Vào thiền
Tôi chẳng nhớ rằng mình đã để ý đến Thiền tự bao giờ chỉ biết
chắc rằng những ý tưởng nhuộm màu Thiền đã nhật tích nguyệt lũy thấm dần vào
tôi như những giọt nước rồi liên tục làm lõm phiến đá.
Xưa có lần nghe chuyện kể ngài Tuệ Trang đời Trần tu mà vào
tiệc vẫn ăn thịt cá. Em gái ngài là Khâm Từ hoàng-hậu ngạc nhiên hỏi: "Anh
đã tu thiền mà còn ăn mặn làm sao thành Phật được?". Ngài cười đáp:
"Phật là Phật, anh là anh, anh chẳng cần làm Phật, cũng như Phật chẳng cần
làm anh!..." Lời nói thật hồn nhiên phá chấp. Lần khác nghe kể chuyện ngài
Đạt-Ma Huệ Năng nói gánh nước bổ củi cùng là Thiền (vận thủy ban sái, công phu
đệ nhất). Gần đây, tôi đọc cuốn Nẻo Về của Ý của Nhất Hạnh cũng có đoạn tác giả
viết quét nhà, lau cầu tiêu mà lòng thơ thới, mà hồn phơi-phới tức thị cũng là
Thiền rồi. Mở đầu đoạn này - tôi còn nhớ - Nhất Hạnh tả một thằng bé
con vừa ngồi ăn cơm với quả trứng luộc vừa ngắm trời mưa và đã gợi tả được trạng
thái vô tư, thơ thới - trạng thái Thiền - của thằng bé con nhà nghèo
đó. Trên các sách báo, gặp bất kỳ đoạn nào, bài nào nói về Thiền tôi cũng
đọc, rồi cái gì hợp với mình thì nhớ (nhiều khi chỉ nhớ mang máng) còn cái
gì rơi vào quên lãng, ắt là những cái vô bổ với tạng mình. Tôi vẫn nghĩ một
cách rất chủ quan rằng thái độ đọc Thiền như vậy mới thật là... Thiền.
Mùa hạ 1967, tai Tallahassee, thủ phủ tiểu bang Florida, tôi
được một người bạn Mỹ yêu đạo Phật tặng cho cuốn sách Thiền xinh xinh mang nhan
đề Zen Buddhism của nhà xuất bản The Peter Pauper Press, Mount
Vernon, New York, 1959. Lần đó, tôi được đọc những giai thoại dí dỏm về Thiền
giữa màu sắc bừng sáng của những loại hoa cúc, hải đường, Azalea của miền Nam,
phảng phất mùi hương thanh thanh của hoa Magnolia, đôi khi dưới bóng rừng ngợp
màu rêu, loại rêu ngan ngát tím bao phủ lấy các cành cây và rũ xuống như tơ liễu.
Phần lớn những dụ ngôn, giai thoại về Thiền các bạn đọc sau đây đều kể lại theo
bản in này. Đó là những truyện có tác dụng "tập thể dục" cho trí
thức, giúp ta tự khám phá thấy cái bất lực thê thảm của lý trí đơn thuần.
Thực là một thái độ ấu trĩ đến khôi hài khi chúng ta hăm-hở
muốn định nghĩa Thiền, nhưng với những ai chợt hồn nhiên hỏi tôi "Thiền
là gì?" thì tôi cũng hồn nhiên trả lời: "Theo kinh nghiệm bản thân của
tôi: Thiền là một trạng thái Niết-Bàn tại thế".
Thực ra yếu tính Thiền là một siêu lý, một siêu lộ, một sự
phá chấp được đẩy đến tuyệt đối để chân tướng thực tại tự bừng nở trong thực
nghiệm tâm linh của ta.
Khi đã thấm nhập hương Thiền, thái độ dễ hiểu nhất là thái độ
thức tỉnh nóng-bỏng tự động phá chấp y như chiếc lò xo có khuynh hướng ruổi ra
khi bị ép. Nhất định không chịu để lý trí nhốt mình chung thân trong nhà tù
khái niệm!
Dòng đời như dòng sông, không một sích na nào ngừng trôi chảy,
nô lệ cho lý trí đơn thuần ham cắt xén, thì chỉ thấy được cái ngưng đọng, cái
chết. Những khái niệm con đẻ của lý trí chật hẹp và khô cứng kia làm sao chụp
được dòng thực tại không ngừng triền miên trong thế tương sinh tương lập.
Con cá thảnh thơi bơi lội giữa lòng trùng dương khác xa với
cái nhìn, với kiến thức của con cá trong một giây phút nào đó vùng quẫy được
lên cao khỏi mặt nước và tìm hiểu đại dương bằng cái nhìn - dù là cái nhìn
bao quát - của nó lúc đó.
Chân lý gói ghém trong mỗi truyện Thiền đúng như que
diêm chỉ xoè lên soi sáng một lần. Cùng một câu hỏi, đừng hy vọng có hai câu trả
lời lần lượt y như nhau.
Mỗi chúng ta là một que diêm sống, không ai sống hộ ta, ta phải
tự sống lấy, tự chiêm nghiệm lấy Thiền. Que diêm khi tắt đi, chút khói xanh để
lại. Rồi chính chút khói xanh đó cũng tan loãng nốt và biến hẳn như vết chân
gió xóa trên bãi cát. Tuy nhiên, cũng nên chụp lấy chút ít khói xanh còn trong
giây phút phiêu lãng đó, bởi dù cho khái niệm không chuyên chở được thực tại
nhưng người ta vẫn có thể nương vào khái niệm để tìm tới thực tại. (Vì vậy mà
tôi viết tập Vào Thiền này).
Nào chúng ta hãy thực tế Vào Thiền, làm quen với phá chấp. Với
những tiêu đề Vào Thiền, Lời Thiền, Đạo Thiền v.v. xin ai chớ ngạc
nhiên khi thấy chúng chợt hư ảo đi và lẫn lộn ranh giới.
Có ai "túm giữ được nước trong vốc tay đâu"?!
LỜI THIỀN
Thiền sư Kyogen nói với các môn đệ của ông:
"Thiền như hệt một người ở thế tự treo lơ lửng trên bờ vực
thẳm. Răng hắn cắn lấy một cành cây để giữ toàn thân lửng lơ trên vực. Tay hắn
không hề nắm giữ một cành cây nào; chân hắn không hề được đặt trên một cành cây
nào. Thế rồi ở trên một mỏm đá gần đấy có người cúi xuống, cao giọng hỏi hắn:
"Này anh, Thiền là gì?" Không trả lời, hắn thua cuộc. Mở miệng trả lời
ư? Nát thây dưới đáy vực! Vậy hẳn phải làm gì?
Giải thích Thiền, tìm hiểu Thiền qua lời nói đơn thuần, nguy
hiểm biết chừng nào, nguy hiểm như vậy đó! Không thể đựng mây hồng trong hộp sắt,
không thể vẽ bướm bằng cành tre! Là tôi nhớ lại đâu đó lời của Pearl Puck.
Schuzan tiên sinh giơ chiếc gậy của người lên trước đám môn đệ
nói:
"Nếu gọi cái này là cái gậy, các người phủ nhận đời sống
vĩnh cửu của nó. Không gọi nó là gậy, các người phủ nhận thực tại của nó. Hãy
cho ta hay các người định gọi nó là gì nào!"
Ôi, khi Lão-Tử nói "Đạo khả đạo phi thường đạo",
Lão-Tử chỉ đi có một chiều: Vươn về cái vĩnh cửu. Schuzan tiên sinh đặt các môn
đệ ở một vị trí mà tư duy bị tứ mã phanh thi.
Áo-nghĩa-thư Upanishad cũng phân biệt hai trình độ hiểu biết:
thượng trí và hạ trí. Cái biết thượng trí là cái biết về thực tại tuyệt đối,
còn cái biết hạ trí là cai biết về các hiện tượng vô thường, hình danh sắc tướng.
Tuy nhiên hạ trí không phải là không có ích lợi. Hiểu cho đúng, nó là một phương
tiện đưa ta đến cái biết thượng trí. Điều cần ghi nhớ là khi đã tới bến hành
khách phải dời thuyền mới lên bộ được. Ngày xưa, đức Phật há chẳng trách A-Nan
thường hay quá nệ vào kinh kệ, nào có khác gì con lừa chở nặng trên đường xa.
Phải vứt bỏ vỏ trấu mới lấy được hạt gạo chứ!
Thiền-sư Foso Hoyen nói với các môn đệ:
"Này các con, thầy nghe nói sinh thời đức Phật có dạy tới
năm ngàn bốn mươi tám chân-lý, kể cả chân-lý về hư vô và thực hữu, kể cả
chân-lý về tiệm ngộ và đốn ngộ. Phải chăng hết thảy những lời Phật dạy đó đều
là những lời khẳng định?
"Nhưng một mặt khác Yoka đại nhân, trong cuốn Giác-ngộ-ca
của người, lại nói không có thực hữu, không có Phật; kẻ hiền giả, kẻ thông minh
thánh trí chẳng qua như bọt bể, như tia chớp, có đấy không đấy, lóe sáng đấy lại
tối mò đấy. Phải chăng tất cả những lời của Yoka đại nhân đều là những lời phủ
định?
"Này các con, nếu các con nói "có", các
con phủ nhận Yoka đại nhân; nếu các con nói "không", các con phản
đối lời Phật dạy. Nếu đức Phật có đây, không hiểu Ngài sẽ giải quyết vấn đề ra
sao.
"Giá như các con biết chắc mình đứng hẳn về bên nào
chúng ta gặp Phật, chúng ta có thể sáng sáng tới thụ huấn Ngài và chiều chiều tới
chào Ngài trước khi đi ngủ. Nhưng vì chúng ta không ai có thể đoán chắc là mình
ở hẳn về bên nào, nên ta nhủ các con một bí quyết: khi ta nói cái này như
vậy đó, chưa hẳn câu đó đã hoàn toàn là câu khẳng định. Khi ta nói cái này
không phải như vậy đó thì chưa hẳn câu đó đã hoàn toàn là câu phủ định.
Quay về Đông mà thấy được giải đất linh-thiêng miền Tây-vực; hướng về Nam mà
tìm ra chòm sao Bắt-Đẩu."
Trang-Tử viết trong Nam-hoa-kinh, Tạp thiên:
Đặt nơm là vì cá,
Được cá hãy quên nơm.
Theo dò là vì thỏ,
Được thỏ hãy quên dò.
Nên lời là vì ý,
Được ý hãy quên lời.
Ta sao tìm được người biết quên lời để cùng nhau trò chuyện.
Một thiền viện mới được thành lập, Thiền-sư Hyakujo cần tuyển
chọn một người trong đám môn đệ để trông nom Thiền-viện đó. Tiên-sinh bèn cho gọi
đám môn đệ tới, chỉ một chiếc bình chứa đầy nước và nói: "Trong các con liệu
có ai giải thích được cái này là cái gì mà không cần gọi đến đích danh
nó?".
Thiền sinh trưởng tràng được phát biểu trước: "Nó đứng
thẳng, nó rỗng lòng, nhưng chẳng phải là chiếc giày bằng gỗ".
Một thiền sinh khác: "Nó chẳng phải là một cái áo, bởi
người ta khênh nó được".
Thiền sinh em út phụ trách việc bếp nước, lẳng lặng đứng lên
lấy chân đạp chiếc bình vỡ lăn chiêng, nước tung tóe ra sàn.
Một cách đạt ý vô ngôn hảo diệu! Ý thức dính liền thực tại (cái
mà thế nhân gọi là cái bình), ý thức hóa với thực tại, ý thức là thực tại khi
bình vỡ lăn chiêng, khi nước chảy lênh láng!
Thiền sinh được cử trông coi Thiền-viện.
Thiền là siêu lý, siêu lộ! Với mọi tiếng nói lý giải Thiền, lập
tức Thiền khép lại như lá hổ ngươi. Thiền khép cánh lại như vậy để ôm lấy niềm
im lặng vô ngôn. Mà kỳ lạ thay. Vô ngôn nhưng không tách rời thực tại. Chính vì
vô ngôn mà cụ thể toàn diện. Chính trong niềm im lặng vô ngôn đó, những vang vọng,
ý nghĩ, nhựa sống của ngôn từ của hành động, của ý nghĩa càng tràn bờ để xóa bỏ
mọi biên giới mà tắm gội, bao dung lấy hết thảy.
Kìa chuyện trên núi Linh-Thứu, Phạt đưa một cánh hoa sen lên
cao và im lặng. Tất cả đều ngơ ngác, duy Ca-Diếp mỉm cười thông ý. Phật đẹp
lòng gật đầu mà rằng: Đạo ta bất khả thuyết. Lời nói chỉ làm mất đạo mà thôi,
điều cần là phải biết quán tâm để trực ngộ.
Ngài Ca-Diếp từ đó được coi như Sư-tổ của phái Thiền.
Lời với đạo như bóng với hình. Tuy hai mà một! Nhưng ở trên
đã chót có Lời Thiền thì ở dưới xin tiếp: Đạo Thiền.
ĐẠO THIỀN
LÃO TỬ nói: "Đạo khả đạo phi thường đạo ".
Theo Áo-nghĩa-thư Upanishad, Brahman (Đại-ngã) là cái
ngã vũ trụ đại-đồng; Âtman (Tiểu-ngã) là cái ngã cá nhân phức biệt, nhưng
sự phức biệt đó chỉ là giả tưởng vì bản chất cả hai đồng tính với nhau. Câu định
nghĩa kỳ diệu về thực tại đồng nhất Braham - Âtman như sau: "Cái
ngã ở trong lòng ta nhỏ hơn hạt gạo, nhỏ hơn hạt mì, nhỏ hơn hạt cải, nhỏ hơn hạt
kê. Cũng cái ngã ở trong lòng ta, lớn hơn trái đất, lớn hơn bầu khí quyển, lớn
hơn cả bầu trời, lớn hơn tất cả mọi thế gian" 1. Vì vậy trong Upanishad, Brahman và Âtman
thường được dùng lẫn lộn, không phân biệt...
Tóm lại Brahman là một thực tại vô hạn hằng cửu, vừa ở ngoài
vừa ở trong tất cả những thân xác hữu hạn, là nguồn phát sinh ra vũ trụ, thần
thánh và muôn vật trong vũ trụ.
Đạo-si Varuna đáp lời con là chàng Bhrigu hỏi về Brahman:
"Cái do đấy mọi vật sinh ra, cái nhờ đó mọi vật sống được, và cái ở đó mọi
vật trở về sau khi chết. Con hãy tự tìm hiểu lấy, cái đó là
Brahman."
Trong Taittirâya Upanishad, Tuyệt-đối Brahman được quan niệm
như một cái tổ chim có ba con chim nhô đầu ra là Virâj, Hiranya-garbha và
Ishvara.
Khi Tuyệt-đối được quan niệm là độc-lập tự-hữu thì gọi là
Virâj; khi được coi là tinh thần của vũ-trụ thì gọi là Hiranya-garbha; khi được
coi là Thượng-đế hữu-ngã thì gọi là Ishvara. Ishvara trở thành Brahmâ (thần
Sáng-tao), Vishnu (thần Bảo-tồn) và Shiva (thần Hủy-diệt) là ba chức
phận có liên hệ nhân quả với nhau. Thực-tại chẳng phải là tổng số của tất cả những
ý niệm trên đây mà là sự đồng nhất không thể diễn tả được bao gồm tất cả những
ý niệm dị biệt kia.
Tuy nhiên càng cố gắng định nghĩa và định tính Brahman bao
nhiêu ta càng cảm thấy bất mãn bấy nhiêu. Càng mô tả càng thấy mọi sự mô tả đều
thiếu sót. Rốt cuộc người ta luôn luôn phải tự nhắc nhủ là Brahman không thể mô
tả được mà phải thực hiện. Trong Mândûkya Upanisad có nói tới bốn trạng thái thực
hiện Brahman minh bạch và chân xác là: thức, mộng, ngủ-say-không-mộng và trực
giác thuần túy. Trong trạng thái thức, tự ngã thể hiện qua những đối tượng
bên ngoài của giác quan; trong trạng thái mộng, tự ngã thể hiện trong một
thế giới ảnh tượng và có sự thực nghiệm tế nhị; trong trạng thái ngủ-say-không-mộng,
tự ngã trở nên thuần nhất, không phân biệt chủ thể và khách thể, tinh thần vượt
ra khỏi các ảnh tượng ý niệm và dục vọng; nhưng lại e rằng có thể bị ngộ nhận
là một trạng thái vô thức tuyệt đối, nên mới nói thêm trạng thái thứ tư, trạng
thái trực giác thuần túy hoàn toàn vượt ra khỏi thế giới ảnh tượng và ý niệm lưỡng
nguyên, thực sự đồng nhất chủ thể với khách thể, tiểu-ngã với đại-ngã.
Trong Chândogya Upanisad có thuật lại dụ ngôn đi tìm chân-ngã
Âtman giữa hai đại diện của Thần và Quỷ như sau:
Một hôm đấng Thượng-đế Prajâpati nói: "Chân-ngã Âtman
không bị tội lỗi làm nhơ-nhuốc, không bị tổn hại vì tuổi già, đau khổ hay sự chết;
không bao giờ đói, không bao giờ khát. Chân-ngã không ham muốn gì vì luôn luôn
đầy đủ. Người nào nhận biết được Âtman sẽ là chúa tể của tất cả mọi thế gian,
trở nên bất tử và đạt được hạnh phúc viên mãn."
Các thần linh và loài quỷ đều nghe rõ lời nói của đấng Thượng-đế
Prajâpati, các thần linh chon Indra, còn loài quỷ chọn Virocana để gởi đến làm
đệ tử Ngài.
Sau một thời gian tu tập là ba mươi hai năm, cả hai được
Prajâpati gọi đến và bảo rằng: "Cái ngã mà các ngươi thấy ở trong tròng
con mắt là Âtman. Đó cũng là cái ngã mà các ngươi thấy ở dưới nước hay trong tấm
gương soi. Hãy đi xem cái ngã ấy rồi trở lại nói cho ta nghe."
Mấy hôm sau Indra và Virocana trở lại nói: "Thưa Ngài,
chúng tôi đã thấy cái ngã của chúng tôi. Chúng tôi nhận thấy ở trong gương đầy
đủ hình ảnh của thân xác suốt từ đầu tới dưới chân."
Prajâpati dạy tiếp: "Nay các ngươi hãy cạo đầu, thay đổi
quần áo mới rồi lại đi soi gương nữa xem."
Hôm sau, cả hai trở lại mừng rỡ khoe rằng: "Chúng tôi thấy
cái ngã ở trong gương rất tươi đẹp và sạch-sẽ". Nói xong, cả hai hoan hỉ
ra đi.
Quỷ vương Virocana trở về dạy lại cho đồng loại cái nhận thức
sai lầm ấy về chân ngã. Về phần Indra, khi đi được một quãng đường, bỗng suy
nghĩ lại và nhận thấy mình đã vội lầm. Thật thế, nếu hình hài thay đổi mà cái
ngã ở trong cũng thay đổi theo thì khi hình hài chết đi, cái ngã ấy tất cũng không
còn. Như vậy, cái ngã phản chiếu ở trong gương hay dưới nước đâu phải là chân
ngã bất diệt!
Indra bèn trở lại với Prajâpati, giải bày thắc mắc của mình
và xin được học thêm.
Prajâpati bắt Indra tu tập thêm ba mươi hai năm nữa rồi mới dạy
tiếp: "Cái ngã hạnh phúc trong giấc mộng, đấy là chân ngã". Indra
sung sướng ra về, nhưng đi được nửa đường lại bỗng thấy ngờ vực ý nghĩa của lời
dạy. Thực thế, cái ngã trong giấc mộng không phải bao giờ cũng hạnh phúc, mà có
nhiều khi đau đớn cả về thể chất lẫn tinh thần. Như vậy cái ngã ở trong mộng
không thể nào là chân ngã Âtman.
Một lần nữa, Indra trở lại giải bày thắc mắc ấy với
Prajâpati. Cũng như lần trước, Indra phải tu thêm ba mươi hai năm nữa,
Prajâpati mới dạy tiếp: "Cái ngã bản nhiên thanh tịnh trong giấc ngủ-say-không-mộng,
đó chính là chân ngã."
Indra suy nghĩ và tin chắc lần này đã đạt được chân lý nên
vui vẻ ra về. Khi gần tới nơi bỗng lại thấy lóe lên một niềm ngờ vực nữa:
"Trong giấc ngủ-say-không-mộng, cái ngã không tự biết mình. Như vậy, cái
ngã vô thức ấy không thể nào là Âtman hoàn toàn sáng suốt được.
Không nản chí, Indra quay trở lại tìm Prajâpati. Lần này đấng
Thượng-Đế chỉ bắt Indra tu thêm năm năm nữa. Sau đó Ngài dạy rằng: "Hỡi
Indra, ngươi đã hiểu biết được chân ngã nhờ sự thành tâm bền chí và lòng khao
khát tìm sự thật. Thân xác này chỉ là vật chất vô thường và là nơi trú ngụ tạm
thời của chân ngã vô hình, bất tử. Chừng nào chân ngã còn ở trong thân xác thì
cũng có vẻ sinh hoạt theo xấu, tốt, sướng, khổ. Nhưng thật ra nó ở trên hết mọi
hoàn cạnh đối nghịch. Cũng như gió mây, sấm chớp vốn vô hình nhưng cũng có khi
xuất hiện thành hình tượng trên nền trời rồi lại tan biến đi, chân ngã vô hình
cũng trú ngụ trong những thân xác vật chất hữu hạn. Khi thân xác chết, nó lại
trở về hợp nhất với đại ngã vô cùng."
Dụ ngôn trên đây trình bày cho ta thấy các giai đoạn thực hiện
chân ngã Âtman, tương tự với bốn giai đoạn thực hiện Brahman đã được mô tả
trong Mândâkya Upanishad: thức, mộng, ngủ-say-không-mộng, và trực giác thực hiện
chân như đồng nhất hóa Âtman-Brahman.
Dụ ngôn trên cũng giúp ta phân biệt thần với quỷ, phân biệt
chẳng phải do hình thức bên ngoài mà do giá trị tâm linh nội tại. Quỷ vương
Viracana không thực hiện được chân ngã chỉ vì đã tự mãn với tri thức về cái ngã
hiện tượng, trong khi chúa tể các vị thần là Indra thực hiện được chân ngã vì
thành tâm và bền chí trong việc học hỏi và thực nghiệm tâm linh. Ôi, con đường
đi tìm chân lý quả thật chật hẹp và bén nhọn như lưỡi dao cạo rất khó vượt
qua 2.
JOSHU tới thỉnh giáo-sư phụ là Thiền-sư Nansen:
"Thưa sư phụ, thế nào là Đạo, thứ đạo chân thực?"
"Thứ đạo thường hàng ngày là đạo chân thực." Thiền-sư
đáp.
"Vậy con phải học thế nào để đạt đạo?"
"Ngươi càng học càng xa đạo!"
"Nếu con không học đạo làm sao con đạt đạo cho được?"
"Đạo không thuộc cái mình trông thấy hoặc cái mình không
trông thấy. Đạo cũng không thuộc cái mình biết hay không biết. Đừng đi kiếm Đạo,
đừng tìm hiểu Đạo, đừng khoác lên Đạo những nhãn hiệu ngôn từ. Muốn chính mình
thể nhập vào Đạo hãy mở rộng mình như đất, trời."
Một vị ẩn sĩ sống trên núi cao, có lần có một vị tăng tới xin
tiên sinh chỉ giáo cho thế nào là Đạo.
Ẩn sĩ đáp: "Núi này mới đẹp làm sao!"
Nhà sư: "Thưa tiên sinh, tôi không hỏi người về núi, mà
hỏi về Đạo"
Vị ẩn sĩ: "Khi thầy chưa vượt được núi thì làm sao thầy
đạt được Đạo?"
Một lần có đệ tử tới thỉnh giáo Tuệ-Trung Thượng-Sĩ 3.: Đạo là gì?
Ngài đáp:
"Đạo ở chỗ không hỏi. Hỏi không phải là đạo."
Người đệ tử lại hỏi:
"Ngài Cổ-Đức bảo vô tâm là đạo, thưa như vậy có phải
không?"
Ngài đáp:
"Vô tâm không phải là đạo. Vốn không có đạo, mà cũng chẳng
có tâm."
"Thưa Thiền-sư, khi đã có cái nhìn thuận thành không
còn phân biệt ta với không ta nữa thì liệu có thấy Đạo hiển
hiện không?"
"Khi đã không còn ta và không ta thì
còn ai là kẻ muốn nhìn đạo nữa?"
Phải đẩy vạn sự vào hư-không. Nhưng hư-không cũng còn là khái
niệm. Cho nên cuối cùng chính khái niệm hư-không cũng phải được đập vỡ nốt để
giải phóng cho thực tại bừng nở chan hòa. Cũng như khi hỏi: "Nếu có người
đã ngồi chót-vót trên một cột cao trăm bộ, làm thế nào để có thể vượt xa hơn nữa
bây giờ?" Một thiền-sư đã đáp: "Người đó phải đạt tới giác ngộ để có
thể cùng một lúc đứng ở cả bốn phương trời".
Tới đây chúng ta đã chạm trán với Hư-vô rồi. Vậy xin hãy bước
sang Hư-vô!
Chú thích:
Trong bài "Trả lời Pháp Dung Hỏi Về Sắc Không
Phàm Thánh" của Khánh-Hỷ thiền-sư đời Lý có câu: |
|
Xin đọc: Lê-Xuân-Khoa, Nhập-Môn Triết-Học Ấn-Độ, Bộ Quốc-Gia
Giáo-Dục xuất bản, 1965. (Chương thứ tư và thứ năm: Upanishad). |
|
Ngài tên thực là Trần-Quốc-Tảng, con đức Hưng-Đạo-Vương,
anh ruột Khâm-Từ hoàng-hậu đã từng có công đánh giặc Nguyên và được phong tước
Hưng-Nhượng-Vương. |
Có phải Thiền hay đề cập đến hư vô, đến trống rỗng, đến cái không?
Thiền-sư Kokushi gọi môn đệ: "Oshin!"
Oshin thưa: "Dạ"
Kokushi gọi: "Oshin"
Oshin thưa: "Dạ"
Kokushi gọi nữa: "Oshin"
Oshin thưa nữa: "Dạ"
Kokushi tiên sinh nói: "Ta xin lỗi đã gọi đi gọi lại tên ngươi như vậy. Nhưng thực ra chính ngươi phải xin lỗi ta mới phải."
Phải chăng Oshin phải xin lỗi thầy vì ngã chấp?
DỮ CHƯ KỲ TÚC GIẢNG CỨU THIỀN CHỈ
Bát nhã chân vô tông,
Nhân không, ngã diệc không,
Quá, hiện, vị lai Phật,
Pháp tính bản tương đồng.
Lý-Thái-Tôn
CÙNG CÁC GIÀ LÃO BÀN VỀ Ý NGHĨA ĐẠO THIỀN
Đạo Phật vốn không giòng,
Người không, mình cũng không,
Trước, rầy, sau các Phật,
Pháp tính vẫn cùng chung.
Ngô-Tất-Tố dịch
Đức Bodhidharma lựa chọn trong đám đệ tử kẻ xứng đáng nhất trao y bát cho. Từ đấy các vị trưởng môn đều theo tập tục trao y bát đó. Gunin là vị trưởng môn thứ năm, tuyên bố sẽ trao y bát cho môn đệ nào viết được bài kệ hàm ngụ đầy đủ ý nghĩa của Thiền phái.
Thiền-sinh trưởng-tràng bèn ghi lên giấy bài kệ như sau:
Thân ta, cây bồ-đề,
Hồn ta như gương kia,
Tu học giữ gương sáng,
Kẻo bụi phủ còn chi.
Không môn đệ nào dám hạ bút thi đấu với Thiền-sinh trưởng-tràng đó. Mãi tới hoàng-hôn, Yeno, một thiền-sinh đàn em khác, mới làm hết công việc và từ bếp lên. Qua hành lang, Yeno dừng lại đọc bài kệ treo bên tường, rồi nguệch ngoạc viết một bài ngay bên dưới:
Bồ-Đề vốn chẳng có,
Gương sáng cũng hư vô,
Vạn pháp đều như rứa,
Hỏi bụi phủ nơi mô?
Tới khuya, sư phụ gọi Yeno tới phòng, nói:
"Ta đã đọc bài kệ của ngươi, nay ta chọn ngươi làm kẻ kế vị. Hãy nhận tấm áo và chiếc bát này. Nhưng các sư huynh ngươi tất nổi lòng ghen tị, vậy ngươi hãy dời Thiền viện ngay đêm nay trong khi họ còn ngủ để tránh mọi phiền muộn."
Hôm sau, vị sư huynh trưởng-tràng hay tin bèn tức khắc đuổi theo. Tới trưa thì bắt gặp Yeno, vì sự huynh xông vào định giằng lấy y bát. Yeno đặt những thứ đó xuống đường, nói:
"Những thứ này chẳng qua chỉ có giá trị tượng trưng; nếu quả sư huynh quá chấp vào những thứ đó, xin cứ tự tiện cầm lấy."
Vị sư huynh hăm hở cúi xuống nhặc liền, nhưng cả áo lẫn bát đều nặng tựa núi, không sao nhúc nhích nói. Sau cùng vị sư huynh đành nói:
"Xin đạo hữu thứ lỗi cho, giờ đây tôi chỉ muốn lĩnh lời chỉ giáo vàng ngọc của đạo hữu, chứ không còn chấp vào những vật như thế nữa."
Yeno nói:
"Vậy hãy xin ngừng nghĩ vật này của ta, vật kia không phải của ta. Xin cho hay hiện sư huynh ở đâu? Và cho biết thêm khuôn mặt sư huynh ra sao khi chính các vị phụ mẫu của sư huynh cũng chưa cất tiếng chào đời?"
ĐỐI THÁI TÔN THAM VẤN THIỀN CHỈ
Tịch tịch Lăng già nguyệt,
Không không độ hải chu,
Tri không, không giác hữu,
Tam muội nhiệm thông chu.
Huệ-Minh Thiền-sư
ĐÁP LỜI THÁI-TÔN HỎI VỀ Ý NGHĨA ĐẠO THIỀN
Non Già vừng nguyệt tĩnh,
Biển Thẳm chiếc thuyền không,
Hiểu thấu không và có,
Rừng Thiền mặc ruổi rong.
Ngô-Tất-Tố dịch
Ni-cô Chiyono tu thiền đã bao năm rồi mà vẫn chưa đạt được giác ngộ. Vào một đêm trăng kia, ni-cô xách một thùng nước đầy, lặng nhìn bóng trăng in hình trong đó. Chợt đai tre phựt đứt, thùng bung ra từng mảnh, nước ào thoát hết, bóng trăng phản chiếu cũng mất theo. Ni-cô Chiyono chợt giác ngộ lẽ không có có không bèn viết nên bài kệ rằng:
Xách nước qua đây,
Đai tre ải đứt,
Thùng vỡ đáy tung,
Nước ào ra hết.
Ý thức rằng mình trống rỗng, mình đâu còn trống rỗng nữa! Trống rỗng khi đó đã biến thành một khái niệm ngự trị trong tâm trí mình rồi!
Joshu tiên sinh mãi tới năm sáu mươi tuổi mới học Thiền. Người chứng ngộ vào năm tám mươi tuổi. Người ta kể rằng người còn dạy các môn đệ tiếp tục bốn mươi năm sau đó.
Một lần có môn đệ tới hỏi: "Sư phụ dạy phải phủi rũ cho tâm trí thật sạch rỗng, giờ đây tâm đệ tử đã trống rỗng rồi, xin sư phụ chỉ giáo đệ tử phải làm gì tiếp?"
Tiên sinh đáp: "Hãy quẳng hết ra ngoài!"
"Thưa sư phụ, trong tâm trí đệ tử có còn gì nữa đâu mà sư phụ truyền phải quẳng hết ra ngoài?"
"Nếu ngươi không quẳng được thì khuân nó ra, đẩy nó ra. Chứ đừng đứng trước ta với không có gì trong tâm trí."
Subhuti, một đệ tử của đức Phật đã đạt được giác ngộ về hư vô, nói chân như và vô thường hòa hợp thành cái Một-bất-khả-phân. Ngồi tham thiền dưới gốc cây trong trạng thái giác ngộ đó, Subhuti thấy hoa từ trên cây lả tả rơi xuống quanh mình cùng với tiếng nói vang vọng đâu đây: "Chúng ta ngợi khen thái độ hùng biện của ngươi và hư vô."
Subhuti đáp thầm: "Nhưng nào con có nói gì về hư vô đâu?"
Tiếng nói vang vọng: "Ngươi không nói về hư vô, chúng ta cũng không nghe thấy nói về hư vô. Đó mới thật là hư vô!"
THỊ TỊCH
Diệu tính hư vô bất khả phan,
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan,
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị can
Ngộ-Ấn Thiền-sư
THỊ TỊCH
Hư vô tính ấy khó vịn noi,
Riêng bụng hư vô hiểu được thôi,
Trên núi ngọc thiêu, màu vẫn nhuận,
Trong lò sen nở, sắc thường tươi.
Ngô-Tất-Tố dịch
Toyo mới mười hai tuổi. Nhưng đã là Thiền sinh tại danh tự Kennin. Toyo cũng muốn như các đạo hữu khác được sư phụ ban cho một công án để ngày đêm suy ngẫm. Vào một buổi chiều kia, đợi đúng lúc thuận tiện nhất, chú tới phòng sư phụ khéo gõ tiếng cồng báo hiệu sự hiện diện của mình, cúi đầu chào sư phụ, rồi khoanh tay yên lặng kính cẩn đợi.
Giây lâu sư phụ từ từ ngẩng đầu, cất giọng:
"Toyo, hãy cho ta nghe tiếng vỗ của hai bàn tay."
Toyo vỗ hai tay.
Thiền sư gật đầu:
"Được lắm, giờ đây ngươi hãy cho ta nghe tiếng vỗ của một bàn tay."
Toyo yên lặng. Sau cùng chú cúi chào thầy, xin lui về phòng suy nghĩ.
Tối hôm sau, chú tới, dùng lòng một bàn tay khéo gõ lên tiếng cồng. Vị sư phụ nói: "Không phải vậy. Tối hôm sau nữa, Toyo mới bắt chước tiếng con dế gãi chân. Vị sư phụ nói: "Vẫn không phải".
Mười đêm liền, Toyo tìm ra mười thứ tiếng khác nhau đều bị phủ nhận. Chú thôi không tới trình diện sư phụ nữa. Suốt một năm ròng chú nghĩ về đủ các thứ tiếng và loại tất cả những thứ tiếng đó. Sau cùng chú bừng giác ngộ.
Chú kính cẩn tới trình diện thầy. Lần này chú không gõ cồng báo hiệu, chú lẳng lặng tới ngồi và cúi đầu:
"Thưa sư phụ, đệ tử đã nghe được ba-động vô-thanh!"
Lấy vồ đập chuông. Tiếng kêu tự vồ hay tiếng kêu tự chuông?
Tiếng kêu thoát ra ngoài cả vồ lẫn chuông!
Thiền-sinh Doko tới gặp một Thiền-sư, nói:
"Đệ tử đương đi tìm chân lý. Xin sư phụ chỉ cho đệ tử cách rèn luyện tâm trí như thế nào để đạt được chân lý."
Thiền-sư đáp:
"Làm gì có tâm trí, vì vậy ngươi không thể tính chuyện rèn luyện nó. Làm gì có chân lý, vì vậy ngươi không thể đạt được nó."
"Nếu không có tâm trí để rèn, không có chân lý để noi, thì làm sao quanh sư phụ hàng ngày vẫn có đám thiền-sinh quây quần kia để nghe, và học hỏi, và rèn luyện về Thiền?"
"Nhưng ta làm gì có một tấc đất ở đây mà bảo có chỗ cho các Thiền-sinh tu tập? Ta làm gì có lưỡi mà bảo hàng ngày chỉ dạy cho lũ Thiền-sinh?"
"Trời ơi, sao sư phụ lại có thể nói sai đến như thế được?"
"Ta đã không có lưỡi để nói thì làm sao ta có thể nói sai với ngươi được?"
Tới đây, Doko xá lạy Thiền-sư và nói:
"Đệ tử không theo nổi sư phu. Đệ tử không hiểu nổi sư phụ."
Thiền-sư đáp:
"Chính ta cũng còn không hiểu nổi ta cơ mà."
Một nụ cười ghi nhận cho ý thức bất hạnh nào ngưng đọng về hư vô:
Yamaoka, thuở còn là một Thiền-sinh trẻ tuổi huênh hoang, lần đầu tới thăm Thiền-sư Dokuon, Yamaoka nói thao thao:/p>
"Làm gì có tâm trí, làm gì có thân xác, làm gì có thiện, làm gì có ác. Thầy chẳng có, trò cũng không. Chẳng có cái cho đi, cũng chẳng có cái nhận về. Có cái gì trên đời này mà là thật đâu. Cái Chính thật là Hư Vô."
Dokuon miệng ngậm ống điếu, bình thản ngồi nghe, không thốt nửa lời. Chợt tiên sinh vớ lấy chiếc gậy và bất thần giáng một cái thật mạnh lên người Yamaoka. Yamaoka giật nảy mình, vùng đứng dậy, giận dữ.
Dokuon tiên sinh điềm tĩnh cất lời:
"Nếu quả thực chẳng có gì trên đời này là thực và tất cả là hư vô, thì sự giận dữ của ngươi từ đâu đến? Hãy suy nghĩ về điều đó!"
Một dụ ngôn xưa kể chuyện một Thiền-sinh khi thấy thầy giơ ngón tay trỏ lên thì cũng bắt chước giơ theo như vậy. Lâu dần thành thói quen. Một hôm thầy nắm lấy ngón tay trỏ đó chặt nghiến, vứt đi. Thiền-sinh la hét vang trời. Thầy quát "Im". Rồi giơ ngón trỏ lên. Thiền-sinh bất giác tuân theo thói quen cũng giơ ngón trỏ của mình lên. Nhưng đến khi nhìn xuống thì...
Thiền-sinh bỗng cúi đầu trước sư phụ, giác ngộ.
Đến đây thực chẳng còn gì êm đẹp hơn, trọn vẹn hơn, tròn trịa hơn là nhắc tới bốn câu lục bát (thơ của ngài Từ Đạo Hạnh? Phan Kế Bính dịch?).
Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Thử xem bóng nguyệt dòng sông
Ai hay không có, có không là gì?
HƯ VÔ VÀ THỰC TẠI
Vô vi nhi vô bất vi của đạo Lão chính là thứ hành động vô trụ, vô cầu, hồn nhiên thanh thản của Thiền.
Hư vô đâu có xa thực tại!
Câu chuyện vui sau đây như một gạch nối giữa hư-vô với thực tại:
Sekkyo tiên sinh nói với một tu sĩ môn đệ:
- "Ngươi có thể hứng giữ hư-vô được chăng?"
Tu sĩ đáp:
- "Dạ để đệ tử xin thử." Đoạn chụm hai tay lại thành hình chiếc ly để giữ hư vô của khoảng không.
Sekkyo tiên-sinh: "Không được tốt lắm, ngươi chẳng hứng giữ được chi trong đó."
Tu sĩ thưa: "Vậy xin sư-phụ chỉ giáo cho cách nào khá hơn."
Tiên-sinh bèn nắm chặt lấy mũi người môn đệ và thắng cánh giựt mạnh một cái.
Tiếng người môn đệ thét lên: "Ôi chao, đau quá sư-phụ ơi!"
"Đó là cách nắm giữ lấy hư-vô đó con ạ!"
Thiền-sư Tozan đương cân vải gai thì một môn đệ tới hỏi:
"Thưa sư-phụ thế nào là Phật?"
Tozan tiên-sinh liền đáp:
"Là một kí rưỡi vải gai đây!"
Đúng là "Phật-pháp bất ly thế gian pháp" của Thiền!
Trong khi Thiền-sư Bankei thủ thì nói chuyện Thiền với các môn đệ, tiên sinh luôn luôn bị một vị hòa thượng tên là Shinshu ngắt lời; vị này hết lòng tin vào những việc như phù phép niệm chú. Sau cùng Bankei đành ngừng hẳn câu chuyện đương nói với các môn đệ và quay sang với Shinshu. Vị hòa thượng này hỏi:
"Vị sư tổ của môn phái tôi trước đây có tài ngồi bên này bờ sông cầm bút lông viết được chữ lên tờ giấy căng ở bên kia bờ sông, tiên sinh có thể làm được việc gì tương tự chăng?"
Thiền-sự lắc đầu tiếp:
"Không. Tôi chỉ có thể làm được những việc như đói thì ăn, khát thì uống, ai chửi mình thì tha thứ."
Trong cửa Thiền thường nói: "Đức Phật thuyết pháp ròng rã bốn mươi chín năm mà lưỡi Ngài không hề động đậy."
Thiền sư Gensha nói:
"Các thầy khả kính đã dạy đạo Phật có vô vàn pháp môn để giúp đỡ hết thảy chúng sinh, nhưng chắc các thầy cũng phải tự hỏi làm cách nào đạo Phật có thể giúp kẻ mù, kẻ điếc hay kẻ câm. Kẻ mù thì không trông thấy chiếc gậy của thầy giơ lên, kẻ điếc thì không nghe thấy lời thầy giảng, kẻ câm thì không hỏi được thầy, không nói được những điều mình hiểu. Như vậy sao có thể nói là đạo Phật giúp được mọi người bằng đủ mọi cách?"
Nhiều năm sau, một Thiền-sinh đem điều nghi vấn trên hỏi lại Thiền-sư Ummon. Hỏi xong Thiền-sinh xá một cái rồi đứng thẳng chờ. Thiền-sư Ummon bất thần dùng đầu gậy chọc thẳng về phía trước khiến Thiền-sinh phải lùi vội lại để tránh. Thiền-sư gật gù thốt lên:
"Ha ha, hãy biết là ngươi không mù!"
Đoạn Thiền-sư bảo Thiền-sinh tiến lên mấy bước. Thiền-sinh vội-vã tuân theo. Thiền-sư càng gật gù đắc ý.
"Ha ha, vậy là ta biết ngươi không điếc nữa!"
Sau đó Thiền-sư hỏi Thiền-sinh có biết ông bảo làm vậy là ngụ ý gì không? Thiền-sinh cung kính đáp:
"Thưa sư phụ, quả thực đệ tử không hiểu."
Thiền-sư càng reo lớn:
"Ngươi thấy đấy, ngươi đâu có câm!"
Vào thời Tetsugen sống, kinh Phật chỉ có ở Tàu mà chưa hề được ấn hành tại Nhật. Tetsugen quyết định đi hết tỉnh này đến tỉnh khác quyên tiền để chuẩn bị in kinh Phật bằng mộc bản.
Sau mười năm lặn lội vất vả đi khắp nước Nhật, Tetsugen thấy rằng số tiền quyên tương đối đã đủ. Nhưng việc cho khắc gỗ vừa sắp bắt đầu thì xảy vụ thiên tai nước lụt lớn, mùa màng hỏng sạch, dân chúng bị đói. Tetsugen dùng số tiền ky cóp quyên trong mười năm qua mua gạo phát trẩn cứu dân đói.
Sau đó Tetsugen lại đi quyên lần nữa cho việc dự định ấn hành kinh Phật. It lâu sau số tiền quyên cũng tạm đủ như lần trước. Lần này khắp nước Nhật bị dịch thời khí. Hàng ngàn gia đình không thể sống qua ngày được nếu không được cứu trợ. Tetsugen lại đổ số tiền quyên được ra giúp đỡ đồng bào bị dịch thời khí.
Khi tai qua nạn khỏi xong xuôi, Tetsugen khởi sự công cuộc lận đận đi quyên lần thứ ba. Lần này ước nguyện của Tetsugen mới được thành tựu, và Tetsugen nhắm mắt lìa đời hài lòng.
Những người hiểu biết đều bảo nhau rằng kinh Phật của Tetsugen như vậy là được ấn hành ba lần lận, những bản ấn hành hai lần trước tuy chẳng ai được đọc nhưng giá trị xem ra lại vượt xa lần ấn hành sau cùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét