Thứ Ba, 28 tháng 9, 2021

Truyện ngắn kỳ lạ 3

Truyện ngắn kỳ lạ 3

Dấu hiệu

Nữ hầu tước bé nhỏ vẫn còn đang ngủ trong căn phòng đóng kín, thơm nức, trong chiếc giường lớn êm ái, trong tấm ga trải giường bằng vải lụa trơn mềm, ấm áp, nhẹ bổng như đăng ten, êm mềm như một nụ hôn; cô ngủ một mình, yên tĩnh trong một giấc ngủ sâu, hạnh phúc của một phụ nữ tự do.

Những tiếng ồn ào ngoài phòng khách nhỏ, màu xanh da trời, khiến cô thức giấc, cô nhận ra giọng của cô bạn thân, nữ nam tước Grangerie, cô này đang to tiếng với con hầu phòng của cô, cô bạn đang cố giải thích để được vào phòng cô, còn con hầu thì giữ cửa ngăn lại, không cho vào quấy rối giấc ngủ của cô chủ.

Cô hầu tước bé nhỏ vùng dậy, rút then cửa, mở khóa, đẩy cửa và chỉ thò mỗi cái đầu tóc tai bù xù vàng óng ra ngoài hỏi:

- Cậu có chuyện gì mà đến sớm thế? Còn chưa đến chín giờ mà.

Cô nam tước xanh xao, lo lắng, bồn chồn trả lời:

- Mình cần phải gặp cậu, phải chia sẻ với cậu. Một chuyện rất khủng khiếp đã xảy đến với mình.

- Vào đây, bạn thân mến.

Nữ nam tước vào phòng, họ ôm hôn nhau đầy thân thiết, rồi nữ hầu tước lại nằm dài ra trong khi con hầu phòng mở các cửa sổ cho ánh nắng dọi vào nhà. Rồi khi người hầu phòng đã ra khỏi, Rennedor mới nói: "Nào, cậu kể đi".

Grangerie bật khóc, những giọt nước mắt trong suốt tuôn rơi trên má cô càng khiến cô thêm bội phần xinh đẹp, cô cứ để cho nước mắt lã chã mà không chùi đi để khỏi làm đỏ mắt, và rồi vừa thút thít cô vừa nói: "Ôi, bạn yêu quý, mình đã gặp phải một việc tồi tệ, vô cùng tồi tệ. Đêm qua mình đã không ngủ, không ngủ dù chỉ một phút, cậu nghe rõ chứ, mình đã không hề chợp mắt dù chỉ một phút thôi. Xem này, cậu thử để tay vào ngực mình xem, nó đập mới khiếp làm sao".

Cô cầm tay bạn áp vào ngực mình, áp lên phần ngực tròn, ấm mềm của cô, quả thật nó đang đập rất mạnh. Rồi cô nói tiếp:

"Điều đó xảy đến với mình từ ngày hôm qua... vào khoảng bốn giờ... bốn rưỡi gì đó. Mình không biết chính xác. Cậu biết rõ nhà mình đấy, cậu biết rõ phòng khách nhỏ trông ra phố Saint Lazare của mình, nơi mình thường ngồi chơi bên cửa sổ nhìn người qua lại. Phố ga đó rất nhộn nhịp, ngồi chơi ngắm mọi người qua lại trên phố là một trò tiêu khiển thú vị của mình... và mình yêu khu phố bé nhỏ đó vô cùng.

Hôm qua, mình ngồi ở cái ghế thấp kê cạnh khung cửa sổ, qua cánh cửa sổ mở, mình mơ màng hít thở luồng không khí trong lành, cậu nhớ không, hôm qua trời mới đẹp làm sao.

Bỗng mình để ý thấy ở bên kia phố, cũng có một phụ nữ đang ngồi cạnh cửa sổ, một phụ nữ mặc một bộ đồ màu đỏ; còn mình, mình đang mặc một bộ đồ màu hoa cà, cậu biết bộ cánh màu cà của mình rồi đấy. Mình không quen người phụ nữ ấy, có thể đó là một người thuê nhà, mới chuyển đến, khoảng một tháng nay; bởi trời đã mưa suốt một tháng nay nên mình chưa hề gặp cô ấy.

Chỉ thoáng nhìn mình đã biết đó là một phụ nữ hư hỏng. Đầu tiên mình rất lấy làm khó chịu và bị sốc, vì cô ta cũng đứng chơi ở cửa sổ như mình; thế rồi mình bắt đầu thấy vui thích trong việc ngắm nhìn xem cô ta làm gì. Cô ta chống khuỷu tay lên thành cửa sổ và rình những người đàn ông đi qua, những người đàn ông nhìn cô ta, tất cả bọn họ hay gần như là tất cả. Hình như những người đàn ông cảm thấy một điều gì đó khi lại gần ngôi nhà, hình như họ đánh hơi thấy cô ta như thể lũ chó đánh hơi thấy con thú săn, bởi họ thường đột nhiên ngẩng đầu nhìn lên và liếc nhìn ngay thấy cô ta, một cái nhìn đầy hàm ý. Cái nhìn của cô ta như muốn hỏi: ‘Ông có muốn không?’, cái nhìn của họ như trả lời: ‘Không phải lúc này’, hay ‘Để lần khác’, hoặc ‘Tớ không có tiền’, hay: ‘Cút đi, đồ đáng khinh!’ Đôi mắt của những kẻ làm cha đã nói những lời cuối cùng đó. Cậu không tưởng được kỳ thú thế nào, khi ngồi xem cô ta giở hết các ngón nghề của cô ta ra thế nào đâu.

Thỉnh thoảng cô ta đột ngột đóng cửa sổ lại và mình nhìn thấy một ông đi vào phía trong cửa nhà cô ta. Cô ta đã tóm được ông ấy như thể một người đi câu tóm được một chú cá. Thế là mình bắt đầu xem đồng hồ, họ thường ở lại trong đó từ mười hai đến hai mươi phút, không bao giờ hơn.

Thế là mình bị hút vào cái trò chơi đó, mình bị cô ta, con nhện cái đó, cuốn hút. Thật ra thì cô gái đó cũng không hề xấu xí.

Mình tự hỏi: ‘Cô ta làm thế nào để những người đàn ông hiểu rõ vấn đề một cách chóng vánh đến thế nhỉ? Liệu ngoài cái nhìn, cô ta có ra dấu bằng tay hay bằng một vài cử động của cái đầu không nhỉ?’

Thế là mình liền lấy chiếc ống nhòm nhỏ của mình ra để xem cho rõ mọi cử động hành tung của cô ta. Ồ! Thật rất đơn giản: trước tiên là một cú liếc mắt, rồi mỉm cười, rồi một cử chỉ nhỏ của cái đầu với ý hỏi: ‘Ông lên chứ?’ nhưng cử chỉ đó rất nhẹ, rất mập mờ, rất bí mật, cần phải rất khéo mới có thể thành công như cô ta được. Và mình lại tự hỏi: Liệu mình có thể làm điều đó khéo đến như cô ta được không, một cái hất hàm vừa táo tợn vừa kiêu kỳ nhưng lại vô cùng đáng yêu? Quả vậy, cử chỉ của cô ta rất duyên dáng đáng yêu.

Mình đến trước gương thử tập, bạn yêu quý, mình làm điều đó trông còn dễ thương hơn cả cô ta, hơn cô ta nhiều! Mình rất lấy làm khoái trá, và mình quay trở lại ngồi bên cửa sổ.

Bây giờ cô ta sẽ không dụ dỗ thêm được một người nào nữa, cô gái khốn khổ, không một ai nữa. Cô ta thật sự không còn cơ hội nữa. Điều đó thì thật khủng khiếp với một người kiếm miếng cơm manh áo bằng cái nghề đó, khủng khiếp nhưng đôi khi cũng thú vị. Bỏi trong số những người đang đi trên phố có những người không tệ lắm.

Giờ đây họ sẽ đi hết sang bên vỉa hè bên nhà mình, không còn một ai đi bên vỉa hè nhà cô ấy nữa. Thời thế đã đổi thay, họ đến, người này sau người kia, những người trẻ tuổi, những ông già, những người tóc đen, những người tóc nâu, những người tóc hoa râm, những người tóc bạc trắng.

Mình thấy họ là những người tử tế, rất tử tế, tử tế hơn nhiều so với người chồng cũ của mình, và hơn cả người chồng cũ của cậu nữa bởi cậu đã phải ly dị anh ta. Giờ đây cậu lại có quyền lựa chọn.

Mình tự hỏi: ‘Nếu ta ra dấu cho họ, liệu họ có hiểu ta không? Ta, một phụ nữ đứng đắn nhường này?’ Và thế là trong mình trỗi lên một khát khao cháy bỏng, một mong muốn rồ dại, một thèm muốn không thể cưỡng lại như nghén ở đàn bà có mang.... một mong muốn kinh khủng, đáng ghê sợ, cậu biết đấy, những ham muốn không thể cưỡng lại được. Thỉnh thoảng mình cũng bị một ham muốn nào đó xâm chiếm, điều đó thật hết sức ngu ngốc! Mình sợ rằng chúng ta có linh hồn của khỉ, chúng ta cũng như bao người phụ nữ khác. Một bác sĩ đã khẳng định với mình rằng óc của một con khỉ hoàn toàn giống với óc của chúng ta. Chúng ta luôn phải noi gương ai đó, bắt chước ai đó. Chúng ta bắt chước chồng mình khi chúng ta còn đang yêu họ, khi chúng ta còn đang ở trong tuần trăng mật, và sau đó chúng ta có những cử chỉ điệu bộ của tình nhân, của bạn bè thân, của những người chúng ta kính trọng, yêu mến. Chúng ta bắt chước cách họ nghĩ, bắt chước cách họ đi đứng nói năng, nói chung chúng ta bắt chước để cố gắng được hệt như họ. Thật ngớ ngẩn.

Cuối cùng thì mình đã muốn làm một điều gì thì mình phải làm cho bằng được.

Thế là mình tự nhủ: ‘Nhìn này, ta sẽ thử ra hiệu cho một người, chỉ một người thôi để xem thế nào. Cái gì có thể đến với ta nào? Chẳng có gì đâu! Ta sẽ trao anh ta một nụ cười, thế thôi, và chúng ta sẽ chẳng bao giờ gặp lại nhau, mà nếu có gặp lại, anh ta cũng sẽ chẳng nhận ra ta, mà nếu anh ta có nhận ra ta, ta cũng sẽ chối, tất nhiên thế rồi’. Mình bắt đầu chọn người. Mình muốn chọn được một người thật bảnh. Rồi bỗng mình nhìn thấy một thanh niên cao lớn tóc vàng đang đi tới, một thanh niên rất bảnh trai. Mình luôn thích những người tóc vàng, cậu biết rồi đấy. Mình nhìn anh ta, anh ta nhìn mình. Mình mỉm cười, anh ta mỉm cười, mình ra dấu; Ôi! chỉ một dấu hiệu rất lờ mờ thôi; thế mà, thế mà anh ta liền gật đầu và mình thấy anh ta đi vào, bạn thân yêu, anh ta đi vào từ cửa lớn nhà mình.

Cậu không thể tưởng tượng được điều vò xé trong mình lúc bấy giờ đâu! Ôi, mình tin là mình điên mất rồi. Ôi! Sợ làm sao! Cậu thử tưởng tượng mà xem, anh ta sẽ nói gì với người hầu của mình! Nói với Joseph, người hết mực trung thành với chồng mình! Joseph chắc chắn sẽ tưởng rằng chúng mình quen biết nhau từ lâu rồi.

Làm gì bây giờ? Nói xem, phải làm gì bây giờ? Một tẹo nữa là anh ta sẽ nhấn chuông, chỉ một phút nữa thôi. Làm gì bây giờ, nói xem? Mình nghĩ tốt hơn hết là mình chạy ra gặp anh ta và nói với anh ta là anh ta đã nhầm, và rồi năn nỉ xin anh ta đi ngay đi cho. Anh ta hẳn sẽ thương hại cho một người phụ nữ, một người phụ nữ khốn khổ! Mình chạy vội ra cửa và mở nó ra đúng vào lúc anh ta đặt tay lên chuông cửa.

Mình ấp úng, hoàn toàn mất hết tự chủ:

- Xin ông đi đi cho, xin ông đi ngay đi cho, ông đã nhầm, tôi là một phụ nữ đức hạnh, một phụ nữ đã có chồng. Đó là một sự nhầm lẫn, một nhầm lẫn tai hại, tôi đã nhầm ông với một người bạn của tôi vì trông ông thật rất giống người bạn đó. Xin thứ lỗi cho tôi, thưa ông.

Anh ta bật cười, bạn ạ, và anh ta trả lời:

- Chào em yêu, em biết rõ là anh hiểu mà. Em đã lấy chồng, vì thế sẽ là hai đồng vàng thay vì một. Em sẽ có hai đồng vàng. Nào hãy chỉ cho anh kho báu của em nào.

Thế rồi anh đẩy mình vào và đóng cửa lại, và vì mình vẫn đứng như trời trồng trước mặt anh ta, anh ta ôm lấy mình, nhấc bổng mình lên, bế mình vào trong phòng khách vẫn còn đang để ngỏ.

Vừa vào, anh ta đã liếc nhanh một vòng như một chuyên viên chuyên thẩm định giá cả rồi thốt lên:

- Mẹ kiếp, căn hộ của em đẹp thật, sang trọng thật. Em hẳn phải túng quẫn lắm mới phải chịu trở thành gái gọi như thế!

Thế là mình bắt đầu van nài anh ta:

- Ôi! thưa ông, xin ông đi đi cho! Xin ông đi ngay cho! Chồng tôi sắp về, lát nữa là anh ấy sẽ về đến, tôi xin thề với ông là ông đã nhầm!

Anh ta điềm nhiên trả lời mình:

- Thôi nào, em yêu, đừng làm bộ làm tịch như thế. Nếu chồng em về, anh sẽ đưa hắn một trăm xu để hắn sang mà chơi ở căn hộ đối diện.

Vì nhìn thấy ảnh của Raoul treo ở bên trên lò sưởi, anh ta hỏi:

- Chồng em đây à?

- Vâng, anh ấy đấy.

- Anh ta có cái mõm hay thật. Thế còn kia, ai thế? Một người bạn của em à?

Đó chính là ảnh của cậu, bạn thân yêu ạ, bức ảnh cậu mặc váy dạ hội ấy, mình chẳng biết nên nói gì nữa, mình ấp úng:

- Vâng, đó là một trong những người bạn của tôi.

- Cô ta xinh nhỉ. Hãy giới thiệu anh với cô ấy nhé.

Chuông đồng hồ điểm năm giờ; Raoul thường về lúc năm giờ ba mươi phút! Nếu hôm nay anh ấy về sớm hơn mọi ngày thì sao, cậu thử nghĩ xem! Ôi... ôi... mình điên cái đầu lên mất... mình điên lên mất.... mình nghĩ... mình nghĩ... mình nghĩ rằng tốt hơn hết là tống khứ ngay cái tên đàn ông đi, càng nhanh càng tốt... càng sớm lúc nào càng tốt lúc ấy... cậu hiểu không... và thế là... thế là... cần phải... bạn thân yêu... anh ta không chịu đi nếu chưa đạt được điều anh ta muốn.... thế là... thế là mình đẩy chốt cái then cửa phòng khách... thế đấy".

Cô hầu tước Rennedor bật cười, cười như nắc nẻ, cười lăn cười lộn. Ngớt được cơn cười, hỏi:

- Thế... thế... anh ta có đẹp trai không?

- Đẹp.

- Và cậu đã vui vẻ cùng anh ta?

- Nhưng... nhưng... cậu thấy đấy, bạn yêu quý, là... là anh ta đã nói rằng mai anh ta sẽ quay lại... cũng vào giờ đấy... và mình. Mình sợ ghê gớm... cậu không biết anh ta dai dẳng đến thế nào đâu... cương quyết thế nào đâu... làm gì bây giờ... nói xem... làm gì bây giờ bạn ơi?

Nữ hầu tước ngồi lên, ngẫm nghĩ một lát rồi đột nhiên cô tuyên bố:

- Phải ngăn anh ta lại.

Nữ nam tước tròn mắt ngạc nhiên. Cô ấp úng:

- Làm thế nào? Cậu nói xem? Cậu nghĩ gì thế? Ngăn anh ta lại? Với cớ nào bây giờ?

- Ô! Rất đơn giản. Cậu hãy đến nhà ông cảnh sát trưởng và báo với ông ấy rằng có một người đã theo đuổi cậu từ ba tháng nay; hôm qua anh ta đã dám ngạo mạn leo lên đến tận nhà cậu, và anh ta đã đe dọa sẽ lại đến nhà cậu vào ngày mai, cậu xin có được một sự bảo vệ từ phía pháp luật. Người ta sẽ cử đến nhà cậu hai viên cảnh sát, họ sẽ ngăn anh ta lại.

- Nhưng nếu anh ta kể... ?

- Người ta sẽ không tin anh ta đâu ngốc ạ, nhưng cậu phải trình bày với ông cảnh sát trưởng sao cho khéo. Người ta sẽ tin cậu, tin một phụ nữ đoan trang, thuộc tầng lớp trên và chưa hề có một tai tiếng gì.

- Ôi mình chẳng dám đâu.

- Cần phải dũng cảm lên, cô bạn ngốc nghếch khốn khổ của mình, nếu không cậu sẽ mất tất cả đấy.

- Anh ta sẽ chửi rủa, lăng nhục mình nếu người ta ngăn anh ta lại.

- Không sao đâu, cậu có bằng chứng và cậu sẽ lấy chúng để kết tội anh ta.

- Kết tội anh ta vì lẽ gì?

- Vì những thiệt hại anh ta gây ra. Trong trường hợp này cần phải nhẫn tâm!

- À! Nhân tiện nói đến những thiệt hại... có một điều làm mình rất bực mình, rất rất bực mình... anh ta đã để lại cho mình... hai đồng vàng... trên mặt lò sưởi.

- Hai đồng vàng?

- Phải.

- Không hơn?

- Không.

- Hơi ít, nếu là mình thì điều đó sẽ khiến mình hơi nhục. Vậy thì?

- Thế đấy! Giờ mình biết làm gì với số tiền đó đây?

Nữ hầu tước do dự vài giây rồi trả lời bằng một giọng rất nghiêm túc:

- Bạn yêu quý... cần phải... cần phải mua... một món quà nhỏ cho chồng cậu.... điều đó là công bằng thôi mà.

Clochette

Có lạ lùng không khi có những kỷ niệm cũ cứ ám ảnh bạn mãi mà bạn không sao tống khứ chúng đi được.

Tôi có một kỷ niệm, một kỷ niệm xa xưa, một kỷ niệm cũ kỹ lâu đời đến nỗi tôi cũng không sao hiểu nổi làm sao nó lại có thể nằm mãi trong trí nhớ của tôi một cách sống động và dai dẳng đến thế. Tôi đã chứng kiến biết bao chuyện, buồn có, vui có, cảm động có và cả khủng khiếp cũng có đến nỗi mà tôi tự cảm thấy ngạc nhiên khi thấy rằng không thể sống qua một ngày, dù chỉ một ngày thôi, mà không nhìn thấy khuôn mặt của bà Clochette hiển hiện trước mắt tôi, cho dù tôi biết bà từ ngày xửa ngày xưa, khi tôi còn là một cậu bé mười hay mười hai tuổi gì đó.

Đó là một bà thợ may già, cứ đến thứ ba hàng tuần đến vá lại những đồ vải trong nhà bố mẹ tôi. Bố mẹ tôi thuở đó sống trong một lâu đài cổ ở nông thôn với kiểu kiến trúc cổ: một ngôi nhà mái nhọn ở giữa và bốn năm trang trại bao xung quanh.

Ngôi làng, một ngôi làng lớn với một thị trấn nhỏ cách đó vài trăm mét, nằm sát xung quanh nhà thờ, một nhà thờ xây gạch đỏ nhưng qua năm tháng đã xỉn màu thành gần như màu đen.

Lại nói chuyện bà Clochette, cứ vào khoảng sáu rưỡi bảy giờ sáng thứ ba, bà lại đến nhà tôi và ngay khi vào kho đồ vải là bà bắt tay ngay vào việc.

Bà là một phụ nữ cao lớn gày gò, có râu, hay nói đúng hơn là lông lá bởi bà có lông tơ khắp cả mặt, một kiểu lông tơ đáng ngạc nhiên, kỳ cục, mọc thành từng đám lạ lùng, từng túm xoăn xoăn trên khắp cả khuôn mặt to lớn của bà. Trông buồn cười kỳ quặc như một viên sen đầm mặc juýp thò hai ống chân lông lá ra khỏi juýp vậy. Bà có cả lông tơ trên mũi, dưới mũi, xung quanh mũi, trên cằm, trên má. Lông mày của bà có màu ghi vừa dày, vừa rậm, vừa dài một cách khác thường. Trông nó như một đôi ria bị đặt nhầm chỗ.

Bà đi khập khễnh, nhưng không khập khễnh như những người què bình thường mà như một chiến thuyền có mỏ neo. Khi bà đặt cả tấm thân to lớn xương xẩu lên cái chân lành, trông bà có vẻ như đang lấy đà để nhảy lên trên đầu một con sóng lớn vậy, rồi, đột nhiên, bà lặn xuống như để biến mất trong một vực sâu, bà thụt sâu vào trong lòng đất. Bước chân của bà khiến cho người ta liên tưởng đến một cơn bão, và cứ thế bà lúc la lúc lắc đi. Đầu bà luôn đội một chiếc mũ trắng lớn không vành với những dải ruy băng dài phất phơ sau lưng, trông như dài tới tận chân trời, từ bắc đến nam, rồi lại từ nam đến bắc theo mỗi bước chuyển động của bà.

Tôi rất quý bà Clochette. Ngay khi tôi vừa dậy là tôi leo ngay lên kho đồ vải, ở đó, tôi thường thấy bà đang ngồi khâu, dưới chân để một chiếc lồng ấp chân nhỏ. Ngay khi tôi đến, bà liền ép bằng được tôi dùng chiếc lồng ấp của bà, ép tôi ngồi lên phía trên cái lồng ấp để tôi không bị lạnh, bị sổ mũi trong căn phòng lạnh lẽo nằm sát mái nhà này.

Bà thường bảo: "Lạnh sẽ làm cháu ho, nó sẽ hút máu cháu ra từ đường họng đấy".

Bà kể chuyện cho tôi nghe, vừa kể vừa thoăn thoắt khâu đồ vải với những ngón tay dài, nhọn, khoằm khoằm. Đôi mắt bà khuất sau gọng kính dày, vì tuổi tác đã khiến mắt bà mất đi sự tinh anh, có vẻ to, sâu và như to gấp đôi lên.

Trong chừng mực nào đó, tôi vẫn còn nhớ được những điều bà đã nói với tôi, và những lời nói đó khiến trái tim non nớt của một cậu bé như tôi xúc động. Bà có một tâm hồn hào hiệp của một phụ nữ nghèo. Bà biết mọi chuyện và hiểu mọi việc theo một cách đơn giản. Bà kể cho tôi nghe mọi sự kiện diễn ra trong thị trấn, chuyện một con bò sữa xổng khỏi chuồng bò và rồi một sáng, người ta thấy nó trước cửa cối xay gió của Prosper Malet, đang ngắm những cánh quạt cối xay quay quay, hay chuyện phát hiện ra một quả trứng gà trong gác chuông nhà thờ mà không ai biết con gà nào có thể leo tận lên đó mà đẻ trứng được, hay chuyện con chó nhà ông Jean Pilas, đã tìm bằng được và mang về cho ông chủ nó chiếc quần đùi từ một nơi cách xa nhà nó đến mười dặm, do một kẻ đi qua đường đã tiện tay rút trộm và đang phơi trước cửa nhà hắn.

Bà cứ rủ rỉ kể như thế, gieo vào tâm hồn tôi từ những chuyện ngây ngô vớ vẩn, những thảm kịch không thể quên được tới những bài thơ hào hùng, bí ẩn. Và những câu chuyện ly kỳ được tạo nên từ những vần thơ đã khiến nảy sinh trong tâm trí tôi một thế giới rộng lớn với bao điều kỳ diệu.

Thế rồi, một ngày thứ ba, sau khi đã hái những quả phỉ với một gia nhân ở rừng Hallets, phía sau trang trại Noirpré, tôi chạy về nhà, leo lên kho đồ vải để tìm bà. Tôi nhớ tất cả mọi chuyện hôm đó, rõ ràng như thể nó vừa diễn ra ngày hôm qua vậy.

Khi mở cửa kho đồ vải, tôi nhìn thấy bà thợ khâu già đang nằm xoài, cạnh chiếc ghế của bà, mặt úp xuống đất, hai cánh tay dài sõng sượt, một tay vẫn còn cầm kim và tay kia nắm một chiếc áo sơ-mi của tôi.

Một chân bà duỗi dài dưới ghế, kính của bà văng ra chân tường.

Tôi kêu thét lên. Mọi người chạy xô đến, và một vài phút sau đó thì tôi hiểu rằng bà Clochette đã chết.

Không bút nào tả xiết được nỗi đau đớn thống thiết xót xa của tôi lúc bấy giờ, một nỗi tiếc thương sâu sắc vò xé con tim non nớt của tôi. Tôi lê bước xuống dưới phòng khách và giấu mình trong một xó tối, thu lu trong một chiếc ghế bành to, úp mặt vào đầu gối và khóc. Tôi hẳn đã ở đó rất lâu vì tôi thấy trời tối dần.

Bỗng nhiên ai đó đi vào với một chiếc đèn, nhưng người đó không nhìn thấy tôi và tôi nghe thấy tiếng bố mẹ tôi nói chuyện với bác sĩ.

Họ đang nói chuyện về bà Clochette, ông bác sĩ giải thích nguyên nhân của tai nạn. Tuy nhiên tôi không hiểu gì lắm. Rồi ông ngồi xuống và uống một ly rượu mùi với một vài chiếc bánh bích quy.

Ông lại cất tiếng, và những gì ông nói lúc đó đã lưu lại mãi trong trí óc tôi và sẽ còn lưu lại mãi cho tới khi tôi xuống mồ. Thậm chí đến tận giờ tôi vẫn còn có thể kể lại một cách tương đối chính xác những gì hôm đó ông đã nói.

- A! - Ông nói - Người phụ nữ khốn khổ! Đó là bệnh nhân đầu tiên của tôi. Cô ta bị gãy chân vào đúng ngày đầu tiên tôi đến đây và tôi thậm chí còn không có thời gian để rửa tay nữa và vội vàng nhảy ngay lên xe khi người ta đến tìm tôi rất gấp vì đó quả là một ca rất nghiêm trọng, cực kỳ nghiêm trọng.

Cô lúc đó mới mười bảy tuổi và là một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp, rất xinh đẹp, ông bà có tin không? Còn về phần chuyện của cô, tôi đã không bao giờ nói cho cô ấy biết, và ở đây ngoài tôi và một người, người đó cũng đã đi khỏi xứ sở này ra, không một ai biết chuyện của cô. Giờ đây cô đã chết, tôi có thể nói ra một chút bí mật của cô rồi.

Thời đó, có một trợ giảng trẻ đến sống ở thị trấn, một chàng rất điển trai với khuôn mặt đẹp như tạc và một dáng vóc chuẩn trong bộ quân phục hạ sĩ quan. Tất cả các cô gái đều chạy theo anh ta nhưng anh ta không thèm đếm xỉa đến bọn họ, vả chăng anh ta rất sợ ông giáo Grabu, cấp trên của anh ta, người khá khó tính.

Rồi ông Grabu nhận cô gái xinh đẹp Hortense vào làm thợ may vá trong nhà. Cô Hortense xinh đẹp đó chính là người phụ nữ vừa mất trong nhà ông bà. Và người ta gọi cô là Clochette sau khi cô gặp nạn.

Anh chàng trợ giảng để ý ngay đến cô gái xinh đẹp này, còn cô thì thấy thích thú vui sướng vì đã đánh đổ được pháo đài tưởng như không thể chinh phục đó. Họ hẹn gặp nhau buổi đầu tiên ở tầng thượng trường học vào cuối buổi may, khi đêm xuống.

Hôm đó, lúc hết giờ làm, cô làm ra vẻ như đi về nhà nhưng thay vì đi xuống cầu thang sau khi rời khỏi nhà ông Grabu thì cô lại leo lên trên, rồi giấu mình vào một góc đợi người yêu. Anh này cũng mau chóng đến gặp cô ngay và anh bắt đầu buông lời tán tỉnh nguyệt hoa. Bỗng cánh cửa tầng thượng kẹt mở và ông Grabu xuất hiện, hỏi:

- Ồ! Anh làm gì ở đây thế hả Sigisbert?

Cảm thấy mình sẽ bị vướng vào một điều tai hại, anh trợ giảng trẻ hoảng sợ trả lời một cách ngu ngốc:

- Ồ! Tôi lên đây để nghỉ ngơi thư giãn một lúc, thưa ông Grabu.

Tầng thượng đó rất lớn, rất rộng và tối đen như mực. Sigisbert vừa thì thầm vừa đẩy nhẹ cô gái đang hốt hoảng:

- Đi đi, trốn đi. Tôi sẽ mất việc làm là chắc rồi, hãy tự cứu lấy mình, trốn đi!

Ông hiệu trưởng nghe thấy tiếng thì thầm, lại hỏi:

- Hóa ra anh không ở đó một mình à?

- Tôi có một mình thôi mà, thưa ông.

- Không, tôi không tin vì anh vừa nói chuyện đấy thôi.

- Xin thề với ông là tôi chỉ ở đây có một mình thôi mà.

- Ta sẽ biết ngay thôi.

Ông già vừa nói vừa mở cửa đi xuống để lấy đèn.

Thế là cậu trai hèn nhát sợ cuống lên, có vẻ như anh ta bỗng nhiên tức điên lên và luôn miệng nhắc:

- Cô trốn đi, nhanh lên, trốn đi. Làm sao để ông ấy không tìm thấy cô, cô sắp lấy mất miếng cơm của tôi rồi đấy, ông ta sẽ đuổi việc tôi mất thôi, trốn đi, cô phá hỏng sự nghiệp của tôi mất thôi... Trốn đi! Trốn ngay đi!

Lại có tiếng chìa khóa quay trong ổ.

Hortense chạy đến chiếc cửa con trông ra phố, cô mau chóng mở nó ra rồi với một giọng khẽ khàng nhưng kiên quyết cô bảo:

- Tôi leo ra đây, lát nữa khi ông ấy đã đi khỏi thì ông ra đỡ tôi lên nhé.

Rồi cô nhảy ra.

Ông Grabu chẳng tìm thấy ai ngoài cậu trợ giảng trên tầng áp mái cả, ông ta đi xuống, vô cùng ngạc nhiên.

Mười lăm phút sau, cậu Sigisbert đến nhà tôi và kể lại cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện. Cô gái trẻ vẫn đang nằm ở chân tường và không sao gượng dậy được sau cú ngã từ tầng ba xuống. Tôi vội đi đến chỗ cô với anh ta. Anh ta khóc như mưa, tôi mang cô gái bất hạnh về nhà tôi, chân phải cùa cô bị gãy, xương gãy đâm vào thịt. Cô không hề rên la, than vãn gì mà chỉ nói một cách nhẫn nhục đáng khâm phục:

- Ôi, tôi bị phạt, bị phạt nặng quá!

Tôi gọi cấp cứu và gọi bố mẹ cô đến, tôi bịa với bố mẹ cô rằng cô bị ô-tô đâm gãy chân ngay trước cửa nhà tôi. Họ tin tôi, và cảnh sát uổng công tìm kiếm trong suốt một tháng trời thủ phạm gây nên vụ việc đó.

Thế đấy! Tôi có thể nói rằng người phụ nữ này là một anh hùng, chảy trong huyết quản cô là dòng máu của những người anh hùng, mà nếu có dịp nó sẽ được bộc lộ tạo nên những câu chuyện đẹp đáng ghi vào sử sách.

Và đó là tình yêu duy nhất của cô. Giờ đây cô đã chết hoàn toàn trinh nguyên. Đó là một kẻ tử vì đạo, một người có trái tim nhân hậu, một con người cao thượng. Nếu tôi không khâm phục cô đến thế tôi đã không kể cho ông bà nghe câu chuyện này. Ông bà đã hiểu vì sao mà tôi đã không hề hé răng kể ai nghe chuyện của cô ta khi cô còn sống.

Ông bác sĩ im bặt. Mẹ tôi bật khóc. Bố tôi nói gì đó nhưng tôi nghe không rõ. Rồi họ đi ra.

Tôi vẫn ngồi yên trong ghế bành, bật khóc. Rồi tôi nghe thấy những tiếng động lạ, tiếng chân bước nặng nề, tiếng va đụng trong cầu thang.

Họ mang thi thể của Clochette xuống.

Một gia đình

Tôi đi thăm người bạn Simon Radevin mà tôi đã không gặp từ mười lăm năm nay.

Xưa kia đó là người bạn tốt nhất của tôi, người bạn luôn chia sẻ mọi ngọt bùi cùng tôi, là người cùng tôi chia sẻ biết bao buổi tối dài đầy vui vẻ thanh bình, là người tôi có thể dốc bầu tâm sự, là người mà mỗi khi tôi có một suy nghĩ, một ý tưởng dù lạ lùng, dù vớ vẩn, dù thông minh hay ngớ ngẩn tôi cũng sẽ tìm đến người đó để sẻ chia hoặc để thực hiện những ý tưởng dù là ngông cuồng, ngốc nghếch nhất, là người mà tôi luôn cảm thấy dễ chịu thoải mái khi ở bên.

Trong suốt một thời gian dài, chúng tôi gần như không hề dời nhau. Chúng tôi cùng sống, cùng chơi, cùng suy tưởng, cùng mơ mộng với nhau, chúng tôi có cùng sở thích; chúng tôi cùng yêu mến một số đồ vật đáng yêu, cùng đọc, cùng thán phục cùng những cuốn sách, những tác phẩm nghệ thuật giống nhau, cùng có cảm giác giống nhau, và thường cùng bật cười trước một điều buồn cười vớ vẩn gì đó mà không cần phải liếc mắt nhìn nhau.

Thế rồi anh ta cưới vợ. Anh đột ngột lấy một cô gái quê lên Paris để kiếm tìm một đức lang quân.

Làm thế nào mà một cô gái bé nhỏ, gày còm với mái tóc vàng xỉn, với đôi tay thô kệch, với đôi mắt nhạt và vô hồn, có giọng nói the thé, hoàn toàn giống hàng trăm hàng nghìn con búp bê vô hồn lại có thể tóm được một người đàn ông thông minh và tinh tế đến thế? Làm sao người ta có thể hiểu điều đó được? Hiển nhiên là anh ta mong muốn có được hạnh phúc, một hạnh phúc bình dị, lâu bền trong vòng tay của một phụ nữ đức hạnh, dịu dàng và chung thủy; và anh ta đã thoáng thấy tất cả những cái đó trong đôi mắt trong suốt của cô gái láu lỉnh có mái tóc nhạt màu này.

Anh ta đã không nghĩ rằng một người đàn ông hoạt bát, nhanh nhẹn, rất dễ rung cảm sẽ mệt mỏi chán nản vì tất cả những cái mà anh ta đang nắm chặt lấy, trừ phi anh ta không u mê đờ đẫn đến nỗi không còn hiểu được bất cứ điều gì nữa.

Giờ đây anh ta sẽ thế nào nhỉ? Vẫn hoạt bát nhanh nhẹn, hóm hỉnh, hay cười, đầy nhiệt huyết hay đang uể oải trong nhịp điệu sống ở nông thôn? Một người đàn ông có thể thay đổi sau mười lăm năm chứ nhỉ!

Tàu dừng ở một ga nhỏ. Tôi xuống tàu, một người đàn ông to béo, rất to béo với đôi má phinh phính đỏ hây hây, với cái bụng phệ lao bổ về phía tôi với hai cánh tay dang rộng và kêu to: "Georges". Tôi ôm hôn anh ta nhưng tôi vẫn còn chưa nhận được ra anh ta. Thế rồi tôi rên rỉ một cách ngu ngốc, ngớ ngẩn:

- Cristi, cậu không hề gày đi.

Anh ta vừa cười vừa trả lời:

- Cậu muốn gì bây giờ? Một cuộc sống tốt đẹp! Một bàn ăn đầy thức ăn ngon lành! Những giấc ngủ ngon không mộng mị! Lẽ sống của tôi là được ăn ngon miệng và ngủ đẫy giãc!

Tôi đứng lặng ngắm nhìn anh, kiếm tìm trong dáng hình trước mặt, những nét thân quen xưa. Chỉ duy đôi mắt là không thay đổi gì về hình dáng, nhưng tôi không còn nhìn thấy cái cách nhìn thân thuộc xưa nữa, tôi tự nhủ: "Nếu đúng là cái nhìn phản ánh suy nghĩ, thì những suy nghĩ trong cái đầu của người bạn thân tôi từng rất hiểu, rất đồng cảm đã khác trước rất nhiều".

Tuy ánh mắt anh vẫn lấp lánh sáng, một ánh sáng vui vẻ, yêu đời nhưng nó không còn sáng lên ánh sáng thông minh, dí dỏm, hài hước xưa nữa. Bỗng nhiên Simon nói với tôi:

- Xem này, đây là hai đứa lớn nhà tôi.

Nhìn theo tay anh chỉ, tôi thấy một cô nhỏ khoảng mười bốn, trông đã ra dáng thiếu nữ lắm rồi và một cậu nhỏ mười ba, còn đang mặc đồng phục của trường cấp hai, chúng tiến lại gần tôi đầy vẻ rụt rè.

Tôi kêu lên:

- Con cậu đấy à ?

Anh vừa cười vừa trả lời:

- Ừ.

- Cậu có bao nhiêu đứa?

- Năm! Vẫn còn ba đứa ở nhà!

Anh ta trả lời đầy vẻ tự hào, hài lòng, đầy vẻ hoan hỉ. Trong tôi bỗng dâng lên một cảm giác thương cảm sâu sắc, trộn lẫn với cảm giác hơi khinh thường đối với con vật giống kiêu căng và ngây thơ dành cả đêm cho việc duy trì nòi giống. Con đực đó được nhốt trong một ngôi nhà ở nông thôn, như thể một con thỏ bị nhốt trong lồng.

Tôi leo lên chiếc xe ô-tô anh ta tự lái và chúng tôi đi về phía thành phố, một thành phố buồn tẻ với nhịp sống ngái ngủ lờ đờ. Trên phố vắng ngoe vắng ngoắt, thỉnh thoảng có một vài con chó hay hai ba kẻ giúp việc đi qua đi lại. Thỉnh thoảng mới có một cửa hàng nhỏ ngoài cửa có giá để mũ.

Simon vừa đi vừa chào và gọi tên tất cả những người đàn ông mà chúng tôi gặp trên đường về, tôi có cảm tưởng anh biết hết, thuộc hết tên của tất cả những cư dân trong thành phố nhỏ bé này. Tôi vẩn vơ nghĩ, hẳn anh ta định ăn đời ở kiếp ở chốn này, chôn vùi thân xác cũng như mọi suy nghĩ tình cảm của anh ta ở mảnh đất này.

Chỉ một lát chúng tôi đã đi qua vùng thành phố, và ô-tô bắt đầu vào trong một khu vườn trông như một công viên thu nhỏ, rồi dừng lại trước cửa một ngôi nhà trông hoàn toàn giống một lâu đài.

- Đây là hang ổ của tôi. - Simon nói để chờ một lời khen.

Tôi trả lời:

- Tuyệt thật.

Trên bậc thềm, xuất hiện một ngiíòi phụ nữ, trang điểm, ăn mặc kỹ càng, cẩn thận để tiếp khách, với những lời có sẵn để hỏi khách. Đó không còn là cô gái nhỏ tóc vàng nhạt nhẽo mà tôi đã gặp ở nhà thờ cách đây mười lăm năm trước. Giờ đây trước mặt tôi là một phụ nữ đẫy đà, trang sức lòe loẹt với những búp tóc xoăn, một trong những kiểu quý bà nhạt nhẽo, không có tuổi, không có tính cách, không lịch thiệp, không duyên dáng, không có chính kiến, chẳng có gì ngoài dáng vẻ bề ngoài là một quý bà. Đó là một người mẹ điển hình, một cỗ máy đẻ, một con gà mái, một cỗ máy bằng xương bằng thịt mà mọi suy nghĩ trong đầu chỉ là con cái và các cuốn sách nấu ăn.

Cô ngỏ lời chào đón tôi, theo đúng thể thức chào khách, khi vào trong phòng tiền sảnh tôi thấy xuất hiện ở đó ba đứa nhỏ đang đứng xếp hàng tề chỉnh như thể những tên lính cứu hỏa.

Tôi hỏi:

- Á à! Đây là những đứa còn lại phải không?

Simon hớn hở gọi tên từng đứa:

- Jean, Sophie và Gontran.

Cửa phòng khách đã mở sẵn. Tôi đi vào đó và tôi nhìn thấy sâu trong một chiếc ghế sa-lông có ai đó đang động đậy, một người đàn ông, một ông già liệt.

Bà Radevin đi lại gần ông già:

- Đây là cha tôi, thưa ông, ông cụ năm nay được tám mươi bảy tuổi.

Rồi cô hét vào tai ông lão nghễnh ngãng: "Đây là bạn của Simon, bố ạ". Ông cụ cố hết sức đưa tay ra hiệu chào tôi và rồi vừa khóc "oe, oe" vừa vẫy tay ra hiệu. Tôi nói với ông cụ: "Ông thật đáng mến, thưa ông". Rồi tôi ngồi phịch xuống một chiếc ghế. Simon vừa vào, anh cười:

- Á! À! Cậu đã làm quen với bố vợ mình đấy à. Ông cụ rất kỳ cục, bọn trẻ con hay lôi ông ra làm trò tiêu khiển. Ông rất háu ăn, bạn thân yêu của tôi ạ, ông ngốn tất cả những gì có trên bàn. Cậu không thể tưởng được, ông có thể ăn nhiều đến thế nào đâu nếu người ta không để mắt đến ông. Nhưng rồi cậu sẽ thấy, cậu sẽ thấy. Ông đang chăm chú nhìn đĩa đường như thể đang ngốn ngấu dáng hình khêu gợi của các cô gái trẻ kia. Cậu chưa bao giờ gặp một người buồn cười đến thế đâu, rồi cậu sẽ thấy.

Rồi anh đưa tôi vào phòng nghỉ, để tôi rửa mặt mũi chân tay. Đã đến giờ ăn tối, tôi nghe tiếng chân bước rùng rùng ngoài cầu thang, tôi quay lại. Phía sau tôi bọn trẻ đi thành một hàng dài mà đi đầu là bố của chúng, không nghi ngờ gì là để tỏ lòng tôn kính tôi.

Phòng của tôi trông ra thảo nguyên, một thảo nguyên khô cằn, đơn điệu, chẳng có gì ngoài cỏ, lúa mì và yến mạch. Không có lấy một bụi cây, một sườn đồi, trí tưởng tượng bị hạn hẹp, buồn rầu, giữa một cuộc sống tẻ nhạt, mà mọi người trong nhà này đang sống.

Một tiếng chuông vang lên, đó là tiếng chuông báo bữa tối đã sẵn sàng. Tôi đi xuống.

Bà Radevin nắm lấy tay tôi đầy vẻ trang trọng và chúng tôi cùng vào phòng ăn. Một người hầu đẩy chiếc ghế bành của ông cụ vào chỗ cụ ngồi, ông cụ nhìn lướt tất cả các đĩa ăn với một cái nhìn hau háu đầy tò mò và quay đầu một cách khó khăn nhìn từ đĩa này đến đĩa khác, cái đầu lúc la lúc lắc.

Thế là Simon xoa hai tay vào nhau và bảo tôi: "Cậu sẽ rất buồn cười cho mà xem". Và tất cả bọn trẻ hiểu ngay rằng người ta sẽ cho tôi xem một màn trình diễn về người ông tham ăn, cùng cười toáng lên, trong khi đó mẹ chúng vừa mỉm cười vừa nhún vai.

Simon quay về phía ông già, lấy tay làm loa và hét vào tai ông: "Tối nay chúng ta có món bánh kem tráng miệng".

Khuôn mặt nhăn nheo của ông lão sáng bừng lên và ông rung người rất mạnh để biểu thị rằng ông đã hiểu và ông rất hài lòng.

Và rồi người ta bắt đầu bữa tối.

"Xem này". Simon rên lên. Ông lão không thích món súp và từ chối ăn nó. Người ta bắt ông phải ăn vì nó tốt cho sức khỏe của ông, người hầu tống vào miệng ông từng thìa súp đầy, trong khi ông cố chống cự lại bằng hết sức bình sinh để khỏi phải nuốt cái thứ nước ông không thích đó, chính vì thế ông làm đổ bẩn hết cả ông, cả bàn ăn và cả những người xung quanh.

Bọn trẻ cười chảy cả nước mắt, trong khi đó bố chúng, vô cùng hài lòng, lặp đi lặp lại: "Có buồn cười không, ông lão này? Có tức cười không?"

Và trong suốt bữa ăn họ chỉ chăm chút cho ông lão. Ông lão nghiến ngấu nhìn những đĩa thức ăn đặt trên bàn, và cố đưa bàn tay run rẩy ra để kéo những đĩa thức ăn về phía mình. Mọi người cố tình đặt chúng sao cho ông gần với tới được, để rồi xem ông cố công cố sức với chúng, vừa run lẩy bẩy vừa cố lấy đà để lao được đến đĩa thức ăn. Mùi thơm của thức ăn khiến ông chảy cả dãi ra vì thèm khát, ông vừa làu nhàu vừa cố với. Cả nhà reo hò vui vẻ vì vẻ khốn khổ lố bịch của ông già.

Rồi người ta tiếp vào đĩa ông một miếng bánh bé tẹo mà ông ăn ngốn ngấu hết ngay với hy vọng người ta sẽ tiếp thêm miếng khác cho ông. Khi người ta mang bánh ngọt lên. Ông như người lên cơn động kinh. Ông rên lên vì thèm thuồng.

Gontran hét lên với ông: "Ông ăn nhiều quá rồi, ông không nên ăn nữa". Và nó làm ra vẻ không cho ông ăn nữa.

Thế là ông già bật khóc nức nở. Ông vừa khóc, vừa run rất mạnh trong khi đó tất cả bọn trẻ con cười ngặt cười nghẹo. Cuối cùng người ta cũng mang phần của ông đến cho ông, một phần bánh rất nhỏ; ông nhét ngay nó vào mồm nghiến ngấu, vừa ăn vừa phát ra tiếng kêu chóp chép như một đứa trẻ phàm ăn. Vừa ăn vừa ợ, vừa nấc như một con vịt nuốt phải một miếng cá quá to.

Rồi khi ông ăn xong, ông lại giậm chân để bảo mọi người tiếp thêm cho ông.

Ái ngại cho ông già, mủi lòng tôi quay sang ướm lời :

- Xem kìa, đưa thêm một chút bánh ngọt cho ông chứ?

Simon trả lời:

- Ôi không! Bạn thân mến, nếu ông ăn quá nhiều sẽ không tốt cho sức khỏe của ông đâu.

Tôi cứng họng trước những lời như thế. Ôi đạo đức, ôi lập luận, ôi sự thông thái, ở tuổi ông, người ta đã tước nốt thú vui được ăn của ông vì lo lắng cho sức khỏe của ông! Sức khỏe của ông! Người ta sẽ làm gì được cho ông, cho một lão già liệt, run lẩy bẩy? Người ta giữ gìn sức khỏe cho ông, người ta giữ cho ông được sống lâu hơn, như người ta nói ư? Giữ cho ông sống được lâu hơn, nhưng sống lâu hơn được bao nhiêu ngày? Mười ngày, hai mươi ngày, năm mươi ngày hay một trăm ngày? Để làm gì? Vì cái gì? Vì ai? Vì ông? Hay để giữ cho gia đình một đồ vật để mà chơi, để mà đùa về thói tham ăn đầy bất lực của ông?

Ông chẳng còn việc gì để làm trong cuộc đời này nữa, chẳng còn gì nữa hết. Chỉ còn một mong muốn duy nhất còn lại, một thú vui duy nhất; tại sao người ta không thỏa mãn cho ông cái niềm vui cuối cùng đó, cho ông được hưởng cái niềm vui duy nhất còn lại đó cho tới ngày cuối đời?

Sau đó chúng tôi còn đánh bài rất lâu rồi tôi mới lên phòng đi nghỉ: tôi buồn, buồn, buồn quá!

Tôi ra đứng ở cửa sổ nhìn ra ngoài, ngoài kia, chẳng hề có một tiếng động nhẹ nào ngoài tiếng một con chim đang líu lo hót trong một bụi cây ở một nơi nào đó. Chú chim này hẳn đang hót với một giọng nhỏ nhẹ trong đêm để ru con mái ngủ, ấp trên những quả trứng.

Tôi lại nghĩ đến năm đứa con của anh bạn khốn khổ của tôi, người hẳn giờ đây đang ngáy bên người vợ xấu xí của anh ta.

Người cha

Jean de Valnoix là một người bạn mà tôi thỉnh thoảng vẫn đến thăm. Ông sống trong một trang viên nhỏ, cạnh một con sông, trong rừng. Ông đã về đó sau một thời gian dài sống ở Paris, khoảng mười lăm năm, một cuộc sống vô cùng vui nhộn. Bỗng nhiên, ông chán ngán mọi thú tiêu khiển, chán các trận vui thâu đêm suốt sáng, chán bạn bè, chán đàn bà, chán các trận đỏ đen, chán tất. Ông về sống ở nơi mình đã sinh ra.

Thỉnh thoảng, tôi và một hai người bạn lại đến thăm và ở lại chơi với ông ấy khi thì dăm bữa, khi thì nửa tháng. Hiển nhiên, ông rất vui khi thấy chúng tôi đến, và hoàn toàn hài lòng khi còn lại một mình khi chúng tôi về.

Vậy nên, tuần trước tôi đến thăm ông, ông đón tôi vô cùng niềm nở. Chúng tôi trải qua hàng giờ, khi thì cùng nhau, khi thì mỗi người một chỗ. Thường thì, ông đọc một cái gì đó còn tôi làm việc, và khi đêm xuống, chúng tôi trò chuyện tới tận nửa đêm.

Thế nên, thứ ba tuần trước, sau một ngày làm việc kiệt lực, chúng tôi cùng ngồi, lúc đó vào khoảng chín giờ tối, để ngắm sông chảy. Chúng tôi trao đổi những lời ngắn gọn, không rõ nghĩa về những vì sao đang lấp lánh trên bầu trời. Chúng tôi nói với nhau những ý tưởng rất mơ hồ, rất lộn xộn, rất ngắn bởi đầu óc của chúng tôi lúc đó rất nhạy cảm, rất yếu ớt, gần như tê liệt. Tôi mủi lòng khi nghĩ đến mặt trời, trong những đêm trăng sáng, người ta không nhìn thấy cái tinh cầu đó nữa, nó mới nhạt nhòa làm sao. Khi trời mù sương, mặt trời như biến mất. Chúng tôi nghĩ đến những sinh vật đang sinh sôi nảy nở, tới những hình dạng không thể tưởng tượng được, tới những khả năng không ngờ tới, tới những loài vật, tới những loài cây, tới tất cả các giống, các loài, các chất mà ngay cả trong mơ con người cũng không thể gặp được.

Bỗng nhiên có tiếng gọi từ đằng xa:

- Ông ơi, ông ơi!

Jean trả lời:

- Ở đây, Báp tít.

Khi tên người hầu đến tới nơi, nó thông báo:

- Cô gái du mục của ông đến, thưa ông.

Bạn tôi bật cười, cười như điên như dại, một việc hiếm thấy ở anh, rồi anh hỏi:

- Hôm nay ngày 19 tháng Bảy nhỉ?

- Vâng, thưa ông.

- Tốt. Hãy nói cô ấy đợi ta. Bảo nhà bếp làm thêm vài món để ăn đêm. Ta sẽ về trong vòng mười phút nữa.

Khi tên hầu đã quay đi, anh nắm lấy tay tôi và bảo:

- Chúng ta đi từ từ thôi, tôi sẽ kể cho cậu nghe chuyện này.

"Cách đây bảy năm, chính là năm tôi về đây, một hôm tôi ra ngoài đi dạo trong rừng. Hôm đó, trời cũng dẹp như hôm nay vậy, tôi bách bộ dạo chơi dưới những tán cây rừng, ngắm sao qua khe lá, hít sâu đầy lồng ngực không khí mát lành ban đêm trong rừng.

Tôi vừa rời bỏ Paris, vừa rời bỏ những thú vui mà tôi đã chán ngấy, rời bỏ những trò ngớ ngẩn, rời bỏ những trò hèn hạ, những trò nhơ bẩn mà tôi đã phải thấy, phải biết, phải tham gia trong suốt mười lăm năm.

Tôi đã đi rất xa, rất sâu vào trong rừng, và tiếp tục theo một con đường nhỏ dẫn đến làng Crouzille, cách đây mười lăm ki-lô-mét.

Đột nhiên, Bock, con chó giống bécgiê Đức của tôi, con vật không bao giờ rời tôi, bỗng đứng phắt lại và bắt đầu gầm gừ. Tôi cho là có con cáo, con sói, con thỏ gì đó chạy ngang qua chăng. Thế nên tôi nhón chân lên đi rất nhẹ để không gây ra tiếng động. Nhưng bỗng nhiên tôi nghe có tiếng kêu rên bị nén lại đầy đau đớn, tiếng kêu rên của người.

Rõ ràng là ai đó đang bị sát hại trong bãi cây thưa phía trước, tôi nắm chặt lấy cây gậy chống bằng gỗ sồi nặng như một cây chùy của mình và chạy ngay đến nơi đang phát ra tiếng kêu.

Càng chạy đến gần, tiếng kêu càng rõ, nhưng tiếng kêu nghe rất lạ. Cuối cùng tôi nhìn thấy một cái lều, trông như cái lều của người bán than, tiếng kêu đang phát ra từ đó. Bock, chạy trước tôi ba bước chân, bỗng dừng phắt rồi lùi lại, miệng phát ra những tiếng gầm gừ đầy kích động.

Bỗng nhiên, một con chó to đùng, đen kịt, mắt như hai hòn than hồng nhảy xổ ra cản đường chúng tôi. Tôi nhìn thấy rất rõ những chiếc răng nanh to đùng trắng ởn trong miệng nó.

Tôi giơ chiếc gậy chống của tôi dứ về phía con chó để dọa nó, Bock nhảy phốc lên và hai con chó vồ lấy nhau lăn một vòng và bắt đầu cắn xé nhau. Nhanh chóng, tôi đi qua chúng và suýt nữa vấp phải một con ngựa đang nằm dài trên đường. Ngạc nhiên, tôi đứng lại xem xét con vật, chính vì thế nên tôi phát hiện thấy trước mặt tôi có một chiếc xe hòm do ngựa kéo, nói đúng hơn là một ngôi nhà di động bốn bánh, một dạng nhà lưu động của những gánh xiếc rong hoặc của những thương nhân bán hàng trong chợ phiên, những người luôn dong duổi trên đường đi từ chợ phiên này đến chợ phiên khác trong các vùng nông thôn.

Tiếng kêu phát ra từ đó, liên tục, đầy đau đớn. Vì cửa xe nằm ở phía bên kia, tôi phải đi vòng qua cái xe cà khổ đó và nhảy ba bước lên bậc gỗ của nó, nhảy phốc vào xe, tôi suýt ngã vào một người đang ngồi trong đó.

Cảnh tôi nhìn thấy đầu tiên khiến tôi không hiểu thế nào cả. Một người đàn ông đang quỳ gối và trông có vẻ như đang cầu nguyện, trên một chiếc giường gỗ, có một người đang nằm, quằn quại, nửa người trần như nhộng, còn nửa kia quấn chặt trong chăn, người đó cứ quằn quại, rên la đầy đau đớn.

Một ca đẻ khó.

Ngay khi hiểu ra vấn đề, tôi giải thích vì sao tôi có mặt ở đây. Người đàn ông, một người Marseille đang hoảng loạn, van vỉ xin tôi hãy cứu lấy con anh ta, cứu lấy vợ anh ta. Tôi chưa từng chứng kiến một ca sinh nở nào, chưa từng đỡ đẻ cho bất cứ một con cái nào bao giờ, kể cả chó mèo cũng không, vì thế nên trong hoàn cảnh đó, tôi vừa ấp a ấp úng, vừa sững sờ nhìn người phụ nữ đang rên la thảm thiết trên giường.

Rồi khi lấy lại được bình tĩnh, tôi hỏi người đàn ông đang lo sợ rụng rời kia tại sao không đi đến một ngôi làng gần nhất tìm sự giúp đỡ, anh ta bảo vì ngựa của họ bị sa xuống hố và chắc nó đã bị gãy chân, nó không thể đứng lên được.

- Thôi được rồi, can đảm lên, - Tôi bảo anh ta - giờ đây tôi với anh đã là hai người, chúng ta sẽ cáng vợ anh về nhà tôi.

Tiếng chó tru làm chúng tôi phải chạy ra ngoài. Chúng tôi phải dùng tới gậy, và suýt giết chết chúng mới tách được chúng ra. Rồi tôi nảy ra ý mắc chúng vào càng xe, một con ở càng xe trái, một con ở càng xe phải, cùng giúp chúng tôi kéo xe về. Trong vòng mười phút mọi thứ đã sẵn sàng, và chiếc xe ngựa lại bắt đầu lăn bánh, vừa đi vừa lúc lắc, mỗi khi bánh xe xóc lên lại khiến người phụ nữ khốn khổ trong xe bật lên một tiếng kêu rên đau đớn.

Con đường hôm đó mới dài khủng khiếp làm sao, bạn thân mến, chúng tôi vừa kéo xe, vừa thở hổn hển, mồ hôi mồ kê nhễ nhài, vừa đi vừa trượt vừa ngã. Bên cạnh chúng tôi, hai con chó cũng thở như kéo bễ lò rèn.

Phải mất đến ba tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới về được đến lâu đài. Khi chúng tôi đến đúng trước cửa lâu đài thì tiếng kêu rên trong xe ngừng hắn, người mẹ đã hoàn thành sứ mệnh của cô, mẹ tròn con vuông.

Người nhà tôi chuẩn bị giường cho hai mẹ con, rồi tôi cho người đi mời bác sĩ, trong khi đó người chồng, vui mừng khôn xiết, ăn uống nhảy múa tưng bừng.

Họ sinh được một cô con gái.

Tôi giữ họ ở lại nhà tôi tám ngày. Người mẹ, có Elmire, là một người hơi có máu di gan, cô có khả năng đoán trước được tương lai, cô tiên đoán tôi sẽ sống rất lâu và sẽ hạnh phúc.

Năm sau, đúng vào ngày đó, khi màn đêm vừa buông xuống, tên gia nhân lúc nãy đến gọi tôi ở phòng đọc sách sau bữa tối của tôi và báo:

- Thưa ông, có cô gái du mục mà năm ngoái ông đã cứu, đến xin cảm ơn ông.

Tôi cho phép cô gái vào và tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy đi vào cùng cô là một người đàn ông tóc vàng, cao lớn, một người miền Bắc điển hình, ông này vừa chào tôi vừa giới thiệu ngay ông là trưởng tộc và ông đã được biết đến lòng tốt của tôi dành cho cô Elmire, vì thế nên ông không thể tổ chức lễ sinh nhật cho cô bé con mà không đến cảm ơn tôi.

Tôi mời họ ăn và dọn chỗ cho họ nghỉ lại một đêm. Sáng hôm sau họ ra về.

Thế là từ đó năm nào cũng thế, cứ đúng ngày đó người mẹ lại đến cùng cô con gái, một bé gái xinh đẹp tuyệt trần, và mỗi năm họ lại đến cùng một tộc trưởng mới, chỉ duy có một lần, có một người vùng Auyergnat là xuất hiện ở nhà tôi hai năm liền, cô bé gái gọi tất cả những người đó là cha, như thể chúng ta gọi tất cả những người đàn ông là ‘ông’ là ‘ngài’ vậy.

Chúng tôi về đến lâu đài và chúng tôi nhận thấy lờ mờ ba bóng người đang đứng đợi chúng tôi ở thềm cửa trước nhà.

Người cao lớn nhất bước bốn bước về phía chúng tôi, ngả mũ chào vô cùng trịnh trọng:

- Thưa ông, ông biết đây, chúng tôi đến đây để tỏ lòng cảm ơn ông.

Đó là một người Bỉ.

Sau anh ta, cô bé con nói lời cảm tạ với giọng kiểu cách không tự nhiên của trẻ con học thuộc lòng những lời nói cảm ơn.

Tôi ra vẻ không biết chuyện, sau vài lời xã giao, tôi lại gần cô Elmire và hỏi:

- Đó là cha của con cô à?

- Ồ không! Thưa ông!

- Thế cha cô bé đâu, ông ta đã mất?

- Không, thưa ông! Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp nhau. Anh ấy là hiến binh.

- Ô hay, vậy đó không phải là ông người Marseille, người đã có mặt khi cô sinh hay sao?

- Không! Thưa ông, tên đó là một tên bất lương, hắn đã ăn trộm hết cả tiền dành dụm của tôi.

- Thế còn ông hiến binh, người cha thật sự của đứa bé, anh ta có biết con anh ta không?

- Có chứ, thưa ông! Và anh ta thậm chí còn rất yêu nó nữa, nhưng anh ta không thể nuôi nó được, anh ta còn có nhiều đứa con khác với vợ của anh ta".

Cuộc gặp gỡ

Viết cho Édouard Rod

Hoàn toàn tình cờ. Ông nam tước Étraille, mệt mỏi vì phải đứng quá lâu, dạo bước đi tham quan tất cả các phòng của công nương, vì trong ngày lễ, tất cả các buồng trong nhà công nương đều để ngỏ, và cuối cùng đi vào phòng ngủ vắng lặng và gần như có thể nói là tối tăm sau khi vừa ra khỏi các phòng khách sáng rực đèn hoa.

Ông tìm một chiếc ghế sô-pha để ngả lưng, chắc chắn là vợ ông sẽ không chịu rời khỏi buổi tiệc trước bình minh. Ông nhận thấy ngay từ lúc vừa bước đến cửa một chiếc giường lớn được khảm lá ngọc hoa vàng, chiếc giường được đặt giữa phòng rộng, gần giống như một chiếc quan tài lớn nằm giữa nhà táng, nơi đó hẳn đã chôn vùi tình yêu của công nương vì công nương không còn trẻ nữa. Phía sau giường là một mảng sáng gây cảm giác như nhìn ra một hồ nước mênh mông qua một chiếc cửa sổ cao. Đó là một chiếc gương, rất lớn, lấp sau những tấm rèm nặng, đôi khi người ta thả những tấm rèm đó xuống, nhưng thường thì những tấm rèm đó được vén lên. Tấm gương là nhân chứng, là tòng phạm trong mọi việc đã từng diễn ra nơi đây. Người ta có thể nói rằng những tấm gương có kỷ niệm, có những buồn vui. Như trong những lâu đài bị ma ám, người ta sẽ có thể trông thấy những khuôn mặt phẳng lừ, những bóng hình phơ phất, những vòng tay âu yếm, những bóng dáng phụ nữ xinh đẹp quyến rũ với áo khăn hững hờ, những cái siết mạnh của những vòng tay đam mê.

Nam tước đứng im, hơi xúc động một chút khi đứng ở ngưỡng cửa tình yêu này. Nhưng đột nhiên, một cái gì đó hiện lên trong gương như thể những bóng ma đã được dựng dậy trước mặt ông. Có một người đàn ông và một người phụ nữ đang ngồi trên một chiếc trường kỷ rất thấp được đặt trong một góc tối, họ đứng lên. Và chiếc gương, một tấm kính trong suốt, phản chiếu bóng hình họ, chiếu hình họ đang cùng đứng dậy, hôn môi đầy tình tứ trước khi tạm biệt.

Nam tước nhận ra đó là vợ ông và bá tước Cervigné. Ông quay đi, lánh đi vì ông bá tước là người mạnh mẽ và là cấp trên của ông. Ông đợi cho trời sáng để đưa bà nam tước về nhưng giờ ông không còn thấy buồn ngủ nữa.

Ngay khi chỉ còn lại mình ông với vợ, ông bảo cô:

- Thưa cô, tôi vừa trông thấy cô trong phòng ngủ của công nương Raynes. Không cần phải giải thích gì hết. Tôi không muốn trách mắng, đánh chửi, chế giễu gì cô. Để tránh tất cả những phiền nhiễu khó chịu đó, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ chia tay nhau một cách lặng lẽ, không ầm ỹ. Các luật sư sẽ giải quyết rất nhanh gọn theo lệnh của tôi. Cô sẽ nhanh chóng được tự do sống theo sở thích của mình, nhưng không phải dưới mái nhà của tôi. Nhưng tôi cũng báo trước cho cô biết, nếu cô còn gây ra một vụ tai tiếng nào khi còn đang mang tên họ của tôi, tôi sẽ phải dùng tới các biện pháp cứng rắn với cô.

Cô muốn nói, nhưng ông ngăn cô lại, cúi đầu chào một cách vô cùng lịch sự, ông bỏ về phòng riêng ngay.

Ông cảm thấy ngạc nhiên và buồn nhiều hơn là cảm thấy đau khổ. Ông đã từng yêu cô biết mấy trong thời gian đầu mới lấy nhau. Nhưng rồi sự cuồng nhiệt đó cứ nguội lạnh dần theo thời gian. Và giờ đây, với cô, ông có những tình cảm biến đổi rất thất thường, lúc thì rất yêu, lúc lại thấy bình thường, vô cảm, tuy nhiên ông vẫn luôn tỏ ra yêu quý cô.

Cô còn quá trẻ, cô mới chỉ vừa hai mươi tư tuổi, nhỏ nhắn, xinh xắn với mái tóc vàng như ánh nắng mặt trời, gày nhỏ, quá gày. Cô là mẫu điển hình của búp bê Paris, rất xinh đẹp, rất được yêu chiều, lịch lãm, đỏm dáng, khá hóm hỉnh, rất duyên dáng. Đã có lần, trong một lần tâm sự với anh trai, ông đã nói một cách thân mật về cô: "Vợ em vô cùng duyên dáng, quyến rũ, chỉ có điều... cô ấy sẽ không thể nằm lâu trong tay bất cứ ai. Cô ấy giống như những ly rượu sâm panh đầy bọt. Khi ta đã uống cạn đến đáy, dù sao cùng tốt, nhưng hơi quá ít".

Ông đi đi lại trong phòng, bồn chồn và nghĩ đến hàng nghìn điều. Đến lúc này, cơn giận dữ mới dâng lên trong lòng ông, và ông mong muốn cồn cào được nói toáng lên điều bí mật đó để phá tan sự nghiệp của tên bá tước, để dồn hắn vào tròng. Rồi ông tự nhận thấy nếu ông làm điều đó, thì người bị cười nhạo trước tiên sẽ là ông chứ chẳng phải ai khác. Sự ngoại tình của vợ làm tổn thương tính kiêu căng của ông nhiều hơn là làm ông đau lòng. Ông lên giường đi nằm nhưng không sao chợp mắt được.

Một vài ngày sau, ở Paris mọi người biết rằng ông và bà nam tước thuận tỉnh ly hôn vì không hợp nhau. Không ai nghi ngờ gì, không ai bàn tán gì, và cũng chẳng ai lấy làm ngạc nhiên gì.

Tuy nhiên, để tránh những cuộc gặp mặt có thể khiến ông thấy khó xử, ông nam tước đã lên đường đi du lịch. Mùa hè năm đó ông đi tắm biển, mùa thu ông đi săn và ông trở về Paris vào mùa đông. Suốt cả năm đó, ông không hề gặp lại vợ mình.

Ông thấy rằng mọi người chẳng hề dị nghị gì về cô. Ít nhất thì cô cũng đã để ý giữ thể diện. Ông đã không đề nghị cô làm điều đó.

Buồn chán, ông lại lên đường đi du lịch, ông tu sửa lại lâu đài của ông ở Villebon, việc tu sửa đó đã khiến ông mất đến hai năm; rồi ông mời bạn bè đến đó chơi, ít nhất ông cũng mất đến mười lăm tháng dài chơi bời thiết đãi bạn bè. Nhưng mệt mỏi vì những trò vui đã nhàm, ông quay về ngôi nhà ở phố Lille sau sáu năm ly dị.

Giờ ông đã bốn mươi lăm tuổi, vẫn còn khá tráng kiện với mái tóc đã lốm đốm bạc, hơi có bụng. Sầu muộn, chán nản, không còn thấy hứng thú gì với bất cứ ai, bất cứ cái gì.

Một tháng sau khi về Paris, ông bị cảm lạnh và húng hắng ho vì một hôm đi chơi về khuya. Bác sĩ đề nghị ông về Nice nghỉ qua mùa đông.

Thế là ông lại lên đường vào một buổi tối thứ hai, trên một chuyến tàu tốc hành.

Ông đến muộn, khi ông đến nơi, đoàn tàu đang bắt đầu lăn bánh. Chỉ còn có một chỗ trên khoang phụ. Ông đi lên, sâu phía trong đã có người ngồi, người đó quấn kín trong bộ áo lông thú và măng-tô nên ông thậm chí không đoán nổi đó là một phụ nữ hay một người đàn ông nữa. Khi thấy rằng ông sẽ không biết gì hơn về người bạn đồng hành, tới lượt mình, ông cũng tìm một tư thế cho thuận tiện, bỏ chiếc mũ rộng vành đi đường của mình xuống, mở chăn ra, quấn chặt mình trong chăn và ngủ thiếp đi.

Mãi đến khi bình minh lên ông mới tỉnh giấc. Ngay khi vừa tỉnh giấc, ông nhìn ngay sang chỗ người đồng hành, người này vẫn nằm yên ở tư thế từ hôm trước không hề cựa quậy và vẫn có vẻ đang say giấc nồng.

Ông Étraille tranh thủ thời gian để làm vệ sinh buổi sáng, chải lại râu tóc, và ngắm nghía khuôn mặt mình, sau có một đêm mà khuôn mặt đã thay đổi biết mấy, khuôn mặt có vẻ thay đổi thật nhanh khi người ta nhiều tuổi.

Một nhà thơ lớn từng nói: Khi ta trẻ, mỗi buổi sáng thức dậy, ta đều thấy hân hoan vui sướng!

Khi người ta trẻ, khi thức giấc ta thấy cuộc sống thật vô cùng tươi đẹp, với làn da rạng rỡ, với đôi mắt sáng long lanh, với mái tóc rực rỡ đầy sức sống.

Khi người ta già, mỗi sáng thức dậy, ta thấy mọi vật đều ảm đạm thê lương, đôi mắt lờ đờ, má phình phình đỏ, môi dày trễ nải, tóc tai bù xù và râu ria xồm xoàm khiến cho khuôn mặt có một vẻ già nua, mệt mỏi.

Nam tước mở hộp đồ dùng cá nhân ra, lấy ra một cái lược và chải qua loa râu tóc một chút. Rồi ông ngồi đợi.

Tàu hú một hồi dài rồi ngừng hẳn lại. Người dồng hành cựa quậy, hẳn là người đó đã thức giấc. Một ánh nắng xiên chéo vào trong toa, gần như chiếu thẳng vào người đang say ngủ, người này lại cựa quậy, và lúc lắc đầu như một chú gà con đang chui ra khỏi vỏ, cuối cùng thò cả mặt ra ngoài.

Đó là một phụ nữ trẻ, tóc vàng, da dẻ mịn căng, rất xinh đẹp và đậm người. Cô ngồi hẳn dậy.

Nam tước sững sờ nhìn cô. Ông không tin nổi vào mắt mình nữa, trước mặt ông là... đích thị là cô vợ cũ của ông, nhưng đã hoàn toàn thay đổi một cách đáng ngạc nhiên... so với trước đây, cô đã béo lên rất nhiều, béo nhiều hơn cả ông nữa.

Cô điềm tĩnh nhìn ông, có vẻ như không nhận ra ông, bình thản gấp lại chăn, áo cho gọn.

Cô có vẻ bình thản và vô cùng tự tin, một vẻ bình thản tự tin ở một phụ nữ hoàn toàn rất tự tin vào bản thân mình.

Nam tước hoàn toàn mất bình tĩnh.

Phải đó là vợ ông không? Hay đó chỉ là một người giống cô ấy? Ông đã không gặp lại cô từ sáu năm nay rồi, có thể ông nhầm.

Cô ngáp dài, ông quen biết mấy cử chỉ này.

Nhưng một lần nữa, cô quay về phía ông và nhìn ông, một cái nhìn lạnh lùng, không cảm xúc của một người nhìn một người lạ mà mình không quen. Rồi cô quay sang ngắm cảnh nông thôn.

Ông hoàn toàn bất ngờ và vô cùng bối rối. Ông ngồi và thỉnh thoảng lại lén nhìn trộm cô.

Nhưng rõ ràng là vợ ông mà, Chúa ơi! Sao ông có thể nhầm lẫn được cơ chứ? Không thể có hai người có cùng một cái mũi giống nhau đến thế. Hàng nghìn kỷ niệm lại ùa về, kỷ niệm về những cái vuốt ve âu yếm, những chi tiết nhỏ trên cơ thể của cô, một nốt ruồi nhỏ giữa ngực và một cái khác nằm trên lưng đối xứng với cái trước ngực. Ông đã hôn lên chúng biết bao lần! Ông lại cảm thấy cảm giác ngất ngây sung sướng thuở xưa, ông như thoáng ngửi thấy mùi hương cơ thể cô, như đang thấy miệng cô cười khi cô vòng tay ôm cổ ông, như đang nghe giọng nói ngọt ngào thỏ thẻ của cô bên tai, như cảm thấy những vuốt ve yêu đương trên da thịt.

Nhưng cô mới thay đổi biết mấy, đẹp lên rất nhiều, đúng là cô nhưng lại như không còn phải là cô nữa. Ông tìm lại được một phụ nữ chín chắn hơn, đằm thắm hơn, đàn bà hơn, quyến rũ hơn rất nhiều.

Vậy mà người phụ nữ xa lạ kia, người phụ nữ mà ông gặp một cách tình cờ trên toa tầu này đã từng là của ông, đã từng thuộc về ông cả thể xác lẫn linh hồn. Ông chỉ cần nói: "Tôi muốn" là có thể có được cô.

Xưa kia, ông đã từng nằm ngủ ngon lành trong vòng tay kia, từng sống trong tình yêu của cô. Giờ đây ông đã tìm lại được cô, đã thay đổi đến mức ông phải khó khăn lắm mới nhận ra được. Đó vừa là cô, vừa là một con người khác: một người vừa mới được sinh ra, lớn lên, trưởng thành từ ngày ông lìa xa cô. Đó chính là cô gái mà ông đã từng sở hữu, ông đã nhận ra được phong thái đã khá đổi khác của cô, nụ cười đã bớt yểu điệu, cử chỉ đã tự tin hơn. Đó là hai người phụ nữ trong một con người, hòa lẫn trong một người đó là một phụ nữ hoàn toàn xa lạ và một người phụ nữ mà ông đã từng vô cùng yêu quý. Điều đó thật lạ lùng, gây nhiều bối rối. Đó chính là vợ ông trong một cơ thể mới, trong một da thịt mới, cái da thịt mà môi ông chưa từng chạm vào.

Quả thật, ông nghĩ, trong sáu năm chúng ta đã thay đổi biết mấy. Ngay cả đến cảnh vật sau sáu năm có thể có cảnh vẫn nguyên như cũ nhưng cũng có thể có cảnh đã hoàn toàn biến mất nữa là.

Máu, tóc, da, tất cả đều có thể thay đổi, tất cả đều có thể đổi khác. Và khi lâu ngày không gặp lại, người ta có thể gặp lại được một con người hoàn toàn khác, dù rằng ông vẫn thế và ông vẫn mang tên họ cũ.

Và con tim cũng có thể đã thay đổi, tư tưởng tình cảm cũng có thể đã đổi khác rất nhiều, có thể đã đổi mới đến nỗi mà ở tuổi bốn mươi, dần dần, một cách chắc chắn, mỗi người đã có thể biến đổi thành bốn năm con người mới hoàn toàn khác so với con người cũ.

Ông suy nghĩ và rung động đến tận tâm can. Kỷ niệm về buổi tối xưa cũ ở nhà công nương lại tràn về, hôm đó ông đã không hề phẫn nộ. Nhưng hôm nay, trước mặt ông không còn là cô búp bê Paris mỏng manh xinh xắn hồi đó nữa rồi.

Ông sẽ làm gì? Ông sẽ nói gì với cô? Ông sẽ xử sự với cô thế nào? Chẳng lẽ cô hoàn toàn không nhận ra ông sao?

Tàu lại dừng, ông đứng lên, chào và nói: "Berthe, cô có cần gì không? Tôi có thể mang đến cho cô..."

Cô nhìn ông từ đầu đến chân và trả lời, không hề ngạc nhiên, không bối rối, không giận giữ, thậm chí còn hơi có vẻ lạnh lùng: "Không, không cần gì hết, cảm ơn".

Ông đi xuống, loạng choạng như thể đầu còn đang bị choáng sau một cú ngã. Ông sẽ làm gì bây giờ? Leo lên một toa khác ư? Ông sẽ có vẻ như trốn chạy. Tỏ ra ga lăng, ân cần săn đón ư? Ông sẽ có vẻ như hối hận. Lên giọng ông chủ ư? Ông sẽ có vẻ như một tên tồi, một kẻ bất lương. Vả lại, thực ra thì ông làm gì có quyền lên giọng ông chủ với cô nữa.

Ông lại lên tàu và ngồi vào chỗ của mình.

Cô cũng vậy, trong lúc ông xuống sân ga, cô đã đi vào phòng vệ sinh để chỉnh trang lại trang phục. Giờ cô ngồi xuống ghế của mình một cách thoải mái, rạng rỡ, tự tin, không một chút e ngại, bối rối.

Ông quay về phía cô và nói:

- Berthe quý mến, do một ngẫu nhiên tình cờ, chúng ta cùng có mặt ở đây sau sáu năm xa cách, sáu năm xa cách không một chút ồn ào, liệu chúng ta có nên tiếp tục nhìn nhau như nhìn kẻ thù không đội trời chung không? Liệu chúng ta có nên tiếp tục giữ mãi thái độ thù hằn với nhau không? Dù sao thì tôi, tôi cũng không muốn như vậy. Cho nên, liệu chúng ta có thể nói chuyện với nhau như... như... những người bạn trong cuộc hành trình này được không?

Cô trả lời một cách bình thản:

- Tùy ý ông.

Chưng hửng, ông không biết nói gì thêm. Nhưng rồi, lấy lại được dũng khí, ông tiến lại gần, ngồi vào ghế giữa và nói bằng một giọng ngọt ngào:

- Em có biết là em đã thay đổi biết mấy kể từ khi chúng ta không gặp nhau không. Gặp lại em làm tôi vui quá, em mới duyên dáng làm sao. Có lẽ tôi phải chinh phục lại em một lần nữa thôi, em biết không, chưa một phụ nữ nào làm tim tôi rộn ràng xao xuyến đến thế khi nhìn thấy bóng áo lông thú của em đi vào. Thật đấy, tôi không thể ngờ em đã thay đổi đến thế...

Cô nói, không hề quay đầu sang, không hề nhìn ông:

- Tôi không tin lắm, bởi ông đã từng vô cùng nhầm lẫn.

Ông đỏ mặt, bối rối rồi cười một cách cam chịu:

- Em thật cứng rắn.

Cô quay hẳn về phía ông:

- Tại sao? Tôi đã thấy. Ông đã không hề có ý định dành cho tôi tình yêu của ông, không phải thế sao? Vậy thì tôi cho rằng ông tốt hay xấu thì cũng vậy thôi. Nhưng tôi thấy rằng chủ đề này làm ông khó chịu. Vậy thì chúng ta sẽ chuyển chủ đề khác, ông đã làm gì kể từ khi tôi không gặp ông.

Ông hoàn toàn mất tự chủ, ông ấp úng:

- Tôi á? Tôi đã đi du lịch, tôi đã đi săn, tôi đã già đi, như cô thấy đấy. Thế còn cô?

Cô nói một cách thản nhiên:

- Tôi, tôi đã giữ thể diện như ông đã yêu cầu.

Ông suýt buột miệng chửi thề, nhưng ông kìm lại được, nhưng ông cầm lấy tay cô, hôn lên tay cô và nói:

- Cảm ơn cô.

Cô ngạc nhiên. Ông thật sự mạnh mẽ, và luôn là chủ cô.

Ông nói tiếp:

- Vì cô đã chấp nhận lời đề nghị đầu tiên của tôi, cô có đồng ý để chúng ta cùng trò chuyện mà không chua chát mỉa mai gì nhau.

Cô có một cử chỉ khinh miệt.

- Chua chát mỉa mai ư? Nhưng tôi đâu có làm thế. Ông làm tôi hơi lạ đấy. Tôi chỉ có ý nói chuyện vui thôi mà.

Ông nhìn cô không chớp mắt, ông muốn chinh phục lại cô cho dù cô có tỏ ra thô lỗ với ông, một cảm giác lạ lùng xâm chiếm ông, một cảm giác mạnh mẽ dai dẳng, cảm giác cần phải chinh phục cho được cô.

Cô lại nói, rõ rằng cô đang làm ông tổn thương:

- Ông bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? Tôi tin rằng ông trẻ tuổi hơn là vẻ ngoài của ông.

Ông tái mặt:

- Tôi bốn lăm.

Rồi ông hỏi:

- Tôi quên không hỏi công nương Raynes có gì mới không. Cô có hay gặp công nương không?

Cô ném sang ông một cái nhìn thù địch:

- Ồ! Tôi rất hay gặp công nương, công nương vẫn rất khỏe, cảm ơn ông đã hỏi thăm.

Họ ngồi cạnh nhau, hai người cùng vừa xúc động vừa bực mình. Đột nhiên, ông tuyên bố:

- Berthe thân mến, tôi vừa thay đổi ý định. Em là vợ tôi, tôi mong rằng em sẽ trở về sống dưới mái nhà tôi ngay ngày hôm nay. Tôi thấy rằng em đã trở nên rất xinh đẹp và có cá tính, tôi sẽ lấy lại em. Tôi là chồng em, đó là quyền của tôi.

Sửng sốt, cô nhìn sâu vào mắt ông, mong đọc được ý ông. Trông ông có vẻ vô cùng cương quyết, cứng đầu và không thể lay chuyển.

Cô trả lời:

- Rất lấy làm tiếc, nhưng tôi không có ý định đó.

Ông cười:

- Kệ em, luật pháp cho tôi quyền đó. Tôi sẽ sử dụng quyền đó.

Tàu đi đến Marseille, tàu hú một hồi dài và đi chậm lại. Nữ nam tước đứng lên, cuộn lại chăn một cách cẩn thận, rồi quay về phía nam tước:

- Raymond thân mến, đừng lạm dụng cuộc gặp mặt mà em đã chuẩn bị trước. Em đã muốn có một cái cớ, theo lời khuyên của ông, để không có gì phải e ngại, không bị thất thố trước ông hay trước mọi người cho dù có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa. Ông đi Nice, đúng không nào?

- Anh đi đến đâu em đến.

- Hoàn toàn không đâu. Nghe em nói đây, và em đoan chắc rằng ông sẽ lại để cho em yên thôi mà. Lát nữa, ông sẽ gặp công nương Raynes, nữ bá tước Henriot và chồng của họ đến sân ga đón em. Em muốn họ sẽ nhìn thấy chúng ta, ông và em, cùng bước ra, em muốn họ biết rằng chúng ta đã cùng nhau qua một đêm trên toa xe này. Đừng e ngại gì hết. Những người này sẽ loan báo sự kiện đó cho cả thành phố biết, điều đó sẽ gây ngạc nhiên chấn động lớn đối với mọi người cho mà xem.

Lúc nãy em đã nói với ông rằng, em đã tuân thủ rất nghiêm chỉnh mọi dặn dò của ông, em đã giữ gìn cẩn thận danh tiết cùng như tăm tiếng của mình. Không hề có chút dị nghị gì, đúng không? Thế nên, để tiếp tục được như thế, em cần có cuộc gặp này. Ông đã ra lệnh cho em phải giữ gìn rất cẩn thận để tránh mọi vụ tai tiếng, em đang cố hết sức để tránh đây, ông thân mến.... bởi em sợ... em sợ...

Cô đợi cho con tàu dừng hẳn lại, và bởi lúc này đã có rất nhiều bạn bè cô đang chạy ào tới cửa xe và mở nó ra, cô nói nốt:

- Em sợ mình có mang.

Công nương chìa tay về phía cô, ôm hôn cô. Nữ nam tước vừa nói vừa chỉ tay về phía ông nam tước đang sững sờ ngạc nhiên, và đang cố đoán sự thật là thế nào:

- Các bạn không nhận ra Raymond sao? Quả là anh ấy đã thay đổi biết mấy. Anh ấy đã đồng ý đưa tôi đi để tôi không phải đi một mình. Thỉnh thoảng chúng tôi cùng trốn đi như thế này, bên nhau như những người bạn tốt. Chúng tôi không muốn sống chung nhưng thỉnh thoảng chúng tôi muốn cùng nhau đi chơi thay đổi không khí như thế này. Vả lại, chúng tôi cũng sẽ chia tay nhau ở đây thôi vì anh ấy đã chán ngấy tôi rồi.

Cô chìa tay cho ông và ông cầm lấy nó một cách máy móc. Thế rồi cô nhảy xuống sân ga, vào giữa đám người đang đứng đón cô.

Ông nam tước đóng sầm cửa toa lại, quá xúc động đến nỗi ông không nói được một lời nào cũng như không kịp phản ứng gì. Ông nghe tiếng cô, nghe thấy tiếng cười vui vẻ hạnh phúc của cô xa dần.

Ông không bao giờ gặp lại cô nữa.

Và ông không bao giờ biết được những lời cô nói là thật hay vờ.

Đứa trẻ bị ruồng bỏ

- Thật lòng mà nói thì anh thấy em điên thật rồi khi nảy ra ý muốn đi dạo ở nông thôn vào lúc thời tiết như thế này. Từ hai tháng nay, em có những ý tưởng thật lạ lùng. Bất chấp anh có muốn hay không nhưng em đã lôi anh đi ra biển chơi trong khi từ bốn mươi lăm năm nay, từ khi chúng ta kết hôn đến nay, em chưa từng nảy ra những ý ngông cuồng như thế. Em tự chọn một cách độc đoán Fécamps, một thành phố buồn tẻ, vắng vẻ. Em, một người chẳng bao giờ có thi hứng với những nơi vắng vẻ hiu quạnh, mà lại muốn đi dạo trên những cánh đồng vào những ngày nóng nực nhất trong năm. Hãy bảo D’Apreval đưa em đi vì cậu ta luôn sẵn lòng chiều theo mọi thói thất thường của em. Còn tôi, tôi về nghỉ trưa đây.

Bà Cadour quay về phía người bạn cũ:

- Đi với tôi chứ, D’Apreval?

Ông này nghiêng người, mỉm cười đầy vẻ ga lăng như thuở trước:

- Bà đi đâu, tôi đi đấy. - Ông nói.

- Vậy thì, hãy đi mà phơi nắng, cả hai người. - Ông Cadour tuyên bố.

Ông quay về khách sạn Bain để nằm dài lên giường nghỉ ngơi một hai giờ.

Ngay khi ông đi khuất, hai người bạn già cũng quay gót đi. Bà nói rất khẽ, vừa nói vừa siết chặt tay ông:

- Thế là! Thế là!

Ông thầm thì:

- Bà điên thật. Tôi đoan chắc là bà điên thật rồi. Hãy nghĩ đến điều có thể xảy đến. Nếu nó...

Bà giật mình:

- Henri! Đừng gọi "nó" một cách xa lạ như thế...

Ông này nói lại bằng một giọng hơi cục cằn:

- Tốt thôi! Nếu con trai chúng ta có nghi ngờ điều gì, nếu con nghi ngờ chúng ta, nếu con tóm được bà, tóm được chúng ta. Bà đã qua 40 năm không gặp mặt con. Vậy giờ đây bà muốn có gì?

Họ cùng đi dọc theo con đường đi từ biển vào thành phố. Họ rẽ phải để đi lên vùng mũi d’Etrtat. Con đường trắng lấp lóa dưới ánh nắng thiêu đốt.

Họ cùng dạo bước chậm dãi dưới cái nóng, cái nắng gay gắt. Bà đã khoác tay mình vào tay người bạn già, nhìn thẳng về phía trước với cái nhìn bất động, ám ảnh.

Bà hỏi:

- Vậy, ông đã không hề gặp lại nó ư?

- Không hề!

- Có thể thế sao?

- Thôi nào bà bạn thân mến, đừng lại bắt đầu cuộc tranh luận muôn thuở đó nữa đi. Tôi đã có vợ, có con, cũng như bà đã có một người chồng. Vậy nên cả hai chúng ta, cả bà và cả tôi, chúng ta đều sợ dư luận cả.

Bà không trả lời. Bà nghĩ đến thời thiếu nữ xa xôi, nghĩ đến những điều đáng buồn đã qua.

Người ta đã cưới chồng cho bà, như cưới chồng cho mọi cô gái trẻ khác. Bà chẳng hề biết gì về người chồng của mình, một nhà ngoại giao, và bà về sống với ông, làm chức phận một người vợ như mọi phụ nữ trên đời.

Nhưng rồi, có một thanh niên trẻ, ông D’Apreval, cũng đã có vợ, đã yêu bà tha thiết, và trong một lần chồng bà vắng nhà lâu ngày vì phải đi công tác ở Ấn Độ, bà đã ngã lòng.

Bà đã không thể cưỡng lại? Không thể từ chối? Không thể có đủ sức mạnh, đủ dũng khí để không nhượng bộ ông? Bà có yêu không? Không, thực sự là không! Điều đó quá nặng nề! Bà đã quá đau khổ! Bởi cuộc đời này thật độc ác và nghiệt ngã! Liệu ai có thể tránh được những cú đánh của số phận, ai có thể trốn được định mệnh đã an bài? Nhất là khi ta chỉ là một phụ nữ cô đơn, không con cái, bị bỏ rơi, không được biết đến những âu yếm. Người phụ nữ đó có thể luôn trốn chạy được nỗi đam mê khát khao luôn dõi theo mình như trốn chạy ánh mặt trời để sống đến tận khi chết trong bóng đêm tối tăm, lạnh lẽo không tình yêu được không?

Giờ bà nhớ lại tất cả những chi tiết nhỏ thuở đó, những nụ hôn của ông ta, những nụ cười, cách ông ta ngừng lại trên bậc cửa nhìn bà đầy âu yếm trước khi bước vào nhà bà. Hạnh phúc biết bao những ngày đó, những ngày đẹp đẽ duy nhất trong đời bà, và những ngày đó mới sớm kết thúc biết mấy!

Rồi bà nhận thấy mình có mang! Thật kinh hoàng!

Ôi! Chuyến du lịch trong vùng Midi này, một chuyến du lịch dài, sự đau khổ, những khiếp sợ không bao giờ nguôi, cuộc sống được giấu trong căn phòng nhỏ cô đơn, trên bờ biển Địa Trung Hải, sâu trong một khu vườn mà bà đã từng không dám ra khỏi đó!

Vì rằng bà không hề nhắc nhớ gì đến những ngày đó, những ngày bà nằm dài dưới một cây cam, mắt dõi nhìn những quả cây chín đỏ, tròn xoe, nằm lấp ló trong những tán lá xanh! Bởi bà từng muốn ra khỏi đó, đi ra đến tận biển, tận hưởng những làn gió mát lành, vẫn thường thổi qua nhà bà, ở bờ biển đó, bà lắng tai nghe tiếng sóng vỗ ỳ oạp, ở đó, bà mơ về một khoảng không xanh biếc rộng lớn lấp lánh ánh mặt trời, với những cánh buồm trắng đi tới tận đường chân trời. Nhưng bà đã không hề dám bước ra khỏi cửa dù chỉ một bước. Nếu có ai nhận ra bà, với cái bụng kềnh càng, thì thật xấu hổ nhường nào.

Và những ngày chờ đợi, những ngày cuối cùng đau đớn khổ sở! Những dấu hiệu cảnh báo! Những đau đớn! Rồi đến cái đêm khủng khiếp đó! Bà đã phải chịu đựng đau đớn bao nhiêu.

Đêm đó thật khủng khiếp, bà đã rên rỉ biết mấy, kêu gào biết mấy! Bà như vẫn còn nhìn thấy nét mặt xanh rờn của người tình, ông đã hôn mãi hôn mãi lên tay bà, nhớ khuôn mặt nhẵn nhụi của ông bác sĩ, cái mũ trắng của cô y tá.

Và xúc động đến mấy khi cô nghe tiếng khóc oe oe của đứa trẻ. Sự cố gắng đầu tiên để tồn tại của một con người.

Và ngày hôm sau! Ngày hôm sau! Ngày duy nhất trong đời mình bà đã ngắm và ôm con mình trong tay, bởi từ đó trở đi, bà không bao giờ nhìn thấy nó nữa!

Và, kể từ ngày đó, bà luôn nhớ về nó, luôn nghĩ đến nó! Bà đã không hề gặp lại nó, cái cơ thể bé nhỏ tách ra từ cơ thể bà, con trai bà! Người ta đã mang nó đi, đã giấu nó đi. Bà chỉ biết rằng nó được nuôi dạy bởi những người nông dân vùng Normand, và rồi nó cũng đã trở thành một nông dân, nó đã lấy vợ, nó cũng đã được bố nó trợ cấp cho một khoản tiền dưới danh nghĩa một người nào đó.

Biết bao lần, từ bốn mươi năm nay, bà đã muốn đến gặp nó để được ôm nó vào lòng, để được hôn nó! Bà không biết giờ đây nó đã lớn đến chừng nào rồi! Bà luôn nghĩ đến đứa trẻ sơ sinh mà bà đã một hôm ôm nó trong vòng tay, áp nó vào ngực mình.

Biết bao lần bà đã nói với người tình: "Em chẳng cần giữ gìn thể diện nữa, em muốn gặp nó, em sẽ đi tìm nó".

Nhưng ông này luôn ngăn trở, luôn giữ bà lại. Bà phải biết nén lòng, phải biết kiềm chế, nếu không người ta sẽ đoán ra được, người ta sẽ khám phá ra bí mật của cả hai. Bà đến phát điên lên mất.

- Nó trông thế nào? - Bà hỏi.

- Tôi không biết. Tôi không hề gặp lại nó nữa.

- Liệu có thể thế được chăng? Sinh ra một đứa con trai và không hề biết chút gì về nó. Sợ hãi vì có nó, ném nó đi như ném một nỗi tủi hổ. Thật khủng khiếp.

Họ đã đi được một quãng đường dài, mệt mỏi dưới cái nắng nóng, luôn phải trèo lên những đoạn đường dốc dài tưởng như bất tận.

Bà lại nói:

- Phải chăng đó chẳng phải là một sự trừng phạt? Tôi đã chẳng thể có thêm một đứa con nào nữa. Không, tôi không thể chịu đựng thêm nữa, tôi muốn gặp nó, nó luôn ám ảnh trong tôi từ suốt bốn mươi năm nay, ông không hiểu điều đó được đâu, các ông, những tên đàn ông. Hãy thử nghĩ xem, tôi suýt chết mới có được nó. Và tôi chẳng bao giờ còn được gặp nó nữa, không gặp lại nó nữa!... Có thể thế được chăng? Làm sao tôi có thể chịu đựng được điều đó lâu đến thế cơ chứ. Tôi đã luôn nghĩ đến nó. Tôi đã phải chịu đựng, đã phải đau khổ biết bao nhiêu khi nhớ về nó. Chưa một ngày nào, ông nghe đấy, chưa một sáng nào, khi thức giấc mà tôi lại không nghĩ ngay đến nó, đến con trai của tôi. Trông nó thì thế nào? Ôi! Tôi cảm thấy mình có tội biết mấy khi đối diện nó! Liệu người ta có cảm thấy ghê sợ những người sinh ra mình trong trường hợp tương tự như thế này không? Lẽ ra tôi phải rời bỏ mọi thứ và đưa nó đi, nuôi nấng, dạy dỗ nó, yêu thương chăm sóc nó. Như thế chắc hẳn tôi sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn. Tôi đã không dám. Tôi đã quá hèn nhát. Ôi! Tôi đau lòng quá! Ôi! Khốn khổ thay những đứa con bị bỏ rơi, hẳn nhiên chúng phải thù ghét mẹ chúng lắm, người đã đành lòng bỏ rơi chúng!

Đột nhiên bà ngừng lại, nghẹn ngào nức nở. Cả thung lũng hoàn toàn vắng lặng dưới ánh nắng chói chang. Chỉ có những con châu chấu nhảy lách tách trong những đám cỏ vàng hiếm hoi hai bên đường.

- Bà ngồi xuống một chút đi. - Ông bảo.

Bà để ông đưa vào sát lề đường và khuỵu xuống, úp mặt vào hai tay. Mái tóc trắng xòa xuống hai bên má, bà nức nở khóc, đầy đau khổ vì một nỗi đau nội tâm giằng xé.

Ông đứng đối diện trước mặt bà, lo lắng, không biết nói gì với bà. Ông rên rỉ:

- Thôi nào... dũng cảm lên nào.

Bà ngẩng đầu lên:

- Tôi không sao.

Và chùi nước mắt, bà lại tiếp tục bước đi bằng những bước chân nặng nề của người già.

Lấp ló phía xa xa, dưới bóng một hàng cây, có một vài nóc nhà. Họ nghe thấy rất rõ tiếng búa nện lên đe.

Và rồi họ nhìn thấy, trên đường bên phải, một chiếc xe ngựa kéo đang đỗ trước cửa một ngôi nhà thấp, và dưới lán hàng, hai người đàn ông đang đóng móng cho một con ngựa.

Ông D’Apreval tiến lại gần và hỏi to:

- Làm ơn cho hỏi trang trại nhà ông Pierre Bénédick ở đâu?

Một trong hai người đàn ông trả lời:

- Ông bà rẽ vào con đường nhỏ phía bên trái, ngay sát cạnh một quán cà phê nhỏ, đi thẳng qua đó một chút, nhà thứ ba sau nhà Poret. Có một cây thông cạnh hàng rào. Không thể nhầm được đâu.

Họ rẽ vào bên trái. Bà đi một cách chậm rãi, hai chân như mềm nhũn ra, tim đập loạn nhịp khiến bà như cảm thấy tắt thở. Mỗi bước chân đi bà lại thầm thì như thầm thì một lời cầu nguyện:

- Lạy Chúa! Ôi, lạy Chúa!

Và một cảm xúc mãnh liệt như đang chẹn lấy cổ họng bà, khiến bà phải thở một cách khó khăn, như đang níu chân bà, khiến bà bước đi một cách lảo đảo.

Ông D’Apreval, hơi tái mặt, bồn chồn, nói một cách thô bạo:

- Nếu bà không kiềm chế được, bà sẽ làm hỏng mọi chuyện mất. Hãy cố tĩnh tâm lại đi.

Bà lắp bắp:

- Con trai tôi! Tôi làm sao tĩnh tâm khi tôi nghĩ rằng tôi sắp được gặp con trai tôi!

Họ đi vào một con đường nhỏ nằm giữa những cánh đồng, rợp dưới bóng hai hàng sồi hai bên.

Rồi, họ bỗng nhìn thấy một cây thông non được trồng sát cạnh một hàng rào bằng gỗ.

- Kia rồi. - Ông nói.

Bà đứng phắt lại và quan sát.

Sau hàng rào là một sân rộng trồng táo, sâu phía trong có một ngôi nhà nhỏ mái rạ. Đối diện, là chuồng ngựa, kho thóc, chuồng bò, trại gà. Trong một nhà có mái đen, xếp hàng nào là xe ngựa kéo, xe bò, xe độc mã. Bốn con bê đang gặm cỏ non xanh rờn dưới bóng rợp của cây cối. Những chú gà đen đi lang thang chỗ nào cũng thấy trong khắp mảnh vườn đã được rào kín.

Không có một tiếng động nhỏ nào, cửa nhà vẫn đang mở. Nhưng không có bóng dáng một ai.

Họ đi vào, ngay khi đó, một con chó đen xì nhảy vọt ra từ một cái thùng tròn đặt nằm dưới chân một cây lê lớn, nó gầm gừ đầy vẻ hung tợn.

Dựa vào tường nhà, ở lối vào, có tổ ong lớn được đặt trên những tấm ván đặt thẳng hàng phía dưới vòm rơm.

Ông D’Apreval, đứng trước cửa nhà, gọi to:

- Có ai trong nhà không?

Một đứa bé xuất hiện, một cô bé khoảng mười tuổi, mặc một chiếc áo sơ-mi và một chiếc váy len, hai chân để trần và bẩn lem luốc, cô bé có vẻ vừa e dè vừa tinh ranh. Nó dừng lại trước bậc cửa như thể để giữ không cho ai vào.

- Ông bà cần gì ạ? - Nó hỏi.

- Bố cháu có nhà không?

- Không.

- Ông ấy đang ở đâu?

- Cháu không biết.

- Thế mẹ cháu đâu?

- Đang ở chỗ vắt sữa bò.

- Mẹ cháu sắp về chưa?

- Cháu không biết.

Bỗng nhiên, một bà già, như thể bà sợ người ta bắt đứa bé đưa đi, nói vọng ra bằng một giọng hấp tấp:

- Tôi sẽ chẳng đi tìm nó về đâu.

- Chúng tôi sẽ đợi thưa bà.

Khi quay người lại, họ nhìn thấy một nữ tá điền đang đi về phía ngôi nhà, hai tay xách hai xô nặng, sóng sánh sữa.

Cô này hơi thọt chân phải, khuôn ngực căng tròn trong một chiếc áo dệt kim màu nâu, đã xỉn màu vì thời gian. Cô có vẻ của một cô hầu nghèo khó khốn khổ, bẩn thỉu.

- Mẹ cháu đấy. - Đứa bé nói.

Khi về gần đến nhà, cô nhìn hai người lạ với vẻ nghi ngờ không thiện cảm, rồi cô đi luôn vào nhà như thể cô không muốn gặp, không muốn nói chuyện gì với họ.

Cô có vẻ già, với khuôn mặt khắc khổ, nước da bủng beo, nét mặt khó đăm đăm. Vẻ mặt vô cảm của những người nông thôn.

Ông D’Apreval gọi cô:

- Thưa cô, chúng tôi vào để hỏi mua hai cốc sữa.

Sau khi đã đặt hai xô sữa một cách cẩn thận cạnh cửa, cô lầu bầu:

- Tôi không bán sữa.

- Vì chúng tôi đang rất khát. Và bà đây đã già và đang rất mệt. Cô có thể cho chúng tôi một thứ gì đó để uống được không?

Cô nông dân nhìn họ bằng một cái nhìn lo lắng, ranh ma. Cuối cùng cô quyết định.

- Thôi thì vì ông bà đã đến đây, tôi có đưa cho ông bà một chút cũng không sao. - Cô nói. Rồi cô biến vào nhà. Một lát sau đứa trẻ ra, cầm hai cái chai và nó đặt dưới gốc cây táo, rồi tới lượt mẹ nó lại đi ra với hai bát đầy sữa ấm, cô đưa nó cho hai người. Rồi cô đứng trước mặt họ như thể để canh chừng họ và đoán xem họ định làm gì.

- Ông bà sống ở Fécamps? - Cô hỏi.

Ông D’Apreval trả lời:

- Vâng, vào mùa hè chúng tôi về sống ở Fécamps.

Rồi sau một lúc im lặng, ông lại hỏi:

- Cô có thể bán gà cho chúng tôi hàng tuần được không?

Cô do dự, rồi trả lời:

- Vâng, đương nhiên là được, ông bà thích những con gà tơ phải không?

- Vâng, những con gà tơ.

- Ông bà thường mua bao nhiêu một con?

Ông D’Apreval, mù tịt về chuyện này, quay về phía bà bạn:

- Bà thường trả bao nhiêu cho một con gà, những con gà tơ ấy?

Bà ấp úng, lắp bắp, hai mắt long lanh nước:

- Bốn frăng, bốn frăng năm mươi xu.

Bà già từ trong góc nhìn ra, ngạc nhiên hỏi:

- Bà ấy ốm à, sao bà ấy lại khóc?

Ông D’Apreval không biết trả lời thế nào, ấp úng:

- Không... không... bà ấy... bà ấy đánh mất cái đồng hồ đeo tay, một cái đồng hồ rất đẹp, và bà ấy đang rất buồn vì điều đó. Nếu ai đó có nhặt được nó, xin các bà báo cho chúng tôi.

Bà Bénédict không trả lời gì cả, bà thấy có gì ám muội ở đây. Đột nhiên bà thông báo:

- Đây là con trai tôi!

Chỉ duy có bà nhìn thấy anh ta vì bà đối diện với cửa rào. Ông D’Apreval giật mình. Bà Cadour suýt ngã bổ chửng và cuống cuồng quay phắt lại.

Xuất hiện một người đàn ông, cách khoảng mười bước chân, đang ra sức kéo một con bò sữa, con này cố cưỡng lại, cả người cả vật cùng thở hổn hển. Anh ta nói, không hề để ý đến hai người lạ:

- Mẹ kiếp! Cái con bò cái ngu đần này!

Anh ta đi qua, hướng về phía chuồng bò, và biến mất vào trong đó. Nước mắt bỗng giàn giụa trên khuôn mặt người phụ nữ già, hốt hoảng bà nức nở không thành câu, không kịp suy nghĩ: "Con trai tôi, đó chính là con trai tôi!"

Ông D’Apreval, cũng có chung cảm giác xúc động như của bà, hỏi bằng một giọng lạc cả đi:

- Có phải đó là ông Benedict không?

Bà già hỏi lại một cách nghi ngờ:

- Sao ông biết tên nó?

Ông trả lời:

- Ông thợ rèn ở góc đường lớn bảo cho tôi.

Rồi cả hai cùng im thít, mắt đăm đăm nhìn vào cửa chuồng bò. Trên bức tường của chuồng bò có những lỗ tròn, từ ngoài nhìn vào thì không nhìn thấy gì hết nhưng người ta có thể nghe thấy tiếng đập đuôi của lũ súc vật, tiếng giậm chân, tiếng nhai cỏ nhóp nhép, tiếng chân bước trên cỏ khô lạo xạo.

Người đàn ông lại xuất hiện trên ngưỡng cửa, lau trán, bước về nhà bằng những bước chân dài, nặng nề.

Anh ta đi qua những người lạ mặt mà không hề có vẻ gì để ý đến họ, anh ta nói với vợ:

- Đi lấy cho tôi một hũ rượu táo đi, tôi khát khô cả cổ rồi đây.

Rồi anh ta đi vào nhà. Cô gái cũng bỏ vào hầm rượu, để hai người khách lại một mình.

Và bà Cadour, vội vàng lắp bắp:

- Chúng ta đi khỏi đây thôi, Henry, chúng ta đi khỏi đây thôi.

Ông D’Apreval đỡ lấy tay bà, nâng bà lên, và đỡ bà đi. Ông cảm thấy rất rõ ràng bà sắp ngã, ông kéo bà đi sau khi đã để lại năm frăng trên ghế.

Ngay khi họ vừa đi ra khỏi hàng rào, bà bật khóc nức nở, người rung bần bật đầy đau khổ và lắp bắp:

- Ôi! Ôi! Đó là đứa con mà chúng ta đã sinh ra đấy ư?...

Ông cũng trở nên nhợt nhạt, trả lời một cách khô khan:

- Tôi đã làm tất cả những gì có thể. Trang trại đó trị giá tám mươi nghìn frăng. Đó là một khoản thừa kế không phải đứa trẻ thị dân nào cũng có được.

Họ nhìn nhau đầy trìu mến, không nói thêm một lời nào nữa. Bà cứ khóc mãi không ngưng. Nước mắt lã chã rơi trên má bà thành hàng không ngừng.

Cuối cùng thì bà cũng kiềm được cơn nức nở. Họ đã về đến Fécamps.

Ông Cadour đang đợi họ để dùng bữa tối. Ông bật cười và cao giọng nói khi nhìn thấy họ từ đằng xa.

- Hay quá, vợ tôi đã cháy nắng rồi kìa. Tôi thấy hài lòng quá. Thật tình mà nói, bấy lâu nay tôi thấy bà ấy cứ trở chứng thế nào ấy, tôi tin là bà ấy điên thật đấy!

Cả hai đều không trả lời, vì thế, hai tay xoa vào nhau, ông chồng lại hỏi:

- Ít nhất thì hai người cũng đã có một chuyến đi dạo thú vị chứ?

- Rất thú vị, bạn thân mến ạ, rất thú vị. - Ông D’Apreval trả lời.

Thằng nhóc

Ông Lemonnier góa vợ, sống đơn chiếc với đứa con trai duy nhất, ông giữ mãi một tình yêu chung thủy với người vợ yêu dấu đã quá cố, một tình yêu đằm thắm thiết tha, họ chưa từng một lần to tiếng trong suốt quãng thời gian chung sổng. Ông là một người trung hậu, tử tế, chất phác, chân thành, không bao giờ biết nói dối, không biết lừa ai bao giờ.

Yêu thương cô hàng xóm nghèo khổ cạnh nhà, ông ngỏ lời yêu cô và xin được cưới cô. Ông có một cửa hàng bán len dạ, việc buôn bán của ông khá trôi chảy vì thế thu nhập tương đối tốt. Hẳn nhiên vì thế, nên cô hàng xóm nghèo đã nhận lời ông ngay.

Cô đã mang lại hạnh phúc đến cho ông, ông yêu riêng chỉ mình cô, ông chỉ ngắm nhìn cô, ông chỉ nghĩ đến một mình cô, ông luôn dõi theo cô bằng ánh mắt si mê. Suốt các bữa ăn, ông vụng về làm đổ biết bao thứ, chỉ vì cứ mãi dõi mắt ngắm nhìn khuôn mặt yêu kiều yêu dấu của vợ: ông đổ rượu vào đĩa thức ăn, đổ nước vào lọ đựng muối... rồi bật cười như một đứa trẻ, vừa cười vừa bảo:

- Anh yêu em quá mất rồi! Đấy, em thấy đấy, vì mải ngắm em mà anh hậu đậu thế đấy.

Cô thường mỉm cười với vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, rồi nhìn đi chỗ khác có vẻ như hơi khó chịu bởi tình yêu quá mức của chồng, và cô cố bắt chuyện để ông nói về bất cứ chủ đề gì, hòng quên đi việc ngắm nhìn cô. Nhưng ông thường vươn tay qua bàn, nắm lấy tay cô đầy âu yếm và thầm thì:

- Em yêu quý, Jeanne yêu quý nhất đời của anh!

Cô thường sốt ruột rút tay về và bảo:

- Thôi nào anh yêu, tỉnh táo một chút đi anh, anh ăn đi và để cho em ăn với chứ.

Ông thường thở dài rồi bẻ một miếng bánh mì và trệu trạo nhai nó một cách chậm rãi.

Suốt năm năm dài chung sống họ không có lấy một mụn con. Rồi bỗng nhiên, cô chửa. Ông vui mừng khôn xiết. Ông không rời cô một nửa bước trong suốt thời gian cô mang thai, đến nỗi mà, bà quản gia kiêm bà vú, người đã nuôi nấng chăm sóc ông thời ông còn thơ bé, người có một ảnh hưởng nhất định đến ông, thỉnh thoảng đã phải đẩy ông ra khỏi cửa, ép ông đi ra ngoài chơi để thư giãn, để thay đổi không khí một chút.

Ông chơi thân với Duretour, một thanh niên trẻ làm việc ở văn phòng tỉnh, anh này đã quen biết vợ ông từ tấm bé. Anh dùng cơm tối với vợ chồng ông ba lần mỗi tuần. Anh luôn mang theo hoa tặng cho nữ chủ nhà, thỉnh thoảng là một đôi vé xem kịch. Và thường đến bữa tráng miệng, ông Lemonnier thường ngả người về phía vợ và nói một cách sung sướng đầy thỏa mãn:

- Có được một người vợ như em, và một người bạn như cậu ta, tôi thấy cuộc đời mình quá sung sướng rồi.

Vợ ông mất sau khi sinh, ông tưởng mình cũng có thể chết đi được. Nhưng khi nhìn đến đứa con, ông lấy lại được can đảm để sống: một thằng nhóc nhăn nheo đang khóc oe oe.

Ông yêu con vô cùng, một tình yêu đau đớn pha đôi chút bệnh hoạn. Ông nhìn con và nhớ đến vợ yêu, ông yêu con vì da thịt nó chính là da thịt vợ ông, nguồn sống trong nó chính là nguồn sống của vợ ông, máu của vợ ông đang chảy trong huyết quản của nó. Ngày nó chào đời cũng là ngày vợ ông lìa đời. Nó chính là hiện thân của vợ ông, là hình hài của vợ ông tái sinh. Vợ ông mất đi để nó được ra đời. Và người cha ôm chặt con với một nỗi đau điên dại đến nỗi ông suýt làm nó chết ngạt. Đến khi nó khóc ré lên thì ông mới như sực tỉnh và nhẹ nhàng đặt lại nó vào nôi rồi ngồi xuống cạnh nôi, vừa nhẹ nhàng đưa nôi vừa lặng lẽ ngắm mãi khuôn mặt bé tí xíu. Ông ngồi đó hàng giờ đồng hồ, vừa lặng ngắm đứa trẻ vừa nghĩ đến hàng nghìn điều buồn rầu đau khổ. Rồi khi thằng nhỏ thiếp ngủ, ông cúi xuống ngắm khuôn mặt nó và lặng lẽ khóc, để nước mắt chảy xuống diềm áo đăng ten của nó.

Đứa nhỏ đã lớn. Người cha không thể vắng nó dù chỉ một tiếng đồng hồ, ông luôn luẩn quẩn quanh nó, đưa nó đi dạo, mặc quần áo cho nó, tắm rửa cho nó, cho nó ăn. Bạn ông, anh Duretour, cũng có tình cảm quyến luyến đặc biệt với đứa nhỏ, anh thường ôm nó, nhấc bổng nó lên và vừa tung nó lên cho nó cười khanh khách vừa ôm hôn nó đầy âu yếm như người ta vẫn thường thấy cảnh đó diễn ra giữa một người cha với đứa con mình. Anh cho nó ngồi lên cổ đi nhong nhong, làm ngựa cho nó cưỡi. Thỉnh thoảng anh bỗng lật nó nằm ngả trên đầu gối anh, và lấy râu cù vào bắp đùi mềm mại của nó khiến cho nó vừa oằn mình vì buồn vừa cười khanh khách. Ông Lemonnier nhìn cảnh đó vừa cười sung sướng đầy hài lòng vừa bảo:

- Nó có dễ thương không, nó có dễ thương không!

Và anh chàng Duretour ôm chặt thằng nhỏ vào lòng và lấy râu cù vào cổ nó.

Chỉ có mỗi bà Céleste, bà vú là không hề có một chút âu yếm nào với thằng nhỏ cả. Bà thường phát cáu lên vì những trò tinh nghịch của thằng nhỏ, và có vẻ phát bực bởi những thói chiều chuộng vô lối của cả hai người đàn ông. Bà thường kêu lên:

- Các ông dạy dỗ một đứa trẻ như vậy sao! Các ông đang và sẽ tạo ra được một con khỉ con xinh xắn đấy.

Nhiều năm trôi qua. Giờ Jean đã chín tuổi. Nó hầu như không biết đọc, nó quá được chiều chuộng. Nó chỉ làm mọi điều theo ý nó, nó khăng khăng làm theo ý nó, không ai có thể lay chuyển được. Vả lại, bố nó bao giờ cũng chiều theo ý nó, ông Duretour luôn mua và mang đến cho nó mọi thứ đồ chơi mà bọn trẻ con bằng tuổi nó thèm muốn. Và anh ta luôn cho nó ăn bánh ga tô và kẹo bất cứ khi nào nó muốn.

Céleste nổi khùng, kêu ầm lên:

- Thật đáng xấu hổ, thưa ông, thật đáng xấu hổ. Các ông đang làm hỏng thằng bé, các ông cần phải chấn chỉnh lại đi, ngay lập tức, nếu không sẽ là quá muộn đấy. Tôi không thể để cảnh này lại tiếp tục tái diễn được nữa đâu. Thật đấy.

Ông Lemonnier vừa cười vừa trả lời:

- Vú muốn thế nào, vú thân mến? Tôi yêu nó quá, tôi không biết từ chối nó thế nào. Thôi thì vú cứ kệ nó vú ạ.

Jean mệt mỏi, lử đử, hơi sôn sốt. Bác sĩ đến khám và kết luận là chứng thiếu máu, cho đơn là phải tăng cường ăn thêm các thức ăn giàu sắt như là thịt gia cầm, thủy cầm và súp giàu năng lượng.

Thế nhưng thằng nhỏ lại chỉ thích ăn bánh ga tô và không chịu ăn bất cứ thức ăn nào khác. Người cha thất vọng đành cho nó ăn thỏa thích bánh kem, bánh sô-cô-la.

Một tối, khi hai cha con đang cùng ngồi ở bàn ăn, Céleste mang ra một âu súp với một vẻ kiên quyết đầy uy quyền hiếm khi thấy ở bà. Bà mở nắp âu với một cử chỉ mạnh mẽ, khoáy cái muôi vào giữa âu súp và tuyên bố:

- Đây là món súp thập cẩm bổ dưỡng mà trước kia ta vẫn thường làm cho ông ăn, giờ ta làm cho cậu nhỏ và lần này nó phải ăn.

Ông Lemonnier, kinh ngạc, cúi đầu xuống. Ông cho là sắp có chiến tranh nổ ra mất thôi. Céleste lấy đĩa, múc đầy súp vào và đặt đĩa súp trước mặt ông. Ông nếm món súp ngay và tuyên bố:

- Quả là nó ngon tuyệt.

Thế là bà vú liền lấy chiếc đĩa ăn của thằng nhỏ và múc đầy một muôi súp vào đó. Rồi bà lùi lại hai bước và đợi.

Jean hít hít, đẩy đĩa súp và phì ra đầy vẻ chán ngán. Celeste, đỏ cả mặt vì bực, liền bước ngay lại gần nó, nhanh nhẹn cầm ngay lấy chiếc thìa, xúc một thìa đầy và đút luôn thìa súp vào cái miệng đang hé mở của thằng nhỏ.

Nó sặc, ho, hắt hơi, khạc nhổ và hét lên. Nó chộp lấy cốc nước và hắt vào bà vú. Cả cốc nước hắt ướt hết cả bụng bà vú. Thế là, phát khùng lên, bà tóm lấy thằng nhóc và xúc hết thìa này đến thìa khác tống vào miệng nó. Nó nhổ ra, quằn quại, ngạt thở, chân giãy, tay đập lung tung vào không khí, đỏ rực mặt lên như thể nó sắp chết ngạt.

Người cha đầu tiên ngạc nhiên đến nỗi không có một phản ứng gì. Rồi bỗng nhiên ông nhảy xổ đến, bóp cổ bà vú, đập đầu bà vào tường, lắp bắp:

- Ra ngoài!... Ra ngoài!... Ra ngoài ngay!... Đồ thô lậu!

Bà vú, đầu tóc rối tung, mũ chùm đầu rơi xuống lưng, đẩy bật ông ra, run bần bật lên vì xúc động, hai mắt long lên giận dữ, hét lên:

- Ông làm gì thế? Ông muốn đánh tôi chỉ vì tôi muốn cho thằng nhãi này ăn súp ư? Cái thằng nhãi mà rồi ông sẽ làm hỏng nó bằng thói chiều chuộng vô lối của ông ư?

Run lên vì giận dữ, ông nhắc lại:

- Ra ngoài!... Cút ra ngoài ngay... cút ra ngoài ngay cho ta, đồ thô lậu!...

Giận điên lên, bà vú quay phắt lại, mặt đối mặt với ông Lemonnier, run giọng:

- A!... Thế đấy... ông đối xử với tôi thế sao, với tôi, với tôi?... A! A! A!... Và vì ai, vì ai... vì cái thằng oắt hoàn toàn chẳng phải con ông!... Hoàn toàn không hề là con ông!... Chẳng hề phải!... Chẳng hề phải!... Ôi Chúa ơi, mọi người đều biết nó chẳng phải con ông, tất cả mọi người, chỉ trừ ông! Ông cứ thử hỏi ông bán thịt, ông bán bánh mì, bà bán hoa quả, hỏi tất cả mọi người, tất cả mọi người mà xem...

Bà lắp bắp nói, ngạt thở vì xúc động. Rồi bà im bặt, nhìn ông. Ông đứng lặng, hoang mang, hai tay buông thõng. Vài giây sau, với vẻ vô cùng xúc động, ông hỏi lại bằng một giọng yếu ớt:

- Vú bảo?... Vú bảo?... Vú bảo gì cơ?

Bà vú im tịt, hoảng sợ vì vẻ mặt ông. Ông tiến một bước lại gần bà, lặp lại:

- Vú bảo?... Vú bảo gì cơ?

Bà vú trả lời bằng một giọng bình tĩnh:

- Tôi nói điều tôi biết, Chúa ơi! Điều mà mọi người đều biết.

Ông giơ cả hai tay lên và nhảy bổ đẽn bà vú một cách điên dại, cố vật ngã bà xuống đất. Nhưng dù già cả bà vú vần rất khỏe và còn nhanh nhẹn nữa. Bà luồn khỏi tay ông, chạy quanh bàn, uất lên, bà lại gào tướng lên:

- Ông hãy nhìn nó xem, nhìn nó đi! Ông mới ngu ngốc làm sao, khuôn mặt nó chính là bản sao của khuôn mặt ông Duretour mà ông không nhận thấy sao?! Hãy nhìn mũi nó! Nhìn mắt nó! Ông mà có đôi mắt thế à? Nhìn tóc nó đi! Nhìn mũi nó đi! Vợ ông có tóc thế không? Có mũi giống thế không? Vợ ông ấy! Tôi nói với ông rằng mọi người đều biết nó là con ai, tất cả mọi người, chỉ trừ có ông! Và nó là trò cười của cả cái thành phố này! Ông nhìn nó xem...

Bà vú đã ra đến cửa, bà mở cửa và chạy biến ra ngoài.

Jean, hoảng sợ, đứng bất động đối diện với đĩa súp.

Một giờ sau, bà vú quay lại, đã hoàn toàn bình tâm trở lại. Thằng nhóc đã chén hết một chiếc bánh ga tô to tướng, một chiếc bánh kem phết mứt táo. Và đang múc từng thìa tướng mứt bằng chiếc thìa ăn súp.

Người cha đã ra khỏi phòng ăn.

Céleste lại gần thằng nhỏ, bê nó lên, ôm hôn nó, rồi đưa nó vào phòng ngủ, cho nó ngủ. Rồi bà quay ra phòng ăn, dọn bát đĩa, sắp xếp lại mọi thứ cho ngăn nắp. Bà làm tất cả mọi việc đó với một vẻ rất lo lắng.

Trong nhà không có một tiếng động nào, không một tiếng động nhỏ nào. Bà vú dán tai vào cửa phòng ông chủ mà cũng không hề nghe thấy có chút tiếng động nào. Không có chút động tĩnh gì trong phòng ông Lemonnier. Bà vú dán mắt nhìn qua lỗ khóa. Ông đang viết, có vẻ rất yên lặng.

Thế là bà quay lại ngồi trong phòng bếp để sẵn sàng trong mọi trường hợp vì bà đã cảm thấy có điều gì đó sắp diễn ra.

Bà ngủ thiếp đi và chỉ tỉnh dậy vào sáng ngày hôm sau.

Bà dọn dẹp lau chùi nhà cửa như mọi ngày, và khoảng tám giờ, bà pha một bình cà phê cho ông Lemonnier.

Nhưng bà không dám mang cà phê lên phòng cho ông chủ như mọi khi, bà không biết liệu rồi ông chủ sẽ cư xử với bà thế nào, bà đợi ông rung chuông gọi. Ông không rung chuông. Chín giờ, rồi mười giờ đã trôi qua.

Céleste hốt hoảng, dọn một mâm ăn sáng và đi lên phòng ông chủ, vừa đi vừa run. Đến trước cửa phòng, bà đứng lại, nghe ngóng. Không có một chút động tĩnh gì. Bà vú gõ cửa, không có tiếng trả lời. Thu hết can đảm, bà đẩy cửa bước vào. Rú lên một tiếng kinh hoàng, bà đánh rơi khay thức ăn đang bưng.

Ông Lemonnier đang treo lủng lẳng ở giữa nhà, với cái lưỡi lè dài khủng khiếp. Một chiếc giày rơi dưới đất, một chiếc vẫn còn ở chân. Một chiếc ghế bị đẩy đổ lăn đến tận sát giường.

Céleste, hoảng loạn, vừa bỏ chạy vừa kêu thét lên. Hàng xóm chạy bổ đến. Bác sĩ kết luận ông đã chết từ lúc nửa đêm.

Một bức thư được tìm thấy trên bàn ngủ của ông đề tên người nhận là ông Duretour, nó chỉ vỏn vẹn một dòng:

"Tôi đi và trả lại thằng nhỏ cho ông".

Thú nhận

Marguerite de Thérelles sắp chết. Mặc dầu bà mới chỉ năm mươi sáu tuổi nhưng trông bà già như người hơn bảy mươi lăm. Bà thở hổn hển, mặt trắng bệch, người run bần bật, mặt co rúm lại, mắt nhớn nhác như thể có điều gì đó rất khủng khiếp đang hiện lên trước mắt bà. Đang quỳ gối cạnh giường khóc nức nở là chị cả của bà, Suzanne, lớn hơn bà sáu tuổi. Cạnh giường của người đang hấp hối, người ta đã kê sẵn một chiếc bàn con và thắp hai ngọn nến lớn trên đó, vì họ đang đợi cha xứ đến rửa tội và cầu nguyện cho người chết.

Ngôi nhà có vẻ buồn thảm thường thấy ở nhà có người sắp chết, cả ngôi nhà bao trùm một vẻ nặng nề buồn thảm. Những bình hoa bị vứt lên các nóc tủ, quần áo bị vứt vào các góc nhà, bị gạt qua loa vào đó bằng mấy cú đá chân hoặc mấy nhát chổi. Đồ đạc để ngổn ngang. Người đang hấp hối nằm đó, chờ đợi.

Câu chuyện của hai chị em nhà đó làm mủi lòng bất cứ ai biết chuyện. Người ta kể cho nhau nghe chuyện của họ và nó đã khiến cho biết bao người rơi nước mắt.

Suzanne, người chị cả, đã yêu say đắm một chàng trai trẻ và chàng trai này cũng si mê cô. Họ đã đính ước và chờ đến ngày lành làm lễ cưới thì bỗng nhiên Henry de Sampierre bỗng chết đột ngột.

Cô gái trẻ tuyệt vọng, khóc hết nước mắt, cô thề không lấy một ai nữa và cô đã giữ lời. Cô luôn mặc đồ đen như những người đàn bà góa để tang chồng và mặc nó suốt đến tận bây giờ.

Thế rồi, em gái cô, cô Marguerite, lúc đó mới mười hai tuổi, một sáng đã vào phòng chị gái, ôm chặt lấy chị và bảo: "Chị cả yêu quý, em không muốn chị đau khổ nữa, em không muốn chị buồn bã đau khổ mãi thế. Em sẽ không đi đâu nữa cả, cả em nữa, em cũng sẽ không đi lấy chồng và sẽ ở mãi bên chị. Em sẽ mãi mãi ở bên cạnh chị".

Suzanne ôm chặt lấy cô em gái bé bỏng, xúc động đến tận đáy lòng vì tình cảm của em gái, tuy rằng cô không tin em cô có thể làm thế.

Thế nhưng cô em gái cũng giữ đúng lời hứa, cô không lấy ai dù bố mẹ cô có van nài cầu khẩn, dù biết bao lời khuyên nhủ của họ hàng, cô không chịu kết hôn cùng bất cứ ai, dù cô vô cùng xinh đẹp và có biết bao chàng trai trẻ phải lòng cô, theo đuổi cô, ngỏ lời cầu hôn cô. Cô không lấy ai và không bao giờ rời xa cô chị.

Hai cô cùng sống một nhà và chưa bao giờ xa nhau dù chỉ một lần kể từ ngày đó. Họ luôn đi cạnh nhau, như một thể thông nhất không thể tách rời.

Nhưng Marguerite luôn có vẻ buồn bã, như có điều gì đó luôn đè nặng trong tâm can cô, cô trông còn ủ ê hơn cả chị gái mình, có vẻ như sự hy sinh cao thượng của cô đang gặm mòn cô, tàn phá cô. Cô già đi rất nhanh, cô bạc cả tóc ngay khi mới ba mươi tuổi và thường có những cơn buồn bã đau khổ, như thể đang bị rình rập giày vò bởi một điều tồi tệ nào đó.

Giờ cô lại là người ra đi trước.

Cô đã không nói gì nữa từ một ngày nay. Tảng sáng hôm nay, cô chỉ nói đúng một câu:

- Đi gọi cha xứ cho tôi, đến lúc rồi.

Rồi cô lại nằm im, co quắp lại căng cứng cả người lên, môi run lên bần bật như thể những lời khủng khiếp đang dâng lên mà bị gìm chặt lại, không thể phát ra thành lời, mắt cô thất thần, thật đáng sợ khi nhìn cảnh đó.

Chị gái cô, lòng đau như cắt, khóc như mưa như gió, trán tì lên thành giường, nhắc đi nhắc lại:

- Margot, Margot khốn khổ của chị, em bé bỏng của chị!

Cô chị luôn gọi cô em là: "em bé bỏng" cũng như cô em luôn gọi cô chị: "chị cả".

Người ta nghe có tiếng chân bước lên cầu thang. Cửa mở ra và một lễ sinh xuất hiện, theo sau là một ông cha xứ mặc áo lễ. Ngay khi nhìn thấy họ, người đang hấp hối giật nảy mình, mở miệng lắp bắp, cào cào ngón tay vào thành giường.

Cha xứ Simon tiến lại gần, cầm lấy tay cô, hôn lên trán cô và nhẹ nhàng nói:

- Chúa tha thứ cho con, con thân mến, dũng cảm lên, đây là thời điểm thích hợp cuối cùng, hãy nói hết những gì con muốn nói, hãy thú tội một lần cuối cùng đi con.

Thế là Marguerite, run lẩy bẩy từ đầu đến chân như thể đang chịu một nỗi đau vò xé cùng cực, lắp bắp:

- Chị ngồi lên, chị cả của em, nghe này.

Cha xứ nghiêng người về phía Suzanne, cô này vẫn đang quỳ dưới chân giường, đỡ cô đứng lên, đỡ cô ngồi vào một chiếc ghế cạnh đó, và mỗi tay ông nắm lấy một tay của cả hai chị em, ông nói:

- Lạy chúa, xin người cho họ sức mạnh, xin người khoan dung với họ.

Marguerite bắt đầu nói. Từng từ khàn khàn, giật cục thoát ra khỏi họng cô như khiến cô kiệt lực.

- Tha lỗi, tha lỗi cho em, chị cả, hãy tha lỗi cho em! Ôi! Giá chị biết được em đã kinh sợ biết mấy giờ phút này, suốt cuộc đời em!...

Suzanne, nói trong nước mắt:

- Em phải xin lỗi chị vì cái gì, em bé bỏng? Em đã hy sinh tất cả vì chị, em là một thiên thần...

Marguerite ngắt lời chị:

- Im nào chị cả! Đừng ngắt lời em! Xin đừng ngắt lời em! Hãy để em nói... đừng ngắt lời em... thật khủng khiếp... hãy để em nói ra... nói hết ra, ngồi im đi chị... nghe em nói... chị có nhớ... chị có nhớ... Henry...

Suzanne rùng mình ngang lên nhìn em gái. Cô em lại nói:

- Chị phải nghe hết thì mới hiểu được, Thuở đó, em mới mười hai tuổi, chỉ mới mười hai tuổi, chị nhớ rõ mà, phải không? Em rất được chiều, em chỉ làm những gì em muốn!... Chị có nhớ mọi người đã chiều em đến thế nào không?... Nghe nhớ... Lần đầu tiên khi anh ấy đến, anh ấy đi một đôi ủng bóng loáng, đến trước cửa nhà mình, anh ấy xuống ngựa, trông anh ấy thật tuyệt trong bộ quần áo kỵ sĩ, hôm đó anh ấy đến báo tin cho bố. Chị nhớ rõ mà, đúng không?... Đừng nói gì cả... nghe em đã. Khi nhìn thấy anh ấy, em đã phải lòng anh ấy ngay lập tức, em thấy anh ấy mới đẹp trai làm sao, và em đã đứng mãi ở góc phòng khách để ngắm anh ấy. Trẻ con thật... khủng khiếp thật... và em đã mơ mộng!...

Anh ấy còn quay lại nhiều lần nữa... em luôn dõi mắt theo anh ấy... luôn hướng về anh ấy với tất cả tâm hồn... và em còn bày ra nhiều mưu mẹo hơn là mọi người có thể tưởng được cơ... Anh ấy rất hay đến... Em chỉ còn nghĩ đến anh ấy... Em thường gọi tên anh ấy một mình:

- Henry... Henry Sampierre!

Rồi mọi người biết rằng anh ấy sẽ lấy chị. Đau khổ biết mấy... Ôi! Chị cả... một nỗi đau... một nỗi đau! Em đã khóc suốt ba đêm, không ngủ. Ngày nào cũng như ngày nào, cứ đến chiều, sau bữa ăn trưa là anh ấy đến. Chị nhớ rõ mà, đúng không?... Đừng nói gì... nghe em đã. Chị thường làm bánh ngọt, thứ bánh mà anh ấy rất thích... Em thuộc lòng cung cách của anh ấy. Anh ấy nếm một miếng bánh, rồi hớp một ngụm rượu vang... rồi anh ấy nói: "Ngon tuyệt". Chị có nhớ anh ấy đã nói thế, như thế nào không?

Em đã ghen, ghen khủng khiếp!... Ngày cưới của chị đến gần. Chỉ còn mười lăm ngày nữa. Em phát điên phát rồ. Em tự nhủ: Anh ấy sẽ không cưới Suzanne, không, ta không muốn!... Anh ấy sẽ cưới ta, khi ta đã lớn. Ta sẽ chẳng bao giờ yêu ai nhiều như thế... Nhưng một tối, mười ngày trước ngày cưới, chị và anh ấy cùng đi dạo trước cửa lâu đài, dưới ánh trăng sáng tỏa... dưới bóng những cây thông lớn... Anh ấy ôm chị... hôn chị.... rất lâu... Chị nhớ chứ, đúng không? Chắc chắn đó là lần đầu tiên... đúng không... chị đã rất xúc động khi vào nhà!

Em đã nhìn thấy cả hai anh chị, lúc đó em đang ngồi ở trong một tán cây. Em đã đau khổ đến phát dại! Giá em có thể, em đã giết chết cả hai người! Em tự nhủ: Anh ấy sẽ không lấy Suzanne, không bao giờ! Anh ấy sẽ chẳng cưới bất cứ ai. Ta sẽ quá đau khổ... Và bỗng nhiên em bỗng thấy ghét anh ấy, ghét kinh khủng.

Và thế là chị có biết em đã làm gì không?... Hãy nghe. Em đã từng nhìn thấy người làm vườn làm những viên thịt băm để giết bọn chó đi hoang. Ông ấy lấy một hòn gạch, nghiền nhỏ một cái chai thủy tinh ra và nhét những mảnh thủy tinh được nghiền nhỏ đó vào trong một viên thịt băm.

Em đã lấy một cái chai thủy tinh đựng thuốc nhỏ ở phòng mẹ ra, và với một cái búa, em đã nghiền nát nó ra rồi em giấu phần thủy tinh bị nghiền nát đó vào túi áo. Đó là một chất bột lấp lánh sáng... Ngày hôm sau, khi chị đang làm những chiếc bánh nhỏ, em đã khoét một lỗ vào những chiếc bánh đó và em đổ bột thủy tinh vào đó... Anh ấy đã ăn ba chiếc... em cũng ăn, một chiếc... Em đã ném sáu chiếc xuống ao... hai con thiên nga cũng đã chết ba ngày sau đó... Chị nhớ không? Đừng nói gì hết... nghe em nói đã... nghe em đã... Chỉ có mỗi mình em, em đã không chết. Nhưng em mãi ôm yếu... chị nghe đã... Anh ấy chết... chị biết rõ mà... hãy nghe em nói... lúc đó điều đó chẳng có ý nghĩa gì mấy... nhưng sau đó... sau đó... thật khủng khiếp...

Suốt cuộc đời còn lại của mình, suốt cả cuộc đời mình... em đã đau khổ biết mấy! Em tự nhủ lòng: Ta sẽ không xa rời chị ta nữa. Và ta sẽ kể lại sự thật cho chị ấy nghe vào lúc ta sắp từ giã cõi đời... Và kể từ lúc đó, em đã luôn nghĩ đến giờ khắc này, cái thời khắc mà em sẽ phải kể lại tất cả... và thế là cuối cùng giờ khắc đó cũng đã đến rồi... Khủng khiếp quá... Ôi!... Chị cả!

Em đã luôn tự nhắc nhở mình, ngày cũng như đêm, sáng cũng như tối: Phải nói cho chị ấy biết điều đó... Và em đợi... khổ hình đó mới khủng khiếp làm sao!... Đừng!... Chị đừng nói gì hết.... Giờ em sợ... em sợ quá... Lát nữa nếu em gặp anh ấy ở dưới đó, khi em chết đi... em gặp anh ấy... chị có nghĩ đến điều đó không?... Em là người xuống trước... Em sẽ không dám đâu... Anh ấy sẽ... Em sắp chết... em muốn chị tha thứ cho em. Em muốn có được lời tha thứ của chị. Em không thể xuống đó đứng trước mặt anh ấy mà không có lời tha thứ của chị. Ôi! Hãy bảo anh ấy tha thứ cho con. Thưa Cha, hãy bảo anh ấy... Làm ơn bảo anh ấy. Con không thể chết mà không được tha thứ...

Cô im bặt, hổn hển thở, cào cào liên tục vào tấm ga trải giường bằng những ngón tay co quắp...

Suzanne giấu mặt vào trong tay, bất động. Cô nghĩ tới người yêu, người cô đã mãi yêu điên cuồng! Người mà lẽ ra đã cùng cô sống một cuộc sống vô cùng hạnh phúc! Cô như đang nhìn thấy anh, như trong quá khứ xa xưa, người yêu nhất đời của cô! Người đã làm con tim cô đau đớn đến thế! Ôi! Nụ hôn ấy, nụ hôn duy nhất! Cô đã giữ mãi nụ hôn ấy trong tâm khảm.

Bỗng ông cha xứ đứng dậy, bằng một giọng trầm, ngân vang, ông hô:

- Cô Suzanne, em gái cô đang hấp hối!

Suzanne ngẩng khuôn mặt đang giàn giụa nước mắt lên, lao đến bên em gái, rối rít hôn em, vừa hôn vừa lắp bắp:

- Chị tha thứ cho em, chị tha thứ cho em, em bé bỏng...

Tự vẫn

Viết cho Georges Legrand

Vài ngày nay, người ta đọc được trên mục rao vặt của một vài tờ báo những dòng sau: "Đêm thứ tư rạng ngày thứ năm, những cư dân sống trong nhà số 40 phố... đã bị đánh thức bởi hai tiếng súng chói tai liên tiếp. Tiếng nổ phát ra từ ngôi nhà của ông M.X... Cánh cửa được mở ra và người ta thấy ông này đang nằm trong vũng máu, một tay đang cầm một khẩu súng lục, chắc hẳn ông đã dùng hung khí này để tự sát".

"M.X... năm mươi bảy tuổi, có một cuộc sống nhàn hạ đầy đủ, ông có đủ mọi điều kiện để có thể sống hạnh phúc. Người ta hoàn toàn không hiểu vì lý do gì khiến ông phải tìm đến cái chết như thế".

Nỗi đau nào, nỗi khổ tâm nào, nỗi thất vọng thầm kín nào, nỗi phiền muộn nào đã đẩy một người đàn ông có đủ mọi điều kiện sống hạnh phúc đó đến cái chết? Người ta tìm kiếm lý do, người ta suy đoán, người ta tưởng tượng ra những cuộc tình đau khổ, người ta nghi ngờ có thể có việc gì đó liên quan đến tiền bạc... và vì người ta chẳng tìm ra được manh mối gì, lý do gì để đoán định được vì sao ông ta tự tử, người ta đành gán cho cái chết đó một từ "bí ẩn".

Một bức thư đã được tìm thấy trên bàn của kẻ tự tử không có lý do đó, bức thư được viết trong đêm cuối cùng, sau khi khẩu súng đã được lên đạn, giờ đây, nó đang nằm trong tay chúng ta, chúng ta thường tin rằng bức thư tuyệt mệnh rất có giá trị, nó có thể hé lộ cho chúng ta những lý do mà vì chúng con người ấy phải đi đến quyết định định mệnh đầy đau khổ đó. Bức thư có thể giải thích một cách ngọn ngành những đau khổ mà chỉ những người nhạy cảm, dễ xúc động mới hiểu được.

Nó đây:

"Nửa đêm, khi tôi viết xong bức thư này, tôi sẽ tự kết thúc đời mình. Vì sao? Tôi sẽ phải nói, không phải cho những người sẽ đọc những dòng này mà là cho chính tôi, để khiến mình can đảm hơn, để tôi có đủ khả năng hoàn tất điều tôi sắp phải làm, và không trì hoãn thêm nữa.

Tôi được nuôi dạy bởi một ông bố và một bà mẹ hoàn toàn bình thường như tất cả các ông bố bà mẹ khác trên đời này, những người tin vào những gì người khác tin, và tôi cũng tin như họ.

Và tôi cũng sẽ mãi sống như thế, cho tới một khi cuộc sống của tôi tự vỡ vụn ra.

Từ một vài năm nay, trong tôi bỗng có một hiện tượng lạ. Tất cả những hiện tượng trước kia xuất hiện trước mắt tôi một cách lộng lẫy như buổi bình mình chẳng hạn thì giờ đây trông như phai nhạt đi. Tôi chẳng còn thấy hứng thú với bất cứ một điều gì nữa, âm nhạc, thơ ca, tình yêu, mọi vuốt ve chiều chuộng đều làm tôi chán ngấy.

Tôi cảm thấy mình như trò chơi của ai đó, tôi tự cảm thấy tất cả mọi người đều phục vụ cho một trò chơi, và trò chơi đó luôn tìm cái gì đó mới lạ hơn, đáng yêu hơn. Nghĩa là khi tôi già đi, tôi sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi, và tôi sẽ chết, dù tôi có cố gắng thế nào, dù tôi có nỗ lực thế nào, dù tôi có làm gì, có nghĩ gì thì tôi cũng sẽ vẫn cứ già đi, sẽ lụi tắt và sẽ có một ánh sáng mới thay tôi.

Trước kia, tôi vui sống! Mọi thứ trước mắt tôi đều đẹp đẽ, đáng yêu: những người phụ nữ đi ngang qua tôi đều kiều diễm, những góc phố, những con đường quen đều khiến tôi vui, tôi thậm chí còn quan tâm cả đến những kiểu quần kiểu áo của mọi người đi trên phố. Nhưng rồi tất cả những điều đó lại khiến tôi thấy phát nhàm, phát chán, như thể ta tối nào cũng xem lại một vở kịch ở cùng một nhà hát vậy.

Ngày nào cũng như ngày nào, từ ba mươi năm nay, cứ đúng giờ đó, tôi thức giấc, và đúng ở quán ăn đó, tôi ăn cùng vào giờ đó cũng những món ăn mà những người phục vụ bàn khác nhau mang đến cho tôi.

Tôi đã định đi du ngoạn. Nhưng sự cách biệt, không thân thiện tôi thường cảm nhận được mỗi khi tôi đến một chỗ lạ khiến tôi e sợ. Tôi cảm thấy mình cô đơn biết mấy trên cõi đời này, cảm thấy mình bé nhỏ biết mấy mỗi khi tôi ngồi một mình trong xe và phóng thật nhanh trên đường để trở về nhà.

Nhưng khi về đến nhà, đối mặt với những đồ vật bất di bất dịch, những đồ vật sờn cũ từ ba mươi năm nay của mình, những đồ vật mà tôi đã dùng từ khi nó còn mới tinh, ngửi thấy mùi đặc trưng của phòng mình (vì một cách lôgích là sau một thời gian thì cái gì cũng có một mùi đặc biệt của nó) tôi lại cảm thấy chán ngán, cảm thấy buồn bực.

Sự lặp đi lặp lại đến nhàm chán. Mỗi sáng, tôi ra khỏi nhà và khóa cửa, mỗi tối tôi bước về nhà và sờ đúng vào nơi tôi để công tắc đèn, ánh mắt tôi nhìn đúng vào một chỗ trong phòng mình khi đèn bật sáng... tất cả những điều đó khiến tôi luôn muốn nhảy qua cửa sổ để kết thúc mọi sự nhàm chán không bao giờ rời bỏ ta đó đi.

Ngày nào cũng như ngày nào, khi cạo râu, tôi lại có mong muốn không sao kìm hãm được là cắt cổ mình đi. Và khuôn mặt tôi, với đầy bọt xà phòng trên má, luôn có một vẻ như thế khi tôi ngắm nhìn mình qua chiếc gương bé tí làm tôi buồn bực đến phát khóc lên được.

Tôi thậm chí không muốn gặp, không muốn đến gần những người mà xưa kia tôi rất thích gặp họ, tôi đã quá quen họ, tôi biết trước họ sẽ nói những gì với tôi và tôi sẽ trả lời họ thế nào. Tôi biết rõ họ nghĩ gì, biết rõ họ phản ứng thế nào trong các tình huống, biết rõ họ sẽ nói gì, sẽ làm gì trong từng trường hợp cụ thể. Tôi quá quen với họ. Mỗi bộ óc là một vòng tròn, và suy nghĩ như một con ngựa khốn khổ bị nhốt chặt đi lòng vòng trong đó. Cho dù ta có cố gắng đến đâu, cho dù ta có cố cưỡng lại đến đâu, thì ta cũng không thể vượt qua được cái giới hạn đó, một cái giới hạn rất gần, tròn trịa theo một hình cong xác định, không thể vượt qua, không thể nhảy ra. Mọi suy nghĩ của ta phải xoay quanh nó, phải đi đúng guồng, cùng suy nghĩ, cùng quan niệm về cái đẹp, cùng quan niệm về niềm vui, cùng một thói quen, cùng một niềm tin, cùng một nỗi chán ghét.

Tối nay, sương mù thật đáng sợ, nó bao phủ toàn bộ quảng trường, những ngọn đèn đường mờ ảo như những ngọn nến mờ. Vai tôi như bị một lực nào đó rất nặng đè xuống. Đầu óc tôi cũng như bị một bóng mù che phủ.

Ăn uống và tiêu hóa thức ăn tốt là tất cả trong cuộc sống. Chính nhờ tiêu hóa tốt thức ăn mà diễn ra sự trao đổi chất trong cơ thể con người. Mong muốn yêu đương ở thanh niên, những tư tưởng sáng suốt ở các nhà tư tưởng, niềm vui sống ở tất cả mọi người, và dạ dày cũng cho phép ăn rất nhiều (ăn uống đôi khi cũng tạo thành một niềm vui lớn). Một dạ dày đau yếu có thể dẫn con người đến việc luôn hoài nghi, luôn chán nản mọi thứ trên đời, nó gieo mầm cho mọi ý tưởng đen tối và mong muốn được chết. Tôi thường gặp mong muốn này. Có thể một ngày nào đó tôi sẽ tự kết liễu đời mình nếu tôi cứ mãi phải chịu đựng sự khó chịu như thế này.

Khi tôi ngồi vào trong chiếc ghế bành mà ngày nào tôi cũng ngồi từ ba mươi năm nay, tôi đảo mắt một vòng nhìn quanh mình, và tôi cảm thấy một cảm giác suy sụp buồn nản khủng khiếp đến nỗi tôi bỗng thấy mình sắp phát điên.

Tôi tìm cách để tôi có thể thoát khỏi chính mình? Có lẽ ngồi không khiến tôi suy nghĩ vẩn vơ mà bực bội, thế nên tôi nghĩ đến chuyện sắp xếp lại đống giấy tờ của mình.

Từ lâu rồi tôi đã nghĩ đến chuyện phải mất một hôm nào đó thanh lọc đống giấy tờ trong ngăn kéo của mình, bởi từ ba mươi năm nay, tôi cứ tống tất cả mọi thứ giấy tờ, thư từ, hóa đơn vào cùng một tủ, và sự hỗn độn của đám giấy đó cũng không ít lần làm tôi vô cùng buồn phiền.

Nhưng tôi cảm thấy thật mệt óc, mệt người biết mấy khi nghĩ đến việc phải dọn lại, sắp xếp lại cái gì đó, và tôi đã không bao giờ đủ can đảm để bắt tay vào làm một công việc tẻ ngắt như thế.

Thế nên tôi ngồi trước bàn làm việc của mình và mở nó ra, tôi định loại những giấy tờ cũ ra và đốt hủy chúng đi.

Đầu tiên tôi phát bối rối trước một đống những tờ giấy đã ngả vàng, rồi tôi nhặt lên một tờ.

Ôi! Tôi đã không bao giờ sờ đến cái ngăn bàn này, đến nơi chôn giấu biết bao nhiêu thư từ cũ. Nếu bạn giữ lại tất cả những thư từ bạn từng nhận được, và nếu một ngày nào đó bạn xem lại nó một cách ngẫu nhiên, những câu chữ trong nó nằm trên tay bạn, hãy nhắm mắt lại để không phải đọc một chữ nào hết, để một nét chữ đã từng bị quên lãng không khiến bạn ngã ùm vào cả một đại dương mênh mông của kỷ niệm. Hãy mang chúng đi đốt ngay, đốt hết những trang giấy cũ, và khi chúng đã cháy thành tro, hãy nghiền tro ra thành bụi vô hình... nếu không, bạn sẽ mất rất nhiều thì giờ ngơ ngẩn... như tôi đang ngơ ngẩn từ một tiếng đồng hồ nay!...

Những bức thư đầu tiên tôi đọc không khiến tôi quan tâm chút nào. Tuy rằng nó là mới, nó được những người mà tôi khá quen và hay gặp gửi đến nhưng sự có mặt của chúng không làm tôi xúc động tí nào. Nhưng đột nhiên, một phong bì khiến tôi rùng mình run rẩy. Chữ trên phong bì to, tròn, viết tên tôi, nước mắt bỗng dâng đầy mi, đó là người bạn thân nhất thời thơ ấu của tôi, người đồng hành suốt thời trai trẻ với tôi, người bạn chí cốt trung thành từng cùng tôi thổ lộ mọi suy tư thầm kín. Cậu ta hiển hiện trước mắt tôi rất rõ nét, với nụ cười đầy vẻ trẻ con và cánh tay giang ra, chìa về phía tôi, tôi rùng mình ớn lạnh. Vâng, những người chết đang hiện về, vì tôi đã nhìn thấy cậu ta! Ký ức của chúng ta là một thế giới hoàn hảo hơn là vũ trụ này: Nó tái hiện cả những gì không còn tồn tại nữa!

Tay run rẩy, mắt mờ đi, tôi đọc lại tất cả những gì cậu ấy viết cho tôi, và trong con tim khốn khổ đang nức nở khóc của mình, tôi cảm thấy một nỗi đau vò xé đến nỗi tôi phải bật ra những tiếng rên rỉ như thể một người đang bị cắt, bị xẻo đi các chi, các phần cơ thể mình.

Tôi đã đảo lên, xem lại cả cuộc đời mình như thể người ta bơi ngược lên đầu nguồn sông. Tôi đã hồi tưởng lại những con người mà tôi đã quên đi từ rất lâu, lâu đến nỗi giờ đây tôi không còn nhớ nổi họ tên là gì. Chỉ còn khuôn mặt dáng hình họ là còn trong ký ức của tôi. Trong những bức thư của mẹ tôi, tôi đã tìm lại được, nhớ lại những người làm cũ của nhà tôi và hình dạng ngôi nhà xưa kia chúng tôi ở với những chi tiết nhỏ vô nghĩa nhưng vô cùng gắn bó với tâm hồn thơ trẻ.

Vâng bỗng nhiên tôi nhớ lại như in tất cả những bộ quần áo dạ hội cũ của mẹ tôi với những kiểu cách khác nhau tùy từng thời kỳ, tùy theo xu hướng mốt của thời kỳ đó, tôi nhớ cả những bộ tóc giả mẹ tôi từng đội. Đặc biệt tôi nhớ nhất tới một chiếc váy bằng vải soa có in hoa cũ, và tôi nhớ lại một hôm, khi đang mặc chiếc váy đó, mẹ tôi đã nói với tôi một câu rằng: ‘Robert, con yêu, nếu con không đứng cho thẳng lên, thì rồi con sẽ bị gù, và cả đời mang lấy bướu trên lưng đấy’.

Rồi, khi mở một ngăn tủ khác, tôi bỗng đối diện với những kỷ niệm về tình yêu: một đôi giày nhảy, một chiếc khăn tay bị xé, một chiếc bít tất nữ, những lọn tóc và những bông hoa được ép khô. Ôi những tiểu thuyết êm dịu của đời tôi mà nhân vật nữ chính vẫn đang sống và giờ chắc tóc đã bạc trắng, chúng khiến tôi như bơi trong dòng ký ức ngậm ngùi của những việc không bao giờ kết thúc. Ôi! Những vầng trán trẻ trung, xòa xuống một vài lọn tóc óng, những cái vuốt ve, những cái nhìn biết nói, những con tim thổn thức, nụ cười hứa hẹn, mời gọi... nụ hôn không dứt khiến đôi mắt nhắm lại, khiến mọi ý nghĩ đều mờ đi trong một niềm hạnh phúc vô biên.

Nắm chặt trong tay những bằng chứng cũ về những tình âu yếm xa xưa, tôi phủ lên chúng những cái vuốt ve đầy tình cảm mãnh liệt, và trong tâm hồn đang bị giày vò bởi những kỷ niệm của tôi, tôi bỗng nhớ lại từng giờ chia tay, tôi cảm thấy như mình đang bị khổ hình, một khổ hình ác nghiệt, tàn ác, gây đau khổ hơn nhiều so với những tưởng tượng về những sự hành hình trong chín tầng địa ngục.
Một bức thư cuối cùng còn lại. Nó là thư do tôi viết và thầy giáo dạy văn đã đọc chính tả cho tôi chép từ cách đây năm mươi năm về trước. Nó đây:
Mẹ yêu quý của con,
Hôm nay con tròn bảy tuổi, đó là tuổi bắt đầu biết lý lẽ. Chính vì thế con biết rằng con phải cảm ơn mẹ đã sinh ra con.
Con trai mẹ.
Yêu mẹ
Robert
Thế là hết. Tôi đã đi đến tận đầu nguồn, và bỗng tôi nhìn lại xem xét những ngày cuối đời của mình. Tôi nhìn thấy sự già nua gớm ghiếc và cô đơn, thấy sự suy tàn cả về thể xác lẫn tinh thần đang tiến lại gần, và thế là hết, là hết, là kết thúc tất cả. Chẳng có ai thân cận ở quanh tôi.
Khẩu súng lục của tôi đang ở kia, trên bàn... tôi lên đạn... Đừng bao giờ đọc lại những thư từ cũ của bạn".
Và đó, chính là tại sao khá nhiều người đã tự vẫn, sau khi lục tung mọi thứ lên một cách vô ích nhằm tìm ra một lý do chính đáng, một nỗi buồn to lớn mà vì nó một người đã tự kết liễu đời mình.
Guy de Maupassant
Người dịch: Vũ Yến Ly
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...