Ba sinh hương lửa 1
Khu rừng lau 1
KHAI TỪ
Bên nhân vật chính - Cô Miên - còn những nhân vật khác chẳng
kém phần quan trọng, vì tầm tư tưởng cùng nếp sống của họ góp phần không nhỏ
vào câu chuyện. Để các bạn đỡ bỡ ngỡ, ngay từ buổi đầu tác giả xin giới thiệu họ
cùng các bạn theo thứ bậc huynh trưởng:
Khiết và Khóa |
sinh năm |
1913 |
Lãng |
sinh năm |
1918 |
Hãng |
sinh năm |
1921 |
Hiền |
sinh năm |
1922 |
Tân |
sinh năm |
1923 |
Kha |
sinh năm |
1924 |
Miên |
sinh năm |
1926 |
Căn cứ vào thứ bậc tuổi tác trên chúng ta thấy Khiết, Khóa và
Lãng ở vào cùng thế hệ, tạm mệnh danh là thế hệ Nguyễn Thái Học vì họ có trực
tiếp tham gia hoặc gián tiếp chịu ảnh hưởng phong trào phục quốc của Việt Nam
Quốc Dân Đảng. Còn năm người kia: Hãng, Hiền, Tân, Kha, Miên thuộc thế hệ sau,
trưởng thành trong cuộc khói lửa toàn dân kháng pháp 1946- 1954
Kể ra theo lề lối nghiêm chỉnh xưa của các cụ, quan niệm khắt
khe về hai chữ hiếu đễ, trên kính dưới nhường, thì hai thế hệ trên khó mà có sự
gần gũi thân mật như vậy. Bậc đàn anh xét nét, nghiêm cẩn; lũ đàn em khép nép,
ngưỡng mộ, vâng lời. ở đây tuy đôi bên chênh lệch tới mười ba tuổi( người cao
niên nhất là Khiết sinh năm 1913, người trẻ nhất là Miên, 1926), nhưng nhờ cả
hai thế hệ đã thắm nhuần văn hóa Tây phương nên sự gặp gỡ và thông cảm của họ
có phần dễ dàng.
Chao ôi, họ thân quý nhau như Lưu Bình, Dương Lễ, đùa cợt
nhau như lũ hề yêu đòi- ngay cả những khi thất bại đau đớn nhất.
Theo thứ tự tuổi tác thì Khiếg(1913) đứng đầu, theo quyền ưu
tiên của nhân vật thì Miên(1926) đứng đầu, nhưng câu chuyện không khởi đầu bằng
Khiết, chẳng bằng Miên mà bằng Tân(1923).
Nào xin mời các bạn bắt đầu vào thề giới của tác giả. Nói là
thế giới của tác già, kỳ thực là thế giới của chúng ta, nóng hổi thực tại đất
nước.
CHƯƠNG I
THỜI THƠ ẤU
I
Quê Tân- Vũ Đình Tân- ở làng Lại Vũ thuộc huyện Từ Sơn( Bắc
Ninh), ngay bên tả ngạn song Đuống, cách cầu Đuống chừng hơn một cây số, vào những
ngày đẹp trời làng Lại Vũ vẫn có thể nghe thấy tiếng còi mười giờ vẳng lên âm u
từ Hà Nội.
Lại Vũ!- Nghe các cụ truyền lại thì sỡ dĩ đặt tên làng như thế
vì thoạt kỳ thùy chỉ có hai họ Lai, Vũ đến sinh cơ lập nghiệp tại đây rồi về
sau mới có thêm những họ Nguyễn, Hoàng, Quản, Doãn,…
Lên năm, Tân theo học vỡ lòng ông giáo Hanh ở xóm chợ. Sang
năm lên sáu, Tân đã được ông giáo dạy tiếng Tây, chỉ học Vocabulaire thôi.
Ông giáo chép những tiếng mots đó ở quyển sách in bên Tây. Trên bàn ông có quyển
tự điển Pháp Việt rất còm cõi của vị cha cổ nào đó người Pháp. Nhiều khi gặp phải
tiếng khó, ông giáo Hanh tra quyển từ điển không có, ông cau mày gắt, nửa như tự
gắt, nửa như gắt với cuốn tự điển:
- Thế là cái đếch gì, thôi bỏ!
Sau khi lũ tiểu tử đã theo lệnh ông hí hoáy gạch bỏ tiếng mot
không có trong tự điển đó, ông tiếp tục giảng sang chữ khác. Ông đọc chữ Pháp
trước, học trò đọc theo; ông đọc nghĩa chữ Việt sau, học trò cũng đọc theo.
Có một trường hợp hãn hữu về nghĩa chữ mà Tân còn nhớ đến
nay: Theo ông Hanh thì café là cà- phê, le café là nước cà- phê; thé là chè, le
thé là nước chè.
Còn một điểm nữa mà vì ngày đó Tân còn nhỏ quá không nhớ rõ,
là ông giáo Hanh khi đề ngày tháng thì chỉ những ngày đầu tháng ông mới chịu
ghi thêm quán từ le; tỉ dụ: Lundi le 3 Janvier 19… Từ mùng mười trở đi ông bỏ
quán từ le viện cớ rằng bên chữ nho- ông giáo thông cả chữ Nho - các cụ cũng chỉ
dùng sơ cho những ngày đầu tháng thôi... tỉ dụ: Duy Hoàng nam Bảo Đại, Quý
ùng sơ?
Học chữ Tây ông giáo Hanh được nửa năm thì thầy xin cho Tân
vào học lớp năm trường làng.
Vào những năm lên sáu, lên bảy, lên tám này, trí nhớ của Tân
ngày nay chỉ còn thôi thóp giữ được chút ít hình bóng kỷ niệm. Một điệu hát nữa
Tây nữa Ta đượm tính chất bỡn cợt ngây ngô:
Mình ơi có đi bờ hồ
Ăn kem… ăn kem kẹo dừa, ăn bánh ga- tô.
Một điệu hát khác phổ biến hơn, đó là bài Tạ riễu người Tàu:
Ngộ bên Tàu là ngộ bên Tàu
Ngộ bên là ngộ mới sang
Sang Nam Việt bán buôn làm giàu.
Kèm theo bài Tạ này là tiếng đàn tàu, chiếc đàn tròn như đàn
nguyệt nhưng cán ngắn; cũng vì giây ngắn hơn đàn nguyệt nên tiếng đàn trong và
cao nghe lanh chang hời hợt như tiếng cười tiếng nói của đứa trẻ mới lớn chứ
không thâm trầm chín chắn như tiếng đàn nguyệt.
Tiếng đàn bầu của chú Phan hàng xóm sao mà buồn! Chú bị tật
khoằm chân từ thưở bé, cha mất sớm, mẹ nghèo. Phải chăng vì thế chú chọn đàn độc
huyền để phổ tâm tình u buồn của chú vào đấy? Khi chú ngồi xếp vòng tròn gầy đờn
thì không ai trông thấy tật chân của chú. Thụy, người con gái xinh xinh ở ngay
phía sau nhà chú, đêm đêm xay lúa sảy gạo, khuya nghe tiếng đàn bầu của chú mà
thổn thức cõi lòng.
Đàn bầu ai gẫy thì nghe
Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu.
Làm sao mà Thụy không nghe cho được? Tiếng đàn trong đêm
khuya thanh vắng như rót vào tai. Thụy xinh như cánh hoa đào. Trong vườn nhà Thụy
kế cận nhà Phan có cây đào, về cuối đông hoa nở đón xuân. Khi nghe tiếng đàn của
Phan, Thụy buồn như cánh đào đọng ướt trong một ngày cuối đông có mưa phùn. Thụy
thành thím Phan rồi suốt đời Thụy tận tụy hầu hạ Phan, hình ảnh Phan với Thụy
là hình ảnh người ngồi xếp vòng tròn gảy đàn bầu chứ chẳng phải hình ảnh Phan
lúc đứng dậy đi tập tễnh.
Trong số những bạn của thầy, Tân còn nhớ có ba bác: bác Ký,
bác Từ và bác Thạc.
Thứ nhất là bác Ký, người phong tình, quần chúc bâu áo vải
phin trắng nõn, bao giờ hai túi cũng nặng trĩu thư tình. Mỗi lần viết xong một
bức thư mới, bác thường mang lại đọc bàn với thầy để sửa gọt từng câu chữ trước
khi gửi đi, sau mỗi câu đắc ý hai người lại vỗ đùi cười ha hả. Mở đầu bức thư
nào cũng bằng ba tiếng rất sang trọng: Thưa quý nương… rồi tiếp đến những câu
văn biền ngẫu tề chỉnh thiết tha. Lăm ly nhất là sau mỗi tiếng: "Ôi!"
lại có một câu tập Kiều. Tỷ như:
Thưa quý nương,
Từ ngày gặp quý nương tôi những đêm năm canh trằn trọc, ngày
sáu khắc mơ màng ruột tằm trăm mối, đòi đoạn vò tơ!
Ôi!
Người đâu gặp làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Bỗng bác Ký bỏ làng đi đâu xa, hình như về một huyện nào thuộc
tỉnh Hà Đông, rồi có tin bác Ký dính líu vào vụ cướp(!) và bị mang ra xử tại
tòa Đại hình, rồi bị đầy đi Côn Đảo. Kỷ niệm thì đứt nối, đầu óc Tân hồi đó lại
non nớt quá nên sau này mọi khi ôn lại kỷ niệm ngày nhỏ, nhớ đến bác Ký, Tân vẫn
không hiểu duyên cớ gì đã khiến bác Ký chuyển hóa từ chàng thanh niên phong
tình quần áo trắng nõn sang một tên ăn cướp rồi bị tù đầy. Sau cùng Tân ngờ rằng
bác có tham gia hội kín, rồi hoặc bị tay sai của thực dân vu khống, hoặc người
làng sợ vào săng-tan hỏa lò nên phải nói chệch ra như vậy.
Thứ hai tới bác Tử người cao, khuôn mặt xương xương, nước da
trắng, râu rậm khi cạo nhẵn còn xanh om, trông bác có vẻ đẹp phong lưu sáng sủa
của người trí thức ngày nay. Mà theo sự xét đoán của cậu bé Tân thì bác xứng
đáng là trí thức lắm vì bác viết chữ nho rất đẹp, đọc truyện Kiều, Cung
Oán, Chính Phụ, Bần- nữ- thán toàn bản chữ nôm. Câu chuyện của bác bao giờ
cũng vui, một số nhân vật đặc biệt của làng đều được bác ghi nhận và tả lại bằng
những nét điển hình đượm tính chất hài hước. Quả thực bác phải thông minh lắm mới
có được những nhận xét tinh tế như vậy. Câu chuyện của bác hấp dẫn đến nỗi mỗi
khi thấy bác đến chơi là Tân quanh quẩn ở nhà. Nhiều câu chuyện vui của bác nói
với thầy, Tân không hiểu nghĩa nhưng thấy cả hai người cất tiếng cười khoái trá
thì Tân cũng vui lây. Tân thích tiếng cười của bác Tử, tiếng cười sang sảng,
ranh rách, lanh lảnh đượm chút kiêu kỳ của người hiểu đời, vẫn thích sống giữa
đám nhân gian nhưng vẫn khinh thế ngạo vật. Hằng năm cứ vào gần tết mẹ lại mua
một chục tờ giấy đỏ khổ rộng có đốm trăng kim, thầy mời bác Thử đến viết lại
hoành phi câu đối thay những cái cũ. Bức hoành phi khung gỗ treo ở chính gian
giữa có ba chữ " ĐỨC LƯU QUANG" nét chữ đại tự rắn rỏi
nhưng cũng cao và hơi gầy như bác Tử. Đôi câu đối dán hai bên cột tre ( dạo đó
nhà Tân còn là nhà lá) nét chữ bay bướm hơn:
Phúc sinh phú quý bình an thịnh
Lộc tiến vinh hoan sự nghiệp hưng.
Mùa xuân năm Kỷ Tỵ( 1929) ( Tân lên bảy) thầy mẹ khởi công
xây nhà gạch. Năm trước- năm Mậu Thìn- mẹ đã cho xây bề và lát sân, cả làng ai
cũng khen mẹ buôn bán đảm. Ba chữ triện lớ "KỶ TỴ XUÂN" đắp bằng xi
măng ở phía trước tường hoa trán mái cũng là do bác Tử viết rồi căn lên giấy dầu
làm mẫu cho thợ nề đắp.
Vật đổi sao dời… bác Tử nghiện, rồi nghèo xơ xác, rồi ôi, thực
chẳng ai ngờ, bác đi ăn trộm. Bác không dám đến chơi với thầy nữa, thỉnh thoảng
Tân gặp bác ngoài đường, bác gầy quá, râu ria xồm xoàm, quần áo mỏng tanh rách
mướp, dáng đi tơi tả, hèn mọn, đầu hơi cúi xuống để không nhìn ai và để mặc ai
nhìn mình. Theo dư luận người làng thì sở dĩ bác " xuống" thế vì cụ
thân sinh ra bác ngày xưa là một nhà nho bất đắc chí xoay ra gá bạc làm bao
nhiêu người làng thất cơ lỡ vận. Vì sự tích ông bố "chứa thổ đổ hồ"
như vậy nên nay bác chịu nghiệp báo "đời cha ăn mặn đời con khát nước."
Về sau này khi Tân đã lớn, các con bác Tử cũng đều trở thành và làm ăn khá giả
để phụng dưỡng bác tử tế. Đã có dạo bác cai được thuốc nghiện và người làng lại
được dịp nghe giọng nói hài nước của bác chế người nãy riễu người nọ, nhưng thực
tình giọng nói cũng như tiếng cười của bác không còn được sang sảng như xưa: Tuổi
trẻ đã mất, sự hồn nhiên đã mất, bác còn đeo nặng những lỗi lầm của dĩ vãng!
Cai được mấy năm rồi bác hút trở lại, bác mở một bàn đèn để thường xuyên tiếp
các khách hút tài tử người làng hoặc người làm tổng, bác tiêm hầu lấy sái. Câu
chuyện quanh bàn đèn của bác nghe đâu dí dỏm lắm và luôn luôn rộn tiếng cười
nhưng ở đây là cả một thế giới khác, Tân chưa hề đặt chân tới để chứng kiến bao
giờ.
Sau cùng là bác Thạc bác hiền nhất trong ba người. Bác có cửa
hàng bán kẹo, bác rất yêu Tân và ngày bé Tân được bác "đắp" cho - lời
mẹ- biết bao là kẹo bánh. Trong những cuộc họp mặt đông đủ cả bốn người (thầy
và ba bác) câu chuyện của bác Thạc chắc chẳng có gì là đặc sắc cho nên tới nay
khi nhớ đến bác, Tân không hề giữ được lời nào. Cùng một tai họa làm bác phá sản:
nghiện! Vốn hiền lành nên vẻ tang thương của bác khi đã mắc nghiện trông càng
hèn mọn. Tân còn nhớ một ngày đầu năm kia, bác mặc chiếc áo the thâm màu nước
dưa đã sờn vai và rách khuỷu, bác đội chiếc khăn xếp chữ nhân bạc phếch cũ nát,
bác lễ trước bàn thờ nhà Tân và khi ra về mẹ biếu bác một dộp (hai chiếc) bánh
chưng. Tân buồn mãi vì thương bác. Về sau bác thành một người nhớ hết những
ngày giỗ của người làng bất kỳ thân sơ; ngày đó bác mang vàng hương lại lễ rồi
điềm nhiên ngồi đợi gia chủ mời vào mâm ăn. Báccòn sống mãi, lay lắt như vậy
cho đến năm đói- 1945- thì chết.
Mỗi độ xuân về, gia đình Tân vẫn được vui xuân bằng
"bánh chưng xanh thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ" thì ba bác đã lần lượt
rơi vào cảnh tàn tạ nào tù đày nào nghiện ngập, Tân còn nhớ mang máng cảnh mẹ
ngày đó lo sốt vó khi hay tin đến lượt bác Thạc nghiện, vì mẹ sợ thầy rồi cũng
đến đua anh đua em mà rơi vào cảnh truy lạc nối.
Vụ án cụ Phan Bội Châu với những lời nói đanh thép nồng nàn
tinh thần ái quốc của cụ trước toàn án có thể để lại tiếng vang trong trí óc
non nớt của Tân. Mãi tới sau này cụ đã mất ở Huế rồi, Tân còn được nghe lời nói
thiết tha của một bậc vào hàng cha chú: " Bình sinh tôi chỉ ao ứơc thực hiện
được hai điều, một là vào Huế yết kiến cụ Phan, hai là uống rượu thi ca với Tản
Đà." Trong khoảng thời gian này tiếng hát véo von tại làng thường là những
câu ngâm ái quốc tỳ như bài "Tiễn Chân Anh Khoá" của Á Nam Trần Tuấn
Khải:
Anh Khóa ơi, mẹ tiễn chân anh ra tận bên tầu,
Hai tay em đỡ cái khăn giầu em lấy đưa anh;
Tay cầm giầu giọt lệ chạy quanh,
Anh xơi một miếng cho bõ chút tình em nhớ thương.
Anh Khóa ơi, cái bước công danh ngoắt ngoéo đủ trăm đường.
Anh đi một bước, tấm gan vàng em sẻ làm đôi;
Kìa người ta bè bạn vui cười,
Anh em ta thương nhớ, chỉ ngậm ngùi mà đứng trông nhau.
Anh Khóa ơi, còi tu tu tầu sắp kéo cầu.
Đường trần em sắp sửa gánh sầu từ đây.
Trông anh, em chẳng nở dời tay.
Nỗi riêng em dặn câu này, anh chớ có quên.
Anh Khóa ơi, kìa người ta lắm bạc nhiều tiền,
Anh em ta phận kém duyên hèn mới phải long đong.
Một mình anh nay Bắc mai Đông,
Lấy ai trò chuyện cho khuây lòng lúc sớm khuya
………………………………….
Hoặc một vài câu trong bài " Hải ngoại huyết thư" của
Phan Bội Châu:
Ngày mong mỏi vía con ấm tử
Tối vui chơi mấy đứa hầy non.
Trang hoàng gác tía lầu son:
Đã hao mạch nước lại mòn xương dân.
Thời Tân còn nhỏ không bao giờ mẹ ôm Tân ru ngủ vì Tân có tật
hễ cứ nghe tiếng ru là khóc thổn thức. Tân thấy tiếng hát ru đó ảo não quá! Thường
thường đích thân thầy phải ôm Tân rồi vừa đưa võng vừa đập vào cột dọa
đánh" con mèo này, con chuột này," ấy thế thì Tân ngủ. Khi Tân đã
thiu thiu thầy mới ngâm thơ( chứ không hát ru). Bài thầy vẩn ngâm mãi sau này
Tân mới hay đó là một bài thơ ái quốc tiêu cự của Trần Tế Xương, bài "Nhớ
bạn":
Ta nhớ người xa cách núi sông,
Người xa xa có nhớ ta không?
Sao đương vui vẻ ra buồn bã,
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng.
Lúc nhớ nhớ cùng trong mộng tưởng
Khi riêng, riêng cả đến tình chung.
Tương tư chẳng lọ là mưa gió
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng.
Sự hoạt động của liệt sĩ Nguyễn Thái Hoc và việc ông cùng mười
hai đồng chí lên đoạn đầu đài Yên Bái có để lại một tiếng vang hoang đường.
Ngày đó Tân, cậu bé lên tám, có nghe xì xào dư luận giữa đám người lớn: Nguyễn
Thái Học có phép tành hình nên Tây không bắt được; rõ ràng một lần mật thám Tây
đã cùm được tay ông nhốt vào ngục, rồi hôm sau vào kiểm soát thì chỉ còn thấy
giây xích không; lại có tin đồn một lần Nguyễn Thái Học bị bắt, ông nói mấy lời
cho tên cai nguc nghe, tên này ứa nước mắt khóc rồi ông tàng hình mất. vẫn dư
luận trên kết luận: " Cho nên nhất định Nguyễn Thái Học chưa chết, việc
Tây xử trảm mười ba liệt sĩ tuy có nhưng nhất định sau đó Nguyễn Thái Học tái
sinh.
II
Sau vụ mười ba liệt sĩ lên đoạn đầu đài (1930) " sinh hoạt
văn nghệ" của làng nghèo nàn lắm, tiếng ngâm sa mạc những bài ca ái quốc
không còn. Chỉ còn tiếng đàn bầu ngày một não nuột của chú Phan, tiếng nhị réo
rắt của bá Phấn và đặc biệt tiếng sáo vô cùng thê lương của câụ Vinh cùng tiếng
hồ chao ôi là âm thầm của anh Pháo, đến mỗi người làng đã phải nức nở khen bằng
câu thành ngữ: " Hồ Pháo, sáo Vinh." Về văn chương chỉ còn những câu
đối vặt, những bài văn tế sáo, những bài vè chế riễu nông cạn. Cụ Tỉnh cùng xóm
có tậu một khoảng vườn hoang. Cụ tậu khoảng vườn này để làm dành phần cho đứa
con thứ hai. Đối diện với nhà cụ chỉ cách có con đường xóm, sát với thửa vườn
đó là nhà Hương Chỉ, một người trạc ngoài tứ tuần, ương gàn và tham lam. Mỗi lần
rào lại nhà, Hương chỉ lại lấn sang vườn cụ Tỉnh một ít. Cụ Tỉnh bèn viết hai vế
câu đối chữ nôm lên tường đối diện với cửa ngõ nhà Hương Chỉ để bày tõ quan niệm
triết lý nhân sinh của cụ đối với việc Hương Chỉ lấn đất.
Đất hỡi trời ơi sống tham đất
Giời soi đất xét chết giả trời.
Mỗi khi làng có ông già bà cả nằm xuống, người nhà thường đến
xin bài văn tế tại nhà cụ huyện Từ- cụ đậu cử nhân rồi được bổ nhậm ngay tại
huyện nhà- Từ Sơn. Tại chức chưa đầy một năm thì cụ cố mất, cụ treo ẩn từ quan
về quê thọ tang và từ đấy thôi không ra làm quan nữa. Cụ có ba phòng: Cụ bà Cả
hiền lành sinh được mấy cậu ấm cô chiêu cũng hiền lành. Cụ bà Hai đẹp đài các,
biết làm thơ, cháu một vị Tam Nguyên, làng vẫn mệnh danh là " bà huyện
Thanh Quan" sinh hạ được một trai một gái đều đẹp và thông minh. Bà Ba trẻ
hơn cả, dáng cao lớn, không đẹp nhưng chắc chắn hồi trẻ phải gợi tình lắm; mồm
mép bẻo lẻo người làng gọi đùa là " bà lắm chuyện", bà nổi tiếng khéo
chiều chồng, một điều bẩm quan lớn, hai điều bẩm quan lớn. Bác Tử cười ranh
rách nói riễu: " Thấy quan lớn tiểu tiện chắc bà vội vã chạy lại xin nâng
bàn thấm cho khỏi rớt!" Một hôm khác có đông đủ thầy và ba bác, nhân
thoáng thấy bóng bà qua ngõ, bác Ký nói: "Kìa bà lắm chuyện vừa đi
qua!" bác Tử ứng khẩu đọc bốn câu vè:
Chuyện ông huyện để g…ra,
Bà huyện tưởng quả cà vác bát lại xin.
Ông huyện vừa quát vừa rên:
Rằng đây cái g... của min đó mà.
Bác Thạc cười gập người lại, mặt đỏ như mào gà. Bác hiền lành
ít nói nhưng khi thích chí thì cười thực tình.
Người làng vẫn đến xin bài văn quan huyện từ vì cụ là người
trung hậu, bài văn chỉ cả ngợi công đức và bày tỏ lòng hiếu của con mong được đền
ơn sinh thành( như chính cụ đã treo gương) chứ không hề dùng văn chương để móc
máy gia chủ như mấy ông đồ bất đắc chỉ. Tân có ông cậu rất ham đi ả đào Khâm
Thiên hay Ngã Tư Sở. Ông ngoại Tân mất đúng vào ngày ba mươi tết, phải quàn
quan ván đợi đến mồng sáu tết mới phát tang mà làm ma linh đình. Ông cậu Tân có
nhờ ông đồ Ba (gọi vậy vì ông đỗ tam trường) làm cho một đôi câu đối khóc cha.
Vế đầu ông viết đại ý: hơn một ngày không ở kém một ngày không đi nên cha mất
vào ngày tất niên; vế thứ hai ông hạ rất thâm thúy, Tân còn nhớ nguyên vẹn vế
đó:
Xót xa lòng hiếu tử, đêm xuân trằn trọc trống năm canh.
Vừa có nghĩa tả lòng xót xa thương cha của người con hiếu, vừa
có nghĩa là: " người con hiếu" đó đã trằn trọc không ngủ được, sốt ruột
vì tiếng trống (trống cô đầu) rộn rã suốt đêm xuân.
Đáo để nhất trong số các nhà nho bất đắt chí phải kể đến ông
tú Mền (ông đỗ ba lần tú tài), không ai dám đến xin ông câu đối hay hoành phi.
Ông hay chữ và nguy hiểm đến có thể xếp cùng hạng với các bậc bất hủ Trạng Quỳnh,
Tú Xuất ngày xưa; tỷ như chỉ cần cho hai chữ hoành phi "Đại Lại" là đủ
đánh gia chủ một đòn chí tử về tinh thần; rõ ràng hai chữ hoành phi đó là ca ngợi
họ Lại lớn nhưng lại ngầm móc ông tổ ba đời nhà họ Lại làm nghề lái lợn (Đại Lại=
Lớn Lại= Lái Lợn). người hiền nhất trong số các nhà nho làng Lại Vũ là ông Đồ
Thinh, ông chỉ thích kim Dịch và xem tử vi, ông hiếm hoi có một cậu con trai
tên là Chủy mà số tử vi lại không được tốt lắm cho nên ông hơi buồn. Chúng ta sẽ
có dịp gặp lại ông đồ Thinh và Chủy sau này.
Ấy đại loại không khí văn nghệ làng Lại Vũ từ sau vụ mười ba
liệt sĩ lên máy chém ở Yên Báy để nợ nước là như vậy:" Tiếng sáo véo von,
tiếng nhị réo rắt, tiếng hò tiếng đàn bầu buồn thảm, câu đối, thơ, vè nói móc
nhau…"
III
Để bế mạc cho một thời thơ ấu tưởng phải kể thêm một kỷ niệm
sau này của Tân. Ngày đó vào trung tuần tháng ba năm Tân Mùi- 1931- Tân bước
sang tuổi lên chín, chùa làng đúc chuông xong mở hội khánh thành. Khách thập
phương về đông như kiến cỏ vì câu nói của miệng thời đó:" Thành Hoàng đình
Tông, Đức Ông Chùa Lại." ( Thành Hoàng đinh làng Tông Chỉ và đức ông chùa
làng Lại Vũ có tiếng là thiêng). Nhân dịp hội chùa này mẹ có mở một ngôi hành
giải khát ở ngay gian giữa tam quan chùa, ngày đầu mẹ cho Tân uống một thứ nước
trong vắt khi mở ra rót vào ly có sùi bọt, uống vào thấy tê tê đầu lưỡi, mẹ gọi
là nước chanh. Buổi tối có hát tuồng, dân làng dựng rạp giữa bãi cỏ phía bên
tam quan. Ông lý trưởng làng Lại Vũ là một tay sành tuồng, đáng trống chầu hay,
đích thân đi tới làng Phùng cách làng nhà chừng hai mươi cây số đón bằng được
Phùng về. Trùm phường Phùng là kép Chí có tài đặc biệt đóng Quan Công. Tân nghe
nói mỗi lần đóng Quan Công, y phải xin âm dương trước. Rồi suốt buổi tuồng,
trong buồng trò, trên bàn thờ mới thiết lập có treo tranh Quan Công, phải hương
nến thường xuyên. Để anh linh đức Thánh Quan khỏi nổi giận, trùm Chí phải hóa
trang khác đi chút ít với khuôn mặt của Ngài xưa bằng cách kẻ thêm mấy đường
đen trên khoảng mặt đã bôi son đỏ.
Tối hôm đó Tân được xem tích Hoa Dung tiểu lộ. Danh bất hư
truyền! Kép Chí người cao lớn, giọng vàng sang sảng đóng vai Quan Công thật tuyệt.
Trước khi Quan Công ra, tất cả khán giả có tới hàng trăm người ngồi hoặc đứng
im phăng phắc nghe thấy tiếng tim hồi hộp của mình cùng tiếng muỗi vo ve trên
ngọn cỏ gần đấy. Thoạt là một hồi trống chiêng rãi rệ rồi đỗ rồn. Rồi màn trò
hé lên vừa đủ cho Quan Cọng ra, mặt đỏ râu dài, trước trán giản dị là một vòng
đai lấp lánh để giữ vuông khăn xanh trùm đầu và tỏa xuống che kín khoảng lưng
vai. Mỗi bước khoan thai đĩnh đạc của Quan Công là tiếng trống kèm theo tiếng
chiêng điểm nhịp tưởng chừng trái đất rung chuyển dưới bước chân cương nghị của
Ngài. Không khí uy nghi như thiện đình, đai mũ và áo bào của Ngài như đè nặng lẹn
cảm giác của khán giả. Tiếng chuông trống vừa dứt tiếng Ngài thét, giọng vàng
sang sảng ngân dài. Tiếng thét dứt, Ngài hất chòm râu về phía sau đôi mắt long
lanh một niềm uy vũ bất khuất…
Rồi Ngài bắt sống được Tào Tháo ở đường hẻm Hoa Dung. Trông
thằng Tào Tháo quỳ mọp dưới chân Ngài đến là hèn, nó kể lể công nó thù phụng
Ngài thủa thất thủ Hạ Bì trước đây, ba ngày yến nhỏ năm ngày yến lớn, biếu Ngài
ngựa xích thố, lại may túi gấm đựng râu Ngài…
Rồi Ngài nhân từ tha Tào Tháo….
Rồi Ngài bị Gia Cát Lượng đòi chiếu theo quân pháp chém đầu.
Rồi Trương Phi kể lể cùng đại ca Lưu Huyền Đức công nằm gai nếm
mật của Ngài trải gian nguy từ thưở đào viên kết nghĩa…
Rồi Ngài được tha…
Tân sung sướng thở phào khoan khoái tưởng chừng chính Tân vừa
thoát khỏi từ hình. Một tình cảm kính mến uy nghi tràn lên dâng ngập hồn thơ ấu
của Tân.
Tấn tuồng trang nghiêm hết, sang phần chèo cổ hý lộng để kết
thúc đêm vui. Đó là một tấn chèo riễu anh nhà quê ngớ ngẩn bị lừa dối, rồi cả
hai đem nhau đến cửa quan. Ông quan liêm chính này cho đào hố gần gốc câu mai cổ
thụ, một người lần xuống đó, ộng qua vờ tra tấn gốc cây khiến cây thốt lên lời
tố cáo người vợ…
Anh chồng thật là một tên hề đại tài. Anh có hai râu mép quặp
xuống (vẽ bằng mực). Anh quấn khăn đầu rìu, áo cài lẫn khuyết, quần ống thấp ống
cao, anh cất lời nói là khán giả cười rộ, khi anh bị vợ lừa dối cất tiếng than,
khán giả tuy thương mà vẫn không nín được cười.
Tan chèo, trên đường về Thầy nói với Mẹ:
- Thằng cha trùm Chí đóng giỏi thật, vai nào cũng tuyệt.
- Vai anh chồng ai đống đấy hở Thầy?- Tân hỏi.
- Trùm Chí chứ còn ai!- Thầy đáp.
Ủa trùm Chí- Tân nghĩ- Trùm Chí vừa đóng vai Quan Công mặt đỏ
râu dài uy nghi chính khi?! Không có lẽ, không thể được, làm sao có thể thế được?!
Một người vừa mới một giờ trước đây cất từng bước đĩnh đạc có tiếng chuông tiếng
trống điểm nhịp làm lóng lánh những trân châu trên đai mũ trên áo bào, tiếng
thét uy vũ làm run sợ Tào A Man, thanh long đao múa lên làm địch quân chạy rạt,
kể cả khi Ngài đứng yên giữ thế vuốt râu địch quân cũng không dám lại gần, cũng
người đó làm sao có thể chỉ một giờ sau thành anh hề râu quặc đen như nhọ nồi
run cầm cập dưới sự xỉa xói của cô vợ đanh ác, nhớn nhác khi đến cửa công. Không
thể được! Làm sao có thể thế được! Tân thao thức, Tân băn khoăn, Tân chợp ngủ
nhưng lòng vẫn chối nhận việc trùm Chí vừa đóng vai Quan Công uy nghi ở tuồng
trướ lại đóng vai anh chồng ngớ ngẩn ở vở chèo sau. Không thể được! Làm sao có
thể thế được! Trí non nớt của Tân ngày đó cho rằng khi đóng tuồng nhân cách của
con người đóng với nhân cách vai tuồng phải vĩnh viễn là một. Đã đóng Quan Công
thì cũng phải có đức tính trung nghĩa như Quan Công và không thể ngay sau đó
đóng vai anh hề sợ vợ được.
Sau này vào năm thi bằng cơ thủy- năm mười bốn tuổi- Tân được
đọc một chuyện cổ tích Ba Tư ở sách " Tứ Dân Văn Uyển." Chuyện đọc đã
lâu ngày, đại ý Tân chỉ còn nhớ loáng thoáng:
" Có một cô vợ rất đẹp kia lừa chồng, nàng có tình nhân.
Một hôm nàng ra chợ, từ vua quan đến thường dân ai cũng muốn bắt nhân tình với
nàng. Nàng vờ ưng thuận hẹn ngày giờ gặp mặt, ở ngay nhà nàng. Qua cửa hàng thợ
mộc anh này cũng muốn bắt nhân tình với nàng nốt. Nàng bèn nhờ y đóng cho một
cái tủ có năm ngăn lớn rồi cùng hẹn y ngày giờ đến nhà nàng. ( Tất cả có năm
người muốn hưởng thụ ngàng, kể cả anh phó mộc). Chiếc tủ lớn được đóng xong kịp
thời kê vào góc phòng, những kẻ thèm khát ái tình kia lần lượt đến đúng với
ngày giờ quy định, nhưng rồi họ chưa kịp hưởng thụ gì đã kẻ trước người sau phải
lần lượt ẩn mình vào một ngăn kép lớn vì cứ mỗi lần nghe tiếng gõ cửa, người vợ
lại làm bộ cuống quít là chồng về. Sau khi năm người tình bất đắc chí đã nằm im
thin thít trong năm ngăn kéo của chiếc tủ khổng lồ thì tình nhân nàng đến, đôi
uyên ương đó chắp cánh tung trời bay đi xa… Ở lại trong tủ thoạt người trên
cùng đái lên đầu quan đại thần, quan đại thần đái lên đầu anh thợ mộc, anh thợ
mộc đái lên đầu vu, vân…vân…Tóm lại trong số năm người thì bốn người đái lên đầu
nhau. Rồi anh chồng về, mở khóa ngăn kéo cho năm người ra…
" Khi ai nấy đã rõ chuyện thấp mưu thua trí đàn bà- lời
tác giả Ba Tư kết luận câu chuyện cổ tích- nhà vua bèn an ủi chồng mất vợ bằng
cách ban cho ông bổng lộc và quan tước để anh cùng nhà vua và quan đại thần
chung lưng sát cánh trị dân mặc dầu các ông trị mình cũng không nổi."
Đọc xong câu chuyện cổ tích Ba Tư này Tân bỗng liên tưởng đến
trùm Chí trong vở chèo sợ vợ. Tội nghiệp, cho mãi đến sau này đã chứng kiến bao
cảnh phế hưng với những vai hề chánh trị mà mỗi khi nhớ lại tấn tuồng Hoa Dung
Tiểu Lộ, trong cõi sâu tâm tưởng Tân vẫn muốn phủ nhận vai hề kia và cứ muốn
đinh ninh rằng đêm đó trùm Chí chỉ đóng có vai Quan Công.
CHƯƠNG II
CÁCH NHAU NGÀN VẠN DẶM
I
Tân học hết lớp ba tại trường làng, theo lên trường huyện học
tiếp lớp nhì lớp nhất rồi dời quê xuôi Hà Nội học đến nửa năm thứ hai ban thành
chung thì thầy ốm nặng; mẹ bỏ buôn bỏ bán thuốc thang cho thầy ngót nửa năm
dòng siểng liềng gia tài mà thầy cũng không qua khỏi. Khi thầy đã nằm xuống, chị
Khanh- chị Tân hai mươi nốt tuổi, về nhà chồng đã được hơn một năm, bị sẩy thai
rồi cũng mất. Rõ thực phút bất trùng lai họa vô đơn chí! Tân phải bỏ học vì việc
buôn bán của mẹ theo vận áo xám gặp nhiều thua lỗ và gia đình bắt đầu mang công
mắc nợ. Năm đó-1939- Tân mười bảy tuổi cuộc đại chiến thứ hai cũng vừa bùng nổ.
Thôi học về quê vào đúng mùa nước lên, Tân họp với một số thiếu
niên cùng làng cùng lứa tuổi ngày ngày mang vó ra sông đánh cá, chiều chiều
mang đó ra đồng chọn luồng nước mà đặt đó đơm cá, hôm sau dậy thật sớm ra nhấc
nó lên, bên trong đã đầy cả rô, trê trạch, nhiều khi cả lươn nữa. Đoàn thiếu
niên khi đi đặt đó như vậy thường cao giọng hát bài đồng dao:
Giời mưa giời gió
Vác đó đi đơm
Về nhà ăn cơm
Trở ra mất đó.
Được cái đó của bọn nào đặt đâu vẫn nguyên đấy chưa lần nào gặp
chuyện sớm hôm sau ra mất đó.
Trong đám thiếu niên cùng làng có Hoạt đồng niên với Tân. Hoạt
có có vóc người lực lưỡng, mớ tóc dày, lông mày rậm, khuôn mặt vuông, nước da
bánh mật. Hoạt công tác với Tân thành một cặp trong việc đánh cá. Sức lực hung
hãn của Hoạt hợp với trí thông minh của Tân đã giúp cho cả hai bao giờ cũng thắng
cuộc tranh đua với những cặp trẻ khác.
Thoại việc Tân về làng chỉ có nghĩa giản dị là vì nhà sa sút
không đủ tiền cho Tân được ở lại Hà Nội theo học nữa và việc mấy hôm đầu Tân
cùng các bạn cùng lứa tuổi đi đánh cũng chỉ có tính cách tài tử như một cậu học
trò nhân vụ hè về làng, rồi vì ưu hoạt động mà nhào vào nếp sống của người làng
để vừa giải trí vừa hòa đồng. Nhưng một tuần qua đi số cá kiếm được khá nhiều,
ăn thừa thải còn đem bán, làm mẹ đâm suy nghĩ. Nửa tháng sau Tân thấy mình cùng
Hoạt là hai đứa trẻ sinh sống về nghề đánh cá. Việc buôn bán của mẹ càng sa vào
thế bí, nhất là ngày chị Khanh bị sẩy rồi mất theo thầy. Cứ quan sát vẻ nhìn của
mẹ thì biết người áy náy biết chừng nào. Mấy lần mẹ có ý bảo Tân ngừng đừng đi
đánh cá nữa nhưng không được, Tân đã quá thân với Hoạt.
Hai tháng qua, mùa nước hết. Làng bắt đầu làm vụ chiêm, tình
thân của tuổi trẻ càng thắm thiết giữa Tân và Hoạt. Hình như Hoạt có lây của
Tân được thêm chút thông minh tài tháo vát. Nhưng đôi bạn không còn được xum họp.
Nhà Tân mới sa sút, nghèo mà còn ở nhà ngói, trái lại với Hoạt vốn sinh ra đã
là con nhà nghèo việc học không quá cấp sơ học. Mùa nước hết, trong khi dân
làng sửa soạn vụ chiêm, Hoạt theo một người bà con xuôi Hà Nội kiếm được chăn
"ét" tài xế trên con đường Hà Nội Nam Định. Hoạt đi, Tân ở lại hợp
tác với ông chú họ là một tay đánh cá chuyên nghiệp mà dân làng Lại Vũ vẫn quen
gọi là ông Tây. Ông quả thực là… ông Tây thực, người cao, da đỏ hồng, mũi lõ,
hai tròng mắt xanh, giọng nói ồ ề ngô nghê. Bà cụ thân sinh ra ông nhủ danh là
Điệt đúng với câu "thiên địa phong trần, hồng nhan đa truân." Năm
Giáp Thân (1884) quân Pháp từ sông Hồng vào sông Đuống rồi nhập với cánh quân
thứ hai của chúng vừa đổ bộ lên Phả Lại cùng tiến đánh Bắc Ninh, quân Cờ Đen phải
rút lên mạn Thái Nguyên; đúng vào cái năm ấy cô Điệt vừa mười sáu xuân xanh và
đúng vào ngày giặc cờ đen rút lên Thái Nguyên thì cô bị một tên tướng Tàu hiếp
trên cánh đồng làng. Bốn năm sau cô đành phải lấy lẽ thứ tư ông Đề Bách; cô vừa
hai mươi tuổi, xinh tươi mơn mớn, ông Đề thì đã trên năm mươi lại mấy lần mắc bệnh
phong tình không thể có con được nữa. Năm cô Điệt ba mươi tuổi, vào một buổi
trưa cô đi chợ về gặp một đội binh Pháp tập trận giả tại đồng làng, một tên lần
theo bờ gò đón chặn và hiếp cô trong bụi. Cô về có mang và sinh ra cậu con giai
đầu lòng tóc đỏ mắt xanh; ông Đề không nhận, đuổi hai mẹ con về bên ngoại,
nhưng ông cũng làm ngơ cho đứa trẻ được mang họ ông, họ Vũ. Khi ông Đề mất đi,
các anh em thúc bá thương tình bà Tư- cô Điệt- lại gọi về gia nhập với đại gia
đình họ Vũ, lúc đó gia thế ông Đề cũng đã sa sút đi nhiều lắm rồi. Khi Tây-
không hiểu ai đã đặt tên này- tới tuổi trưởng thành thì gia cơ điền sản của ông
Đề cũng khánh tận. Mẹ vừa khuất núi, Tây bứt ra ở một cái lều chính tự tay Tây
dựng lên ngoài bãi ven làng và sinh sống bằng nghề đánh cá từ đấy. Ông con cả cụ
Đề Bách vào ngày đó bị mật thám Tây bắt tình nghi giải tới hỏa lò Hà Nội, một
tên tây lai đã hỏi cung tra tấn ông.
Khi được tha về, ông nhìn Tây sống nghèo hèn và hiền lành mà
cảm mến. Ông nghĩ chỉ cần thằng lính tây xưa biết và nhận con, là Tây lập tức
có một nếp sống, một địa vị của con dân mẫu quốc và biết đâu Tây chẳng vào làm
trong mật thám gia nhập đoàn nhân viên hỏi cung hách dịch và tra tấn tàn ác?
May thay- ông nghĩ thế- Tây đã sống nghèo hèn nhưng hiền lành theo nếp sống Việt
trong lũy tre xanh.
Sau này chính ông đã đứng ra giạm hỏi và cưới xin cho Tây một
cô gái nghèo trong làng, ý ông muốn hoàn toàn đồng hóa dòng máu lai trong người
Tây. Hình như việc có thêm người đàn bà vào sống trong lều cũng không là một biến
cố quan trọng cho lắm đối với Tây, nếp sống của Tây vẫn phẳng lặng với nghề
đánh cá thức khuya dậy sớm, ngày đánh cá, tối câu đêm. Giọng nói của Tây suốt đời
đành là cứ ồ ề, ngô nghê như vậy, tính tình cực kỳ hiền lành. Mãi đến năm năm
sau Tây mới có đứa con giai đầu lòng đặt tên là thằng Phiệt mắt đen, tóc đen,
mũi dọc dừa, nước da bánh mật- nước da của mẹ- Phiệt đã hoàn toàn hoà lẫn với
giòng giống Việt. Ông con trưởng cụ Đề Bách hẳn bằng lòng lắm! vai vế trong họ,
Tây vào bậc chú Tân. Năm Tân bỏ học về làng đánh cá với Hoạt rồi hợp tác với
chú Tây thì thằng Phiệt đã lên sáu. Phiệt có theo học A, B, C ở trường làng,
nhưng tan học là ba chân bốn cẳng nó chạy về quăng sách ở giường rồi đi tìm bố ở
ngoài đồng ngay. Nó ưa lẻo đẻo theo sau bố để xách giỏ, xách mồi hoặc một vài đồ
nghề khác. Khi Tân hợp tác với chú Tây, Tân mến Phiệt ngay. Phiệt ra chiều cũng
nặng cảm tình với Tân mà nó gọi là " anh Tân" với tất cả vẻ thành
kính vừa đơn giản vừa thơ ngây của nó. (Tân thật có ngờ đâu rồi đây, còn lâu,…
lâu lắm, Tân sẽ có dịp sát cánh với Phiệt trên con đường vào sinh ra tử). Chính
vào dịp hợp tác này, Tân mới được ông chú thủ thỉ truyền cho hết bí quyết đánh cá.
Giọng ồ ề đơn giản và hiền lành của ông dẫn Tân vào thế giới của cá như bà dẫn
cháu vào thế giới cổ tích. Mùa cá đẻ trứng vào tháng tư; ruộng lúa khi đó chưa
gặt hoặc đã gặt rồi chỉ còn chân rạ; đặc tính cá đẻ rất dạn người, chúng cắn
đuôi nhau đi hàng đàn từ sông vào ruộng. Thôi thì đủ các loại cá: cá nheo, cá
ngạnh, cá diếc, cá trạch (có những con lớn bằng cố tay), cá chép (có con dài tới
bảy mươi phân, bề ngang một gang tay người lớn). Tháng tư vào những ngày mưa,
nước sông lên, cá theo con nước cắn đuôi nhau vào ruộng đẻ, khi nước rút chúng
lại trở ra sông, đó là lúc gần trọn đàn chúng đã vào rước- một thứ bẫy cá- của
chú Tây. Bao giờ- theo lời chú - chúng cũng thoát đi được một số; có khi không
may cho chú đúng vào lúc chúng rút ra sông, trời tiếp một cơn mưa lớn khiến
chúng thoát trọn đàn. Chú Tây cho đó là trời muốn vậy, vì có thế mới năm này
sang năm khác còn cá cho chú đánh. Vào những ngày không mưa chú đánh cá bằng rập,
một thứ vó vuông và khá lớn có thể úp được trọn đàn sộp. Chú kể cá sộp tinh lắm,
chú từng nằm trên bờ rập hành giờ (có phủ lá để ngụy trang cho cá không thấy)
theo dõi đàn sộp nhởn nhơ sát bờ rập mà không chịu vào, đôi khi con đầu đàn
quay mình lại cho một phần đuôi vào trước để dò xét địch tình rồi lại vùng ra lạch
nhởn nhơ tựa hồ để trêu tức chơi. Cứ như vậy cho đến một phút nào đó nó chợt
lao mình như một đường tên vút từ lạch vào khoảng nước rộng và sâu ngay dưới tầm
rập; cả đàn sộp cũng vội ùa theo như sợ mất chủ, rập ụp xuống như máy, một vài
con may thoát ra ngoài nhảy tơn trên mặt nước, quẫy tắt ra phía sông, những con
bị úp dưới rập vùn vẫy một cách tuyệt vọng đục ngầu cả khoảng nước. Có những mẻ
sộp lớn làm rách rập, buổi tối hôm đó chú Tây phải ngồi vá lại dưới ánh đèn dầu
lạc trong lều, hoặc dưới ánh trăng. Câu cá chuối tuy dễ mà khó vì phải hiểu tâm
lý cá. Cá chuối rất thương con, nó thường dắt đàn con đi vào chổ ngòi nông loi
thoi ngọn cỏ, nước nữa trong nữa đục để kiếm ăn. Đàn chuối con khi đó chỉ lớn
như những con đòng đòng, tung tăng bơi lội, mổ vào những ngọn cỏ, đớp những bọt
nước hoặc tròng ghẹo nhau. Chuối mẹ lặn dưới đáy ngòi đâu đó, canh chừng đàn
con. Chú Tây chỉ cho Tân cách quan sát biết chắc chuối mẹ ở đâu. Ngọn cỏ là là
mặt nước kia không có gió mà khe khẽ lung lay, chính là chuối mẹ lờn vờn bên dưới
đó. " Cá chuối chết đuối vì con," bây giờ chỉ việc bắt một con sin
tít sống, mắc lưới câu vào ngang thân, đợi lúc đàn con bơi gần chỗ mẹ, thả lưỡi
câu xuống cho con sin sít quẫy mạnh, lập tức sộp mẹ ghen con, vùng lên đốp mồi
và mắc lưỡi.
Hằng năm vào tháng tám nước sông cạn, dân đánh cá chuyên nghiệp
của làng Lại Vũ thường hẹn nhau tập họp ở quãng sông nông nhất rồi dăng dài
thành hàng ngang, tay mỗi người cầm một chiếc nơm, có khi nơm úp được con cực lớn,
cần người phụ lục lặn xuống. Bắt loại cá này hai tay giữ chặt chưa đủ, bí quyết
phải lập tức bóp mắt nó, như vậy nó mới hết quẫy để hòng thoát thân. Nghệ thuật
lặn xuống để bắt cá lớn này, làng Lại Vũ chưa ai qua mặt được chú Tây. Tiếng
kêu hốt hoảng giữa dòng sông thường bao giờ cũng là ‘’Bác Tây ơi, giúp tôi một
tay đây! ‘’Nếu con cá lớn đó để ở nhà ăn thì mặc nhiên khúc giữa bao giờ cũng
dành biếu bác Tây, tục lệ của dân chài lưới làng Lại Vũ là như vậy. Trong những
câu hát của dân chài thưở đó có một câu Tân còn nhớ mãi về sau này"
Người ta câu biển câu sông
Tôi đây cây lấy con ông cháu bà.
Mộng san bằng giai cấp của họ cũng chỉ thể hiện trong lời bài
hát bông đùa thế thôi, thực tình họ có đời sống riêng mà họ ưa thích còn hơn cả
việc câu được ‘’con ông cháu bà."
Hợp tác với chú Tây được ngót một tháng, bấy giờ vào cuối
tháng bảy, thì mẹ kéo Tân về để giúp người trong việc buôn bán. Thế là bỏ học,
Tân thực thụ lăn lưng vào cuộc đời từ năm mười bảy tuổi. Thoạt Tân đi theo mẹ để
giúp đỡ người trong việc cất hàng loại xa xỉ ở Hà Nội mang về các tỉnh nhỏ bán
buôn, rồi lại buôn các phẩm vật địa phương mang về Hà Nội. Sau một chuyến hàng
cuối năm, về tới đầu làng, Tân giật mình hay tin chú Tây đã mất, tội nghiệp chú
bị chết lạnh, chú không đủ áo ấm vào mùa đông này. Phiệt được ông bác hiếm hoi-
ông con trưởng cụ đề Bách- mang về nuôi, ông không có con trai và rất ưng Phiệt
sẽ thừa tự sau này mặc dầu của hương hỏa của ông cũng chẳng còn gì ngoài chiếc
nhà ngói ba gian hai trái đã ọp ẹp lắm.
Sau hai năm ngược xuôi giúp mẹ, Tân đã thành thạo, chàng
khuyên mẹ ở nhà để một mình chàng đảm đương công việc. Chiến tranh làm hàng ngoại
hóa khan hiếm nên viêc buôn đi bán lại đó giúp Tân trả dần được công nợ cho mẹ.
Dầu hỏa đã trở thành một thượng đẳng xa xỉ phẩm, khắp miền quê đã dùng thay bằng
dầu lạc, nhiều nơi dùng kèm một thứ nến bằng lá tẩm nhựa thông. Tân thuê thuyền
theo các đường sông máng lớn nhỏ chuyên chở hai thứ này (dầu lạc, nền-nhựa-thông)
vào sâu các vùng hẻo lánh. Quân Nhật đã đặt chân lên toàn lãnh thổ Đông Dương,
người Pháp đã mất nước vào tay người Đức. Tuy nhiên Toàn quyền C, vẩn còn chút
quyền hành ở đây đủ để đại diện cho nền văn minh thực dân cấp bằng phát minh
cho một số người ‘’bản xứ" đã sáng chế ra được thứ đèn đầu lạc với hệ thống
bánh xe răng cưa nhỏ có thể khêu bấc đèn cao thấp tùy ý. Nhân việc này một nhà
ái quốc tiêu cực làng Lại Vũ đã lấy một câu Kiều để mỉa mai:
Phát minh sáng chế nhà ta
Đã buồn cả rượt lại dơ cả đời.
Mà ‘’đã buồn cả ruột lại dơ cả đời" thật? Người Việt được
chứng kiến những tiến bộ của Nhật trên mọi ngành kinh tế chính trị, quân sự,
nghệ thuật…. Trông người Nhật hùng mạnh uy hiếp được thực dân da trắng, được
xem phim thời sự Nhật để biết những hoạt động mọi ngành kỹ thuật nghệ nặng nhẹ
của Nhật, được xem phim Nhật để biết tài năng diễn xuất của tài tử Nhật, người
Việt thấy buồn tủi cho số phận mình. Rồi từ buồn tủi chuyển sang hờn giận vì
luôn luôn được tin quân đội Nhật bắt bớ, tra tấn, đâm chém người Việt, tàn ác
có phần hơn thực dân Pháp xưa. Có tin một người bán cám cho quân Nhật để chúng
nấu cháo cho ngựa; người bán cám vì nghèo nên tìm cách trộn lẫn với mạt cưa
mong kiếm thêm chút lợi, chẳng may ngựa Nhật bị chết, quân Nhật bèn mổ bụng ngựa
nhồi người bán cám vào trong mà khâu lại trừng trị. Văn minh xứ mặt trời mọc, học
trò ưu tú của Tây phương đã coi mạng người Việt không quý bằng mạng con ngựa của
họ! vẫn nhà ái quốc tiêu cực làng Lại Vũ trên có ứng khẩu bốn câu tứ tuyệt như
sau:
Việt tộc những mong người Á trước,
Da vàng máu đỏ hỡi ai ơi.
Cha lũ giant tham phường cướp nước,
Văn minh coi ngựa quý hơn người!
Quả có thế, một sự thất vọng chua chát không nói sao cho xiết
được đối với những người Việt vì quá giàu tình cảm nhân đạo nên mới quá ngây
thơ trên chính trường mà tin vào thuyết Đại Đông- Á của quân phiệt Nhật.
Tại các thành thị lớn dân chúng đã quen nghe còi báo động là
chạy ra hầm trú ẩn gần nhất. các trường học ở thủ đô tản cư về vùng quê hay vào
tận Sầm Sơn hoặc lên tít Tam Đảo.
Dưới hai lần xiềng xích Pháp- Nhật giờ đây người dân Việt
ngây thơ nhất cũng đã hiểu trên bước đường dành tự chủ, mình chỉ có thể trông cậy
vào chính mình. Và trong khi còn phải đợi thời, một số lớn bí mật tham gia các
tổ chức cách mạng, số còn lại lạnh lùng nhìn bầy sói đế quốc cấu xé nhau. Riêng
Tân vì đi sâu vào các miền quê để buôn bán nên vẫn giữ được tâm hồn thanh thản.
Mùa cam, Tân lên tận Bố Hạ; mùa dứa, Tân lên tận các đồn điền miền Bắc Phú Thọ;
mùa lê, Tân lên tận Lạng Sơn. Những hàng đó tiện đường thì chở bằng xe lửa hoặc
ô tô nếu không thì bằng thuyền. Tháng sáu năm 1942 Tân về tận Phủ Sóc (Thái
Bình) đong gạo chiêm chở ngược Hà Nội bán. Ba tháng sau- tháng chín- Tân lên một
đồn điền ven sông Thao, thuộc Hưng Hóa cắt được năm thuyền dứa. Buổi sáng hôm
đó, trước khi xuống thuyền, người quản lý đồn điền mời chàng uống một ly sữa
tươi. Đó là một buổi sáng hồng nhưng mát rợi vì tiết trời đã vào giữa thu. Gió
sớm từ phía sông lùa về gờn gợn. Uống xong ly sữa có ánh hồng bình minh, giữa một
khung cảnh có rừng rậm, núi cao, song rộng. Tân thấy rùng mình, cõi lòng tự
nhiên phơi phới. Đó là năm Tân vừa hai mươi tuổi.
II
Về Hà Nội bán hết chuyến dứa, Tân dự định đi Yên Báy rồi Lào
Kay buôn một chuyến măng, nấm hương, mộc nhĩ đầu tiên. Nhờ các bạn buôn giới
thiệu, Tân mang theo một số hàng xa xỉ xuống bán tại ga Thanh Ba là nơi được
giá nhất. Tới nơi, hàng của Tân đã được rỡ xuống, chuyến tàu xuôi từ Lào Kay vừa
về tới. Biết là chuyến tàu này còn dừng lại ở Thanh Ba ít ra là năm phút, tiện
thấy toa hạng ba dừng ngay trước mặt, Tân nhảy lên đi một lượt ngắm thiên hạ
cho thoải mái và đỡ cuồng cẳng. Chàng bỗng dừng lại trước hàng ghế cuối toa,
tay vịn vào thành cửa: trước mặt chàng là một cô gái trạc tuổi mười sáu mười bảy,
ngồi bên một bà đã đứng tuổi, Tân đoán là mẹ nàng. Người con gái có một vẻ đẹp
thật quý phái, vừa tươi sáng vừa hiền hậu. Quần áo nàng mặc đồng màu lụa trắng
càng làm tôn vẻ dịu dàng của đôi mắt đen thơ ngây và nước da trắng mát. Nhan sắc
đó càng như được tăng lên bội phần giữa những khuôn mặt già nua khắc khổ trong
toa xe giữa cảnh đồi nương chập chùng bắt đầu man rợ của miền trung du dương
chuyển mình vào thượng du này. Còn Tân với bộ quần áo đương mặc lẽ cố nhiên
chàng chẳng có vẻ gì là sang trọng, nhưng dáng chàng cao, thân hình chắc lẳn,
tuổi trẻ ấy, sức dẻo dai ấy, thêm nước da dạn dầy sướng gió ấy tự nhiên gây được
uy tín cho Tân và bộ quần áo nhàu nát chàng mặc chỉ khiến chàng có thêm vẻ đẹp
phong trần của một thanh niên sớm lăn lộn với đời. Người con gái càng vàng lá
ngọc kia- Tân tin rằng nàng thuộc giòng dõi quí phái- hẳn muốn được gieo mình
vào đôi cánh tay cứng cáp của những người đã xông pha nhiều gió bụi. Tân hơi mỉm
cười khi thấy khuôn mặt đẹp đó ngẩng nhìn chàng, e dè nhưng đầy thiện cảm và tưởng
chừng nàng đã đọc được ý nghỉ thầm kín của mình. Nàng trong trắng như màu lụa bạch
nàng mặc và Tân bỗng có cả tưởng như mình là một hiệp sĩ đời xưa càng xông pha
nhiều mưa gió càng thêm vẻ phong lưu mã thượng.
Tiếng còi thét vang mà không làm xao động giấc mơ yêu đương
Tân dệt thầm trong trí. Tiếng ống khói phụt nặng nề con tàu chuyển bánh. Khi
tàu đã bắt đầu có đà Tân còn nhìn nàng một lần cuối rồi mới nhảy xuống.
"Nước da trắng mát, một nốt ruồi đen trên gò má bên trái
trông quả có đẹp!"- Tân tự nhủ thầm như vậy.
Đêm hôm đó Tân trọ ở hàng cơm đối diện ga Thanh Ba, một đêm
không trăng nhưng rất nhiều sao dầy đặc cả trời. Giường nhà trọ nhiều rệp,
chúng bò lên lưng lên cổ Tân; chàng luôn luôn lấy tay đập rồi kẹp giết từng con
giữa ngón tay cái và ngón trỏ, nhưng hết con này đến con khác, đoàn quân đói
máu đổ xung phong không ngớt, lại thêm không khí oi bức làm mồ hôi đổ ra như tắm,
Tân đành vùng dậy ra ngoài, ngược đường đi lên chừng năm mươi thước rồi ưỡn ngực
vươn tay làm động tác hô hấp. Chàng tin rằng hít được nhiều không khí trong sạch
ban đêm có thể bù vào sức lực đã mất vì không ngủ được.
Có tiếng cười nói thanh thanh của đoàn con gái tắm đêm.
Tân ngồi xuống một phiến đá ngẳng nhìn về phía sau ga những
hình đen nổi của đồi núi chập chừng. Phía trước ga mờ mờ bãi cát trắng thoai
thoải đưa tới dòng song Hồng dạt dào tiếng sóng.
Những người con gái tắm đêm đã đi lên, tay cầm quần áo ướt.
Giọng nói thanh thanh của họ ngừng khi họ nhận ra Tân ngồi đấy.
Tân lên tiếng hỏi rất tự nhiên:
- Các cô làm ở đâu mà ra sông tắm khuya thế?
Quả nhiên lời hỏi làm họ bớt ngỡ ngàng và tiếng trả lời của họ
thân mật:
- Chúng em làm ở xưởng mật kia.
Rồi họ đi thẳng.
Chỉ dưới ánh sao thôi Tân cũng nhận thấy những khuôn mặt tròn
đầy đặn với màu da bánh mật của họ.
Họ vừa tắm xong- Tân nghĩ thầm- chắc da thịt thơm mát lắm, họ
đã mang lên một phần rất nhỏ cái thơm mát mênh mông của con sông đêm. Họ tiến về
những lò quay mía làm mật có thấp thoáng ánh đèn. Tiếng chân vội vã của họ như
làm rung chuyển những mạch đất nối liền với huyết quản Tân, khiến có cảm tưởng
tim chàng rung động cùng một nhịp với bước chân xa dần của họ. Rồi ánh đèn những
lò mía cũng tắt nốt. Quanh Tân chỉ còn tiếng thì thầm của hoa lá vạn vật, tiếng
con sông va lầm phải vờ và tiếng những vì sao im lặng trao đổi những ý kiến bằng
ánh sáng trên cao.
Vẫn ngồi nguyên trên phiếm đá vệ đường, Tân co chân và tì cằm
lên đầu gối. Và trong trạng thái nửa ngủ chàng thả hồn quyện lấy hình ảnh người
con gái có nước da trắng mát với điểm nốt ruồi đen trên gò má bên trái. Tân tưởng
tượng thấy nàng lên theo đường hẻm xuống bãi cát thoai thoải, nàng cởi để quần
áo trên bờ, khỏa thân xuống gặp dòng sông. Nước sông có ướp muôn thứ hoa rừng,
mùi thơm tuy hoang dại ngây ngô nhưng cũng biết quấn lấy thân hình có nước da
trắng mát kia, lưu luyến mãi trên đó, rồi thấm vào mạch máu hồng. Tân tưởng tượng
thấy mình cũng lẻn theo xuống, cầm gọn quần áo của nàng- thứ quần áo bằng lụa bạch-
trong hai bàn tay, quần áo vừa trút xuống còn ấm hơi da thịt người đẹp…
Hôm sau bán hết hàng ở Thanh Ba, Tân mang tiền ngược Yên Bái
rồi tạm ngừng lại ở ga Phố Lu. Chàng trọ ở nhà một bà có máu đồng bóng, rất
nhân đức nhưng nói quá nhiều. Con gái bà khuôn mặt thật xinh, nhưng bị sốt rét
rừng kinh niên, có báng.
Ngày Tân ra chợ đón mua măng, mua mộc nhĩ; tối chàng đến sòng
tài sửu xem tuồng và nghe tiếng "hối a… hối a…" của các cô sẩm trước
khi mở bạc. Chàng khoác vai một cô bé giang hồ kém chàng chừng một hai tuổi
dáng người nhỏ nhắn. Có khi hai đứa cùng đi trên đường, ‘‘rầy" hai tay
dang ra cố giữ thăng bằng được một quãng dài, như trò xiếc đi trên giây, cho tới
lúc mệt cùng đứng lại nhìn nhau cười ngặt nghẽo. Sự giao thiệp của Tân với cô
gái giang hồ thoạt chỉ có thế.
Hôm cuối cùng, sau bữa cơm trưa Tân không nghĩ, người con gái
giang hồ đến tìm chàng rồi cả hai đi về phía có đường sắt. Nhìn xuôi về Hà Nội,
Tân nghĩ đến cô gái quí phái bận đồ lụa bạch ở ga Thanh Ba. Nhìn lên mạn ngược,
chỗ con đường khuất nẻo chui vào rừng nứa, chàng liên tưởng đến nỗi niềm cần
cù, cô độc và hiu quạnh trọn vẹn. Chợt có tiếng còi từ sau dãy núi đá vọng lại,
rồi con tàu xuất hiện, men theo bờ sông tiến tới. Tân ôm người con gái giang hồ
nép dưới gốc chuối rừng. Chàng ngẩng lên nhìn. Những khuôn mặt hành khách
thoáng hiện trên từng toa tàu. Lẽ cố nhiên không có khuôn mặt mà chàng tương
tư.
Tàu dừng lại ở ga này một chút, kế đó là tiếng còi thét lên
nhắc nhở tiếng còi ở ga Thanh Ba. Tân nhớ lại cái nhìn của chàng gửi về phía
người con gái quí phái một lần cuối cùng trước khi nhảy xuống.
Sau ba ngày, số măng, mộc nhỉ mua đã đủ Tân cho đóng bì để đợi
chuyến tàu gởi trước về Hà Nội, còn chàng tiếp tục đi Lào Kay mua nấm hương. Buổi
chiều khi việc đóng hành và gửi hàng đã xong, Tân thơ thẩn theo con đường đá nhỏ
dẫn về một châu lỵ heo hút nào đó. Chàng đứng tựa vào một gốc cổ thụ lớn, gần
chiếc cầu nhỏ bên trên lát những tấm tôn dầy. Một đồng bào thiểu số người Tây mặc
áo chàm bạc màu dắt về một con ngựa thồ bé nhỏ trên mình chất đầy giỏ không (những
lâm sản đã bán hết!) Ngựa cũng như người nhẫn nại bước trên đường hẻm, những
hòn sỏi vô tri lăn theo bước chân của họ. Khi ngựa đi vào cầu, móng nó đập vào
tấm tôn, tiếng tôn vang lên tuy rộn ràng mà buồn nản. Rừng núi chìm dần vào bóng
chiều cho thêm phần bí hiểm. Sao bắt đầu mọc vô tư trên đỉnh trời. Lòng Tân như
muốn vút lên để trùm tỏa lấy bóng con tàu xuôi hôm nào có mang người đẹp về Hà
Nội.
Tiêng vó ngựa đập trên cầu tôn… tiếng sỏi lăn rào rạo xuống vệ
đường còn vang vang trong hồn Tân. Con ngựa thồ bé nhỏ thường bị chất nặng đồ
trên lưng (từng mảng da trầy thịt rớm máu tố cáo điều đó). "Làm thân trâu
ngựa đền nghì trúc mai."- kiếp ngựa đó phải là ngựa thồ!
Khoảng lau già gần chỗ Tân đứng xào xạc dạt theo chiều gió thổi,
Tân lơ đãng nhìn ra xa một chút, quanh chàng cây rừng như cố vươn lên tìm ánh
sáng, thân cây nào cũng phủ đầy tầm gửi, cành cao gầy guộc nhưng những nhánh lá
đầu cành rất mềm và rủ xuống như liễu khẽ đu đưa với gió chiều, thỉnh thoảng một
chiếc lá úa bứt khỏi rụng chao chát. Có cành cao thật cao nở bong hoa đỏ, màu đỏ
ngơ ngác. Không thấy bóng con chim nào, một con chuồn chuồn bay rập rình khi xa
khi gần luôn luôn vô cớ đổi chiều.
Màn sương biêng biếc đã từ rừng núi tỏa ra lạnh buốc, thêm
nhiều chấm sao lốm đốm trên nền trời đương ngả dần sang màu tím xẫm. Tân cúi đầu
theo đường về thẫn thờ.
Tối hôm đó về khuya, Tân theo cô bé giang hồ vào phòng. Đó là
lần đầu tiên Tân tới nhà đếm. Khi người con gái khỏa thân đến nằm bên chàng,
Tân rùng mình nghe có tiếng nước sối mạnh bên ngoài, tiếng nước gợi lại hình ảnh
tưởng tượng con sông đêm ở ga Thanh ba biết quấn lấy thân hình ngà ngọc của cô
gái đẹp mát như lụa.
III
Suốt hai bên dọc đường xe hỏa Yên Bái Lào Kay thuần là rừng nứa
và rừng chối, thứ chuối rừng có những bong hoa đỏ tươi như hoa se. Thỉnh thoảng
con tàu băng qua chiếc cầu nhỏ bên dưới là dòng cuối vô danh đục ngầu đổ ra con
sông xa. Tân tới Lào Kay khoảng tám giờ rưỡi tối. Trời mưa lớn, ánh đèn vàng
khè và thưa thớt của Lào Kay càng trở nên hiu hắt. Lúc đó trời tạnh mưa, có lẽ
đã tới mười giờ hơn, Tân dời khỏi nhà trọ đi trên con đường ướt bóng, vừa đi vừa
cúi mặt xuống như muốn soi trên đó để tìm một khuôn mặt không phải gương mặt của
chàng mà là của người con gái ga Thanh Ba.
Có ánh đèn khá tưng bừng bên con đường làm Lào Kay nổi tiếng
với câu ca dao ( nếu có thể gọi được đó là ca dao):
Đi thời nhớ vợ cùng con,
Về thời nhớ bát cháo ngon trên đường.
Tân rẽ vào tiệm, lách tìm một chỗ ngồi giữa đám đông, phần lớn
là những công chức bất đắt chí: người đương sì sụp húp cháo với một vẻ ngạo nghễ
thây kệ việc đời, kẻ đã say lè nhè gọi thêm thức nhắm, yêu cầu nhiều thứ này ít
thứ nọ.
Ra khỏi tiệm cháo, Tân về phòng trọ. Nhưng chàng không ngủ được,
chẳng hiểu vì ý nghĩ luôn luôn bị ám ảnh bởi ‘‘người đẹp ga Thanh Ba" hay
vì ngọn nguồn con song Hồng Hà nơi đây ào ào đổ thác lớn? Mười một giờ khuya
chàng vùng dậy thơ thẩn dọc theo đường phố chính. Người đi thưa thớt, thường là
từ sòng bạc ra về, hoặc từ nhà tới sòng bạc. Vô tình chàng tiến tới đầu cầu
sang Cốc Lếu. Ánh đèn bên đó trông còn vàng khè hơn, ngái ngủ hơ bên Lào Kay.
Tân tặc lưỡi tiến vào cầu, tới quãng đường giữa chàng nhận thấy
người lính gác đứng nép vào thanh sắt, chiếc áo choàng bị thổi rạt sang một bên
vì luồng gió mạnh lạnh đẫm hơi đêm. Phố Cốc Lếu im lìm trong giấc ngủ hèn mọn,
những căn nhà thấp và hẹp, cửa đóng kín mít. Tân tự hỏi thầm: ngộ người đẹp ga
thanh Ba phải theo cha tới nhậm chức ở chốn này? Sắc nước hương trời đó mà bị
chôn vùi nơi rừng thiêng nước độc này thực là cả một mối tiếc hận lớn cho trời
và cho người. Ý nghĩ vẩn vơ đó còn ám ảnh Tân tới khi chàng trở sang đầu cầu
bên kia rồi quay lại nhìn:
Ai mang tôi đến chốn này,
Bên kia Cốc Lếu, bên này Lào Kay.
Có lẽ đến hai giờ khuya Tân mới chợp ngủ, sáng sớm chàng bừng
tỉnh dậy vì có tiếng xích loảng xoảng. Nghền cổ ngó qua cửa, Tân thấy một đoàn
tù chừng hơn mười hai người, chân đeo xích, xếp thành hàng một, có ba người
lính đeo tiểu liên đi kèm ở ba quãng: đầu giữa và cuối; cả người tù lẫn người
coi tù đều như cảm chung một niềm tủi hổ. Tiếng xích vẩn loảng xoảng va đều xuống
đường. Tân nhình theo, đôi mắt xa xôi, tự đặt mình là một trong số đó và hình ảnh
đôi mắt người đẹp nhìn lại chàng khi đoàn tầu bắt đầu chuyển bánh rời ga Thanh
Ba xuôi Hà Nội… Câu chuyện tình bỗng dưng nhuộm màu bi đát, Tân nằm xuống, lòng
như thổn thức.
Trở về trung châu! Phải trở về trung châu! Tân vô cớ quyết định-
rồi chàng ra ga lấy vé.
IV
Giời vừa chớm thu, gió mai xào xạc, nắng vàng hiu quạnh. Mùa
thu đến thật đúng lúc để kịp khắc sâu những rung động của Tân về hình ảnh người
đẹp ga Thanh Ba.
Chính những bất ngờ đó- thưa các bạn- sẽ làm nên định mệnh,
cũng như bất ngờ Kim Trọng về Liêu Dương, bất ngờ tên bán tơ xưng xuất làm nên
định nàng Kiều khổ, nhưng chính cái đau khổ làm nàng đẹp và chính vì nàng Kiều
đẹp trong đau khổ nên đã làm đẹp lây bao nhiêu người đọc truyện nàng về sau. Có
phải vì thế, Tân tự nhiên cũng thấy mình đẹp lên trong nỗi đau khổ này? Đau khổ
thật chứ, tự nhiên gặp nhau rồi trong thoáng qua mỗi người một nghã, biết đâu
mà tìm? Mà có gặp nhau đi nữa, thì một thiếu nữ quý phái như vậy làm sao chịu
trao duyên với chàng trai nghèo sớm bỏ học đi buôn như Tân.
Tân ôn lại một trong những bài thơ chàng thích, bài "
Tình quê" của Hàn Mạc Tử, những vần thơ đó cũng đến bất ngờ để thêu dệt
thêm đường nét não nùng cho mối tình. Cùng với tiếng chàng ngâm khẽ gió chợt lồng
lộng quyện lấy lời thơ khiến ý thơ càng man mác chơi vơi.
Người con gái ngồi trên toa xe ở ga Thanh Ba chẳng thể hiểu
được lòng chàng trai hai mươi kia muốn như thời gian rót đầy không gian để một
phần hồn mình được gặp khoảng không gian nào đó có bóng người yêu:
Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông nhạn về
Máy chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê
Gió chiều quên dừng lại
Dòng nước luôn trôi đi
Ngàn lau không tiếng nói,
Lòng anh dường đê mê
Cách nhau ngàn vạn dặm
Nhớ chi tới trăng thề?
Như có tiếng nhủ trong lòng: Tân muốn làm kẻ lữ hành cô độc
trọn đời lang thang đi tìm người yêu mà vẫn thầm mong đừng bao giờ gặp:
Dù ai không ngóng đợi
Dù ai không lắng nghe
Tiếng buồn trong sương đục
Tiếng hờn sau lũy tre
Dù ai bên bờ liễu
Dù ai dưới cánh lê
Với ngày xanh hờ hững
Cố quên tình phu thê
Trong khi nhìn mây nước
Lòng xuân cũng não nề.
Cảnh nhà thanh bạch, việc học bỏ dỡ dang, mộng đời hầu như
chưa thành hình đã lở dở, Tân với tất cả năng lực phồn thịnh của trí tưởng tượng
trong tuổi hai mươi như tập trung lại mà kết tỉnh với giấc mộng vàng, đồng hóa
với hình ảnh trong trắng của người con gái. Rồi như do một sức khích động thầm
kín nhưng mãnh liệt Tân vùng vẫy chống lại hoàn cảnh, chàng lập tức cố sức thu
xếp cuộc đời để bắt đầu nối lại việc học. Vẫn đi buôn, chàng không đi những
chuyến lâu hàng tuần nữa mà chỉ đi vài ba ngày là cùng. Chàng thoạt mượn sách của
bạn, rồi mua thêm sách ngoài, sau cùng, xin theo một lớp riêng học gấp học nhảy
bực:- Không Tân không hề hy vọng thế. Tự lượng hoàn cảnh mình đã không thể cùng
nàng kết tóc xe tơ thì một lần gặp là một lần hun đốt tam can. Không bao giờ gặp
nữa, hình ảnh đẹp đó sẽ biến thành một giấc mơ; người ta có thể thổn thức trong
một giấc mơ nhưng cõi lòng bớt bị nhói buốt. Tân chỉ thấy rằng cần tiếp tục học
để vươn khỏi sự tranh tối tranh sáng của tri thức, nó làm cho chàng bực bội nhiều
khi đến nghẹt thở.
Vừa một năm qua, ngày Tân đỗ thành chung cũng là ngày gia
đình chàng hoàn toàn thoát khỏi cơn bần bách. Mẹ đã thu xếp được một cửa hàng ở
phố chính tỉnh Bắc Ninh. Từ đấy Tân chuyên cần về việc học. Năm sau- 1945- năm
có cuộc cách mạng tháng tám, chàng đỗ tú tài phần thứ nhất một cách tương đối
nhẹ nhàng nhờ tình trạng chiến tranh các thí sinh được miễn thi vấn đáp.
Đã biết bao đêm hè trong sáng, gió nồm hây hẩy. Tân nhìn lên
mặt trăng, có ôn lại hình ảnh người con gái trên toa xe ở ga Thanh Ba.
Đã bao nhiêu đêm thu trăng lạnh rờn rợn không gian, Tân thấy
lòng mình trống trải mênh mang hồn như muốn mở rộng để chụp lấy hình ảnh người
đẹp.
Đã có biết bao đêm đông, nghe tiếng mưa rơi gió lộng, hồn Tân
tơi bời thiếp đi trong giấc mộng chung chăn với nàng.
V
Năm 1946. Tân đỗ xong tú tài phần hai rồi về Bắc Ninh thăm mẹ.
Nhìn cửa hàng của mẹ khuếch trương đã khá lơn, xét đến nền học vấn của mình
thoát cấp trung học, kể từ đấy mỗi khi nghĩ đến bóng lụa bạch năm nào Tân đã tự
giải phóng khỏi mọi tự ti mặc cảm.
Chịu ảnh hưởng nếp tình cảm lãng mạng một thời vong quốc, Tân
trìu mến lấy mối tình kỳ dị. Càng biết là không bao giờ còn gặp lại người đẹp nữa,
hình ảnh giai nhân càng như loãng ra hòa vào máu để rồi vĩnh viễn luân lưu
trong tâm tưởng cho đến ngày chàng lìa bỏ cuộc đời.
Nghỉ hè năm đó chàng cũng chỉ về Bắc Ninh với mẹ có một tuần
rồi lại xuôi Hà Nội ngay để tiếp tục học đàn như năm ngoái.
Nguyên do năm ngoái sau khi đỗ tú tài phần một, Tân có theo một
người bạn đồng khoa mua một chiếc vĩ cầm rồi theo học một danh sư người Nga lưu
vong ở đường Gia Long gần khu hồ Thuyền Quang. Tâm trạng Tân khi đó y hệt tâm
trạng một anh đánh bạc gặp vận đỏ đã vơ khá nhiều còn đánh thêm mấy tiếng lớn nữa
cho càng nặng túi. Ừ, đã đỗ nữa tú tài lại học đàn nữa, mà học violin, thứ đàn
khó nhất, hay nhất, tài hoa nhất! vì vậy nghỉ hè năm nay cũng như nghĩ hè năm
ngoái Tân chỉ về thăm mẹ có một tuần rồi sao đó xuôi Hà Nội với tất cả vẻ vội
vã của một nghệ sĩ hăm hở theo đuổi nghệ thuật đến cùng. Sự thực với tất cả các
bạn, Tân đã tuyên bố thành thật là chỉ học cho biết qua" ngôn ngữ" thứ
đàn ấy để có thể thưởng thức đứng đắn âm nhạc cổ điển Tây phương. Khi cuộc chiến
tranh Việt Pháp bùng nổ, Tân để đàn ở nhà, theo một số bạn thanh niên tình nguyện
theo lớp huấn luyện cán bộ tăng gia sản xuất. Thanh niên các nơi đến họp từng đợt
chừng bốn năm chục người tại một trụ sở tạm thời đặt ở một làng thuộc huyện Từ
Sơn; sau đó họ đi chuyển tàu đêm ngược Phú Thọ để tới một đồn điền hẻo lánh
kia, nơi được chọn làm đại điểm huấn luyện.
Chuyến tàu chở đoàn Tân tới ga Thanh Ba vào mười hai giờ
khuya. Tân thò đầu ra ngoài khung cửa sổ ngẩng nhìn, đếm đó không trăng không
sao, cả cũ trụ như chìm trong một nỗi niềm bí ẩn. Tàu chuyển bánh, gió phá vào
mặt Tân trong khi chàng hơi mỉm cười, bang khuân ôn lại những hình ảnh cũ, hình
ảnh người đẹp năm xưa, ngồi trong toa xe… hình ảnh con đường xuống sông thoai
thoải cát trắng…hình ảnh những người con gái tắm đêm, hơi mát tự da thịt tỏa thắm
vào hương đêm theo gió. Tân có cảm tưởng trên bước đường phiêu lưu kháng chiến,
chàng sẽ gặp lại người xưa ở một khoảng rừng núi thâm u nào. Tới lúc đó, Tân mới
nhận ra một điều là chàng không còn nhớ khuôn mặt người đẹp gặp ở Thanh Ba nữa.
Sáu năm qua rồi còn gì… Giờ đây chàng chỉ còn nhờ cảm giác êm đềm mát rượi của
màu quần áo lụa bạch phản ánh lên khuôn mặt nước da trắng mát có chấm nốt ruồi
đen trên gò má bên trái. Tân tưởng nếu mình là nghệ sĩ, chàng sẽ xuống ven song
lấy cát ẩm nặng một pho tượng có khuôn mặt đẹp; rồi khi đổ sáp lên chàng chỉ việc
điểm thêm một chấm đen trên gò má bên trái, thế là bức tượng đã có thể tượng
trưng cho mối tình thoáng qua nhưng lâu bền của chàng đối với bóng đẹp gặp thưở
hai mươi. Tân nhớ mang máng một câu bằng tiếng Pháp:
Le plus beau refrain de la vie
C’est celui qu’on chante à vingt ans
(Điệp khúc đẹp nhất của cuộc đời
Là điệp khúc hát vào tuổi hai mươi).
Anh em trong toa xôn xao thức giấc vì sắp tới ga xuống. Mọi
người đồng ca một bản hành khúc để thực tỉnh ngủ. Bản hành khúc đồng ca vừa dứt
thì tiếng một anh bạn"
- Liệt đâu, cho nghe bài "Nguyễn Thái Học" mày!
- Đếch vào!- Liệt đáp gọn rồi giơ tay lên xoa cái đầu trọc lốc
của mình nhìn Tân ngồi ngay bên, cười, cặp môi dầy của anh tòe rãn ra trong nửa
hồn nhiên nửa thô bỉ. Tân cũng mỉm cười "đáp lễ" anh và nói:
- Anh cho nghe bài đó đi!
Liệt mới đến trụ sở tạm thời (ở Từ Sơn) sáng nay, anh đến
cùng với anh bạn hoc thân tên là Khuê ( người vừa yêu cầu anh hát bản Nguyễn
Thái Học). Thoạt trông thấy Liệt anh em ai cũng mĩm cười: đầu trọc tếu một cách
khôi hài, khuôn mặt dài rất nhiều trứng cá, nước da mai mái hơi ngà sang vàng
khè của những người bị sốt rét niên, đôi mắt khá sắc luôn luôn đưa đẩy để làm
duyên cho nụ cười xòe nở trên cặp môi dầy. Mỗi khi nói với Khuê, những danh từ
Liệt dùng nghe thật…mất dạy, nhưng khi nói với bất cứ anh em nào khác thì giọng
nói cũng như tiếng dùng của anh lại rất lễ độ tuy vẫn còn đượm vẻ hề, thành thử
Tân vẫn chưa hiểu Liệt thuộc thành phần nào của xã hội; dầu sao căn cứ vào cách
cư xử trong một ngày vừa qua, toàn thể an hem có thể tin Liệt là một thanh niên
dễ dãi có thể giào du được. Liệt chưa chánh thức hát cho anh em nghe bài nào,
nhưng qua một vài câu anh hát đón theo giọng của vài anh em khác thì chắc chắn
giọng anh phải hay lắm…
Khuê lại cất tiếng giục:
- Ê, Liệt hát đi mày!
Tân ngồi bên cũng giục thêm một câu;
- Anh cho chúng tôi nghe một bài đi, mười phút nữa đã xuống
ga rồi.
Liệt ý chừng nể lời Tân hơn bèn đứng dậy dặng hắng. Anh em
yên lặng chờ nghe.
"Nguyễn Thái Học" là một bài ca buồn thảm do một nhạc
sĩ vô danh sáng tác, lời ca như thể một bài ai điếu của một đồng chí nào đó đã
thoát chết từ vụ 1930 còn sống sót đến ngày nay, rồi nhân dịp nước nhà vừa dành
lại chủ quyền, tưởng nhớ lại người bạn liệt sĩ cũ và cất lời than khóc. Giọng
Liệt rất trầm, ấm dịu nên đã gợi được hết tình ý buồn thảm của lời ca, hơn nữa
Liệt hát với tất cả sự say mê của một nghệ sĩ phụng sự nghệ thuật, vẻ hề của
anh biến hẳn không để lại một vết tích nhỏ, dưới ánh điện yếu ớt của toa tàu
khuôn mặt Liệt lúc biễu diễn bài ca càng thêm vàng vọt và như hơi co dúm lại trong
một niềm thống khổ trang nghiêm.
Lời ca dứt, tiếng vỗ tay tán thưởng nhiệt tình, Liệt đưa tay
lên xoa đầu trọc nhìn Tân mỉm cười, đôi môi đầy tòe dãn lập tức anh trở lại vẻ
hề quen thuộc hầu như thường xuyên của anh.
Tầu từ từ dừng lại… Đã tới ga Ấm Thượng. Đoàn thanh niên xuống
toa rồi theo ánh đuốc ra khỏi ga, rẽ vào một đường mòn, qua một chiếc cầu treo
nhỏ đu đưa như võng, vòng vèo quanh những sườn đồi, bì bõm lội qua những con suối
nhỏ… Có lẽ tới một giờ sau mới tới cứ sở. Nơi ăn chốn nằm đã được những toán tới
trước thu xếp sẵn, mọi người chỉ còn việc mắc màn rồi nằm lăn quay ra ngủ mê mệt.
Có người con gái khuôn mặt trắng mát tiến đến với Tân. Không
rõ ràng cười trước hay Tân cười trước. Gặp nhau sao mà buồn! Nàng nói: "
Em mười bẩy, em chỉ sống đến năm hai mươi." Tân cũng biểu đồng
tình:-" Em nói đúng! Một người con gái đẹp chẳng nên sống quá tuổi đó, em
cho anh xin khoảng thời gian ngắn còn lại của em/!"
Tân sực tỉnh, xung quanh là bóng tối đen đặc và lạnh buốt:
chàng vừa chợp ngủ! Bên cạnh có tiếng ngáy, xa hơn, phía cuối phòng có tiếng cựa
mình. Tân kéo tấm mền phủ kín tai cho ấm những mong nối kịp giấc mơ. Nhưng- Tân
biết trước là không bao giờ, không bao giờ nữa, chàng có thể tìm lại được giấc
mơ đẹp và mong manh như nắng chiều đó.
VI
Gió rít từng hồi tự trên đỉnh đồi cao lùa xuống các thung
lũng nhỏ, khiến những chiếc lá vàng đua nhau rụng và những chiếc lá khô dưới đất
tựa hồ những hồn ma bị dựng dậy đuổi nhau tít tít quanh các gốc cây. Tiếng gió
và tiếng khô càng thêm bí ẩn khi bóng chiều đã hoàn toàn phũ kín miền đồi núi
khu đồn điền Lợi Ký này.
Đồn điền Lợi Ký gồm hàng ngàn mẫu đồi chè, không kể những
nương sắn cùng những khoảng thung lũng khá rộng có ruộng lúa. Tân thuộc toán cuối
cùng tới đây. Sau ba ngày tận lực làm việc để thu xếp nơi ăn chốn nằm cho có
quy củ, hơn hai trăm nam nữ thanh niên có mặt lúc đó vừa hay tin chương trình
huấn luyện bắt đầu từ hôm sau.
Về tổ chức nội bộ, ban giám đốc chia họ thành từng trung đội,
mỗi trung đội trên dưới ba mươi người, thay phiên nhau phục dịch bếp nước.
Thời khóa biểu được ấn định như sau: sáu giờ sáng có hồi kèn
đánh thức, từng toán, tùy nơi mình ở, đưa nhau đến khúc suối gần nhất- khoảng từ
một đến hai trăm thước xa- đánh răng rửa mặt. Sáu giờ rưỡi tập họp tại sân
chính, chào cờ, nhận huấn thị của ban giám đốc. Bảy giờ ăn sáng- sắn luộc là
món ăn duy nhất rồi sau đó hoặc công tác kiếm củi hoặc vào lớp học lý thuyết,
hoặc lên đồi vỡ nương tăng gia thực hành.
Tuy mới đến đây được ba ngày, Tân cũng như các anh em khác đã
biết qua lý lịch đồn điển Lợi Ký. Đồn điền này cha truyền con nối đã được ba đời.
Thoạt là cụ đề Kình vì "có công" đi dẹp cuộc khởi nghĩa Yên Thế nên
được chính phủ Pháp cho phép khai phá vùng này lập đồn điền, số ruộng khai phá
hằng năm sản xuất đủ thóc cho hành huyện chính là công cụ đề Kình, đời thứ nhất.
Đời thứ hai: ông phán Nghị. Ông Nghị sinh trưởng tại Hà Nội
theo học đủ bốn năm bậc thành cung ở trường Bưởi. Đỗ xong, ông được vào một
chân thư ký tòa Sứ. Họ hàng bè bạn gọi ông là ông phán từ đấy. Ông bà phán Nghị
vẫn có một cửa hàng hiệu bán vải rất sầm uất ở phố hàng cải thâm. Khoảng năm
1943, ông bà tậu thêm một dinh cơ khá lớn ở làng Định Quyết và nhập tịch làng
đó, cách Hà Nội chừng năm cây số về phía đường xe điện Kim Liên. Vào dịp nghỉ lễ,
nghỉ tết Nguyên Đán, nghĩ hè ông bà cùng các con về làng hưởng gió đồng. Tuy đi
làm nhưng ông vẫn gián tiếp điều khiển công việc tại đồn điền. Cho đến 1945,
sau cuộc đảo chính Nhật, ông xin thôi, lên ở hẳn chốn hẻo lánh này trực tiếp
khuếch trương đồn điền. Các đồi chè đã xah lá, ông cho xây cất xưởng làm chè
các chợ miền xuôi bán. Ngoài ra ông còn cho giống thử hai mẫu cam quanh nhà, lấy
giống tận Bồ Hạ( Bắc Giang). Ông và bà thay phiên nhau đi đi về về, lẽ cố nhiên
vào những ngày giỗ và tết nhất, cả hai ông bà đều có mặt ở làng Định Quyết.
Hãng, đứa con trai đầu lòng, được ông cho sang Pháp học từ
năm mười lăm, năm mười chín Hãng đỗ xong tú tài. Thời nay Âu Châu chinh chiến,
hai năm qua đi Hãng không đỗ thêm một chứng chỉ đại học nào, nhận thấy đại chiến
đã sang thời tàn cục, tầu bè đi lại bớt nguy hiểm ông Phán bèn gọi Hãng về nuớc
và sang hẳn tên đồn điền cho Hãng, đời thứ ba. Đó là vào năm 1944.
Nhưng Hãng chẳng phải làm gì cả! Biết tâm lý con mới ở Pháp về
không thể ở chốn đèo heo hút gió, ông xếp nhiệm vụ cho Hãng tại ngay Hà Nội, vừa
trông nom lũ em ăn học, vừa đợi từng chuyến trà về điều khiển việc phân phát tới
các mối hàng rồi thu tiềng. Hãng còn ghi tên học Luật, cuối năm đó anh thi đỗ đầu
chứng chỉ năm đầu. Nói là Hãng có nhiệm vụ trong nom lũ em ăn học kỳ thực chính
Vân- cô em gái lớn của Hãng- đảm đang việc đó, trong khi bà Phán đi đi lại lại
như thoi để liên lạc giữa đồn điền với Hà Nội. Ở hoàn cảnh như vậy, Hãng đã
khét tiếng là một sinh viên Luật học phá gia chi tử tưởng không lấy làm lạ, tuy
nhiên khoảng mấy năm liền này tiền của vào nhà ông Phan như nước nên Hãng tha hồ
vung tay ném tiền qua cửa sổ cũng chẳng thấm thía vào đâu.
Năm Hãng về nước- 1944- Vân vừa mười tám tuổi kém anh năm tuổi
và đang theo học năm thứ ba ban trung học Pháp tại trường nữ Félix Faure. Vì học
trường đầm nhiều năm nên Vân không bỡ ngỡ trước những cử chỉ đôi khi quá phóng
khoáng của anh, nhất là đối với phái đẹp.
Vân có cô bạn chí thân tên là Quỳnh Hương nhà nghèo, gia cảnh
gặp nhiều ngang trái phải bỏ học từ năm trước. Vân thương Quỳnh lắm, chính Hãng
cũng thông cảm tình cảnh của Quỳnh Hương coi như em gái và tận tình giúp đỡ
nàng một cách trong sạch hoàn toàn, không vụ lợi. ( Sau đây chúng ta còn dịp gặp
lại Quỳnh Hương).
Dưới Vân là Thi, em gái thứ hai của Hãng, năm đó mười bốn tuổi.
Thi theo học ở trường Đồng Khánh, năm thứ nhất ban Thành chung.
Mới năm trước Vân thương Quỳnh Hương phải bỏ học, sang năm
sau Vân không ngờ chính nàng cũn rơi vào hoàn cảnh bắt buộc bỏ học. Bà Phán lên
đồn điền để lại cửa hàng vải cho nàng, rồi phi cơ Đồng minh hoạt động dữ, Hà Nội
báo động đêm báo động ngày, các trường tư di chuyển ra ngoại ô hay vào Hà Đông,
các trường công đi xa hẳn, trường Albert Sarraut vào tân Sầm Sơn (Thanh Hóa),
trường Félix Faure lên Tam Đảo và trường Đồng Khánh xuống Hưng Yên. Thi theo
trường đi đi Hưng Yên, ghi tên vào ký túc xá. Thế là Vân đành phải bỏ học ở lại
Hà Nội để tiếp tục trông nom cửa hàng vải cho mẹ đồng thời giúp anh cáng đáng mọi
công việc quen thuộc: phân phát từng chuyến trà tới các mối hàng rồi thu tiền.
Bà Phán có người em gái góa chồng buôn bán ở Hải Phòng. Không
may bà em này chết trong một chuyến oanh tạc của phi cơ Đồng minh để lại ba đứa
con giai: Cung, mười hai tuổi vừa đỗ xong bằng cơ thủy nhưng thi vào trường Bưởi
trượt phải học tư; tiên mười tuổi, Cận tám tuổi đều còn ở bực tiểu học. Bà Phàn
mang cả ba cháu về nuôi coi như chính con đẻ của mình.
Khi cuộc kháng Pháp sắp bùn nổ, ông bà Phán thu xếp cho cả ba
con Hãng, Vân, Thi và lũ cháu Cung, Tiến, Cận lên đồn điền; định cư tại làng Định
Quyết ông bà nhờ người hàng xóm trông nom giúp. Hãng buộc lòng phải về đồn điền
nhưng ở đây anh cũng chẳng làm gì mấy ngoài việc thỉnh thoảng tổ chức buổi đi
săn đêm tiêu khiển. Rồi kháng chiến toàn quốc… rồi toán thanh niên đầu tiên tới…
Hãng càng năng tổ chức đi săn đêm. Mới mười ngày qua mà đã ba lần anh em được
ăn thịt thú săn của Hãng: lần thứ nhất mấy con chồn; lần thứ hai con lợn rừng;
lần thứ ba con hươu.
Uỷ ban trung ương tản cư di cư chọn đồn điền Lợi Ký làm địa
điểm huấn luyện không phải là không có lý do. Thứ nhất: đồn điền này xa đường
thủy, xa đường bộ, xa đường xe lửa, không lo lộ mục tiêu phi cơ địch tới oanh tạc.
Thứ hai: chính tại đồn điền, cùng những vùng lân cận phía ven song Nhị Hà còn rất
nhiều đất tốt bỏ hoang, khi lớp huấn luyện bế mạc vùng này có thể tiếp nhận
trên dưới một vạn đồng bào di cư tới lập nghiệp.
Và như chúng ta đã biết, trong vòng mười ngày các toán nam nữ
thanh niên đã tới đủ, lớp huấn luyện sửa soạn khai mạc vào ngày hôm sau.
VII
Chương trình huấn luyện gồm hai đề mục chính: Trồng tỉa và
chăn nuôi. Ngoài ra còn những đề mục phụ như phương pháp tổ chức đồng bào tại
nơi định cư, phương pháp ngừa bệnh, nhất là bệnh sốt rét rừng,… Đây là một
chương trình huấn luyện cấp tốc, trước dự định trong hai mươi lắm ngày phải
xong, nay đã mười lăm ngày qua mà chương trình mới hết một phần ba, trong thấy
trước phải ít ra một tháng nữa mới tới ngày bế mạc, nghĩa là các học viên phải
đón xuân kháng chiến đầu tiên- xuân Đinh Hợi- ngay tại đồn điền Lợi Ký.
Thành phần trại huấn luyện khá phức tạp. Ban giám đốc gồm: một
anh đội trưởng hướng đạo, một anh sinh viên kiến trúc và một anh chưa học hết lớp
nhất nhưng tham gia cách mạng từ thời bí mật. Ban giảng viên gồm những nhà
chuyên môn trong số có một người mới ở Tàu về. Còn các trugn đội học viên bên
dưới thì sinh viên thú y có, sinh viên luật khoa có, công chức có, nông dân có,
công nhân có… Đặc biệt có cặp tình nhân: chàng, vóc người cao gầy, nước da trắng
xanh, mái tóc đen dài gợn sóng, dáng đi bao giờ cũng có một vẻ uể oải rất… tỉnh
thành, hình như chàng là kịch sĩ thì phải; Nàng cũng cao, người thon, tóc uốn,
khuôn mặt trái soan, đôi mắt đẽn thông minh một cách kiêu kỳ, dáng đi mệt nhọc
một cách tình tứ, hình như nàng là vũ nữ thì phải. Lẽ cố nhiên ban đêm nàng ngủ
ở khu nữ giới, nhưng sáng sớm, trên con đường ra suối rửa mặt, họ âu yếm sát
vai nhau, tay trong tay hoặc quàng lưng. Giờ nghỉ họ đưa nhau đi tha thẩn trên
đồi chè, lúc đó họ như hai hành tinh sinh đôi chung một vòm không khí, chung một
quỹ đạo. Tất cả mấy trăm anh chị em học viên khác không coi đó là một điều chướng
mắt, trái lại ai nấy có thái độ bao dung tựa hồ các anh chị làm ăn căn cơ ở quê
nhà nhìn vẻ ngộ nghĩnh tây tày của vợ chồng thằng chú em mới ở tỉnh chạy loạn về.
Các cán bộ thì nhìn họ bằng đôi mắt tin tưởng kiêu hãnh vì họ nghĩ rằng cóc hạng
người càng phức tạp, uy tính của cách mạng càng lớn mạnh khi uốn nắn được họ
vào con đường hy sinh gương mẫu.
Riêng Tân, chàng không chú ý đến cặp tình nhân đó, chàng đặc
biệt chú ý đến hai cô gái lớn con ông bà chủ, mặc dầu rất ít khi hai cô qua lại
những chốn đông người tụ tập. Những ngày đầu sống tại đồn điền, lần thứ nhất
Tân bất chợt thấy hai cô trong một khung cảnh thừa đủ gây thành một ấn tượng
lâu bền. Buổi chiều đó mặt trời đã gần chấm đỉnh núi phía tây, ánh sáng hiu hắt
một ngày đông tàn tạ chẳng còn thể phấn đấu nổi với hơi lạnh từ thung lũng dâng
lên và tiếng gió âm thầm qua những cành khô như tiếng thở dài tuyệt vọng của một
tình nhân bên giường bệnh một tình nhân. Trên chiếc ghế xích đu, bên cạnh cửa sổ
trông về phía bếp- tiểu đội Tân khi đó đang phụ trách công việc bếp nước- dáng
một cô gái bận đồ lụa bạch với chiếc áo len ngoài cùng ăn sát vào thân hình chắc
lẳn, cố quàng khăn san màu tím hoa cà: nàng đương cắm cúi khâu vá. Rồi cô em từ
phòng trong chạy tới, dáng mảnh khảnh hơn, bận đồ tương tự, duy áo len mặc
ngoài màu hồng và khăn quàng len màu vàng; nàng cầm quyển sách ở tay nhưng
không đọc, luôn luôn cúi xuống bàn bạc với chị điều gì, dáng điệu vô cùng thùy
mị. Cả hai cùng có suối tóc tơ óng đẹp rủ xuống vai.
Buổi tối ánh sáng ngọn măng- song 120 nên ở phòng khách như
thừa sinh lực tràn thoát ra các ngả cửa sổ thành những phiến ánh sáng trắng
xanh in hẳn lên những luống hoa dài chạy viền quanh nhà. Lũ trẻ nhỏ đã đi ngủ.
Thấp thoáng bóng cao gầy của ông bà Phán, bóng vạm vỡ của Hãng, hai bóng đẹp dịu
dàng và bóng mấy người trong ban giám đốc ở nhà bên sang thăm xã giao. Có tiếng
vĩ cầm khá điêu luyện. A! Đó là tiếng đàn của anh chàng sinh viên kiến trúc
trong ban giám đốc. ( Tân cũng không hiểu sao anh chàng sinh viên nghệ sĩ đó lại
là thành phần của ban giám đốc). Rồi tối hôm sau vẫn những phiến ánh sáng đó vẫn
những bóng người đó và tiếng đàn. Có một lần vô tình Tân theo bậc gạch lên sân,
chàng vội vã đi lướt qua thềm, khuôn mặt lanh lợi với ánh mắt khỏe mạnh của cô
chị có nhìn ra.
Nhiều hôm mưa rơi từ chiều dai dẳng, những bước chân đi ướt
làm nặng chĩu tâm hồn, rồi bóng tối mênh mông câm lặng rủ xuống xóa nhòa ý niệm
thời gian trong trí Tân…Rồi ánh đèn bừng sáng… Tân lắng nghe tiếng đàn từ phòng
khách vẳng xuống qua màn nước mưa…
Hẳn anh chàng sinh viên kiến trúc muốn tỏ mình là một nhạc sĩ
bách công vì anh chàng đánh đủ cái loại bài, từ một vài đường nhạc cực kỳ lắt
léo và phong phú chắc là trích ở một concerto nào, qua những bản cổ điển nhỏ, tới
những bài Việt phổ thong như: Con Thuyền Không Bến, Cô Hái Hoa, Suối Mơ… Tất cả
những bài đó anh chàng đều đánh thuộc lòng và- điều này mới đáng quí- kể cả những
bài bình thường nhất dưới ngón tay tài hoa của anh chàng cũng đượm một sức quyến
rũ đặc biệt y như những cô gái vừa đến tuổi dậy thì mỗi người một vẻ.
Thế nào anh chàng chẳng mê một trong hai cô- Tân nghĩ thầm thế-
và thế nào tiếng đàn của anh chàng gây bang khuâng xao xuyến trong lòng ai rồi.
Đã hơn một lần vừa nghe tiếng đàn vừa trạnh thương cho mối tình vô vọng đến phi
lý của mình, Tân thầm ước cho đôi trẻ trên kia sớm thành đôi lứa.
VIII
Thấm thoát chương trình huấn luyện tại đồn điền Lợi Ký đã được
dư ba tuần lễ, tới ngày ba mươi tết công việc tạm ngừng. Những học viên nào có
gia đình gần vùng này đều lên xin ban giám đốc cho phép về. Còn những người ở lại
ai nấy như cố tránh nhắc nhở đến việc đón xuân, trừ việc ban giám đốc báo trước
sẽ tổ chức lửa trại vào đêm mồng bốn tết. Không nhắc đến là phải! Còn lòng dạ
nào mà đón xuân? Ở đâu tuy xa tiếng súng nhưng tin tức tới đều và nhanh. Trung
đoàn thủ đô vẫn bị vây hãm tại khu hàng Bạc, hàng Chiếu, Ngõ Gạch, Đồng Xuân…
Các mặt trận ngoại ô đã lần lượt bị vỡ, phi cơ địch càng được thế tung hoành
oanh tạc để mở rộng đường tiến quân của chúng. Đó là hiện trạng bi đát của cả
dân tộc. Đến tâm trạng riêng tư từng ở lại đồn điền Lợi Ký: gia đình họ ra sao
khi mặt trận mở rộng? Hiện nay thất lạc nơi đâu? Có còn nguyên vẹn hay không?
Mưa rơi suốt ngày ba mươi, âm thanh rả rích. Chiều, mưa ngừng
một lát, vòm trời đượm vẻ ngơ ngác của một người sầu khổ như giật mình tỉnh giấc
và mưa lại bắt đầu rơi…
Tân không quên những nông nổi buồi tủi chàng sớm phải chịu
trong cảnh mẹ góa con côi, cửa nhà sa sút; Tân không quên những nỗi cực nhọc thức
khuya dậy sớm chuyên chở hàng hóa trong mấy năm trường buôn bán đỡ đần mẹ…
Nhưng điều mà Tân không quên hơn cả là chưa một đêm ba mươi tết nào chàng phải
sống xa me. Quân Pháp chưa đánh đến Bắc Ninh, mẹ chàng chưa phải tản cư, nhưng
đêm ba mươi tết này mẹ chàng làm gì, mẹ chàng nghĩ gì trong cảnh cô quạnh đó?
Để đánh lạc tình thương mẹ, Tân chuyển ý nghĩ sang người đẹp
ga Thanh Ba y như người chăm chú nhìn một vì sao để quên cả vòm trời man mác.
Thực vậy tình thương mẹ của chàng mênh mông như không có biên giới thời gian mà
tình gặp gỡ cô gái áo lụa bạch là vết đau của hiện tại, của tuổi chàng.
Có lẽ đêm đã khuya lắm rồi… Đêm ba mươi tết, đêm của xum họp
đoàn tụ mà nơi đây lặng lẽ như mồ hoang. Tân ra đứng bên cửa sổ ngó về phía
thung lũng tối đen; gió tự bên ngoài lùa nhẹ vào, phả lên mặt chàng với chút
mưa bụi. Có tiếng cành cao lung lay trong gió phía cuối nhà. Có tiếng quả ủng
rung nhẹ không biết là quả gì. Tựa như có cái gì xôn xao náo động bên ngoài
chuyển mình.
-" Em mười bảy, em chỉ sống đến năm hai mươi, em không
muốn sống hơn."
-" Em nói đúng, một người con gái đẹp chẳng nên sống quá
tuổi đó, em cho anh xin khoảng thời gian còn lại của em."
Tân quay về giường nằm vừa đắp kín chăn vừa nhắm mắt ôn lại
giấc mộng những mong ngủ thiếp ngay đi…
Một ý nghĩ chợt đến: Hay là người con gái đó đã tử nạn khi
quân Pháp mở rộng mặt trận nào?
Trong khi đó, ông bà Phán và mấy người con lớn đương sửa soạn
làm lễ giao thừa trên nhà. Tân nào có biết. Mưa đã ngớt hẳn, chàng lắng nghe tiếng
gió… tiếng gió khô xác, lẹ như cánh én, chắc là gió đương ra công quét sạch mây
xám ngoài kia để đón một năm mới, năm của hy vọng.
Tân ngủ thiếp đi và lạc sang một giấc mộng nào trong đó có tiếng
ngâm thơ, giọng ngâm rãi rệ mang mang buồn như giọng của Cao Tiệm Ly tiễn Kinh
Kha bên bờ Dịch Thủy:
Cách…nhau…ngàn…vạn…dặm…
Nhớ…chi…tới…trăng…thề…
CHƯƠNG III
ANH TRƯỞNG VỎ
I
Mồng bốn Tết!
Toàn thể gia đình ông Phán có mặt tại đêm lửa trại và ngồi ở
hang ghế danh dự cùng với ban giám đốc và các đội trưởng trong số có Tân. Ba cậu
nhỏ Cung, Tiến, Cận ngồi kèm hai bên ông bà Phán ở hàng ghế đầu. Hãng ngồi ở
hàng ghế thứ hai. Anh mặc ngoài chiếc áo chandail nên trông càng vạm
vỡ; nước da rám đen, khuôn mặt vuông, đôi mắt linh hoạt tố cáo anh vào hạng đào
hoa lịch lãm. Ngồi hai bên ạnh là Vân và Thi.
Sau lời tuyên bố khai mạc mọi người đứng dậy làm lễ chào cờ
và mặc niệm. Ạnh chàng sinh viên kiến trúc với cây vĩ cầm phụ trách độc tấu bản "Tiến
Quân Ca" và bài "Mặc niệm", tiếng đàn sắc gọn ở
barnthwus nhất và rất réo rắt ở bản thứ hai, tới nốt dài cuối cùng, anh chàng bấm
thành nốt láy - trille - bồi hồi thổn thức. Khi tiếng đàn dứt hẳn, mọi
người thở phào, tiếng tấm tắc ngợi khen như một luồng điện truyền nhanh qua các
cửa miệng. Không một thanh niên nào tỏ vẻ lưu tâm đến tài của anh. Điều kỳ dị
nhất là chính anh chàng cũng chẳng hề tỏ vẻ chú ý đến hai người đẹp.
Càng về khuya than hồng càng đượm, đôi mắt Vân long lanh, đôi
gò má nàng hồng căng như có tiết ra hơi nóng nồng nàn, nụ cười của nàng tươi tắn
cởi mở, thỉnh thoảng nàng khoa tay, đôi cánh tay đẫy đà nổi hẳn dưới làn phin
trắng, đôi bàn tay với những ngón thon dài, mỗi khi nhón cầm cái gì ngón út thường
uốn cao và cong lên. Thi ngồi ngay bên, người ngây trong sáng. Kể cả lúc than hồng
rực rỡ nhất, da Thi vẫn phảng phất xanh, rõ ra người sức khoẻ mong manh từ bé;
mỗi khi nàng cười với cha ma, anh chị… nụ cười hiền như cỏ làm dịu ánh than hồng,
mặc dầu nàng mặc áo len dài tay - mầu len xanh lá cây - mà một lần có cơn gió mạnh
lùa tới nàng phải để một tay lên ngực rồi thúng thắng ho làm rung động đôi hoa
tai tròn nhỏ nàng đeo.
Chương trình diễn được một lúc, chợt ông Phán đứng dậy chào mừng
vồn vã và một người trạc ba mươi đương lách đám đông khan giả đi vào.
- "Ông chủ tịch…ông chủ tịch huyện!" - lời ông Phán
nói khẽ nhưng Tân nghe rõ, chàng ngẩn nhìn và bở ngỡ.
Chủ tịch huyện Thanh Ba (đồn điền Lợi Ký thuộc địa phận Thanh
Ba) vừa tiến tới. Vẻ niềm nở quá đáng của ông Phán tiến tới bắt tay khiến điệu
bộ viên chủ tịch càng thêm chững chạc.
Ngày mồng hai, nhân ra ga Ám Thượng chúc tết mấy người quen,
ông Phán có gặp viên chủ tịch này và ngỏ lời mời y nếu tiện dịp đến thăm đồn điền
Lợi Ký vào đêm mồng bốn Tết, đêm có lửa trại. Trong thâm tâm, ông Phán không ngờ
là y sẽ đến. Viên chủ tịch cũ từ ngày đầu cách mạng là một thanh niên đã học đến
năm thứ ba ban thành chung, rất hăng hái, nhiệt thành yêu nước những cũng rất
nhu mì giải quyết mọi công việc thuần bằng tình cảm. Viên chủ tịch mới lên thay
được chừng ba tháng nay. Đoàn thể - (ông Phán cũng chỉ mang máng hiểu rằng
"đoàn thể" tức là những phần tử quan trọng điều khiển Mặt trận Việt
Minh) - giải thích sự thay đổi đó rằng: "Khu vực này rất quan trọng, là đầu
mối các miền Lạng Sơn, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lào Kay nên cần một người có kinh
nghiệm lên điều khiển guồng máy hành chính". Ai cũng nhận điều giải thích ấy
alf đúng nhưng viên chủ tịch mới có vẻ cứng rắn nghiêm khắc quá. Ông Phán hơn rờn
rợn khi thấy y có thái độ trở mặt như trở bàn tay: vừa cười rất niềm nở với người
này lại lập tức có ngay bộ mặt nghiêm lạnh với người khác, phần nhiều là người
cấp dưới của y: (Là nhân sĩ bàng huyện, ông Phán vẫn được y mời họp để tham gia
ý kiến với uỷ ban hành chính khác chiến huyện). Đây là lần đầu tiên, sau ba
tháng lên làm chủ tịch, y đến thăm đồn điền Lợi Ký, (trại huấn luyện liên lạc
thẳng với tỉnh, không qua y).
Thoạt ông Phán giới thiệu y với bà Phán, với các con, rồi với
tất cả những người có mặt tại cuộc lửa trại. Gặp đôi mắt Tân y thoáng vẻ bối rối
nhưng y tự chủ được ngay khi cúi chào và từ đó không nhìn Tân một lần nào nữa.
Ông Phán vỗ tay mấy cái đợi ai nấy im lặng rồi mới nói:
- Thưa các anh chị em tôi rất lấy làm hân hạnh, rất lấy làm
hân hạnh giới thiệu cùng với toàn thể các anh chị em trại huấn luyện… đây là
ông Mạnh… Nguyễn Đức Mạnh, chủ tịch huyện Thanh Ba.
Mọi người vỗ tay, viên chủ tịch cúi chào, ông Phán mời y ngồi
bên cạnh, cuộc vui tiếp tục. Y tới một mình, ở đây không phải là uỷ ban không
có cấp dưới, nên y chỉ phải sử dụng có một bộ mặt, bộ mặt xã giao niềm nở.
Tân nghĩ thầm:
- Chuỷ, hử, Chuỷ con ông Đồ Thinh, việc gì hắn phải tránh
không dám ngó mình. Hắn sợ phải nhận mình là người làng?
Tân đưa mắt nhìn đôi bàn tay to lớn của y, đôi bàn tay đắc lực
của những kẻ đã từng vật lộn với đồng ruộng để tạo nên những cơ nghiệp lương
thiện ca ngợi trong phong dao:
Nay mừng những kẻ nông phu,
Cầu cho hoà cốc phong thu bình thời
Bước sang hạ gió thu tàn,
Thu tiền tiễn hoạch giầu ngang Thạch Sùng.
Quý nhân cùng kẻ anh hùng,
Rắp toan muốn hỏi nhà nông ê hề.
Thân hình y thật là lực lưỡng - y vẫn lực lưỡng từ thủa bé,
Tân nhớ lắm - nhiều lần Tân nhắm mắt lại tưởng tượng giá y mặc quần áo nâu thì
y đẹp chất phác biết là chừng nào, tiếc thay y lại vận âu phục với đôi vai long
đình.
Y luôn luôn quay xuống hàng ghế dưới nói chuyện với Hãng,
Hãng vốn là chàng trai dễ dãi vô tâm nên cười nói thực tình. Đôi khi y có gợi
chuyện với Vân để được Vân lễ phép đáp lại, chỉ có Thi là ngoảnh mặt đi bới
khác nhưng tuyệt nhiên không nói gì với y.
Trán y hơi thấp, nhưng mái tóc thưa nhẹ nhõm. Thửa y còn là
người nhà nông, y cũng thuộc hạng thông minh kha khá có thể ứng khẩu hát những
câu vè dí dỏm đối đáp với những cô gái quê tinh ranh có nụ cười tươi với cặp mắt
sắc như dao cau. Đôi mắt y sáng lắm, Tân tin rằng đứng giữa quãng đồng bao la,
cặp mắt đó ngẩng nhìn trời có thể tiên liệu rất đúng những ngày gieo mạ cấy
lúa. Cả khuôn mặt y dở nhất có cái miệng: đôi môi hơi dầy và hàm răng trước cửa
vổ ra quá nhiều nên khi y chum môi thì được, nhưng mím môi thì hơi khó. Khuôn mặt
vuông, cằm bạnh, nước da bánh mật chỉ càn gặp nắng một ngày là trở nên đen xạm.
Chương trình đã diễn được quá nửa, bà Phán quay lại khuyên
Thi nên đi ngủ trước kẻo ngồi lâu bị cảm lạnh, bệnh phổi có thể tái phát. Thi
vâng lời đứng dậy thì có lời giới thiệu anh chàng sinh viên nghệ sĩ độc tấu một
bản, nàng lại ngồi xuống cùng vỗ tay với mọi người rồi lim dim mắt theo dõi tiếng
đàn thất thểu chập chờn như cánh bướm và lơ đễnh như chiếc thuyền không người,
bản Réverie của Schuman. Bản nhạc dứt bà Phán quay lại dục Thi lần
nữa nàng mới quyết định đứng dậy về phòng. Viên chủ tịch quay lại, ý muốn nói
vài lời xã giao với Thi, nhưng nàng đã đi thẳng.
Chương trình lửa trại bế mạc, ông Phán muốn lưu viên chủ tịch
huyện nghỉ lại đồn điền nhưng y cám ơn và xin cáo lui.
Tân đưa mắt nhìn theo, ôn lại thái độ rất kẻ cả của y suốt buổi
lửa trại và chàng kết luận thầm: "Làm chủ tịch huyện. Chuỷ đã đánh mất một
cái gì thực của y, nó làm y đẹp - đẹp về tinh thần - y đương cố tạo nên một cái
gì mới để thay thế, nhưng cái mới không hợp với y chút nào, nó khiến y lạc
lõng, bỡ ngỡ. Sở dĩ không ai để ý đến vẻ lạc lõng bỡ ngỡ đó, sở dĩ y tưởng đã
đàn áp được vẻ lạc lõng bỡ ngỡ đó chỉ vì hiện tại y đương nắm quyền hành.
II
Ông đồ Thinh là một nhà nho lỡ vận, tính tình hiền lành chỉ
mê đọc kinh Dịch và khảo sát về tử vi, chẳng ngày nào là không có khách trong
hàng huyện đến hỏi ông về lá số nào đó. Ông sinh sống bằng nghề tử vi.
Số hiếm hoi - ông biết vậy vì tự thấy bị Tuần, Triệt ở cung tử
tức - mãi gần năm mươi tuổi ông mới có được với bà bé cậu con trai đầu lòng mà
ông đặt tên là Chuỷ. (Bà cả mất đã ngoài mười năm).
Bà đồ sinh được "hoàng nam" vui như mở cờ, trong
khi đó ông đồ đượm vẻ đăm chiêu sầu muộn. Thoạt là bà đồ không hiểu, cho tới
ngày kia có ông đô Cán tới chơi bà mới vỡ lẽ…
Ông đô Cán là người cùng bên quê Liên Phú với bà đồ có liên hệ
thúc bá chút ít. Ông đồ Cán thân với ông đồ Thinh từ thủa hai người còn cắp
sách theo học cụ Phó bảng làng Đỗ Xá ngay sát bên cạnh làng Lại Vũ. Cả đôi bạn
cùng lận đận trên trường thi cử, ông Cán thoạt xin được bổ nhậm thừa phái tại một
huyện miền trung du, rồi từ đấy hết huyện lỵ trung du này sang châu lỵ trung du
khác, ông thừa Cán thăng chức đô lại, ông đô Cán! Ông đô Cán cũng thích tử vi
nhưng tự nhận mình chỉ đáng là đàn em ông đồ Thinh. Mỗi lần có dịp về thăm quê
- một năm độ đôi ba lần - thế nào ông đô Cán cũng để ra một buổi sáng bàn về tử
vi với ông đồ Thinh rồi mới về nhiệm sở. Còn một điểm nữa khiến hai người càng
thân nhau: ông đô Cán cũng hiếm hoi, Nguyên do, theo sự nhận xét của ông đồ
Thinh, cung tử tức của ông đô có sao Bạch Hổ, hổ thường ăn con! Năm ông đồ
Thinh sinh Chuỷ tuổi gì đó, thì ông đô Cán cũng chỉ mới có một cậu con giai duy
nhất đặt tên là Khoá chừng năm, sáu tuổi gì đó. Đi làm việc quan trên mạn ngược
lâu năm, ông đô Cán nghiện, điểm khác nhau vì hoàn cảnh đó đâu có ăn nhằm gì đến
tình bạn của hai người. Lần đó Chuỷ đã gần đầy tuổi thì ông đô Cán về thăm quê
và sang thăm ông đồ Thinh.
Ông đồ mở đầu câu chuyện:
- Giai bất nhân Phá Quân Thìn Tuất, gái bạc tình Tham
Sát Nhàn cung! Tôi xem số thằng bé nhà tôi mà thấy ngại bác ạ.
Ông đô Cán cầm lá số của Chuỷ xem qua một lượt suy nghĩ rồi gật
gù:
- Mệnh cung có Phá Quân!
Ông đồ nhăn mặt đau khổ:
- Phá Quân mà lại đóng ở Tuất nữa mới chết chứ.
Ông đô Cán cười:
- Bác đừng ngại, đã đành Phá Quân là hung tinh nhưng xưa kia
cũng là số của Quan Vân Trường, con người trung nghĩa biết bao.
Ông đồ thở dài nhè nhẹ, khẽ lắc đầu:
- Thì vẫn thế…
Ông muốn nói tiếp: "…nhưng mấy người được như Quan Vân
Trường," rồi lại thôi. Ông cúi xuống nhìn lá số tiếp:
- Nó là Thuỷ Nhị Cục, khoảng 42-52 đại tiểu hạn trùng phùng.
Tướng Quân ngộ Triệt e rằng bất đắc kỳ tử.
Ông đô Cán lại an ủi:
- Trường hợp đại hạn xấu, tiểu hạn cũng xấu, hai anh xấu gặp
nhau không hành hạ nhau nữa, cùng một bạn một bầy với nhau mà, nếu cả hai cùng
tốt thì "Thái cương tắc triết" như lúa tốt quá hoá ốp; cho
nên theo kinh nghiệm của tôi đại tiểu hạn trùng phùng lợi không lợi to, hại
không hại lớn.
Ông đồ lắc đầu vẻ ngao ngán hơn, nhưng lần này ông không nói
gì.
Sự thắc mắc của ông đồ về lá số của Chuỷ cũng nguôi dần; ông
vẫn tiếp tục nghiên cứu những lá số khác. Cậu bé Chuỷ lớn lên trong sự nuông
chiều của ông và trong bầu không khí nghiêm trọng của tử vi, kinh Dịch. Ông đồ
thường cùng bạn nghiên cứu tử vi, kinh Dịch vào sau bữa cơm tối.
Chính bà đồ phải luôn luôn gào thét đánh mắng Chuỷ. Mỗi lần
chứng kiến thái độ ngỗ nghịch quá đáng của Chuỷ ông đồ vớ lấy chiếc xe điếu
kinh châu (thứ xe điếu có nhiều mấu, đánh rất đau) áp vào đít Chuỷ và quát khẽ:
"ông đánh chết giờ!" Chuỷ thường điềm nhiên đứng yên bĩu môi vì thừa
biết bố không bao giờ đánh mình.
Vào năm Chuỷ lên ba, một lần đôi tri kỷ tử vi gặp nhau, ông đồ
Thinh dạo đó đương mệt bỗng hỏi ông đô Cán:
- Bác Mẫn-Trí nhỉ (tên tự của ông đô Cán) sau này ngày tôi
hai năm mươi bác đặt tên hiệu cho tôi là gì nào?
Đôi mắt ông đô Cán sáng lên, ông ngờ đâu mình lại được cái
hân hạnh ông đồ Thinh hỏi ý kiến về đặt tên hiệu trước lúc lâm chung, cả tư duy
ông bừng lên chói lọi và ông đáp ngay:
- Thái Nhất tiên sinh! Phải, Thái Nhất tiên sinh rất hợp với
quý danh!
Ông đồ gật gù:
- Thái Nhất tiên sinh!
Giọng ông đô Cán càng hối hả:
- Thái Nhất, khí trong trời đất lúc còn hồn nhiên, vị phân…
- Vâng, tôi biết - ông đồ trầm ngâm đáp - chữ trong Lạ
Thị Xuân Thu. Khi đó thanh tịnh hợp với tên Thinh của tôi, ý nghĩa bao quát hơn
nên bác lấy làm tên hiệu.
- Chính thị! - ông đô Cán vội vã đáp.
- Xin đa tạ và xin nhận - ông đồ vẫn nói bằng giọng thật điềm
tĩnh.
Khi ra về ông đô Cán mới giật mình lo lắng nghĩ thầm hẳn bạn
mình đã tự bấm số trước biết không tránh được số trời nên mới nghĩ đến đặt tên
hiệu. Và lòng ông đô Cán rưng rưng.
Được lúc tĩnh tâm nào. Ông nghĩ câu đối viếng bạn.
Những tưởng ngày một ngày hai ông đồ Thinh mất, nào ngờ ông đồ
khoẻ trở lại, đôi bạn còn gặp nhau nhiều để tiếp tục thảo luận về tử vi. Kể những
câu thơ bàn về tử vi ông đồ đọc nhiều lắm nhưng cậu bé Chuỷ - năm đó lên bảy -
chỉ nhớ được độc có một câu mà cậu cho là lý thú lắm:
Sao Thai mà ngộ Đào Hoa
Tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng.
Đúng vào lúc không ngờ nhất thì ông đô Cán được hay tin ông đồ
Thinh mất. Tên hiệu "Thái Nhất tiên sinh" đặt trước thấm thoắt đã năm
năm.
Trong hàng đối trướng dài nờm nượp của bà con bạn hữu xa gần
phúng ông đồ có chiếc trướng của ông đô Cán. Ông đô Cán đã tôn việc xem tử vi của
người bạn quá cố lên thành một thứ đạo, ông dùng bốn chứ của Từ Cán đời Lục Triều
để ca ngợi bạn trong lời ai điếu:
KỲ ĐẠO DO TỒN
Ý ông muốn nói: ông đồ Thinh tuy chết đi nhưng đạo tử vi của
ông sẽ mãi mãi trông đám môn sinh.
Ông đồ mất, Chuỷ lên tám, học trò có hợp đồng môn làm ma linh
đình, nhưng sau đó bà đồ sống lần hồi trong cảnh túng bẩn. Sau cùng, cực chẳng
đã bà đành cho Chuỷ sang làng bên - quê bà - đi chăn bò cho một điền chủ là
cháu họ gọi bà bằng cô. Ngày ngày Chuỷ phụ trách chăn một con bò đen tuyền và một
con bê vàng đốm trắng. Chùy rất ưa con bò đen hung hăng này; trên bờ sông máng
hễ gặp con bò khác nó thường xông tới húc liền kỳ cho đối phương bỏ chay, nhiều
con vì hốt hoảng tránh nó mà lăn xuống sông máng. Cũng vì con bò đen hung hãn
này mà thường xảy những vụ xô xát giữa Chuỷ với lũ mục đồng cùng lứa tuổi,
nhưng vì sức Chuỷ vạm vỡ nên mỗi khi có cuộc ẩu đả phần thắng thường về Chuỷ.
Sau phút chiến thắng, Chuỷ cười hềnh hệch ngồi ngất nghểu trên lưng bò tay cầm
sợi chỉ dài buộc con cánh cam giựt giựt cho nó bay vù vù trước mặt và ca lớn
câu đồng dao:
Bò đen húc lẫn bò vàng
Để cho bò trắng lăn quàng xuống sông.
Sớm sớm Chuỷ thường tìm bắt một con cánh cam buộc vào sợi chỉ
dài làm đồ chơi cầm tay suốt ngày; về chiều khi con cánh cam đã mệt là giựt
không buồn bay nữa, Chuỷ đặt nó xuống đất, dí mạnh gót chân lên, lắng tai nghe
tiếng vỡ vạn của đôi cánh cứng cùng thân thể con vật khốn nạn, khi nhấc gót
chân sang bên Chuỷ khoan khoái nhìn xuống con vật đã bị nát bét, phần dưới tiết
ra một chất nước vàng bầy nhầy. Mỗi lần dí gót chân như vậy Chuỷ nghe xao động
trong tiềm thức sức mạnh của bản năng phá hoại và dường như còn vương chút tình
cảm hãnh tiến của kẻ thấy mình nắm được quyền sinh sát trên một sinh vật.
Đêm đêm Chuỷ có cắp sách đi học A.B.C. Vì sáng ý chẳng bao
lâu Chuỷ biết đọc, biết viết, làm tính. Năm mười bốn tuổi Chuỷ về sống với mẹ.
Bà đồ vẫn nghiêm khắc với con nhưng Chuỷ cũng biêt sau bề ngoài nghiêm khắc đó,
mẹ thương mình rất nhiều. Tính từ mẫu dường như có làm yếu khuynh hướng phá hoại
và tình cảm hãnh tiến bên trong Chuỷ. Rồi trên mười năm dòng Chuỷ đem hết mực
ra giúp mẹ mọi việc đồng áng khó nhọc: đó là ưu điểm thứ nhất của Chuỷ về chữ
hiếu. Chuỷ thuộc rất nhiều ca dao câu ví, trong khi làm lụng ngoài đồng Chuỷ vẫn
hát đối đáp với các cô gái cùng làng. Chỉ những lúc cách ngỡ như vậy là các cô
giữ được cảm tình với Chuỷ, tới lúc đôi bên gần nhau Chuỷ hay giở trò cợt nhả
thô tục bị các cô cự nự. Các cô gọi riễu Chuỷ là "anh Trưởng Vổ".
Dáng người vạm vỡ, khuôn mặt không đến nỗi xấu duy có bộ răng vổ làm Chuỷ thất
thế trước ái tình. Trong trường hộ bị xúc phạm, nhiều lúc dùng những câu khá
chanh chua. Chuyện đó đến tai bà đồ, bà lồng lộn lên xỉa xói vào mặt Chuỷ:
"Cha tiên nhân nhà mày, mày có thèm cái đậu rán để bà mua về cho mày, việc
gì mày phải dở trò khốn nạn để bêu rếu bà". Bị mẹ mắng, Chuỷ biết lỗi im lặng:
đó là ưu điểm thứ hai của Chuỷ về chứ hiếu. Nhưng rồi sau đó, chứng nào vẫn tật
ấy! Đồng thời với cái xỉa xói: "Cha tiên nhân nhà mày, mày có thèm cái đậu
rán để rồi bà mua về cho mày!" Bà đồ đi ướm hỏi mấy cô gái cùng làng cho
Chuỷ, nhưng vì có lẽ vì Chuỷ có thành tích bất hảo quá, lại thêm danh từ
"Trưởng Vổ" đã quá phổ biến trong làng nên các cô gái đến tuổi đều một
mực từ chối, bà đồ đành tính chuyện hỏi vợ cho Chuỷ ở làng bên - quê bà - công
việc chưa thành thì bà bị bệnh - bệnh già - rồi mất. Đó là vào khoảng 1943 - 44
gì đó.
III
Cũng vào dạo này ba hoa khôi làng Lại Vũ đều gặp số phận hẩm
hiu rất đáng thương cảm.
Nàng thứ nhất thân hình nhỏ nhắn, mặt trái Xoan, nước da trắng
mịn đôi mắt đen thăm thẳm dưới đôi lông mày lá liễu cong dìa, nàng thường chít
khăn nhiễu, tóc rẽ giữa, một vài sợi uốn quăn tự nhiên loà xoá xuống trán và
khoảng hai thái dương, dáng nàng đi đứng thực đoan trang, người làng vẫn gọi
đùa là Thuý Kiều.
Nàng thứ hai khuôn mặt tròn, nước da trắng hồng, đôi mắt bồ
câu đen thơ ngây, giọng nói tiếng cười ròn tan, dáng đi lanh chao đon đã, làng
vẫn gọi là Thuý Vân. Là con nhà giàu, quanh năm "nàng Vân" chít khăn
nhung, vành khăn tròn lẳn rất khéo rất gọn trên đầu.
Nàng thứ ba có vẻ đẹp đầm lai, khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt phảng
phất màu xanh da trời lóng lánh, mũi cao; nàng vấn tóc trần và đầu ngơi rẽ lệch,
tên nàng là Hạn. Một thanh niên có chút Tây học gọi đùa nàng là Étéenne (Été +
N = Hạ + N = Hạn).
Năm 1944, hội giời - dân làng Lại Vũ vẫn gọi năm nào có dịch
bệnh tả hoành hành là năm hội giời - nàng Étéenne không may mắc bệnh rồi
"nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương".
Nàng Thuý Vân vẫn cất hàng ngũ cốc tại huyện Từ Sơn rồi xuôi
Hà Nội bán buôn cho mấy hiệu khách lớn ở phố hàng Bồ. Một thanh niên Trung Hoa
con một chủ hiệu lớn nhất mê nàng. Rồi đôi bên mê nhau. Chàng thanh niên con trời
đó lần mò về tận làng Lại Vũ hỏi nàng làm vợ nhưng cha mẹ nàng cương quyết khước
từ cho rằng để con gái lấy khách là một cái nhục lớn cho gia phong. Câu chuyện
vỡ lở, nàng Thuý Vân mất giá! Một số chàng trai môn đăng hộ đối trong làng giữ
nguyên thành kiến không ai chịu hỏi nàng. Sang năm 1944, nàng đành nhận lời lấy
một thanh niên cùng xóm rất tầm thường, kém nàng hai tuổi. Chàng trai này đã
thi ba lần rồi mà vẫn chưa đỗ bảng Cơ thuỷ, y cao lớn ngô nghê như gà tồ, ăn
nói bộc tệch, mặt đầy trứng cá, đôi bàn tay chuối mắn đã thô lại sần sùi vì ghẻ
mướp, y chỉ được một ưu điểm là: con một , nhà giàu, mẹ goá. Các chàng trai môn
đăng hộ đối tuy giữ thành kiến không chịu hỏi nàng Vân làm vợ, nhưng xem ra chẳng
chàng nào là không giữ nguyên tình cảm ngấm ngầm say mê nàng. Vì ngấm ngầm nên
mãnh liệt, càng mãnh liệt khi biết kẻ kia sẽ làm chủ nàng và càng mãnh liệt hơn
nữa theo tỉ lệ thuận với thời gian vun vút xê dịch tới gần ngày vu quy của
nàng. Ba hôm trước ngày cưới một thanh niên hào hoa nhất làng gặp nàng trước cửa
miếu vắng vẻ, đúng lúc tiếng chuông chùa gần đấy ngân tiếng thu không. Anh
chàng đã buông theo lòng đục mà sấn sổ ôm ghì lấy nàng như một tên vũ phu, nàng
bị ẩn lùi cho ngã dưa lưng vào đống rơm bên tường miếu gần với cầu hoa mòng rồng
toả hương thơm sực nức vào lúc nhoà tối. Nàng hết sức kháng cự! Anh chàng nói nửa
như van lơn, nửa như giận dữ, trong tiếng thở hổn hển: "Em sống với anh một
chút chẳng hơn sống với thằng đó suốt đời ư?" Nàng vẫn vùng vẫy sau cùng
thoát khỏi đôi cánh tay sắt lung lạc giữa ái tình kia, vành khăn sổ tung, quần
áo cô xô lệch... Hôm sau gặp nàng giữa đường làng đông đúc, chàng thanh niên bất
đắc chí đã bước theo sát nàng mấy bước và ngâm khẽ đủ để nàng nghe:
Biết thân đến bước lạc loài
Nhị đào thả bẻ cho người tình chung.
Ngày cưới nàng, những lời xì xào bàn tán, than tiếc ngẩn ngơ:
"Hạt ngọc ngâu vầy"... "Củ đậu cành mai..."
Vẫn anh chàng thanh niên bất đắc chí ngâm thêm một câu nữa:
Tiếc thay hạt gạo trăng ngần,
Thôi nồi đồng điếu lại vần than rơm.
Một bầu không khí hận tình u uất qui tụ lấy trí tưởng tượng của
thanh niên làng, đan lát thành một màng lưới vây quanh nàng Vân trong đêm tân
hôn.
°
Thuý Kiều vừa đến tuổi xuân của đời - hai mươi tuổi- thì xuất
giá. Chồng nàng là một thanh niên trăng trẻo dáng cao và hơi gầy, có đôi chút học
thức; chàng học đến năm thứ ba thành chung thì phá ngang theo ngành hiệu thính
viên. Mãn khoá chàng được làm trưởng đài vô tuyến tại Mường Sinh, một thị trấn
miền thượng Lào phía Tay Nam Phong-Saly, khoảng giáp với Vân Nam và Miến Điện.
Chàng một mình ra đi nhậm chứ vừa lúc nửa năm hương lửa đương nồng, hẹn vợ mãn
nhiệm kỳ - một năm rưỡi - sẽ trở về cùng nàng. Con đường cách trở xa thật là
xa, thư từ kể từ ngày gửi phải một tháng sau mới nhận được. Mấy bức thư đầu
chàng viết cho anh em vui lắm, chàng kể những chuyện ân ái rất ngộ nghĩnh mà
chàng hưởng thụ với các "nọong" (em) miền thượng Lào giữa ban ngày,
ngay trong vườn cây thuốc phiện. Bỗng nhiên thư tín của chàng ngưng bặt với
nàng cũng như với các bè bạn trong làng. Nàng tiếp tục công việc hàng ngày ươm
tơ tằm, quay guồng, xe sợi, dệt lụa tại căn nhà ngang cửa mở về hướng Đông. Buổi
sáng ánh mặt trời ùa vào, bóng nàng in thành vệt dài trên vách phía trong cùng;
ban đêm khi nàng khêu lớn ngọn đèn trên vách để dệt cửi, bóng nàng ngả dài về
phia cửa ra vào. Ôi, bóng nàng sớm trưa, chiều và đêm sao mà âm thầm, âm thầm
những vẫn đoan trang rất mực. Sang giữa năm 1944, nàng được tin chàng có tham
gia cách mạng hoạt động miền thượng Lào và bị thực dân xử bắn cùng với một số đồng
chí ngay trong rừng Mường Sinh cách nơi chàng làm việc không bao xa. Bóng nàng
càng âm thầm càng đoan trang, tiếng guồng xa, sợi chỉ se dài như bất tận tự cuộn
tròn trong lòng thăm thẳm của thời gian; rồi ban đêm là tiếng khung cửi đều đều
buồn buồn làm nền cho tiếng lòng âm thầm, nỉ non một mình nàng biết, một mình
nàng hay.
Một lần vào khoảng nửa đêm tiếng khung cửi bỗng nhiên ngừng bặt
lại khá lâu, bà mẹ chồng ở buồng trên thoáng nghe có tiếng khóc nức, bà rón rén
xuống nhà ngang đứng sát cửa, né mình trong bóng tối, nghiêng đầu nhòm vào;
nàng đương gục đầu trên hai cánh tay, mái tóc hơi lắc lư trên khung cửi. Mê man
trong đau khổ, nàng không nghe thấy tiếng bước chân của mẹ chồng, bóng nàng
không còn in dài ra phía cửa mà thu gọn lại trên khoảng khung cửi như đang ghé
xuống an ủi thầm bên tai nàng.
Mặt trận Việt Minh thời này hoạt động dữ tại các miền quê.
Chính Tân cũng gia nhập đoàn thể Thanh Niên Cứu Quốc làng để hoạt động bí mật.
Tiểu tổ của Tân - Tân là tổ trưởng - gồm ba thanh niên làng, người nào cũng
mang them bí danh, phụ trách hoạt động tại một xã lân cận. Ba người đã thay
phiên nhau làm "anh Cán" (cán bộ) tới đó khai hội để mở rộng phong
trào. Chuỷ cũng là tổ trưởng một tiểu tổ khác chuyên đi tới các chợ, các trường
học tuyên truyền xung phong, hoặc đến từng nhà Việt gian (những hương lý cam chịu
hợp tác với Pháp Nhật) cảnh cáo hoặc lớn hơn, tổ chức phá kho thóc của Nhật
phát cho đồng bào nghèo để khuếch trương ảnh hưởng Mặt trận. Chuỷ lấy bí danh
là Mạnh kể từ đấy.
Uy tín của Chuỷ ngày một lớn, cái tên "Trưởng Vổ" mờ
dần trong quên lãng và cũng vì thế Chuỷ tự thấy có bổn phận phải thận trọng
không dám có thái độ xấu nết với các cô như xưa nữa.
Tối hôm đó tiểu tổ Chuỷ phụ trách tổ chức một buổi mít tinh lớn
gồm mấy xã quanh vùng, khẩu hiệu: "Chống thu thóc!" "Chống phá
lúa giồng đay!" Địa điểm được chọn tại bãi tha ma giữa đồng làng.
Với sự hợp tác của bốn tiểu tổ bạn, Chuỷ bố trí các cây súng
- súng sáu, súng mút-cơ-tông; súng bắn chim - canh gác các ngả đường trọng yếu.
Cuộc mít tinh sau cùng biến thành tuần hành thị uy, các cây đuốc nối tiếp nhau
thành một dãy dài như hội hoa đăng. Trong số phụ nữ làng đi dự mít tinh có cả
nàng Kiều.
Cuộc mít tinh tuần hành được kết quả mĩ mãn. Khi dòng người
đã giải tán theo các ngả đường đã định trước, Chuỷ trao khẩu súng sáu cho một đồng
chí cất về kho kín, còn mình thì theo con đường đồng dẫn về cuối làng. Tiếng
thì thầm bàn tán khen ngợi của từng đoàn người đi trước theo chiều gió vẳng lại.
Có bóng anh chập chờn phái trước. Chuỷ rảo cẳng. Bóng đàn bà Chuỷ rảo cẳng hơn.
Nàng Kiều! Nàng đi sau cùng, quay lại nhận ra Chuỷ, khẽ gật đầu chào. Trăng thượng
tuần vừa lắn, một thứ ánh sáng lân tinh như còn thảng thốt chập chờn phía cuối
chân trời Tây, đúng khoảng trăng non vừa lặn. Lúc đó vào chín rưỡi tối. Bống tối
mơ hồ phủ ngập xuống cánh đồng, toán đi trước cách đấy chừng mười bước mới
trông chỉ thấy thấp thoáng Chuỷ quàng tay giữ nàng Kiều lại, nàng lún túng
không biết nói sao, nhưng im lặng. Toán trước hoàn toàn chìm trong bóng tối,
hai người hoàn toàn cảm thấy sống trơ vơ giữa một hòn đảo xung quanh là tiếng
rì rào a tòng của sóng lúa. Chuỷ khép chặt nàng Kiều trong vòng tay dìu nàng nằm
xuống bờ cỏ.
Nàng đã nhắm mắt để mặc Chuỷ…
Khi Chuỷ ghì nàng một lần cuối rồi đứng dậy nàng mới bàng
hoàng sực tỉnh, kéo vội cạp quần lên rồi nằm nghiêng người lại, hai tay ôm mặt
khóc rưng rức. Chuỷ biết nàng xấu hổ và hối hận, rón rén bước theo đường về và
khi đã đủ xa, Chuỷ rảo cẳng như chạy trốn… Từ đấy ban ngày khi thoáng thấy nàng
Kiều đàng xa Chuỷ vội lẩn mặt. Dường như Chuỷ cũng thấy mình đã xúc phạm đến một
mối tình thiêng liêng, dường như Chuỷ cũng cảm thấy một cái gì rờn rợn của căm
hờn.
Ba tháng qua đi, tới một buổi chiều chạng vạng, Chuỷ từ làng
bên vừa về đến ngỏ xóm cuối làng thì một bóng người - bóng nàng Kiều - nhô khỏi
khúc quành cùng tiếng nói:
- Anh Chuỷ!
- Chị Cát! - tên người chồng cũ của nàng Kiều.
- Tôi có mang - giọng nói nàng thít qua kẽ răng, biết bao đau
khổ và đây nghiến - tôi có mang anh biết không?
Chuỷ thoạt lính quýnh nhưng rồi trầm tĩnh được và quyết định
ngay:
- Thì chúng ta lấy nhau chứ sao.
- Giời ơi! - giọng nàng như vừa biến thành hai giọt âm thanh
nức nở nhập vào bóng tối, bất tuyệt với tiếng thở dài của gió chiều.
Nhưng rồi còn biết làm sao khác? Nàng Kiều xin phép mẹ chồng
về nhà cha mẹ đẻ rồi cuối tháng đó cấp tốc sửa soạn lễ thành hôn với Chuỷ, giữa
những tiếng nghiến răng kèn kẹt của ông bố, giữa những lời đay nghiến như muốn
dứt da dứt thịt của bà mẹ và than ôi còn biết bao miệng tiếng dè bỉu chê cười của
người làng. Sau cùng đúng vào hôm nàng sẽ theo Chuỷ về, không sao chịu đựng được
những hình phạt tinh thần quá nặng nề tàn khốc đó nàng vừa khóc nức nở vừa nói
với cha mẹ:
- Vì thương đứa con trong bụng nên con phải gắng gượng sống,
con mà tự tử bây giờ thì nhà ta mang tội ba đời thầy u có biết cho con
chăng?... Giời ơi!
IV
Mặt trận Việt Minh đến thời hoạt động dữ. Tại thành thị, từng
khu được điều tra kỹ, xem có kẻ nào hợp tác với địch; tại làng thôn, các cảnh
sát viên hay vợ con của những người đó đều bị Mặt Trân phái người đến nhắn nhe
cảnh cáo. Cô Minh đẹp đến nỗi có mỹ danh là Minh Thiên Hương bị giết ở phố Chợ
Hôm chỉ vì đã làm công cho Nhật. Uy tín của Mặt trận Việt Minh đương thời vững
vàng đến nỗi việc đang tay sát hại cô gái đẹp mỹ miều vô hại kia không hề gây một
chút công phẫn, trái lại ai nấy yên trí rằng Việt Minh đã giết hẳn phải là có tội
nặng.
Có tin đội Sam, trước đây là mật thám cho Pháp, về phố huyện
Từ Sơn làm giỗ cha (mẹ đội Sam mở một của hàng tạp hoá nhỏ ngay trước cổng huyện),
tiểu tổ Chuỷ được lệnh ngay buổi chiều hôm đó phải đón đường giết đội Sam khi y
từ huyện xuôi về Hà Nội (đội Sam biết phận lắm, không dám ngủ ở nhà buổi tối,
sau khi về làm giỗ cha).
Cảnh cáo Việt gian, Chuỷ đã cảnh cáo nhiều, nhưng lãnh việc xử
rử thì lần này là lần đầu. Chuỷ nghiên cứu kỹ quãng đường và quyết định sẽ bố
trí giết đội Sam vào khúc quành của con đường Số Một cách cầu Đuống chừng hai
cây số.
Khi chiếc mô-tô deux temps của đội Sam lướt gần tới khúc
quanh đó, sợi dây trạo được nâng lên cao, hai đầu quấn lấy hai thân cây ở hai
bên đường, quãng giữa sợi dây có buộc một miếng vải đỏ. Tiếng phanh rít lên
nghe như thấy tiếng kêu thất thanh, đội Sam nhẩy được sang bên trái nhưng ngã sấp
xuống mặt đường trong khi chiếc xe còn lao về phía trước mươi thước nữa mới đổ
nghiêng xuống, dầu xăng trào ra tung toé. Đội Sam vừa chống hai tay đứng dậy
thì Chuỷ đã từ sau gốc cây xông tới. Biết mình lâm nguy đội Sam quay ngoắt người
định cắm đầu chạy thẳng về phía huyện may ra có thể gặp người bộ hành, gặp xe
hành khách mà thoát nạn. Nhưng đội Sam bàng hoàng loạng choạng, ba phát súng lục
nổ lien tiếp đều trúng đầu, y ngã sấp xuống, xương sọ vỡ toang, máu hoà với óc
phòi ra bầy nhầy. Khi cúi xuống lật ngửa y lên để gài bản án vào ngực, Chuỷ mới
nhận thấy thêm: Giây phút cuối cùng vì quá hoảng sợ đội Sam đã bĩnh ra quần,
màu vàng thấm ướt đũng trông chẳng khác gì màu vàng phần dưới thân con cánh cam
hồi nào bị cậu bé Chuỷ dẫm cho chết nát. Trong giây phút say sưa của một công
cuộc bố trí tới mức hoàn mỹ, Chuỷ thấy rằng giết người kể cũng không lấy gì làm
ghê gớm lắm. Nhớ lại trước đây, càng những đêm mưa to gió lớn việc đi cảnh cáo
Việt gian càng hào hứng. Gõ cửa. Cánh cửa hé mở. Ập vào, giơ súng lên. Trước bầy
người sợ xanh mắt, Chuỷ lớn tiếng khuyến cáo mấy lời đã thuộc lòng như cháo. Lũ
kia gật đầu lia lịa. Không gật đầu sao được! Lời nói nhân danh tổ quốc. Kẻ nói
vừa có súng lại vừa lặn lội mưa gió với bao gian nguy. Thường thường nói dứt lời,
Chuỷ hầm hầm xông tới tát hoặc thoi quai hàm mấy cái tuỳ trường hợp kẻ có lỗi
kia gày yếu hay lực lưỡng. Có người vì quá thương chồng vội vàng quì xuống vừa
lạy vừa khóc lóc van xin. Tháng tháng đón đọc tờ báo Cứu Quốc in li-tô, Chuỷ ưa
đọc trang đăng tin những vụ cảnh cáo hoặc ám sát Việt gian. Sau mỗi lần đi cảnh
cáo, Chuỷ thấy uy tín Mặt trận rõ ràng cao cả lên gấp bôi, lũ tay sai của địch
tan rã nhanh như bọt xà phòng gặp nước. Làm cách mạng thực cũng giản dị và con
đường vinh quang của cách mạng thực cũng thênh thang! Từ việc bất chợt tới nhà
cảnh cáo bằng cái tát, cú đấm bất chợt, đón đường thực hành án xử tử bằng súng
lục (xử tử đội Sam) tuy có bước nhảy vọt nhưng Chuỷ đã vượt qua bước đó dễ
dàng.
Tin đồng chí Mạnh (Chuỷ) giết đội Sam, thoạt bí mật truyền đi
trong các tiểu tổ rồi khắp làng Lại Vũ đều biết và mọi người nhìn Chuỷ bằng con
mắt gờm gờm kinh sợ. Khi vừa hay tin đó nàng Kiều mặt tái mét tưởng như sắp đến
lượt chính nàng bị bắn. Nàng đã sắp tới ngày sinh nở! Một tuần liền nàng khóc
nàng la bên tai Chuỷ:
- Anh là tên giết người! Trời ơi, đứa con anh về sau sẽ ra
sao khi biết bố nó đã từng giết người?!
Chuỷ mỏi miệng giải thích rằng đội Sam là mật thám là Việt
gian, theo lệnh của đoàn thể thì phải thanh toán cho hết những hạng chó săn đó
cách mạng mới thành công được mà người đàn bà yêu kiều nhưng cứng đầu cứng cổ
kia nhất định không chịu nghe không chịu hiểu, nàng chỉ một mực bám vào ý nghĩ:
"Đời cha đã giết người, đời con cũng đến bỏ đi." Một tuần ròng rã
khóc la, đay nghiến như vậy nàng khản đặc cổ.
Cách mạng tháng tám bùng nổ ở thủ đô!
Đê vỡ! Cả vùng ruộng thấp Bắc Ninh ngập dưới làn nước đỏ mênh
mông, nước ngập nửa làng Lại Vũ. Sóng đồng thật hỗn loạn! Những con thuyền
thúng nhỏ với những lá cờ đỏ sao vàng căng phồng phất phới từ Lại Vũ đi chéo
lên huyện Từ Sơn có khi mất đến hai tiếng đồng hồ.Một xác người trương phồng
không biết chết tự đâu theo con nước trôi rạt vào bờ luỹ tre. Người đàn bà lỡ
bước kia đau bụng âm ỉ từ một ngày trước và bắt đầu giở dạ đẻ khoảng mười hai
giờ khuya. Ở chốn quê hương thời ngập lụt này việc đi lại vô cùng diệu vợi. Mẹ
nàng hay tin vội mời bà mụ ở đầu làng lại. Đau quằn quại đã trên một tiếng đồng
hồ, nàng bị lột truồng từ khoảng dưới. Bà mụ đăm chiêu ngắm hình bụng nàng to
phình về phía mạng mỡ bên trái, phần bên phải đối diện ngỏ xẹp. Thật là khác
thường!
- Cô đau lắm hả? - bà mụ hỏi.
Nàng bặm môi dang tay gật đầu không nói. Cửa mình hơi mở nước
đầu ối chảy ứa ra màu trắng đục.
- Cô rặn thử được rồi đấy - bà nói.
Nàng rặn rồi nhăn mặt.
- Không sao đâu con ạ - mẹ nàng nói giọng đầy thương mến - nó
nhoai được ra là nhẹ người.
Nghe tiếng guốc bà biết là chồng đến, bà chạy ra cửa buồng
nói khẽ:
- Ông ngồi chờ ở gian bên đây.
- Nó chưa đẻ?
- Sắp!
- Cô rạng đùi ra một chút nữa - tiếng bà mụ - co chân lên,
hai tay nắm lấy hai cổ chân. Thế… Nắm chắc vào. Được rồi! Bây giờ rặn đi, rặn mạnh
nào.
- Đau quá bà ạ! Đau lắm bà ạ! - Nàng nói giọng hổn hển sau mỗi
lần rặn.
- Sắp được rồi đấy.
- Cố đi con -mẹ nàng đã đến ngồi trên đầu giường.
Lần này cùng với tiếng rặn bà mụ thò tay vào của mình.
- Trời Phật ơi! - Mẹ nàng và bà mụ kêu cùng một lúc…
Bà mụ vừa kéo ra một bàn tay xinh đồng thời với một dòng máu
nhỏ.
- Bà hãy kiếm lấy mấy cái chổi xể cùn đốt lên làm phép cho cô
ấy đỡ đau. - Bà mụ nới với mẹ nàng và mẹ nàng vội ra khỏi buồng.
- Có làm sao không bà?
- Không sao đâu, ông cứ ngồi đấy, tôi đi kiếm một tí chổi xể
cùn.
Bà mụ chép miệng nghĩ thầm: "Đẻ ngược có thể chẳng việc
gì, nhưng đẻ ngang thì biết làm sao bây giờ!"
Ngọn lửa nhóm lên. Tiếng nổ lách tách nhỏ. Khói toả mùi khét
hăng hắc của chổi xể cùn bị đốt. Đau… Mệt… Toát mồ hôi… Nàng vẫn theo lời bà mụ
đem hết hơi tàn ra rặn đẻ. Sau mỗi lần rặn, sức lực yếu hẳn, chân tay rã rời.
Bà mụ kéo cánh tay đứa trẻ ra đến khuỷu. Máu ra khá nhiều, hơi nàng thở nhanh.
Ngọn lửa chổi xể đã đượm than hồng. Mồ hôi nàng vã ra như tắm, nàng thét lên một
tiếng uốn cong người, da tái xanh, mắt sâu, má hóp, môi tím bầm, cả khuôn mặt
biến dạng đi trông không còn chút nhan sắc ban chiều. Nàng chính là hiện thân của
đau đớn, của tử thần. Tiếng rên thoạt hãi hùng, bí thiết, rồi tiếng rên yếu dần…
yếu dần. Mẹ nàng theo lời bà mụ đi kiếm người chở thuyền để kịp đưa nàng lên
huyện Từ Sơn có nhà hộ sinh. Ông bố vào hẳn phòng. Cánh tay đứa nhỏ thò ra đã
xám lại. Nàng thở dồn dập, thở bằng miệng. Nàng bỗng ngật đầu về phía sau và
như có kèm theo tiếng nấc khẽ, mắt trợn. Bà mẹ vừa kịp trở lại lúc nàng hết nấc,
thở khẽ và xuôi dần, chân tay duỗi thẳng, buông rời bất động. Khi nàng tắt hơi
thở cuối cùng thì đôi mắt còn trợn ngược, miệng há hốc. Bà mụ vuốt mắt, vuốt miệng
cho nàng, khẽ chép miệng thở dài, rồi đắp phủ lên thân nàng tấm mền mỏng hoa đỏ,
bà mẹ nàng cất tiếng khóc than kể lể, ông bố mím môi chớp mắt, thỉnh thoảng vuốt
sợi râu mép nhưng chính là vuốt sự sầu khổ cho nén xuống đáy lòng. Vừa năm giờ
sáng.
Cho tới lúc đó, Chuỷ chưa hay biết gì cả. Anh lên thuyền từ
trưa sang làng bên, tổ chức uỷ ban cách mạng ở đó. Mười giờ sáng hôm sau hay
tin sét đánh vợ chết, con chết Chuỷ mới lên thuyền về.
Kể từ sau vụ xử tử đội Sam, Chuỷ đã được kết nạp vào Đảng, được
sinh hoạt học tập cách lãnh đạo quần chúng, được Đảng cử xuống thực hành công
tác tại các thôn xã.
Khi hay tin vợ con Chuỷ chết, Đảng bèn cử Chuỷ lên huyện Bắc
Sơn (Lạng Sơn) học tập công tác ở ngay miền quê hương cách mạng đó. Đảng khéo sắp
đặt công tác khiến Chuỷ bận rộn suốt ngày. Chuỷ được dịp chúng kiến những tên
"phản cách mạng" đền tội dưới cờ (hầu hết là những người Đệ Tứ hoặc
Việt Quốc). Hơn một năm trời công tác ở Bắc Sơn, Chuỷ hoàn toàn quen với bầu
không khí sửa soạn và thực hành án xử tử. Thỉnh thoảng Đảng còn đưa Chuỷ cùng một
số đồng chí đến những miền có thổ phỉ ai nấy đào hố cá nhân ẩn nấp rồi xả súng
vào sào huyệt khiêu khích cho chúng bắn ra. Lối huấn luyện thực tiễn này giúp mọi
người quen với không khí chiến trường, quen với tiếng đạn từ xa bắn lại ríu
không khí. Biết bao lần ra đi như vậy chưa một ai bị nạn mà ai nấy cùng thấy
mình dày dạn chiến trường lên nhiều.
Và sau cùng đã ba tháng nay Chuỷ - bí danh Mạnh - được đoàn
thể hoàn toàn tín nhiệm cử về chức lãnh chức chủ tịch huyện Thanh Bat hay viên
chủ tịch cũ, một thanh niên ái quốc nhưng còn đầy rẫy nhưng tật xấu "tiểu
tư sản".
CHƯƠNG IV
PHẨM TIÊN RƠI ĐẾN TAY HÈN
I
Trở lại với khung cảnh đồn điền Lợi Ký
Mùng bảy tháng giêng, ba ngày sau đêm lửa trại.
Đã bảy ngày đầu xuân qua đi mà tiết trời hai ngày gần đây chỉ
những mưa cùng gió, ngày cũng như đêm rét buốt cắt thịt. Tuy thế ban giám đốc
trại huấn luyện vẫn ngày ngày cắt luân phiên từng hai trung đội một vào một
thung lũng sâu trong rừng sâu trong rừng cách đấy chừng một cây số rưỡi để thực
hành về trồng trọt. Lớp huấn luyện sẽ bế mạc vào ngày ràm tháng giêng tới. lẽ
dĩ nhiên, khu thung lũng đó cũng thuộc vào địa phận đồn điền Lợi Ký, nó mang một
cái tên thật kỳ dị: thung lũng Đùng. Nguyên do xung quanh là rừng rậm và núi,
thung lũng như hình một lòng chảo khá sâu, mùa hè mỗi khi mưa gió to lớn sấm
sét lồng lộn trên trời đập vào các sườn núi, thành rừng, rồi như bị xoáy cuộn để
vang hút xuống đáy thung lũng. Người tá điền đầu tiên đến khai phá thung lũng
này nhận rõ sự kiện đó bèn đặt tên là thung lũng Đùng. Mỗi lần Hàng đi săn đêm,
anh chẳng cần đi đâu chỉ việc vào khu thung lũng Đùng là có đủ cả hươu, nai;
báo, chồn … Từ đồn điền ngoài vào thung lũng Đùng phải qua một quãng đường hẹp
một bên là sườn núi thưa, một bên là dòng suối nhỏ uốn khúc lẩn dưới khe sâu.
Vào những mùa tạnh ráo, tiếng róc rách như tiếng đập đều đặn của trái tim khu rừng
núi này. Người ta có thể leo lên sườn núi rừng thưa một cách dễ dàng và theo lời
ông Phán cho biết bên kia sườn núi rừng thưa có một con đường mòn đi tắt đến
huyện Thanh Ba rất gần.
Vừa một tuần nữa qua đi. Đã có những ngày nắng ấm và chỉ còn
hai ngày nữa là mãn khóa trại huấn luyện. Sớm hôm đó vừa thức dậy Tân hay tin
đêm hôm qua hổ tới đồn điền bắt đi một con bò khá lớn. Việc phân phối công tác
của trại vẫn đều hòa. Khoảng bốn giờ chiếu có tin báo đã tìm thấy phần còn lại
con bò mất tích tít trên cao sườn núi rừng thưa. Ông Phán và Hãng bèn nhờ ban
giám đốc triệu tập cho chừng mươi người để cùng đi đến nơi đó. Theo ông Phán,
tiết trời giá lạnh thế này, bò lại mới bị tha đi tối hôm qua thì chỗ thịt còn lại
mang về hầm sốt vang có sao đâu.
Khi mọi người đã tề tựu đông đủ, trong số có Tân và Liệt (anh
chàng có giọng buồn nức nở hay ca bài Nguyễn Thái Học).
Ông Phán cười nói đùa với tất cả.
- Thôi thì chỗ thịt mất đi coi như tiền công chi phí cho ông
đồ tể.
Hãng cũng cười theo và tiếp:
- Nào biết là ông đồ tể hay bà đồ tể!
Vừa lúc đó Vân, Thi tự trên nhà rảo bước xuống sân.
Vân nhanh nhẹn chào mọi người rồi nói với ông Phán:
- Ba cho chúng con đi theo với.
Thi khép nép, đứng sau chị. Mặc dầu nàng đã khá quen thuộc với
một số người trong trại huấn luyện, nàng vẫn không sao có cử chỉ thanh thoát
như Vân. Ông Phán nhìn hai con gái suy nghĩ một giây rồi nói:
- Cho Vân đi thôi, con Thi ở nhà.
Ông nói với Thi.
- Yếu thì ở nhà con ạ, leo núi mệt đấy.
Thi nắm lấy cánh tay Vân có ý cầu cứu chị nói giúp thì bà
Phán cũng vừa xuất hiện ở hàng hiên nói xuống với ông Phán:
- Ông cứ cho con Thi đi! Trời, ông cứ sợ nó yếu chẳng cho nó
rạn nắng rạn gió thì còn là yếu mãi.
Ông Phán khẽ nhún vai:
- Ừ thì đi.
Thi nhìn Vân cười, trong khi anh đội trưởng hướng đạo trong
ban giám đốc nói đùa ông Phán:
- Đúng là lệnh ông không bằng cồng bà!
Hãng nói riêng với Tân:
- Ba tôi chẳng những nể mẹ tôi mà nể cả các con. Giá Thi nó cứ
cất tiếng nài một lần cũng đủ ba tôi ưng thuận. Ý kiến thực của ba tôi bao giờ
cũng nêu ở câu đầu thôi, sau đó ai quyết định thế nào cũng được.
Mọi người vui vẻ lên đường. Khi vừa vào đường hẻm đưa lên sườn
núi rừng thưa Thi giật mình vì một tiếng động bất ngờ. Nàng vội mỉm cười vì đó
chỉ là một đàn cò trắng thấy động vỗ cánh bay đi tự một nương sắn lá xanh. Thi
vẫn rải bước theo chị, theo đoàn người nhưng không quên theo dõi đàn cò, màu
cánh trắng lấp loáng đẹp như đương bay về chốn bồng lai nào để dự hội. Đây là lần
đầu tiên từ ngày đến ở đồn điền Thi đi ra khỏi nơi ở chính. Nàng bỡ ngỡ nhìn
xung quanh; con đường cát sỏi, dòng suối uốn khúc khi xa khi gần, dãy núi trước
mặt cao vòi vọi … những màu sắc đó, những hình thù đó tựa hồ thay đổi từng giây
từng phút trong một bầu không khí huyền ảo nửa thần tiên nửa ghê rợn.
Đoàn người bắt đầu đi vào đường hẻm rồi rẽ bụi cây bên lề đường
leo dần lên sườn núi rừng thưa. hầu hết những cây cao trơ cành trụi lá , những
cây leo chằn chịt cũng ra tuồng thất vọng gầy đét như những đứa con đói sữa cố
bám lấy bà mẹ kiệt lực, duy có thứ cỏ đuôi chồn mọc ngút ngàn bên dưới và dạt
dào gợn song mỗi lần có cơn gió nhẹ lướt tới. Thi mang máng cảm thấy sự yên
tĩnh nơi đây như có ủ một cái gì rộng lớn lắm và náo nhiệt một cách siêu âm.
Thi nghĩ rằng mỗi loài động vật dù lớn như hổ báo dù nhỏ như giun dế, mỗi loài
thực vật dù lớn như cây chám cây lim, dù nhỏ như cây cỏ đuôi chồn đều ôm trong
lòng một niềm suy nghĩ riêng tư. Cho đến nay Thi mới hiểu thế nào là cái yên lặng
phì nhiêu của rừng núi hoang vu.
Có tiếng reo vui. Toán người đi trước đã tới nơi có phần còn
lại của con bò. Toàn thân con vật khốn nạn chằng chịt những vết móng sắc cào,
nhiều nhất ở khoảng đầu. Cả một màng sườn và bụng bị hổ ăn, máu và lòng tung
toé ra một khoảng rộng. Mặt trời chỉ còn cách đỉnh núi một con sào, không khí
trên chốn cao này lồng lộng trong sạch, nhiệt độ xuống mau lẹ cùng với bong tà
chiều, những đợt gió lạnh buốt ùa tới. Chừng nửa tiếng sau mọi người đã dùng
rìu và dao rựa xả xong con bò ra từng phần nhỏ xếp thành bốn gánh. Đúng lúc mọi
người sắp xuống núi về thì từ bên sườn núi có tiếng hát lớn một bài ca ái quốc,
giọng hơi khàn vì mệt mỏi nhưng ai nấy đều đoán giọng đó lúc bình thường hẳn
trong và hay lắm. Tiếng ca vừa dứt, vẫn giọng đó hô lớn: "Việt Nam Muôn
Năm!"
Các quang gánh thịt bò đều hạ xuống rồi không ai bảo ai mọi
người nối đuôi nhau leo nốt quãng đỉnh để sang bên kia sườn núi xem có những ai
và tiếng hát tiếng hô vừa rồi là của ai.
Sườn núi bên này thoai thoải hơn sườn núi phía đồn điền,
thung thũng cũng nông hơn. Một còn đường đất và đá xám từ đỉnh núi này ngoằn
ngoèo xuống thung lũng rồi lại vườn lên vắt qua một khe đèo để rồi mất hút sau
màu cỏ úa, lác đác đây đó một vài thân cây thấp gầy guộc và trụi lá: đó là con
đường đi tắt về huyện Thanh ba. Thi tiến tới đỉnh sau rốt, nàng giật mình nhói
buốt ở tim. Ngay trước mặt nàng cách chừng ba mươi thước, trên khoảng nương phẳng,
một thanh niên trạc hai mươi bốn hai mươi nhăm tuổi, khuôn mặt còn giữ được vẻ
khôi ngô tuy toàn thân đã tiều tụy lắm. Quần áo rách tả tơi, chàng bị trói rụt
cánh khủy và cột vào một thân cây khá cao nhưng dáng chừng bị sét đánh trong
mùa mưa vừa qua nên phần lớn đã chết khô, chút ít cành lá còn lại thì vàng úa.
Tiếng hát vừa rồi là tiếng chàng, tiếng hô vừa rồi là tiếng chàng. Xung quanh
chàng chừng mười người du kích tay lăm lăm sung trường, lưỡi lê tuốt trần. Điểu
khiển toán du kích đó chính là Mạnh chủ tịch huyện Thanh Ba. Sự xuất hiện của
toán người bên đồn điền thật là bất ngờ, nhưng chủ tịch huyện Thanh Ba không lấy
thế làm khó chịu, trái lại y càng được thể cho mọi người biết y có quyền sinh
sát trong tay. Tân quay đi, lánh mặt trong khi y tiến lên chào đón ông Phán.
Chàng trai tiều tụy có đôi mắt lãnh đạm nhìn toán người mới tới rồi thản nhiên
cất tiếng hát một bài ái quốc khác.
Thi nghĩ thầm:
- Đã hơn một tháng nay trời lạnh buốt như thế này mà để người
ta ăn mặc tả tơi như thế kia làm gì mà da thịt chẳng tím ngắt. Thi thực không
ngờ nhân loại có thể đối với nhau dã man hơn cầm thú đến thế.
Lại có tiếng xì xào làm Thi ngửng đầu lên, toàn thân nàng lạnh
toát: bốn người khiêng một chiếc quan tài sơn trắng vừa xuất hiện từ khúc quành
xa.
Chàng thanh niên nín bặt một giây. Chàng biết giờ chết của
chàng chẳng còn bao lâu nữa. Chàng hô lớn hai lần: "Việt Nam muôn năm! Việt
Nam muôn năm!"
Câu nói cuối cùng của viên chủ tịch cũng vừa vang đến tai
Thi:
- Thực là một tên Việt gian phản quốc!
Thi rợn người vì thấy âm thanh của câu nói đó của viên chủ tịch
như có ma lực lôi được quỷ sứ tự âm ty lên. Thi ngồi thụp xuống cỏ, gần Thi khi
đó có Liệt nhưng Liệt nhìn về phía bốn gánh thịt bò bên dưới nhường như có ý
tránh không nhìn chàng thanh niên bị tội kia. Vân chạy vội đến em. Ông Phán
linh cảm thấy đúng lúc phải về, ông cố làm vẻ thản nhiên tươi cười cáo biệt
viên chủ tịch. Viên chủ thịch giữ nguyên nụ cười đầy quyền thế và cúi chào ông
trang nhã không kém. Thi đứng dậy không dám quay nhìn chàng trai khốn nạn một lần
cuối cùng. Nàng vội vã xuống núi như chạy trốn.
Tân đi sát Thi. Ông Phán cũng như Hãng hiểu rõ bộ thần kinh yếu
ớt của Thi đương bị xúc động mạnh nên cả hai cùng vội vã tiến lên cùng Tân đi
bao vây lấy Thi.
Một loạt súng vang lên rùng rợn đồng thời với tiếng thét thê
thảm của Thi tưởng chừng chính nàng vừa bất ngờ bị đạn. Nàng thét "Ba
ơi" rồi khụy xuống. Tân không kịp đỡ. Hãng và ông Phán vội vã quỳ xuống
nâng Thi.
Ông Phán nói giọng muôn vàn âu yếm:
- Việc gì mà sợ, con ơi!
Đoàn người đi sau vừa tới cũng dừng lại. tân hỏi ông Phán:
- Thưa ông chúng tôi cử người đi nhanh về trước lấy cáng tới
đây…
Ông Phán vội gạt đi:
- Xin các anh cứ về trước, chúng tôi dìu em về sau, các anh đừng
lo.
Có tiếng thở dài, Tân giật mình quay lại: tiếng thở dài đó của
Liệt đứng sau chàng. Liệt thương cảm cho bộ thần kinh quá yếu đuối của Thi
chăng?
Mọi người đã tiếp tục tiến bước khuất sau khúc quanh. Trời đã
bắt đầu mờ mờ tối. Đầu Thi dựa vào cánh tay Vân. Hai tay Thi nắm chặt lấy cổ
tay ông Phán, giọng yếu ớt:
- Con sợ lắm ba ạ.
Ông Phán vuốt tóc nàng:
- Việc gì mà sợ, con.
Nói vậy nhưng giọng ông cũng run run, ông không nén nổi xúc động
vừa xúc động vì cái chết của chàng trai bên kia sườn núi, vừa xúc động vì cái
nhìn thất lạc tinh thần của Thi, y như ngày nào còn nhỏ nhân một hôm đi chùa
Láng chơi gặp bão, một cành cây lớn rớt xuống đè ngang ngực, may mà thoát thoát
chết; phổi nàng yếu, sức khoẻ nàng mong manh kể từ ngày đó. Hôm nay đây da nàng
cũng xanh lướt như ngày đó, đôi mắt cũng nhìn sâu vào tai nạn như ngày đó, miệng
mím lại, chịu đựng.
Ông Phán một bên, Hãng một bên cũng xốc nàng đứng dậy. Tân đi
sau cùng Vân.
Tiếng ông Phán hỏi khẽ:
- Như thế này con tiến lên được chứ?
Thi gật đầu yếu đuối, rồi đôi chân nàng làm điệu nhịp nhàng
bước, nàng thấy trời như tan đi, đất như tan đi, cả vũ trụ như đương tan đi,
tan vào một lớp sương sáng.
Buổi tối, đã về khuya … khuya lắm … trong khi gia đình ông
Phán thay phiên nhau săn sóc Thi trên nhà thí có tiếng đàn lục huyền cầm thánh
thót cùng giọng ca se sẽ nức nở bài Nguyễn Thái Học. Đó là tiếng đàn và giọng
ca của Liệt.
II
Còn một ngày nữa thì lớp huấn luyện bế mạc. Buổi sáng ấm có nắng
vàng le lói. Tân dẫn tiểu đội lên đồi chè sau nhà lấy cũi đun và thấy Vân đã đứng
dưới gốc cây trám cao vút tự bao giờ, đôi mắt nhìn về phía xa nghĩ ngợi, làn
tóc mềm óng của nàng xõa xuống cổ.
Tân nghĩ thầm: "Chắc nàng đương nghĩ đến anh chàng sinh
viên nghệ sĩ!"
Tân không ngờ Vân đã có người yêu từ mấy năm nay. Trước ngày
kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Kha - người yêu của nàng - đã là tự vệ thành,
sau khi chiến tranh bùng nổ lực lượng tự vệ biến thành trung đoàn thủ đô. Vân vừa
được tin trung đoàn thủ đô rút khỏi Hà Nội theo đường bờ sông qua gầm cầu Long
Biên, chẳng biết người yêu sống chết ra sao.
Tân tiến lên mỉm cười, Vân cúi chào lại tự nhiên như chỗ quen
biết cũ, có lẽ vì nàng thấy vẻ Tân thẳng thắn không có gì là khuất tất.
Vân hỏi trước:
- Hôm nay đến lượt tiểu đội anh đi kiếm củi?
Tân không trả lời mà hỏi lại:
- Trời đẹp đấy chứ chị Vân?
Vân mỉm cười chưa kịp nói gì thì Tân đã hỏi sang câu khác:
- Chị Vân có hy vọng gì không?
Vân nhìn trời lơ đãng đáp:
- Chiến tranh thế này thì biết hy vọng gì hở anh?
Thấy Vân thủng thỉnh đi xuống dời khỏi gốc cây trám, e nàng
ra về Tân hỏi tiếp để giữ nàng lại thêm chút nữa:
- Sao cây chè nào cũng chặt gần tới gốc thế này, chị Vân?
- Vào cuối đông - Vân đáp - tất cả những cây phải chặt như thế
để sang Xuân nẩy búp. Sauk hi chặt những lá già được tuốt ra làm chè tươi chở
xuống xuôi bằng thuyền, chắc anh biết?
Tân chú ý đến giọng nói dẽ dàng của Vân hơn là nội dung những
lời nói đó. Chàng còn mỉm cười bâng quơ thì Vân đã cúi đầu chào từ biệt rồi
thoăn thoắt đi vào hàng chè chưa chặt, cành lá lòa xòa.
Tân gom nhanh những củi chẻ thành đống lớn và khi ngẩng lên,
chàng thấy trời xanh cao và khi trời trong lành một cách lạ.
Buổi chiều là lễ bế mạc, cán bộ được chỉ định phân công đi phụ
trách chừng ngót hai chục trại di cư quanh vùng. Hôm sau mọi người lên đường,
khiến đồn điền Lợi Ký bỗng vắng tanh vắng ngắt. Nơi đây chỉ còn lại chừng hơn
mười cán bộ gọi là những cán bộ phụ trách trại trung ương.
Nhưng học và hành này là hai bộ mặt quá khác biệt chưa được một
tháng mà đã tới mười trại kế tiếp nhau tan rã. Nguyên do không phải vì cán bộ bất
lực mà vì đồng bào quen sống tự lập ở thôn quê nay không chịu được kỷ luật phân
chia thành từng đội đi, về, ăn, nghỉ theo thời khóa biểu. Đồng bào bỏ trại đi
tìm bà con ở các nơi khác, hoặc tự lực cánh sinh bằng cách mở cửa hàng buôn bán
hoặc tăng gia riêng. Tân ở ngay trại trung ương - tức đồn điền Lợi Ký - trại
này chỉ huy tất cả các trại khác. Khi quá phân nửa số trại đã giải tán, các cán
bộ tăng gia sản xuất được thuyen chuyển sang những ngành khác hợp với khả năng
cũ của từng người. Chính Tân cũng dự định xin thôi, về quê thăm mẹ, rồi sẽ nhận
công tác khác sau.
Ban chỉ huy mới của trại Trung ương tại đồn điền Lợi Ký có sự
thay đổi nhỏ. Anh chàng sinh viên nghệ sĩ trong ban giám đốc cũ được điều động
lên Tuyên Quang không phải để chỉ huy một trại di cư nào mà để đem cái kiến thức
về kiến trúc của anh dựng lên những nhà lớn bằng tre và nứa cho các cơ quan của
bộ Tổng Tham Mưu. Thay vào anh chàng sinh viên đó là một cán bộ mới do ủy ban
trung ương tản cư di cư xuống. Đó là một cán bộ già giặc trạc bốn mươi. Về
thành tích tranh đấu thì khỏi phải nói vì anh đã từng tham dự cuộc vạn lý trường
chinh dưới quyền Mao Trạch Đông.
Ngày Tân đã là bạn thân của gia đình ông Phán. Từ buổi chiều
nghe tiếng súng xử tử trở về Thi bị ốm liệt giường ba ngày liền. Sau đó tuy
nàng có trở dậy đi lại được nhưng nước da xanh lướt và cả gia đình ông Phán đều
tỏ vẻ nghi ngại lắm mỗi khi thấy nàng thúng thắng ho. Trong buổi kháng chiến,
giữa nơi đèo heo hút gió này rủi bệnh lao tái phát làm sao đủ thuốc men chữa trị
cho nàng?
Một lần nói chuyện với Thi, Tân có gợi đến chuyện anh chàng
sinh viên nghệ sĩ bị điều động lên Tuyên Quang. Tân đã nhấn mạnh tiếng "bị"
để tỏ ra rằng chàng đồng tình với Thi giữ anh chàng ở lại trại trung ương.
Nhưng nghe Thi trả lời thì việc đó cũng không có gì đáng chú ý. Hình như thảm cảnh
chàng trai bị xử tử trên núi còn ngự trị ngột ngạt tâm trí nàng khiến mọi hình ảnh
khác, tình cảm khác, rung động khác trở thành mờ nhạt hẳn như ánh đom đóm, ánh
sao bị mờ nhạt dưới ánh lửa tàn bạo của một đám cháy rừng. Và cũng kể từ ngày
có cuộc xử tử, Mạnh viên chủ tịch huyện Thanh Ba, năng lui tới đồn điền Lợi Ký.
Mạnh đã gửi mua từ Hà Nội mấy thứ thuốc cần yếu cho Thi. Nhưng lần nào cũng vậy
hễ thoáng thấy Mạnh tới là Thi vào buồng nằm, bà Phán cũng vội vào theo để lấy
chăn đấp ấm cho nàng. Thường thì ngoài phòng khách chỉ còn ông Phán, Hãng và
Vân ngồi tiếp viên chủ tịch.
Cũng vào dịp này Tân, Mạnh có nói chuyện với nhau đôi lời và
nhắc lại kỷ niệm thời còn cùng nhau hoạt động bí mật tại làng; nhưng câu chuyện
rất gắng gượng về phía Tân, thường thuờng Tân lấy cớ rút lui ngay. Tân vẫn thấy
không có cảm tình với Mạnh.
Có tin viên chủ tịch hỏi Vân làm vợ, kế đó là tin Thi bị thổ
huyết. Tân ngờ rằng Thi thổ huyết vì hay tin Mạnh hỏi Vân. Tân lên nhà thăm được
ông Phán cho hay nhờ có thuốc của Mạnh mua cho kịp thời, Thi đã thoát mọi nguy
hiểm.
Trong câu chuyện thường tình với ông Phán, có hôm Tân vờ quay
sang hỏi ý kiến Vân đương ngồi đan ngay bên. Vân ngẫng nhìn rồi trả lời bỡ ngỡ,
tâm hồn nàng còn để tận đâu đâu. Tân chú ý ngắm Vân nhiều hơn: toàn thể thân
hình Vân đều chắc lẳn, đôi cánh tay tròn khoẻ, nhưng cái vẻ sức lực đó không
làm giảm những nét mềm điêu luyện của đường cong thân thể và nhất là không làm
giảm đường nét thanh tú của khuôn mặt tròn với nước da hồng của nàng. Cứ mỗi lần
Tân nghĩ thân hình chắc lẳn và đẹp đó phải nằm gọn trong tay viên chủ tịch kia,
chàng lại ao ước thầm rằng tin trên chỉ là tin đồn hão. Nhưng không đó là tin
xác thực. Mạnh đích thân nộp lễ ăn hỏi rồi đến ở liền ba hôm trước ngày cưới
Vân, Vân còn ở lại đồn điền.
Ngày dự tiệc cưới Vân, Tân nghĩ đến các câu các cụ xưa nói:
"Trai thời loạn, gái thời bình." Quả thực đàn bà không làm chủ được định
mệnh của họ trong cơn phong ba của đời. Dù có nhan sắc dù có học thức như Vân
lúc "bắt phong trần cũng phong trần như ai." Mã Giám Sinh. Phẩm tiên
rơi đến tay hèn!
Điều đau khổ cho Vân là sau ngày cưới hai tuần lễ thì Kha người
yêu của nàng, tìm được đến đồn điền.
Khi trung đoàn thủ đô rút khỏi Hà Nội, Kha theo bộ lên Ba Vì
rồi Tam Đảo. Trung đoàn hình như ngưng hoạt động hẳn. Gặp một người làng. Kha
hay tin mẹ tản cư lên Tuyên Quang. Tự thấy nhiệm vụ cấp bách của mình đã xong
chàng bèn xin giải ngũ dự định lên Tuyên tìm mẹ rồi trở về tiếp tục ghi tên học
y khoa. Tới Tuyên chàng được người quen cho hay mẹ đã trở về Thạch Thất ở tại
làng H. gần chân núi Ba Vì. Tiện đường Kha tính chuyện về Phú Thọ trước vì
chàng hay tin bác sĩ T; phụ trách trường Thuốc khi đó đã cùng một số sinh viên
tới làng Đại Hồng cách tỉnh lỵ Phú Thọ chừng hai cây số. Trước khi tới địa điểm
này để xin ghi tên. Kha tìm tới đồn điền Lợi Ký. Đường vào đồn điền hun hút mà
hồn Kha mở rộng như đại dương. Kha muốn dành sự xuất hiện bất ngờ này cho Vân.
Sự xuất hiện. Sự xuất hiện quả bất ngờ nhưng đau đớn. Ông bà Phán và Hãng chỉ
mang mảng biết cảm tình giữa Kha - Vân nên vẫn coi chàng như người hàng xóm
thân cũ và niềm nở tiếp đón chàng theo cương vị đó. Hiểu Vân và Kha chỉ có Thi.
Trong một lúc nhà vắng vẻ. Vân ngồi trên giường Thi gục mặt
lên đầu gối nức nở. Kha bình tĩnh nhưng âm thầm đứng đối diện ở góc phòng.
Bây giờ thì chàng còn e lệ giữ kẽ gì nữa. Vân nói qua tiếng
khóc nghẹn ngào:
- Thời tao loạn em còn biết nghĩ gì? Sao anh không về trước
đây nửa tháng em vẫn còn kịp phản đối lễ cưới. Bây giờ thì ….
Kha yên lặng. Có tiếng ông bà Phán ngoài sân, chàng vội ra
phòng khách.
III
Buổi gặp mặt đầu tiên ở đồn điền Lợi Ký, Tân mến Kha ngay.
Cái quyến rũ mãnh liệt ở Kha có lẽ do thái độ cởi mở vừa chân thực vừa man rợ của
chàng. Chỗ này cần mở thêm dấu ngoặc: Kha mới nhiễm tính cách man rợ từ sau những
ngày xông pha nơi khói lửa kinh thành. Giữa cảnh tên bay đạn lạc, mạng người
treo trên sợi tóc, Kha đã chứng kiến nhiều cặp tình nhân bám vào thời gian tự
hiến dâng để chung hưởng hạnh phúc …
Chính Tân muốn gần Kha. Trong số ngót hai mươi trại di cư được
thiết lập sau hơn hai tháng hoạt động nay tan rã còn ba trại. Việc Tân xin rút
lui khỏi trại Trung ương cũng dễ. Thoạt Tân có ý muốn rủ Kha cùng về quê thăm mẹ
rồi sẽ đến trường Thuốc sau, nhưng Kha khuyên nên đến gặp bác sĩ T. ghi tên trước
rồi hãy về quê vì nghe đâu trường Thuốc sắp chuyển lên Bắc Kạn thì phải.
Bửa cơm tối đôi bạn ăn cùng gia đình ông Phán - cũng là bữa
tiệc tiễn hành - có Mạnh. (Kha nhất định ra đi ngay hôm sau). Rượu say chếnh
choáng, Mạnh đọc bài thơ tự trào. Đó là bài thất ngôn Đường luật trong đó Mạnh
tự riễu bộ răng vồ của mình nhưng lại nêu ưu điểm là đêm đến giá có kẻ trộm vào
nhà rờ thấy bộ răng, tưởng mình còn thức đương cười ắt phải vội rút lui có trật
tự.
Mọi người cười vui. Kể cả Kha. Riêng Tân nghĩ thầm "Tự
riễu cái xấu về thể chất, phải chăng Mạnh hoàn toàn vững tin vào uy thế tinh thần
của mình: uy thế của một đảng viên chủ tịch huyện?
Sau bữa tiệc tiễn hành tối Kha xin phép ông bà Phán lên giường
nghỉ nói là mai phải đi sớm. tám giờ sáng hôm sau Tân và Kha từ biệt đồn điền Lợi
Ký. Cả gia đình ông Phán ra đứng ở thềm tiễn, chỉ thiếu có Vân. Trước khi khởi
hành chừng mười lăm phút Vân làm như sực nhớ ra điều gì vội vã cầm lẵng mây rồi
tất tả theo đường lên đồi nói là chè tươi nhà uống đã gần hết nàng cần phải đi
hái thêm. Thi lo lắng nhìn theo bóng chị. Mãi đến lúc Vân gần khuất sau đồi Kha
mới kín đáo nhìn theo, nụ cười vô cớ trên môi vẫn giữ vẻ bình thản nhưng đôi mắt
thật ngao ngán.
Thi muốn Kha ở lại đồn điền lắm. Thâm tâm Thi muốn Kha vĩnh
viễn ở lại đồn điền! Từ xưa trong gia đình, nàng quen khuôn mặt hiền từ của cha
mẹ, khuôn mặt quắc thước của anh, từ ngày có thêm gương mặt người ngoài - khuôn
mặt của Mạnh - nàng thấy nghẹt thở. Nhìn khuôn mặt của Mạnh nàng còn như nghe nổ
bên tai tiếng súng tử hình. Nhìn khuôn mặt Mạnh, nàng thấy gớm, như thấy mình bị
đầy ải. Khuôn mặt Kha xuất hiện. nàng hiểu mối tình của chị, nàng hiểu nỗi khổ
tâm của chị, nàng muốn giữ bên nàng khuôn mặt quyến rũ của Kha làm bóng mát cho
sa mạc tâm hồn, làm thế quân binh cho bộ thần kinh của nàng khỏi thác loạn.
Đến lúc Tân cùng Kha sắp ra đi rồi thì Thi còn thiết tha nhắc
lại riêng với Kha lời đề nghị hôm qua của nàng:
- Em còn yếu lắm giá anh ở lại vài ngày thì hay.
Kha không nhìn Thi, chàng lơ đãng nhìn đi đâu và đáp khẽ.
- Giá anh ở lại được!
Thi theo Hãng tiễn Kha và Tân ra tận bờ suối … Nàng tần ngần
nhìn theo bóng Kha cho đến lúc khuất.
Nắng xuân chói chang, mây trời vừa ban sớm trắng như sữa giờ
đây nhuộm màu vàng lộng.
CHƯƠNG V
BÊN GIƯỜNG MẸ
I
Trên quãng đường vắng từ đồn điền Lợi Ký ra đường cái lớn,
Kha thủ thỉ cho Tân nghe qua về mối tình hoàn toàn tan vỡ của chàng với Vân.
Tân chẳng biết nói gì để an ủi người bạn mới.
Khoảng chín giờ rưỡi đôi bạn dừng lại bên sông Hồng. Đương
mùa nước cạn, Tân vô tình xuống bãi cát. Dòng sông tuy nông và hẹp nhưng khi lội
xuống Tân mới thấy là nước chảy xiết. Chàng miên man thầm nghĩ:" Người con
gái ở ga Thanh Ba đã chắc gì hơn số phận Vạn?
Nước chảy xiết cuốn cát dưới chân khiến tân có cảm tưởng nếu
đứng nghuyên một chỗ chàng có thể chìm dần xuống vực.
Từ dưới sông lên, Tân vừa toan cùng Kha theo đường tới Đại Đồng,
trụ sở tạm thời của trường Thuốc, thì có tiếng gọi hốt hoảng:
- Anh Tân, có phải anh tân đấy không?
Tân nhận ra ngay Phiệt, chú em họ cách đây tám năm vẫn theo
mình đi đánh cá, kể từ sau ngày Hoạt bỏ làng ra Hà Nội làm "ét "ô tô.
Ngày nay Phiệt đã mười bốn tuổi, đương làm liên lạc viên cho cơ quan kháng chiến
hành chính huyện đóng tại một làng ven sông gần đấy.
- Ô chú Phiệt, có gì lạ thế chú? - Tân hỏi.
- Bà mệt nặng đã hơn một tháng nay, bà mong anh.
Tân thấy lòng thắt lại.
- Bà mệt nặng thật đấy - cậu bé ngây thơ tiếp - có người làng
nào lên mạn ngược bà cũng ân cần dặn là cố ý dò la giúp bà xem anh ở đâu để nhắn
về ngay. Tân nhờ Kha ghi tên hộ tại trường Thuốc, chàng theo ngay quốc lộ Số Một
xuôi về Bắc Ninh, lòng dạ bồn chồn.
II
Về tới đầu làng tân đã rảo cẳng mà bước chân của bà con còn
nhanh hơn để phi báo cho mẹ chàng hay trước. Cụ ốm liệt giường, bệnh già! Cụ đã
ngồi dậy dựa vào thành giường đón Tân đôi mắt sáng dịu tình thương yêu.
tân chỉ kịp quăng ba lô vào góc buồng rồi chạy đến nám chặt
hai bàn tay gầy guộc của mẹ, thốt ra hai tiếng:
- Mẹ, Mẹ!
Nước mắt cứ ứ lên long lanh, cả khuôn mặt gầy của cụ như co lại,
giần giật vì cảm động. Cụ nói:
- Mẹ tưởng chết không được gặp mặt con.
Sau câu nói là tiếng thở dài trút hết nỗi lo âu, rồi nhịp thở
của Cụ trở lại đều đều, giọng nói cũng đều đều.
III
Cũng may mấy năm trước ngày tác chiến cửa hàng ở tỉnh Bắc
Ninh của cụ khá phát đạt, cụ tậu được vài mẫu ruộng ở quê nhà, giao cho mấy người
nghèo trong họ cầy rẽ, rồi khi tác chiến cụ kịp thu gần hết tiền vốn - chừng
hai vạn bạc Đông Dương.
Thoạt chiến tranh với cụ là tiếng bom, tiếng phi cơ nhào lộn
rít lên và khạc đạn. Khi Hà Nội hoàn toàn do địch kiểm soát, trung đoàn Thủ Đô
rút khỏi, chiến tranh lan tới Cầu Đuống gần làng thì cụ biết thêm chiến tranh
còn là tiếng moóc chi- ê, tiếng đại bác bất ngờ gieo chết chóc xuống nhà nào
đó. Cụ được chứng kiến một căn nhà ngói năm gian làng bên đổ xập và toàn gia khổ
chủ chết bên trong: viên đại bác rơi trúng nhà! Chết vì tai nạn chiến tranh
đáng thương thật nhưng được chết cả nhà như vậy theo ý cụ cũng là một đặc ân trời
phật ban cho. Đồn địch đóng gần đó, chiến tranh không chỉ là cảnh các làng mạc
bị đốt phá hoặc bị dội bom đạn mà còn là khuôn mặt bẽ bàng của những đàn bà con
gái rủi sa vào tay địch.
Rồi cả một vùng lớn dọc theo tả ngạn sông Đuống thuộc vùng tề.
Gọi là vùng tề thôi, sự thực tổ chức hành chính địch chưa có gì. tại các trường
tiểu học, trẻ em vẫn học những bài ca dao kháng chiến: tới làng nào, địch cũng
phải đi từng đội, trang bị đủ loại súng ống. Các làng đã có cách báo hiệu cho
nhau để khi toán tuần tiểu địch ra khỏi đồn tới làng nào là những truyền đơn,
những tài liệu kháng chiến nơi đó được cất dấu hoặc thiêu hủy đi, những tấm đá
in litho của cơ quan tuyên truyền kháng chiến được thả xuống ao bèo hoặc xuống
ruộng rau muống, các cán bộ cùng những trai gái trong làng tạm chạy sang làng
bên, chỉ còn ông già bà cả ở lại.
Đêm đêm rất có thể địch vẫn rớt đại bác, moóc cghi-ê về làng
nào chúng nhận thấy có những ánh đèn khả nghi;
Chiến tranh còn là - điều này làm cụ đau đớn nhất - tiếng
súng lục xử tử Việt gian vang lên tự ngoài đồng, thường là vào lúc gàn sáng. Việt
gian, Việt gian ... là nghe người ta nói thế chứ cứ theo tiếng lòng trung hậu của
cụ thì nước ta làm gì có nhiều Việt gian đến thế. Cứ mỗi lần có tiếng súng lục
đêm, chờ khi thật sáng rõ dân làng ra khỏi lũy tre sẽ thấy xác nạn nhân quẳng lại
trên gò. Nếu nhận diện được đó là người làng kế cận nào, người ta phi báo ngay
cho người nhà nạn nhân, nếu hoàn toàn chỉ là một kẻ xa lạ, dân làng đào huyệt
chôn kẻ xấu số vô thừa nhận. Khói lửa chiến tranh đốt xém làng mạc cũng như cảnh
người Việt xử tử người Việt đó đốt xém tâm hồn từ bi sùng đạo Phật của cụ. Cụ
thật bất bình về cácg họ mang nạn nhân tới xử trên bãi tha ma rồi quẳng đấy mặc
nhiên coi làng cụ có bổn phận sáng hôm sau phải ra nhận diện, phi báo thân nhân
hoặc chôn cất.
Lần thứ năm tiếng súng xử tử, lo buồn nặng chĩu lòng cụ, cụ cảm
thấy cô độc trong tuổi già và mong Tân về. Đúng lúc niềm mong nhớ con xót xa nhất
thì có một tiểu gia đình tản cư đến xin ở nhờ nhà cụ. Tiểu gia đình này gồm hai
anh em ruột, hai chị em dâu và lũ con của họ. Vợ chồng người anh tên là Trường
có ba con hai trai một gái. Trường không làm gì, suốt ngày gương mặt đăm chiêu,
nụ cười mỉm đượm vẻ mỉa mai riễu cợt. Người em tên là Lam đi vắng luôn, thường
tuần lễ về một lần thăm vợ con. Đứa con gái đầu lòng của Lam lên ba, vợ Lam
đương có mang chừng ba bốn tháng. hai vợ chồng Lam cùng nhỏ nhắn, đẹp và hiền,
cụ rất ưa.
Một buổi trưa cụ cảm thấy mệt lắm, cụ nằm ngủ thiếp trên phản
ghế ngựa rồi cụ sực thức dậy, đầu óc cụ trống rỗng, cụ mở to đôi mắt rồi nghĩ
mãi không hiểu mình hiên ở đâu. Thoạt cụ tưởng đương nằm ở nhà trọ trên con đường
buôn bán xuôi ngược ngày xưa, rồi cụ tưởng đương nằm ở cửa hàng tại tình Bắc
Ninh và Tân vừa buôn một chuyến hàng về. Có lẽ tới hai phút sau cụ mới hoàn
toàn định thần nhớ rằng cụ đương nằm trên phản ghế ngựa tại quê nhà, cụ đương sống
vào thời chiến tranh ... Chân tay bải hoải, toàn thân đau như dần, ngực như bị
nghẹt thở: cụ bắt đầu ốm từ đấy, bệnh già.
Hầu hạ cụ vẫn có một con bé nhà nghèo ngườilàng, nhưng lần này
cụ ốm may sao còn thêm vợ Lam bên cạnh. Người đàn bà trẻ măng và phúc hậu đó
luôn luôn ở bên giường cụ, sắc thuốc, nấu cháo, nâng giấc đỡ đần ... Nhiều hôm
cơn bệnh lên m^man, bóng quần áo trắng của "mợ Lam" - cụ vẫn gọi thế
- thấp thoáng đầu giường như một giấc mơ dịu dàng đến an ủi cụ trong tuổi già
cô độc. Cụ đã nhắn bao nhiêu ngưòi làng ra đi mà chưa thấy Tân về. Đã nhiều lần
sau cơn bệnh cụ nói với mợ Lam: "Tôi có mệnh hệ nào mợ lo chôn cất dùm
nhé, gói tiền tôi để đầu giường đây, mợ toàn quyền xử dụng, còn lại bao nhiêu
thằng Tân nó về, mợ trao cho nó, nó sẽ nhớ ơn mợ suốt đời." Và lần nào
"mợ Lam" cũng an ủi cụ là "đau chóng đã chầy" , thế nào cụ
cũng khỏi và gặp mặt "anh Tân cháu". Nghe những lời dịu dàng đó cụ thấy
yên tâm, bệnh tình có thuyên giảm. Cụ muốn phó thác tiên nong cho mợ Lam không
phải vì cụ không còn con cháu nào thân khác, một đứa cháu trai gọi bằng mợ, một
đứa cháu gái gọi bằng dì vẫn năng tới thăm hỏi bệnh tình của cụ: cũng không phải
cụ không tin ai gì hai đứa cháu đó, nhưng cụ nghĩ chúng ở xa, đứa cháu trai ở
xóm chợ, đứa cháu gái ở tận xóm chùa, bệnh già như ngọn đèn trước gió có được
người đáng tin cẩn ngay trong nhà là may lắm rồi, nếu cụ nằm xuống đã có con bé
hầu hạ cụ đi loan báo cho anh em bà con rồi, lo gì. Cụ nghĩ đã chí lý nhưng cuộc
đời trong buổi loạn ly này còn biết bao điều bất ngờ khác
Một hôm nằm trên giường bệnh cụ thấy có nhiều bóng người lạ
vào nhà, người cao lớn nhất đeo súng lục. Bước họ đi rộn ràng lúc đến cũng như
lúc đi làm cụ lo sợ bội phần. Vợ Lam cho cụ hay đó là Ủy ban Huyện đến gặp Trường
thảo luận mấy điều.
Chẳng hiểu thảo luận gì, chính vợ Lam cũng không rõ, chỉ biết
Trường đã lựa lời từ chối khéo, khi họ đã ra đi, nụ cười Trường càng đượm vẻ mỉa
mai chua chát. Hai hôm sau đúng hôm Lam về thăm vợ con và Trường ra đi đón cha
mẹ (hình như mới từ đâu xa sắp tới, cụ không được rõ) khoảng mười giờ sáng cụ
nghe có tiếng gọi cổng, vợ Lam ra mở, hai người lạ mặt ập vào, sát khí đằng đằng,
tiến về phía buồng riêng của tiểu gia đình tản cư. Cụ nghe tiếng Lam kêu hốt hoảng
lẫn với tiếng khóc thét của đứa bé: «Thưa các ông tôi có làm gì nên tội?» Hai
tiếng súng lớn như hai tiếng ống lệnh đồng thời với tiếng thét thê thảm của vợ
Lam vừa tự ngoài xô được vào phòng: «Trời ơi, các ông giết lầm chồng tôi rồi!»
Những tiếng chân rồn rập ra khỏi cổng.
Tiếng vợ Lam rên la, tiếng đứa bé khóc lặng … và cụ ngất đi
trên giường bệnh. Tiếng súng kinh tởm đó trước đây vang lên trong đêm khuya về
sáng và tự ngoài lũy tre, nay thì nỗ giữa thanh thiên bạch nhật và ngay trong
nhà cụ.
Cụ ngất đi trong bao lâu chính cụ cũng không rõ vì khi tỉnh dậy
- gọi là tỉnh dậy - căn bệnh giả trở lại trầm trọng sau hai ngày thuyên giảm.
Trong cơn sốt mê sảng cụ luôn luôn nhớ đến tiếng kêu xé ruột của người đàn bà
còn trẻ mà cụ quý mến vô cùng, «Trời ơi, các ông giết lầm chồng tôi rồi!» Cụ lo
sự bất trắc có thể xảy đến cho Tân. Tân có thể bị giết nhầm như vậy - họ thi
hành án xử tử đấy - hoặc, đau đớn hơn. Tân sẽ đi giết nhầm người như vậy. Tất cả
những điều không bao giờ ngờ tớiở thời bình, vào thời chiến này đều có thể xảy
tới một cách tự nhiên - kinh ngiệm ba tháng khói lửa đã cho cụ biết vậy.
Khi cơn bịnh ngớt, cụ nhận ra chỉ còn con bé hầu hạ bên cụ.
Theo lời con bé kể thì xác cậu Lam được chôn cất ngay hôm đó và mợ Lam bụng
mang dạ chửa ôm đứa con thơ lên ba đi ngay buổi chiều, nói là đi kiện đến cùng
cho ra nhẽ, hiện không còn ai ở nhà nữa. Tình trạng cô quạnh này kéo dài được
hai hôm thì Tân về.
III
Bằng một giọng đều đều cụ kể cho con nghe tất cả những việc
đã xảy ra và cụ kết luận:
- Giá con về trước đây một tuần biết đâu con chẳng cản được vụ
giết người đó. Nhà có thêm một bóng đàn ông sự việc có thể xảy ra khác.»
Tân cười buồn rầu:
- Biết đâu chúng chẳng giết nhầm con.
- Con chỉ nói dại.
Tiếng là cụ phủ chính lời con như vậy, nhưng rồi cụ cũng nghĩ
thầm: "Ừ biết đâu, phải, biết đâu" Mà thôi nghĩ miên man làm gì? Tân
về đúng vào lúc này, cụ đâu có ngờ, âu cũng là hương hồn ông ấy (cha Tân) cùng
hương hồn ông bà ông vải run rủi. Cụ cảm thấy bệnh tình thuyên giảm như hồi được
mợ Lam trông nom.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét