert ở vườn hoa Bôn-be,
nay là vườn hoa Chí Linh. Tượng đã bị phá sau ngày 9-3-1945 sau khi thực dân
Pháp bị lật đổ.
Tư đệ ở Thái Hà: nhà riêng của Hoàng Cao Khải ở ấp Thái Hà.
Thái Cam (chùa): chùa này ở giữa phố Hàng Gà ngày nay.
Trấn Ba Đình: tức là đình trấn sóng. Đình này ở sân sau đền
Ngọc Sơn, nhìn xuống phía nam Hồ Gươm.
Thịnh Hào: làng Thịnh Hào thuộc khu phố Đống Đa, ở gần Ô Chợ
Dừa.
Trèm (Chèm), Vẽ: hai làng ở phía bắc Hà Nội, ven sông Hồng.
Thủ Lệ: làng này ở sát ngã tư Cầu Giấy, phía tây Hà Nội.
Thái Cực (phường): phường Thái Cực ở sau phố Hàng Đào, khoảng
phố Trung Yên sang đầu phố Hàng Bạc ngày nay.
Tân Khai: phố Tân Khai ở phía đông thành Hà Nội cũ. Nay là
khoảng phố Hàng Gà.
Thịnh Liệt: tức làng Sét ở huyện Thanh Trì.
Thuận Mỹ: làng này ở vào khoảng các phố Hàng Quạt, Hàng Hòm,
Hàng Nón ngày nay.
Trường thi: nơi tổ chức các kỳ thi hương, nay là phố Trường
Thi.
Trừng Thanh: làng Trừng Thanh ở vào khoảng phố Hàng Tre ngày
nay.
Tố Tịch: nghĩa là chiếu trắng. Xóm này ở vào khoảng ngày nay
là phố Tố Tịch.
Thanh Nhàn: làng này ở dưới Ô Đống Mác ven sông Nhị, phía nam
Hà Nội.
Thất Thi: làng Thất Thi ở ngoài bãi ven sông Nhị Hà.
Trang Lâu: làng Trang Lâu ở vào khoảng phố Hàng Dầu và Lò Sũ
hiện nay.
Trường Tín: tên làng ở ven sông Nhị Hà, phía nam Hà Nội.
Trâu Khê: Trâu Khê là tên làng thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải
Dương. Người làng đó làm nghề hàng bạc, sau ra ở thành phố Hàng Bạc, Hà Nội và
dựng đình thờ thành Hoàng làng Trâu Khê ở đây. Đình này còn gọi là đền Nội Miếu
ở ngõ Nội Miếu (ngõ này ở giữa phố Hàng Bạc, góc phố Hàng Giầy và phố Lương Ngọc
Quyến).
Thượng Đình - Nhân Mục: tên gọi các làng Mọc ở phía tây nam
Hà Nội.
Tam Sơn: một làng thuộc huyện Đông Ngàn (xem chữ Đông Ngàn).
Tân Mùi khoa sỹ: Tiến sỹ khoa thi năm Tân Mùi (1871).
Tả Vọng đình: đình Tả Vọng, chúa Trịnh xây trên hòn đảo nay
là đảo Tháp Rùa.
Tây Long Tân, Tây Luông, Ô Long Trường: ba tên này dùng để trỏ
cùng một địa điểm nay là mạn phía sau Nhà Hát Lớn.
Tả Vọng (làng): ở khu vực Hàng Dầu.
Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Hoài Đức: hai huyện Thọ Xương và Vĩnh
Thuận sang đời nhà Nguyễn đã phụ thuộc vào phủ Hoài Đức sau khi bãi bỏ phủ Phụng
Thiên.
Tự Tháp: tên làng ở phía tây Hồ Gươm. Nay là Ngã ba Nhà thờ
và Hàng Trống, Câu lạc bộ Thống Nhất.
Tô Mộc (đình): đình này ở thôn Phúc Tô – xem chữ Phúc Tô.
Tây Mỗ: tên làng, thuộc huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội.
Tiên Thị (phường): ở vào khoảng nay là phố Nhà Chung và một
phần phố Lý Quốc Sư.
Thanh Hà (bến đò đình Thanh Hà): làng Thanh Hà ở vào khoảng
Hàng Chiếu và Ô Quan Chưởng. Sông Tô Lịch chảy qua đấy đổ ra sông Hồng. Đình
Thanh Hà ngày nay vẫn còn ở số nhà 77 phố Hàng Chiếu.
U
Ưu Nghĩa: xem Ô Ưu Nghĩa.
V
Vẽ: tức làng Đông Ngạc, ở ven sông Hồng, thuộc huyện Từ Liêm,
ngoại thành Hà Nội.
Vũ Thạch: tên làng, nay là ở khu vực từ phố Hàng Khay đến phố
Trần Hưng Đạo, giữa phố Hàng Bài và phố Bà Triệu.
Vọng Đức: làng này ở vào khoảng nay là sau rạp chiếu bóng
Tháng 8.
Voi Phục: đền Voi Phục ở làng Thủ Lệ, ngã tư Ô Cầu Giấy.
Vĩnh Trù: thôn Vĩnh Trù ở vào địa điểm phố Hàng Rươi hiện
nay.
Vân Hồ: làng này ở phía nam Hà Nội ngày nay, phía sau là cuối
phố Bà Triệu, phía mặt là công viên Thống Nhất.
Vườn hoa Tự Do: nay là vườn hoa Chí Linh (trông ra Hồ Gươm).
Vũ Thạch (phố): tức khúc phố Bà Triệu từ đầu Hàng Khay đến
ngã tư Trần Hưng Đạo và phố Bà Triệu.
X
Xuân Yên (đền): đền này nay vẫn còn ở phố Lương Văn Can.
Xuân Yên (làng): làng này ở vào khoảng phố Hàng Quạt ngày
nay.
Xuân Tảo: làng thuộc huyện Từ Liêm phía bắc Hồ Tây.
Xóm Bình Khang: danh từ ngày trước quen dùng để trỏ xóm cô đầu,
kỹ nữ. Ở đây không phải tên riêng của một địa điểm nào nhất định của Hà Nội cũ.
Y
Yên Thái: tên làng thuộc huyện Thọ Xương cũ nay là khu vực
các phố Yên Thái, Hàng Hòm, Hàng Mành: Đừng lẫn với Yên Thái ở ven phía tây bắc
Hồ Tây.
Yên Trường (làng): nay là khu vực từ trụ sở Ủy ban Hành chính
thành phố Hà Nội đến sau đền Bà Triệu phía đông Hồ Gươm.
Yên Ninh: ngày nay ở phố Yên Ninh, dốc Hàng Than.
Yên Hậu: xem Ô Yên Hậu.
Yên Thành và Yên Định: hai làng này ở vào giữa phố Hàng Than,
Hàng Bún và Quan Thánh.
Chú thích:
1. |
Lễ lớn do các quan thay mặt triều đình cử hành. |
2. |
Họp các quan lớn, nhỏ bàn việc. |
3. |
Tràn quý tỵ là uống tha hồ. Rượu nhiều như nước lụt năm Quý
Tỵ. |
4. |
Dân lấy ăn làm đầu. |
Bar: tiệm nhảy kiêm bán rượu lẻ. |
|
6. |
Dancing: tiếng Anh, cũng có nghĩa là nơi để khiêu vũ. |
7. |
Ai cũng là người như thế cả. |
8. |
Cây lương: một cuộn the có thể may mấy áo - (áo lương, áo
the). |
9. |
Văn chương là của chung. |
10. |
Cùng dự một khoa thi. |
11. |
Quán thờ đức Huyền thiên tức là thánh Trấn Vũ. Cũng gọi là
đền Trấn Vũ. |
12. |
Gia Long thứ tư. |
13. |
Minh Mạng thứ mười sáu. |
14. |
Monsieur, trois fois pioche, trois fois gagner: tiếng Pháp
nói sai mẹo, nghĩa là: thưa ngài, ba lần cuốc, ba lần thắng lợi. |
15. |
Moi aller. |
16. |
Réveiller. |
17. |
Coucher. |
18. |
Trois. |
19. |
Quatre. |
20. |
Cinq. |
21. |
Salon. |
22. |
La chambre. |
23. |
Cho người được tiền thưởng. |
24. |
Hay Hường lô. (BT) |
25. |
Bonjour ma soeur: chào bà chị. |
26. |
Gỗ lát trên đường tàu (traverse). |
Giấy phép. |
|
Cube: thước khối. |
|
Contrat: giao kèo. |
|
Bureau: văn phòng. |
|
Hôtel: khách sạn. |
|
Danse: nhẩy. Dame: con gái. (Tiếng đầm được Việt hóa, gọi
chung phụ nữ Pháp). |
|
Cảnh sát (policé), sen đầm. (BT) |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét