Người đàn bà bên kia vĩ tuyến 3
Khu rừng lau 2
CHƯƠNG SÁU
VẬT ĐỒI SAO DỜI
I
Trường trung học Hung Yên hoàn thành, Khóa tháy không còn mối
thầu nào nữa. Biết Tân cần kiếm tiền để dành chuẩn bị cho việc học sang năm,
Khóa giới thiệu chàng một chân thư ký trong Viễn Đông Ngân Hàng ở Hải Phòng. Thế
là Tân xuống Hải Phòng.
Việc buôn bán trên con đường hàng không Hà Nội - Vientiane
cũng bị ảnh hưởng thời cuộc mà ngưng trệ. Giám đốc hãng Autrex vốn rất tín nhiệm
Khóa, ngỏ ý mời chàng đứng làm quản lý cho một chi nhánh nhỏ ở tại miền Trung mới
đựợc thành lập. Tại đậy hãng Autrex có bốn phi cơ De Haviỉland sáu chỗ ngồi bay
nối các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Huế và Tourane. Bàn giấy chi nhánh được đặt
ở Tourane. Công việc của quản lý là giao thiệp với chánh quyền địa phương, kiểm
soát chi thu và dự liệu các chuyến bay.
Khóa nhận lời vì chàng được biết hãng Autrex dự định cho làm
một sân bay tại Đại Lộc phía Đông Bắc Tourane, nơi này sản xuát rát nhiều cau,
Khóa sẽ vừa làm đại lý cho hãng vừa điều khiển việc buôn cau của riêng mình.
Chiến trường Điện Biên Phủ đã tới những ngày quyết định, Tân
theo Viễn Đông Ngân Hàng chuyển vào Saigon. Sân bay Đại Lộc không làm được,
Khóa đành giữ tạm chân quản lý đợi một chuyến buôn khác.
Từ sau buổi chiều thứ bảy Kha suýt sa ngã lảm điều xằng với
Miên, rồi ra đi ân ái với Diễm, mấy ngày sau Kha lúng túng chưa biết rồi đây
khi gặp Miên sẽ ăn làm sao nói làm sao. Chính Miên giúp chàng tẩy xóa vết nhơ
đó. Đúng dịp Nha Y Tế Bắc Việt cần một số nhân viên xuống tăng cường chọ nhà
thương Hải Phòng, Miên xin đi. Nàng đến gặp Kha thuật lại bằng một giọng hết sức
dịu dàng và tự nhiên. Khi xuống Hải Phòng, nàng viết thư cho Kha trước, chàng vội
viết thư trả lời, bầu không khí giữa hai người trở lại trong trẻo trong xa
cách.
Trong khi Lãng chiếu ống nhòm phóng sự trên một miền duyên hải
với những trận quyết liệt, rồi những chuyến bè di cư, thì Kha cũng được dịp
quan sát những ngày tàn của đất ngàn năm văn vật Thoạt là câu chuyện giữa chàng
với ông Cai.
Trận Điện Biên Phủ chớm tới hòi kết thúc, một buổi chiều kia
dạy học về đến cổng Kha gặp ông Cai, Kha hỏi trước;
- Thưa cụ, hôm nay cụ yề sớm!
Ông Cai buồn rầu lắc đầu, không trả lời vào câu hỏi:
- Hỏng bét cả rồi ông giáo ạ, thằng Tây chuyến này thua to ở
Điện Biên Phủ mà phe Quốc Gia mình xem ra yếu thế quá chẳng làm nên trò trống
gì. Rõ hoài cơ hội ngàn năm một thuở! Thế ông giáo viết báo, ông giáo có ý kiến
gì không?
- Cụ hỏi làm tôi thấy xấu hổ, chỉ viết báo không thì làm sao
thắng được Việt Minh, thưa cụ.
- Ắy ông giáo cứ làm hết sức mình chứ, công việc khác thì lại
người khả năng khác cáng đáng. Mình có phải bà Mụ Thiện mười hai tay đâu mà cái
gì cũng quán xuyến, ông giáo?
- Nhưng điệu này thì bà con mình đến khăn gói vào Nam mất cụ ạ.
- Vào thì vào, tôi vào đầu tiên ông giáo ạ. Tôi mới gặp một
người trong quê ra đây...
- Thưa cụ quê ta ở đâu đấy ạ?
- Hà Nam, ông giáo! Chúng nó đã tuyên truyền trước là bạc
Đông Dương rồi đây sẽ không tiêu nữa, nhất là những giấy lớn. Thế rồi cán bộ mậu
dịch của chúng ở bên kia sông Đấy gánh gạo sang bán, ai lại đổi có hai chục bơ
gạo lấy tờ giấy năm trăm! Những nhà giàu quyết tâm ở lại chờ con cháu về càng
giấy lớn càng muốn tống đi, coi như của bỏ, quê tôi giờ đây giấy một chục hay
giấy năm đồng lại đâm ra quý, ông giáo tính thế có vớ vẩn không? Làng tôi còn
trong vùng quốc gia rành rành ra đấy mà chúng nó đã thành lập dân quân canh gác
lấy, thành lập ủy ban hành chánh xã, chúng biệt lợi dụng những người có thân
nhân bị giết, hoặc đã từng bị Pháp bỏ tù mời họ vào ủy ban.
- Thấy cụ có định về thăm làng một chuyến không?
- Có mà mất đầu, ông giáo! Chúng nó đã lên án tôi là Việt
gian đấy. ông giáo có biết chúng nó là ai không?
- Là Việt Minh chứ còn là ai nữa, thưa cụ.
- Đành rằng thế nhưng ai là Việt Minh? Toàn các cháu tôi cả đấy
ông giáo, đứa thì gọi tôi bằng bác, đứa thì gọi tôi bằng chú, đứa thì gọi tôi bằng
cậu!
Ông Cai lắc đầu ngao ngán tiếp:
- Cái thuở đổi đời này sinh ra lắm giống phản phúc quá ông
giáo ơi. Tuần trước có người kể với tôi là tàu thủy đi Nam Định qua làng Bát
Tràng một tí thì bị Việt Minh bắt ghé vào bờ khám. Một thằng lõi bán bánh nhảy
lên chồm chồm chỉ vào một người mặt cắt không còn một giọt máu, tố cáo:
"Thưa các anh chính thằng này là lính quốc gia, thằng bạn tiễn nó dặn là về
nghỉ phép thăm vợ con bảy ngày rồi lại trở về trại." Thế đấy, tôi không
dám về làng nữa ông giáo à. Đọc báo, máy thằng bù nhìn của mình sang Pháp được
bộ ngoại giao Pháp tiếp đón, thết tiệc, khốn nạn nó cho như cho chó ăn ấy, khoản
đãi cái cóc khô gì. Có yêu nước, có được dân nước yêu thì mới ngửa mặt nhìn thẳng
mà nói chuyện với ngoại quốc được chứ, sự thật giản dị là thế mà có đứa nào chịu
hiểu đâu. Có thế nào thì chúng mình bỏ mồ mả tổ tiên chạy vào Nam, chứ chúng nó
dắt díu nhau mang vợ con sang Pháp, của nã ăn mấy đời cho hết! ồ là là! Mẹt Sà
Lù!
Ồng Cai đã toan qụay vào bỗng nhớ thêm một điều, ông dừng lại
nói tiếp:
- À ông giáo có biết ở làng tôi bây giờ dạy trẻ ra sao không,
y hệt ở ngoài đó rồi. Dạy vẽ cái bát cung lồng chính trị giai cấp vào.
"Cái bát này do ai làm? - Do công nhân làm - Vì đâu làm được cái bát - Nhờ
ơn Chính Phủ, Đảng, Bác công nhân làm được cái bát!" Có thầy giáo giảng về
sự rơi của các vật lấy thí dụ viên đạn bắn, bị học sinh phê bình là "thầy
mất lập trường, gây tâm lý chiến tranh"! oh là là!
Lần này thì ông Cai vào thật và Kha vào theo.
Sau này quả nhiên ông Cai vào Saigon trước. Khi Kha gặp lại
ông thì ông đã là chủ một tiệm phở và cà phê.
II
Thắng xong trận Điện Biên Phủ quân đội Việt Minh dồn về phía
Phủ Lý. Một số nhà lãnh đạo quốc gia thuần túy muốn chiếm kho khí giới Nam Định
để tổ chức chống nhau với Việt Minh theo tinh thần các chiến sĩ áo nâu, thây kệ
cho quân Pháp rút vào Nam. Kể ra như vậy mới là có chính nghĩa quốc gia, nhưng
muộn quá rồi. Thực dân Pháp cũng đã sớm rút quân tuần tự từ Ninh Bình qua Nam Định
qua Phủ Lý theo chiến thuật khối tuyết lăn - boule de neige - và tất cả những lực
lượng tập trung này được đem tặng cường dọc theo hành lang Hà Nội - Hải Phòng.
Để trấn an dân chúng chính quyền bù nhìn cho dán khắp thủ đô tấm bích chương có
vẽ một bàn tay xòe và một bàn tay nắm với lời chú thích là rút quân ở các nơi về
chính là để tập trung lực lượng cho quả đám sẽ phóng ra.
Sau khi hiệp đinh Genève đã được ký, học sinh di cư từ các tỉnh
về tạm trú ở trường Puginier phố Lý Thường Kiệt. Nơi đây có ban hướng đạo chỉ dẫn
các cậu chỗ ăn ở cho đến ngày các cậu đi phi cơ. Một cán bộ Việt Minh trà trộn
vào ban hướng đạo để lén phản tuyên truyền bị đánh gẫy xương sườn. Một cuộc biểu
tình vĩ đại phản đối sự chia cắt phát xuất từ trường Puginier, riễu quanh bờ hồ
qua Nhà Hát Lớn rồi giải tán ở vườn hoa Con Cóc. Tại tòa báo Văn Hóa, Khiết nói
với Kha:
- Tình cảm thì chân thành nhưng thực lực thì không có, làm được
gì bây giờ? Cũng chỉ tiêu cực như ông ngoại trưởng quốc gia khóc ở Genève
thương cho đất mẹ bị chia cắt. Cả hai mươi nhăm triệu con dân, trừ một thiểu số
cộng sản dĩ nhiên, cũng khóc thầm như vậy nhưng làm được gì bây giờ? Tụi Pháp mất
mặt từ nay, Việt Minh lộ mặt từ nay, chúng mình vào Nam cố mà xây dựng gấp
chính nghĩa quốc gia chuẩn bị cho keo sống mái sau này.
Tối hôm đó Kha ngủ lại tòa báo rồi nửa đêm cùng Khiết dậy đi
dọc theo đường Bờ Hồ, ra Tòa Thị Chính quan sát những đồng bào sắp ra đi chuyến
sớm mai. Đủ cả nam phụ lão ấu, những khuôn mặt lo âu, tiếng nói chuyện thì thầm,
đôi kẻ ngủ gà ngủ vịt, tiếng trẻ con khóc, tiếng mẹ vỗ về, người cha vươn cổ
câm lặng cho đến khi đứa trẻ tạm nín mới lại nằm xuống. .. Ánh đèn điện vàng
khè hiu hắt. Bóng tối lùm cây như biến thành những khối sầu biết thổn thức mỗi
khi có đợt gió lạnh lướt qua.
Khi trở lại đường Bờ Hồ, Khiết bỗng chỉ một bóng cao cao chắp
tay sau lưng đương đi dưới lùm cây ngay sát đền Ngọc Sơn:
- Này Kha, trông ai như Sứ Quân!
Kha gật đầu:
- Có lẽ đúng anh ạ.
Cả hai cùng rảo cẳng. Quả là Sứ Quân thật!
Sứ Quân nguyên là một chính khách quốc gia đã từng viết thư
khuyên Bảo Đại không nên đi với Pháp và được Bảo Đại trả lời bằng một giọng ưu
ái. Sứ Quân coi đó là một thành tích cách mạng đáng kể của mình. Khi quân đội
liên hiệp rút lui tự khắp mặt trận về thủ đô, Sứ Quân đến tòa báo Văn Hóa nói với
Khiết, Kha, Luận:
- Tôi có thằng em họ hiện là đại úy tiểu đoàn trưởng. Giờ đây
tôi chỉ cần tìm một địa điểm hiểm yếu tựa như đất Ba Thục với đường sạn đạo
xưa, quân đội của thằng em tôi chiếm đóng ở đó, có quốc kỳ riêng, quốc ca
riêng, đài phát thanh riêng ... Làm được như vậy phe quốc gia trong Nam, lực lượng
Việt Minh ngoài này, cả những nước đứng đằng sau giật giây như Anh, Mỹ, Pháp đều
phải đổ xô đến tìm cách liên lạc với mình. Mình cứ ngự tại đó chưa là kẻ thù của
ai, mọi phe phải hết sức ve vãn, do đó lực lượng mình như lửa gặp gió vào ngày
hanh, lớn mạnh đến hai phe đế quốc hợp sức lại cũng khó cản nổi. Các anh hẳn biết
trong những ngày vừa qua có nhiều làng miền duyên hải tổ chức tự vệ lấy, Việt
Minh không lọt được vào một mống. Khi quân đội Liên Hiệp rút đi hết mười lăm
ngày sau Việt Minh còn chưa dám vào. Dân các làng đó tin rằng quân đội quốc gia
sẽ trở lại, đến khi biết là không có, họ di cư gần trọn. Các anh thử nghĩ xem,
trong lòng người dân quốc gia ai chẳng muốn cương quyết dứt khoát với Việt Minh
như vậỵ nhưng hoàn cảnh không cho phép, họ thiếu điểm tựa. Nếu tôi thiết lập được
chiến khu "Ba Thục" tức là tôi tạo hoàn cảnh cho mọi người chống Cộng,
chiến khu của tôi là điểm tựa của họ. Ha ha, các anh có thấy không, có điểm tựa
người ta bẩy trái đát còn được nữa là việc nhỏ mọn như bẩy Việt Minh. Các anh
hãy nghe tôi nhấn mạnh đây, bởi mình có lực lượng - và lực lượng luôn lớn mạnh
- và chưa là kẻ thù của ai, nên mọi phe đều hết sức ve vãn mình. Mình sẽ làm chất
xúc tác làm cho phe quốc gia mạnh lên, làm cho Việt Minh thành Cộng sản quốc
gia. Mình thu hút hai phe lại, ha ha, các anh thấy không, vô địch, vô địch.
Anh, Mỹ, Nga, Pháp, Tàu năm anh trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đều phải nể
mình hết.
Khi nhà chính khách ra về, Khiết mỉm cười nói với các anh em:
- Giá ông Sứ Quân đó viết tiểu tuyết kiếm hiệp cho bọn mình
thì hay.
Danh hiệu "Sứ Quân" có từ đấy.
Khiết, Kha đã bắt gặp Sứ Quân, Khiết lên tiếng:
- Nửa đêm về sáng rồi chưa về ngủ ư đại ca?
Sứ Quân quay lại nhận ra hai người giơ cả hai tay lên giời,
vui mừng:
- Gặp thêm hai tri kỷ nữa hay quá. Đã một tuần nay đêm nào
tôi cũng đi như thế này, thu lấy hình ảnh Hà Nội cho đã, rồi vào Nam.
Khiết vỗ vai Sứ Quân thân mật:
- Thế còn đất Ba Thục với đường Sạn Đạo?
Sứ Quân cười:
- Anh xem kế hoạch của tôi thật hợp lý và tuyệt diệu, nhưng một
mình tôi thực hiện sao nổi, trong tay lại chẳng có một chút quyền hành nào!
Thôi các anh hãy rẽ vào nhà tôi gần đây, tôi pha cà phê cùng uống cho hết đêm.
Cả ba dời Bờ Hồ sang đường, rẽ vào một hẻm gần phố cầu Gỗ. Lần
đầu tiên Khiết, Kha vào nhà Sứ Quân. Đó là một căn phòng trần trụi, lạnh lẽo,
bàn ghế là những thùng sữa nét-lê bằng gỗ thông nhẹ. Cái giường nằm cũng vuông
và thấp như cái hòm cỡ lớn một chút.
Kha nói:
- Trông nhà anh tôi lại liên tưởng đến khu chợ giời Halais
bên hồ Thuyền Quang. Hình như bao nhiêu sách vở, tủ chè, sập gụ, tủ gương, bàn
ghế, anh đã đem đi chợ giời bán tháo hết rồi.
Sứ Quân chỉ những đồ đạc rồi đáp:
- Ấy từ khi chưa khởi đầu trận Điện Biên Phủ tôi đã tổ chức sống
như thế này rồi. Trông tình thế biết chứ. Tôi vẫn nói đùa với nhà tôi là vợ chồng
mình sống theo văn minh nét-lê. Ghế ngồi là thùng nét-lê, bàn để radio là thùng
nét-lê, bàn uống nước là hai thùng nét-lê ghép lại, tủ sách nhỏ là những thùng
nét-lê dựng ngược xếp nghiêng sát bên nhau, cái giựờng tôi nằm cũng đồng thời lậ
cái hòm lớn trong đó có ngăn để sách, có ngăn để quần áo, có ngăn xếp chăn gối.
Ấy chết để tôi pha cà phê đã.
Trong khi Sứ Quân loay hoay đốt đèn cồn, Khiết đưa mắt nhìn
căn phòng một lần nữa rồi ngồi xuống chiếc ghế thấp mở radio bắt được một đài
ngoại quốc nào đó đương trình diễn nhạc cổ điển.
"Trong khi ngoại quốc họ kiến thiết, họ vui sống thì
trên phần đất nhỏ bé của xứ mình cứ chém giết nhau không ngơi." - Khiết
chua xót nghĩ thầm vậy rồi lớn tiếng hỏi Sứ Quân:
- Thế chị và các cháu đâu?
- Tôi cho vào Nam trước được một tuần rồi.
Khiết cười:
- Chắc chị vào để sủa soạn đất Ba Thục cho anh.
Khiết vốn biết Sứ Quân tính tình bộc tuệch nên mới đùa dai thế.
Sứ Quân cười hềnh hệch:
- Cái thế Ba Thục của tôi nếu ngày nay chưa thực hiện được tất
sau này cũng có người sẽ thực hiện. Hợp lý quá mà!
Khuôn mặt Sứ Quân bỗng thoáng buồn:
- Ngày nhà tôi và các cháu vừa đi khỏi, nhà này vắng tanh vắng
ngắt, đêm nằm nghe tiếng chuột chạy, tiếng thạch sùng tặc lưỡi mà tưởng như
chúng có thể nuốt chửng được minh. Thế mới biết chẳng có gì trên đời này quý và
ấm bằng tình người.
Khiết nghĩ thầm: "Anh chàng còn nặng tình người như thế
làm sao mà chính trị được trong cái thời đại lưu manh này."
Mùi cà phê bốc lên thơm phức. Sương lạnh bên ngoài lùa vào
làm cốc cà phê trong tay mọi người càng thêm phần quý giá. Câu chuyện trầm xuống
nhuốm màu tâm sự. Khi đồng hồ buông ba tiếng rãi rệ, Sứ Quân đề nghị:
- Chúng mình nên đi quanh Hồ Hoàn Kiếm một nữa rồi tới Nhà
Hát Lớn là vừa.
Tới Nha Hát Lớn làm gì?- Kha hỏi.
- Chứng kiến cản đồng bào di cư lên xe nhà binh qua cầu ...
Đoạn Trường sang bên kia Gia Lâm.
Cả ba cùng cười, cùng đứng dậy...
Câu chuyện thì thầm binh thường quanh hồ. Khi họ tới công trường
Nhà Hát Lớn nơi đã từng vang lời thề của già Hồ "Tôi thà mất đầu còn hơn
phản quốc" đã thấy một dãy xe tới hai chục chiếc GMC nối đuôi nhau. Và những
khuôn mặt chịu đựng, những dáng đi âm thầm, những cánh tay mẹ ôm con, những giọt
nước mắt ra đi từ trên nhìn xuống, những giọt nước mắt tiễn đưa từ dưới ngước
lên. Xe bắt đầu rồ máy. Những tiếng khóc nức. Những bàn tay xiết chặt thay cho
lời vĩnh biệt. Một cụ già bỗng khóc lớn:
- Thôi để tao về, tao không đi đâu cả!
Người con trai trưởng cúi xuống nắm lấy tay cụ:
- Thôi con lạy mẹ!
Cụ vừa khóc vừa kể lể với hương hồn chồng về cảnh mẹ góa con
côi suốt ba mươi năm qua, rồi cớ sự đến như ngày nay bỏ cửa bỏ nhà mà đi, thỉnh
thoảng cụ lại chấm câu bằng câu "ới anh ơi là anh ơi!" Người cháu
cũng đã lớn tuổi đứng đấy cố giấu vẻ cảm động nói đùa "Cụ khóc còn tình gớm".
Lũ con cháu ngồi xúm quanh cụ vừa mỉm cười vừa chấm nước mắt. Người con trai
trưởng vẫn nắm láy hai tay cụ: "Con lạy mẹ, thôi con lạy mẹ".
Đoàn xe đã bắt đầu chuyển bánh. Không khí đám người ở lại
trên vỉa hè, dưới thềm nhà Hát Lớn, thoạt xao xác rồi bàng hoàng rồi rưng rưng
lặng ngắt. Ánh đèn càng vàng nhòe trong nước mắt, gió sớm càng thêm lạnh.
III
Trong khoảng thời gian Hà Nội tàn tạ này chỉ có nhà thương là
vẫn làm việc như thường và làm việc đúng đắn; thứ đến các tòa báo mà những ông
chủ nhiệm chủ bút dứt khoát ra đi, thôi thì còn ở lại Hà Nội ngày nào chửi Cộng
sản cho đã ngòi bút, chúng bây giờ đâu còn danh nghĩa kháng chiến nữa. Họ dốc hết
bầu tâm sự, họ thổ lộ hết những kinh nghiệm bản thân, họ bóc trần mọi mưu mô
tuyên truyền của Việt Minh, họ nói trắng pho đồng bào thủ đô hay tất cả sẽ bị
hy sinh hết vì dưới mắt Việt Minh thành phần tiểu tư sản thành thị cầu an đều
là tụi phản quốc. Vì những bài báo đó mà một số lớn không còn chần chừ nữa, dứt
khoát ra đi. Một số công chức bỏ sở đi Nam Định là nơi tiếp thu trước, ở đây họ
được cán bộ Việt Minh tiếp đón niềm nở, nhận vào công sở, không khiến làm gì hết,
lương vẫn lĩnh như cũ trong khi những cán bộ khác làm hết mọi việc chỉ lĩnh
tương đương ba mươi cân gạo. Có người xin được giao công tác cho và tình nguyện
lĩnh lương ba mươi cân gạo, cán bộ cười bảo họ là việc đó không vội, đợi khi đã
được đả thông chính sách hãy hay. Một số lớn linh cảm tháy vuốt sắt đằng sau lầu
nhưng bèn tìm cách lẩn về Hà Nội tăng cường thêm cho số đồng bào di cư.
Toản, chồng cô Hĩm, hết sức bất bình với "lũ di
cư". Đã mấy lần Toản quắc mắt nhìn vợ như nhìn một người sắp di cư và nói:
- Chúng nó ngu như chó ấy, nước độc lập tự do rồi lại kéo
nhau vào Nam!
Từ nửa tháng nay Toản được một cán bộ Việt Minh cấp huyện bắt
liên lạc với. Toản từ xưa vốn mặc cảm ít học, nghe anh cán bộ nói việc học sau này
không có vấn đề thi cử, cứ tinh thần cao là đậu, còn được đi du học ngoại quốc
nữa là khác (Nga, Tàu). Toản sướng mê. Tiếng mandoline của anh dạo này vẻ rất
ròn, tưng bừng, anh đánh toàn những bài ngoài ấy. "Trường ca sông
Lô", "Mẹ nuôi chiến sĩ", "Diệt phát xít".
Trong phiên họp bầu ủy Ban Hành Chính Xã chiều qua, Toản đã tỏ
ra rất tháo vát khiến đôi mắt anh cán bộ đôi lúc sáng lên, tất nhiên đó là dấu
hiệu thán phục. Chẳng hạn để đề cao ông giáo Kỳ được bầu làm chủ tịch lâm thời,
Toản nêu cao thành tích của ông đã từng bị thực dân bắt và tra tấn; để đề cao
bà cả Bê được bầu làm ủy viên phụ nữ, Toản không quên nhắc đến cái chết đau
thương nhưng oanh liệt của đồng chí Dinh, biệt đông quân. Toản còn thành công
trong việc vận động bà cả Bê sẽ làm giỗ linh đinh đồng chí Dinh tuần sau, để mời
một số cán bộ quận về tiện thể đề cao gương hy sinh anh dũnq đó mà kích thích
quần chúng. Toản được bầu làm ủy viên thanh nien. Kết thúc buổi họp Toản nói:
"Thưa các đồng chí, giai đoạn quá độ này chúng tôi quyết hoạt động tích cực
để khỏi phụ lòng tin cậy của các đồng chí. Chúng tôi biết các đồng chí có mặt
đây đâu có kém chúng tôi về khả năng, trái lại nữa - (Toản rát đắc ý về cách
nói kiểu cách này - còn nhiều vị tháo vát tài ba hơn chúng tôi nhiều, nhưng dụng
nhân như dụng mộc, giai đoạn này đoàn thể dùng chúng tôi, giai đoạn sau tất đến
lượt quý vị. Có đặt người đúng với khả năng đúng với hoàn cảnh ngõ hầu- (trời,
hai chữ "ngõ hầu" đắt làm sao!) - đồng chí cán bộ huyện đây mới chứng
tỏ đã thông suốt được đường lối do Bác và Đảng đề ra".
Lúc đó đồng chí cán bộ ghé tai Toản nói thầm: "Từ lần
sau đồng chí nên nói Đảng trước rồi Bác sau mới đúng!" Toản vội gật đầu
lia lịa chứng tỏ mình rất bén nhạy trong việc phản ảnh đường lối Đảng:
"Vâng vâng, để lần sau tôi xin nhớ". Thực ra đồng chí cán bộ không
ưng cách Toản nói quá ư kiểu cách, nào "trái lại", nào "ngõ hầu
ngõ hiếc" kém nhân dân tính, nhưng đồng chí cán bộ cũng kịp thời nhận thấy
lúc này chưa nên làm mếch lòng Toản vội.
Tan phiên họp về, Toản thấy vợ đon đả ra tận ngõ đón, nói thầm:
- Mình ơi, tôi có người bạn hàng vừa xe về biếu cái giường
tây bằng gỗ lát đẹp lắm.
Toản trịnh trọng quát:
- Mình ngu lắm, lấy của họ làm gì?
- Thì bà ấy xe về biếu. Bà ấy bảo bán cũng không được bao
nhiêu, thà biếu người quen còn hơn.
- Tôi nói cho cô biết, rồi người ta cũng khám phá ra hết. Rồi
đây làng này ai mua rẻ thêm cái gì trong nhà: tủ chè, sập gụ, bàn gương, hay
cái chum đựng nước đi nữa, người ta đều biết và tịch thu lại hết, đừng có mà tưởng
bở.
- Nhưng nào mình có mua rẻ bán đắt gì, bà ấy cho thì minh lấy
chứ. Cái giường tre của nhà mọt ruỗng ra rồi mình không thấy ư? Lúc nào tịch
thu hãy hay.
Toản không biết nói gì thêm chỉ lừ mắt thốt khẽ câu "Đàn
bà gì mà tham lam" rồi đi thẳng lên nhà vớ lấy chiếc mandoline vê tít khúc
đầu bài Trường Ca Sông Lô (Toản mới thuộc có khúc đầu). Cô Toản lặng lẽ đi châm
đèn. Toản vưa vê đàn vừa đưa mắt nhìn quanh nhà, dừng tia nhìn lại phía góc nhà
bên phải: hai cái giát giường dựng sát vào cái giại, những cọc màn bó lại lôi
thôi xếp dưới chân giại, những thành giường dựng ngả về phía vách trong. Toản
thấy vợ đã ra cổng, chắc là về bố mẹ. Toản tiếp tục vê đàn sang bài Diệt Phát
Xít phưng được nửa bài thì đặt đàn xuốnạ, từ từ đứng dậy, vẫn kín đáo nhìn ra
phía cổng. Sau khi đã đoán chắc vợ chưa thể quay về ngay được, Toản rảo bước về
phía góc nhà, cúi xuống một chút ngắm kỹ những thành giường bằng gỗ lát đánh
bóng, vân nổi khá đẹp. Khẽ gật gù một chút, Toản trở lại phản giữa ôm đàn, lần
này Toản vê bài Dân Quân Du Kích.
IV
Khóa đã về đón mẹ đi Đà Nẵng, Khiết còn ở lại thu tiền bán
nhà. Tờ Văn Hóa đã tạm đình bản hẹn gặp lại độc giả trong Nam. Khóa sẽ từ Đà
Nang vào Nam thuê hoặc mua sẵn nhà cho Khiết vừa mở phòng luật sư vừa dùng làm
tòa báo.
Kha đến thăm bà Phán ngỏ ý đưa bà vào Nam, bà lắc đầu từ chối.
Bà nói:
- Cám ơn cháu, bác còn phải ở đây bốc mộ cho bác giai đã.
Tình thế này tất em Vân nó sẽ quay vào đây đón bác. Cháu cứ vào Nam trước đi, nếu
có đi bác sẽ đi sau.
Từ biệt bà Phán, Kha nghĩ đến Vân trên đường về. Ngày đó tới
Hải Dương hay tin Mạnh chết, hôm sau Vân từ biệt mẹ trở lại hậu phượng ngay.
Kha không được gặp Vân một lần cuối- Kha tin rằng đó là lần cuối. Cho đến nay
thì chàng đã không lầm, quả là lần cuối thật. Kha biết Vân không dám để cho
chàng gặp mặt.
Khuôn mặt Hà Nội thay đổi trầm trọng từng ngày. Dân chúng sợ
nhất lũ công an chỉ điểm hai mang, giờ đây chúng không còn giữ bí mật nữa,
chúng đeo súng nghênh ngang đi ngoài phố. Người ta đòi nợ nhau, cãi nhau ơi ới,
đuổi nhau ầm ĩ, quân hồi vô phèng, khỏe là được, không còn công lý nữa. Tối cảnh
sát rút về quận, chỉ còn ít lính Liên Hiệp đi tuần. Đã có những vụ trả thù cá
nhân, lác đác trong đêm có tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ, kẻ nào bị thương thì
thân nhân đến bót cảnh sát khai. Người ta ghi lời khai lấy lệ chứ có ai mà đi
điều tra. Một số cảnh sát đã di cư, một số đào ngũ, số ở lại quận cũng đương
nghiêng ngả chưa biết tính sao. Đôi khi sáng sớm người ta phát giác một xác chết
bí mật ở một hẻm nào đó.
Truyền đơn Việt Minh tung ra trong thành phố như bươm bướm.
Những người trước có kháng chiến chút ít rồi vào Thành, hoặc những người chưa hề
kháng chiến nghe tuyên truyền bùi tai ở lại, trong đám người này có nhiều người
khá giả có ô tô nhà, họ lãnh những truyền đơn trên rồi phóng xe đi rải, gọi là
đái tội lập công, hoặc kháng chiến giờ thứ ... hai mươi nhăm.
Cả ngả đường tự bốn bề tỉnh nhỏ về thủ đô đã bị quân đội Việt
Minh bịt kín, số đồng bào di cư muộn vào lọt được thủ đô hiếm lắm.
Ồng Hạo đã một lần từ trong quê ra với Kha, cho Kha biết tình
hình làng và hỏi Kha bao giờ vào Nam. Ông biết Kha thế nào cũng vào Nam, cũng
như Khai biết ông thế nào cũng ở lại để trông nom mồ mả. Kha nói với ông:
"Thế nào trước khi đi cháu cũng về thăm bà ngoại cháu và chú thím".
Và hôm đó Kha về quê. Chàng rẽ ngay vào thăm bà ngoại. Có ông
bà bác Thoại đứng đấy, cụ nói với Kha:
- Con ơi nếu mày chịu lấy vợ bà cho mày hai con lợn đã choai
choai dưới chuồng kia.
Kha cười, chớp mắt cố giấu cảm động rồi hứa với cụ là chuyến
này sẽ lấy vợ để cụ có chắt. Cụ mừng lắm tiếp:
- Phải thế mới được con ạ, bây giờ chúng mày Tây Tàu chứ ngày
xưa như cậu mày đây thì tuổi đó là con sống con chết có cả rồi.
Ông bát Thoại nói khẽ với Kha:
- Anh biết đấy, cậu mợ chẳng phải là địa chủ gì, có ít ruộng
tự cầy cấy lấy mà ăn. Họ có về cũng chẳng làm gì.
Kha đáp:
- Vâng cụ già thế này, cậu mợ ngại đi là phải. Cháu hôm naỵ về
thăm bà với cậu mợ lần cuối, mai cháu đi Hải Phòng gặp mấy người bạn, rồi ở đấy
cháu vào Nam.
Thấy Kha hơi nghiêng mặt nhìn đi phía khác ông bà bát Thoại
biết chàng khóc. Bà bát Thoại cũng thấy ứ nước mắt, ông bát Thoại biết vậy nên
nói tiếp:
- Cậu mợ chúc cháu lên đường mạnh khỏe, hai năm nữa tổng tuyển
cử, cậu cháu mình lại gặp nhau.
Cụ ngoại không nghe thấy những lời đối đáp vừa qua, cụ sực nhớ
ra điều gì nói:
- Này con này, bà mới làm được bài thơ tặng cụ Hồ.
Cụ dặng hắng đọc:
Cụ Hồ lòng luống sầu bi,
Thương dân vả lại mình thì cao niên.
Lệnh sai quân xuống loa truyền,
Diệt Tây cho khắp dưới trên trong ngoài.
Cụ xưa vốn thuộc nhiều đoạn Hoàng Trừu, Thạch Sanh, Phạm Công
Cúc Hoa... Kha hết sức tán thưởng lời thơ của cụ. Chàng lấy ra mười tờ giấy năm
trăm, phân nửa số tiền chàng để dành từ mấy tháng nay, đặt vào tay cụ rồi nói lớn:
- Bà giữ số tiền này cho cháu rồi lúc nào cháu sắp lấy vợ thì
bà đứng ra lo cho cháu.
Cụ đếm giấy bạc rồi ngửng lên hồi Kha:
- Thế... thế giấy bạc này còn tiêu được ư hở con?
- Còn tiêu được bà ạ, nhưng bà nên đong thóc để và mua thêm lợn
nái, khi nào sắp cưới cháu thì bà bán đi thu tiền cũng vừa.
Cụ cười gật đầu cho là thằng cháu nói hợp lý.
Kha không muốn kéo dài cuộc họp mặt đau đớn này hơn nữa,
chàng giã từ bà ngoại, cậu, mợ, theo đường ra đồng thăm mộ cha mẹ trước khi về
thăm ông bà Hạo. Chàng dừng lại một phút trước nhà Vân. Hình ảnh Thi chiều nào
chạy tới ôm chàng và gục đầu lên vai, hình ảnh Vân... ồ, sao Vân không để cho
chàng gặp mặt lần cuối?!
Kha đã bước qua cổng, ồng bà Hạo tự trong nhà ra đón chàng.
Câu chuyện giữa chủ cháu thím cháu cố tình ngỡ ngàng để tránh lời biệt ly. Mãi
về sao ông Hạo mới chợt ngồi thẳng - bao giờ cũng vậy hễ sắp nói điều gì quan
trọng là ông có dáng điệu như vậy - rồi vươn cổ về phía Kha ông nói:
- Anh tính tôi có còn gì nữa để chúng bóc lột?
Câu nói ngắn gọn vừa đủ gợi cảnh kẻ đi người ở, vừa kín đáo
giữ cho đôi bên được bình tĩnh yên lòng. Kha nhìn ông Hạo trìu mến giữ nụ cười
kính cẩn như một lời đáp thầm lặng.
Quả vậy ông Hạo không còn gì để cộng sản bóc lột, ông là hình
ảnh của nước Việt Nam từ ngày lập quốc đến nay: đơn giản và chân thành! Yêu người
sống nhưng không bao giờ quên người chết, không bao giờ quên tổ tiên, mỗi ngày
giỗ là một nghi lễ... một nghi lễ tuy nghèo, tuy đơn sơ nhưng vẫn quá đầy đủ vì
nghi lễ cốt ở lòng thành, mà lòng thành của ông Hạo thì còn ai phủ nhận nổi.
ông quỳ trước bàn thờ như hệt tâm trạng con quỳ xuống đặt thuốc thang hay cơm
nước bên giường bệnh của cha mẹ. ông khán suýt soa đồng hóa vào lời khán để được
hầu hạ cha ông bên kia bờ linh thiêng, ông nghèo nàn thật đấy nhưng nghèo nàn
mà thường xuyên được giao cảm với ông cha thì có hề chi, đường trần đỡ vất vả
gian lao đi nhiều lắm. Kha muốn ôm lấy chú, nhưng chàng biết không bao giờ
chàng có thể làm vậy, cử chỉ đó tây quá sẽ là cung đàn lỗi nhịp với cái gì thuần
túy Việt Nam ở ông Hạo. Kha chăm chú nhìn ông, ông đã già quá, già trước tuổi,
không những da mặt nhăn nheo mà da cổ cũng nhăn nheo, khô xác và rám nắng.
Ông Hạo nhắc lại điềm tĩnh đến lầm lì:
- Phải, anh giáo tính tôi còn gì có nữa để chúng bóc lột.
-Vâng chú nói đúng!
Kha đứng dậy và nghĩ thầm tiếp: tiền bạc thì chú nghèo, tâm hồn
thì Việt Nam, tuổi thì đã trên năm mươi, cộng sản chúng không bao giờ phí thì
giờ giáo dục lại chú, thì giờ đó chúng dùng để nhuộm đỏ thế hệ trẻ có lợi cho
chúng hơn, hợp lý đối với chúng hơn. Thế hệ trẻ như Kha vào Nam chính là để duy
trì lấy phần ông Hạo trong lòng mình, duy trì lấy phần ông Hạo cho cả dân tộc.
CHƯƠNG BẢY
CƯỚP ĐOẠT
I
Tiếng còi xe bấm ở ngoài, Miên nhét vội lá thư của Kha vào ví
tay rồi đi ra. Chiếc xe du lịch hạng lớn sơn màu vàng xám và có hàng chữ cùng dấu
hiệu của thủy quân Mỹ đã đợi nàng trước cổng nhà thương. Nàng chỉ vừa kịp đóng
cửa, chiếc xe đã rồ máy vút về trại tạm trú của đồng bào di cư, phía ngoại ô Hải
Phòng, sát bên đường số 5. Tới cổng trại Miên xuống xe, có tiếng động miên man
chát chúa nhưng thân mật trên đỉnh đầu: đó là chiếc phi cơ trực thăng của Hải
quân Mỹ đương bay trên vùng trại phun thuốc ĐT xuống. Miên tung tăng tới khu Bệnh
viện của trại giữa vùng hương nồng thuốc sát trùng. Nàng mở ví nhìn lá thư của
Kha lần nữa. Một quân nhân Mỹ cao lênh khênh từ trong leu Y tế bước ra, trên
vai y có con vượn nhỏ, chân dài ngoẵng, lông đen đốm trắng. Người lính chào
Miên thân mật bằng tiếng Pháp, nàng đáp lại cũng bằng tiếng Pháp. Câu chuyện
giao dịch hàng ngày giữa nàng với vị bác sĩ quân y trẻ tuổi Mỹ cùng hai người
quân nhân giúp việc ông đều dùng tiếng Pháp làm trung gian.
- Bác sĩ đến chưa anh Larry?
- Bác sĩ đương chờ cô, mời cô vào.
Miên xuống làm việc tại nhà thương Hải Phòng được hơn hai
tháng thì bắt đầu cuộc di cư. Thoạt là hàng vạn người từ các ngả nội địa đổ về
Hải Phòng, tự dựng lấy lều bằng chiếu hay vải bạt la liệt khắp các đường phố. Cảnh
đó thê thảm và kêu gào cấp cứu như hệt cảnh năm đói - 1945 - dân chúng từ vùng
quê đổ về thành thị, tuy nhiên lần này người dân Hải Phòng cũng như bất cứ người
ngoại quốc nào - lính Pháp, lính Mỹ - đều nhận thấy trên những gương mặt thiểu
não đó còn gờn gợn một cái gì khó tả, một sự nhẫn nại mệt mỏi nhưng dai dẳng, một
nguồn nghị lực vừa bị phạt chém cho tan tác nhưng không chịu tàn lụi. Chính cái
vẻ đặc biệt đáng kính ấy đã khiến ủy Ban Di Cư Hải Phòng bỗng có bộ mặt một ủy
Ban Di Cư quốc tế với sự trực tiệp giúp đỡ của Hải Quân Hoa Kỳ, của cơ quan Ngoại
Viện Hoa Kỳ, của số lính Ma Rốc trong quân đội Liên Hiệp Pháp (những người lính
da đen này tới giúp việc dựng lều). Thế là trại tiếp cư đầu tiên được thành lập
làm nề nếp cho nhiều trại kế tục. Chỉ một tháng sau cả một khoảng đồng ruộng
mênh mông và tương đối khô ráo vùng ngoại ô Hải Phòng, bên lề quốc lộ số 5, biến
thành một thành phố lều, đó cũng là một thứ thành phố nằm trong một tình trạng
đặc biệt. Bác sĩ bệnh viện giám đốc Hải Phòng vốn biết đức tính tận tụy của
Miên bèn cử nàng đến khu Bệnh viện của trại này để phụ tá cho vị bác sĩ quân y
trẻ tuổi người Mỹ do Hạm Đội Thái Bình Dương (đậu ngoài khơi vịnh Hạ Long) cử
vào.
Đồng bào di cư ngày một tới đông, gặp khi lều mới chưa kịp dựng,
họ đành chen chúc trên trăm người trong một lều cũ, tuy vậy nhờ cách tổ chức đã
có nề nếp hợp lý nên sự tiếp tế không đến nỗi khó khăn cho lắm và về y tế thì
chỉ cần chịu khó, không biết mệt - hai đức tính này Miên có thừa - là có thể tuần
tự thăm nom, săn sóc bệnh nhân đến người cuối cùng đầy đủ và kỹ lưỡng từng
ngày. Đặt người đúng chỗ, công việc trôi nhẹ như con thuyền thuận dòng và xuôi
gió. Sự tận tâm săn sóc không biết mệt của Miên còn là hình ảnh của câu
"máu chảy ruột mềm" dưới con mắt quan sát đầy thiện cảm của vị bác sĩ
Mỹ. Thoạt mấy ngày đầu ông hỏi Miên: "Cô đã mệt chưa?" Rồi mấy ngày
sau câu hỏi trên chuyển thành: "Cô không mệt chứ?" Khi thì Miên trả lời
: "Thưa ông chưa ạ", khi thì là câu trả lời thầm lặng bằng nụ cười
minh mẫn và tia nhìn dịu dàng tỉnh táo.
Kha trên Hà Nội vẫn viết thư đều xuống cho nàng. Mặc dầu
trong thư Kha vẫn gọi nàng bằng "cô" và xưng "tôi", mặc dầu
lời lẽ trong thư tuyệt nhiên không hề đả động đến tinh yêu, nhưng vẫn có cái gì
bàng bạc mách cho nàng hay Kha đã là của nàng.
Cô Miên,
Chẳng còn bao nhiêu ngày nữa đến lượt Hà Nội bị tiếp thu.
Chuyến này tôi về thăm làng lần cuối rồi xuống Hải Phòng đợi cô cùng vào Nam.
Nhìn cảnh Hà Nội hoang vắng tôi lại nghĩ đến cô từng ao ước được thăm khu rừng
lau trên núi sáng, Bỉnh Di. Cô còn nhớ chứ, màu xanh cẩm thạch dạt dào hay màu
tím phớt vào mùa hoa, cả hai màu đều làm cho khu rừng xa đẹp một vẻ đẹp hoang
đường.
Tôi vẫn nghĩ rằng mọi người chúng ta ai cũng mang trong lòng
một khu rừng lau. Có kẻ chẳng bao giờ đạt tới, có kẻ đạt tới rồi hủy hoại chính
khu rừng đó như chuyện con chó ngu xuẩn thả mồi bắt bóng. Tin tức và hình ảnh đồng
bào khắp nơi vượt mọi gian lao để tới Hải Phòng đã được phổ biến khá sâu rộng tại
bất cứ nơi đâu còn là đất quốc gia đặc biệt những hình ảnh sỉ nhục cho ông Hồ
đã đăng tải trên các tạp chí lớn bên Âu châu và Mỹ Châu; đó là những hình ảnh
hàng ngàn người xuất hiện trên bãi bể Bùi Chu, hình ảnh họ kéo lê chiếc bè lao
vào lớp sóng bạc đầu, hình ảnh họ chen chúc trên chiếc bè mong manh, đàn bà phải
đứng bế con, ống chân ngâm dưới nước quên mỏi, nhưng phần người bên trên thì
rét run, đàn ông khom lưng cố chèo ra khơi cho kịp ngưỡng chuyến tầu đương thân
ái há mồm đợi đớp lấy họ rồi xả hết tốc lực ra khơi xa nữa đề chuyển họ sang những
vận tải lớn hơn...
Ông Hồ ngày nào quy tụ nơi mình tất cả nguyện vọng nồng nhiệt
quốc gia để đốt cháy thực dân trong lò lửa kháng chiến, hình ảnh buồn thảm đến
kinh hoàng của cuộc di cư ngày nay cho chúng ta thấy họ Hồ đã tự đốt khu rừng
lau mà y có diễm phúc đạt tới.
Thôi chúc cô mạnh, tôi sẽ xuống Hải Phòng một ngày gần đây.
Ký tên Kha.
Một chú bé giúp việc liên lạc trong trại tiếp cư bỗng vén cửa
lều ló đầu vào nói:
- Chị Miên có người nhà.
Như bị điện giật Miên vùng đứng dậy, không kịp xỏ chân vào guốc,
nàng chạy thẳng ra cửa lều:
-Anh Kha!
II
Ông Hạo hôm đó lom khom tiễn Kha ra tận đầu làng. Đúng lúc
hai chú cháu từ biệt, ai cũng ngại cất lời trước, thì ông Hạo bỗng chỉ người
đàn bà đương từ trong làng rảo bước ra, ông nói với Kha:
- Kia cô cả Dinh kìa, anh giáo!
Kha nhớ ngay đến cô nàng dâu góa của ông bà cả Bê, cô cũng là
người làng nên Kha biết, chàng vui vẻ chào và hỏi trước:
- Chị còn nhớ em không?
- Chú Kha!
- Em được biết chị đã xuống buôn bán ở Hải Phòng.
- Vâng hôm nay tôi về thăm cháu một lần nữa và chào thày u
tôi (chị lau nước mắt).
Kha lái sang chuyện khác:
- Mai em cũng xuống Hải Phòng chị ạ.
- Vậy a, chú định ở đâu?
- Nhà ở dưới đó giờ đây thiếu gì, em thuê một gian ở tạm cho
đến ngày xuống tàu hay lên phi cơ.
- Chú về ở nhà tôi. Nhà tôi thuê đã trả hết tháng, chủ nhà ở
lại mà chúng tôi thì vào Nam trong tuần này. Chú có thể ở nhà đó cho đến cuối
tháng, đằng nào tiền thuê tôi cũng trả rồi.
Nhân đương đà vui câu chuyện, Kha cúi chào ông Hạo:
- Thôi chú về, cháu đi.
Ông Hạo chớp mắt, "tuổi già hạt lệ như sương" ông
không khóc nhưng giọng nghẹn ngào:
- Chúc anh lên đường mạnh giỏi.
Cô cả Dinh thông cảm ngay tình cảnh độ bèn kéo tay Kha và nói
lớn:
- Thôi chị em mình đi ngay cho kịp chuyến xe điện sấp tới
kìa.
Kha xuống Hải Phòng tìm tới địa chỉ cô cả Dinh, nay đã là bà
hai Chí (tên người chồng mới), để va-li ở đó rồi đến nhà thương Hải Phòng ngay,
nơi đây người ta chỉ cho chàng đường tìm đến nơi Miên làm.
Sau tiếng reo vui thất thanh "Anh Kha" của Miên giữa
khoảng vắng lặng buổi trưa cuối xuân, hai luồng điện khao khát bất chợt gần
nhau, tiếng sét đòi được nổ, Kha giơ hai cánh tay đón Miên chạy tới, họ ôm ghì
lấy nhau. Chú bé liên lạc hốt hoảng bỏ đi, nhưng còn ngoái cổ lại nhìn thêm một
lần nữa chân vấp phải cọc lều.
Tâm hồn Kha vừa bị lửa bỏng biệt ly, giờ đây Kha chạy tới
Miên như chạy vào bóng cây và hơi nước (chàng chạy vào ẩn trong Eternel
Féminin). Chàng ôm thân hình hiền thục đó, chàng cúi xuống hôn nhẹ nhàng lên
trán nàng, chàng cúi xuống thấp hơn dè dặt tìm đôi môi Miên. Miên cũng chỉ để
cho chàng lướt trên đó một chút, nàng vội quay đi áp má lên vai chàng. Bàn tay
Kha lần vào một ngón tay Miên và nói khẽ bên tai nàng:
- Em còn nhớ, ngón tay này xưa có chiếc nhẫn saphir.
Miên ghì chặt lấy chàng, giọng nàng thanh như tiếng chim
nhưng thảng thốt nghẹn ngào như một linh hồn biết khóc:
- Khu rừng lau của em! Khu rừng lau của em!
III
Sau Hà Nội đến Hải Dương bị tiếp thu. Giờ đây đứng ở trại tiếp
cư Miên có thể nhìn thấy bức màn tre phía xa với sẳc cờ dựng lên đỏ màu máu, thấp
thoáng màu vàng sảo quyệt của ngôi sao chính giữa.
Thật ra Miên nào ngờ còn một lần bị cướp đoạt. Ba tuần lễ êm
đềm sống gần người yêu, Miên vẫn ở trong khu nhà thương Hải Phòng, sớm sớm xe Hải
Quân Mỹ tới đón đưa vào trại tiếp cư, Kha vẫn một mình ở căn nhà của vợ chồng
Chí để lại, nhưng chiều chiều hai người gặp nhau, đưa nhau đi ăn cơm, rồi tay
trong tay âu yếm, chàng đưa nàng về đến cổng nhà thương. Họ đã quyết định vào
Nam thì nói rõ với Hiển và ngày nghỉ phép mãn khóa của Hiển sẽ là ngày làm lễ
thành hôn của họ.
Mười một giờ trưa hôm đó Kha còn nằm dài trên giường, có tiếng
gõ cửa:
-Ai?
- Em!
Kha đứng dậy mở cửa cho Miên vào.
- Sao em đến được đây vào giờ này?
- Em được bác sĩ giám đốc bệnh viện cho nghỉ hôm nay để chuẩn
bị mai lên đường vào Nam.
- Ồ, bất ngờ nhỉ.
- Mai có chuyến tàu di cư, bệnh viện Hải Phòng được lệnh cho chuyển
trước vào Nam một số dụng cụ, bác sĩ giám đốc chỉ định em cùng mội số cô bạn nữa
đi theo những dụng cụ đó.
- Ai thay em ở trại tiếp cư?
- Hai nữ y tá khác.
- Thế thì làm sao anh xin được vé tàu để vào cùng em?
- Em định chiều nay xin thẳng điều đó với bác sĩ giám đốc. Em
nhận anh là ... người nhà.
- Liệu ông ta có chịu? Để em phải vật nài anh không thích.
- Thì em cũng ...
Tiếng gõ cửa làm Miên ngừng nói. Kha hơi ngơ ngác vì chàng có
quen ai ngoài Miên ở Hải Phòng này? Chàng cất tiếng:
- Ai, cứ vào.
Cánh cửa mở. Lời nói đương thành hình bỗng tan biến trong cổ
họng Miên, và đôi cổ tay Kha vô tình giật lên sững sờ: "Vân!" Kha buột
miệng:
- Vân xuống đây bao giờ?
Vân khẽ cúi chào Miên và đáp lời Kha:
- Em vừa mới xuống tới đây.
Lúc đó Kha mới nhận ra dứới chân Vân còn chiếc va-li màu cánh
gián.
Giác quan thứ sáu sui Vân nói thêm:
- Mẹ em vừa mệt nặng!
Nàng đã không nói dối.
- Thế bác đâu?
Giác quan thứ sáu giúp Vân đáp lững lờ:
- Mẹ em đã khá nhiều.
Nàng vẫn không hề nói dối.
Miên đã quyết định, nàng nói tới Kha:
- Nếu chiều nay em không lại, ấy là bác sĩ giám đốc cẩn thận
không ưng bảo đảm người lạ mặt, lúc đó anh nên ra tòa thị chính ...
Cũng với giác quan thứ sáu, Miên chỉ nói lửng có thế, Miên
không muốn nói rõ hơn trước sự hiện diện của Vân. Miên không muốn nói rõ hơn vì
nàng còn sẵn sàng chịu thêm một lần thử thách nữa, để Kha được tự do quyết định.
Nhưng cũng giác quan thứ sáu Vân đối phó nhẹ nhàng lại với
Miên, cốt làm nhẹ phần trách nhiệm cho Kha, nàng cúi xuống xách va-li nói với
Kha:
- Em tạt vào thăm anh một chút, giờ đây em phải trở về nhà cô
bạn. Chào anh.
Vân hướng về phía Miên. Đôi bên cùng nhìn nhau dịu dàng và lễ
độ giây lâu rồi
Vân khẽ cúi đầu:
- Chào chị.
Miên chỉ kịp đáp lại một câu "chào chị", Vân đã
xách va-li quay ra đường, đặt va-li xuống sàn một chiếc xích lô vừa đạp tới, bước
lên ngồi và nghiêng đầu về phía sau nói với người phu tên đường phố.
Miên nói với Kha:
- Em phải về nhà thương ngay, còn thu xếp bao nhiêu thứ.
Miên đi vút ra ngoài không chú ý lời nghe Kha dặn với. Nàng
lên một chiếc xích lô khác.
Kha không biết làm gì, cũng thay quần áo ra phố nhưng không
ăn trưa như mọi khi, mà đi chán rồi trở về nằm trên giường, không thấy đói. Sao
Vân lại xuất hiện bất ngờ thế được? Nàng xách va-li đến nhà người bạn nào? Hai
giờ chiều, Kha chắc là Miên hôm nay không làm việc ở trại tiếp cư nữa nên thuê
xe đến tìm nàng ở nhà thương Hải Phòng. Bè bạn nói là không biết nàng đi đâu.
Sự thực Miên đoán trước Kha thế nào cũng đến tìm mình tại đây
nên mọi công việc thu xếp nàng nhờ các bạn làm giúp, nàng tự ý đến trại tiếp cư
tiếp hai người bạn mới. Nàng nói với bác sĩ người Mỹ là nàng muốn giúp hai người
này cho thật quen việc.
Tình ý giữa Kha với Vân trước đây, rồi những ngày Vân về Hà Nội,
làm sao mà Miên không biết? Nàng nhất định nhận lần thử thách tối hậu này, nàng
nhất định để cho Kha hoàn toàn tự do.
Buổi chiều Kha đến nhà thương một lần nữa, Miên chưa về. Kha
hiểu Miên lắm! Khoảng sáu giờ sớm hôm sau, đoàn xe chở đồng bào di cư từ trường
tiểu học Ngô Quyền rần rần ngang qua nơi Kha ở đánh thức chàng dậy. Đó là chuyến
xe cuối cùng, chuyến đầu khởi hành từ ba giờ sáng. Kha vội vã trở dậy rửa mặt
đánh răng thay quần áo rồi thuê xe đến thẳng Vật Cách. Quá muộn rồi, đồng bào
đã được những chiếc tàu há mồm LCT chở ra khơi gần hết. Dụng cụ nhà thương và
nhân viên y tế được hưởng ưu tiên xuống chuyến tàu đầu tiên từ lúc trời chưa mờ
sáng.
Kha băn khoăn trở lại thành phố, lang thang giữa đám đông để
những âm thanh và màu sắc làm bận giúp tâm trí chàng. Cũng có thể để may ra gặp
Vân! Vì sao người con gái ấy, người đàn bà ấy, đột nhiên xuất hiện với chiếc
va-li màu nâu?
Kha rẽ vào một tiệm đông nhất phố Đông Kinh, ăn sáng. Rồi
chàng đi bộ về nhà, mở cửa bước vào. Một cánh thiếp trắng đập vào mắt chàng
trên nền gạch hoa. Chàng cúi vội xuống nhặt, và biết là của ai rồi.
Anh
"Chiều nay hồi bảy giờ anh chờ em ở cầu Ngự"
Em
CHƯƠNG TÁM
XIẾC HỮU MAI HỀ
I
Các ông Hoạch, Lễ, Thuật tuy là ba anh em ruột mà riêng ông Lễ
hoàn toàn thiếu tình mẫu tử chẳng khác gì đứa con côi. ông Lễ sinh sau ông Hoạch
một năm, lần đó bà cụ đẻ ngược xuýt nguy đến tính mệnh cho nên kể từ ngày được
sinh ra cho đến ngày khôn lớn, ông Lễ bị mẹ coi như kẻ tử thù. Cụ gọi ông là
"thằng bán nhà"! Ý chừng cụ còn muốn gán thêm cho ông Lễ một tội tiên
đoán nữa và cũng bất hiếu ngang với tội xuýt làm cụ thiệt mạng: tội bán nhà của
cha mẹ! Bảy năm sau có mang lần thứ ba được bốn tháng thì chồng mất, cụ đổ diệt
ngay lên đầu ông Lễ có cái số sát cha, cảnh mẹ góa con côi mà cụ phải chịu
chính là do hung tinh của "thằng bán nhà" mà ra. Nói vắn tắt hễ trong
gia đinh xảy ra điều gì không may, cụ đều quy ngay tội đó lên đầu "thằng
bán nhà".
Vì "thằng bán nhà" mà cụ buôn bán thua lỗ.
Vì "thằng bán nhà" mà thằng Cả (Hoạch) thi lận đận.
Hoạch đương học chữ nho nuôi ông nghè ông cống, thì Chính phủ Bảo hộ bãi bỏ trường
thi, Hoạch xoay sang học chữ Pháp, thi đến ba lần mới đỗ xong bằng cơ thủy để
lên trung học, mà rồi việc học cũng dở dang.
Vì "thằng bán nhà" mà thằng Ba (Thuật) ốm đau quặt
quẹo luôn.
Trong khi "thằng Cả" và "thằng Ba" được cụ
chăm nom cho cắp sách đến trường thì cụ làm thinh để mặc "thằng bán
nhà" (không bao giờ cụ gọi Lễ là thằng Hai) phải làm đủ các công việc vặt
như một anh đi ở đợ.
Phải ghi chú thêm là thực tình cụ không hề có ác ý hành hạ thể
xác "thằng bán nhà", cụ chỉ chưởi mắng và nói cho sướng miệng. Việc Lễ
sau này có đọc và viết được chữ quốc ngữ là do Lễ học lỏm vào những ngày giờ
nhàn rỗi.
Năm 1921, Hoạch hai mươi tuổi tham gia một phong trào cách mạng
mới manh nha, do một số nhà nho đã chịu ảnh hưởng tân học lãnh đạo. Lộ tung
tích, Hoạch bị thực dân bắt. Thương và lo cho con, cụ khóc đến một tháng giời
khản cả tiếng. Lẽ cố nhiên cụ lại đổ hết trách nhiệm về biến cố đó lên đầu
"thằng bán nhà". Cụ đay nghiến Lễ:
- Mày là đàn ông mà như con Phàn Lê Hoa xưa "chu huynh
sát phụ"! Mày làm khổ bà đến thế nào nữa, thằng kia?!
Lễ quả cũng oan như Phàn Lê Hoa. Một năm qua, Hoạch vẫn chưa
được thả, cụ càng dày vò Lễ, "thằng bán nhà chu huynh sát phụ". Tuy lớn
tuổi nhưng Lễ đã quen bị hắt hủi từ bé nên không hề có phản ứng gì trước những
lời buộc tội bất công của mẹ!
Mùa gặt tới, các cô gái xứ Bắc lũ iượt sang gặt thuê.
"Gia cầu vồng Yên thế, gái Nội Duệ Cầu Linh"! Lễ gặp một cô gái Nội
Duệ cầu Lim trong mùa gặt năm đó, đôi mắt sắc như dao cau, nụ cười tươi tắn với
hàm răng hạt huyền. Đôi bên yêu nhau. Cô gái tiếp tục sang các làng lân cận gặt
thuê, nhưng đôi bên vẫn giữ vững liên lạc và đêm đêm Lễ trốn mẹ lẻn ra khỏi nhà
đi tắt cánh đồng - có khi máy cánh đồng - dưới ánh trăng non, dưới ánh trăng rằm,
dưới ánh trăng suông, hay trong bóng tối chập chùng, tới nơi hò hẹn gặp người
yêu. Một tháng qua, mùa gặt hết, Lễ đánh bạo mang My - tên cô gái - về ra mắt mẹ,
rồi sau đó ngỏ ý xin mẹ cho phép lấy My làm vợ.
Cô gái xinh ròn và đảm đang xứ Bắc không vừa ý cụ chẳng hề lỗi
ở cô mà chỉ giản dị vì cô là người yêu của "thằng bán nhà". Cụ cương
quyết từ chối. Lễ thưa thêm với mẹ: My mồ côi cha mẹ từ sớm, anh trên chả có em
dưới thì không, My hiện ở với ông cậu, nếu mẹ ưng thì My về ở luôn với Lễ, My
theo không, mẹ không tốn kém gì hết (Lễ biết thân biết phận lắm!) Cụ càng lôi
đình thịnh nộ, cụ xỉa xói vào mặt Lễ mà cụ bảo là: "Mày lại trứng khôn hơn
vịt với bà à", cụ xỉa xói về phía cửa ngõ - nơi ban sáng My vào rồi ra- và
gọi My là tuồng "mèo mả gà đồng".
- Mày muốn theo con đĩ - cụ kết luận đanh thép - thì cuốn xéo
khỏi nhà bà!
Buổi sớm dậy, cụ đứng ờ giữa sân gọi đã mỏi miệng mà vẫn
không thấy "thằng bán nhà" thưa để còn theo cụ đi thăm đồng. Có sức lực
lại không lười, nó có bao giờ ngủ trưa như vậy? Cụ vào buồng, ổ rơm không có hắn
nằm, quần áo của nó không có chiếc nào vắt trên giây thép, cụ hiểu ngay cơ sự:
"thằng bán nhà" đã bỏ nhà ra đi từ đêm hôm qua. Thốt nhiên cụ cảm thấy
tâm hồn trống rỗng và lòng quặn đau y như ngày nào thằng Cả bị mật thám ập tới
bắt, cụ ôm mặt không kìm được hai tiếng "con ơi" thốt ra khỏi miệng.
My đã có mang với Lễ - (sinh ra Hiển sau này) - trong vụ gặt
vừa qua. Nàng quyết tình theo Lễ, hai người hẹn đúng ngày giờ cùng khăn gói trốn
nhà rồi đưa nhau ngược đường lên huyện Lập Thạch (Vĩnh Yên) dựng túp lều tranh
sinh sống tại làng Hạc Thủy, ngày ngày thức dậy từ sớm - mùa hè cũng như mùa
đông - đi vào rừng đốn củi làm than rồi đợi ngày phiên chợ - ngày bốn, ngày
chín - gánh than đi bán.
May sao Lễ vừa ra đi ít bữa thì Hoạch được tha về. Thoạt cụ
chắc mẩm Lễ sẽ quay lại, lần này cụ sẽ sẵn sàng thương cả hai (thằng bán nhà và
con mèo mả gà đồng) nhưng rồi tháy ngày một bặt tin thì cụ hiểu rằng con giun
xéo lắm cũng quằn và Lễ đã cương quyết ra đi không hẹn ngày về nữa.
Tám năm qua! Bây giờ cụ càng thấy thương Lễ. Đã có một chiều
ba mươi tết, xụp lễ trước bàn thờ ông bà ông vải đèn nến sáng choang, cụ khấn
xin hương hồn chồng run rủi cho Lễ quay trở về, sau đó cụ ra ngồi ngoài hiên thẫn
thờ nhìn về phía cửa ngõ rồi lơ đãng hỏi Hoạch: "Không biết thằng Hai bây
giờ nó ở đâu con nhỉ?"
Nỗi buồn chồng chất không có cách gì làm cho khuây khỏa được.
"Có thể là - cụ nghĩ - thằng Hai đã chết đường chết chợ rồi!"
Đã mấy lần cụ định giạm vợ cho Hoạch, Hoạch nhất định từ chối.
Không phải là ông còn hoạt động cách mạng nhưng hình ảnh cùm kẹp, tù đầy còn nóng
hổi trong óc, ông tưởng chừng lũ chó săn thực dân có thể xổ tới bất cứ lúc nào
bắt ông đi, ông không muốn dính líu vào cảnh vợ con làm khổ lấy đến người khác.
Tự nhiên sang năm 1928 ông xin mẹ hỏi cho cô con gái trưởng của cụ Huấn đạo
làng bên. Cụ Huấn nguyên là lãnh tụ của ông, sau đó cụ Huấn tiếp tục hoạt động
và trở thành một trong những lãnh tụ đảng Tân Việt đã ngầm tổ chức những cuộc
bãi khóa và những cuộc biểu tình vào dịp đám tang cụ Phan Chu Trinh mấy năm trước
đây. Cụ bị thực dân huyền chức, trở về quê sống túng bẩn và đau ốm luôn, ông Hoạch
xin làm rể cụ để thầy trò được gần nhau và do đó an ủi thầy đôi phần. Nhưng bệnh
tình cụ chợt nặng bất ngờ và mất ngay để lại cụ bà và hai cô gái. Cụ bà vốn là
trưởng nữ một vị án sát, sống đài các từ nhỏ, mặc dầu nhà túng bẩn cụ vẫn giữ
trọn vẹn nếp sống đúng với câu "giấy rách giữ láy lề". Tại làng có một
khu bãi rộng, bên Đạo thoạt cho xây tường giễu xung quanh dự định làm khu nghĩa
địa riêng cho những người Gia Tô giáo, sau đến mấy vị hưu quan thất tộc, an
táng vào đó, người làng bèn đặt cho cái tên là nghĩa địa Tây, ngầm ý chỉ những
người giàu sang và thế lực như Tây mới chôn ở nơi này. Có lần cụ bà lên Hà Nội
gặp một đám ma Tây, thấy đám đầm - vợ đầm - con mặc tuyền hàng đen trông nghiêm
trang hẳn, cụ ưng ý lắm. Vì thế khi cụ ông nằm xuống, cụ bà nhất định bán nốt mẫu
ruộng còn lại để lo ma chay thật linh đỉnh, thuê miếng đất trong "nghĩa địa
Tây" làm nơi an nghỉ ngàn thu cho cụ ông; ngày đưa đám, cụ và hai cô gái mặc
đồ đen tuyền để chở đại tang. Phải đợi hai năm sau đoạn tang, hai cô gái mới lần
lượt về nhà chồng.
Trở lại chuyện cụ bà sinh ra ba ông Hoạch, Lễ, Thuật, chẳng
bao giờ cụ được hưởng trọn niềm vui! Được thằng Cả chịu lấy vợ cho yên tề yên tất,
đến lượt thằng Ba đòi đi Nam Kỳ! Ngày bé, Thuật ốm đau quặt quẹo luôn, nhưng lớn
lên Thuật nuôi chí giang hồ muốn đi xa lập nghiệp. Năm 1930, Thuật vừa hai mươi
mốt tuổi, đúng năm Nguyễn Thái Học cùng mười hại đồng chí lên đoạn đầu đài đền
nợ nước ở rừng Yên Báy, thực dân mở một chiến dịch truy nã những người tình
nghi. Thuật chắc cũng có hoạt động chút ít bèn vịn vào cớ đó xin phép mẹ đi Nam
Kỳ lập nghiệp cho yên thân. Cụ vốn không quên trước đây Hoạch đã bị bắt, mà tin
tức bắt bớ ở các vùng lân cận làng nhà lãnh tụ Nguyễn Thái Học thì hằng ngày cụ
được nghe đồn, cụ đành ưng chọ con xa mình còn hơn ở lại mà có thể bị tù đày
như thằng Cả. Nhưng khi Thuật đi rồi cụ mới hối, cụ thấy lòng đau quặn, cụ
thương mình giờ đây gần như cô độc, chỉ còn vợ chồng thằng Cả ở nhà. Cụ thương
thằng Ba và càng nghĩ càng thương thằng Hai tha phương cầu thực. Một năm... hai
năm... cụ sống lòng nóng ruột, vì thằng Ba ra đi cũng biệt vô âm tín nốt.
Sang đến năm thứ ba, trời, cụ mới nhận được tin thằng Ba.
Trong lá thư dài đó Thuật kể lại với mẹ là năm đầu tới Sài
Gòn ít bữa, cậu xin được học bổng vào trường Mỹ Thuật Đồ Gốm Biên Hòa; năm sau
cậu bỏ trường Mỹ Thuật Biên Hòa, vào giúp việc một hãng thầu chuyên cung cấp vật
liệu cho nhà binh Pháp, kiếm được khá nhiều hoa hồng, cậu viết thư này về xin mẹ
cho phép thành hôn với một cô gái cũng là con một gia đình người Bắc vào lập
nghiệp trong này trước cậu chừng vài năm. Cuối thư Thuật tha thiết nhắc đến anh
Hai và hỏi mẹ đã tìm ra tung tích anh ở đâu chưa?
Lời nhắc của thằng Ba chẳng khác mũi dao lá lúa khơi trúng vết
thương khép hờ trong tâm can cụ. Tiếng thở dài của cụ y hệt lời than thầm:
"Hai, con bỏ mẹ ra đi biệt tích vậy sao đành, con?" Kèm theo với bức
thư có chiếc hình nhỏ của "con bé". Cụ nheo mắt ngắm nghía bức hình.
"Con bé" không chít khăn như gái Bắc mà lại búi tóc củ hành phía sau
theo kiểu gái Nam, khuôn mặt sáng sủa, xinh xắn. Cụ bảo Hoạch biên thư vào cho
Thuật hay là cụ ưng cho Thuật lấy con bé Bắc đó. Cụ chớp chớp mắt để chạy trốn
một ý nghĩa vừa thoáng hiện thành câu hỏi thầm "sao trước đây mình lại chẳng
ưng cho thằng Hai lấy con bé mồ côi kia?"
Cụ ốm! Bệnh tình xem ra khó qua khỏi. Cụ thấy hiển hiện rạch
ròi trong trí hình ảnh Lễ ngày nào cặm cụi quét sân, quét nhà, dọn dẹp vườn tược,
theo cụ ra đồng rồi làm theo lời cụ sai: cày bừa, gieo mạ, gặt lúa, gánh lúa.
Có một buổi chiều ánh hoàng hôn bừng sáng, bóng Lễ gánh hai quang lúa nặng đổ về
phía sau. Thấy Lễ rảo bước quá nhanh theo nhịp kĩu kịt của đòn gánh, cụ quát :
"Đi gì mà như đi ăn cướp ấy, thằng bán nhà!" Ngày nay nhớ lại, cụ bỗng
thấy bóng hiếu hạnh của Lễ lớn lên rất nhanh thành khoảng rợp tựa như cỏ cái lọng
lớn che cho cụ. Cụ ứa nước mắt gọi thầm: "Hai đâu, con ơi"!
Liệu chừng mẹ khó lòng qua khỏi kỳ này, Hoạch đánh điện gọi
em. Vợ chồng Thuật về vừa kịp lễ phát tang. Thuật tháo vát hơn anh, lập tức cho
đăng nhật trinh nhân danh Hoạch:
" Em Lễ
Mẹ đã mất, em về ngay
Anh: Dương minh Hoạch"
Tại thủ đô Hà Nội ngày đó có ba tờ nhật báo lớn, ông Thuật
cho đăng lời rao suốt một tuần ròng trên cả ba tờ báo. ông còn ở lại quê nhà
thêm một tuần nữa. vẫn biệt vô ấm tín!
Cùng vợ trở vô Sài Gòn, nỗi lòng canh cánh! Ngày anh Hai bỏ
nhà ra đi, ông có nhà nhưng tuổi còn con quá - mới mười ba - ông không thắc mắc
gì. Đôi khi có nghe mẹ nhắc đến "thằng Hai , cậu bé Thuật chỉ coi như anh
Hai mình đi làm ăn xa đâu chưa về. Dời nơi chôn rau cắt rốn vào Nam sinh cơ lập
nghiệp, ông đinh ninh làm trai hữu chí cánh thành và tự hứa nếu không làm nên lớn
quyết chết gửi thây nơi đồng xa đất lạ chứ chẳng báo tin cho ai hay. Tuy gan thật
nhưng nhiều khi lòng quê xúc động nghĩ tới quê hương là nghĩ tới người thân,
ông ôn lại cảnh anh Hai xưa bị mẹ hắt hủi đến phải bỏ nhà ra đi, lòng vô cùng
thương cảm. ông càng làm ăn khá càng thấy thương anh - phú quí sinh lễ nghĩa! Bức
thư đầu tiên gửi về cho cha mẹ sau hai năm xa cách, ông có tha thiết nhắc đến
anh Hai là vì thế.
Sau khi thụ tang mẹ, vợ chồng ông Thuật trở vô Sài Gòn được một
năm thì bà Thuật sảy thai ba tháng, ông cho đó là "vận áo xám". Nhưng
ngay sau đó ông trúng mối cao su cao giá kiếm được món lời nửa triệu bạc, bèn đứng
ra mở hãng xuất nhập cảng riêng.
Được phần tài lộc kém phần tử tức, bà Thuật mang thai lần thứ
hai đến tháng thứ bảy lại bị sảy.
Ồng Hoạch được tin em trong Nam làm ăn phát đạt lớn bèn bán hết
nhà cửa ruộng nương ở quê nhà rồi mang vợ con vào Sài Gòn hùn vốn với em. ồng
bà Hoạch khi đó đã sinh hạ được ba con, hai cô gái đầu: Hoan, Mỹ và cậu trai
út, Thọ. Gia đình ông Hoạch vào tới nơi, ông Thuật tậu thêm một căn nhà riêng ở
phố vắng để hai anh em cùng ở. Đó là căn nhà hai tầng số 30 đường H. Căn nhà rộng
tám thước này được sửa lại: phòng ngoài cùng dưới nhà là phòng khách chung cho
hai gia đình; phòng ngoài cùng trên gác là phòng học chung cho lũ trẻ, còn phân
nửa bên trong là những phòng ăn ngủ được ngăn làm hai với những cửa thông
ngang. Như vậy hai gia đĩnh tuy chung mà vẫn riêng. Ngày ngày tới giờ làm việc
hai ông đến hãng tại đường Catinat, bàn giấy đặt ở đó.
Ông Hoạch nhận được lá thư của người trong họ cho hay
"nghe đâu Hai Lễ từ ngày bỏ nhà ra đi vẫn cùng vợ ở một làng gần núi thuộc
huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Yên - làng Hạc Thủy thì phải - cách làng nhà chừng bốn
mươi cây số". Thế là tiện một dịp vừa kinh doanh, vừa về làng trông nom việc
cải táng mẹ cho yên chí, vừa đi tìm tiểu gia đình anh Hai. Lẽ ra ông Thuật định
tìm tiểu gia đình anh Hai trước đã, nhưng vì công việc kinh doanh quá bộn bề
nên ông tháo vát cho cải táng trước. Khi hai việc trên đã xong xuôi ông mới
thong dong tìm hỏi đến làng Hạc Thủy. Tới nơi hay tin anh và chị dâu đã mất chỉ
còn lại ba đứa cháu mồ côi là Hiển, Miên, Mẫn ở với bà hàng xóm nhân đức: Bà Quản
Mão. ông đã đưa Hiển, Miên ra trọ học ngoài Hà Nội và mang Mẫn vào Nam nuôi cho
ăn học. Mẫn khi đó lên tám. Đó là vào năm 1935, năm sau bà Thuật lại có mang, lần
này cái thai đậu, bà sinh hạ ra Lê rồi bốn năm sau, Nhâm. Như vậy là có nếp có
tẻ đủ cả.
Khoảng từ 1946 trở đi vì toàn quốc kháng chiến, tin tức Nam Bắc
bị cắt đứt, Hiển, Miên không được biết là tới 1949, việc buôn bán đang phát đạt
thì ông Thuật bị bạo bệnh mất. Mẫn vừa đỗ xong Trung học, không muốn nhờ vả người
thím góa bụa, bèn xin ra ở riêng, đi dạy học tư sống đời một thanh niên tự lập.
Khi đó Lê mười bốn, Nhâm lên mười. Bà Thuật tiếp tục cùng anh chồng điều khiển
hãng. Mẹ góa con côi lại giầu có, lẽ cố nhiên bà thương chiều hai con rất mực,
nhất là Nhâm, cậu con giai độc nhất nối dõi mai sau!
Lê ngủ giường riêng phòng, còn Nhâm lên mười tuy đã lớn nhưng
vẫn được ngủ cùng giường với mẹ. Bà Thuật mỗi lần ngắm con giai lại khen đôi mắt
con sáng, vừng trán con rộng và nói nựng: "Con giai má chỉ hăm bốn hăm
nhăm đã ra bác sĩ nhé".
Ông Thuật mất chưa đầy một năm, đến lượt bà Thuật thụ bệnh,
cũng là thứ bạo bệnh bộc phát bất ngờ như trường hợp ông Thuật. Ngày thứ ba sau
khi đã được bác sỹ đến tận nhà thăm mạch và tiêm thuốc, bệnh chuyển sang rức đầu
như có búa máy bổ vào óc theo nhịp đập của trái tim. Tiếng bà rên khẽ nghe thê
thảm như tiếng con vật đã bị cắt tiết, một tiếng động nhẹ cũng làm bà co rúm
người lại vì bà có cảm tưởng cả một tảng đá lớn vừa từ triền dốc cao lao tới
nghiền đập nát đầu bà.
Buổi tối Lê dắt Nhâm sang buồng nàng, dỗ khẽ:
- Tối nay em ngủ với chị, má mệt.
Nhâm lẳng lặng lên nằm bên Lê im thin thít, nửa giờ sau Nhâm
đã ngáy khe khẽ. Trẻ con, kể cả những trẻ nhỏ tuổi mới lên một lên hai, đều được
trời phú cho thứ linh tính đặc biệt biết lúc nào có gia biến, ngoan ngoãn bảo
sao nghe vậy. Chính thái độ cam chịu đó làm đau lòng người lớn. Bà Thuật đau
lòng, bà quằn quại thân thể như muốn tự vắt kiệt cho chảy thành suối yêu thương
trút sang tràn ngập hai đứa trẻ. Đó là thứ tinh yêu thương tối hậu của con người
biết rằng mình sắp lìa cõi thế. Khoảng bốn giờ sáng, Nhâm sực tỉnh ngồi nhỏm dậy.
Lê vẫn ngủ chập chờn, nàng tỉnh ngay và cũng dậy theo để dỗ em. Ánh ngọn đèn
đêm đầu giường rất lù mù lúc chập tối, giờ đây sáng quắc. Nàng ôm em vào lòng
và khó chịu vì ánh đèn sáng quá, ánh đèn mà lúc đó nàng thấy y hệt như cái nhìn
soi mói nhưng điềm đạm, lạnh lùng, phi nhân tính của một kẻ mất hết cảm xúc trước
những thống khổ mênh mông và âm thầm của người đời. Lê cúi nhìn khuôn mặt em
thoạt ngơ ngác dưới ánh đèn đó, bỗng môi dưới của Nhâm căng ra, môi trên dúm lại,
hai mi mắt khép xuống, hai riềm lông mi đổ bóng kéo dài tới chấm giữa sống mũi,
cả khuôn mặt Nhâm méo sệch với tiếng hỏi ảo não thấu hồn Lê: "Má
đâu?"
Còn đâu cảnh má ngồi ngắm Nhâm khen đôi mắt sáng, khen vầng
trán rộng và nói nựng: "Con giai má chỉ hăm bốn hăm nhăm đã ra bác sĩ
nhé". Giây phú êm đềm đó giờ đây Lê thấy xa xôi như hình ảnh từ kiếp nào
còn rớt lại trong ký ức. Lê mới mười bốn, Lê chưa biết ví von, nhưng sau này lớn
lên mỗi khi nhớ lại Lê thấy tâm trạng mình lúc đó như tâm trạng của người đi tầu
ra khơi gặp bão biển, trong khi con tầu nhào lộn theo đường quặn xoáy của sóng
biển thì hình ảnh đất liền mới dời cách mấy ngày trước đây chỉ còn là một hình ảnh
đẹp muôn vàn xa xôi chẳng còn hy vọng gì gặp lại được nữa.
Lê ôm lấy em, kéo em nằm xuống, vừa âu yếm xoa lưng vừa đưa mắt
nhìn về căn phòng im lìm của mẹ. Bỗng Lê hốt hoảng bỏ em đấy tung màn chui ra,
chạy thẳng vào buồng.
Bà Thuật miệng há hốc, đôi mắt nửa nhắm nửa mở, đầu ngoẹo chệch
khỏi gối, tóc xõa ra bốn bề.
Tiếng Lê hét lên trong khoảng đêm khuya ngày rạng:
- Bác ơi, má cháu chết rồi!
II
Trước đây hồi còn ở Hà Nội rồi Hải Phòng Miên có nhận được
thư Hiển tường thuật vắn tắt những cuộc gặp gỡ của chàng với họ hàng thân
thích, nhưng phải đợi đến lần vào Nam này Miên mới rõ nguyên ủy về cha mẹ về
chú bác như trên.
Khi chưa đến Sài Gòn, Miên nghĩ đến Mẫn là nghĩ đến Mẫn là
chú em út theo ông chú vào Nam từ thuở còn nhỏ xíu. Miên còn nhớ trước khi vào
Nam, Hiển hăm hở nói với nàng: "Thế nào vào tới nơi anh cũng đi tìm cho bằng
được thằng chú Mẫn". Miên thông cảm hết lòng trìu mến của anh khi thốt ra
ba chữ cuối "thằng chú Mẫn". Và chính lúc đó Miên đã mỉm cười để tự
riễu vì nàng chợt cảm thấy mình như muốn ghen tị với Mẫn khi thấy con sông
thương yêu của anh chuyển dòng về phương Nam.
Từ lúc Miên xuống tầu nhỏ rồi lên tầu lớn vào Nam để lại trên
đất cảng Kha và Vân, Miên cảm thấy nàng như một thân cây bị chặt cụt gần hết chỉ
còn nguyên một cành, bao nhiêu nhựa cây dâng lên tự các rễ cái rễ con đổ xô vào
con đường độc đạo ấy mà trổ ra thành hoa thành lá. Cành duy nhất còn lại đó
chính là Mẫn, mà hoa lá muốn trổ ra là bản năng làm chị làm mẹ của Miên. Vào đến
Sài Gòn "chú em út nhỏ xíu" trong trí tưởnng tượng của Miên đã là
chàng trai lớn quá cỡ, đã đỗ tú tài đã từng đi dạy học tư sống cuộc đời một
thanh niên tự lập. Mẫn lại vừa thi đậu một học bổng đi Pháp học Thuốc vào tháng
tới.
Miên nói với Mẫn:
- Dầu sao chị cũng gặp em trước ngày em đi Pháp, số chị em
mình cứ phải xa nhau thế này sao? Em đi Pháp chuyến này học xong Thuốc cũng phải
ít nhất bảy năm nữa mới về.
Mẫn để mặc Miên nắm lấy cổ tay mình, dịu dàng an ủi chị:
- Càng hay, ngày đó nước nhà đã thống nhất rồi chị ạ. Anh Hiển
cũng sắp mãn khóa, chẳng hiểu anh sẽ được chỉ định đi đâu. Cô Lê nhất định mời
chị về ờ cùng nhà cho có chị có em. Từ nay cho đến ngày đi Pháp em cũng về ở
bên chị, chị bằng lòng chứ?
Miên chỉ biết rơm rớm nước mắt gật đầu, mãi mới bịn rịn buông
tay Mẫn ra.
Lợi dụng mấy ngày nghỉ phép Miên sống gần gũi với hai bác
(ông bà Hoạch) cùng các anh chị Hoan, Mỹ, Thọ. Lâu lắm... đã từ lâu lắm, ngoài
miền Bắc, hai anh em nàng sống trong cảnh côi cút. Miên thực không ngờ lại có
ngày đoàn tụ ruột thịt như thế này.
Một buổi chiều làm giường cho Miên xong Lê nói:
- Chị ạ từ ngày bác tạm nhượng lại hãng xuất nhập cảng của
gia đình cho người bạn buôn tin cẩn, em cũng thấy bác làm như thế là phải, bác
đã già rồi bác cần hưởng nhàn, nhưng em muốn tự đứng ra điều khiển quá ngặt vì
còn nhỏ tuổi...
- Năm nay em bao nhiêu rồi nhĩ- Miên hỏi.
- Em mới hai mươi chị a.
- Giờ đây bác chỉ hùn cổ phần để chia lãi với người ta?
- Vâng cổ phần của bác và cổ phần của em. Vì vậy em mới xin
vào Viễn Đông Ngân Hàng làm ở ngành xuất nhập cảng. Em đâu cần số lương, trong
thời gian làm ở đấy em chỉ cốt nghiên cứu học hỏi ngay tại chỗ cách thức cùng
mánh lới giao dịch giữa ngân hàng với các nhà xuất nhập cảng để chuẩn bị một ngày
gần đây em đứng ra điều khiển lấy hãng, nối chí ba má em.
Trong khi Lê nói, Miên âu yếm ngắm vẻ đẹp sắc sảo của Lê. Tóc
Lê rủ xuống ngang vai thành từng boucles anglaises làm nổi bật khuôn mặt trái
soan, nước da trắng mát của Lê, làm nổi bật đôi mắt đen bóng của nàng, đôi mắt
như muốn chào đón, như muốn tỏ tình với cả cuộc đời, đôi lông mày dài của nàng
sửa cho nhỏ cong màu nâu, nước da trắng của Lê càng làm cho đường cong màu nâu
đó thêm nũng nịu. Miên chợt hỏi:
- Ồ thế em làm ở Viễn Đông Ngân Hàng em có biết anh Tân?
Khuôn mặt Lê chợt bẽn lẽn:
- Anh làm chủ sự ngành xuất nhập cảng , em làm việc dưới quyền
ảnh.
Miên vội vã nắm chặt lấy hai cổ tay Lê:
- Anh Tân là bạn thân lắm của anh Hiển và của chị...
Lê đã gật đầu ngắt lời:
- Em có được ảnh cho biết.
Miên hơi suy nghĩ một giây nhưng nàng vẫn tiếp:
- Anh Tân đối với em tốt chứ?
Lê gật đầu:
- Anh Tân tốt với tất cả mọi người.
"Nhất định mình sẽ tác thành Lê cho anh Tân"- Miên
nghĩ thầm thế rồi nói với Lê:
- Chắc là anh Tân không làm cho ngân hàng lâu đâu, đầu niên học
tới anh trở lại học thuốc.
Lê gật đầu:
- Điều đó anh Tân có nói với em.
Lần này thì Miên sững sờ thật. Nàng bỗng mỉm cười sung sướng
buông tay Lê ra và nghĩ thầm: "Thế thì họ còn cần gì đến bà mối nữa".
Miên đã lần lượt gặp lại các bạn cũ ở Hà Nội xưa: Tân, Khóa,
Lãng, Luận. Nàng gặp cả Khiết mới đi dự hội nghị Á Phi ở Bangdoeng về. Chỉ có
Kha là còn ở lại Hải Phòng.
Khi Vân đột nhiên xuất hiện trước ngưỡng cửa, nhìn vẻ Kha sững
sờ Miên đã hiểu người đàn bà đó từng thu hút trọn vẹn tâm tư Kha. Lúc đó Vân và
Miên đối diện nhìn nhau khá lâu, hình như đôi bên có cúi chào nhau thì phải.
Miên cũng không nhớ rõ nàng đã nhìn Vân ra sao, chỉ biết bản tính hiền hậu dịu
dàng, ít khi Miên có thái độ sỗ sàng như vậy. Miên cũng đã tự hỏi chẳng biết có
nên mệnh danh Vân là "người đàn bà tai ác", vì sự thực qua đôi mắt
trên khuôn mặt dễ thương của Vân có phản chiếu nhiều nỗi niềm u uẩn.
Miên tự vấn lương tâm nhiều hơn, chắc chắn Miên sẽ chẳng có
lý do gì oán trách người đàn bà đó.
Miên đã bắt đầu tới bệnh viện Bình Dân làm việc như thường.
Vô tình Miên đặc biệt chú ý đến những câu chuyện nhàn rỗi giữa các cô bạn đã đứng
tuổi và chưa chồng. "Tao thì ly dị mày, Ngọc ơi!" "Ê này hai con
ranh, chúng mày làm gì mà rập rìu như mèo đi với mèo thế?" "Con nỡm,
sao mày cứ thở dài sườn sượt ra thế? - Gái thở dài giai nằm sấp mà!" Có lần
nhìn một người đàn bà có mang bụng còn nhỏ mà đã mặc áo blouse, một cô bạn Miên
bĩu môi dè bỉu: "Ra cái điều ta chửa với chồng ta đây!" Miên thấy rõ
ràng họ thường xuyên bị ám ảnh bởi cảnh lứa đôi. Có cô bạn thực thà tâm sự với
Miên là trước đây cô thích giữ collection thiếp mời dự cưới, nhưng đã một năm
qua, mỗi lần nhận thiếp báo hỉ là cô vứt ngay vào sọt rác vì ... "tức quá
đi!".
Những câu chuyện đó kích thích Miên khiến nàng không thể không
nghĩ đến Kha, nàng ưa ôn lại cảnh hôm nào trước lều Y Tế Kha ôm nàng lần đầu,
và đôi môi chàng lướt nhẹ lên đôi môi nàng. Một lần trong đêm khuya Miên đã ghì
chặt chiếc gối, nhắm mắt lại, hoàn toàn giao phó. Trong thâm tâm Miên hằng nghĩ
nàng đã yêu Kha đã gắn bó với Kha tự kiếp nào.
Buổi chiều hôm đó về muộn, trong khi chờ xe buýt, Miên bỗng
chú ý đến một cô gái trẻ, y phục diêm dúa. Cô vừa ra cổng thì chồng chạy tới
kéo cô lại. Đôi vợ chồng này chắc là vừa cãi nhau trong nhà. Người vợ trẻ đưa mắt
ngượng nghịu nhìn Miên rồi gắt sẵng với chồng: "ủa làm chi mà kỳ zậy".
Người chồng vẫn cương quyết kéo cô vợ vào khiến Miên cảm thấy bất bình, nàng
nghĩ thầm :"Hạng đàn ông đó chắc ban đêm họ chỉ nghĩ đến cái giường, lẽ
nào đàn bà chịu ô nhục đến thế". Xe buýt tới, đường 20 đã lên đèn, trời âm
u như những ngày sang thu miền Bắc. Miên về tới nhà trời bắt đầu mưa, mưa bụi.
Mẫn, Lê và Nhâm đã dọn cơm, mấy chị em quây quần quanh bàn vừa ăn vừa nhìn mưa
rơi bên ngoài làm nhòe mấy ngọn đèn đường gần đấy. Miên bỗng cảm thấy mưa bay
như một nỗi buồn phảng phát chua cay dây dưa từ kiếp nào còn rớt lại và còn dây
dưa như vậy không biết đến kiếp nào nữa mới dứt.
Mẫn đặc biệt chú ý đến dáng mệt mỏi của Miên tối hôm đó. Lúc
gần đi ngủ, Mẫn nói:
- Chị Miên ạ, để em pha một chậu nước thật nóng chị rửa mặt
cho khoan khoái rồi hãy lên giường nằm,
Miên bằng lòng, Mần đặt ấm nước lên bếp gaz ngay...
Miên gục mặt vào chậu nước, màu sứ trắng tinh. Nước nóng ran
chạm vào môi làm Miên tê dại rùng mình tưởng như môi Kha vừa chạm tới môi nàng.
Tờ Văn Hóa bộ mới số I đã xuất hiện ở Sài Gòn vắng tên Kha-
Miên chú ý đến điều đó. Ngòi bút phóng sự của Lãng biến tính ghi những mẩu kịch
ngắn có tính cách chủ quan tổng hợp, dưới nhan đề SÂN KHẤU LỚN mà đài phát
thanh quốc gia không bỏ lỡ dịp cho diễn đi diễn lại nhiều lần trong ngày với đầy
đủ lời đối thoại của các vai, lời giải thích, cùng những tiếng động, hay nhạc đệm
cần thiết.
Đã ngồi xuống mép giường, Miên với tay vặn radio, nàng vui mừng
bắt gặp lời giới thiệu SÂN KHẨU LỚN và nàng nằm dài vô cùng thoải mái trên giường,
lắng nghe giọng nói mơn man nặng tâm tình, như giọng Kha ngày nào trước lều Y Tế:
Màn kéo lên từ ngày thứ bảy của Thượng Đế. Và ta bị ném lên
sân khấu khi cất tiếng khóc chào đời.
Vở kịch dài đã khởi đầu và chưa biết bao giờ chấm dứt. Bi ư?-
Không hẳn! Lạc ư?
- Cũng không hẳn! Chỉ biết rằng có tiếng khóc rũ rượi, lại có
tiếng cười nức nở.
Ta xem người và người xem ta trên cái sân khấu lớn này để
chau chuốt vai trò của nhau há chẳng là một điều ích lợi ư?
Những mẩu kịch không thành kịch thẳng thắn đơn sơ nhưng chứa
đủ tính chất của sân khấu lớn: cười, khóc, giận hờn, yêu thương, tủi hổ...
HAI CHA CON GẶP NHAU TRÊN ĐƯỜNG CATINAT
(Con là một cán bộ Việt Cộng vừa vào, sau chuyến đô thành
khói lửa).
CON - Thày!
CHA- Ồ...
CON - Cả đây, Thày không nhận ra con?
CHA - Nhận làm sao được.
CON- Con bị sốt rét, gầy quá, về đến quê mới biết gia đinh di
cư. Con phải tìm cách trốn mãi mới đi được. Bác Cả nhắn con nói với thày cứ yên
tâm làm ăn. Bác muốn đi lắm nhưng không được vì gia đinh quá đông
CHA - Thế à
CON - Con rất hối hận để gia đình buồn phiền vì con, thày
cũng hiểu rằng ai ở ngoài ấy chẳng phải làm như vậy.
CHA- Ờ...
CON - Con nhớ thương thày, đẻ, bà và các em quá. Các em chắc
lớn lắm phải không thày?
CHA- Ừ .
CON - Con nghe tin thím Ba nhà ta thuê được căn nhà lá ỏ' gần
Chợ Lớn.
CHA- Ừ...
CON - Ở ngoài nghe tin đánh nhau trong này con lo cho gia
đình quá. Vào đến đây gặp thày, trông thấy phố xá tự do yên tĩnh, con mới yên
tâm.
CHA - Ở ngoài đó chúng nói gì?
CON - Chúng bảo thành phố Sài Gòn tan hoang hàng vạn người chết.
CHA - Láo! Đánh nhau có vài khu nhỏ thôi.
CON - Nhà ta có gần khu đánh nhau không?
CHA - Nhà ta ở giữa khu đánh nhau.
CON - Có việc gì không hở thày?
CHA - Nhà cháy hết.
CON - Có ai việc gì không?
CHA- Con Yến chết...
CON- Con Yến chết... Còn thằng Lân?
CHA - Cũng chết!
CON - Cũng chết... Bà? Đẻ?
CHA - Bà cũng chết, đẻ què chân.
CON - Trời! ... Thế mà tụi chúng ở ngoài ấy vỗ bụng cười được.
Quân khốn nạn.
CHA - Chính chúng nó dự phần gây rối.
CON - Bây giờ thày ở đâu?
CHA - Thày ở đất tự do và cách mạng!
CON - Đất tự do và cách mạng!
(Hai người đến công trường Hòa Bình. Trời cao vòi vọi và xanh
thẳm)
Miên tưởng tượng theo lời đối thoại cảnh đô thành khói lửa vừa
qua mà Lãng được chứng kiến, lúc đó nàng còn ờ Hải Phòng. Nghĩ đến Hải Phòng
Miên hốt hoảng trở lại hình ảnh Kha. "Trời ơi - Miên nghĩ thầm - chuyến tầu
người con vào đây cũng gần là chuyến tầu cuối rồi còn gì. Chẳng biết ..."
Giọng radio tiếp tục. SÂN KHẤU LỚN đã chuyển sang mẩu kịch
khác.
MƯA
(Hai đứa trẻ ngồi dưới mái hiên nhà lớn gần bờ sông một đêm
mưa lớn. Em trai miền Nam và em gái miền Bắc)
TRAI- Lạnh quá...
GÁI - Thế mà lạnh? Mày tồi thật.
TRAI - Mày không lạnh sao?
GÁI - Mày chưa ở ngoài Bắc mày không biết. Ngoài tao mà rét
thì khỏi phải nói.
TRAI - Ngoài ấy lạnh lắm hả?
GÁI - Trong này chưa bao giờ lạnh bằng một phần trăm ngoài ấy..
TRAI- Dữ.
GÁI - Rét mà nằm ổ rơm thì ... phải là thú.
TRAI - Sạo mày không ở ngoải, sướng không?
GÁI - Mốc sịt, bố tao đi dân công chết rét dọc đường, mẹ tao
chết từ năm đói, tao không sống được phải bò vào đây, mày nói dễ nghe gớm.
TRAI - Đi dân công là cái gì?
GÁI - Mày ngu lắm em ạ, đi dân công là đi phu không công biết
chưa?
TRAI - Tao biết rồi, tía tao dạo nào Tây nó cũng bắt đi, về ốm
rồi chết đó...
GÁI - Thế má mày?
TRAI- Má tao cướp về làng nó giết chết.
GÁI - Tao tưởng chỉ ngoài tao khổ hóa ra đâu cũng thế.
TRAI- Trời! Dưới tao cực không nói được.
(Im lặng)
GÁI - Bao giờ mình về làng được? Làng mày còn gần, làng tao
xa quá. Đi tầu thủy mênh mông mấy ngày liền.
TRAI - Tao cũng mong về làng, tao còn thằng em đi ở đợ dưới
đó.
GÁI - Mày nhớ em mày không?
TRAI- ờ... ờ... tao quên mất.
GÁI - Tao mà có em thì tao yêu ghê lắm
TRAI- Ờ..Ờ..
GÁI - Mày lên mấy?
TRAI - Mười ba.
GÁI - Tao mười ba tuổi tây, mười bốn tuổi ta. Hay mày làm em
tao.
TRAI - Mày nói nghe dễ ợt.
GÁI - Mày không muốn tao yêu mày hả?
TRAI - Tao không cần, chẳng ai thương tao hết trọi.
GÁI - Mày ngu quá à,, nhưng tao cứ coi mày là em.
(Đứa gái nắm lấy bàn tay nhỏ gầy và đen đủi của đứa trai. Đứa
trai toan rụt lại nhưng rồi để yên, lát sau thì thiu thiu ngủ, đầu ngả vào vai
đứa gái, trông hệt hai chị em.
Mưa về khuya càng mạnh chưa biết bao giờ tạnh)
Nước mũi Miên chảy ra, nàng tắt radio vì SÂN KHẤU LỚN tạm
"buông màn", nàng chấm vội nước mắt và nước mũi, tắt đèn. Cảnh di cư,
cảnh đô thành khói lửa, tang tóc, cảnh chia ly của hiện tại bỗng hòa lẫn với cảnh
nghèo đói của cha mẹ nàng, cảnh ba anh em mồ côi, rồi cảnh tám năm quê hương
khói lửa vừa qua.
Nhưng khi Miên chợp ngủ Dĩ Vãng và Hiện Tại đó biến đi nhường
chỗ cho một thực tại tâm linh khác vẫn hằng ám ảnh mà nàng cố tình làm như
không hay: Kha!
Nàng mơ thấy Kha đã vào Sài Gòn, tất nhiên Kha giữ đúng lời hứa
tìm nói với Hiển xin cưới nàng. Rồi nàng tự thấy trong vòng tay Kha, nhận lời
Kha cái hôn dài, thật là dài, sương mờ như đọng thành một đám mây trắng quanh
nàng, đám mây có hương thơm mênh mông, mênh mông như tình nàng đối với Kha. Bỗng
đám mây có hương thơm mênh mông đó tỏa ra ủ lấy khu rừng lau mà nàng hằng mơ ước,
trong đó chính nàng oằn oại trong vòng tay ghì của Kha như một trái chín từ lâu
rồi nhưng vẫn còn đầy đủ nhựa sống để mặc sức đu đưa giữa lá cành hạnh phúc.
CHƯƠNG CHÍN
TIẾNG VỌNG MÙA XUÂN
Bóng nàng từ xa lại. Đúng là người con gái ấy! Đúng là người
đàn bà ấy! may mà chàng đã ngồi xuống một các trụ gạch, chiếc áo mưa gấp gọn để
bên. Tuy ngồi khá vững trên mặt phẳng trụ gạch mà khi vừa thoáng thấy bóng Vân
từ xa đi lại, Kha còn thấy lao đao. Một cảm giác nửa như lo lắng nửa như rộn
ràng, bầu không khí xung quanh bỗng hoang vắng hẳn và làn gió thổi tới như đôi
cánh mênh mông của loài chim lạ, mơ hổ cuốn theo cả những bóng cây từ xa lại.
Kha khoanh tay nhìn Vân, nụ cười ngưng đọng hẳn trên môi,
nhưng là một sự ngưng đọng bàng hoàng như bóng chiều vừa tới lúc chập choạng.
- Anh đợi em đã lâu chưa?
- Lâu rồi em ạ.
- Kìa, anh bỏ quên áo mưa.
- À nhỉ.
Đôi lời vấn đáp đó đem lại niềm rung động ấm áp cho hai tâm hồn.
Từ ngày gặp lại nàng ở Hà Nội, chàng khao khát bao nhiêu những
giây phút gần gũi như thế này, rõ ràng nàng cố tình lẩn tránh, vậy mà khi chàng
xuống Hải Phòng chuẩn bị ngày mai di cư vào Nam thì tự nhiên nàng suất hiện bất
ngờ… chính nàng cho hẹn nơi Cầu Ngự lộng gió và lấp loáng ánh sông này. Chàng
đương đi vào một giấc mộng đẹp vô ngần, chàng vừa cảm thấy lâng lâng vừa cảm thấy
bứt rứt.
- Em đói!- nàng nói.
"Hạnh phúc lớn quá- Kha nghĩ thầm chúng ta hãy đi ăn là
phải". và chàng mỉm cười khẽ gật đầu:
- Anh cũng đói để anh đưa em đi. Dời Cầu Ngự chúng ta theo phố
Cầu Đất một quãng, rồi rẽ vào phố Khách bên tay mặt, ở đấy có hai hiệu ăn lớn của
Tàu, anh sẽ gọi món cua bể sào chua ngọt đặc biệt em ăn.
- Anh có vẻ thạo lắm nhỉ.
Lúc đó Kha thấy trí mình sáng suốt lạ, chàng nắm lấy tay Vân,
hai người đi về ngả có nhiều ánh sáng. Cả hai cùng như vừa bắt đầu gặp niểm vui
tuổi thơ khi bước vào tiệm ăn sạch sẽ, lịch sự, thoang thoảng mùi hào nấu. Họ đều
thấy đói. Kha chọn một bàn ở vào góc khuất; người hầu sáng tới, chàng com- măng
thức ăn.
- Từ Hà Nội xuống Hải Phòng tìm anh, đi nửa đường em mới sực
nhớ mình chỉ còn rất ít tiền Đông".
- Anh có thừa tiền cho chúng ta tiêu…
Kha muốn nói tiếp nhưng không biết tiếp sao vì chàng vẫn chưa
biết Vân xuống Hải Phòng làm gì, ở đến bao giờ, có ý định di cư vào Nam không.
Chắc là không rồi, vì nếu có thì…
- Bác không cùng em xuống đây sao?
- Mẹ em đã qua cơn nguy kịch, bắt đầu ăn giả bữa, người chờ
bình phục hẳn để còn lên đồn điền Phú Thọ cải táng cho ba me.
Ngừng một phút nàng tiếp:
- Em đã viết thư cho anh Hãng bên Pháp, gửi đi ngay trưa nay ở
đây.
- Trong đó em viết gì?
- Em viết theo lời mẹ em bảo là anh Hãng ở Pháp cứ việc về
Nam, có thể mẹ em cải táng cho ba em rồi vào kịp.
- Thế còn em, em xuống đấy rồi lại lên Hà Nội?
- Thì mẹ em còn ở trên ấy!
Chàng chỉ cần biết vậy, chàng không muốn hỏi thêm để nàng phải
trả lời dựa dẫm hay nói dối. Chàng không muốn hỏi thêm để biết thời gian hạnh
phúc chàng được sống bên nàng là bao ngày, biết trước làm gì, nên giữ bất ngờ
là hơn. Thú hồi hộp được sống bên nàng, giây thần kinh căng thẳng, niềm vui tận
hưởng nguy nga từng giây phút, cho đến ngày nàng ngỏ lời từ biệt trở lại miền Cộng
sản tiếp thu…
Đĩa cua bể sào chua ngọt đã mang lại bốc khói thơm phức.
- Ăn đi em- chàng nói- món này phải" sai năm quân"
ăn mới thú.
Nàng đã bắt đầu ăn và hỏi chàng:
- Tiệm ăn lớn mà sao vắng thế này anh?
Người Hải Phòng bắt đầu di cư nhiều vào Nam, nếu ngày ngày em
có dạo qua các phố Đông Kinh, Ngõ Ngang Hàng Cháo, Chợ Sắt, em đã thấy nhiều hiệu
lớn cửa đóng im ỉm, đó là chủ nhân đã đi, hoặc đương cùng gia đình sửa soạn đi.
Có lẽ vui nhất và cũng buồn nhất là cảnh chợ giời họp ở bên hồ Thiên Cuông, Hà
Nội, đủ cả radio, bàn ghế, giường tủ, bát đĩa sứ, sách… Nhà cửa đáng giá bạc
triệu, ra đi bán rẻ chừng ba bốn vạn. Kẻ quyết tâm ở lại thì mua rẻ mọi thứ của
kẻ quyết tâm ra đi; mua nhà, mua xe hơi, mua đồ đạc…Như vậy em bảo tiệm ăn đông
vui như xưa sao được? Còn những người dân từ các ngả Hà Nội, Hưng Yên, Kiến An,
đồ về đây thì tập trung cả ở những trại tiếp cư, hay ở tòa Thị Chính, ai còn
lòng dạ nào hẹn hò nhau ở Cầu Ngự và đưa nhau đi ăn tiệm như anh và em thế này.
Chàng và nàng cùng cười.
Thật là một giấc mộng- Kha nghĩ- ta đương sống lâng lâng
trong một giấc mộng tuyệt vời, bên người yêu cũ, người yêu thở dài ban đầu.
- Em uống vang đi chứ- chàng nói
- Anh thích uống vang lắm hả- nàng hỏi
- Nói là anh thích uống vang thì không đúng hẳn.
- Như vậy là sao?
- Anh thích cái ly pha lê cao chân như thế này, anh thích màu
vàng đỏ sóng sánh trong ánh pha lê như thế này, anh không uống vang, anh uống
cái đẹp.
Chàng nhìn nàng, thứ nhìn say mê dìu dịu, hai nụ cười giao
thoa. " Anh ấy ưa nói thật và sự thật của anh bao giờ cũng quyến rũ như vậy"-
Vân nghĩ thầm.
- À quên, anh chưa hỏi em hiện nay ở đâu?
- Lát nữa anh đưa em về!
Biết rằng nàng ở phố nào, ở nhờ nhà ai, căn phòng ra sao? Một
sự bí mật nhẹ nhàng bao phủ lấy lời nàng nói, lấy tia mắt nàng nhìn, lấy nụ cười
thoáng hiện. Kha chẳng muốn hỏi thêm.
- Hôm nay có lúc nào em qua Tòa Thị Chính?
- Có, vào lúc mười một giờ, ngay sau khi vừa gặp anh ở đằng
nhà.
- Em thấy gì?
- Đông lắm, dân chúng đông lắm.
- Em có biết họ đến làm gì không?
- Em không rõ.
- Họ đến xem đã có tên họ trong bảng danh sách di cư vào Nam
chưa để còn lĩnh vé, lĩnh vé hôm trước, hôm sau đi liền.
- Phần nhiều đi bằng đường thủy phải không anh?
- Cả hai, ai muốn di cư bằng đường hàng không thì tập trung một
nơi riêng, sẽ có xe đưa tới sân bay Cát Bi.
Đôi mắt Vân thoáng buồn. Trong cùng thẳm tâm hồn, nàng cảm
như có trận mưa nào đổ xuống một vùng đất đai khô cằn. Tiếng Kha hỏi:
- Em xuống đây vẫn bằng chuyến tàu suốt, ngừng lại ở ga giáp
giới thuộc Hải Dương?
- Vâng, ga Phú Thái!
- Chắc nơi đó vẫn biểu diễn tấn bi hài thường xuyên: cán bộ
khám dân chúng?
Giọng Kha có vương chút căm hờn tuy đã gia công đè nén, chút
căm hờn đó tan đi rất nhanh chóng, biến thể thành tính chất mỉa mai nhẹ nhàng.
Vân đáp:
- Vân vẫn vậy.
- Tha hồ dân chúng văng tục, chửi, mà cán bộ vẫn tươi cười vẫn
ngọt ngào như không. Họ tưởng như vậy là biểu lộ tinh thần kỷ luật, tinh thần
thắng kỷ của Đảng, họ lầm lớn, dân chúng càng tởm họ là giống người máy vô tri
giác rợn người. Nghe người ta thuật lại nhiều chuyện bỉ ổi về sự khám xét của
cán bộ VẸM ở ga Phú Thái này, một hôm anh mua vé ngược Hải Dương quan sát một
chuyến. Anh tới vừa kịp lúc chứng kiến cảnh các bà cứ khỏa thân như vậy trong
phòng khám mà ra. Có bà ngồi xuống tiểu tiện đã rồi mới đứng dậy bận quần áo
vào, có bà xoay đủ một vòng, nghễu nghện hai bầu vú nuôi con rồi mới bận áo.
Các bà ấy là những người cực kỳ thông minh và biết trọng nhân phẩm lắm em àh.
Anh thấy hàng bao nhiêu tấn giấy tờ của người trí thức quốc gia viết ra để chống
đối Cộng sản không nặng bằng một đồng cân so với cái cử chỉ vừa khôi hài vừa
thâm trầm chua chát của cuộc khỏa thân tập thể như vậy. Tất cả những người đàn
ông quốc gia (cũng vừa bị khám ra) cúi đầu im lặng nặng nề, chỉ còn nụ cười của
người cán bộ. Trên cái nền khỏa thân của các bà, nụ cười đó quả đã được bóc trần
đến chất lõi máy móc vô nhân của nó.
Kha ngừng nói, có lẽ là hơi hối vì giọng điệu đượm nhiều gay
gắt, Vân cúi đầu nghĩ đến cái chết của cha nàng, nghĩ đến mẹ nàng một đời vất vả
chăm nuôi lũ con, rồi nhỏ lệ cho cái chết oan khiên của cha nàng, rồi những
ngày bệnh tình gần đây, Vân nhớ lại kỷ niệm những ngày ở đồn điền Phú Thọ bên
cha, mẹ, anh, em, nàng nhớ đến những thửa mầu dưới nắng hè rực rỡ, nàng nhớ đến
những khoảng rừng hoang vu mà những đám mây trắng nõn như biết dừng lại để soi
mình xuống vùng xanh loang loáng mênh mông và câm lặng đó. Nàng nghĩ đến sau
ngày cưới của nàng hai tuần lễ thì Kha chợt xuất hiện, chàng dời khỏi Trung
Đoàn Thủ Đô đến tìm nàng tại đồn điền. Lúc đó còn e lệ nỗi gì, nàng gục mặt lên
đầu gối nức nở:" Thời tao loạn em còn biết nghĩ gì? Sao anh không về trước
đây nửa tháng, em vẫn còn kịp phản đối lễ cưới…"
Kha đã đưa tay sang chấm nước mắt cho nàng bằng chiếc mùi
xoa. Ồ, mãi nghĩ về dĩ vãng nàng khóc lúc nào. Tiệm ăn vắng tanh, chỉ còn chàng
với nàng. Kha vẫy hầu sáng, bảo tính tiền. Khi đi ra chàng lại quên áo mưa, Vân
lượm lấy đưa cho chàng và nói:
- Anh hãy còn tính hay quên như ngày xưa.
Kha hơi nheo mắt nhìn nàng, ngày xưa xa xôi quá chẳng hiểu
chàng hay quên ra sao. Ra ngoài đường phố, sương đêm lạnh, chàng tung áo mưa ra
khoác cho cả hai. Nàng im lặng vẫn bước đều nhưng thân hình nép gọn bên vai
chàng, trong vòng tay chàng và dưới làn áo mưa. Từ sau đêm xuân trác tuyệt năm
nào chàng và nàng ôm hôn nhau lần đầu tiên say điên như bị nhào cuốn trong cơn
lốc vũ trụ, thì đây là lần thứ hai hình hài hai người chạm sát nhau.
Im lặng làm chàng xao xuyến nao nao, chàng sợ xao xuyến và
chàng cất tiếng hỏi trong khi hơi ấm cơ thể nàng đã thấm sang cánh tay quàng:
- Em về lối nào?
- Chúng mình về lối Lạch Tray.
- Ủa thế là trên đường từ phố Cầu Đất ra Đồ Sơn?
- Vâng.
- Khoảng đó toàn villa đẹp.
- Vâng, bạn em đã đưa em mượn chìa khóa đây.
- Bạn em có đây?
- Không, bạn em ở Hà Nội.
- Có một mình em ở villa đó?
Vân ngừng lại ngượng ngập giây lâu mới đáp:
- Vâng!
Kha không hiểu sao nàng lại được bạn trao cho mượn chìa khóa.
- Sao sáng nay em lại hẹn anh đợi ở cầu Ngự, ngược hẳn với
chiều em ở?
- Em hẹn anh đợi em ở cầu Ngự vì trước đây lâu lắm em có theo
ba xuống Hải Phòng và được ba đưa ra cầu Ngự ngắm cảnh sông hóng gió mát.
- Em muốn anh đưa em về bằng xe, hay cứ thế này đi bộ về?
- Cứ thế này đi bộ về anh ạ.
Chàng hỏi như thể đưa nàng về rồi vào ở luôn với nàng, nàng
trả lời cũng chẳng hề có ý sẽ khép cửa tạm biệt khi chàng đưa tới nhà. Hai người
đã tới Phố Cầu Đất, đường phố thênh thang, các cửa hàng nouveautés bán đồ trang
điểm của các bà đã đóng cửa. Bóng hai đầu chụm lại, hai thân mình nép dưới áo
mưa đi trên con đường thăm thẳm hướng ra biển thật đẹp. Biển, không trông thấy,
nhưng hai bóng nhỏ đó đem lại ý nghĩa mênh mông cho biển, Kha và Vân thỉnh thoảng
vẫn có lời đàm thoại, đều là câu hỏi và câu trả lời không quan trọng, họ nói
cho có chuyện nhưng tiếng nàng cười khẽ nồng nàng ân tình. Khi còn ngồi đối diện
trong tiệm ăn, chàng có nhìn Vân nhưng ý thức lơ là, giờ đây chàng nhìn thẳng về
phía trước và ôn lại trong trí hình ảnh nàng; mỗi lần hai người đi vào bóng tối
của lùm cây, hình ảnh nàng càng rõ. Vân vẫn giữ được nước da hồng hào khỏe mạnh.
- Em ở Việt Bắc có bị sốt rét?
- Không anh ạ, em uống quinine đều, và hình như cơ thể em có
chất chống đối lại bệnh sốt rét.
Tóc cắt ngang vai như phần nhiều phụ nữ miền kháng chiến, chải
mịn về phía trước, cặp ở phía sau, cắt làm đầu đó cho người ngoài thấy nàng đã
là đàn bà, nhưng khuôn mặt đầy đặn trẻ măng của nàng, với đôi mắt đượm chút u sầu
của nàng lại là một cái gì tha thiết đi thẳng vào tim chàng. Lúc đó chàng còn
nhớ đến cả những ngón tay búp măng của nàng khum khum cầm đũa, bàn tay chàng
tìm bàn tay nàng dưới làn áo mưa, nàng ngước nhìn chàng mỉm cười như để đánh dấu
một sự trao gởi. Chàng chưa kịp hỏi đã sắp tới nhà chưa, thì nàng nói:
- Em còn nhớ mãi câu anh nói:" mùa xuân không thể chỉ có
nắng vàng, mùa xuân phải có gió mưa nữa, chúng ta không thể trong sạch như
thánh nhân, chúng ta sẽ chết trong sự trong sạch đó như hai con cá đã chết!"
- Rồi anh hôn em- chàng tiếp- cái hôn đầu tiên của đời anh, của
đời em, rồi tuy chúng ta còn đôi lần gặp nhau nữa nhưng cũng kể như là chia ly
từ sau cái hôn đó.
Nàng kéo chàng dừng lại trước cổng sắt, nàng lách tay vào trong
nhấc chiếc then ngang, chàng đẩy cửa giúp nàng. Khi cả hai đã bước vào bên
trong, chàng vẫn một tay quàng giữ vai nàng, tay kia đóng cửa lại và cài then
ngang. Không khí còn nóng ấm dĩ vãng giúp chàng và nàng cùng không thấy ngượng ở
hoàn cảnh a tòng nhau tự giam hãm thành đôi sai cánh cửa villa. Cả hai bước lạo
xạo trên lối đi rải cuội.
Giọng nàng buồn rầu:
- Rồi cũng kể như chia ly thật!
Hai người lên thêm, nàng mở khóa, vặn quả nắm sứ mở vào phòng
khác, một chiếc giường có trải nệm trắng kê ở tít góc trong, trên giường có chiếc
va ly nhỏ đựng quần áo của nàng mà sáng nay chàng đã thấy dưới chân nàng. Cả
hai cùng ra đứng trước khung cửa sổ ngay gần đầu giường. Lúc đó chàng mới sực
nhận ra rằng ngoài vườn có ánh trăng, thứ trăng xuông mờ mờ huyền ảo. Villa bên
thấp thoáng có ánh đèn đêm, tít ngoài xa, ngọn đèn đường cô độc màu vàng khè mệt
mỏi cao ngang với lùm me.
Chàng cúi xuống để tiếp ánh mắt của nàng vừa nước lên, đôi mắt
phảng phất u sầu đó vụt sáng, khiến chàng tưởng như đó là hai vì sao lạc vừa rớt
xuống một cai giếng thăm thẳm không đáy là chính linh hồn chàng.
CHƯƠNG MƯỜI
NGƯỜI Ở LẠI
Chàng đạt được niềm mong ước khát khao không chờ đợi đó thật
là kỳ ảo. Ý niệm về thời gian về không gian bị các dung lượng hạnh phúc tràn bờ
của chàng và nàng xóa mờ thành hư vô. Ký ức của Kha về những giây phút hạnh
phúc đó cũng lộn xộn, chàng ưng nó lộn xộn như vậy, vì nó gây cho thế giới bên
trong chàng một cảm giác hỗn mang đẹp đến hoang đường. Chàng khát khao nàng bao
nhiêu, với nàng, chàng thấu tới bản thể của tình yêu; với nàng, quả thực tình
yêu xác thịt đã là một minh chứng quý báu cho tình yêu tinh thần và cả hai hợp
lại thành một tình yêu toàn vẹn lý tưởng. Chàng kiêu hãnh vì tình yêu đó. Có thể
là trước khi chiếm hữu Vân, Kha còn tự ngờ mình, sự chiếm hữu kia chính là một
nhát búa đập xuống, phiến đá vỡ ra và một thoải ngọc xuất hiện, lấp lánh như một
nụ cười bất diệt của tin yêu. Phải rồi chàng còn nhớ ánh sánh căn phòng lúc đó
lờ mờ lắm, chẳng hiểu là ánh trăng suông hay ánh ngọn đèn đường thấp thoáng sau
lùm cây phản chiếu vào. Phải rồi, trước khi chàng dìu nàng đến giường, chàng
còn hôn nàng, cái hôn dài rất bình tĩnh, có sự cộng hưởng của nàng, nhưng chắc
chắn cả chàng và nàng cùng thấy bóng tối run rẩy quanh mình. Khi chàng dìu nàng
nằm xuống giường, ôm nàng trong vòng tay, theo chiều dài của cơ thể, chàng ngửng
nhìn qua cửa sổ thấy đúng một ngôi sao chập chờn khi mờ khi tỏ và chàng ghé xuống
thì thầm bên tai nàng: " Yêu em mười mấy năm trời rồi, mà đêm nay mới là
đêm tân hôn của anh."
Sáng hôm sau ánh sáng mơ hồ theo gió bềnh bồng ùa vào khung cửa
sổ, chàng giơ tay lên xòe năm ngón ra để ngắm chính bàn tay mình nổi lên giữa
khung trời cửa sổ. Buổi rạng đông êm tĩnh như giữa vùng quê. Cánh tay nàng riết
lại trên ngực chàng.
- Em đã thức?
- Vâng
- Anh có cảm tưởng anh đang nằm dưỡng bệnh.
- Em cũng vậy.
- Sung sướng thay kẻ đã làm chủ được cơn bệnh thập tử nhất
sinh để rồi nằm hưởng giây phút dưỡng bệnh lười lĩnh trễ nãi một cách thần
tiên, vui chẳng khác mình làm chủ định mệnh của mình bằng tin yêu.
- Anh có biết, villa này trước đã có một cặp vui hưởng hạnh
phúc như chúng ta bây giờ. Người chồng tu xuất, người vợ cũng ở một nữ tu viện
thoát ra, cặp tình nhân phá giới đó hưởng hạnh phúc hối hả để bù lại những ngày
đã mất, họ luộc sẵn một chục trứng gà từ hồi hôm trước, đặt ngay trên bàn đêm,
sáng sớm thức giấc, họ chụm đầu nhau nhô ra khỏi thành giường bóc trứng ăn, cười
rúc rích rồi lại nằm ngửa bên nhau, giơ tay giật chiếc giây thừng hạ chiếc màn
sáo khi ánh sáng ban mai đã quá rõ ràng, họ cứ nằm bên nhau như vậy ít ra cũng
đến chín, mười giờ mới dậy tắm rửa. Chàng dạy học buổi chiều.
- Họ cũng chỉ hạnh phúc bằng chúng ta là cùng! Nhưng sao em
biết chuyện?
- Người mua villa này hiện ở Hà Nội kể lại. Cặp uyên ương kia
đã di cư vào Nam rồi.
Chàng thân mật nói:
- Chúng ta không nằm bên nhau cho đến chín, mười giờ, anh muốn
lát nữa dẫn em đi lang thang xem khuôn mặt đất Cảng trước ngày tiếp thu.
- Chúng ta còn đi ăn sáng nữa chứ anh.
- Ừ nhỉ, vì chúng ta không có rổ trứng luộc sẵn bên cạnh.
Chàng và nàng cùng bật cười trong cái ôm ghì bất chợt. Gió và
nắng sớm đuổi rỡn nhau bên ngoài, những lá vàng rụng lao xao, chàng lùa năm
ngón tay vào mái tóc nàng, âu yếm. Sự cọ sát của hai làn da dưới làn chăn mỏng
giờ đây không làm họ vừa tê tái vừa rạo rực như đêm qua lúc cả hai " đi
vào đêm tân hôn"; những góc cạnh của đam mê đã tự sói mòn trong ánh sáng
ban mai trầm lặng để chỉ còn là một cái gì lắng đọng như sự kết tinh của yêu
thương và nhẫn nại.
Nàng quyết định vùng dậy trước, bước vội vào buồng tắm. Tiếng
nước xối rộn rã. Lát sau nàng ra, khuôn mặt tươi mát, tay cầm một trang báo xé
lẻ, chăm chú đọc, đôi mắt chớp chớp thoáng buồn.
Nàng trao cho chàng, nói:
- Em thấy trang báo này rơi trên nền gạch buồn tắm.
Đó là trang báo in trên giấy bản, báo cáo của miền cộng sản,
chứng tỏ người mua lại villa này quả đã có liên lạc với " ngoài kia"
và được tuyên truyền bởi cán bộ cộng sản nội tuyến. Bài báo hụt đầu, hụt đuôi
khoảng giữa tả lại nếp sống của đô thị Sparte trong cổ sử Hy Lạp.
Nàng đã ngồi xuống mép giường nói với chàng:
- Em nhớ lại những bài sử thuở còn học Félix- Faure. Hiếu chiến
như dân Spartiates thật bệnh hoạn.( nàng chép miệng). Bảy tuổi đứa con đã dứt
ra khỏi lòng mẹ để đưa vào là huấn luyện sát nhân! Biết bao nhiêu thế hệ làm mẹ
đứt từng khúc ruột! Người chiến sĩ đã mất nhân tính đâu còn xứng đáng với danh
hiệu chiến sĩ nữa anh nhỉ. Em chỉ nghĩ đến con em mà…
Chàng vẫn tiếp tục lướt đọc rồi tiếng chàng cười lơ đãng:
- Bài báo mất đầu, mất đuôi thực là một sự hi hữu anh được đọc
một tráng báo cộng sản vắng bóng tuyên truyền!
Đến lượt chàng vùng dậy…
Vừa ra tới cổng villa, chàng chỉ tay về phía Đồ Sơn:
- Anh cứ muốn là chúng ta đi về phía này cho đến khi gặp biển.
Nàng chỉ về phía thành phố, ngước mắt nhìn chàng lẳng lơ kín
đáo:
- Em thì thích theo hướng này vì hiện giờ em đói.
Chàng kéo nàng ngả về phía mình, con đường vắng tanh, nàng cảm
thấy đúng là cõi đời chỉ còn chàng và nàng và hai người giờ đây còn sống bên
nhau để thực hiện ý muốn cao cả của thượng đế và tái tạo lại phần nhân loại vừa
bị tàn lụi bởi những lầm lỗi của họ trên bước đường định mệnh.
Nàng nói:
- Lúc quyết định xuống cảng gặp anh, em tưởng thoạt tiên thế
nào anh cũng có thái độ ngờ em là một thứ cán bộ địch vận xuống để tuyên truyền
anh ở lại. Tuyệt nhiên không thế! Em sung sướng nhưng xấu hổ, xấu hổ vì đã nghi
oan cho anh.
Chàng nói:
- Em xuống với anh thế là đủ rồi.
- Anh không đặt câu hỏi tại sao em xuống với anh sao?
- Câu hỏi đó đâu có cần thiết. Em đến với anh, anh còn yêu em
nguyên vẹn như thuở nào không đủ sao?
- Anh nói có lý. Và em cũng không cần nói vì sao em xuống Cảng
với anh chứ?
Thấy Kha im lặng Vân tiếp:
- Em đã sưu tầm đọc hết văn thơ của anh. Từ ngày anh vào vùng
quốc gia.
- Sự căm hờn đó của anh - chàng đáp- làm anh xấu hổ, dù anh
biết đó chỉ là nhất thời như muôn ngàn vai trò khác trên sấn khấu đời này. Dù
sao anh vẫn có thể tự an ủi: sự công phẫn của anh là sự công phẫn của một tâm hồn
ngay thẳng, và phần anh đóng góp vào công việc xây dựng mai sau dù nhỏ nhen
nhưng có thực, có thực vì lòng nhiệt thành của anh, có thực vì anh tin với cả
cuộc đời của anh là phần đóng góp đó… có thực.
Chàng lại lùa vào nắm ngón tay vào mớ tóc ngang vai nàng. Đường
sớm vẫn vắng tanh, một thoáng sông gợn phía trước, thành phố còn lùi tít phía
xa… Chàng tiếp:
- Lời của anh là lới nói của cả Lý và Tình. Em đến với anh
cũng vậy. Anh đón tiếp em cũng vậy. Tình yêu xác thịt của chúng ta không nhuộn
màu tủi hổ, điều đó không đủ chứng thực sao?
- Anh nghĩ sao, em phải ở lại. Con em, đoàn thể giữ kháo như
một con tin; mẹ em, người cương quyết đợi cải táng cho ba em chết truồng chôn
bó chiếu, sau đó người trở về làng, làng anh làng chúng ta,- Định Quyết- để sống
gần nấm mộ mới bắt đầu xanh cỏ của em em.
- Tất cả những ngang trái trên đời này đều có nguyên nhân của
nó. Sự băn khoăn, chính đáng cũng đã phần nào giúp chúng ta đặt đúng vị trí của
con bò với chiếc cày, và lịch sử diễn tiếng với những luống màu được vỡ. Em là
người đàn bà thông minh, em yêu dấu, em thông cảm với anh lời nói đó chứ?
Nàng nhắm mắt, ngả đầu lên vai chàng để mặc chàng dìu đi,
chàng hiểu đó là lời đáp" có" siêu hình vứa đầy đủ vừa đằm thắm.
Chàng tiếp, giọng trầm hơn:
- Kẻ ra đứng ở tiêu chuẩn đo lường dung lượng hạnh phúc với
đau khổ thường tình để so sánh một bà mẹ Spartiate hai mươi sáu thế kỷ trước
đây với một bà mẹ Việt Nam như em ngày nay, thì lịch sử nhân loại chưa hề tiến
được một li nào. Nhưng em thấy không, với sự hiện diện của mình, với sự ghé vai
của mình, lịch sử thì mênh mông, vai mình thì nhỏ bé nhưng cùng một lúc có hàng
triệu hàng triệu sự hiện diện khác, hàng triệu sự ghé vai khác, dưới muôn vàn
hình thức khác nhau nhưng của cùng một khát vọng. Tất cả những cảnh sắt ngày
nay sẽ bị soi mòn bởi những va chạm, để rồi có thể những cạnh sắc khác biệt xuất
hiện như những thương hàn, dịch tả lui bước thì ung thư xuất hiện thành một thứ
bệnh của văn minh. Cứ nên chấp thuận như thế đi và cho rằng đó là định mệnh của
con người đi, nhưng không vì thế à không hiện diện, không ghé vai. Giữa những
dây kéo, những bạo hành của của đời, ta còn những người thân, còn những tri kỹ,
nhưng điều cần nhất là còn chính mình, bởi vì khi mình không còn thì những ai
kia còn cũng bằng thừa.
Chàng hơi nghiêng đầu cúi xuống, nàng vẫn ngả đầu trên vai,
đôi mắt nàng vẫn nhắm, nhưng từ kẽ mắt hai bên suống mũi tràn ú lên hai giọt
sương trong suốt.
Chàng rút vội mùi xoa trong túi và nói:
- Để anh lau nước mắt cho em.
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
BẾN ĐÒ RỪNG
Dời khỏi khu nhà thương, Kha thấy nhẹ người. Miên quả đã đi
ngay từ hôm ấy.
Sớm nay lúc sực dậy Vân hỏi:
- Cô gái nhà thương với anh là thế nào?
Kha đáp:
- Em gái một người bạn thân của anh.
Vân hỏi tiếp:
- Người bạn thân của anh giờ đây ở đâu?
Theo học tại trường sĩ quan Thủ Đức sắp mãn khóa.
- Cô ấy có dáng một người vợ hiền.
- Đúng!
- Cô ấy sẽ là người vợ hiền của anh.
Kha mỉm cười nghiêng đầu hôn lên đôi môi ấm của Vân, không
đáp. Vân tiếp:
- Sớm nay anh nên đến nhà thương gặp cô ấy đi.
- Miên vào Sài Gòn rồi em ạ, hôm em tới tìm anh ở đây, đúng
lúc Miên nói với anh là ê-kíp của Miên sẽ phụ trách chở một số dụng cụ nhà
thương quan trọng vào Sài Gòn trước, tới bệnh viện Bình Dân thì phải.
- Biết đâu việc đó chẳng hoãn. Sớm nay anh nên đến nhà thương
thăm cô bạn đó kẻo không tiện.
Lời Vân nói rất thành khẩn, chính Kha cũng thấy là nàng có
lý. Phải, rất có thể việc Miên vào Nam hoãn lại.
Tắm rửa thay quần áo xong thấy Vân còn nằm ở giường quay mặt
về phía trong, Kha hỏi:
- Em đi với anh chứ?
- Ô hay, sao em lại đi với anh? Ngộ gặp cô ấy ở nhà thương
anh sẽ nói với cô ấy ra sao.
Kha chưng hửng, "ờ nhỉ" - chàng muốn buột miệng thầm
thế rồi nói:
- Nhưng dầu sao em cũng lên phố ăn sáng rồi chờ anh.
- Chờ anh ở đâu? ở ngoài cửa khu nhà thương chăng?
Kha lại không biết đáp ra sao. Có điều gì Vân giận chàng
chăng? Không, rõ ràng giọng nói của Vân đượm vẻ bình tĩnh, có chút gì dằn vặt
đâu. Chàng bịn rịn ngồi xuống bên giường. Vân quay ra nhìn chàng mỉm cười,
khuôn mặt trong sáng, như thể mấy câu đối đáp vừa qua không hề là những câu đối
đáp về một người con gái khác, như thể hai người vừa nhắc lại những lời yêu
đương với nhau. Kha cúi xuống áp má chàng lên má Vân, nói thầm bên tai nàng:
- Anh sẽ mua các thức ăn sáng về cho em.
Vân làm điệu gật đầu. Thốt nhiên nàng quàng hai tay ôm ghì lấy
Kha cắn lên vành tai chàng, vít đầu chàng xuống, hôn thắm thiết lên môi chàng,
rồi vùng dậy ngay. Tiếng nước xối trong buồng tắm và tiếng nàng nói vọng ra:
- Anh đi ngay đi. Em ở nhà nằm dài trên giường đọc lại tập
thơ của anh và đợi anh mang thức ăn về. Nằm dài trên giường mà đọc thơ anh thì
thích thật. Lại đợi anh nữa và đợi thức ăn nữa. Trời ơi! Anh đi đi.
Kha đã đứng dậy sốc lại veston, đáp:
- Đồng ý, chừng hai tiếng sau là cùng anh về. Em muốn ăn gì
nào để anh mua.
- Ăn anh!
Kha bật cười và cũng sực nhớ ra ngày nào chàng muốn phát điên
lên và nói với Vân: "Anh muốn đưa em đến một hoang đảo ở đó anh ăn thịt
em!". Chàng nói lớn:
- Thôi anh đi nhé, Vân nhé.
Tiếng nước xối ngừng, nhưng Vân không nói gì. Kha xuống thềm,
bước lạo xạo trên sỏi, tai còn lắng đợi. Vân vẫn lặng thinh. Chàng đã ra tới cổng.
Chàng mở mạnh chiếc cổng sắt cốt ý làm cho tiếng khóa loảng xoảng để Vân hiểu
là chàng sắp ra đường rồi. Vẫn không thấy Vân dặn với ra điều gì. Khép cánh cửa
lại bước xuống đường, Kha có cảm tưởng thiêu thiếu một cái gì, chính là thiếu lời
nói của Vân, thiếu một chút ít mà như thiếu tất cả.
Đã một tuần qua tình yêu chứng nghiệm cho hai người thấy rõ rằng
hương tự do, ánh sáng tự do ngào ngạt và chói lọi tỏa ra tự hồn họ. Họ không tự
giải phóng, họ chính là sự Giải Phóng. Họ xứng đáng với tất cả và tất cả xứng
đáng với họ. Trong bảy ngày vừa qua có một ngày gió lớn và hai ngày mưa dầm. Âm
thanh của Gió và Mưa như đưa nhau tràn vào tìm hơi ấm trong tâm hồn họ. Kha và
Vân đã đứng kề vai tì tay hàng giờ bên cửa sổ ngẩng nhìn bầu trời mây xám. Con
mắt của Tình Yêu vẫn giúp hai người nhận thấy bên trên vòm trời mây xám ấy là bầu
không gian vô tận, trang điểm bằng những chấm sáng tinh tú, cùng những vệt sáng
của những tinh thể di động. Những điểm sáng đó chỉ làm cho không gian thêm
trong suốt và thăm thẳm. Kha thấy tuổi trẻ của hai người cũng tràn đầy hào
quang. Trên đường đi đến khu nhà thương Kha ôn lại...
Vân đến với chàng như một nghi lễ dâng lên cho sự sống muôn đời,
từng khóe nhìn, từng nụ cười, từng cái quay đi làm vẻ giận dỗi nhỏ, từng cái
cúi đầu cho mấy sợi tóc tơ rủ xuống che niềm e thẹn bâng quơ, từng dáng đi vội
vàng trong nụ cười hòa hợp, từng lời nói khe khẽ làm xao gợn chút ít nhưng âm
vang thì hòa vào với vắng lặng mà trở thành bất tuyệt... Ngay cả khi Kha nhìn
Vân nằm nghiêng để ngửa cọ tay thõng xuống thành giường như hệt người tự cắt
gân máu, Kha cũng chỉ thấy đấy la một dáng điệu lả lơi rất đỗi nên thơ. Tình
yêu như ánh trăng rằm vằng vặc xóa hết những đốm sao ưu phiền. Đêm qua Vân ghé
vào tai chàng nói thầm: "Anh ơi, có một loài hoa không còn ở thế gian này
nữa", chàng đã ôm ghì lấy nàng theo hình ảnh của hai cây hoa trên hoang đảo
sắp bốc thành ánh sáng và chàng cũng ghé miệng bên tai nàng vừa cắn khẽ vành
tai vừa nói thầm: "Sự chết chỉ là khởi điểm của hòa đồng để đi vào đời sống
thiên nhiên trường cửu, em thấy không?"
Dời khỏi nhà thương, Kha thấy nhẹ người. Sự thực nếu Miên -
vì một quyết định bất thường nào đó vào giờ chót - còn ở lại tiếp tục công việc
tại nhà thương Hải Phòng hay ở trại tiếp cư thì chàng biết nói với Miên sao
đây?
Chàng có dừng lại trước vùng bãi rộng bên sở xi-măng ngoại ô
Hải Phòng ngắm lại một lần nữa những hàng lều dựng san sát. Có những lều mới cấp
tốc dựng, một phía mép lởm lên lề con đường về Hà Nội, thế mà vẫn không đủ chỗ
chứa các đồng bào từ các ngả Nam Định, Thái Bình, Kiến An, Quảng Yên ùn ùn kéo
tới và mặc dầu tiết giời đầu xuân lạnh căm căm, họ nằm đông như kiến bâu ngoài
sát quanh lều, khuôn mặt ai nấy hân hoan, vì đã được tiếp đón, đã được đưa và
khu lều, dù chỉ nằm ngoài lều cũng là thật thoát mọi nguy hiểm. Kha có dừng lại
trước Tòa Thị chính, đồng bào cũng đông nghịt và chen chúc dữ vì sớm mai có
chuyến tàu nhổ neo và hôm nay phát vé theo bảng danh sách mấy ngàn người đã
niêm yết. Kha chưa về thẳng villa đường Lạch Tray nơi Vân chờ đợi, Vì chàng muốn
... nhấm nháp hạnh phúc, chàng rẽ vào Ngõ Ngang Hàng Cháo, bước vào tiệm ăn
chàng và nàng vẫn thường ăn trong mấy ngày gần đây. Chàng dự định ăn điểm tâm
qua loa rồi mua các thức ăn về cùng nàng giả vờ picnic ngay ngoài vườn, hoặc dưới
hàng hiên. Đặc biệt tiệm ăn hôm nay sao quá đông, thoạt không thấy có bàn trống
nào. May thay chàng đứng sững chưa đầy một phút thì một thanh niên ăn xong, trả
tiền, rồi sang ngồi cùng bàn với một thanh niên khác ngay bên để tiếp tục câu
chuyện của họ. Kha vào ngồi ngay bàn trống đó và com-măng với tên hầu sáng bát
cháo cá.
Thì ra hai thanh niên bàn bên cũng mới quen nhau thôi, họ là
những người mới thoát hiểm nên câu chuyện rất cởi mở, và ở trường hợp này thì sự
cởi mở đó đem lại ý vị cho câu chuyện khiến Kha dù không muốn cũng theo rõi được.
- Vào Nam chuyến này bao giờ tôi mới được trở lại bến đò Rừng
của quê hương đây, anh ơi! Sông Rừng tức là con sông lịch sử, sông Bạch Đằng đấy
anh ạ.
- Quê anh ở đâu nhỉ?
- Làng Vĩnh ngay gần Sở Đúc Quảng Yên - Bến đò Rừng, thuộc
huyện Hưng Yên.
- À
- Anh vừa nói quê anh ở Hưng Yên, tầu thủy từ Hà Nội xuôi
sông Hồng xuống Hưng Yên có qua Ngã Ba Tầm Vườn, tôi đã qua ngã ba sông này,
vâng quả mênh mông như biển, mênh mông không kém sông Rừng đúng lúc nước triều
lên cao nhất, nhưng đem lại hai cảm giác khác hẳn nhau. Cái mênh mông của Ngã
Ba Tầm Vườn làm ta sợ như sợ một con quái vật chỉ rình nuốt chửng ta, đúng
không anh?
- Vâng đúng!
- Nhưng khi anh qua sông Rừng, vẫn là hình ảnh mênh mông, mà
sao anh cảm thấy khâm phục như đương được chiêm ngưỡng hình ảnh các vị anh hùng
danh tướng thời xưa, anh yên lòng vì biết rằng các vị đó uy nghi thật nhưng
không bao giờ làm ác. Thuyền qua sông là một thứ thuyền buồm, ra tới giữa dòng,
ngửa cổ nhìn ngọn hải đăng khá cao, tôi hằng ước ao sẽ có lần đến xin người gác
hải đăng cho ở nhờ tại nơi đây cả một vụ hè nào đó để nằm đọc sách, rồi ngắm
con sông mênh mông mà suy tưởng. Nói là sông, kỳ thực đấy là cửa biển rồi, nước
xanh màu biển, bước xuống khoảng bến sông, anh thấy lạo xạo dưới chân những vỏ
hà.
- Anh có dịp lên ngọn hải đăng đó chưa?
- Chưa mới tức chứ. Tiếc thật! Giá được ở đấy, rồi sáng sáng
không quên chèo thuyền trong sương sớm lên bến ăn bát xôi trắng với chả mực
tươi, món quà đặc biệt của bến đò Rừng.., ồ nhưng bây giờ thì ...
- Bây giờ thì tụi nó về, tụi mình vào Nam.
- Khốn nạn thật! Ánh trăng rằm làm dịu đau khổ, nhưng đứng
trên bến đò Rừng, nhìn những người đàn bà lam lũ gánh gồng, rồi nhìn ra sông cửa
biển, mình thấy quên hết hận thù, mình thấy mình chỉ là một phần tử quá nhỏ
nhen trong vũ trụ, nhưng cũng đồng thời, tư tưởng mình tự nhiên hướng về một
cái gì cao siêu, thật cao siêu. Vì là con sông quê hương nên tôi nhớ nó đủ mọi
vẻ. Trên bờ chỉ có vài quán trọ xác xơ; ban đêm tiếng sông đổ ra biển ầm ầm như
hàng ngàn chiếc cối xay lúa cùng hoạt động một lúc; buổi sáng sương bốc mù mịt,
có phải đấy là khói sóng? Đã có lần sang sông vào buổi sớm, tôi chợt để ý thằng
nhỏ thay cha chèo thuyền, bóng nó thấp thoáng nhịp nhàng trong sương, tôi thấy
khâm phục nó lạ, tính mệnh tôi lúc đó là ở trong tay nó, nếu sóng giữa dòng xô
nghiêng và nó không vững tay lái, con thuyền có thể bất chợt lật úp, dù có bơi
giỏi tài thánh cũng chết. Tôi hỏi người cha: "Lái thuyền trên sông Rừng
khó lắm, ông lái nhỉ?" ông ta điềm đạm và nhũn nhặn đáp: "Như các cậu,
cầm bút khó biết mấy mà các cậu còn học được, thì lái thuyền có khó gì!"
Ông lái đã nói đúng ý câu "vạn sự xuất ư nho" đấy anh ạ. Ồ, sông Rừng
còn có loài cá he rất hay.
- Cá he là cá thế nào?
- Hình thù như con lợn, nhưng thực ra nó to bằng con bò.
- Đó là cá biển?
- Nói là nửa sông nửa biển thì đúng hơn. Giới thuyền chài rất
kính trọng loài cá này, tựa như dân chài ngoài khơi kính trọng cá ông. Phải rồi,
chính vì thế mà lúc nãy tôi có ý nói với anh rằng đứng trước sông Rừng người ta
thấy kính sợ chứ không khiếp sợ. Mỗi lần thuyền bơi ra giữa dòng thấy đàn cá he
xuất hiện là từ ông lái đến những người đi thuyền đều nói lớn "Tốt tốt! Tốt
tốt!" Không bao giờ cá he húc vào thuyền, không bao giờ cá he làm lật thuyền.
- Hay nhỉ?
- Bến đò Rừng còn ăn sâu vào tâm tưởng tôi vì một câu chuyện
nữa, câu chuyện tình.
- Hay lắm, anh cho nghe tiếp đi.
- Tôi còn nhớ dạo đó vào tháng hai năm 1945, sắp tới ngày Nhật
đảo chính tụi Pháp, và Sở Đúc Quảng Yên đã bị phi cơ Đồng Minh rội bom chỉ còn
trơ vơ những tường nhà máy đen kịt máu hắc ín. Thầy tôi bán một chiếc nhà ở Phố
Hàng Da Hà Nội, trao tiền cho tôi mang về quê gấp để mẹ tôi kịp tậu ruộng vào một
dịp may giá hời. Tôi tới Hải Phòng thì chiều tà, rủi thay, chiếc tầu thủy đi Quảng
Yên đã nhổ neo. Một cô gái cũng cùng cảnh ngộ với tôi, cô muốn về Quảng Yên sớm
chừng nào hay chừng ấy. Khi trời đã tối hẳn và chúng tôi đã ăn no, hai đứa quyết
sang bến đò Bính rồi đi dưới trăng lu về bến đò Rừng. Tới đây chúng tôi sẽ vào
quán trọ đợi sang sông bằng chuyến đò thứ nhất sớm hôm sau.
- Từ bến đò Bính đến bến đò Rừng khoảng cách bao xa?
- Chỉ chừng mười tám hay hai mươi cây số là cùng. Thoạt dời bến
đò Bính, chúng tôi qua núi Đèo, trên núi Đèo có đồn Tây cũ, dân địa phương vẫn
gọi là đồn Thủy Nguyên thuộc Kiến An, vùng này con gái có tiếng là đẹp, không
phải cái đẹp huê tinh nghệ thuật của con gái Bắc Ninh mà là cái đẹp lồ lộ kêu gọi
xác thịt của xứ đồng chua nước mặn!
- Ồ hay lắm! Đi với phái yếu hết được con đường hai chục cây
số đó cũng phải hết đêm.
- Vâng gần hết đêm, anh nói đúng. Đường hẹp và vắng, trăng
lu, rải rác có những trạm đồn binh Nhật. Suốt dọc đường chúng tôi nói chuyện
liên miên, riêng tôi, tôi nói rất lớn, tiếng vang khá xa sang hai bên vệ đường.
- Chắc là để cho bớt sợ?
- Có thể là cho nhiều thứ: cho bớt sợ; cho lính canh Nhật dễ ức
đoán rằng đây là những người dân thường ở một làng kế cận nào đó đi về muộn; để
chứng tỏ với cô bạn đồng hành rằng lòng mình ... thanh thiên bạch nhật.
- Phải rồi, đi với người đẹp trên đường khuya hẹp và vắng, dưới
ánh trăng lu mà cả hai cứ lùi lũi đi, dễ sinh ý nghĩ tà khuất lắm.
- Còn để cho quên mỏi chân nữa! Chúng tôi cũng mỏi chân lắm
mà không dám nghỉ. Nhưng nói mãi rồi cũng thấy mỏi miệng và hết chuyện, câu
chuyện trở thành nhát gừng. Tôi mặc pardessus dạ, khi đi được mười cây số đã thấy
nóng người, nhưng bên trong cộm tiền, không dám cởi ra. Khi còn cách bến đò Rừng
chừng ba cây số, tôi thoạt nghe như có tiếng cành cây khô gẫy nhẹ. Thực ra nếu
phải đi một quãng đường ngắn thì chắc chắn chúng tôi bỏ qua tiếng động nhỏ đó,
nó chẳng quan trọng gì hơn tiếng lá rụng. Ba lần chúng tôi đi qua ba lùm cây và
mỗi khi vừa qua khỏi một vùng bóng tối là một lần có tiếng cành khô gẫy nhẹ như
vậy. Cô bạn đồng hành nói khẽ: "Tôi nghe như có tiếng gì là lạ". Tôi
đáp: "Vâng, có thế!". Chúng tôi tiếp tục đi, tới lùm cây thứ tư,
chúng tôi không bảo nhau mà cùng đi chậm lại, vẫn làm vẻ như nhìn thẳng nhưng
cùng kín đáo liếc quan sát lùm cây. Tôi chợt lạnh người, chắc chắn cô bạn đồng
hành cũng vậy, máu muốn đông lại trong huyết quản, nếu dừng lại lúc đó tất khụyu
gối xuống, nhưng tôi gắng trấn tĩnh tinh thần tiếp tục bước, dùng vai đẩy cô bạn
tiếp lên cùng một nhịp: chúng tôi thấy lẩn dưới lùm cây một hình người đứng im
như tượng, tay lăm lăm cầm ngang khẩu súng có cắm lưỡi lê dài, đó là tên lính
Nhật đứng phục kích. Chúng tôi vừa bước xa lùm cây vài bước là nghe thấy tiếng
"cành cây khô gãy nhẹ" quen thuộc, mật hiệu của tên ở lùm cây này báo
cho tên ở lùm cây kia biết có người đi tới. Chúng tôi sợ là phải vì với những
thành tích giết người không gớm tay của lính Nhật ngày đó, vẫn cùng thứ ám hiệu
nhưng điệu hơi xô lệch đi là có thể cho tên lính ở lùm cây kế tiếp bất thần nhảy
ra... Biết rằng chúng tôi có kịp kêu lên một tiếng trước khi mũi lưỡi lê đen
nhánh xỉa đúng tim và báng súng phang nát mặt? Tôi nói khẽ với cô bạn:
"Chúng ta phải tiếp tục nói chuyện", rồi bất giác chúng tôi cùng
khoác tay nhau như vợ chồng và vừa đi vừa cố moi chuyện ra mà nói, giọng tôi cố
làm cho lởn, nhưng không lớn bằng lúc dời bến đò Bính, (e có thể chọc giận những
tên lính phục kích). Tiếng "cành khô gẫy nhẹ" vẫn tiếp tục bám vào
sau gáy mỗi lần qua khỏi một lùm cây. Rồi ánh đèn quán trọ bến đò Rừng le lói
phía xa. Chúng tôi rảo cẳng hơn, lòng hồi hộp nhưng đã thấy vững dạ. Chúng tôi
bước vào ánh đèn quán trọ mà tay còn khoác bên nhau, khi cả hai cùng sực nhớ,
cô bạn đồng hành đỏ mặt ngượng ngùng rút vội cánh tay ra. Chỉ chừng hơn một tiếng
sau, chúng tôi sang ngang chuyến đò đầu tiên. Con thuyền dời bến, đi vào vùng
khói sóng mung mung mạc mạc. Bỗng mọi người nhao nhao: "Tốt tốt! Tốt tốt!".
Họ vừa thoáng thấy luồng sóng cá he lướt đi cách thuyền không xa. Hai chúng tôi
- khi đó ngồi bên nhau - cũng cất tiếng hòa theo mọi người "Tốt tốt! Tốt tốt!"
Trong sương khói ban mai như vậy, tôi làm sao nhìn được hình cá he lướt sóng,
nhưng tôi ôn lại trong trí mấy lần qua sông vào buổi trưa, trời trong xanh, nước
trong xanh, và có lần với điệp khúc "Tốt tốt! Tốt tốt!" tôi thấy con
cá he cực lớn bơi rỡn ngửa bụng một lần nữa nhưng tít phía xa. Với khối lượng bằng
con bò đó, với tốc độ như mũi tên đó mà nó cố tình húc vào thuyền thì chỉ có
thuyền bọc sắt họa chăng mới kham nổi.
- Thuyền chài không đánh cá he này sao?
- Không! Một lần có con cá con không hiểu sao chết nổi lên,
người ta vớt vào bờ, mổ thử, thấy da cứng lắm. Là cá con nhưng cũng to bằng con
lợn xề.
- Anh cùng cô bạn đồng hành đến Quảng Yên thì chia tay?
- Vâng, gia đình nàng mở cửa hàng bán thực phẩm ở đấy. Trước
khi chia tay, nàng cho tôi biết địa chỉ. Hai ngày sau tôi đến gặp nàng, hôm đó
có một mình nàng trông hàng. Tôi còn đến thăm nàng một lần nữa thì quyết định
thưa với mẹ tôi mua giầu cau...
- Ha ha, anh lấy nàng?
- Vâng, chúng tôi hiện đã có một con.
- Nàng có theo anh đi cùng chuyến này, hay đợi di cư chuyến
sau với toàn thể gia đình, còn anh thì vào Nam trước để thu xếp nơi ăn chốn ở?
- Nàng di cư cùng chuyến này với tôi và hiện cùng con nằm ở
ria một chiếc lều sát con đường về Hà Nội.
- Hay lắm! Chúng ta cùng đợi có tên trong bảng danh sách yết
kỳ tới, rất có thể chúng ta đi cùng một chuyến tàu, biết đâu vào đến trong Nam
chúng ta lại chẳng cùng định cư một chỗ. Lát nữa anh nhớ giới thiệu chị và cháu
với tôi nhé.
Hai tiếng cười cùng hòa vang và câu chuyện xoay chiều.
- Các đường phố, biển bán nhà treo nhan nhản anh thấy không?
- Ai mua?
Hai thanh niên đã đứng dậy dời khỏi tiệm ăn. Kha còn ngồi làm
gì? Chàng mua bánh mì, đồ hộp và một chai vang, tất cả cho gọn vào một túi giấy.
Chàng rảo bước dưới ánh nắng chói chang, chàng có thể thuê xích lô về cho
chóng, nhưng chàng muốn nhấm hạnh phúc trong chờ đợi, chàng chỉ ôm gói thức ăn
bước nhanh thêm một chút, chàng vượt qua người đi bộ khác, mùi thuốc lá vấn
khét lẹt một lần phà vào mũi chàng mà chàng không để ý. Hải Phòng bụi bặm trước
đây, Hải Phòng sầu ly hương giờ đây với những chuyến tàu di cư nặng nề dời bến,
đều đã biến tính dưới đôi mắt chập chờn hạnh phúc của chàng.
Đã một tuần qua, cặp uyên ương đó đã mặn nồng sống bên nhau,
đêm qua trời đột nhiên đổ cơn mưa lớn gây thêm thi vị cho ân tình.
Đã tới nhà đây! Kha gỡ vòng xích, đẩy cửa sắt bước vào, cố ý
làm cho loảng xoảng rồi đi thật rào rạt trên lối rải cuội, chờ đón từng giây tiếng
Vân hỏi, hoặc khuôn mặt Vân xuất hiện hốt hoảng một cách vui mừng sau khung cửa
sổ. vắng lặng! Bước lên thềm, chàng giật mình nhận thấy một lá thư gài trước cửa
và cửa sổ đóng im ỉm. Kha đã đoán ngay cơ sự. Thực ra điều này chàng vẫn chờ đợi
từ trước, chẳng qua tự dối mình để vui hưởng hạnh phúc mà làm quên đó thôi.
Chàng bóc thư:
Anh yêu dấu,
Em phải về Hà Nội gấp, sớm nay em giục anh đến nhà thương là
vậy. Em không có can đảm nói thẳng với anh bằng lời, còn nói chi đến việc mong
anh ra ga tiễn em. Tình yêu của anh gợi em nhớ lại tiếng chuông chùa của làng
chúng ta vào một buổi chiều nắng quái, nó du hồn em vào cô tịch và siêu thoát.
Cuộc tận thế dù có hiển nhiên, với em cũng bằng thừa, vì đúng như lời anh hằng
nói trong mấy ngày chung sống: tình yêu tuyệt vời của chúng ta vượt ra ngoài sự
sống chết. Em cám ơn Trời Phật đã sớm run rủi cho em có sáng kiến xuống tìm anh
ở Hải Phòng trước khi anh vào Nam. Vì sao em có sáng kiến ấy? Thâm ý của em ra
sao? Em sẽ viết thư dài gửi anh theo địa chỉ tòa báo, giờ đây chân tay em rời
rã, tâm hồn em rời rã, con đường ra ga như có đại dương, có sa mạc.
Em
Tái bút - Chúc anh với "cô gái nhà thương" trăm năm
hạnh phúc. Anh hãy trở về gấp với cô ta và xin lỗi dùm em là em đã lấy cắp một
tuần hạnh phúc của cô. Với trực giác đàn bà, lần đầu tiên chỉ thoáng nhìn, em
cũng đã hiểu cô gái ấy yêu anh biết chừng nào. So với tình yêu của em thì mỗi
thứ một vẻ, nhưng điều em biết chắc chắn là cô gái đó không thể sống không có
anh.
Và chính cô gái ấy mới là người đủ đức bao dung đem lại hạnh
phúc cho anh và gìn giữ hạnh phúc cho anh, điều mà chưa chắc em đã làm chu đáo
nổi. Bởi em có thể cắn răng lạnh lùng sống đủ bổn phận với người mình không
yêu, nhưng với anh, nếu em được diễm phúc đã là vợ anh, chắc chắn là em dữ lắm,
anh sẽ mất tự do nhiều. Những người như anh mất tự do, dù ờ phương diện nào đi
nữa cũng là mất hạnh phúc.
Kha bước xuống thềm... Rồi cánh cửa sắt khép lại quàng thêm
vòng xích, khép lại cả một dĩ vãng xa xưa, xóa nhòa một hiện tại thơ mộng của nợ
tình đã trả... Chợt nhớ mình còn bỏ quên gói thức ăn trên thềm trước cửa, chàng
mở cửa sắt bước vào nữa. Chàng ngồi xuống thảm cỏ trước thềm nhà, nhớ lại câu
chuyện bến đò Rừng. Họ di cư, họ mang theo tình yêu vào Nam, đó chính là nguồn
an ủi lớn và họ đã chiến thắng trong thất bại.
Chàng cúi đầu. Mặt trời vừa lộ ra khỏi mây, bóng nửa thân
chàng đổ dài ra. Chàng tưởng như mình đã quay lại tiệm ăn, ngồi bên hai chàng
trẻ tuổi, nghe lại câu chuyện bến đò Rừng với con cá he bơi ngửa, vút như mũi
tên, phơi bụng lám tám trắng và tím hoa cà. Chàng tưởng như đương ngồi trên con
thuyền sang ngang một sơm mai sương khói và mọi vật đều tự xóa nhòa đường nét,
mát hình, chập chờn...
Chàng tưởng như đang ngồi cùng thuyền với cặp tình nhân bến
đò Rừng. Sau một đêm đi bộ mệt mỏi, khi xuống thuyền, vẻ mệt mỏi của cặp tình
nhân đáng yêu đó càng thêm quyến rũ, tựa như họ mệt mỏi vì mải tìm những ý
nghĩa cao siêu cho cuộc sống sau bao ngày đắm hồn vào cái mênh mông bát ngát
cua dòng sông cửa biển của bến đò Rừng.
CHƯƠNG MƯỜI HAI
CHIẾC BÈ NỮ CHÚA
Kha trở lại căn phòng bên bờ sông của chàng. Những nhà bên cạnh
ăn uống lu bù trước khi xuống tầu di cư vào Nam. Xương gà, xương vịt, xương lợn
vứt xuống sông theo nước xuôi dòng, quanh nhà vẫn sạch mát. Khi nước triều rút,
thấp thoáng bùn và mùi tanh, mùi tanh kích thích sự sống, kích thích lòng ham sống.
Chàng còn ở Hải Phòng thêm tới mười ngày nữa chứng kiến cảnh
buôn bán "chuyến tầu vét": những người di cư vào Nam tìm được nơi ăn
chốn ở rồi bèn buôn từng chuyến tậu gạo, đường, đỗ, lạc... ra Hải Phòng bán cho
những người Tàu ở lại. Chính phủ quốc gia nhân đạo sợ đồng bào miền Bắc đói,
không cản trở việc tiếp tế lương thực như vậy, còn những người Tàu ở lại, họ ưng
buôn hàng vào, vì giữ hàng còn hơn giữ tiền Đông để sau này phải đổi lấy tiền
"Cụ" bằng giá chính thức.
Dân chúng nội địa vẫn tiếp tục tìm đủ mọi cách thoát khỏi
nanh vuốt kiểm soát của cán bộ cộng sản, tới đất Cảng. Đồng bào di cư bằng đường
thủy vẫn túc trực chờ từng chuyến, rồi "tầu há mồm" (L.C.T) cập bến dẩn
các đồng bào lên chiếc tầu lớn nào đó của Hạm Đội Thứ Bảy Mỹ đậu ngoài khơi Hạ
Long...
Kha vào Nam cũng bằng đường thủy. Chàng đến khu lều Thăng
Long của Đoàn Sinh Viên Di Cư Hà Nội - khu lều này được dựng trên nền khám lớn
cũ và sau đây là nơi xây cất Đại Học Văn Khoa. Chàng bắt tay vào điều khiển
giúp tờ nguyệt san của Đoàn. Chàng cũng tìm ngay đến trụ sở mới của tòa soạn
Văn Hóa, gặp Khiết, Khóa, Luận rồi Tân. Chưa kịp gặp Hiển, chưa kịp gặp Miên
chàng đã nhận được lá thư đầu tiên của Vân gửi đến tòa soạn Văn Hóa, rồi lá thư
khác ... lá thư khác nữa ...
Hải Phòng ngày...
Anh yêu dấu,
Em đã trở lại Hải Phòng, trở lại villa đường Lạch Tray cùng với
nữ chủ nhân sau khi đã đưa me em về đồn điền Thanh Ba cải táng cho ba em. Me em
nói với em ngay buổi tối công việc vừa xong: "Bây giờ thì me có thể chết
được rồi!" Me em nói đúng, trận ốm thập tử nhất sinh vừa rồi sở dĩ người
còn cố vùng vẫy luột khỏi bàn tay Tử Thần vì người cương quyết muốn vậy, người
phải trở về đồn điền để cải táng cho ba em xong, rồi có sao hãy hay. Người đã
mãn nguyện và giờ đây người sống cũng như chết, bởi với người bất cứ cặp danh từ
đối lập nào, sống với chết, hạnh phúc với đau khổ v..v.. đều mất hết ý nghĩa. Đạt
tới Nát Bàn trong cõi Phật phải chăng là đạt tới trạng thái tinh thần này ?
Vùng trời bình yên của me em rộng lớn đến nỗi người khiến em bình yên lây, người
giúp em thấy trước bất cứ lúc nào người nằm xuống, ấy là người về cảnh Phật với
ba em và tới lúc đó em không phải khóc, em chỉ việc giữ cho cõi lòng được thanh
tịnh để chia vui với người. Em đưa người về Định Quyết, rồi em cùng người bạn
gái chủ nhân chiếc villa cùng trở lại Hải Phòng. Vừa hai mươi ngày qua kể từ
ngày em dời khỏi vòng tay anh ... Em kê bàn ngay đầu giường viết cho anh những
giòng này. Hình như bức thư để lại lần trước của em tận cùng bằng: "Con đường
từ đây ra ga dài như có đại dương, có sa mạc ..." Nhưng từ lúc đã lên ngồi
gọn trong toa xe em hết buồn, em như một xác chết đã ướp kỹ lưỡng và giữ nguyên
được sắc sống. Có phải vì vậy em càng thông cảm được miền bình yên rộng lớn của
me em hiện giờ ? Mà đúng thế, từ nay em có thể sống như một xác ướp vì em chẳng
còn ân hận gì nữa, vì mọi sự xảy ra đúng như ý em sắp đặt: xuống Hải Phòng, gặp
anh, hẹn anh, được anh chờ, đi ăn cơm cùng anh trước khi vào đêm... hợp cẩn. Bảy
ngày trong vòng tay anh qua đi, ngắn đấy mà cũng dài đằng đẳng ân tình trong hồi
hộp lo âu của em. Giờ đây em chỉ còn chờ.... Nếu điều chờ đó mà được thỏa nguyện
thì em là một hóa công nhỏ muốn sao được vậy; nhược bằng điều chờ đợi đó không
thành sự thực thì cũng chẳng sao. Điều gì đó ? - Một điều rất tầm thường nhưng
chẳng bao giờ đàn ông là anh ngờ tới vì chính em cũng mãi đến phút bừng sáng
kia mới khám phá ra nguyện vọng ấy của mình. Nhưng thôi, hãy để em tuần tự thuật
chuyện. Em có nhiều chuyện để nói, em muốn nói hết những chuyện đó, kể cả những
chuyện thật bông lông giờ đây với em cũng đầy ý nghĩa, em sẽ viết dần từng
ngày, gửi đến anh từng bức thư, mỗi bức thư mang một khuôn mặt vô tận khác
nhau. Em không tự hẹn là sẽ ở lại đất Cảng mấy ngày, viết cho anh mấy lá thư,
chỉ biết sau bức thư cuối cùng, em sẽ là người rẽ vĩnh viễn vào một khúc quành.
Ngày đó về đến ga Phú Thái, xe hỏa như thường lệ ngừng lại để
đợi kiểm soát. Trước khi xe lại chuyển bánh, em đã ngắm khá lâu một căn nhà
tranh cách đó không xa, ngay trước cửa có chiếc mộ xây. Không hiểu sao lại có
chiếc mộ vô chủ ở đó, đây là tha ma cũ, những mộ đất đã được san bằng, chỉ còn
sót lại chiếc mộ xây này được người sống kiêng nể ? Ngôi mộ lúc trông như hình
con rùa, lúc như hình con voi phục. Hình ảnh người sống người chết sát nách
nhau thật ngồ ngộ. Còn gì đau khổ cho bằng sống trong tay nhau mà ngột ngạt,
như trường hợp em với người chồng quá cố, mà với anh thì trước đây em luôn luôn
thức tỉnh để lẩn tránh, thật vô lý, em chẳng hiểu vì sao, có lẽ vì em hiểu em
đam mê anh như thiêu thân đam mê lửa và khi em đã quyết định tự để lọt vào tay
anh, lập tức em tan hòa thành mây khói. Em chạy trốn hạnh phúc để có cảm tưởng
rằng em mãi mãi còn hạnh phúc. Em biết rằng nếu đã không được sống mấy ngày thần
tiên với anh ở đất Cảng trước ngày tiếp thu này, thì chưa chắc em đã để ý nhiều
đến sự phối hợp kỳ lạ của chiếc mộ xây cùng căn nhà ở, chưa chắc em đã khám phá
thấy vẻ ngộ nghĩnh của hình ảnh người sống cùng kẻ chết sát cánh bên nhau.
Em biết như thế lắm anh ạ. Năm ngày sống bên anh, ngọn thác
lũ như êm đềm của Tình Yêu, đã gọt cho em - em tin rằng mãi mãi - những gì là
ngờ vực, hờn giận vẫn từng vò nát tâm hồn thế nhân. Kể ra em còn có thể ở với
anh ít ngày nữa, nhưng để làm gì, đằng nào cũng một lần chia tay; đau khổ đã dạy
em biết khôn ngoan điều độ, em tự động rút lui khi vừa đạt tới tột đỉnh của niềm
vui, như người leo núi nhũn nhặn chỉ tự cho phép mình đứng trên ngọn đỉnh trời
vừa đủ thời gian cắm lá cờ danh dự rồi bình thản bước xuống. Phải không anh,
không sự thành công nào kéo dài - nhất là kéo dài với niềm kiêu hãnh - mà lại không
gây thêm những khó khăn mới. Em muốn được ôm trong lá cờ chiến thắng thể hiện. Ồ
buồn cười thật, anh có hiểu ý em khi nói "muốn ôm trong lòng lá cờ chiến
thắng thể hiện ?" Rồi anh sẽ hiểu.
Khi con tàu bắt đầu chuyền bánh đi vào vùng tiếp thu, em còn nhìn
ngôi mộ và căn nhà một lần cuối, thu hình ảnh đó vào tâm linh, rồi khi nhắm mắt
lại, em nhớ vòng tay anh ôm và lời anh kể thủ thỉ bên tai đêm nào: "Anh đã
trèo lên đỉnh ngọn Khau Loòng, ngọn núi cao bậc nhì của Lạng Sơn, mồ hôi vã ra,
anh khát nước, anh thỏa thuê giải khát bằng những quả sim chín mọng tím đen to
bằng ngón chân cái một và nhìn xuống bên dưới vai mái nhà sàn cùng cả khoảng
dài con sông Kỳ Cùng nước đỏ vẽ những hình vòng cung - đôi chỗ suýt thành hình
chữ O - trên nền mạ xanh của thung lũng, bờ ruộng là màu chỉ xanh thẫm
hơn".
Tiếng đầu máy chuyển động xình xịch đều đều, em vẫn nhắm mắt
để chuyển hình ảnh mái nhà tranh trước cổng có ngôi mộ xây lên một đỉnh non cao
tựa như đỉnh Khau Loòng của anh, có lẽ cao hơn anh ạ, vì em cảm thấy vắng lặng
lắm, nhìn xuống tít bên dưới có con sông nước trong hay đục, nhưng tuyệt nhiên
không có một mái nhà, chốn đó xa lìa hẳn trần gian náo động, chốn đó hình như
chim cũng không bay tới được, chỉ có mây xà xuống rồi vướng lại thôi. Anh còn
nhớ đêm nào ờ đây, anh hôn lên vành tai em rồi nói: "Chiếc bè nữ chúa, hãy
chở anh ra ngoài khơi không gian". Giờ đây hình ảnh đỉnh non cao như đè
lên em, và cả trái núi, cả mái tranh vắng lặng cùng chiếc mộ xây cô tịch cùng
tiến ra khơi không gian.
Thư sau anh nhé.
Hôn anh,
Em
Hải Phòng ngày...
Anh yêu dấu,
Cuộc đời thì bất trắc mà tình yêu của chúng ta thì chân thành
thế là đủ rồi, bởi tình yêu trùm lấy cuộc đời như bóng hoa lá ngoài vườn đêm
nào theo ánh trăng tràn vào đu đưa theo gió trùm lên chiếc màn của chúng ta khiến
em có cảm tưởng tình yêu của anh đương ủ em dưới bóng rừng lay động huyền ảo.
Em yêu anh đến không còn tự chủ được nữa.
Dinh cơ của ba mẹ em ở làng Định Quyết giờ đây hoang tàn quá
anh nhỉ. Bao nhiêu cây cối xưa đâu cả, một vài cây còn lại cũng cằn cỗi. Em còn
nhớ những cây ổi găng ngày xưa quả lớn, ít hột, cùi trắng như lê, các bạn em
ngày nghỉ về chơi giải chiếu nằm dưới gốc chỉ khẽ nghển lên cũng với được trái
ăn, chúng nó mê tơi về cây cối hoa quả nhà em. Em còn nhớ cây roi sai quả, nhất
là sau trận mưa, lá được rửa xanh mướt quả từng chùm chi chít trắng nõn. Em còn
nhớ cây muỗm ở gần giếng, trên cây này ba em làm chuồng chim bồ câu, xung quanh
giếng có mấy hàng dứa. Ồ, hai mươi cây na quanh vườn, hoa na vào mùa hè thơm
mùi rượu nếp, trái lớn vào mùa thu; tháng bảy, tháng tám, có sáng chủ nhật em
soát lấy được mấy khay đầy những na tơ, mỗi quả to bằng cái bát, lúc hái cuống
vứa nứt, hái buổi sáng, buổi trưa đã mềm, ăn ngọt sắc, những quả chín bỏ quên,
chim đến tranh ăn làm tụt xuống trơ cuống trên cành. Anh còn nhớ hoa đào hoa mận
trong vườn nhà em nở vào dịp Tết ? Trên các cành đào cành mận thường có những cục
nhựa dính như keo, trong như hỗ phách, đào nở hoa về Tết nhưng đến tháng năm mới
có quả chín. Sáng hè chủ nhật nghe tiếng ve sầu kêu em dậy thật sớm, rón rén ra
vườn rình bắt ve sầu, khi chụp được, khi thì nó bay vù. Trước hiên nhà có mấy
cây hồng, hoa to bằng cái tách và rất nhiều thứ cúc bướm, hoa đủ màu tím, vàng,
đỏ, trắng hòa lẫn với hoa loa kèn đỏ xẫm cỏ vườn từng khoản xanh um, có châu chấu
cào cào. Hoa móng rồng xung quanh hàng hiên tối đến thơm mùi mít. Lẫn vào với
cây móng rồng là giàn hoa ớt leo lên tận mai, Tết đến hoa nở từng chùm đỏ ngoài
hiên. Sát bờ rào là mấy cây ngọc lan và hoàng lan cao vút, hương thơm thoang
thoảng cao quý lạ. Đặc biệt xế buồng em có giàn thiên lý, nhiều đêm em chợt tỉnh
nhớ đến anh (bây giờ thì em dám nói thực điều đó) và đón hương thiên lý thơm
mát theo gió lùa vào cửa sổ. Anh còn nhớ đên rằm nào khóm quỳnh nhà em nở mười
bảy bông nền, ba em pha trà sen, mua bánh đậu Nguyên Hương Hàng Bông về để chờ
xem hoa nở dưới ánh đèn măng xông sáng xanh, ôi, những bông quỳnh trắng tinh nở
vào đúng lúc nửa đêm, các anh thì bảo trông như hàm rồng, em thì thấy như những
cái nôi tinh khiết của thiên thần. Buổi chờ xem hoa nở đó đông đủ các bạn của
ba em, các bạn của anh Hãng, anh ngồi dối diện với em. Đêm đó, chứng kiến các bạn
học của anh Hãng lăng xăng chiều chuộng em, anh có lo lắng?
Em ôn lại được hệt khung cảnh cũ, anh thấy không ? Viết đến
đây em thấy mình trẻ lại thời đó, bâng khuâng y như thời đó. Em ôn lại như vậy
cũng chỉ đặt anh vào đúng khung cảnh xưa, em viết lại cũng chỉ để riêng anh đọc.
Rồi đây em còn nhớ lại những thứ ấy làm gì ?
Hôn anh,
Em.
Hải Phòng ngày...
Khi vĩnh biệt anh, em còn giữ được một tờ bản thảo, em muốn
giữ bút tích anh, hôm nay mới giở ra, qua những giòng rập rập xóa xóa em đọc:
Tôi cất tiếng cười cùng với chuông nhà thờ rền rỉ; tôi nghĩ đến
những người mất tự do vì muốn độc quyền Thượng Đế.
Nàng ca sĩ trẻ tuổi, buổi đầu thất bại. Nàng ngã vào tay người
yêu tìm an ủi. Tôi yêu người con gái mảnh khảnh đó, đôi mắt đen bỡ ngỡ làm ngỡ
ngàng cả bóng chiều, nàng mặc áo sọc xanh nhạt, ngồi nép mình trên phản nghèo.
Tình yêu nuôi tự do!
Nàng ca sĩ nào đó, anh ? Em ghen! Em ghi thêm tư tưởng của
em:
Trong chín mươi chín lần khổ tất nhiên cũng có lần sung sướng,
lần sung sướng đó thường làm quên hết chín mươi chín lần lận đận kia. Chân hạnh
phúc dưới bất cứ hình thức nào đều cho ta cảm giác vượt khỏi cái sống chết.
Hôn anh,
Em.
Hải Phòng ngày...
Anh yêu dấu,
Anh còn nhớ đêm nào anh và em cùng sực dậy lắng nghe tiếng muỗi
và anh nói: "Tiếng muỗi trong đêm khuya nghe xa vẳng lạ, như tiếng than
van của tạo vật thuở còn cô độc chưa có bóng người, chưa có nghệ thuật".
Đêm nay em cũng thức giấc như vậy, một mình lắng nghe rất lâu
tiếng muỗi, bụng em thót lại ... em rùng mình ớn lạnh. Đúng thế anh ạ, tiếng muỗi
trong đêm khuya nghe xa vắng lạ, như tiếng kêu chới với từ một tiền kiếp nào vẳng
lại. Đã có một đêm anh nói với em giữa hai cái hôn dài: "Tình chúng ta chỉ
có im lặng mới nói hết được". Chao ôi, nhưng nếu giữa cái im lặng phì
nhiêu đó của đêm khuya lại có tiếng muỗi ? Trong khi mắt em mở trân trân trong
bóng tối, tiếng muỗi - tiếng tiền kiếp - du em vào miền hư không, tim em đập
trong hư không, đôi tay em nắm vào hư không, sự vỡ lở của hạnh phúc thế nhân
tan rời êm lặng trong hư không. Em nhớ lại những đêm hè tháng năm tháng sáu thuở
còn con gái, về quê không ngủ được: không một sợi gió, thấp thoáng ánh trăng
qua khe cửa và trong màn em cũng lắng nghe tiếng muỗi cô độc não nùng chập chờn
bên ngoài...
Em đã vùng dậy bật đèn ngồi vào bàn viết những dòng chữ của bức
thư cuối cùng này, vâng bức thư cuối cùng anh ạ, bức thư thứ tư thì phải, mai
em về Hà Nội sớm, em không thể ở lại đây lâu hơn được nữa. Bây giờ thì em có thể
kể thẳng vì sao em đã vội vã xuống đất Cảng tìm anh.
Hiệp định Genève ký, đoàn thể giữ khéo con em lại và cử em về
Hà Nội để thuyết phục những người thân. Em đến tòa báo Văn Hóa hỏi thăm tin tức
về anh, đúng lúc anh Khiết vừa tiễn một người bạn tới cửa, câu cuối cùng người
bạn đó nói với anh Khiết :
- "... Tớ ở lại chúng nó không giết tớ đâu, các cậu cứ
vào Nam, ai làm được cái gì thì làm, nhưng tớ ở lại, giờ phút này mới là bắt đầu
kháng chiến!"
Trở vào tòa báo anh Khiết cho em hay anh đã xuống Hải Phòng để
chờ ngày cùng người bạn gái làm ở nhà thương cùng vào Nam bằng đường thủy. Có lẽ
anh Khiết cho rằng dĩ nhiên em cũng sẽ đưa me em di cư vào Nam nên ghi cho em địa
chỉ của anh, của cô Miên ở Hải Phòng và cả địa chỉ tòa báo Văn Hóa tại Sài Gòn
mà anh Khóa vào trước đã thu xếp cho.
Cả ngày hôm đó me em kêu rức đầu, buổi chiều người sây sẩm mặt
mũi ngã ngất. Em về đúng lúc để săn sóc người, hình như người đã cố gắng gượng
chỉ để đợi em về. Anh Khiết lại thăm, em thú thực với anh là hoàn cảnh buộc em ở
lại, me em cũng không vào Nam mặc dầu thư gởi sang Pháp em phải nói ngược lại
cho anh Hãng yên lòng. Lần đó anh Khiết nói chuyện với em lâu bằng một giọng
tâm sự. Để em thuật lại gần đúng như lời anh Khiết đã nói với em hôm đó.
"Theo ý tôi - lời anh Khiết - ngoài những trường hợp đặc
biệt hoặc bất khả kháng như trường hợp của bác và của cô đây, ở lại còn bốn hạng
người chính. Thoạt phải kể đám đa số quần chúng chưa biết gì về Cộng sản, họ mừng
nhất. Tội nghiệp !
Ba hạng sau này, có ý thức mà ở lại, tôi đều có bạn điển hình
:
Người bạn thứ nhất, anh Lâm theo Đảng, tin Đảng thuần bằng
tình cảm, có công cướp chính quyền ở Hải Phòng năm 1945, được Đảng đặt vào làm
nhân trong Dân Chủ Đảng, từng là ủy viên trong ủy Ban Hành Chính Hải Phòng.
Kháng chiến, được ủy vào làm trong cơ quan văn hóa của công an Liên Khu III. Chứng
kiến một người bạn thân trong Dân Chủ Đảng bị thủ tiêu giữa sông, kế tiếp đó
còn được chứng kiến bao hành vi bạo tàn khác, vỡ mộng, chán chường, vì quá tin
tưởng mà thành chán chường, cái chỗ mình tin là sán lạn nhất lại hóa ra tăm tối
nhất. Con người tình cảm đó đã chót cho hết, cho hết tuổi hoa niên đẹp nhất,
cho hết niềm tin tưởng nồng nhiệt nhất, cho đến khi nào thành chỉ còn là con
người trống rỗng, ghê tởm chính giới, thây kệ những danh từ Tự Do Độc Lập giả
trá, mình tự cho mình chút ít sinh thú nhỏ mọn: làm một chân thư ký quèn, ăn một
miếng cơm, yêu một người bạn, ở độc thân, nuôi thằng cháu nhỏ mồ côi cho đi học,
đầu tháng mà dư tiền thì mua chai vang nhắm với thịt lợn sữa quay, cuối tháng hụt
tiền thì mua một cút rượu ngang với mấy đồng bạc tai heo. Không xét mình mà
cũng chẳng xét người. Giờ đây Cộng sản sắp về thì về, biết rằng bão sắp đến thì
ngồi chờ bão. Muốn tránh bão tất phải chạy - thiết gì chạy ! Kẻ ra đi là để tiếp
tục tìm kiếm, mà đổi mới, xây dựng, mình thì còn gì nữa đâu mà tìm kiếm, mà đổi
mới, mà xây dựng ? Và Lâm nói với tôi: "Nếu không sống được thì anh cứ tin
rằng tôi tự tử, cái quyền đó chúng không lấy được của tôi !".
Người bạn thứ hai: anh Mỹ, một nhà văn hóa, trước có giao thiệp
nhiều với phe Đệ Tứ. Kháng chiến, có vào đoàn thể cứu quốc, nhưng để chống đối
nhau với Cộng sản, đến khi không chịu được thì về thành. Nay đã trên bốn mươi
tuổi, mới lấy vợ, vợ đương có mang, lại mới tậu được căn nhà nhỏ làm chút tư hữu.
Tuổi bốn mươi trở ra bắt đầu có khuynh hướng an phận thủ thường níu giữ chút gì
mình có, biết rằng ở lại thì... ngột ngạt hương hoa, nhưng ra đi bỏ lại thì
không đành, rồi tìm cớ để tự an ủi: "Sài Gòn đất tốt thật nhưng cây cao mà
rễ nông, nền văn minh căn bản của dân tộc rồi trước sau cũng phải về bắt rễ ở đất
Thăng Long này". Và Mỹ ở lại.
Người thứ ba là Hữu vừa ra khỏi đây, cô gặp đấy. Tôi quý Hữu
vô cùng, Hữu tin là dân tộc mình không những có khả năng mà còn có thiền mệnh
mang lại cho nhân loại một nền văn minh mới quân bình Tình với Lý, hòa hợp Người
với Thiên Nhiên... Anh vẫn nói dân tộc mình đau khổ mấy ngàn năm rồi mà vẫn trường
tồn tất phải có thiên mệnh nào chứ ! Anh bị Cộng sản bắt giữ ngay từ đầu kháng
chiến, di chuyển hết trại giam này sang trại giam khác, cứ trơ trơ như vậy. Nhốt
chán họ thả anh ra, thì thấy trong tù hay ngoài tù anh cũng cứ "tỉnh
bơ" như vậy, sau cùng họ không buồn kiểm soát nữa, liệt anh vào hạng cuồng
chữ, học giỏi biết nhiều, mở miệng bàn toàn những Hà Đồ, Lạc Thư, Thiên Cơ, Bát
Quái... Khi vào Thành gặp bạn nào anh cũng nói bằng tiếng Pháp: "Tao đã
lăn lóc hết các nhà tù của chúng nó mà tao không chết !" Bây giờ thì Hữu
cương quyết ở lại, tuyên bố thẳng với các bạn bè thân tình: "Tớ đã có nhiều
kinh nghiệm với chúng nó, ngày nào chúng nó mang cái mất độc lập về, ai cũng đi
cả thì ai ở lại kháng chiến ? Tớ ở lại, chúng không giết đâu. Các cậu cứ vào
Nam, ai làm được cái gì thì làm, nhưng tớ ở lại, giờ phút này mới là bắt đầu
kháng chiến".
Tôi lại còn một số bạn nữa là Cộng sản chính cộng - (lời anh
Khiết đến phần kết thúc) - họ hay tin tôi cương quyết vào Nam bèn viết thư nói
kháy: "Thông minh như mày mà cũng đi theo đế quốc xin cơm thừa canh cặn của
chúng sao?!"
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét