Tình yêu thánh hóa 3
Khu rừng lau 3
Phần Ba
QUỲNH HƯƠNG
Khi Kha mở cửa vào phòng dành riêng cho tòa soạn tờ Văn hóa vừa kịp nghe Lưu chàng trẻ tuổi nói câu sau cùng bằng một giọng bực tức giả tạo:
- ... Tôi không chịu được, không thể chịu được lũ người như họ,
trông họ ngu xuẩn làm sao ấy...
Lưu là một mầm non văn nghệ có lòng mến Khiết thường đến tòa
soạn.
Chiếc đồng hồ trẩm cầm bên văn phòng luật sư của Khiết rãi rệ
buông bốn tiếng (ba phần tư căn nhà từng dưới này là văn phòng luật sư, một phần
tư dành cho tòa soạn, trên lầu là nơi ở của vợ chồng Khiết cùng đứa con gái đầu
lòng). Kha ngồi vào chiếc ghế giữa phòng, Lưu khẽ cúi chào rồi vẫn tiếp tục câu
chuyện:
- Trông họ tầm thường quá đi, mà tôi thì ghét cái gì tầm thường.
Luận đang ngồi cắm cúi viết gì dường như không để ý đến câu
chuyện, Lãng ngồi sát đấy nghe như cũng sốt ruột lẳng lặng rút điếu thuốc lá đặt
lên môi rồi bật hộp quẹt máy châm hút, búp khói nhỏ đầu tiên tỏa ra thơm thoang
thoảng dễ chịu. Riêng Khiết chịu chuyện, tiếng chàng đáp lời người bạn ttẻ giọng
trầm tĩnh như thường lệ:
- Một cá nhân đơn độc dù là thiên tài chói lọi cũng không làm
được trò trống gì đâu cậu ạ. Sự nghiệp nào mà chẳng nhờ sự đồng lao cộng tác vô
danh của biết bao người khác. Cả rừng mai cùng nở người ta mới thấy rõ ràng đó
là một rừng hoa đẹp, dù trong đó có biết bao bông hoa tàn. Hãy tỉ dụ cả một rừng
hoa tàn lụi chỉ để một bông toàn bích, bông đó đâu có đem lại xuân sắc cho cả
khu rừng? Tất cả chúng ta không ai là bông hoa toàn bích nhưng góp hương góp
cánh vẫn có thể tạo thành khu rừng hoa miễn là chúng ta đừng khó tính với nhau
quá.
Lưu hơi lúng túng muốn tìm lời chống chế, Khiết đã tiếp câu
chuyện giọng chuyển sang bông đùa:
- Tôi nhớ là hồi còn theo trung học ở trường Bưởi Hà Nội,
sáng sáng từ nhà ở đầu dường Quan Thánh đạp xuống trường, trong khi đó một ông
giáo già ở cuối đường Quan Thánh đạp lên để tới dạy ở trường Hàng Than. Ông
giáo già là một chiếc đồng hồ sống của tôi, hễ gặp ông ở khoảng nhà số 107 tôi
đến trường còn sớm, gặp ông ở khoảng nhà số 57, đến trường vừa lúc trống vào, hễ
gặp ông ở khoảng gần cây xăng nhà số 17 thì tôi phải gò lưng đạp gấp vì muộn rồi
ạ. Mấy năm trời như vậy, khi ông giáo già về hưu tôi còn nhắc riễu hoài “ông đồng
hồ sống” với các bè bạn. Về sau tôi mới thấy rằng mình đã nhầm mà riễu ông giáo
già như vậy. Mình miệt thị cuộc sống đều đặn tầm thường của ông ta nhưng có biết
đâu cuộc đời này tồn tại được chính vì có những nếp sống giữ được mức đều đặn
như tầm thường đó và những ngôi sao nghệ sĩ, văn hóa nào nổi bật lên, nhìn cho
kỹ đều bắt rễ hút màu ở đám người đông đảo bên dưới với nếp sống đều đặn nhẫn nại
kiểu... “ông đồng hồ sống”.
Tiếng Khiết cười rộ và Lưu lợi dụng ngay giây phút hỉ hả đó bắt
tay cáo biệt. Cuối cùng Lưu bắt tay Luận và Luận chợt hỏi:
- Thế nào cậu đã ngủ với đàn bà chưa?
Luận luôn luôn có cách nói đùa “ba bửa” như vậy. Lưu còn giữ
nụ cười lịch thiệp rồi đi thẳng ra cửa. Bóng Lưu đã khuất, Kha hỏi:
- Thế ở New-Delhi anh gặp phái đoàn Vẹm ra sao?
Được tin Khiết vừa đi dự hội nghị Văn hóa Á châu từ New
Delhi về, anh em kéo lại chưa kịp hàn huyên gì thì Lưu tới với
câu chuyện dềnh dàng, giờ nghe Kha hỏi Khiết đáp:
- Cũng có điều đáng thuật lại với anh em.
- Có thú bằng lần trước anh đi dự hội nghị Bandoeng không? -
nàng hỏi.
Khiết quẹt que diêm châm điếu thuốc rồi chậm rãi trả lời:
- Mỗi đằng một vẻ! Hội nghị Bandoeng xưa muốn bắc một nhịp cầu
môi giới để cải thiện mối liên hệ giữa hai phe liệt cường và nhược tiểu, một mặt
hội nghị lên án nghiêm ngặt tinh thần đế quốc thực dân cũ, một mặt nâng các nhược
tiểu lên để có thể giữ vai trò cất một tiếng nói trong cộng đồng nhân loại cải
tiến. Nhưng vì lập trường của hội nghị quá hòa hoãn nên không muốn phân định rõ
kẻ thù của Á Phi còn là cộng sản, một hình thức đế quốc mới nữa. Đại diện cho lập
trường Việt Nam ở cương vị đã là nạn nhân và đương trực tiếp chịu đựng sự đe dọa
của Cộng Sản tôi cương quyết đòi hội nghị phải minh định thái độ với đế quốc mới
đó. Ông Nehru có mặt trong hội nghị không được hài lòng, ông muốn Việt Nam cũng
nên có thái độ hòa hoãn như mọi người. Với kinh nghiệm bản thân chua xót như vậy
Việt Nam làm sao hòa hoãn cho được dù biết thái độ cương quyết của mình có làm
mếch lòng những nước đứng ra triệu tập hội nghị: Ấn Độ, Nam Dương, Tích Lan, Miến
Điện...
Khiết dầm điếu thuốc lá trong chiếc gạt tàn, khuôn mặt trầm
ngâm và tiếp:
- ...Nhưng lần này họp tại hội nghị Văn hóa Á châu trên đất
Án khác, khác vì đề tài vì hoàn cảnh gặp gỡ... Đề tài Văn hóa Á châu không nói
làm gì nhưng cuộc gặp gỡ thì đáng kể lại, tôi gặp một anh bạn thân, rất thân cũ
trong phái đoàn Bắc Việt, họa sĩ Nguyễn Đỗ Nguyên thầy tôi và thầy anh xưa là bạn
đồng song, chúng tôi thân nhau từ thuở bé. Tôi biết tính anh Đỗ rất điềm đạm,
trung hậu nhưng khi mới gặp nhau tôi không dám vồn vã sợ gây lụy cho Đỗ. Sau buổi
họp phái đoàn Bắc Việt cho chiếu phim về Điện Biên Phủ mời tôi, tôi cười đáp lời
anh trưởng phái đoàn: “Thôi phim đó là để tuyên truyền người ta chứ anh em mình
thì việc gì phải tuyên truyền”. Rồi nói đùa thêm: “Này phái đoàn miền Nam chúng
tôi chỉ dám ở loại khách sạn hạng nhì, Penjab hotel, còn các anh ở loại khách sạn
thượng hảo hạng, Imperial hotel, thế là các anh hưởng thụ xương máu của nhân
dân đấy nhé”. Đôi bên cười xòa. Tôi và Đỗ cùng muốn gặp nhau lắm nhưng bề ngoài
vẫn phải giữ vẻ hững hờ suốt thời gian hội nghị. Mãi tới ngày bế mạc tôi mới
nói với viên Tổng Lãnh sự đại diện Bắc Việt: “Chính phủ Dân chủ Cộng Hòa không
ai cao hơn anh ở đây, xin phép anh cho Đỗ gặp tôi để anh em chúng tôi nói đôi
ba câu chuyện hàn huyên trước khi chia tay”. Hắn vui vẻ ưng thuận ngay và Đỗ
theo tôi về Penjab hotel. Suốt dọc đường chúng tôi hàn huyên về tin tức gia
đình nhau từ ngày xa cách. Tôi được biết ông Tú Xuân Lũy - ông thân sinh ra Đỗ
- đã mất. Tới phòng, ngồi thảnh thơi trên ghế bành tôi nói với Đỗ: “Cậu xem,
chúng mình gặp nhau thì hỏi thăm sức khoẻ của nhau, gia đình nhau chứ ai hỏi
thăm sức khỏe của Hồ Chí Minh, của Ngô Đình Diệm?”
Đỗ nghe nói chỉ mủm mỉm cười. Đỗ vốn ít nói. Tôi tiếp:
- Tôi có được đọc những bản phản tỉnh lột xác của cậu và của
một số văn nghệ sĩ khác. Trước đây giá như có vấn đề mười thằng chúng mình họp
nhau thảo luận thì ít ra cũng có năm ý kiến khác nhau, lần này tôi thấy hai chục
tên cùng viết về một đề tài, cùng phủ nhận dĩ vãng ông cha, rồi cùng đi đến một
kết luận. Tôi muốn hỏi thực, riêng cậu những dòng chữ đó cậu viết bao nhiêu phần
thành thực? Hai chục nhà văn hóa suy tư một đề tài mà rồi cùng quy về một kết
luận y hệt nhau như thế thì văn hóa làm sao phong phú cho được? Cậu có thành khẩn
khi viết những dòng đó?
Đỗ đáp:
- Đứng trên quan niệm lao động thì có thành khẩn vì nhận thấy
diễn biến lịch sử phải như thế.
Tôi tiếp:
- Tôi kính trọng sự thành khẩn trên quan niệm lao động của cậu,
nhưng cậu có tiếc không?
Đỗ khẽ g:
- Lẽ tất nhiên nhiều lúc có tiếc nhưng cái tiếc đó không đáng
kể.
Tôi hỏi tiếp:
- Thế bây giờ lớp người lao động mà các cậu phục vụ đó đời sống
so với trước kia như thế nào? Tiêu chuẩn về công bằng đã thực hiện chưa? Và đến
đâu rồi?
Đỗ đáp chân thật:
- Phá cái nhà cũ, dựng chiếc nhà mới tất nhiên không một lúc
xong được.
Tôi cười và nương theo hình ảnh chiếc nhà hỏi:
- Phá nhà cũ mà nhà mới chưa xong thì lấy gì che mưa che nắng.
Các cậu thuộc thành phần trí thức có chủ thuyết để che mưa, nông dân làm sao một
phút được như các cậu có cái tạm che mưa che nắng?
Chỗ này Đỗ chỉ mỉm cười, đôi mắt vẫn nhìn chúng tôi không bối
rối nhưng không trả lời.
Tôi chuyển sang giọng đùa:
- Các cậu được đi đây đi đó như thế này, cụ Hồ lẽ tất nhiên
cũng ở Bắc Bộ phủ, anh phu xích lô lẽ tất nhiên vẫn ở khu lao động nghèo. Thế đến
bao giờ cái nhà hoàn thành? Liên Xô, nước tiền tiến của xã hội chủ nghĩa, xây
nhà tù ba mươi năm nay rồi mà vẫn là đảng viên ít, quần chúng nhiều, “căn nhà”
xây vẫn chưa hoàn tất. Các cậu có sách mới tự vùng ngoài đưa vào đọc không?
Đỗ lắc đầu.
- Các cậu có biết sau chiến tranh mức bảo đảm xã hội của các
nước không theo xã hội chủ nghĩa đã tiến tới mức nào chưa? Không nói đến ốm,
ngay như thất nghiệp cũng được bảo đảm ăn, ở.
Đỗ ngạc nhiên hỏi:
- Thế tiền ở đâu? Tôi đáp:
- Do dân chúng đóng góp theo luật định. Có những hợp tác xã tự
giải quyết lấy những vấn đề đó không cần đến chính phủ.
Tuy biết là không bao giờ hoặc tôi hoặc Đỗ phải tự đặt câu hỏi
có sợ kẻ nọ tuyên truyền người kia không, nhưng tôi cũng phải nói thêm:
- Lẽ cố nhiên những tiến bộ về bảo đảm xã hội đó không phải
là thực hiện ở miền Nam, nhưng cứ nhìn những nước kỹ nghệ tiên tiến họ thực hiện
được như vậy thì có lẽ không phải chỉ có một formule communistel vậy cậu thử
suy nghĩ kỹ xem may ra cỏ một formule nào khác chăng.
Đỗ suy nghĩ giây lâu rồi hỏi tôi:
- Có phải anh được chính phủ tín nhiệm nên mới được cử đi dự
hội nghị này?
Tôi đáp:
- Trước đây tôi đã dự hội nghị Bandoeng nên lần này anh trưởng
phái đoàn đề nghị để tôi cùng đi. Anh trưởng phái đoàn với tôi cũng là chỗ quen
biết cũ. Hai chữ “tín nhiệm” hiểu theo nghĩa của các cậu thì ở vùng quốc gia
chúng tôi bao giờ cũng lỏng lẻo lắm. Tuy nhiên tôi cũng biết đây là hội nghị cuối
cùng tôi đi cho chính phủ này.
Đỗ hỏi:
- Vì sao? Tôi đáp:
- Vì chính phủ này đã khởi sự đi vào con đường độc tài, dư luận
ngoài Bắc vẫn tố cáo đấy, chúng tôi trong Nam đã rất nhiều phần tử rút vào thế
hoạt động ngầm chống đối.
- Vì Đỗ đã quá quen với không khí Đảng ngoài đó nên thoạt anh
chàng rất bỡ ngỡ - bỡ ngỡ chớ không phải là không tin tôi - về việc chính phủ
trong này có thể cử một người chỉ vì người đó đủ khả năng và thẩm quyền mà
không ngờ người đó phản đối đường lối của mình. Đỗ hỏi tôi thêm một lần nữa:
- Anh được đề cử đi hội nghị này chỉ vì đã dự hội nghị
Bandoeng trước đây?
Tôi cười và một lần nữa chuyển hướng câu chuyện:
- Hội nghị Bandoeng trước đây có nêu cao khẩu hiệu “Sống
chung hòa bình”, cậu quan niệm sao về khẩu hiệu đó, nghĩa là phía các cậu có
thành thật không?
Đỗ đáp ngay:
- Thành thật chứ! Tôi nắm tay Đỗ:
- Tôi rất quý lòng thành thật của cậu, nhưng Đảng không thành
thật như cậu đâu. Đảng chủ trương tận diệt tư bản mà lại thành thật với khẩu hiệu
“Sống chung hòa bình” thì tới bao giờ mới xây xong căn nhà Xã hội chủ nghĩa? Chẳng
lẽ để dân chúng đứng ở ngoài chờ mãi sao? Thôi thì chúng ta cứ chấp nhận là
không thành thực đi, khẩu hiệu đó chỉ là chiến thuật, cậu tin họ vì hiện cậu sống
với họ và vì bản chất cậu trung hậu, nhưng chúng tôi đứng ở ngoài nhìn vào, xa
hẳn vùng mê hoặc của họ, điều đó họ không giấu chúng tôi được. Thế khẩu hiệu giới
văn hóa văn nghệ của các cậu vẫn còn là “Khoa-học - Dân tộc - Đại chúng” đấy chứ?
Đỗ đáp:
- Còn!
Tôi nói ngay:
- Có nghi ngờ mới có khoa học thực nghiệm để kiểm chứng, giá
trị tiến bộ của khoa học chính là thái độ luôn luôn nghi ngờ để luôn luôn tìm
kiếm đó, các cậu chấp nhận một loạt tiên quyết như vậy thì phản khoa học rồi
còn đâu? Đến tiêu chuẩn “dân tộc” trên lĩnh vực nghệ thuật mỗi dân tộc có một sắc
thái. Mình có điệu cò lả, lời và nhạc phản ảnh tinh thần thái hòa của người
nông dân với thiên nhiên, nay Đảng dùng điệu cò lả đó thay vào lời hô hào giết
địa chủ, phú nông, thế là ý nhạc, hồn nhạc bị biến tính đi rồi còn đâu là “dân
tộc” nữa? Đến tiêu chuẩn “đại chúng” tôi biết các cậu hiện rất thành khẩn đứng
trên lập trường quần chúng lao động, các cậu nghĩ cho họ mọi tiêu chuẩn. Các cậu
nói là phục vụ cho đại chúng mà thực tình khối đại chúng đó có được tự ý phát
biểu cái gì đâu. Tôi nghĩ rằng không một đại chúng nào muốn đóng góp rồi phải
đi xin, họ thích tự để dành. Tất cả những gì kia bảo là của đại chúng, kỳ thực
là do đoàn thể các cậu quyết định trước, vậy thì các cậu phục vụ các cậu, rồi
các cậu bắt đại chúng phục vụ theo chứ đâu các cậu có phục vụ đại chúng?
Tôi nắm cả hai tay Đỗ xiết chặt hơn:
- Giữa tôi với cậu đối diện nhau đây tôi hỏi thực: tôi có
đáng tiêu diệt không? Nếu không có thượng lệnh, cậu có hăm hở giết tôi không?
Tôi với cậu có hai ba mươi năm tình bạn, chúng ta không nỡ giết nhau, nhưng con
tôi, con cậu sau này có cái gì giữ tay chúng đâu, chúng mình nỡ để chúng giết
nhau về cái chuyện vô lý như thế sao? Tôi đặt câu hỏi đó với cậu vì thứ nhất
tôi biết tính cậu vốn hay đắn đo suy nghĩ, thứ hai vì có lẽ đây là lần cuối
chúng mình gặp nhau, khó có thể có hai sự tình cờ. Tôi không đòi phải trả lời
ngay, các cậu nghĩ kỹ đi, các cậu tìm lấy câu trả lời, các cậu tìm lấy lẽ phải.
Tôi buông tay Đỗ ra, cả hai cùng đứng dậy cùng quay nhìn xuống
một khoảng vườn hoa qua khung cửa sổ, những người nghèo nằm ngồi, ăn uống rất
thản nhiên bên những nếp sống cực kỳ sa hoa khác. Đó là nếp sống điển hình nhất
của New-Del- hi, không biết có phải là của cả Ấn Độ? Biết Đỗ không thể ở lâu
hơn tôi hỏi Đỗ câu cuối cùng: “Cậu có cần gì không?” Đỗ lắc đầu nhắc lại là “đời
sống văn nghệ sĩ ngoài đó vẫn như cũ không cao hơn nhưng cũng không đến nỗi quá
thấp”. Tiễn Đỗ ra cửa khi bắt tay nhau cả hai chúng tôi cùng rơm rớm nước mắt.
Hoàng hôn nhuộm vàng New-Delhi nhưng tít trên cao thăm thẳm vẫn có mấy đám mây
trắng trôi bềnh bồng... suốt mấy ngày dự hội nghị thao thức mong được gặp Đỗ,
chiều đó tôi mới có dịp ngó một chút thiên nhiên.
Chương Hai
BÀ CỤ HỒNG KÔNG
Những ngày đầu mới di cư vào miền Nam, lục tỉnh còn yên tĩnh,
bà Đô chưa có ý định mở cửa hàng ngay ở
Sài Gòn, bà chán nơi đô hội ồn ào quá rồi, bà đi Rạch Giá xem
xét cách thức buôn đồ biển rồi thuận đường thẳng xuống Hà Tiên. Bà Đô nhận thấy
Hà Tiên như đúc kết được hết các mẫu danh lam thắng cảnh miền Bắc, Đông Hồ gợi
hình ảnh Hồ Tây ; bãi biển Mũi Nai gợi hình ảnh Đồ Sơn, bãi biển hòn Tròng hòn
Trẻm gợi hình ảnh Sầm Sơn; những hòn Phu tử, Hang Tiền... gợi hình ảnh một vịnh
Hạ Long nhỏ xinh. Hà Tiên lại có ruộng muối, càng gợi hình ảnh miền duyên hải
quê hương Đông Bài, Ninh Tiếp ngoài Bắc cũng có nghề làm muối, vì vậy bà Đô quyết
định xuất vốn nơi đây (làm muối, cất hàng đồi mồi, cất dưa hấu vào dịp Tết) để
được sống với hình ảnh quê cụ. Sau chuyến xi măng thất bại ở Đà Nẵng về, Khóa
đi di lại lại như thoi từ Sài Gòn đến miền cực Tây này để phụ tá mẹ. Bà Đô buôn
bán ở Hà Tiên như vậy hai năm mới chịu trở lại Sài Gòn vào dịp Cam vừa sinh con
gái đầu lòng mà bà đặt tên là Hoa. Khóa không hiểu mẹ khi đặt tên Hoa cho đứa
cháu ngoại có còn bị ám ảnh bởi bài thơ của cụ khi xưa hay không (chắc là còn):
Có người nợ cả hàng hoa
Miếng trầu chén nước đường xa chơi bời.
Tuy dời bỏ Hà Tiên miền gợi hình ảnh quê cũ về Sài Gòn, nhưng
bà Đô thấy yên lòng vì trong thời gian hai năm ở miền biên giới này bà đã tác
thành cho một cặp mà bà quí như con. Dạo ở Hà Tiên bà không ở ngay quận lỵ mà ở
một xóm nhỏ bên kia bến đò Tô Châu khoảng giữa chân núi và dãy dừa dọc theo bờ
biển. Bà sống gần gũi giúp đỡ những người dân nghèo, chỉ thuốc cho những người ốm
đau và một lần bà băng bó cho một anh thanh niên chiến đấu bị thương trước khi
chở anh sang quận lỵ bên kia sông. Lúc đó những người lân cận mới biết trước
đây bà đã từng ở bên Tàu và làm ở nhà thương bên đó. Họ bèn gọi bà Đô là “bà cụ
Hồng Kông”. Có lẽ họ cho rằng làm nhà thương bên Tàu mà giỏi và khéo như thế chỉ
có thể là ở... Hồng Kông.
Hai Lưa - anh thanh niên chiến đấu được bà băng bó cho rồi chở
đi Hà Tiên - một tuần sau khỏi, trở về quí bà như mẹ mà bà cũng coi anh như con
nuôi. Anh Hai Lưa vừa là thanh niên chiến đấu vừa có nghề sửa chữa xe máy dầu.
Anh yêu mê yêu mệt một cô gái ở ngay hàng xóm bà Đô. Mà anh mê mệt là phải, cô
gái đó da trắng như trứng gà bóc, mặt tròn, mắt đen láy, chị trưởng gia đình Phật
tử, tên là Hà.
Hà thoạt không ưng hai Lưa vì tuy anh thanh niên chiến đấu đó
ăn nói khá có duyên nhưng không được đẹp trai cho lắm, da đen, mặt hơi sần sùi.
Khi bà Đô có ý đứng bên “thu vén” Hà mới ưng ưng một chút.
Tối hôm đó anh em thanh niên chiến đấu theo bộ đội đi phục
kích vì có tin mật báo địch kéo một tiểu đội tự mạn Giang Thành lảng vảng sang.
Quả nhiên nửa đêm có tiếng súng đôi bên bắn qua lại, nhưng nghe xa như tiếng
pháo trẻ con đốt chơi ngày Tết. Sáng ra các anh em đã về cả duy thiếu hai Lưa.
Hà rơm rớm nước mắt, cả ngày lo lắng. Rồi đêm, rồi tối Lưa vẫn biệt tăm, Lưa chết
thật rồi chăng? Hà khóc thầm. Hôm sau anh em tìm kiếm phát giác một xác người nằm
rụi trong đám cỏ rậm bên vệ con lạch khoảng nửa bùn nửa đất. Cách đó không xa,
biển xanh ngời. Cái xác đã xình lên không sao nhận diện được nữa. Ở miền nước mặn
này người chết phơi quá hai mươi bốn tiếng thì như vậy. Nhưng còn cần gì phải
nhận diện, bộ đồ đen ướt nhớp bên bó sát lấy thân hình xình lên như bơm hơi đó
chẳng là Hai Lưa còn ai? Hà khóc nức. Bà Đô vỗ về an ủi “Thôi cũng là số trời
hai người không được làm bạn với nhau”. Chôn cất tức thì. Đám ma khá long trọng,
quận trưởng đích thân tới đưa đám và đọc diễn văn, lúc hạ huyệt có tiểu đội
danh dự đứng hai bên miệng huyệt bồng súng chào. Lễ an táng trọng thể vừa xong,
quận trưởng vừa dời khỏi thì Hai Lưa lù lù về, băng quấn trắng xóa cả bả vai
bên phải. Thì ra mọi người vừa chôn xác Việt cộng! Nguyên do đêm qua Hai Lưa bị
thương bên vai phải, như vậy không sử dụng súng được đành lủi vào bụi gai gần đấy
nấp. Vết thương rỉ máu nhiều nên về sáng Lưa thấy đầu choáng váng hơi mê man.
Anh thấy có người tới vực (đoán là anh em) rồi đặt anh nằm xuống, rồi lau rửa vết
thương bằng nước nóng, rồi rịt thuốc. Anh tỉnh dần...thì ra anh đã được ông chủ
quán ở bãi bể vực về. Vết thương được băng bó, anh được ăn cháo nóng tỉnh dần...
tỉnh dần ... Ông chủ quán săn sóc cho Lưa được tròn một ngày thì Lưa thấy có thể
đứng dậy về một mình theo đường lớn được, chỉ cách bến đò chừng hai cây số.
Thế có khác gì người chết sống lại! Hà nức nở khóc, lần này
bà Đô không cần phải an ủi nữa, trái lại bà khuyên Hai Lưa xin được làm lễ
thành hôn sớm. Hà ưng. Chẳng gì Lưa cũng là thanh niên chiến dấu, anh em nhiều,
gia dĩ Hà lại là chị trưởng gia đình Phật tử, nên tuy dám cưới đơn giản mà cũng
phải làm bình thiên che khoảng sân nhỏ nhà Hà để mọi người đến mừng. Ban cổ nhạc
của anh em chiến đấu tới đờn hát từ chín giờ tối đến quá mười hai giờ khuya.
Các em gia đình Phật tử đến để bưng nước mời khách giúp Hà. Khoảng mười giờ
khuya, khách đã vãn, các em tập họp lại, một em làm đại diện đứng khoanh tay
trước chị trưởng. cám ơn chị đã dìu dắt trước đây và chúc chị vui hưởng hạnh
phúc cuộc đời mới. Hà chăm chú nhìn em đại diện, nghe em nói mà rơm rớm nước mắt.
Nhưng khi đáp từ thì chị lại nhìn thẳng vào khoảng không như nhìn những dòng chữ
vô hình mà đọc theo, giọng chị êm đềm theo với nhịp đu đưa thân người, lằn bụng
cũng chuyển động nhịp nhàng, chị nói là chị cám ơn các em đã đến giúp chị, đã
chúc chị; mặc dầu sang cuộc đời mới không còn giữ chức chị trưởng nhưng chị vẫn
không xa các em, chị vẫn gặp các em hàng ngày và chị chúc các em luôn luôn tinh
tấn trên đường đạo.
Đáp từ xong chị mới cúi xuống nhìn các em và thân hình thôi
đu đưa, chị tiễn các em ra tận cửa, miệng cườm tay chấm nước mắt.
Rồi bà Đô trở về mở hiệu giày ở Sài Gòn. Rồi thanh niên chiến
đấu chuyển thành dân vệ. Hai Lưa thành dân vệ và là tiểu đội trưởng.
Vợ chồng anh Hai ăn ở thuận hòa với nhau, thuận hòa với mọi
người, riêng anh Hai chỉ huy quân sự hết lòng và thật cừ. Hình như địch cũng biết
vậy chủ tâm diệt anh, nhưng diệt sao được. Hễ có gì động tĩnh trong rừng hay
ven biển là anh em bà con đã mật báo cho hay để anh kịp chỉ huy đề phòng, ứng
phó hữu hiệu.
Nhìn đại thể thì bầu không khí nồng nhiệt buổi đầu của phân nửa
quốc gia chống cộng không còn nữa. Sự thối nát từ chóp nóc đã thấm tới cơ sở dưới.
Một phụ tá quận trưởng mới được cử về. Y chừng năm chục tuổi,
mặt tròn bệu và trắng bệch, dáng lùn. Mắt y lúc bỏ kiếng ra lau trông như đôi mắt
giấy, nhưng khi đeo kiếng vào thì chúng hấp háy cố làm duyên với nụ cười ra bộ
hiền lành với cả dãy răng trước cửa bịt vàng. Quần áo y mặc thường là thứ vải mịn,
trắng, rộng thùng thình nên da thịt càng như thêm nát nhẽo. Y hai vợ, bà cả Phật
tử, cô hai Thiên Chúa giáo. Y luôn luôn hô hào tố cộng, có thể nói mở miệng ra
là y tố cộng rồi. Trong những buổi hội các trưởng ty, chi, sở y đứng ra tố cộng;
trong những cuộc tiếp xúc riêng tại quận đường y nhắc nhở người đối thoại phải
tố cộng, thậm chí trong một buổi dự tiệc cưới ông trưởng ty Y tế, y đứng lên
đáp từ chúc cô dâu chú rể, y cũng gài ý khuyến khích tố cộng. Ngày sinh nhật Tổng
thống, y treo đèn lồng và kết hoa quanh nhà, sớm tinh sương y đánh thức lũ con
dậy, bắt chúng mắt nhắm mắt mở đánh trống múa lân để các đoàn thể lũ lượt qua đấy
ra công trường bờ sông họp mít tinh dâng kiến nghị chứng kiến tấm lòng thành
gương mẫu của y.
Một lần sang sông y khám phá ra Hà, khi đó đã sinh con đầu
lòng. Rồi Hai Lưa thấy ngày nào y cũng có dịp kinh lý qua sông và tạt vào ngồi
rất lâu ở cửa hàng sửa xe của anh. Rồi hắn nói đùa Hà ngay trước mặt anh, rồi sự
đùa cợt ấy chợt nhả dần. Rồi một đêm biết anh Hai đi phục kích, y đến gõ cửa,
Hà nằm bên trong ôm con im thin thít làm như cả nhà đi ngủ nơi khác.
Sự tình đến như vậy Hai Lưa không thể ở lại quận nhà nữa, anh
từ chức tiểu đội trưởng dân vệ, mang vợ con lên Sài Gòn tìm đến bà Đô. Bà Đô
thu xếp cho Hà học nghề làm giầy trong đám mười người thợ ở trong nhà, bà muốn
cả anh Hai Lưa cũng học nghề đó, nhưng anh từ chối. Anh ra góc đường Gia Long -
Pasteur, đóng chiếc đinh mười phân vào thân một cây me lớn, treo lên đó chiếc
săm ô-tô bơm bên trên có ghi hàng chữ trắng “Nhận sửa xe gắn máy”. Một phần anh
không muốn bỏ nghề cũ, một phần vì mỗi lần chờ khách, đứng bên gốc cây anh lại
có cảm tưởng mình đương rình nấp chờ địch.
Anh Hai Lưa mà đi thì địch mở tiệc ăn mừng... Quả vậy, anh
theo dõi tình hình quân sự quận nhà, địch ngày một quấy phá. Có lần một tiểu đội
chúng giữa ban ngày đám về phục kích tại sườn núi Tô Châu, bộ đội mình lọt vào,
súng máy chúng bắn ra. Chắc chúng cũng là lính mới, nên phục kích như vậy, quân
mình lọt vào như vậy, súng máy địch khai hỏa trước như vậy mà bên ta kịp mằm tản
ra không ai việc gì, chúng chuồn mất. Anh Hai Lưa mỉm cười riễu địch, nhưng anh
lại nghiêm nét mặt ngay và nghĩ thầm nếu anh còn nhà, địch đâu có thể “hỗn” thế
được.
Chương Ba
TÀI MỆNH TƯƠNG ĐỐ
I
Sự thối nát của một chính thể tất nhiên lõa lồ nhất nơi nào
có dính dáng đến tiền, Khóa trông thấy nhiều và trông thấy rõ những điều đó hơn
cả. Sau chuyến buôn xi măng thất bại ở Đà Nẵng, Khóa thua trời - trời mưa - và
tự nhủ thua keo này bày keo khác, lo gì không có chuyến “phất”. Cho nên một mặt
giúp mẹ, mặt khác Khóa vẫn nghe ngóng chờ “phất” một chuyến để có thể mở nhà in
riêng cho gia đình Văn hóa. Nhưng những chuyến sau này Khóa đều thất bại, không
phải thua trời mà thua người - người của đảng chính quyền trong cơ sở kinh tài
của chúng. Với óc tò mò với tài nhận xét nhanh và sáng cứ mỗi lần thất bại Khóa
lại hiểu rõ thêm về tổ chức kinh tài của chúng.
Thoạt hai nguồn lợi chính cho cơ sở kinh tài là buôn vàng và
thuốc phiện lậu nhưng rồi việc chi phí ngày một lớn chúng phải xoay buôn lậu đủ
các mặt hàng có lợi. Tất cả ban chỉ đạo Nha Tổng Giám đốc Quan thuế đều là người
trong Đảng. Không những thanh tra các khu vực chủ chốt như phi cảng Tân Sơn Nhứt
và thương cảng Sài Gòn bắt buộc là người của Đảng, mà các chức vụ then chốt bên
dưới như trưởng ty kiểm hóa cùng các kiểm hóa viên thường cũng là người của Đảng,
những tên ma lanh thì vào những chức vụ hữu danh vô thực, những kẻ ngu đần có
thể lợi dụng sai bảo để được giữ những chức vụ then chốt. Đã có những lần mật lệnh
không đến kịp các nhân viên quan thuế khác cương quyết đòi khám, thấy vàng, thấy
thuốc phiện, hoặc giấy phép nhập cảng ghi hàng về là rễ cây dùng làm thuốc bắc,
kỳ thực bên trong là các hàng dacron, tergal v.v... Những nhân viên kiểm soát
đó bèn được mời tới một cuộc họp mặt cảnh cáo phải giữ kín việc đó nếu không sẽ
bị đổi đi biên giới. Qua đi một thời gian cho câu chuyện thật êm họ được bị đổi
đi biên giới như thường. Trong quan thuế ngạch thối nát nhất và cũng là ngạch đầy
rẫy những nhân viên kinh tài của Đảng, đó là ngạch kiểm hóa viên. Nương vào thế
lực Đảng, chúng làm cho Đảng một, chúng làm cho chúng hai, chỉ cần ba tháng tại
chức chúng đã có Villa, Mercedès... Đấy là nói hệ thống công chức người Việt
trong Nha Quan Thuế, còn hệ thống chuyển hàng đến, chuyển tiền đi giới Hoa Kiều
được đặc biệt tín nhiệm. Hoa kiều phải hết sức làm đẹp lòng chính quyền để được
mặc tình thao túng thị trường Sài Gòn - Chợ Lớn và có nghĩa là toàn quốc, chính
quyền quốc gia cáng thối nát càng chỉ có thể tin cẩn vào Hoa Kiều mới không sợ
lộ liễu và không sợ bị phản. Đôi bên nương vào nhau rất tương đắc.
Sau chuyến buôn xi măng thất bại ở Đà Nẵng, về Sài Gòn Khóa
nghiên cứu thấy nếu xin được một tờ giấy phép nhập cảng vải hoặc giấy in là có
cơ “phất” (mỗi loại hàng nhập cảng Mỹ cấp cho một số ngoại tệ) nhưng đơn nộp
hàng tấn, ban kinh tài dành những hàng ngon ăn, thứ đến những kẻ biết tuy-ô “khấn”
theo tỉ lệ mỗi đô la ba đồng bạc Việt. Đương sự khi được cấp giấy còn kiếm được
số lãi gấp mười số tiền lễ cho viên tổng giám đốc Thương vụ. Như vậy làm sao mà
đơn của Khóa được cứu xét?
Khóa định xoay mở một hãng chuyên làm đồ nhôm, chưa kịp xin
được phép thì hãng đó đã do một Hoa Kiều (phục vụ trong ban kinh tài, tất
nhiên) mở trong Chợ Lớn rồi.
Bộ Kinh tế sang thời cải tổ, mỗi nhà chỉ được nhập cảng tối
đa ba ngành và phải ký quỹ 350.000 đồng cho mỗi ngành. Như vậy số đơn xin không
đến nỗi hàng tấn như trước nữa. Khóa lại thử thời vận, nộp đơn xin nhập cảng
ngành cố tri, ngành NC
13 (xi măng). Lần này Khóa có đủ kiên nhẫn đi thu xếp giấy tờ,
có đủ khôn khéo giao thiệp để họ châm chước cho một số điều kiện. Khóa cố gắng
tậu một cửa nhà ở Đa Kao làm kho riêng, do tiền mẹ dành dụm cộng với những số
tiền dành dụm khác của các cặp Khiết - Cam, Kha - Miên, Tân - Lê. Nhưng đến đây
thì một điều kiện bất ngờ xuất hiện, điều kiện ngầm nhưng bất khả kháng: phải
treo ảnh viên Tổng thống ngay tại văn phòng. Đó là dấu hiệu phục tùng có “bảo đảm
chính trị”. Khóa bỏ!
Vừa lúc Miên tốt nghiệp cán sự Y tế. Nàng nghe lời Khóa xin
hoàn lại chính phủ số tiền học bồng để mở nhà bảo sanh tư - nhà bảo sanh Hồng Đức
- sửa lại căn nhà kho của Khóa. Bỏ cuộc mà thu xếp êm đẹp như vậy, Khóa cho là
mình vẫn thắng cuộc như thường.
Tân cũng vừa học xong ngành thuốc, chính phủ trưng dụng chàng
tới phục vụ một quân đoàn lưu động, đại bản doanh đóng tại Biên Hòa. Tân nhận lời
mỗi lần có dịp về Sài Gòn với Lê và con (bé gái Bích Giao) chàng sẽ đến trông
nom giúp nhà thương của Miên, mặc dầu chàng chuyên về tai, mũi, họng.
II
Trong gia đình Văn hóa chỉ có Tân là chẳng đế ý mấy đến thời
cuộc, bởi những triền phọc của thời cuộc không ăn nhằm gì đến hoạt dộng hàng
ngày của chàng.
Chúng ta nhớ hồi còn ở Hà Nội, Tân đã thi tương đương để đầu
niên khóa tới được nhận vào học lại năm thứ tư trường Thuốc. Ngày dó Tân tái ngộ
Kha lần đầu tiên ở bến xe điện Bạch Mai sát bờ hồ. Vì cần tiền để dành chuẩn bị
cho việc học sắp tới, Tân đã giúp Khóa trong việc xây cất trường Hưng Yên. Việc
thầu hoàn thành, Khóa giới thiệu giúp Tân một chân thư ký trong Viễn Đông ngân
hàng ở Hải Phòng. Thời cuộc biến chuyển gấp. Điện Biên Phủ. Hiệp định Genève.
Tân vào Nam theo nhà ngân hàng. Chàng bị chậm thêm một năm học Thuốc. Thành hôn
với Lê xong Tân giúp Lê theo đúng dự tính trước đây của nàng là mở hãng nhập cảng
tơ sợi. Tân dời khu cư xá ngân hàng dọn sang một biệt thự mới mua bên khu Vĩnh
Hội gần đấy. Trang trí tổ uyên ương mới đó có họa sĩ Thanh (con Khóa). Khu biệt
thự khá rộng có đất bao vây nhưng trần trụi không một bóng cây. Các anh em
trong gia đình Văn hóa bảo nhau mỗi người mang đến trồng mừng vài cây ăn quả
xung quanh. Riêng Miên mang lại một khóm gì thoáng trông như củ hành hay củ tỏi.
Miên hì hục tự tay đào lấy khoảng chính giữa khu vườn phía trước, rồi vun xới,
tưới. Một tuần liền ngày nào nàng cũng đến vun tưới, nàng thường đến một mình.
Vợ chồng Tân mấy lần gặng hỏi là Miên tặng cây gì, Miên chỉ cười và nói gọn “đẹp
lắm, quý lắm!”.
Mầm xanh đã vươn lên cao một gang tay và chẽ ra thành hai chiếc
lá dài từa tựa lá nứa màu xanh cẩm thạch. Chiều hôm đó Miên đến cùng với Kha và
Hiển vừa được nghỉ phép về. Hiển nắm chặt tay Tân nói rất tiếc không về dự tiệc
cưới Tân - Lê được vì tình thế quân sự xem ra ngày một nghiêm trọng, nương vào
sự thối nát của chính thể lũ cán bộ nằm vùng nhiều nơi đã hoạt động công khai.
Miên kéo Hiển ra xem quà tặng của nàng cho biệt thự Tân - Lê. Miên chỉ hai
nhánh lá xanh cẩm thạch và chiếc búp chính giữa màu trắng ngà như hoa ngọc lan.
Hiển cúi xuống xem xét, lấy hai ngón tay khẽ nâng hai nhánh lá, nghiêng đầu ngắm
kỹ hơn. Thốt nhiên Hiển ngẩng lên đứng thẳng người cất tiếng cười ha hả. Kha và
Tân, Lê cũng vừa tới.
- Chị Miên cho chúng em cây gì thế anh? - Lê hỏi.
- Cây lau! - Hiển đáp và tiếp tục hòa tiếng cười với tất cả.
Lê vỗ tay:
- Thế thì quý thật, đẹp thật, thử tưởng tượng giữa chốn kinh
kỳ gió bụi này mà có được khóm lau xanh mượt gợi hình ảnh của núi rừng.
Hiển nói:
- Khóm gì, đây sẽ thành cả một khu rừng lau cô ơi, rồi chúng
tôi có vào thăm vợ chồng cô phải vạch lau mà vào.
Kha nói:
- Khu rừng lau còn quyến rũ cả hổ về ở nữa mới nguy chứ. Cả bọn
cười vui vẻ, Miên đứng sát bên Kha nắm tay chàng nói:
- Thế là em chẳng cần leo lên núi Sáng, Bỉnh Di mới vào được
khu rừng lau, rồi đây mỗi khi nhớ khu rừng lau em chỉ việc đến với vợ chồng Lê.
Rồi Tân xin thôi ngân hàng, tiếp tục học lại Thuốc năm thứ tư
như nguyện sở cầu. Nói sao hết nỗi vui sướng của Tân khi trở lại ngành Thuốc,
Kha còn phải đi tìm rung cảm mà làm thơ, chứ Tân thì chung sống trong chính nguồn
rung cảm của chàng. Học lại năm thứ tư Tân được học lại bệnh lý ngoại thương, bệnh
lý nội thương, bệnh lý sản khoa.
Lê nói đùa:
- Anh ơi anh say mê đi stage nhà thương quá quên em mất. Tân
ôm nàng hôn lên trán:
- Nhưng về đến nhà anh lại say mê em ngay.
Tân được phụ tá mổ. Trời! Hồi theo kháng chiến chàng đã được
phụ tá mổ nhiều rồi. Nói sao cho xiết niềm vui của Tân khi chàng lồng chân vào
bốt cao su trắng, lồng tay vào găng cao su, đi vào khoảng éther sức nực, xung
quanh dao kéo sáng loáng, khay men trắng bóng vải phủ trắng tinh... Sang giữa
năm thứ năm Tân chọn chuyên khoa tai, mũi, họng và đã xin được một vị giáo sư
người Pháp cho đầu đề luận án để sửa soạn từ sớm. Sang năm thứ sáu thì cliniquc
xong được ba tháng chàng đã trình luận án về ung thư môi trước hội đồng:
Contribution à l’étude du cancer dcs lèvres.
Những trang đầu của quyển luận án tất nhiên là những trang đề
tặng, có điều những trang để tặng đó không hề là sáo ngữ mà rất chân thành của
Tân.
Chàng ghi ơn các giáo sư Việt, Pháp đã tận tình chỉ dạy chàng
trong ngành thuốc nầy mà chàng tin là một trong những ngành cao quý bậc nhất của
nhân loại.
Chàng ghi ơn cha đã quá cố mà tiếng ngâm thơ ru chàng ngủ -
bài thơ ái quốc tiêu cực “Nhờ bạn của Trần Tế Xương - còn vang vọng từ thời thơ
ấu đến bây giờ.
Chàng ghi ơn mẹ đã quá cố, mẹ đã góp hào quang vào ánh hào
quang muôn đời của những bà mẹ hiền dân tộc.
Chàng ghi tặng vợ mà khi gần chàng có cảm tưởng như được chèo
ngược thời gian để về với tuổi thơ trong sáng thần tiên.
Chàng đề tặng con - bé Bích Giao - mà chàng gửi gấm cả hy vọng
lẫn ảo vọng.
Sau cùng chàng ghi tặng chân thành các bạn chàng trong gia
đình Văn hóa đã dạy chàng hai đức tính quý giá là biết kiên gan trì chí và làm
việc có phương pháp.
III
Hãng đã ở Pháp về, chàng theo xong ngành cao học kinh tế và
nhận làm tại một hãng đại lý âu dược cho cả Đông Nam Á lương khá cao, bảo hiểm
lớn, hằng năm được chia lãi. Hồi còn ở Pháp Hãng có được Mẫn tìm tới liên lạc,
Mẫn hay tin Miên mở nhà hộ sinh thì viết thư giục chị cố gắng mở mang để vài
năm nữa học xong Mẫn về sẽ là bác sĩ cây nhà lá vườn vì Mẫn theo đúng ngành của
chị.
Hãng về Sài Gòn anh em mới hay là bà Phán đã mất ngoài Bắc tại
làng Định Quyết. Lẽ cố nhiên tin đó do Vân báo cho Hãng - Vân còn nhắn cho Kha hay
là bà ngoại chàng cũng đã quy tiên nhưng cậu mợ chàng (ông bà bát Thoại) và chú
thím chàng (ông bà Hạo) còn mạnh giỏi.
Kha có tần ngần lựa lời ướm hỏi Hãng xem Vân còn nhắn gì thêm
không, Kha chỉ biết thêm Hãng đặt được hệ thống chuyển tiền tam giác Sài Gòn -
Ba Lê - Hà Nội để thỉnh thoảng tiếp tế cho Vân và Kha thỉnh thoảng có thể tiếp
tế cho chú thím (ông bà Hạo). Vân không hề nhắn Kha điều gì khác, hé điều gì
khác.
“Anh ơi! có bao giờ người đàn ông quên người đàn bà đã sinh
con cho mình?”
Biết rằng Vân có...
Ôi, người đàn bà bên kia vĩ tuyến, câu chuyện tình của nàng,
niềm hy vọng ấp ủ của nàng cũng bí mật sau bức màn tre.
° ° °
Sau một năm nhà bảo sanh Hồng Đức hoạt động, Miên mời thêm một
bà mụ lành nghề cộng tác để hai người thay phiên nhau có mặt. Kể vào buổi đầu
cũng vất vả cho Miên vì tài chính eo hẹp, nhưng được tất cả anh em đùm bọc nên
Miên vượt mọi trở ngại tương đối dễ dàng. Tính tình thùy mị, thái độ làm việc tận
tâm đã khiến nhà bảo sanh của nàng không lúc nào vắng khách. Miên cho sửa lại
nhà bảo sanh, nâng thêm hai tầng nữa.
Tiền Hãng giúp, Khóa trông nom xây cất - (Kha thì biết gì mà
trông nom)!
Ngày hoàn thành Miên muốn mời cả gia đình Văn hóa đến thăm mừng
uống nước trà ăn bánh ngọt, nhưng rồi chỉ có đám đàn ông đến (thiếu Hiển ở đơn
vị), nữ giới chỉ có bà Đô đại diện.
Khai mạc Miên cười dịu dàng với Khóa:
- Đúng là nhờ lộc anh Khóa nhường em mới được thế nầy, em dù
vất vả đến đâu cũng thích.
Khóa cười sảng khoái, vì chàng vẫn cho là mình đã thắng cuộc
trong thất bại và nói .
- Ấy tôi vẫn chưa chịu đâu cô nhé, hiện đương rình đây, có thể...
“phất” ạ!
Luận dướn lông mày:
- Phải rồi... đại ca còn phất để mở cơ sở nhà in và nhà xuất
bản đại quy mô chứ.
- Chứ sao, ha ha, đấy rồi cậu xem trăm bó đuốc phải vớ được
con ếch !
Nói vậy rồi Khóa quay sang hỏi mẹ:
- Hợp tác với người Tàu có được không hở mẹ!
Bà Đô mái tóc đã trắng quá nửa nhưng khuôn mặt còn rạng rỡ với
đôi mắt sáng, bà hỏi lại:
- Anh định nói hợp tác buôn bán với người Tàu trong Chợ
Lớn?
- Dạ!
- Được chứ sao!
- Thưa bác có sợ họ phản mình không ạ? - Miên hỏi. Bà Đô trầm
ngâm một chút rồi khẽ lắc đầu:
- Không đâu cháu ạ, bác ở bên Tàu lâu bác biết, bên đó nhiều
vùng đói khổ còn hơn bên mình nhiều, người Tàu thèm tình đồng bào, nhưng cháu
tính nước quá rộng, người quá đông, chính bác nhiều khi phải thông ngôn cho hai
người Tàu miền Bắc và miền Nam trong cuộn đàm thoại, cho nên bác không lạ khi
nhận thấy chỉ cần qua hai thế hệ ở đây và một thế hệ lai là người Tàu đã nhập tịch
thành người Việt, vì khi nhập tịch thành người Việt, tình đồng bào rõ rệt hơn.
Theo ý bác ngay như cái vẻ đoàn kết của người Tàu ở bên này trong việc buôn bán
cũng là do lòng thèm khát tình đồng bào của họ mà ra.
- Con hỏi cụ vấn đề thuần túy buôn bán cụ trả lời thêm về
tình cảm, nhưng cũng hay, con chuyến này hợp tác với người Tàu để cải huấn họ,
chứ cứ để họ nắm hết các nguồn lợi kinh tế bực lắm.
- Anh định hợp tác với họ để buôn gì?
- Dạ còn trong thời kỳ dự định nên con chưa thể nói rõ để cụ
biết dược.
Luận cười:
- Á à đại ca bí mật! Thế đại ca đã nghiên cứu phương pháp độc
quyền kinh tế của Hoa kiều chưa?
- Sao không, tới đâu tôi cũng quan sát cách thức tổ chức của
họ mà Chợ Lớn là đầu não, tôi hãy lấy một ví dụ họ độc quyền gạo...
Câu chuyện đến đây đã có đà. Thế là suốt tiệc trà hôm đó Khóa
độc quyền trình bày cho anh em nghe về chuyện Hoa kiều độc quyền mua rồi lại độc
quyền bán gạo:
- Ở vùng quê hẻo lánh đến đâu cũng có một chú ba Tàu mở một
ngôi hàng chạp phô cha truyền con nối, bên trong còn cho dân quê vay tiền lời bốn
năm phân gì đó. Lúc gieo mạ đã cho vay rồi, lúc gần gặt cho vay thêm một lần, tới
chính vụ gặt tất nhiên một lần thú ba nữa đề rồi điều đình mua cả vụ mùa dó.
Người dân quê mình lúc nào chẳng cần tiền? Bán cho chú ba lại không phải gặt,
chú có đoàn nhân công lưu động, thường thì gặt xong chú đã lãi gấp đôi. Phơi
khô quạt sạch rồi để kho địa phương đó.
- Còn những nơi dân quê mình không cần vay tiền? - Lãng hỏi.
Người dân mình nghèo bao giờ cũng cần tiền, nếu không phải
vay trước thì đến vụ gặt cũng cần lắm rồi. Lúc này Hoa kiều mang tiền từ Sài
Gòn Chợ Lớn về mua, họ xuất vốn lớn ra như vậy, họ mua rẻ là lẽ dĩ nhiên và
cũng trữ ở kho địa phương.
- Sao họ không cho chở thóc về hết Sài Gòn - Kha hỏi.
- Dại gì, trước hết kho không đủ, ứ hàng, sợ cháy nữa, sau nữa
có như vậy họ mới làm chủ được giá. Lúc nào kho Chợ Lớn đã vợi, họ có những tàu
kéo - remorqueur - kéo hàng mười xà lan đầy ụ thóc về. Lúc nào muốn lên giá thì
họ bịa ra là thuyền bị bão nơi nào . . . nơi nào . . . chưa về được, giao thông
chuyên chở cũng do họ độc quyền mà, nghĩa là họ tha hồ vo tròn bóp méo luật
cung cầu. Các anh lại nên nhớ gạo ở nhà máy ra không bán thẳng cho những chạp
phô nhỏ. Có những mại bản Hoa kiều phân phối cho những hiệu lớn đã, rồi từ những
nơi đó những cu-li xe ba gác cũng là Hoa kiều chở đến các hiệu nhỏ. Và họ có một
hệ thống thông tin để hô lên giá là khắp các hang cùng ngõ hẻm lên giá đều.
- Đánh bỏ mẹ! - Luận nghe chừng đã cáu, quên cả bà Đô còn ngồi
đấy, óc thấy lổn nhổn những ba Tàu trên khắp các ngả đường kinh tế.
- Hiện chính phủ mình có cách gì đối phó với họ hở anh?
- Miên hỏi.
- Họ đi trước ý muốn của các “ông chính quyền” nhà. Ông vừa
nhậm chức lớn, họ tìm cách liên lạc với ông bằng được, họ thù tiếp ông ở một
nơi riêng có thuốc phiện ngon, gái đẹp, bếp riêng, nghĩa là nhất dạ đế vương. Rất
có thể còn có quà riêng biếu phu nhân ở nhà, một đôi bông kim cương 50 vạn chẳng
hạn. Mười lần thù tạc như vậy, rồi họ mới ngỏ ý xin “ngài” cho phép tăng giá gạo,
không nhiều, chỉ năm cắc một ký thôi. “Ngài” nghĩ có năm cắc một ký đáng là
bao, lương tâm ngài vẫn thanh thản lắm, ngài quên hay giả vờ quên rằng một ngày
chỉ riêng tại đô thành Sài Gòn Chợ Lớn cũng tiêu thụ hàng triệu ký.
Các anh nên nhớ họ đút lót khắp lượt từ bộ trưởng xuống đến
tùy phái những số tiền tương xứng để không còn ganh nhau, đút lót xong giữ kín,
không khoe.
- Họ chịu bỏ tiền đấy chứ! - Lãng thốt.
- Có gì đâu, họ chung nhau lại, hai trăm thằng buôn gạo cùng
hùn thì thành món tiền to. Họ tin vào cách tổ chức “kinh ngân phá lề luật”, họ
tin rằng với nghệ thuật hối lộ của họ thì lệ luật của mình với những cán bộ
chính quyền như thế chỉ là những mớ giấy lộn Người dân quê Việt Nam đổ mồ hôi
ra cầy ruộng cấy lúa, Tàu gặt, Tàu xay, Tàu bán gạo cho mình!
Giọng Miên dịu dàng và vui:
- Em hãy ví dụ anh được cử làm Bộ Trưởng kinh tế, liệu anh có
thể đối phó được không?
- Tôi mà làm Bộ trưởng kinh tế ấy ư, chỉ mười hôm sau là họ
đã mua chuộc được vài tờ lá cải nào đó để vu khống tôi mà hạ tôi xuống. Nếu tôi
có phạt họ thì liệu bên Tư pháp có thực hành bản án ấy một cách đứng đắn không?
Họ không hối lộ được tôi thì họ hối lộ bên Tư pháp chứ.
- Hãy ví dự - vẫn lời Miên - là tất cả nội các đều là anh em
nhà đây trong sạch, tin cẩn nhau thành một khối.
- Thì chỉ một năm sau bộ mặt kinh.tế nước nhà đã phong quang
hẳn. Guồng máy chính quyền mọi ngành đã có những người thanh liêm thiện chí cầm
đầu làm gương cho cấp dưới họ không thể mua chuộc bằng hối lộ, thì một mặt mình
triệt lũ buôn lậu, một mặt mình ổn đinh thị trưởng và giá cả thoạt tự Sài Gòn rồi
theo vết dầu loang ra dần tới biên giới. Tân vốn thờ ơ những vấn dề thời sự như
vậy, nhưng đến đây Khóa đã “hâm” nóng câu chuyện , chàng mới đặt câu hỏi đầu
tiên:
- Anh có nghiên cứu kỹ cách người Tàu buôn lậu?
- Có chứ! Ly kỳ lắm nhưng đại để thì họ cũng tập hợp thành
công ty. Hằng hàng về để rải rác tại nhà các đàn em nghèo ở sâu trong các hẻm,
nếu chẳng may lộ thì bị tịch thu mất một số nhỏ, thằng đàn etn sẵn sàng vào tù,
ở nhà vợ con đàn anh nuôi, ra tù lại tiếp tục nghề buôn lậu. Muốn triệt buôn lậu
phải triệt tận gốc, triệt những thằng trùm. Gọi chúng đến khuyến cáo trước, chỗ
này là cả tình lẫn lý vẹn toàn, nếu không nghe, bắt được tù và tịch thu toàn bộ
tài sản. Những tên đàn em nào sa lưới thì cho vào trại hướng nghiệp, khi thả theo
dõi bắt theo nghề mới không được làm cho chủ cũ nữa. Đâu có cần làm nhiều, nếu
mình thực có thiện chí và liêm khiết thì chỉ làm mươi vụ điển hình như vậy là
đâu vào đó răm rắp.
Khóa ha hả cười đắc chí hướng về phía mẹ:
- Thưa cụ con mà làm bộ trưởng bộ kinh tế trong nội các của
các anh em con đây thì Hoa kiều nhập Việt tịch một cách trong sạch hơn nhiều.
Bà Đô cũng cười:
- Ừ thôi anh hãy đợi thời mà làm bộ trưởng bộ kinh tế, bây giờ
thì anh hãy giúp việc tôi đã, mấy lần anh cựa quậy làm chuyện lớn riêng đều thất
bại. Số anh là phải quanh quẩn dưới gối tôi cho đến ngày tôi về với các cụ, lúc
đó anh làm ăn riêng có khá mới khá!
Khóa đã quay sang phía các anh em tiếp:
- Nhưng mà các cậu ạ tôi không thích làm bộ trưởng bộ Kinh tế
mà ưng làm thứ trưởng bộ nội vụ kiêm Giám đốc trại Cải huấn.
Biết tính con, bà Đô đứng dậy:
- Thôi bác phải về nhà, các cháu! Để anh ấy ở lại làm bộ trưởng,
làm thứ trưởng, làm giám đốc với các cháu.
Cả bọn cười ồ, cùng đứng dậy chào tiễn bà Đô. Khi mọi người
đã ngồi xuống Tân lại hỏi Khóa:
- Anh đã có chương trình lập trại cải huấn?
- Có chứ tôi đã nghĩ chín lắm. Tôi cần cái chức thứ trưởng bộ
Nội vụ để có thể kinh lý khắp các nhà lao trong toàn quốc nhưng tất cả tâm lực
của tôi đều dốc vào sự thực hiện trại cải huấn. Việc đầu tiên tôi cần một thửa
đất khoảng từ ba đến năm ngàn mẫu tây, có trang bị một số máy móc. Mà tôi xin
nói cho các anh biết là thửa đất đó tôi chọn được rồi.
Luận khẽ cung kính cúi đầu, giọng nói cũng làm ra vẻ ng- hiêm
trang:
- Đại ca quả là người dung hòa được tinh thần nghệ thuật lý
tưởng và khoa học chính xác thực tế.
Khiết hỏi:
- Thửa đất đó anh chọn ở đâu?
- Khoảng giữa Sài Gòn - Đà Lạt! Khiết gật đầu:
- Được đó
Khóa tiếp:
- Có đất rồi có một số nhà cửa và máy móc tối thiểu rồi, tôi
đến các nhà lao chọn chừng một trăm anh đã thành án (từ năm đến mười năm cấm cố),
những anh này phải thuộc loại khỏe mạnh và hạnh kiểm khá. Tới trại, buổi sáng
tôi cho đi canh tác và học nghề, buổi chiều học văn hóa. Về canh tác thoạt hãy
trồng những thứ chóng ăn được như lúa, khoai; về lớp học văn hóa thì có đủ các
trình độ từ tiểu học đến trung học. Đôi ba tháng sau canh tác đã có thu hoạch
(khoai lang, khoai tây chẳng hạn,) tôi mới đi lấy thêrn một trăm người nữa, dựng
thêtn nhà... Cứ thế hết trọn năm đầu tôi đã có nổi bốn trăm người và thừa sức
canh tác hai trăm mẫu tây. Hết năm thứ hai thì số thu hoạch hai trăm mẫu tây đó
- nếu không bị thiên tai hủy hoại nhiều - có thể nuôi được một vạn người, các
anh ngẫm xem số thặng dư bao nhiêu tiền chứ. Bởi vậy sang năm thứ ba trại cải
huấn của tôi tự túc được rồi. Chúng tôi sẽ tự túc trang bị dần lấy các loại máy
dệt, máy cày, máy tiện ... mà mở rộng phạm vi dạy nghề. Các anh nên nhớ chỉ năm
cái máy dệt cho học viên tập sự cũng thừa đủ mặc cho một ngàn người. Bốn trăm
người mình đã huấn luyện trong năm qua sẽ thành bốn trăm cán bộ cho mình điều
khiển một tổng số hai ngàn trại viên. Chỉ vất vả có ban đầu, về sau thì nhẹ
nhàng lắm. Sau năm đầu tiên tôi đã rèn luyện được khối công dân hoàn lương. Những
người bị lên án mười năm cấm cố mà qua đi năm năm thấy tiến bộ, kỷ luật, thì đề
nghị thả. Những người học hết trung học mà mình gửi đi thi đỗ có thể cho theo
lên đại học.
Miêu reo:
- Trời ơi, tù mà được gửi đi theo đại học, em thật bằng lòng.
Khóa tiếp:
- Tôi phác tính qua thì hết nărn thứ ba qua năm thứ tư trại cải
huấn của tôi đã có cơ sở vững, và đủ điều kiện kinh tế, cán bộ cho một thứ trường
bách nghệ. Lúc đó có thể khởi sự phong trào cải huấn bọn du đảng và gái điếm ở
thành phố.
- Còn gái điếm các nơi nữa chứ - Luận nói.
- Sài Gòn là toàn quốc rồi cậu ạ!
Luận cười lớn hơn:
- Hai hạng đó mà gặp nhau thì dù trại nam và trại nữ có ngăn
cách bằng hàng rào dây thép gai truyền điện và gài mìn chúng vẫn tìm gặp nhau bằng
được.
Miên mỉm cười cúi đầu, Khóa đáp:
- Chứ sao, mình sẽ hợp thức hóa những cặp uyên ương đó họ sẽ
nhập trại những người có gia đình. Bởi vì tù nhân được chấp nhận vào trại tức
là được tự đo một nửa rồi, có quyền đón vợ con tới ở. Các anh có thấy không, chỉ
năm năm qua đi là trại cải huấn của tôi thành một quận hành chính, hay một tỉnh
chưa biết chừng.
Lãng vừa châm xong điếu thuốc tiếp:
- Mà lại là một tỉnh gương mẫu mới chết chứ! Miên nói:
- Em đề nghị đặt tên tỉnh đó là “Tỉnh Anh Khóa!”. Khóa tiếp:
- Các cậu có thấy không, một đằng nhốt tù thì phải nuôi cơm, ốm
đau phải chữa thuốc, mà cơ thể của họ vẫn bị hủy hoại dần, vợ con hỏng, gia
đình tan nát; một đằng trại của tôi đã tự túc lại còn sinh lợi, con người được
hoàn cảnh thuận tiện học hỏi nghề, học hỏi văn hóa để cải thiện đời mình, cứu một
người mà rồi cứu cả gia đình họ. Dấn thân vào việc làm này phải coi là mình dấn
cả cuộc đời vào. Ông giám đốc phải liêm khiết đã đành còn phải công bằng, phải
chịu khó làm việc, cái gì cũng biết một chút, trường bách nghệ mà, mình cũng
leo lên máy cày như họ, biết góp ý kiến với anh thợ máy sửa xe hơi, với anh thợ
mộc, với anh thợ ngoã, với anh thợ đúc, với anh thợ tiện, với cô thợ dệt ...
Luận cười vang:
- Ha ha, nhất là với cô thợ dệt, đại ca cho dàn em một chân
phụ tá nhé.
- Chứ sao. Tôi cần cả một ban giáo sư kia mà. Mà tôi cóc cần
tiền lương của chánh phủ. Cứ mỗi người trong ban quản trị (kể cả ban giáo sư)
tôi cấp cho năm mẫu. Tỉ như cậu Kha đây, sáng có thể leo lên máy vỡ luống cày
trên thửa đất rồi trồng trọt, chăn nuôi, sống giữa thiên nhiên, làm thơ, dạy học.
Mà cậu Kha muốn làm thì làm chứ đám học trò tù nhân của cậu cứ mỗi đứa nó xúm
vào giúp thầy một tí cũng đâu vào đó cả.
Miên đã pha thêm trà và lấy thêm bánh ngọt, nàng góp thêm lời:
- Nhà bảo sanh Hồng Đức của em lúc đó cũng chuyển lên
“Tỉnh Anh Khóa” chứ anh Khóa?
Cả bọn lại cười ồ.
Kha ít nói nhất lúc đó mới hỏi:
- Còn việc canh phòng?
- Canh phòng là việc của chính phủ. Một khu trại như vậy cần
một thiếu úy, hai chuẩn úy, mười trung sĩ và độ một trăm lính là cùng, một chiếc
xe Jeep, vài con ngựa, vài con chó biết đánh hơi tìm người. Đó là để đề phòng tụi
cộng sản nằm vùng trong đám tù nhân, chớ những tù nhân quốc gia họ còn trốn đi
làm gì?
Những anh được lựa chọn tới đây mà ba gai thì mình đã tống lẹ
trở về khám cho biết thân rồi kia mà.
Kha nâng chén trà:
- Nào xin các anh em uống thêm một chén trà, ăn thêm một chầu
bánh nữa, không phải là mừng cho nhà bảo sanh Hồng Đức của bà đầm tôi, mà là mừng
chức thứ trưởng bộ Nội vụ và trại Cải huấn của anh Khóa, nơi huấn luyện lại cho
thành những người công dân tốt...
Khóa cũng nâng chén trà và tiếp:
- ...Những người cha tốt, những người mẹ tháo vát, với một tư
sản, và vẫn lấy gia đình làm gốc.
Tân cười hiền lành hỏi:
- Anh có thể cho chúng tôi biết anh đương chuẩn bị “phất”
chuyến gì đấy?
Có lẽ Khóa ưng nụ cười hiền lành của Tân mà không giữ bí mật
nữa, đáp:
- Tôi hiện đương chuẩn bị với một Hoa kiều buôn theo con đường
thủy Sài Gòn - Nam Vang.
- Anh buôn gì? vẫn lời Tân.
- Hàng đi Nam Vang thì lưới đánh cá, đồ nhôm, đồ giải khát...
Hàng Nam Vang về thì thiếu gì: trà tàu, thuốc bắc, linh mỹ a,
rượu tây... Hiện tôi chỉ còn chờ họ đóng xong chiếc tàu vận tải chừng 200 tấn
gì đó.
Thấy Khóa đứng dậy, Luận đứng lên theo hỏi đùa:
- Thế liệu anh chưa làm thứ trưởng bộ Nội vụ anh có định buôn
lậu chuyến này không?
- Cứ hàng đi hàng về hợp lý như vậy đâu có cần buôn lậu. Chỉ
một năm sau là bọn mình có nhà in riêng dược rồi. Thôi khuya rồi, giải tán!
Miên cảm ơn tất cả anh em, tiễn ra lối cửa lớn rồi vào thu xếp
đĩa chén.
Kha còn ngồi yên chỗ cũ. Trong những cuộc nói chuyện Kha thường
thích nghe mà ít phát biểu, bởi chàng quan niệm rằng đem lý trí ra mà thảo luận
thì vấn đề nào cũng có phần hay phần dở, phần lý tưởng thanh thoát, phần thực tế
khó thực hiện, nhưng tấm lòng thành của người nói là quý, tỉ như tấm lòng thành
của Khóa trong câu chuyện giả định vừa qua. Miên đã đi tắt đèn mọi nơi (nhà bảo
sanh của nàng khai trương lại kể từ ngày mai). Trong bóng tối Kha mỉm nụ cười
buồn bã, vì ý kiến xây dựng của Khóa lại làm chàng liên tưởng đến thực trạng đất
nước hiện giờ, đặc biệt về văn hóa hầu như mọi ngành đều bị bế tắc. Kha được biết
người Mỹ trong năm qua có trợ cấp cho chính phủ một số tiền khá lớn để dịch những
tác phẩm cũ bằng chữ Hán còn giữ ở Viện khảo cổ. Đó là điều Kha hằng mong ước
tuy nhiên chàng thấy tủi nhục ở chỗ phiên dịch tư tưởng của ông cha để lại mà
cũng phải nhờ đến tiền của người mới chịu làm.
Chàng nào ngờ chàng còn phải tủi nhục hơn nhiều nữa khi hay
tin là đến như vậy mà cũng không làm được trọn vẹn. Có lẽ vì số tiền lớn đó chi
tiêu vào công việc văn hóa, không ai sơ múi được gì, nên qui tắc xuất ngân rất
gắt gao, gắt gao đến nỗi một số bản dịch xong rồi còn quẳng đấy chưa đem in được,
có trường hợp dịch giả - một nhà nho già và nghèo - chết mộ đã xanh ngọn cỏ mà
vẫn chưa được lĩnh tiền thù lao. Rồi cuối năm không tiêu hết số tiền dự chi đó,
phải trả lại quỹ viện trợ, người Mỹ lại phải đem số tiền đó chuyển sang giúp
người Nhật, mà người Nhật cũng như người đọc họ không dùng phí tiền viện trợ
vào việc trả lương công chức, họ dùng vào việc khuếch trương hữu hiệu kỹ nghệ
nước họ.
Kha cảm thấy nghẹn ngào u uất như khoảng bóng tối lúc đó bao
trùm lấy chàng. Chàng cố tìm một hình ảnh tương xứng với sự phản bội lịch sử
lúc đó, chàng tưởng tượng cảnh một tên béo lùn cưỡi một con ngựa què và mù
đương kéo một chiếc xe ọp ẹp bánh vuông trên một con đường dốc ngược và gồ ghề.
Miên đã đến đặt tay lên vai chàng âu yếm:
- Về chứ anh!
III
Một tháng nữa qua, sang đầu xuân năm Canh Tí (1960), ngay đêm
giao thừa, Cộng sản bất thần đánh vào Tây Ninh, mở đầu cho một cuộc máu lửa cốt
nhục tương tàn thực sự. Chúng hy vọng đã vùng lên dùng quân sự đúng lúc để
thanh toán nốt miền Nam. Lại chính những người dân bị phản bội lần nữa, ngập ngụa
trong chiến tranh, bị đâm lén bốn bề, nghiến răng chịu đựng, kẻ nào chết thì
đành chết, kẻ nào né tránh được thì cố tìm ra phương kế giành lấy thời gian mà
tự cứu lấy mình, lấy nhà, lấy nước.
Cùng với Việt cộng đánh mạnh, Cao Miên tuyệt giao với
Việt Nam, cửa biên giới đóng. Luận đứng trước Khóa ngoẹo đầu:
- Đại ca ơi, tài đại ca thừa sức làm bộ trưởng làm thứ trưởng
mà cứ động có kế hoạch “phất” nào là không người phá thì trời phá. Rõ thực tài
mệnh tương đố!
Từ đấy cứ mỗi lần anh em gặp Khóa lại nói đùa: “Rõ thực tài mệnh
tương đố!”
Và cũng quả nhiên kể từ sau hội nghị Văn hóa Á châu họp ở
New-Delhi, Khiết không còn đi đại diện cho chính phủ quốc gia tại một hội nghị
quốc tế nào nữa. Chính thể gia đình trị và độc tài ngày một lộ liễu, hầu hết
các chính khách có nhiệt tâm mà Khiết quen biết đâu đã lẩn vào thế chống đối bí
mật.
Sau vụ “tài mệnh tương đố” ít lâu, vào một buổi chiều Kha bỗng
được tin Khiết nhìn lại tòa soạn gấp. Chàng tới ngay, khi ẩn cửa vào thấy Khiết
đã ngồi chờ. Hai người bắt tay nhau, Kha hỏi: hóa.
- Anh cần bàn với tôi điều gì mà gấp thế?
- Anh sẽ thay tôi đứng tên chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Văn
- Ủa!
- Đúng vậy! Tôi vẫn đứng ở lập trường văn hóa và tin tưởng rằng
văn hóa là chiếc bè chuyên chở, đào luyện tư tưởng. Vào những lúc đổ vỡ nhất của
lịch sử nhân loại chính những cơ sở văn hóa là những chiếc bè tế độ. Nhưng tụi
chúng đa nghi lắm
- (ý Khiết ám chỉ chính quyền đương thời) - căn cứ vào dĩ
vãng hoạt động của tôi, căn cứ vào số chính khách quen biết cũ của tôi chống đối
chúng, chắc chắn chúng phải mật vụ theo dõi tôi riết. Anh biết đấy, tuần trước
Nha Báo chí mời tôi tới cự nự sao không cho in hình tổng thống lên trang đầu
cùng bài hiệu triệu. Báo mình là tờ báo Văn hóa, chứ có là báo thông tin anh!
Chúng đã quyết định cúp bông giấy nhà.
Kha chậc lưỡi coi thường:
- Với số độc giả hiện nay của mình thì chúng cúp bông giấy
cũng không sao.
- Đành thế nhưng cứ đà này chúng còn tiếp tục làm khó dễ nhiều
nữa, vì vậy tôi mới muốn anh đứng ra lãnh trách nhiệm chủ nhiệm kiêm chủ bút
cho chúng hết nghi. Tôi sẽ lên Đà Lạt mở văn phòng luật sư trên đó ít lâu.
Nhìn vẻ mặt Khiết đăm chiêu khi nói, Kha tuy “dốt” về chính
trị cũng biết rằng những biện pháp đề phòng đó phải xác đáng lắm. Chàng đáp:
- Vâng nếu anh xét như vậy tiện và lợi thì để tôi đứng tên.
Bao giờ anh lên Đà Lạt.
- Tuần sau.
- Cả chị và cháu cùng lên?
- Chẳng cần. Phi cơ đi đi về về như đi chợ ấy mà, nghĩa là rồi
đây anh em nhà sẽ không thấy sự gì khác lắm, trừ việc thay tên chủ nhiệm.
Rồi hai người ngồi đối diện cùng làm các giấy tờ cần thiết.
Câu chuyện Khóa giả định sẽ làm thứ trưởng bộ Nội vụ kiêm giám đốc trại Cải Huấn
ngày nào như còn vang vọng, thốt nhiên Kha thấy lòng nặng trĩu sầu muộn, một sự
chán nản tràn ngập tâm hồn rã rời cơ thể. Trạng thái chán nản và rã rời đó khá
phổ biến trong tâm trạng của những người quốc gia tâm huyết đương thời kể từ
ngày cộng sản chính thức khai hỏa mở màn cho giai đoạn quân sự mà chúng hy vọng
sớm thanh toán nốt miền Nam. Chính quyền quốc gia thì ngày càng thối nát tựa
như địch đã dồn chúng vào vũng lầy, chúng lại đại tiện tiểu tiện luôn ra đấy
cho ngập ngụa thêm, mồm không ngớt kêu gào chiến thắng cuối cùng. Mỗi khi cảm
thấy chán nản rã rời như vậy,
Kha thường để mặc cho tâm hồn chìm đắm hơn, chìm đắm hơn nữa...
Nhưng ở Kha cũng như ở mọi tâm hồn khác còn bắt rễ vào nỗi nhọc nhằn của dân tộc
như đứa con trong bụng mẹ vẫn nhận nguồn sinh lực của mẹ qua lần nhau tiếp nối,
họ chìm đắm mà không phải là tuyệt vọng, trái lại nữa. Điều này vượt mọi ánh
sáng lý trí, có lẽ chỉ người Việt mới hiểu được người Việt ở thái độ ương ngạnh
cương quyết đầy mâu thuẫn đó.
Hai anh em làm xong giấy tờ, Khiết mở ngăn kéo lấy ra tờ báo
Pháp và chỉ cho Kha đọc mấy dòng gạch đỏ bên dưới đại ý: “Đã hai mươi năm nay
chiến thuật và chiến lược của ông Hồ Chí Minh chưa hề sai, nhưng liệu lần này với
hạm đội thứ bảy của Mỹ ông ta có sai?” Đọc xong Kha nói ngay với Khiết: Cộng sản
tất nhiên sẽ bị tàn lụi ở Việt Nam nhưng không phải vì hạm đội thứ bảy của Mỹ
mà vì chủ nghĩa đó vấp phải một dân tộc có sức chống đối kỳ diệu, mặc kệ khổ
đau ngang trái làm cho xác xơ, càng xác xơ lại càng không bao giờ chết bởi vẫn ủ
được nguyên vẹn nguồn sống mãnh liệt bên trong.
Khiết gật đầu:
- Anh nói đúng, rất đúng, lan tới đất nước này ư? Cộng sản tự
tàn lụi vì gặp phải sức chống đối kỳ diệu của một dân tộc có truyền thống càng
xác xơ càng không bao giờ chết! Nhưng tôi vẫn cứ tự hỏi hoài sao một dân tộc có
tình có nghĩa, biết lẽ phải chăng như dân tộc nhà mà lại mắc kẹt họa cộng sản,
đến nỗi ngày nay càng cựa quậy càng như bị thít chặt vào.
Kha bật cười khẽ, nói đùa nhưng buồn:
- Thì cũng là tài mệnh tương đố chứ sao.
Chương Bốn
ÔNG CAI
I
Ra khỏi tòa báo được một quãng, đầu óc Kha dịu dần... Gió mát
buổi chiều như đan bằng tơ mịn. Kha muốn quên hết mọi bực bội thời cuộc cho
lòng được thảnh thơi.
Nhớ lại ba hôm trước đây, Hãng tới đánh thức Kha dậy từ sớm để
đi xem thành phố lúc thức giấc. Khi hai người ra khỏi cửa, ánh đèn nhà đối diện
bật lên, ánh sáng cũng trong sạch như ban mai, lọt khỏi khe cửa sổ đủ để soi
sáng cho Kha thấy nụ cười hiền của một bà mẹ gánh vội hàng đi bán vừa lướt tới
đó. Từng điều nhỏ nhặt như vậy thường làm Kha vui lâng lâng. Khi Hãng cho xe
phóng tới cầu sông Đồng Nai thì mặt trời mọc phía bên kia cầu, hai hàng đèn hai
bên thành cầu với ánh sáng xanh trông chẳng khác những con một lơ láo tuy thức
trắng đêm mà tinh thần chưa mệt mỏi.
Đương mải nghĩ, Kha bỗng phải dừng lại trước ngã tư đèn đỏ.
Nhìn ánh sáng đó, trở về hiện tại Kha lại muốn nổi giận như con bò mộng xứ Tây
Ban Nha. Đèn xanh bật lên giả dối như những nụ cười chính khách trong bàn tiệc.
Một cô gái làng chơi mặc áo hoa sặc sỡ có nhiều vết nhăn phía
sau, đứng dưới gốc cây me gần đấy chờ ô-tô buýt, thờ ơ nhìn mọi người qua lại,
nhưng khi cô gặp đôi mắt vừa chán chường vừa đầy sinh lực của Kha, vẻ mệt nhọc
của cô bỗng nhúc nhích sáng lên, tựa như cô vừa tìm thấy chút gì đồng tình quý
giá giữa cõi đời ghẻ lạnh. Điều nhận xét đó khiến tâm hồn Kha trở lại trạng
thái hiền dịu. Chàng vô tình đi vào một đường hẻm. Đường hẻm sạch bóng, hai bên
là vườn cây cùng những căn nhà xinh thấp thoáng. Kha dừng lại cố ý chờ đợi một
bóng đẹp và quả nhiên bóng dẹp xuất hiện, đúng như ý nguyện sở cầu.
“Linh hồn của những căn nhà xinh chính là những bóng dẹp!” -
Kha vẫn hằng nghĩ thế. Tự nhiên Kha liên tưởng đến những cuộc giao hoan. Hầu
như ngày nay nam nữ thanh niên thế giới thích đổ xô vào tiêu thụ ngốn ngấu những
tác phẩm mà động tác chủ chốt là những cuộc giao hoan trắng trợn, thật trắng trợn,
đó phải chăng là tiếng thét nổi loạn của xác thịt để tự xác định vị trí giữa một
thế giới đầy đặc sương mù, đẫm ngạt hơi độc nhưng lại giả làm hương hoa. Đi vào
vùng yên tĩnh thanh bình của đường hẻm với một bóng đẹp thoáng hiện uyển chuyển
trong khung cửa sổ, Kha thấy con đường hẻm như tách khỏi thế giới bất mãn mà biến
thành một thế giới độc lập thênh.thang sạch sẽ. Và câu tự vấn dịu dàng đã đến
trong trí Kha vào đúng lúc này. “Liệu từ nay cho đến trọn thế kỷ hai mươi,
chúng ta có hoàn tất được công cuộc giải phóng và xây đựng con người?”
Kha thích nhìn sâu vào thời gian làm bối cảnh cho tư tưởng: từ
một tế bào hữu cơ đầu tiên xuất hiện ở biển một thời tiền sử xa xôi nào tiến
triển cho đến con người ngày nay, lịch-sử có lúc nào ngừng tiến bộ đâu?
Trí Kha lan man trở tại những chuyện tình muôn đời của thế
nhân, truyện Kiều, truyện Phan Trần, Hồng lâu mộng, Tây Sương Ký… Đời sống của
giai cấp nào thì cũng là đời sống con người, có dở mà có hay. Nếp sống xa hoa
huy hoàng của họ đứng trên quan điểm xã hội ta đả kích, nhưng khi ta lười lĩnh
nằm dài trên giường nệm mà tưởng tượng cảnh giàu sang phú quí của họ, vườn sau
ao trước, hoa nở trong vườn rộng ấm cúng mà hoang sơ, bướm lượn trong nắng vàng
phơi phới, chim hót cho tăng phần liêu tịch, và những khuôn mặt tư dung diễm lệ
của nàng Kiều, của Thôi Oanh Oanh ... những rung cảm tràn bờ của Kim Trọng, của
Trương Quân Thụy... những mối tình đoan trang hay trót lỗi lầm của họ vẫn là những
cái gì ve vuốt và nâng cao cảm quan thế nhân. Trong giây phút mặc cho dòng đời
trôi đi đớ đâu có vì quan điểm xã hội kia mà phủ nhận luôn cả cảm quan này?
- Việc ni làm răng, mạ à?
Kha giật mình dừng lại. Mải suy nghĩ Kha đã ra khỏi hẻm và gặp
đường lớn lúc nào không hay. Câu hỏi trọ trẹ đáng yêu của cô gái Huế kéo chàng
trở về thực tại. Chàng đưa mắt nhìn vào phía trong cửa hiệu bán guốc và thấy bà
mẹ đương cúi xuống vừa ra hiệu cho cô gái vừa đáp:
- Việc nớ làm như ri nì.
Kha vui mừng sực nhớ ra rằng căn nhà mở cửa hiệu bán guốc sơn
của gia đình Huế này ở ngay đầu ngõ cụt, bên trong có tiệm phở và cà phê của
ông Cai. Kha quyết định vào thăm. Đến nói chuyện với ông Cai lúc này thật hợp
thời hợp cảnh.
Kha né mình nhường bước cho ba người bước vào hiệu bán guốc
và khi rẽ vào hẻm chàng còn kịp nghe tiếng bà mẹ reo vui:
- Ô cấy rôn nó về tề! ( ) ( Ô, vợ chồng nó về kìa (tiếng vùng
quê miền Trung)
Kế đó hẳn là đôi vợ chồng giới thiệu khách với mẹ, vì tiếng
bà mẹ tiếp ngay:
- Dạ mời ông ngồi chơi.
Và tiếng người khách đáp:
- Thưa để mặc tui, không can chi mô.
II
Ông cai Bính di cư vào Nam trước Kha đến sáu tháng. Vào tới
Sài Gòn thoạt ông vẫn làm ở sở binh nhu và dốc hết tiền dành ra mua được căn
nhà trong hẻm đường Lê Thánh Tôn này. Ông sửa sang căn nhà, gian ngoài thành tiệm
phở buổi sáng và cà-phê buổi chiều, gian trong để ở, rồi ông xin thôi ở sở binh
nhu và làm... chủ quán. Vào đến Nam anh em cầu thủ quen thất tán cả không ai mời
ông làm giám biên nữa, nhưng nếu có trận cầu quốc tế nào thế nào ông cũng có mặt
trong đám khán giả bình dân. Ông vẫn tỏ ý phục cầu thủ nhà kể cả những khi
thua.
Gần đây có lần ông nói với Kha: “Nếu như chính phủ cũng có
tinh thần trách nhiệm đồng đội như các cầu thủ thì Cộng sản chỉ một sớm một chiều
là tiêu!”
Tiệm của ông buổi sáng phần lớn là những người lao động tới
ăn phở Bắc, nhưng buổi chiều thì phần lớn lại thuộc giới văn nhân ký giả tới uống
cà phê ăn bánh ngọt, có khi tới mười một giờ khuya ông mới đóng cửa được. Khu
ông ở chỉ có nhiều nhà in quanh đấy, họ đến sửa hoặc chờ sửa bài báo rồi kéo nhau
vào “đấu hót” ở tiệm cà phê đã nổi tiếng của ông. (Ông làm phở và pha cà phê
cũng rất thận trọng, rất có lương tâm nhà nghề như khi xưa ông làm giám biên).
Các văn nhân ký giả này thuộc đủ mọi khuynh hướng chính trị: thân Mỹ, chống Mỹ,
chẳng thân chẳng chống anh nào ráo trọi, cùng các đảng phái quốc gia này nọ với
các đường lối với các danh từ có cá tính của họ. Ông lắng nghe họ nói, họ thảo
luận về tình hình quốc tế quốc nội rồi ông tổng kết lại theo quan niệm của
riêng ông, rất thực tế, rất sắc bén như của bất cứ người bình dân Việt nào. Mỗi
khi Kha tới thăm ông, ông lại trình bày những quan niệm đó thao thao, ông quý
Kha lắm. Ông vẫn gọi Kha là “ông giáo” mặc dầu đã từ lâu Kha bù đầu về việc báo
không còn đi dạy học nữa.
Cũng phải nói thêm rằng khách cà phê lúc đầu của ông Cai còn
hai người hàng xóm nữa: một ông giáo tiểu học người Nam và một ông làm ở ty
quan thuế người Bắc vào Nam đã lâu năm. Hai ông này nói toàn giọng thân cộng và
chắc chắn đêm đêm họ vẫn theo dõi đài cộng sản. Ông Cai vốn tính nóng, nhưng
người ta là khách hàng nên ông đành nén giận. Tuy vậy đến lần thứ ba thì ông
không nhịn được nữa, ông mỉm một nụ cười cố làm ra vẻ dịu dàng bình tĩnh nhưng
đôi mắt ông rực tia máu căm phẫn và ông góp chuyện với họ. Ông hỏi họ đã thực
được sống với Cộng sản để hiểu Cộng sản chưa? Ông thoạt tự giả định là ông nhầm
như ông đặt ngay câu hỏi là liệu cả tám mươi vạn người di cư vào đây đều nhầm
sao, phần lớn họ đều thuộc giới bình dân nghèo khó cả. Ông đặt câu hỏi chung
cho cả Đông Tây là sao ở Việt Nam, ở lục địa Trung Hoa, ở Đông Đức lại cứ có
người vượt bãi mình dưới họng súng để trốn khỏi thiên đường đỏ, và chẳng thấy một
mống nào ở bên địa ngục tư bản trốn sang “thiên đường cộng sản” dù rằng giới
tuyến bên này không đặt bãi mình, không một dàn đại liên để chặn giữ những người
đó. Chó má thật!
Ông Cai càng nói càng thao thao, hơi thở hơi hổn hển vì cổ họng
nghẹn ngào uất ức. Sau cùng ông kết luận toẹt vào mặt hai ông kia:
- Thưa hai ông chúng tôi ghét Cộng sản thì chúng tôi bỏ Cộng
sản vào đây, ai thích Cộng sản nên tìm đường ra bưng ở với Cộng sản, điều đó
đâu có khó ? Trong khi các người đi lính trải trăm cay nghìn đắng ngoài tiền
tuyến, mình ở trong nầy làrn ăn thu lợi, xây nhà xây cửa mà lại ca ngợi cộng sản
thì... “ăn cháo đái bát” quá.
Giọng ông Cai càng về sau càng rít lạ, vẫn trơn tru mà vẫn
nghẹn ngào như dòng nước xuôi nghẽn vào một khe núi trước khi đổ ra thung lũng.
Thực tình giá ông được chửi thẳng vào mặt họ: “loại hưởng cơm quốc gia thờ ma Cộng
sản như các anh thực chó má quá! chó má quá!” thì họa may ông mới nguôi nguôi
đi một tí. Tuy nhiên hai ông khách cũng lẳng lặng rút lui ngay, từ đấy không thấy
sang uống cà phê nữa. Mà ông Cai mỗi khi ra đường gặp mặt thì cũng “ghé nón chạm
vai chẳng chào”. Ông vốn trực tính, ghét những hạng tình cảm không phân minh
như vậy. Ông luôn luôn tuyên bố với Kha: “Tôi đã ghét đứa nào thì thực là như
đào đất đổ đi và ghét suốt đời. Voa là!”.
Về hai đứa con của ông, cậu lớn theo xong trung học đệ nhất cấp
bèn theo học lớp cán sự công chính, rồi được học bổng sang Mỹ một năm, hiện còn
ở bên đó; cậu viết thư về nói là có đi ra ngoài mới biết ở nước nhà sướng, ăn uống
sướng, ở sướng, đi đứng thảnh thơi. Khi ông Cai thuật lại việc đó với Kha, ông
nhếch mép cười rồi kết Luận: “cho nó thế mới biết thân, ở nhà bố mua cho cái gì
ăn cũng chê ỏng chê ẹo. Voa là!”.
Còn cô gái, di cư vào Nam cô phải bỏ học để giúp cha việc
trông nom tiệm phở và cà phê. Cô lấy chồng nhạc sĩ nghèo nhưng ngoan, ông Cai
cho ở rể giúp ông trông nom cửa hàng, anh chàng hiện đang theo học lớp vĩ cầm tại
âm nhạc viện quốc gia, có giúp vài ban nhạc nhỏ tại đài phát thanh. Cô vợ mới
sinh con trai đầu lòng.
Ông Cai định làm ăn khá hơn - ông đương làm ăn khá - ông sẽ
nâng nhà lên một tầng nữa vì “thằng kia đi Mỹ về còn phải lấy vợ cho nó chứ!”.
Lần này Kha vào thăm ông, tuy trời còn đủ sáng để trông rõ mặt
người, nhưng đèn đường phố đã bật, lẽ cố nhiên cửa hàng của ông Cai cũng đã bật
đèn vì ở tận cuối hẻm. Kha bước vào tiệm đúng lúc chưa có người khách nào và
ông Cai đương diễn thuyết gì với cô con gái, dáng điệu ông thật hùng hổ. Ông
Cai phân trần ngay khi Kha vừa ngồi xuống:
- Thì ra ông giáo ạ, con bé nhà tôi nó chẳng hiểu cóc khô gì
cả.
Cô con gái ông Cai ngượng ngập khẽ cúi chào Kha rồi chạy vào
phía giường, bế dứa con nhỏ lên cho bú.
Ông Cai kể tiếp:
- Ai lại bây giờ nó còn hỏi: “Thế nước Tàu có bị phân chia
như nước ta không hở thầy?”.
Ông bật tiếng cười riễu và hướng vào phía trong để giải thích
cho cô con gái nghe:
- Hiện giờ Âu châu có nước Đức bị chia đôi, Á châu có Việt
Nam và Đại Hàn bị chia đôi. Cả lục địa nước Tàu bị Cộng sản chiếm hết, phe quốc
gia chỉ còn giữ được mấy hòn đảo ngoài khơi. Thối nát thì ra ở đảo! (Ông Cai
suy nghĩ một giây). Nghe nói họ bây giờ đã khá, nhưng mất bò mới lo làm chuồng,
đợi đến ra ở đảo mới bảo nhau khá thì còn nước mẹ gì nữa! Giờ lại đến tình hình
anh Lào cũng muốn rắc rối!
Cô gái nhỏ nhẻ hỏi lại:
- Thế tình hình nước Lào như vậy có ảnh hưởng gì đến nước ta
không hở thầy?
Ông Cai dường như không thể kiên nhẫn hơn được nữa:
- Ối chao ôi, kệ mẹ chúng nó!
Rồi ông Cai đứng phăng dậy đi pha hai ly cà phê, một cho ông,
một cho Kha. ông trịnh trọng cho cà phê vào phin, trịnh trọng nghiêng phích rót
nước sôi vào đó, hai cánh mũi phập phồng đón mùi cà phê bốc lên, tai nghiêng
nghiêng nghe ngóng tựa như hương thơm cà phê cũng có phát ra một thứ âm thanh đặc
biệt nào.
“Đó cũng là một lối thoát ly thực tại!” - Kha vừa nghĩ thầm vậy
vừa gật gù tiếp chuyện ông Cai. Vốn ông Cai đã hay nói, lại mến Kha nên thường
mỗi lần gặp Kha là ông thao thao dốc bầu tâm sự. Hôm nay ông Cai thoạt hết lời
ca ngợi việc người Việt Nam ăn Tết âm lịch.
- Hình như cả thế giới ngày nay - lời ông Cai - chỉ còn Việt
Nam là ăn tết ârn lịch, có phải không ông giáo? Ăn tết cũng là một thái độ văn
hóa, cương quyết ăn tết theo âm lịch là cương quyết bảo tồn văn hóa cổ truyền,
có phải không ông giáo? Tôi cứ nghĩ người mình mà tưng bừng ăn tết Tây bỏ tết
ta thì chẳng khác gì mồ cha không khóc đi khóc đống mối, có phải không ông giáo?
Sau một hớp cà phê ông chuyển sang chuyện Nhật đầu hàng năm
1945 - ông vẫn có tính gặp đâu nói đấy:
- Này ông giáo, tôi nghe nói Nhật họ có lập đài kỷ niệm nơi bị
bom nguyên tử.
- Thưa cụ, tôi cũng không được rõ việc đó - Kha đáp.
- Người ta bảo đài kỷ niệm đó chỉ giản dị có tượng con chó thế
thôi ông giáo ạ.
- Dạ, Vâng!
- Hừ! thế là ý nghĩa làm sao? Người Nhật muốn nguyền rủa nhân
loại chó má hay tự nguyện rủa mình đã chó má, ỷ mạnh đi ăn hiếp người rồi bị
người khác mạnh hơn ăn hiếp mình hở ông giáo.
- Có lẽ cả hai giả thuyết của cụ cùng Đúng!
Ông Cai cất tiếng cười ha hả sau lời phát biểu nửa đùa nửa thật
của Kha. Ông nâng ly cà phê trịnh trọng như người Nhật nâng ly sa kê và mỗi lần
uống một ngụm ông lại hơi dướn lông mày gật gù chẳng hiểu là để thưởng thức cà
phê ngon hay thưởng thức câu chuyện lý thú, hay cả hai?
Kha còn ngồi tiếp chuyện ông Cai đến khoảng ngót chín giờ là
giờ các khách hàng quen lục tục tới - những phóng viên của mấy tờ báo hàng
ngày, những biên tập viên của mấy tờ báo kịch ảnh hay chính trị, những biên tập
viên của đài phát thanh...
Chương Năm
MỐI TÌNH LINH LAN
I
Từ tiệm cà phê ông Cai về Kha thấy nhà ngoài còn tối om và tiếng
Miên tự bếp vẳng lên:
- Từ bận sau tôi cấm chị thế đấy nhé!
Tiếng chị người làm lí nhí thưa lại những gì Kha không rõ.
Chàng bật đèn nhà ngoài. Thấy ánh sáng biết Kha đã về, Miên từ bếp bước vội lên
tươi cười:
- Anh ở tòa báo về?
- Chuyện gì mà em mắng chị Tư thế? Miên hạ giọng:
- Hôm nay em ở nhà thương bất chợt về sớm, thấy cô ả rước
“mèo” vào bếp, hai đứa ngồi nói chuyện hú hí với nhau, anh bảo có tệ không? Thế
rồi là từ lúc đó luýnh qua luýnh quýnh động vào cái gì là rơi là đổ. Ở với bà
chủ trước nghiêm khắc, mấy ngày đầu về đây còn len lét như rắn mùng năm bây giờ
thì...
- Bây giờ thì... - Kha ngắt lời - đã biết trang điểm và có
“mèo”. Thế có ai cấm em yêu anh không?
Miên đặt một ngón tay lên miệng mắc cỡ, chẳng phải vì nàng vừa
mắng chị Tư, nàng vẫn có thiện ý coi chị Tư như em, nàng mắc cỡ vì cả một sự thực
tầm thường nhưng quan trọng như vậy mà nàng quên khuấy đi mất: nàng yêu Kha bao
nhiêu ! Phải trước đây nàng há chẳng đôi phen ước mong được Kha hò hẹn? Nàng lại
không quên một cử chỉ khá tế nhị của Tư, tế nhị một cách ngộ nghĩnh, là ngày
nào cứ vào khoảng chín giờ tối, Tư sửa soạn giường màn, hễ không thấy Kha ở
nhà. Tư bèn lẳng lặng đặt thêm trên giường chiếc gối ôm lớn, những ngày có Kha ở
nhà hoặc Kha vừa kịp về thì trên màn giường nệm trắng tinh chỉ có hai chiếc gối
hồng.
Kha đã vào nhà thay quần áo rồi bảo chị Tư:
- Chị cho tôi ăn cơm đi, cả nhà ăn rồi chứ?
Tiếng chị Tư “vâng” ngượng ngập, rồi tiếng mâm lách cách bưng
lên. Miên đến ngồi bên Kha sới cơm cho chàng và nói:
- Rõ hoài, giá lát nữa em không phải đi nhà thương, em đợi
cùng ăn với anh có phải vui.
Rồi Miên dịu dàng kể lại vài chuyện làm ăn trong ngày.
Ăn xong Kha mang ghế xích đu ra hiên cửa nằm cho thoáng. Miên
cũng kê chiếc ghế dựa ngay bên, nàng nói:
- Oi bức quá, anh nhỉ. Kha gật đầu:
- Lại có chớp nhay nháy nữa có thể mưa tới nơi.
Bỗng Kha ngồi nhỏm dậy, hai tay đập mạnh vào nhau; khi chàng
chìa tay ra cho Miên nhìn, xác một con muỗi đen nhánh nằm kẹp dính trong lòng
bàn tay với một chút máu tươi phọt ra. Miên cười:
- Anh có cái đặc biệt là ghét muỗi như ghét tử thù! Kha quay
sang nhìn Miên:
- Em còn nhớ ngày đầu tiên anh gặp em?
- Em còn nhớ cả câu thơ anh ngâm lên ngày đó vào lúc ngồi nghỉ
trên đỉnh núi nhìn về phía khu rừng lau trên núi Sáng bên Bỉnh Di:
Tình ta thức trong tinh cầu
Hồn ta tím ngát một màu hoa lau.
Lúc đó chúng ta cùng nói chuyện về khu rừng lau của em.
- Em chưa hề một lần đặt chân tới khu rừng lau mà anh kêu là
“khu rừng lau của em” thực mỉa mai.
Kha chậc lưỡi như chàng vẫn chậc vào những lúc chán chường:
- Ấy chưa đặt chân tới lại hóa hay! Khu rừng lau nhìn xa thì
đẹp mà đến gần thì ... cũng như bao nhiêu ảo vọng của cuộc đời!
Miên cười:
- Mà đến gần thì chỉ thấy muỗi, rắn, rết và hổ nữa.
- Hổ anh không sợ. Chiến đấu với cọp rồi rủi có bị táng thân
trong miệng cọp, cái chết cũng hiên ngang chán, chết vì rắn rết mới nhục, và để
cho lũ muỗi nó căng máu mình thì bực bội lắm.
Kha đưa bàn tay trái lên bóp trán và che kín hai con mắt nói
như nói với kỷ niệm:
- Tất cả những chặng đường anh cùng Hiển lần lượt qua anh còn
nhớ rõ như mới cách đây đâu có mấy ngày.
Bắt đầu có tiếng mưa lác đác rơi trên mái nhà. Kha theo dõi
bóng bà hàng xóm và chỉ cho Miên nhìn theo. Một tay bà cắp con, còn tay kia bà
dón cụm tụm giấy bẩn đem ra vứt vội vào thùng rác; tụm giấy bà vừa chùi đít cho
đứa trẻ.
- Miên ạ, anh nhớ lại thời sống giữa núi rừng Việt Bắc, mỗi
người có một ống bương ngắn để đi tiểu, rồi sáng sáng vác ống bương dài xuống
suối múc nước lên pha với nước tiểu của mình tưới rau. Cơ quan lại có nuôi lợn
để thỉnh thoảng liên hoan có thịt mà ăn, nhưng điều quan trọng chính là nuôi lợn
để có phân mà bón những luống cà cả, cà pháo, cà chua... Trong việc trồng trọt
ngày đó, phân lợn quí hơn vàng, bởi nếu quả tình là mình muốn trồng trọt cho có
quy mô thì mình cũng phải đổi vàng lấy phân mà bón. Dân đô thị phải tỏa ra sống
rộng rãi với thiên nhiên! Ở giữa thiên nhiên, đống phân trâu, phân bò rữa ra dưới
nắng mưa và cỏ chỗ đó xanh mướt. Em có thấy sáng sáng con chó cái của nhà bác
bên cạnh ra đường, mấy con chó đực nhảy lên, các bà mẹ trong hẻm vội kéo miết
lũ con vào nhà, sợ chúng phải nhìn một cảnh bỉ ổi. Nếu sống giữa thiên nhiên rộng
rãi thì nơi này con gà sống với con gà mái, nơi kia con chó đực với con chó
cái, trong bụi cây đôi chim, ngoài bãi cỏ đôi bướm, người ta sẽ thấy đó là điều
dĩ nhiên. Sống giữa thiên nhiên như tắm giữa sông rộng, dù có vừa tắm vừa tiểu
tiện mình cũng thấy chẳng có gì là gớm cả, thiên nhiên bao dung hết, tha thứ hết,
cặn bã nhỏi nhen lắng xuống và tan biến đi trong cái khoáng đạt mênh mông của
thiên nhiên.
Miên bật cười và gần như không nghe thấy tiếng mình cười vì
mưa đã rào rào rơi xuống đều và mạnh, Kha bắt gặp đôi mắt tinh nghịch của nàng
khi nàng nói lớn hơn:
- Anh tiếp tục làm thơ tả chân ca ngợi thiên nhiên đi.
- Nếu anh có quyền hành thì sau khi đã giải tỏa đô thành rồi,
anh sẽ làm gì em có biết không? Một mặt anh thành lập viện hàn lâm cho thật xứng
dáng và xây dựng một hí viện cực kỳ tối tân để phát triển văn hóa nghệ thuật nước
nhà, mặt khác anh cũng cho cất một nhà máy cực lớn để hàng ngày lập tức nghiền
nát hàng ngàn tấn rác rưởi của đô thành, bơm cạn hàng vạn thước khối cống rãnh
của đô thành, rồi biến hóa các chất đó thành phân hóa học cho bày trong tủ kính
lớn trước khi phân phát đến tay đồng bào tưới bón cho ruộng nương, cho vườn
cây, luống rau. Ruộng nương tốt, lúa được mùa; vườn tốt, hoa thêm hương thêm sắc,
quả lớn rau xanh. Chu kỳ azote phải đi trọn vẹn ngay dưới mắt đồng bào để mọi
người thấy rằng rác rưởi cống rãnh và phân bón đã làm đầy đủ bổn phận tốt dẹp của
chúng thì những tinh hoa, những hương thơm cũng phải làm sao cho xứng đáng là
những tinh hoa, những hương thơm...
Miên ngả người về phía Kha, năm ngón tay nàng lùa vào mớ tóc
mềm của chàng, Kha cũng ngả đầu lại sắp sửa hôn lên môi Miên thì có ánh đèn pha
rọi ngang cửa, chiếc Prefect sơn trắng quen thuộc cũng vừa dừng lại. Miên vùng
đứng dậy reo:
- Anh Hãng!
Hãng từ trong xe bước vội ra, đóng vội cửa xe và nhảy vội vào
nhà. Mưa rơi tuy có nhẹ đi nhưng vẫn rả rích.
Miên hỏi ngay:
- Mưa thế này uống cà phê nhé, các anh?
- Vâng tùy ý! - Hãng đáp.
- Hôm qua bận gì không đến họp gia đình Văn hóa?
- À mình ấy à - Hãng đáp lời Kha - mình phải sửa soạn giấy tờ
đi Hồng Kông cho việc của hãng.
- Luôn luôn được bay nhảy như anh, sướng thật!
Nhìn vóc dáng hùng dũng một cách gà tồ của Hãng đối diện, Kha
cảm thấy thoải mái hẳn. Những ngày hay đêm Miên thường trực ở nhà bảo sanh Kha
thích tìm Hãng, nhiều khi chính Hãng tới tìm Kha.
- “Hôm nay cậu đi ăn cơm với tôi” - câu nói đó của Hãng, Kha
nghe bao nhiêu lần, âm thanh êm ả lạ giúp Kha quên đi những bực dọc thời cuộc
xoáy cuộn tâm tư. Hai người thường đến ăn ở những tiệm nhỏ ấm cúng, nói chuyện
tào lao, nhiều khi Hãng mải tính toán nốt điểm gì, cả hai cùng im lặng, thỉnh
thoảng nhìn nhau mỉm cười, đủ rồi. Nếu đi ăn cơm tối đôi khi Hãng hỏi Kha: “kéo
một em cùng đi, nên chăng?” và Kha thường đáp: “Nên lắm!” Thế là Hãng lái xe
đưa đến nhà một em nào - thường là gái nhảy. Kha lấy làm thích thú theo dõi cuộc
đối thoại của Hãng với em. Hãng có tài dùng những câu rất sáo mà thành rất ngộ
nghĩnh và rất có duyên :
- Em muốn là trời muốn, vì vậy anh đến mời em đi ăn, dù em ăn
rồi cũng vào thay quần áo, đi với anh, ăn thêm cho đẫy và đẹp người ra - Em phải
kéo màn mới thay à, thay ở trước mặt anh không dược sao, đừng bắt anh phải tưởng
tượng em, tội nghiệp - Em muốn là trời muốn, anh sẽ dắt em đi bộ lên thiên
đàng...
Ấy đại khái Hãng thường nói với các em như vậy, các em cười
ranh rách đáp lại, và đối đáp lại những câu như vậy các em không cần phải thông
minh cho lắm, đó cũng là thâm ý của Hãng.
Hiếm khi Hãng tìm đến gặp Kha vào lúc đã ăn cơm rồi như hôm
nay. Hai người ngồi bên nhau, yên lặng cùng nghe mưa rơi rả rích trên mái
fibrociment và tiếng giọt tranh nhỏ đều trên một miếng tôn nào đó buồn nản. Cả
hai cùng nghe mưa rơi lơ đãng đến nỗi Miên đã mang cà phê ra đặt trước mặt mà
cũng không ai nhúc nhích. Nàng nói:
- Lát nữa chín giờ em phải đến nhà bảo sanh, anh Hãng cho em
quá giang nhé.
- Được cô cứ sửa soạn đi. Thế thì Kha cùng đi một thể, tôi với
cậu sẽ vào ngồi một phòng trà nào đó, “nàng” đã đi “chàng” ở một mình nghe mưa
rơi sao đặng!
Miên cười. vào nhà trong sửa soạn.
II
Sau khi đã đưa Miên tới nhà bảo sanh Hồng Đức của nàng tại Đa
Kao, hai người đàn ông trở lại đường cũ về trung tâm Sài Gòn, Hãng cười bảo
Kha:
- Thế là bây giờ cậu có thể lại xê-li-bạt như tôi rồi. Kha hỏi
Hãng:
- Tôi nhớ mang máng thời anh bị kiểm thảo trong phong trào
tam phản ở Phụng Minh Thôn anh có nói là dịp qua Pháp lần thứ nhất của anh rơi
đúng vào lúc thế chiến lần thứ hai bùng nổ nên không hưởng thụ được gì, vậy lần
thứ nhì vừa qua anh hưởng thụ chứ?
Hãng trả lời hững hờ:
- Chặc, thì cũng là đem chuông đi đấm nước người!
Kha nhìn những hạt mưa tiếp tục phả vào kính, hai chiếc
essuie - glace cần mẫn nhịp nhàng lau nước, ánh điện đường lấp lánh khoảng có
ngấn đọng và Kha hỏi:
- Trong số có mối tình nào gợi cảm không?
Vừa tới ngã tư, Hãng cho nhấp nháy ánh đèn pha, càng thấy rõ
những giọt mưa rơi chéo thành những đường kẻ lệch lạc đấy mà thứ tự đấy. Hình
như trong thâm tâm Hãng có rộn một chút kỷ niệm, chàng đáp lời bạn, giọng thủ
thỉ lẩn trong tiếng mưa rơi, vì thế mà rất nồng nàn:
- Tôi có cùng với Marie cô bạn học người Pháp đưa nhau đi
Rambouillet vào một ngày đầu tháng năm, vừa là tết Lao Động vừa là tết hoa linh
lan - Fête des muguets. Mọi nơi hôm ấy đều đổ về Rambouillet để bầu hoa hậu -
Reine des muguet. Mùa đông đã qua, trời hơi hửng nắng, đã lâu lắm tôi mới lại
được trông các giai nhân mặc váy rộng có hoa lớn, cánh tay để trần, mái tóc ngắn
nhẹ nhõm. Có những cặp vợ chồng cùng con cái đưa nhau vào rừng hái hoa, các cặp
tình nhân khác tất nhiên cũng hái tặng nhau hoa muguet. Rừng nơi đây cấm săn bắn
mà cũng hiền lành thôi, có hươu, nai, chim, trĩ, thỏ... Tôi và nàng còn ôm nhau
đi nghiêng ngả trong rừng lúc trăng đã lên, chúng tôi bắt gặp những đàn thỏ ngồi
“sưởi trăng” nói theo văn chương Pháp, thấy động chúng chui vào hang hết. Nàng
ngẩng nhìn trăng và hỏi tôi “Trăng nước anh có đẹp?” Lúc đó mình thấy tim hơi
nhói buốt vì quê hương sau tám năm khói lửa lại vừa bị chia đôi, nhưng cũng trả
lời: “Đẹp hơn, trong hơn đây nhiều vì khí hậu ấm hơn!” Nàng ghì chặt lấy vai
tôi hỏi: “Anh có định ở vĩnh viễn tại Pháp?” Tôi trả lời lơ mơ bằng một thứ
langage gratuit của một thứ jeunesse ingrate đương thời: “Ca m’arrive !” Nghe
tôi đáp nàng ngẩng mặt nhìn trăng cười, đôi mắt hơi lim dim, dưới ánh trăng
khuôn mặt nàng có những nét đẹp mà trước đây tôi chưa bao giờ thấy cả. Tôi dừng
bước ghì chặt lấy nàng, chỉ kịp nói khẽ câu “Tu me plais”’ rồi cúi xuống hôn,
nàng nhắm mắt lại đón nhận, sau đó đôi mắt vẫn nhắm nàng nói thầm bên tai tôi:
“Tu ne m’as jamais embrassée comme ça”. Tôi hỏi khẽ bên tai nàng: “Marie này,
không biết anh có một đứa con với em thì ra sao nhỉ?” Nàng cười rất duyên dáng
toàn thân rung động trong cánh tay tôi, lời đáp của nàng giờ đây còn như văng vẳng
bên tai tôi: Oh tout, mais pas ça”. Cuộc ân ái dưới trăng đó dạy tôi rằng không
bao giờ nên xét cái gì tách ra khỏi hoàn cảnh của nó, bởi không thể có cái gì
đơn độc ở trên cõi đời này! Cuộc ân ái đã được thánh hóa đến thành trong vắt,
nhưng làm sao hiểu được sự thánh hóa đó nếu không có cuộc đi chơi kia, nếu
không có rừng Rambouillét, trăng Rambouillet, hoa linh lan Rambouillet, và những
lời đối thoại...
Hãng vẫn lái theo những đường lớn và vắng, mưa đã tạnh nhưng
mặt đường còn ướt bóng. Kha hỏi:
- Rồi khi ra khỏi rừng?
Ra khỏi rừng, đường rộn rập những cặp tình nhân khác tới dự
bal tại Sal1e Patenôtre, rất nhiều cặp Mít nhà với một cô đầm, vì Collège Louis
Bascan ở tỉnh này có khá nhiều thanh niên Việt theo học. Nếu chúng tôi theo vào
bal sẽ tức khắc trở lại vui hồn nhiên trong bầu không khí giải trí Tây phương
đó, nhưng tôi dìu Marie tới tiệm cà phê trứ danh của thành phố Le celtique, cả
hai cùng đồng ý tới ngồi đó giữ lấy dư vị...
Xe đã vào khu trung tâm Sài Gòn, Hãng hỏi Kha:
- Đi nhảy nhé.
- Mới hơn chín giờ chút xíu thì nhảy làm gì? - Kha đáp.
Vừa lúc đó xe lướt qua một phòng trà, tiếng trompette lọt qua
bức màn cửa bằng nỉ đỏ rung rinh, Hãng buông chân ga rồi vừa lái sát vào vỉa hè
vừa nói:
- Vào phòng trà Ly Ly này vậy. Kha vươn vai một chút:
- Thì vào!
Chương Sáu
CÔ EM CŨ
I
Phòng trà khá đông, hết chỗ dưới nhà, Hãng và Kha loay hoay mấy
phút rồi phải lên balcon mới kiếm được một bàn hai chỗ ngồi khuất. Có tiếng giới
thiệu nữ ca sĩ T.L. ra hát bản “Hai sắc ti-gôn”. Tiếng cười nói quá ồn ào của
bàn bên cạnh làm Kha phải đưa mắt nhìn sang: ba chú “cao bồi” đương hoa chân
múa tay bô bô đàm luận về nữ ca sĩ T.L. Chú ngồi giữa, chemisette hoa màu
chocolat bỏ ngoài quần, giầy đen gót cao, miệng ngậm lệch điếu thuốc lá, tay
khuỳnh, chú nháy hai bạn nói:
- Tao biết nhà con này! Đi đến gần cầu “Mạc Má Hồng” quẹo
sang trái, qua chiếc cầu gỗ, vào một căn nhà sàn...
Chú bên phải nước đa đen sạm, mặt choắt và lộ hầu cười hềnh hệch,
hơi nghển người ưỡn ngực, khiến Kha thấy rõ chiếc dây lưng bé síu mạ kền của
chú, giọng chú cố tình làm ra vẻ ta đây thành thạo hơn:
- Coi chừng nàng đã có lần dùng penniciline rồi đó, đờ hồn a
con?
Chú bên trái da mặt sần sùi và đỏ rừ (chú say bia), mép lún
phún râu, chú hếch môi trên để lộ một chiếc răng sún trước cửa, giọng kiêu hùng:
- Penniciline thì penniciline chứ con cóc gì!
“Câu nói thật hợp với người” - Kha nghĩ thầm. Trông chiếc
răng trước cửa sún của chú, Kha ngờ rằng đó là triệu chứng của bệnh giang mai
gia truyền.
Nữ ca sĩ đã hát đến đoạn cuối, giọng nàng cũng nũng nịu như
dáng điệu nàng lúc đó:
Nếu biết rằng em đã có chồng
Trời ơi người ấy có buồn khô...ô...ông
Tiếng cười rú của một bàn “cao bồi” khác ở góc bên kia, kèm
theo câu đáp lớn “Không!” rồi tiếng cười lại tiếp ngay lớn hơn, đắc chí hơn,
kiêu bạc và man rợ hơn hòa cùng một số điệu cười hưởng ứng khác. Nữ ca sĩ ngước
mắt nhìn lên rồi chớp chớp làm duyên, nàng như biến thành cái máy... lọc, lọc
những khinh mạn của loại thính giả trên:
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa máu hồng
Tiếng vỗ tay bình thường khi nữ ca sĩ cúi chào. Một tiếng hô
“bis” tự góc phòng ngơ ngác như con chim giấy được tung lên rồi rơi xuống, tức
thì màn sân khấu lại kéo lên, nữ ca sĩ vội vã bước tới trang trọng cúi chào giọng
ỏn ẻn:
- Xin đa tạ quý vị và để đáp lại tấm thịnh tình của quý vị
tôi xin hiến bài “Lỡ bước sang ngang”.
Thân hình tầm thước của nàng nhún theo nhịp hát, hai cánh tay
nàng như đương trìu mến ôm người yêu, đôi bàn tay với những ngón thon dài, mềm
mại giữ lấy micro. Đáng tiếc là khuôn mặt mặt bầu bĩnh của nàng trát bự phấn trắng,
má không thoa hồng và đôi lông mày tô đậm xếch lên, nên dưới ánh đèn sân khấu,
khi đôi môi son của nàng lấp sau micro, cả khuôn mặt trắng của nàng nổi bật
trên mở tóc đen, ghê rợn như khuôn mặt hồ ly vào lúc đêm tàn ngày rạng.
Nàng cúi chào lần nữa giữa tiếng vỗ tay vẫn không nồng nhiệt
thêm lên chút nào. Tiếp theo là lời giới thiệu “nữ ca sĩ Quỳnh Hương sẽ hiến ca
khúc Mambo Ý Đại Lợi.” Cả phòng rộn tiếng vỗ tay. Chú sún răng bên cạnh rít vội
một hơi thuốc lá, rồi nói với các bạn qua khói thuốc:
- Cái đít mambo của Quỳnh Hương nhất thế giới, hẳn chúng mày
đồng ý? Tao chỉ không ưa vẻ mặt kênh kiệu của con bé.
Chú mặt choắt lộ hầu :
- Cứ trông đến bộ ngực con Quỳnh Hương là tao muốn điên người
lên. Chúng mày còn nhớ lần trước gọi nó đến ngồi cùng bàn tao đã định phóng
tay...
- ... Mà không xong! - Chú áo hoa màu chocolat tiếp hộ trong
tiếng cười riễu lại. Chú mặt choắt mím chặt môi, mặt chú càng như tóp lại.
- Một ghim (ngàn đồng) là cùng chứ chó gì (chú thở dài) nhiễu
sự bỏ mẹ! ăn mặc thì cố tình chọc vào mắt người ta, hễ động vào một tí thì dẫy
nẩy.
- Chuyện! - chú áo hoa màu chocolat nói - thâm ý Thượng đế chỉ
muốn một đàn bà cho một đàn ông, mà ai cũng sốt ruột như mày thì bỏ mẹ con người
ta rồi.
Quỳnh Hương đã ra trước micro được một phút rồi mà tiếng vỗ
tay còn vang dậy như nửa để riễu cợt - (riễu cợt người và tự riễu cợt mình) - nửa
để hoan hô thật. Rồi Quỳnh Hương cất tiếng hát, giọng trong, cao vút rất điêu
luyện.
Kha quay sang hỏi bạn:
- Này Hãng, con bé được hoan hô đáng lắm. Hãng khẽ lắc đầu,
hơi nhíu lông mày nói khẽ:
- Quỳnh Hương! Quái, cái tên nghe quen quen!
Tiếng cười rú khoái trá ở bàn bên kèm với tiếng một bàn tay ở
góc xa hơn vỗ xuống đùi, cả phòng trà xôn xao trong hoan lạc: giọng Quỳnh Hương
vừa từ một nốt cao vút nhào xuống một nốt trầm. Đồng thời phần thân thể hơi đẫy
bên trên của nàng vẫn giữ im như pho tượng, nhưng phần dưới kể từ eo trở xuống
bỗng như mềm oặt không xương, đầu gối nàng hơi khuỵu xuống, cặp mông đưa đẩy
phác thành một hình tròn nhịp theo với điệu ca. Quỳnh Hương vừa dứt giọng, tiếng
vỗ tay như pháo ran kèm theo những tiếng “bis” nồng nhiệt, nhưng nàng chỉ cúi
chào lần nữa lùi mấy bước rồi rẽ thẳng sang phía tay mặt.
- Con ấy thì đừng hòng nó hát lại cho nghe, - lời chú răng
sún - ngay cả từ khi nó chưa nổi tiếng. Bài này là bài thứ ba và cũng là bài cuối
cùng của nó đấy.
- Mời nó lên đây ngồi tán dóc với chúng mình một lúc - chú mặc
chemisette hoa màu chocolat đề nghị.
- Thế nào nó cũng gọi Whisky soda đấy - chú răng sún nói
- tùy mày tự liệu xem có dủ khả năng tài chính.
- Yên chí lớn mà. Ê bồi, anh xuống mời cô Quỳnh Hương tới bàn
này cho tôi nhé.
Năm phút sau Quỳnh Hương uể oải leo thang gác theo anh bồi
đưa tới. Các ca sĩ vào dạo này thường buộc lòng phải chìu khách mời tới ngồi
bàn dăm phút như vậy để tránh những tiếng la ó của hạng lưu manh trả thù. Hai
chú răng sún và mặt choắt thay phiên nhau tung lời ve vãn:
Chú răng sún. - Sao chậm thế em?
Quỳnh Hương. - Em còn phải trang điểm nữa chứ. Chú răng sún.
- Em uống gì nào?
Quỳnh Hương. - Cho em Whisky soda đi. Chú răng sún. - Em đẹp
lắm!
Tiếng Quỳnh Hương cười ngượng và nhạt.
Chú mặt choắt lộ hầu. - Em nhảy mambo đẹp nhất hoàn cầu!
Vẫn tiếng cười gượng và nhạt của Quỳnh Hương điểm cho lời
khen sáo. Quỳnh Huơng đưa mắt lơ đãng nhìn sang mấy bàn xung quanh bắt gặp những
cặp mắt hau háu nhìn nàng và những nụ cười ý nghĩa.
Chú chemisette hoa màu chocolat chỉ bông hoa in trên áo
Quỳnh Hương khoảng đùi, hỏi giọng ỡm ờ:
- Hoa gì mà đẹp thế này em?
- Ăn đi! - Quỳnh Hương vừa nói vừa đập mạnh vào cổ tay anh
chàng định dùng ngón trỏ chọc vào đùi nàng, rồi nàng cười khanh khách, lần này
tiếng cười nghe đậm đà. Nàng tiếp tục đưa mắt nhìn quanh và dừng lại ở bàn
Hãng. Lúc đó Hãng đã trả tiền và cho pourboire anh bồi, Kha uể oải đứng lên, sửa
soạn theo bạn. Quỳnh Hương vừng đứng dậy tiến tới trước Hãng:
-Anh Hãng! - giọng nàng mừng rỡ thiết tha như một nữ sinh
trong trắng bất chợt gặp mẹ trên đường về - Dạ. xin lỗi có phải anh là anh
Hãng, anh chị Vân?
Tên Vân như gáo nước lạnh dội lên Kha làm chàng bừng tỉnh, mất
hẳn vẻ uể oải. Chàng thoáng thấy đôi mắt Hãng sáng lên những tia êm đềm:
- Trời ơi, Quỳnh Hương!
II
Quỳnh Hương vui mừng thấy Hãng, Kha sửa soạn rời khỏi phòng
trà, nàng ngỏ ý muốn đi theo, Hãng đồng ý, nàng quay sang xin lỗi ba chú. Vẻ
Hãng hiên ngang quá, vẻ Kha lịch thiệp quá, ba chú cũng rất hiên ngang và lịch
thiệp thứ lỗi cho Quỳnh Hương.
Trong khi Quỳnh Hương trở xuống sân khấu lấy áo khoác ngoài,
Kha, Hãng cùng ra trước đứng chờ ngoài đường. Quỳnh Hương đã lật đật tới biểu lộ
niềm sung sướng ấm áp. Hình như nàng vẫn khắc khoải thèm khát từ lâu lắm cuộc gặp
gỡ này.
Hãng nói, giọng rất thân mật:
- Anh không ngờ gặp Quỳnh Hương. Thảo nào khi nghe giới thiệu
tên Quỳnh Hương anh cứ ngờ ngợ, mang máng nhớ đến một người nào. Em không đổi
tên?
- Em vẫn nghĩ rằng tên của cha mẹ đặt chẳng việc gì phải đổi.
Vật sở hữu trong sạch nhất em còn giữ được giờ đây chỉ còn cái tên đó của cha mẹ
đặt cho.
Tuy giọng Quỳnh Hương vẫn nhanh nhảu vui vẻ, nhưng qua câu
nói trên Hãng cũng dự đoán là đời nàng đã qua nhiều điêu linh trước khi tới nghề
ca sĩ. Chẳng biết phát biểu ý kiến ra sao, Hãng đành vừa bước vội về phía xe vừa
nói với Quỳnh Hương giọng càng êm đềm thân mật đến như muốn biến thành lời an ủi:
- Xe anh đằng này, Quỳnh Hương!
- Vâng, em theo hai anh.
Mở cửa xe, Hãng vào ngồi trước tay lái, Quỳnh Hương ngồi giữa,
Kha ngồi ngoài cùng.
- Em muốn đi đâu bây giờ? - Hãng hỏi.
- Đến mười một giờ rưỡi em mới phải đến China Dolli hát ba
bài nữa. Em còn được rảnh một giờ, tùy anh muốn cho đi đâu thì đi miễn là chỗ vắng.
Em ngán đám đông quá rồi!
Đến New- York Café trong hẻm Eden. - Kha góp ý kiến. Quỳnh
Hương cười khanh khách:
- Rõ khéo đúng là tiệm giải khát em sắp sửa vào làm.
- Ủa em sẽ là nữ chiêu đãi viên cho New York Café sao? - Hãng
hỏi.
- Lẽ ra em có thể làm từ đầu tháng trước, nhưng tiếng Anh của
em còn dở quá nên khất bà chủ đến tháng sau nữa.
Hãng gật gù:
- Ờ phải, tụi Mỹ thường ra vào tiệm này. Xe bắt đầu chạy.
Hãng hỏi:
- Thế em sẽ thôi hát tại các nơi khác?
- Có chứ em vẫn nhận hát cho họ, nhưng hát ít thôi. Càng nhận
ít càng cao giá anh ạ. Anh biết đấy không bao giờ em hát bis. Ba bài là ba bài,
năm bài là năm bài.
Vừa làm cho New York Cafe vừa đi hát như vậy e sẽ quá sức em.
- Không sao đâu anh, làm ở New York Café thì có gì là mệt. Cứ
ngồi đây khác nào mời tới bàn thì ngồi vào tiếp chuyện. Tháng tháng lãnh lương
ngoài ra còn pourboire riêng. Em sẽ định rõ trước với bà chủ là em vắng mặt từ
giờ nào tới giờ nào để đi hát cho các tiệm cũ.
- Thường thì New York Café mở đến mười hai giờ khuya?
- Vâng đúng thế mười hai giờ khuya. Có thể là em sẽ xin vắng
để đi hát từ tám giờ đến mười giờ chẳng hạn. Còn ban ngày thì khỏi thành vấn đề.
Thoạt ở phòng trà Ly Ly, Kha đoán chắc Quỳnh Hương là tình
nhân cũ của Hãng. Nhưng rồi câu hỏi đầu tiên của Quỳnh Hương có nhắc đến Vân, vậy
Quỳnh Hương là bạn học cũ của Vân? Quỳnh Hương là bạn học của Vân, mà vẫn có thể
là tình nhân của ông anh chứ sao?! Đành vậy nhưng sao cho đến giờ, lời lẽ họ
nói với nhau vẫn đượm vẻ kính mến?
Mãi tới lúc xuống xe Quỳnh Hương mới có dịp quay sang nói với
Kha.
- Nghĩ gì thế anh?
- Kha, tên hắn là Kha! - Giọng Hãng lúc đó mới có vẻ đùa cợt
một chút.
- Vâng, anh nghĩ gì thế anh Kha?
- Anh nghĩ rằng Quỳnh Hương đẹp.
Cả ba cùng bật cười, song song bước ngang nhau vào hẻm Eden.
Bà chủ New York Café vồn vã ôm lấy Quỳnh Hương vì bà thấy nàng chưa chính thức
làm việc mà đã đem khách tới cho bà.
New York Café chỉ là một gian phòng nhỏ trong hẻm Eden, trang
hoàng rất thanh lịch. Lúc đó hàng ghế cao trước quầy hàng đã đông kín khách ngoại
quốc Pháp và Mỹ, phần lớn là Mỹ. Khoảng còn lại của gian phòng ấm cúng là năm bộ
sa-lông bằng mây, ghế có nệm mousse, dưới một bàn kính bầy vài tấm hình khiêu
dâm một chút cho hợp thời trang.
Đã có bốn cặp chiếm bốn bàn, đều là người Việt, bọn Hãng ngồi
vào bàn còn lại ngoài cùng. Ánh dèn trong phòng mờ mờ chỉ đủ từng cặp đối điện
nhìn rõ mặt nhau. Họ thủ thỉ nói chuyện, hoặc lén cầm tay nhau, hoặc thân hơn
quàng vai nhau, nhưng không bao giờ nói lớn cười lớn, không khí ở đây như vậy.
Thỉnh thoảng nghe nổi lên tiếng cười khẽ của nữ chiêu đãi viên nào thì người ta
đoán rằng ông bạn trai ngồi cạnh chắc vừa nói một câu lý thú, thế thôi!
Khi thoạt nhìn Quỳnh Hương ra đứng trước micro phòng trà Ly
Ly, rồi nhìn nàng tiếp chuyện ba chú cao bồi thì Kha nghĩ rằng Quỳnh Hương chỉ
là thứ gái chơi tầm thường, nhưng từ sau khi nghe lời nói chuyện thân mật lễ độ
của nàng với Hãng, Kha bớt coi thường Quỳnh Hương.
- Anh uống gì? - Quỳnh Hương thân mật hỏi chàng sau khi đã hỏi
Hãng.
- Anh cũng dùng trà sữa như Hãng.
Kha xưng “anh” không chững chạc như Hãng nhưng âu yếm như người
tình. Chàng tiếp tục ngắm khuôn mặt bầu bĩnh của Quỳnh Hương, đôi má đầy đặn
hình như có lấm chấm một chút tàn nhang. Tóc Quỳnh Hương cắt ngắn cho xõa xuống
vừa đủ che gáy, chỉ uốn một chút khoảng dưới, vì chậm chải nên đầu ngôi bị mất,
quãng trên bù lên và những tóc ngắn hai bên thái dương xõa ra che kín tai và một
phần má, mũi Quỳnh Hương không được cao nên khuôn mặt nàng có vẻ đẹp Á Đông đặc
biệt. Thoạt trông, người ta có thể tưởng nàng hai cằm, nhưng khoảng cằm đẫy đà
đó nhìn nghiêng có vẻ nũng nịu, nhất là cặp mắt một mí kia với tia nhìn nửa như
sắc sảo nửa như đờ đẫn rất xứng với miệng nàng: môi trên hơi mỏng, môi dưới hơi
đầy và thưỡn ra chút ít, đôi môi gợi tình kín đáo mà mãnh liệt, khi mỉm cười
cũng như khi mím lại, nhất là khi mím lại. Theo quan niệm xưa thì vẻ người hơi
đẫy của Quỳnh Hương có thể là thô, nhưng theo quan niệm ngày nay, đó là một ưu
điểm. Bộ ngực nàng phồng lên thành hai phần rõ rệt, khoảng giữa vải áo trũng xuống
như luồng dây điện thoại khoảng giữa hai cột sắt. Bụng nàng thon khiến nếp áo
khi nhào xuống thấp càng biểu lộ những đường nhăn quyến rũ và hai đường chỉ thẳng
ở hai bên eo như hai đoàn quân chí tình phải thường xuyên chống đỡ để khỏi nứt
rạn.
Hỏi đến những người bạn học thuở xa xưa của mình Quỳnh
Hương mới hay hoàn cảnh bắt Vân ở lại ngoài đó và Thi đã mất.
Cả ba bỗng ít nói hẳn, thỉnh thoảng mới trao đổi vài lời. Ánh
sáng mờ mờ của căn phòng khiến mọi người thích trầm xuống theo đuổi ý nghĩ
riêng tư của mình.
° ° °
Phải, Quỳnh Hương xưa là bạn thân của Vân và của Thi nữa. Nếu
Hãng nhớ không lầm thì Quỳnh Hương ở vào quãng giữa, kém Vân hai tuổi, hơn Thi
hai tuổi. Tuy cùng phố nhưng
Quỳnh Hương là con nhà nghèo ở với anh ruột và càng khôn lớn
càng bị chị dâu hành hạ ngầm vì cậy thế là người được trực tiếp sử dụng đồng
lương. Vì nhu cầu công vụ người anh vắng nhà luôn đâu có biết cảnh dấm chua lửa
nồng mà Quỳnh Hương phải âm thầm chịu đựng.
Thoạt Quỳnh Hương học dưới Vân một lớp ở trường tiểu học Hàng
Cót. Lên trung học, Vân thi được vào Félix Faure; năm sau Quỳnh Hương thì vào Đồng
Khánh nhưng nàng chỉ học ở đây được hơn một năm thì người chị dâu gay gắt bảo
nàng nên xin thôi học vì quỹ gia đình không đủ cáng đáng khoản chi tiêu đó nữa.
Việc học đương tấn tới Quỳnh Hương ngần ngừ bịn rịn ra mặt, người chị dâu khôn
khéo dịu giọng bảo nàng hãy thác ốm xin nghỉ tạm ít lâu rồi khi gia đình kha
khá sẽ xin học lại. Đã đệ đơn xin nghỉ, Quỳnh Hương luôn luôn liên lạc với các
bạn cùng lớp mượn sách về nhà Vân chép lại và học lấy, không hiểu thì hỏi Vân.
Chỉ mỗi lần đến nhà Vân nàng mới có được một hai giờ yên tĩnh mà chép mà học
như vậy, nàng hy vọng khi được quay lại tiếp tục học sẽ không bị đuối. Nhưng có
bao giờ nàng được quay lại tiếp tục việc học nữa đâu? Đó là vào năm l944 Hãng ở
Pháp về, năm đó Thi mới đến tuổi vào Đồng Khánh và Vân tiếp tục học lên
troisième secondaire, nhưng Vân phải bỏ học vì bà Phán lên đồn điền để lại cửa
hàng vải cho nàng... Rồi phi cơ Đồng Minh hoạt động dữ, các trường công tư theo
nhau di chuyển ra ngoại ô Hà Nội hoặc về những tỉnh nhỏ, Thi theo trường đi
Hưng Yên ghi tên vào ký túc xá. Vào những ngày nghỉ Quỳnh Hương vẫn có thể lẩn
vắng nhà chừng một hai giờ để đến họp mặt với Vân, Thi. Thoạt mỗi lần gặp Hãng
cử chỉ Quỳnh Hương thường rụt rè ngượng ngập. Hãng Vân, Thi rất thông cảm điều
đó, cả ba cùng coi Quỳnh Hương như người thân trong nhà. Vân, Thi có cách niềm
nở riêng của giới phụ nữ, còn Hãng với thái độ thẳng thắn bộc tệch cũng sớm khiến
Quỳnh Hương rũ bỏ được mọi mặc cảm. Quỳnh Hương kém tuổi Vân nhưng sớm đau khổ
vì hoàn cảnh nên có vẻ già dặn về nội tâm để thành người bạn tâm sự chí thiết của
Vân. Một lần nhìn Quỳnh Hương đứng bên Thi, Hãng nói: “Quái trông cô Quỳnh
Hương với Thi như hai chị em chỉ hơn nhau một tuổi”. Quỳnh Hương đáp: “Thưa anh
đúng, em sinh vào tháng chạp, Thi sinh vào tháng giêng nên tính tuổi em hơn Thi
hai tuổi nhưng tính tháng em chỉ hơn Thi có mười ba tháng.
Tuy cùng lứa tuổi với Thi, nhưng Quỳnh Hương đã sớm biết làm
dáng, mùa hè nàng ưa mặc màu trắng và mùa rét mầu boóc-đô, tai có đeo đôi
khuyên bằng vàng thật, cổ có sợi dây chuyền bằng vàng giả Mỹ - Ký thấp thoáng lẩn
dưới lần áo, cổ tay có mang thứ đồng hồ rẻ tiền, mặt tuy nhỏ nhưng dầy cộm chạy
nhanh chậm thất thường. Bao giờ Quỳnh Hương cũng đi guốc cao gót có đóng cao su
cho khỏi mòn. (Phải chăng nàng càng bị người chị dâu hành hạ vì lớn lên với
nhan sắc và tính ưa làm đẹp đó?) Một lần Hãng đưa Thi lên Hàng Bồ mua giầy, nửa
đường gặp Quỳnh Hương, bèn kéo nàng vào hiệu luôn thể để nàng tùy ý chọn một
đôi. Thoạt Quỳnh Hương một mực từ chối, nhưng lời Hãng vừa thân ái vừa cương
quyết thêm lời khẩn khoản của Thi, nên nàng đành chịu và khi chọn được đôi giầy
nhung cao gót có bước ra khỏi cửa hàng bán giày dép, tiếng radio từ một cửa hiệu
phía chéo bên kia đường vang lên bản nhạc “Con thuyền không bến”. Bất giác Quỳnh
Hương khẽ cất giọng hát theo.
Đêm nay thu sang cùng heo may, Đêm nay sương lam mờ trong mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng Như nhớ thương ai trùng tơ lòng.
Mãi tới hôm đó Hãng mới hay Quỳnh Hương có một giọng vàng quý
giá. Bài hát này của Đặng Thế Phong kết tinh cả một niềm rung động chân thành của
một tâm hồn lãng mạn. Giọng Quỳnh Hương vì khẽ nên càng đượm vẻ xa xôi và tuy
giọng hát phú bẩm đó đã lột được hết tinh thần u buồn thổn thức của bài ca, đôi
mắt Quỳnh Hương vẫn long lanh rạng rỡ cả khuôn mặt. Lý do thầm kín, Hãng biết lắm:
nàng đã có được đôi giày mong ước.
Hãng thốt lời khen:
- Quỳnh Hương hát hay lắm! Thi cười liền:
- Trời, bây giờ anh mới biết ư?
Quỳnh Hương ngừng hát, giọng bẽn’lẽn giải thích:
- Bài đó em thích nhất!
Cuối tuần, vào tối khai mạc mùa kích tại Nhà Hát Lớn, Vân mua
ba vé fauteuil d’orchestre cho nàng, cho Thi và cho Quỳnh Hương. Tối kịch này
vào giờ entr’acte ban nhạc có chơi bản “Con thuyền không bến”. Hôm sau Thi thuật
lại với Hãng là suốt bản nhạc, Quỳnh Hương tựa vào thành ghế ngửa mặt hướng lên
vòm cao đôi mắt lim dim, toàn thân lặng ngắt như tượng tặc. Cũng kể từ đấy bộ
ba Vân, Thi, Quỳnh Hương thường cùng đi xem xi nê hoặc xem kịch. Thoạt Quỳnh
Hương cảm thấy lòng mang nặng ân nghĩa, nhưng rồi chẳng bao lâu nàng hoàn toàn
hòa mình vào thứ tình gia đình đó không một chút trở ngại, rõ ràng nàng đã trở
thành phần ruột thịt của cái gia đình vô tư đáng yêu này. Không còn phải giữ ý,
gặp bữa thì ăn, nhiều khi nàng học bài, làm bài rồi liều ở lại ngủ trưa, tắm giặt
và là quần áo với Thi, về nhà chị dâu hỏi nàng nói có vậy mới đuổi kịp chương
trình nhà trường khi được học lại mới khỏi đuối. Riêng điều này bà chị dâu lặng
thinh. Sau này lớn lên nữa, suy nghĩ kỹ hơn nữa, Quỳnh Hương thấy đó quả là một
thái độ thâm độc của người chị khác máu tanh lòng để đẩy nàng xuống vực tội lỗi.
Vì thế nàng càng thêm quý Hãng về thái độ thẳng thắn của chàng.
Coi Quỳnh Hương như Thi, bao giờ Hãng cũng coi Quỳnh Hương
như Thi! Có lần Hãng đã bảo Quỳnh Hương hát lạt cho nghe bài “Con thuyền không
bến” Quỳnh Hương hát ngay và hát lớn, giọng gợi cảm vô cùng. Lần đó hát xong Quỳnh
Hương hỏi Hãng: “Em thích bài đó quá nhưng liệu có vận vào mình không anh?”
Hãng đáp: “Việc gì!” Quỳnh Hương lại hỏi: “Liệu em có thể thành une barque
vagatbonde không hở anh?” Hãng lại đáp: “Việc gì?” Quỳnh Hương còn viện cớ tác
giả “Con thuyền không bến” đã mệnh yểu, thì Hãng cười lớn mà rằng: “Quỳnh Hương
đừng tin nhảm!”
Quả thực mỗi khi đến sống giữa gia đình Hãng, Quỳnh Hương thấy
vợi sầu khổ đi nhiều lắm, đôi khi như quên hẳn được hoàn cảnh không may của
mình.
Cho đến nay qua bao nhiêu năm cách biệt, qua bao sóng gió của
đời, Quỳnh Hương vẫn giữ nguyên niềm kính mến đó với Hãng và vẫn giữ nguyên niềm
rung động thiêng liêng thuở ban đầu với bản nhạc “Con thuyền không bến”.
Và điều này chúng ta cần ghi nhớ - không bao giờ Quỳnh
Hương cất tiếng hát bài đó tại phòng trà.
Không bao giờ!
III
New York Café. Bóng tối gian phòng bỗng như nhúc nhích vì những
bóng in dài của vài người khách đứng dậy trả tiền rồi vén màn cửa đi ra. Có lẽ
vì kính trọng vẻ đăm chiêu của Hãng, Quỳnh Hương quay sang nhìn Kha chưa biết sẽ
gợi chuyện gì. Kha cũng quay lại nhìn nàng mỉm cười và cứ giữ nguyên như vậy
khá lâu tựa như khóe nhìn và nụ cười đó đã ngưng đọng vào lúc tinh thần linh động
nhất.
Quỳnh Hương cũng không hơn gì Miên, nàng không chịu được cái
nhìn êm và sắc của Kha, nàng cựa quậy cái đầu và hỏi Kha:
- Anh nhìn em nhiều thế?
- Bởi vì em “càng trông càng đẹp, càng nhìn càng ưa!”
- Anh đến tệ!
Quỳnh Hương vừa cười vừa nói vậy, rồi mở ví lấy cây son tô lại
môi.
- Em tô môi có nghệ thuật lắm! - Kha nói.
- Chuyện, em đã từng làm ở mỹ viện.
Nghệ thuật tô môi của em đã đánh thức bản năng phá hoại của
anh.
- Anh muốn phá hoại gì?
- Anh muốn tàn phá công trình nghệ thuật đó bằng chính môi
anh.
Quỳnh Hương đập mạnh tay lên đùi Kha.
- Ông quỷ này, tôi thì giết ông!
Và nàng cảm thấy một cái gì gờn gợn trong lòng.
Hãng dùng chiếc muỗng bạc gõ nhỏ lên thành tách làm hiệu gọi
trả tiền và nói:
- Thôi sửa soạn đi chứ, tán nhau hoài sao? Quỳnh Hương giật
mình:
- Thôi chết đến giờ rồi thật, em quên khuấy đi mất. Hãng cười,
vẫn nụ cười bao dung:
- Quỳnh Hương mê Kha rồi sao?
- Lại anh nữa - Quỳnh Hương vừa đứng dậy vừa nói - anh còn nối
giáo cho giặc!
Ra khỏi New York Café Quỳnh Hương đi hơi loạng choạng bên Kha
khiến Kha phải hỏi:
- Em buồn ngủ, Quỳnh Hương? Quỳnh Hương che miệng duyên dáng:
- Em có buồn ngủ thật!
Quàng tay lên vai nàng, Kha nói:
- Em có thể vừa đi vừa ngủ trong “sự nhìn” của anh!
- Anh nhìn có quỷ mà ngủ được!
- Quỷ không ngủ được đã đành, nhưng em là tiên thì ngủ được
chứ!
Kha buông Quỳnh Hương, vẫy một em bé bán kẹo vừa ở rạp Eden
ra và mua cho mỗi người một gói chewing-gum. Cả ba vui vẻ bóc kẹo cho vào miệng,
rồi vừa bỏm bẻm nhai vừa chui vào xe.
Được gặp lại Hãng, Quỳnh Hương vui biết là chừng nào. Thêm
Kha nữa! Đời chưa sụp đổ, còn đáng yêu!.
Quỳnh Hương cùng Kha, Hãng tới China Doll vừa đúng mười một
giờ rưỡi giờ này khách đương đông.
Hãng nói với Quỳnh Hương:
- Anh và Kha sẽ ngồi uống nước, nghe nhạc, nghe em hát và đợi
đưa em về.
Quỳnh Hương vui vẻ nói:
- Nếu vậy để em giới thiệu con Lệ Phương nhảy giỏi và ngoan lắm.
Kha đưa Quỳnh Hương về phía ban nhạc:
- Thôi, em cứ lo phận sự em đi, anh chỉ chờ nhảy với em! Quỳnh
Hương mềm môi lườm yêu Kha rồi đi thẳng. Tìm được bàn ngồi rồi, Kha nhìn Hãng đối
diện:
- Nầy Hãng, cậu không ca lại điệp khúc “Em muốn là trời muốn”.
- Bậy nào! Ngày xưa Quỳnh Hương học cùng với Thi, mình coi
như em, đặc biệt với cậu nhắm mắt làm ngơ cho đấy.
Kha, cười nhìn bạn:
- Cám ơn nhé, ông anh hiếm có của tôi!
Quỳnh Hương tuần tự hát ba bài, giữa khoảng cách nàng có tìm
xuống ngồi cùng bàn với Hãng, Kha, nói chuyện đôi câu. Nàng hát xong bản cuối
cùng về tới bàn, điệu rumtla nổi lên, Kha đứng dậy mời:
- Em nhảy với anh bài này chớ, Quỳnh Hương?
Quỳnh Hương vui vẻ đứng dậy theo, đưa tay cho Kha dắt nàng xuống
piste, nụ cười tươi thay lời nói. Kha dìu nàng nhẹ nhàng theo bước của mình.
- Anh nhảy giỏi lắm, anh Kha!
- Anh thích Rumba, anh còn thích Slow nữa, mỗi thứ một vẻ.
Quỳnh Hương vẫn thường nhìn sang phía khác một chút để tránh
cái nhìn kỳ lạ của đôi mắt Kha. Nghiêng đầu áp má lên mái tóc Quỳnh Hương, Kha
cảm thấy cả thân hình Quỳnh Hương, những đường nét từ chỗ cao nhất đến chỗ thấp
nhất như vẽ nổi lên thân hình chúng.
Hai bản sau - Valse và Boston - Quỳnh Hương nhảy với Hãng.
Hãng chỉ nói chuyện vui hiền lành tuyệt nhiên không hỏi gì thêm.
Có tiếng nói cười của hai người mới vào vẳng từ phía cửa,
Kha, Hãng cùng ngẩng lên. Kha nói với Hãng:
- Hai thằng cha đó mà ngồi cùng bàn, chúng gây được bầu không
khí chửi đổng khá hào hứng ạ!
Hãng cười gật đầu:
- Còn phải ngôn!
Hai người vừa vào đó là Luận và nhà văn họ Hứa (anh em trong
làng văn nghệ vẫn gọi vậy).
Luận, người của gia đình Văn hóa dáng cao lêu đêu, thuộc lớp
nhà văn hậu chiến (cũng lại theo sự phân định thời kỳ của làng văn nghệ). Còn
nhà văn họ Hứa thấp và tròn lớn hơn Luận đến chục tuổi có viết lách đôi chút từ
thời tiền chiến và có giao du với một số văn nghệ sĩ thời đó nhưng thực ra họ Hứa
chỉ thật nổi tiếng từ sau ngày di cư vào Nam. Họ Hứa viết rất ít nhưng rất chuốt
lọc nên mỗi tác phẩm xuất hiện đều được anh em đặc biệt theo dõi. Cặp một cao một
thấp một trẻ một già này gặp nhau ở nếp sống “nghệ sĩ tính” rất bửa. Họ nhìn đời
thường xuyên bằng con mắt hí họa. Họ vẽ đời nằng nhũng đường nét vô cùng sống
sượng kèm theo vô số những câu chưởi đổng, chưởi đệm. (Chỉ khi giao thiệp với
bên ngoài gia đình văn hóa ngôn ngữ Luận mới thật hoàn toàn được giải phóng.)
Những câu chửi đổng chửi đệm họ dùng thường xuyên và hồn nhiên đến nỗi anh em
khi nói chuyện với họ kể cả những người đạo mạo nhất rồi cũng lây cách chửi đệm
của họ.
Thấy Hãng và Kha theo dõi họ, Quỳnh Hương hỏi:
- Các anh có quen cái anh cao cao? Kha gật đầu:
- Có chớ, anh em nhà đấy. Quỳnh Hương nói ngay:
- Cái thằng cha ấy thật bựa, đã có lần hắn đưa em về nửa đường
hắn dừng xe ôm em hôn bừa, em tát cho mấy cái trời giáng, hắn cứ cười cười rồi
tỉnh bơ đi. Có con bạn em để hắn đưa vào tận phòng rồi hắn lăn ra nằm ỳ trên
giường, đuổi về hắn trả lời sống sượng “Về là thế nào!” Con bạn em nói mỉa “Anh
là nhà văn mà cũng thế à?” Các anh có biết hắn trả lời ra sao không, hắn trả lời:
“Ấy anh là nhà văn mới càng thế chứ!”
Hãng cũng đã đoán ra đoạn kết nhưng cũng hỏi:
- Rồi ra sao?
- Còn ra sao nữa anh, hắn nằm ỳ đến bốn giờ sáng, “được” rồi
mới về.
Kha bật cười và khẽ lắc đầu vì chàng nhớ đến chuyện cách đây
không lâu bà Đô thấy Luận đã đứng tuổi mà còn lông bông chưa vợ, có ý muốn làm
mối cho một cô gái con người bạn hàng khá xinh lại có vốn liếng. Luận chỉ cười.
Bà Đô làm bộ tức mình bảo “Anh chẳng lấy nó anh lấy chó!” Từ đấy anh em đôi khi
vừa gọi đùa Luận “cái thằng lấy chó”.
Luận và họ Hứa đã ngồi chỉnh tề ở một góc tối và đã gọi
whisky - cả hai đều là bợm whisky - họ chưa nhận thấy Kha, Hãng.
Mụ cai gà tới hỏi hai người xem mời em nào.
Họ Hứa chỉ một em cao cao ngồi từ phía xa hỏi ý kiến Luận. Luận
lắc đầu quầy quầy rồi vừa làm điệu vừa nói:
- Không được, con bé đó cao quá, lưng hơi gù kiểu đàn bà mắn
nhưng lại ít ngực quá, thời buổi này em mà ít ngực thì sống thế nào được!
Rồi Luận nói với cai gà:
- Ern mới cho chúng anh Thúy Liễu. Khi cai gà đi rồi họ Hứa
nói:
- Đ.m. mày, nổi danh là thứ dạ điểu đực chẳng hiểu có thực
sành sỏi không, Thúy Liễu ra sao nói nghe thử.
- Thúy Liễu không đẹp lắm, nhưng ngực như thế này (Luận làm
điệu), mày ôm sẽ thấy trẻ ra đến mười tuổi là ít. Đến như em nhảy thì ly kỳ lắm,
nghĩa là cái bụng dưới em áp hẳn vào bụng mình.
- Chết cha, đ.m. thế thì nó là địch vận của Việt Cộng vào đây
để xa đọa hóa thanh niên và trung lão quốc gia rồi còn gì. Kìa mày có biết cái
thằng cha tóc hoa râm đương ôm vợ nhảy valse kia không?
Luận đáp:
- Lạ đ. gì thằng cha chủ nhà xuất bản T.T.
Họ Hứa làm một ngụm whisky:
- Tiên sư đã có cháu nội cháu ngoại rồi mà còn chơi lái xe
décapotable màu đỏ chói.
- Thì cũng phải níu thời gian một tí.
Họ Hứa lại làm một ngụm whisky nữa:
- Mà con vợ nó cũng níu thời gian như nó. Tiên sư, đeo thứ
xú-chiênq cao su làm ra bộ ngực nhọn hoắt như gái tân, trông có khác hái một nụ
hoa hàm tiếu cắm hờ vào một cây lá đã úa, cành đã khô, mập mờ đánh lận con đen.
Có lần hai vợ chồng đến xin tao viết cho một tác phẩm mới để xuất bản, tao khen
cả hai cùng trẻ và đẹp rồi tao bảo a văng trước, anh chị phởn a-văng gần hết.
- Thế mày đã đưa tác phẩm cho chúng nó chưa?
- Đưa cái con... mẹ kiếp đưa tiền cho tao còn dại quá đưa tiền
cho gái.
Tiếng Luận reo:
- Ô kìa hai ông bạn tôi kìa!
Luận đã nhận ra Kha và Hãng, đặt ly rượu xuống bàn rồi đi tới
tời trong khi họ Hứa giơ tay làm hiệu chào. Quỳnh Hương làm một nghiêm nhìn di
nơi khác, Luận ngồi xuống ghế tề chỉnh hỏi trêu:
- Này Quỳnh Hương lát nữa anh đưa về nhé. Quỳnh Hương bĩu
môi:
- Thôi đi ông!
Luận cười nói với Hãng, Kha:
- Đệ nhất danh ca Sài Gòn kiêm đệ nhất mambo thế giới đấy các
cậu ạ. Này ái tình lấy anh không?
Kha ghé tai Quỳnh Hương nói khẽ, tức thì Quỳnh Hương cười dòn
giã và đáp lời Luận:
- Anh thì có lấy chó!
- Á à cái thằng Kha láo!
Về bàn đi ông - vẫn lời Quỳnh Hương - Thúy Liễu đến rồi kia
kìa.
- Đuổi anh à ái tình? Này anh nói thật, em mê anh thì được,
chứ đừng bao giờ mê thằng này (Luận chỉ Kha) thằng đó mới nguy hiểm.
Luận hềnh hệch cười rồi về bàn.
Nhạc slow nổi lên, chính Quỳnh Hương đứng dậy trước:
- Nhảy với em bài này, anh Kha.
Thoạt nhảy vòng theo piste, rồi để tránh đám đông họ lách dần
vào trung tâm, ngón tay cái của Quỳnh Hương lần theo một đường trong lòng bàn
tay Kha, rồi nàng nói:
- Anh không thể có tiền được, có một tiêu hai... đây này bao
nhiêu tiền anh kiếm được đều sớm theo đường này mà lọt khỏi kẽ tay.
Kha kẹp khẽ ngón tay cái của Quỳnh Hương vừa đặt vào khoảng
“lọt kẽ tay” đó và nói:
- Mái tóc của em thật đáng cho anh say mê, không mềm ướt,
không khô xác. Sạch, tơi, thơm phức?
- Anh có nịnh em không?
Cảm thấy cánh tay chạm phải một cặp khác, Kha ghì chặt Quỳnh
Hương, nhấc bổng nàng lên chút ít cùng lúc với bước lùi ngoặt sang trái. Tiếng
Quỳnh Hương cười khẽ như tiếng cười của người vợ trẻ chợt thức giấc trong bàn
tay đùa nghịch của chồng. Quỳnh Hương nép đầu bên vai Kha và Kha ngả đầu lên
mái tóc Quỳnh Hương, cả hai kết thành một, im lặng đu đưa theo nhịp nhạc như
con tàu đã thả neo lơ đãng quên thời gian mặc cho triền sóng nhịp nhàng xô gợn
bên dưới. Có lẽ quá một giờ khuya rồi, số người ra về đã nhiều, cả dàn nhạc như
ngủ thiu thiu, chỉ nhịp nhạc đều đều nhè nhẹ là còn thức, từng cặp dưới piste
cũng như ngủ trên vai nhau chơi vơi giữa thinh không. Kha khẽ cúi xuống đặt môi
lên trán Quỳnh Hương, chàng cúi xuống thấp nữa gặp đôi môi ấm hơn. Quỳnh Hương
để nguyên không cựa quậy đón nhận một cách tiêu cực.
Chương Bảy
CHUYỆN DĨ VÃNG
I
Hãng lơ đãng đưa mắt nhìn Kha dắt tay Quỳnh Hương về bàn và hỏi:
- Còn muốn nhảy nữa không, hay đi về ăn phở Chợ Cũ?
Quỳnh Hương tán thành:
- Phải đấy, về ăn phở Chợ Cũ anh ạ, nhưng nên về ngay kẻo lát
nữa tất cả các tiệm nhảy đều tan, chúng ta sẽ không kiếm ra chỗ ngồi.
Luận và họ Hứa lúc đó đã say ngật ngưỡng không để ý gì đến
xung quanh. Họ còn ngồi lại.
Ra tới xe Quỳnh Hương vẫn ngồi giữa, nàng dựa sát vào Kha,
dáng tình tự, trong khi Kha âu yếm quàng vai nàng. Hãng tủm tỉm cười. Thỉnh thoảng
Kha ngả đầu lên mái tóc thơm rồi cúi xuống cho cả mũi và môi chàng cùng đặt lên
má Quỳnh Hương, Quỳnh Hương chớp mắt nói luôn miệng:
- Sáng nay em đi xe của con bạn, xe Mỹ anh ạ, do nó lái.
Chúng em ra Quốc gia Ngân hàng, con bạn em nó gửi tiền ở đấy. Nó được một...
cao cấp bao mà. Khi thì đi Đà Lạt, khi thì đi Cấp!
Quỳnh Hương cười rũ:
- Một tên béo ụt béo ịt, tóc hoa râm bằng tuổi bố mình mà rúc
vào nách mình làm trò khỉ thì các anh bảo có tởm không?
Quỳnh Hương ngả đầu cho má nàng cọ sát mạnh lên môi và mũi
Kha khi đó vừa chạm tới. Hình như nàng muốn được thật gần gũi với da thịt trẻ
trung của Kha để bù với hình ảnh dâm dật nàng vừa kể.
Kha hôn lên vành tai Quỳnh Hương, nói thầm:
- Đừng nói chuyện đó nữa em!
Quỳnh Hương ngoan-ngoãn ngừng lời, vẻ hơi lúng túng. Hãng cho
xe chạy từ từ và lái sát vào vỉa hè. Đã đến hiệu phở!...
Đúng như lời Quỳnh Hương, lúc ba người tới quán phở khuya Chợ
Cũ, các bàn còn vắng tanh, ba người chọn chỗ ngồi gần ngay mặt đường vừa cho
thoáng vừa để cùng ngắm khoảng phố khuya này trong vẻ nhộn nhịp đặc biệt của
nó. Chỉ nửa giờ sau - khoảng một giờ rưỡi sáng - các khách chơi khuya đã từ cực
ngả đường ùa tới chen vai thích cánh dọc sâu theo ngõ cụt, cố lách tìm lấy một
chỗ ngồi. Tiếng xích lô máy từ xa phóng tới, đừng lại một phút vừa đủ để nhả
khách xuống và nhận tiền, rồi rồ ga vụt thẳng, tiếng máy nổ mất hút ngay dưới
hàng đèn khu- ya. Tiếng xe tắc xi đến rồi đi cùng một nhịp điệu như vậy, nhưng
máy nổ bớt rộn ràng hơn, tựa như nhịp đàm luận của giới trung lưu vui mà không
thô, có nhộn nhịp mà không hối hả so với giới lao động. Những xe nhà cỡ nhỏ đủ
loại Dauphine, Prefect, Wolkswagen, dìu dịu tới, tiến tiến lui lui chút ít để đậu
sát nhau, chỉ tiếng cửa xe đóng “xầm” là có vương chút kiêu hãnh kín đáo. Những
xe nhà đó chủ nhân cầm lái, hàng ghế trên, hàng ghế dưới là mấy bạn trai thân
ngồi kèm với một hai cô bạn gái, hoặc là nữ ca sĩ hát cachet cuối cùng, hoặc là
vũ nữ quen nhiều hay ít đã chịu ngồi bàn tới gần mãn cuộc. Hai lần có tiếng “kịch”
va vào vỉa hè làm Quỳnh Hương ngẩng đầu lên, đó là hai chiếc xích lô chở đến
hai vũ nữ không bạn trai. Cả hai bác phu xe đều phải nghiêng người sà một chân
xuống, trong khi hai tay bẻ mạnh ghi đông cho sàn xe ghếch lên thềm, sau đó lại
gò người âm thầm đạp đi. Đạp xe khuya, để đầu trần không phải đội mũ che nắng
mà khuôn mặt dáng người của các bác cũng chẳng rạng rỡ lên được chút nào.
Một chiếc xe từ khúc rẽ ngã tư gần đấy đột ngột xuất hiện
cùng ánh đèn pha chói lọi, tiếng máy vo vo, tiếng bánh rít mãnh liệt cuốn theo
cát, bụi, sỏi, lá... rồi tiếng phanh rít, các bộ phận nhíp nhún xuống hết sức
như cố bám lấy mặt đường cho khỏi bị lật. Cả bọn trong xe đổ xô về phía trước
cùng với tiếng cười nói ồn ào. Thoáng trông Kha nhận ra ngay xe của Luận bên trên
có nhà văn họ Hứa và mấy người trong giới văn nghệ khác mà họ mới “nhặt” được ở
đâu, tất cả đều say không nhiều thì ít. Chiếc xe lừ lừ tiến thêm một chút rồi dừng
trước tiệm phở.
- Ngồi xe mày lái trông thấy ông bà ông vải Luật ạ.
- Nên... nên... nên làm dấu trước khi lên xe tao.
- Đi trong thành phố mà cứ số bốn dận ga phây phây đừng có
nói chuyện “phanh phiếc” làm gì nếu gặp tai nạn!
Tiếng nhà văn họ Hứa le nhè khi đã xuống xe sau cùng?
- Luận ạ, tao cớ ngờ ngợ không nhớ rõ ngày xưa mày có học tao
hay không.
(Nhà văn họ Hứa hiện còn là giáo sư.) Tiếng Luận bô bô đáp lại
tức khắc:
- Tôi đ. học anh! Đ. m. tao là thằng phân miệng, tao mà học
mày tao gọi là “thầy” và xưng “con” rồi Đ.m. tôi cứ nghĩ giá đã học anh để phải
gọi anh bằng “thầy” xưng “con” thì thật khôi hài, buồn nôn. Thầy đ. gì mày!
Nhà văn họ Hứa cười khẩy, có tiếng róc đờm trong cổ họng:
- Tiên sư thằng mồm loa mép giải, mày cho làm Phạm
Nhan đi đòi nợ được.
Luận cười lớn hơn:
- Ha ha, mày thì làm đ. gì ra nợ, chỉ chuyên đi nợ người, tao
lạ đ. gì!
Họ đã vào tiệm phở, bọn họ say không để ý đến ai nên không thấy
bọn Kha, Hãng, Quỳnh Hương. Kha vẫn biết từ ngày di cư vào Sài Gòn, Luận nổi tiếng
trong giới anh em là “con dạ điểu đực” - đối lại với “con dạ điểu cái” là nữ
minh tinh màn bạc Ave Gardner. Thường ăn cơm chiều xong, từ chín giờ tối đến mười
một giờ khuya Luận ngủ lấy sức. Từ mười một giờ khuya trở về sáng Luận hoàn
toàn làm chủ khoảng thời gian đó, sinh khí khởi đầu xuất hiện ở câu chuyện quen
thuộc kể từ ngụm Whisky đầu tiên ở tiệm nhảy.
Thấy bọn Luận ồn ào quá, chủ tiệm phở hốt hoảng chạy ra:
- Bẩm xin các cậu nói khẽ chứ kẻo ông giáo ở nhà đối diện đây
ông ấy kêu.
- A a a, không sao - Luận vừa nhíu cặp mắt lại vừa nói lớn -
cái thằng ấy tôi biết mà.
Quả thực Luận có biết về ông giáo sư văn chương này vì ông thỉnh
thoảng có viết bài khảo luận văn học cho Văn Hóa. Chủ tiệm săn đón hỏi tiếp, vẻ
mặt còn lo lắng chỉ sợ mấy ông tướng tiếp tục làm ồn phố:
- Bẩm các cậu dùng chi ạ? Nhà văn họ Hứa gắt:
- Cậu cái con khỉ, hơn bốn mười tuổi đầu rồi đây này! Chủ tiệm
gãi đầu quay sang Luận:
- Dạ bẩm... bẩm... hôm nay có phở gà, còn trứng non!
Bỗng Luận kéo tuột mấy bạn sang bàn sát đấy, nơi hai vũ nữ
không bạn trai ngồi. Bích Hương, một trong hai cô, có quen Luận. Luận hoàn toàn
làm chủ cuộc đàm thoại:
- Ha ha! Bích Hương! Bỏ rơi các anh, rủ bạn lén đi phở.
Láo...
- Em đến đây mới gặp Xuân Lan đấy chứ. Các anh biết
Xuân Lan?
Cả bốn người đàn ông quay tả quay hữu kéo ghế lại ngồi trong
khi Bích Hương, Xuân Lan thủng thẳng đứng lên. tay:
Bích Hương nói:
- Thôi chúng em xin phép rút lui, ăn xong rồi! Luận khoát
- Ấy ấy không được! Ngồi lại bàn chuyện tương lai đã chứ.
- Trời ơi - vẫn lời Bích Hương - nói đến tương lai làm gì cho
thêm rầu ruột:
Chuyện dĩ vãng buồn sa nước mắt
Chuyện lương lai lạnh toát mồ hôi!
- A a... bi quan! Nếu trả tiền trước thì trả cả cho anh một
thể.
- Em trả, có sao, mấy khi được hân hạnh đó.
- Em có biết không, đàn bà chỉ... chỉ mở ví trả thay đàn ông
khi đã... đã là à à... (Luận hạ giọng) Anh với em đã có cưới cheo gì đâu? Hẵn đợi
đến lúc đóóó. Bây giờ thì ngồi xuống... thế ế ế.” Rồi anh đưa về mààà...
Kha mỉm cười, nhưng thấy Quỳnh Hương thoáng vẻ buồn
Hãng bảo Kha:
- Nếu muốn uống cà phê thì về bureau tôi, ở đây nghẹt hơi người
đến chịu không nổi nữa.
Giọng Quỳnh Hương đượm vẻ ngạc nhiên:
- Về bureau anh?
Công việc anh làm thất thường, đôi khi mấy đêm ngày liên tiếp
anh cần phải cô mặt ở phòng giấy, vì vậy tại nơi này anh có một phòng riêng tạm
đủ tiện nghi. Em còn thức được chăng?
- Được chứ anh, vả lại em cũng muốn biết phòng giấy của ông
anh em oai đến bực nào.
Ba người vừa ra khỏi hiệu phở, có tiếng ai hối hả:
- Hãng đây rồi, biết mà!
- Tân!
Mắt Kha sáng lên khi chàng reo tên bạn. Lạ thay, Kha thoáng
thấy đôi mắt Quỳnh Hương cong chợt sáng lên mặc dầu nàng vẫn đứng yên một chỗ.
Trong khi bắt tay Hãng rồi Kha, Tân không hề để ý đến Quỳnh Hương. Tân nói với
Hãng:
- Được biết cậu sắp đi Hồng Kông nên phải tìm ngay để cậu chỉ
dùm anh bạn sinh viên Luật khoa của tôi cách giao tiếp với hội Liên lạc Á châu,
vì mai tôi đã đi công tác trưng binh sớm.
- Có gì đâu - Hãng đáp - tôi chỉ việc trực tiếp giới thiệu
anh bạn đó với ông chủ tịch hội Liên-lạc Á châu. Sau khi đi dự hội nghị ở Nhật
về, anh bạn nhớ làm cho bản báo cáo với đầy đủ nhận xét cùng lời đề nghị. Người
ta cấp vé máy bay cho mình đi chỉ cốt có vậy. À quên, còn phải làm một ít giấy
tờ trước khi đi, thể thức tôi sẽ bảo.
- Đây này - Tân nói - anh bạn còn ngồi trong xe tôi kia, anh
dặn ngay bây giờ được không?
Hãng gật đầu, hơi nghiêng khuôn mặt nhìn Kha và Quỳnh
Hương rồi nói:
- Được lắm, cứ đưa anh bạn về nhà anh trước đi, tôi sẽ theo đến
ngay.
Tân vui vẻ bắt tay hai bạn rồi quay đi. Tân không hề một giây
để ý đến Quỳnh Hương. Kha quay lại thấy Quỳnh Hương vẫn không ngớt nhìn theo
Tân suy nghĩ. Hãng nói:
- Thôi, hai tên này lên xe!
Hãng lái xe thẳng về bàn giấy, đưa chìa khóa cho Kha, rồi nói
với Quỳnh Hương:
- Em theo Kha vào uống cà phê.
- Anh còn quay lại chứ? - Quỳnh Hương hỏi.
- Cũng có thể! - Hãng đáp rồi cho xe vụt thẳng.
Quỳnh Hương vừa theo Kha lên thềm, mở cửa, bật đèn vừa nghĩ
thầm: “Ông anh có ý để mình ở lại với người tình!” Tiếng Kha hỏi kéo nàng về với
thực tại :
- Em uống cà phê đen hay cà phê sữa?
- Ấy chết, anh để em pha cho.
- Không sao. anh pha bằng phin điện tiện và chóng lắm.
Quỳnh Hương buột miệng hỏi một câu mà thâm tâm cố ý tránh:
- Anh có vợ chưa?
- Anh có vợ rồi?
Quỳnh Hương nhìn Kha ngạc nhiên, câu trả lời quá gọn, nàng
không chờ đợi.
- Anh đã có con chưa?
- Chưa! Anh chưa muốn, còn sớm quá với anh.
Kha đã mang lại tách cà phê và hộp đường thỏi. Hương cà phê bốc
lên sức nực và ấm. Quỳnh Hương ngả đầu lên vai Kha, những ngón tay của hai người
giao nhau dịu dàng. Thời gian bỗng thừa mứa và Quỳnh Hương vội vàng thủ thỉ tâm
sự thuật lại dĩ vãng để vừa sưởi ấm thời gian vừa lấp đầy khoảng trống nguy hiểm.
II
Chất, anh trai Quỳnh Hương, nguyên là nhân viên phòng nhì của
Pháp. Sau vụ đảo chính tháng ba 1945 của Pháp, Chất bị mất tích. Không rõ là bị
Nhật hay Việt Minh thủ tiêu. Cuộc đời Quỳnh Hương bắt đầu gian truân. Trước đấy
mấy năm nàng đã phải bỏ học, giờ đây nàng còn không thể ở cùng nhà với người chị
dâu tai ác, mặc dầu nàng rất thương hai cháu, một trai một gái. Cuộc cách mạng
tháng tám bùng nổ Quỳnh Hương theo bà cô xuống Hải Phòng. (Bà không con trai chỉ
có một cô gái thì lại vừa gả chồng và theo chồng vào Huế - anh chàng là công chức).
Bà mở tiệm giải khát, nàng ngồi thu tiền ở quầy hàng. Khách hàng phần lớn là những
thanh niên Hải Phòng, du đãng có, còn cắp sách đi học có, nàng đã hiểu thế nào
là khóe mắt, cử chỉ cùng ngôn ngữ tống tình của con trai từ thuở đó. Sau cách mạng
tháng tám đến hiệp định mùng 6 tháng 3, rồi đến những chuyện lộn xộn khiêu
khích của quân đội viễn chinh Pháp ở Hà Nội cũng như ở Hải Phòng. Một tuần trước
trận mở màn cho cuộc kháng chiến toàn quốc tại Hải Phòng (tự vệ khu 7 đốt cháy
bốn chiến xa Pháp), Quỳnh Hương đã theo bà cô về quê ngoại. Quê ngoại Quỳnh
Hương là làng Mậu Dương nằm gọn trong khu vực Phố Hiến cũ, ở ngay sát thị xã
Hưng Yên, chỉ qua dốc đá là đã thấy hồ bán nguyệt và tòa sứ. Tàn tích của Phố
Hiến cũ ngày nay còn một làng nhỏ người minh hương ở rất nhiều, họ hầu như có một
nếp sinh hoạt riêng khác hẳn với người Việt chính cống. Hàng năm tất cả minh
hương tự các làng Hương Cái, Bảo Châu, Lương Điền... về chùa Hiến tế lễ linh
đình. Khi Nhật vừa đặt chân tới Việt Nam, phi cơ đồng minh tới dội bom xuống Hải
Phòng, Gia Lâm thì nơi này được tổ chức thành Hoa kiều an toàn khu. Lý do: có lẽ
họ lợi dụng địa thế là cả một rừng nhãn um tùm, lại xa hẳn thị thành. Vào thời
này người Nhật còn oanh liệt lắm.
Một hôm Quỳnh Hương cùng anh về thăm quê ngoại (dạo đó ông
anh chưa bị thủ tiêu), gặp người cậu đương đứng nói chuyện với một số bạn trai
cùng lứa tuổi. Người cậu là con út của gia đình nên cũng chỉ vào trạc tuổi anh
nàng. Một cô gái đẹp mượt mà từ phía chùa Hiến đi ngang qua theo đường lên thị
xã. Quỳnh Hương còn nhớ mãi dáng điệu lúng túng bứt rứt của cô khi đi ngang mặt
đám đàn ông đương nhìn cô chằm chằm. Quỳnh Hương càng không quên lời nói cay đắng
của người cậu vừa nhìn theo hút người đẹp vừa nói: “Hoa khôi của tỉnh Hưng Yên
đấy mà ngủ với Nhật bằng thích!” Sau ngày Nhật đầu hàng, Hoa kiều an toàn, khu
biến thành nơi tập trung của lính Nhật đã giải giới. Tụi Nhật dạo này không còn
hống hách kiêu hùng nữa, trái lại họ sống rất gần gũi và nhã nhặn với người Việt,
hàng tuần tổ chức đánh vật như bên Nhật, huấn luyện thanh niên Việt đánh bóng
bàn, chơi bóng chuyền, cùng đi câu. Riêng cậu Quỳnh Hương tuyệt đối không thèm
chơi với tên Nhật nào. Nàng kiều nữ cam chịu thất thân với Nhật kia có chiếm một
chỗ ngồi khá quan trọng trong trái tim chàng? (Điều nầy mãi về sau này Quỳnh
Hương mới có dịp được biết.)
Quê ngoại Quỳnh Hương còn một đểm đặc biệt nữa: cây nhãn tiến.
Đó là cây nhãn quý độc nhất không chỉ của riêng huyện Kim Đồng mà của cả tỉnh
Hưng Yên.(Nhãn Phố Hiến vốn đã nổi tiếng rồi). Cây nhãn không nhiều quá lắm,
năm sai nhất cũng chỉ chừng năm ngàn là cùng. Dân làng không ai được ăn nhãn
đó, chỉ có cụ tiên chỉ là được nếm để bẻ đúng ngày, vì bẻ sớm hoặc bẻ muộn vài
ngày, nhãn mất nước đi nhiều lắm. Quả nhãn cụ tiên chỉ nếm to bằng ngón chân cải,
bóc ra trắng phau, múi dầy, hột chỉ bằng hột đậu. (Chẳng hiểu bốn, năm ngàn
nhãn đó bẻ xong nộp lên tỉnh, khi chuyển đến tay ông vua triều Nguyễn còn được
bao nhiêu?)
Dời Hải Phòng về quê ngoại, hai cô cháu mở hàng bán bún thang
ở ngay trong chợ tỉnh. Bún thang Hưng Yên làm với thịt lươn đã một thời nổi tiếng
gần bằng nhãn lồng Phố Hiến. Bún cất ở làng An Tảo mềm mà giòn, có lẽ bột có
pha thêm chút hàn the, nhưng không một làng nào khám phá được bí quyết đó của
làng An Tảo.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thị xã Hưng Yên triệt
để tiêu thổ kháng chiến. Đứng từ phố Hậu trường (trên con đường đi ra bến Tỉnh)
trông suốt đến phố Khách, nhà cửa phố xá chỉ còn là những đống gạch vụn. Cửa hàng
bún thang của cô cháu Quỳnh Hương được chuyển từ chợ tỉnh về bãi nhãn Phố Hiến.
Xung quanh lều (cửa hàng bún) có vô số hầm trú ẩn hình chữ chi cho khách ăn,
khi nghe kiểng báo động kịp nhảy xuống tránh nạn phi cơ oanh tạc. Hai năm đầu
cuộc kháng chiến, hai cô cháu Quỳnh Hương đã hốt bạc thiên hạ bằng nghề bán bún
thang lươn này. “Thiên hạ” đây là những người tại Hà Nội, Hải Phòng tản cư về,
cũng nên kể thêm bộ đội cùng cán bộ cao cấp. Nhưng rồi Pháp tái chiếm Hưng Yên,
bãi nhãn ven đê bị chặt trụi, một đồn lính thực dân được thiết lập khoảng ngã
ba đường gần đó, trông suốt tới những làng lân cận nhữ Nễ Châu, An Châu. Bà cô
về thành.
Quỳnh Hương thoạt giúp việc cho Ủy ban kháng Chiến Hành Chính
huyện Kim Đồng, một tháng sau thì gặp ban kịch lưu động của Kỷ, người cậu trẻ
tuổi. Biết cô cháu gái có giọng hát hay, Kỷ cho gia nhập ban kịch.
- Tới dịp này - lời Quỳnh Hương - em mới biết cô hoa khôi thất
thân với Nhật xưa kia cô học cùng lớp, ngồi cùng bàn suốt năm học lớp nhất trường
Tỉnh với cậu. Một buổi chiều ban kịch dừng chân ở một làng ven sông Hồng, em bất
chợt cậu xuống ven đê ngồi phệt xuống bãi cỏ khuất sau một bờ ruộng có bụi
xương rồng cao. Em rón-rén tới “òa” một tiếng, cậu giật mình luýnh quýnh không
kịp dấu tấm carte postale trên tay.
- “Cho cháu xem với cậu Kỷ!” Cậu cau mặt đau khổ vì nội tâm
hơn là vì bị em bất chợt quấy rầy : “Mày không xem được!” Em cố tình trêu bởi
em biết không bao giờ cậu nỡ nặng lời cáu xẵng với em: “Cô nào biếu cậu thế?”
Tuy gương mặt đã dịu cậu vẫn đáp gọn: “Láo!”. Nhưng rồi cậu lẳng lặag đưa cho
em. Tấm carte postale đã cũ, trên vẽ hình một con thuyền bạt gió cùng với mấy
chim hải âu cũng ra chiều bạt gió. Bốn góc tấm carte đã sờn, đôi chỗ mềm nhũn
nhưng bề mặt thì rất phẳng phiu.
- Em lật mặt sau lẳng lặng đọc những dòng chữ non nớt, lời viết
cũng non nớt. Em thích những lời đó quá. Thong thả lên đê, trên đường trở về,
em còn khư khư giữ tấm carte để đọc thêm mấy lần nữa. Về gần tới ban kịch, cậu
giặt tấm carte, để vào giữa quyển sổ tay bìa cứng. Sau này mỗi lần ban kịch dừng
bước, gặp khi chỉ có hai cậu cháu, em còn đòi xem lại bằng được tấm carte để đọc
lại những dòng chữ mà không hiểu sao em yêu quá đi mất. Đó chưa phải là lời
tình ái mà sao đã rờn rờn tan vỡ?
Quỳnh Hương thoạt nhẩm ôn rồi thong thả đọc như lời thì thầm
vừa đủ cho Kha nghe:
Thúy tặng Kỷ
Thân nhau mới tặng ảnh này làm kỷ niệm, những ngày xa nhau dù
cho ảnh có phai màu xin đừng xé mà đau tấm lòng Thúy. Thúy thấy Kỷ xin Thúy tấm
ảnh này thì Thúy cũng vui lòng tặng Kỷ, Kỷ đã xin tấm ảnh này thì đừng xé. Thúy
chúc Kỷ và Thúy luôn luôn học tấn tới. Trên đường học vấn luôn luôn Thúy và Kỷ ở
bên nhau và học cùng lớp và cùng trường. Thúy chúc thầy mẹ Kỷ luôn luôn mạnh khỏe,
và cả Kỷ nữa, và học giỏi.
Trần Thị Ngọc Thúy
Lớp nhất
Thúy là tên nàng hoa khôi thất thân với Nhật.
- Em kể chuyện thật có duyên, em Quỳnh Hương! - Kha chân
thành nói vậy khi nghe dứt đoạn trên - Em còn tiếp tục ở ban kịch với ông cậu
cho đến ngày nào.
- Đến ngày cậu em chết. Hay gần như thế!
- Ông Kỷ chết?
- Vâng, chết vì sốt rét!
- Chỉ công tác ở Hưng Yên, miền đồng bằng mà cũng chết vì sốt
rét?
- Không, trước đấy cậu em đã một lần tên Việt Bắc theo lớp huấn
luyện ba tháng về kịch.
Kha gật gật đầu:
- Phải rồi, anh biết dạo đó trên Việt Bắc có lớp huấn luyện về
kịch thật, anh được xem một vở, vở Đề Thám.
- Em không ngờ cậu chết về bệnh đó - Quỳnh Hương tiếp
- nằm ở dân y viện có ba ngày thì chết, em nghe tin mà rụng rời
cả người. Khi em tới dân y viện, người ta đã khiêng cậu xuống nhà xác, một chiếc
lều lợp lá gồi, ba bề vách đất sơ sài, một bề để trống làm lối ra vào. Trời
tháng tư nắng gay gắt, mái nhiều chỗ thủng để lọt những vệt trứng gà lốm đốm
trên nền đất, xác cậu được đặt trên một chiếc chõng tre, đầu ngoẹo về một bên,
mép đã sớm phòi bọt trắng xóa, chắc chắn là vì bị hấp nắng. Em phải cầu cứu đến
hình ảnh mẹ em đã đón cậu ở dưới ấy, cho cảnh đó bớt thảm. Vóc người cậu em nằm
chết không sút đi mấy, nhưng khuôn mặt còn in hằn khổ não. Khi em nhẹ áp tay
lên trán cậu, một hơi lạnh đặc biệt như dính rịt vào tay em, nước mắt em tràn
nhòa.
- Tội nghiệp! - lời Kha nghe như có kèm theo một tiếng thở
dài.
- Từ đó em thường ôn lại trong trí những vai trò cậu đóng, thấy
thuần là vai trò gặp nhiều trắc trở, cậu sống thực tình với vai trò của mình đến
nỗi nhiều khi màn cuối đã hạ, cậu còn ngồi thần trong buồng trò, em phải giục,
cậu mới cởi bỏ bộ đồ kịch và đi rửa mặt cho sạch phấn mực hóa trang. Trước đây
em kính sợ cậu vì vai vế, nhưng từ sau ngày vào ban kịch, được dịp gần cậu để
hiểu qua và đoán sâu tâm sự, em thương cậu vô cùng. Ngay trong hài kịch, cậu
cũng chọn những vai bi tình phụ để làm trò hề. Giữa hai màn kịch, cậu thích đơn
ca bài “Gươm tráng sĩ”. Tuy lá bài đơn ca mà như một màn kịch độc diễn của cậu,
vì cậu cũng hóa trang, đầu chít khăn xanh, mặc áo dài xanh, ngang lưng quấn một
giải lụa điều, tay cầm thanh kiếm gỗ sơn trắng ở phần lưỡi, sơn đỏ ở phần
chuôi. Cậu làm điệu múa chậm rãi, khi tiến, khi lùi, khi quay bên tả, khi quay
bên hữu nhịp với lời ca:
Ta là... gươm tráng sĩ dời xưa...
Bên mình chàng.... hiên ngang mặt thuở.
Hồn thanh gươm tiếc một thời oanh liệt! Giọng cậu không hay
nhưng chân thành!
Quỳnh Hương nhoài người về phía bàn kính nhấc tách cà phê,
Kha cũng làm theo như máy, cả hai uống nốt ngụm cuối cùng, tiếng tách đặt xuống
như tiếng nức rạn của đêm khuya.
Quỳnh Hương tiếp:
- Càng ngẫm nghĩ em càng tin là cậu chết mang theo đi một mối
u tình và em càng bằng lòng về cử chỉ cuối cùng của em đã giúp cậu.
Cử chỉ nào? - Tiếng Kha hỏi tuy khẽ nhưng vang ròn trong bóng
tối, đượm vẻ ngạc nhiên.
- Tấm carte!
- Tấm carte, làm sao?
- Em là người thân duy nhất của cậu, nên ban kịch trao lại
cho em tất cả những đồ lặt vặt. Khi đó người ta đã liệm cậu bằng một thứ vải khổ
hẹp, phải can liền ba khổ mới đủ chiều rộng để liệm, màu vải ngà ngà tuy là vải
mới. Soạn đồ thấy quyển sổ tay bìa cứng em nhớ ngay đến tấm carte, em mở ra, tấm
carte còn nằm nguyên bên trong, em lật lại phía sau đọc lại lời thư non dại một
lần nữa rồi không chút ngập ngừng em mang xuống nhà xác, lén gài lẩn tấm carte
dưới lần vải liệm, khoảng hai tay cậu chắp lại. Tấm carte cũng một màu vàng y hệt
màu vải. Ván vừa xe về. Nhập quan!
Quỳnh Hương khẽ lắc đầu giọng càng ngao ngán:
- Tấm carte cũng màu vàng y hệt màu vải liệm anh ạ!
Kha hiểu người ta rất có thể bất chợt bị ám ảnh, bị xúc động
sâu xa bởi một sự kiện nào đó thoạt bề ngoài tưởng như rất tầm thường, tỉ như
việc Quỳnh Hương thấy “tấm carle cũng màu vàng y hệt màu vải liệm”. Kha không
ngờ Quỳnh Hương có tài kể chuyện với những nhận xét tinh tế như vậy, chàng nhẹ
nhàng nâng một bàn tay của Quỳnh Hương hơi cúi đầu đặt môi lên hôn trìu mến. Hẳn
là Quỳnh Hương có mỉm cười vì Kha thấy bàn tay nàng càng mềm mại và hơi uốn
cong thêm một chút. Qua đi một phút cho lắng ngậm ngùi, Quỳnh Hương tiếp:
- Cậu em chết được ba hôm, ban kịch tiếp tục lên đường công
tác, nhưng chưa kịp diễn thêm một tối nào thì rồi chợt vào một sớm tinh sương
kia, cả đoàn bị vây. Em cùng một số vai nữ bị bắt, các vai nam đã nhanh chân nhảy
xuống ao rồi lẩn dưới những bụi ô-rô sát bờ. Thoáng hiện một ý nghĩ. Kha hỏi:
- Lúc đó em đã là đảng viên chưa? Quỳnh Hương đáp ngay:
- Em diễn kịch nhưng chưa là đảng viên. Cậu em cũng vậy, anh
thấy có lạ không, cậu em là trưởng ban kịch!
Kha thốt lời chán chường: cậu em. Đảng viên mà làm gì! Guồng
máy của chúng đặc quánh những máu, nghiền nát tự do, nghiền nát lương tri,
nghiên nát danh dự làm người!
- Anh còn nhớ tên thủ hiến Bắc Việt Phùng Văn G.?
Không thấy trả lời, Quỳnh Hương khẽ nghiêng đuôi mắt liếc
nhìn vẻ thẫn thờ của Kha. Bỗng Kha vụt bừng tỉnh, chàng nắm hai vai Quỳnh
Hương:
- Em nói sao. Phùng Văn G. Em bị nó cưỡng hiếp?
III
Sự hốt hoảng của Kha chứng tỏ chàng có biết thành tích của
tên một thời nổi tiếng là con “con dê già” này, càng khiến Quỳnh Hương cảm thấy
thấm thía cho thân phận mình. Tuy nhiên giọng nàng vẫn giữ được bình tĩnh:
- Đoàn lê đương đã quây tròn một mẻ lưới chừng một trăm đồng
bào đủ cả nam phụ lão ấu, trong đó có em và mấy cô bạn trong ban kịch. Có lẽ vì
lẫn lộn trong cái đống lúc nhúc những già trẻ lớn bé lam lũ hốc hác đó nên em
thoát được lũ lê dương đói khát đàn bà. Qua một trại gạn lọc, em và mấy cô bạn
đều bị giữ lại. Họ mặc nhiên coi bọn em là những cán bộ kháng chiến, vì vậv
chúng em cũng mặc nhiên coi mình là tù binh.
- Em có bị tra tấn?
- Không, không một chút nào, chẳng phải vì em nhờ có nhan sắc,
chẳng phải vì lũ bạn em hiền lành, một sự may, vâng đúng thế anh ạ, chỉ là một
sự may! Nhưng khi họ trả em về Công an Bắc Việt, bị nhốt mỗi đứa vào một sà lim
thì em chợt linh cảm sẽ có điều không hay xảy đến...
“Người con gái này thật đáng cho ta nói chuyện”- Kha nghĩ thầm
- cho hay không ai có quyền coi thường ai trên cõi đời này! Kha ôm Quỳnh Hương
sát vào mình hơn nữa, đặt đôi môi lên trán nàng, mùi Channel no5 thoang thoảng
bốc lên từ mái tóc, rồi hỏi:
- Ý em muốn nói “hắn” đến? Quỳnh Hương yên lặng gật dầu.
- Vì sao hắn đến?
- Vì hai hôm sau là ngày rằm tháng bảy âm lịch, chính phủ Quốc
gia muốn thả một số tù chinh trị. Hắn kinh lý nhà tù, xét qua danh sách những
tù nhân sẽ được phóng thích và bảo viên giám đốc đề lao biết là nên bố trí sẵn
cảnh cho một đại diện tù nhân lên diễn đàn cảm ơn chính quyền quốc gia, rồi xé
lá cờ đỏ sao vàng trước mặt mọi người làm cử chỉ tượng trưng.
- Hắn gặp em vào hôm đến thăm đề lao?
- Hắn đến đúng vào giờ bữa ăn trưa. Hắn dừng lại trước sà lim
nhìn, em điềm nhiên lặng lẽ và cơm. Em cho chưa có lời chửi cay độc nào bằng
cách điềm nhiên ăn khi hắn đứng ngay bên nhìn tròng tròng. Giây lâu hắn tiếp tục
đi. Vừa xong bữa, em được gọi lên phòng giấy cùng với một số người sẽ được tha
vào ngày rằm tháng bảy. Tại phòng giấy chỉ có một mình hắn. Hắn hỏi qua loa từng
người rồi cho đưa họ về sà lim ngay, hắn hỏi em sau cùng, hắn dụng ý thế, em biết.
Hắn hỏi em là nữ cán bộ Việt Minh được bao năm? Em đáp bừa là từ hồi mặt trận
này còn hoạt động bí mật. Hắn gật gù nói: “Tôi biết cô thuộc loại gái bướng bỉnh,
tôi ưa cái bướng bỉnh đó”. Em yên lặng không đáp nhưng nghĩ thầm hắn ưa vẻ hiên
ngang là phải, vì quanh hắn sự hiên ngang đâu còn, rặt một lũ hèn nịnh bợ. Chợt
hắn bảo thẳng em: “Cô bằng lòng lấy tôi cô sẽ được tha, bằng không... cô sẽ ở
tù mọt gông! Công lý ở tay tôi, cô thông minh hẳn biết!”. Cần gì phải thông
minh mới biết điều đó hở anh? Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại. Em muốn tự
do! Tuy nghĩ thế, nhưng em đáp, giọng cương quyết: “Tôi sẽ ở tù mọt gông!” - Hắn
cười: “Đừng nóng tính dại dột cô em, để cho cái gông nó ôm chân mà hơn nằm trên
chăn dưới nệm và ôm nhau ư? Biết cô là người thông minh nên tôi mới cho gọi lên
và nói thẳng như thế. Người thông không, nhưng tôi tin rằng cô sẽ thích!” Biết
là không thoát được lời đề nghị của hắn, em phác nhanh trong trí sẽ tuột khỏi
tay hắn khi vừa ra khỏi đề lao. Cho mèo ngửi hơi mỡ treo, thèm rỏ rãi rồi miếng
ăn đã gắp kề miệng thì rơi mất. Em muốn nói lớn: “Thằng mặt dầy, mày chưa dễ bắt
bí được tao anh!” nhưng rồi em nói: “Được, tôi ưng lấy ông!” Giọng em rắn đanh,
không một chút tình cảm, hắn biết. Nhưng hắn cần gì? Hắn tin với đia vị hắn, với
cái giàu sang của hắn, em sẽ phải mềm lòng, khi em đã mềm lòng và hắn đã thỏa
thuê, hắn sẽ tống khứ em đi như đã tống khứ bao cô gái khác trước em. Tối hôm
mười bốn tháng bảy âm lịch, em được gọi lên văn phòng, trao trả chiếc ba lô áo
quần và ít vật liệu thường dùng, rồi được dẫn lên chiếc xe bóng loáng ngồi giữa
hai cảnh binh có súng lục. Chiếc xe phóng thẳng xuống dinh hắn. Xuống xe, em chỉ
bước có hai bước là vào cửa dinh, hai cánh cửa khép lại, hắn xuất hiện, bình
tĩnh nhìn em, bình tĩnh đưa em vào phòng tắm, bình tĩnh trao cho em áo quần mới
để thay, bình tĩnh nằm đợi em trên giường trải nệm bằng một thứ sa tanh màu mỡ
gà. Em không ngờ hắn đòi hỏi ngay như vậy, và bố trí cẩn mật đến thế. Hắn quả xứng
danh “con dê già”. Sau này em có nghe dư luận đồn mẹ hắn xưa ngủ với Tây đẻ ra
hắn, nhưng đã gần hắn em biết điều này không phải, chẳng qua vì quá thù ghét hắn
nên người ta đặt điều ra thêu dệt thế. Thân hình hắn quả to lớn như Tây, trán hẹp
và thấp, cằm bạnh, hai má bắt đầu xệ, màu da nâu xẩm khoẻ, bụng lớn, thật lớn,
cả hai con mắt hắn đều có nhài quạt vần tía mầu đỏ; hắn vì chơi bời lắm! Hắn có
đủ những nét điển hình của một tên cường quyền ác bá dâm dật mà em hằng ghê tởm.
Ngày nay thân hình em hơi đẫy, nhưng ngày đó em còn mảnh mai lắm...
Thấy Quỳnh Hương ngước đầu nhìn mình. Kha cúi xuống hôn lướt
lên má nàng. Giây lâu Quỳnh Hương mới tiếp:
- Vâng ngày đó em còn mảnh mai lắm. Hắn cười hề hề, phà hơi
miệng sực mùi xì gà vào mặt em, hắn ôm em như đứa trẻ lớn ôm con búp bê. Hắn
thành thạo lắm, vì trước em, hắn đã dùng uy quyền làm hại bao đời đàn bà, con
gái. Cách yêu của hắn bình tĩnh nhưng mãnh liệt khiến em càng thấy tởm, tởm và
căm thù, vì đó là một thái độ vô cùng ngạo mạn, tựa như không phải là hắn hưởng
thụ mà chính là hắn nhắm mắt thản nhiên ban hạnh phúc cho em, tựa như dĩ nhiên
là em có bổn phận với hắn như vậy. Chó má thật!
Kha cựa mình và hơi dướn người lên, chàng nghĩ đến ông bạn
già - ông Cai - mỗi lần biểu lộ bất bình thường vẫn dùng đến tiếng đó. Quỳnh
Hương tiếp:
- Vâng, chó má thật kia anh ạ!
Kha thấy đôi mắt Quỳnh Hương còn sáng ngời vì tức giận rồi
nàng thở dài tì mạnh đầu lên vai Kha, cả sức nặng của thân thể như tụ lại ở đấy.
Đầu Quỳnh Hương tựa lên vai Kha như vậy khá lâu, im lặng, đôi
mắt nàng khép hờ trễ nải, đôi hàng riềm mi như có đổ bóng xuống, miệng hơi mỉm
cười, Kha bất giác cũng mỉm cười vì hình ảnh Quỳnh Hương lúc đó y hệt hình ảnh
một người tình còn được ôm ấp người tình ngay sau phút ái ân mà hương yêu còn
kéo đài. Bỗng Quỳnh Hương tìm cách cựa quậy ngã đầu ở thế thuận tiện nhất,
thoái mái nhất trên vai Kha. Cho là nàng mệt mỏi - mệt mỏi vì dĩ vãng - Kha hơi
nhoài người với tay tới contact tắt điện. Bàn giấy, chiếc block-notes, chiếc
phin diện, những tách men trắng đã cạn cà phê... tất cả những thứ đó vụt biến
cùng ánh sáng, khung cửa sổ vuông phía trước thùy mị hiện lên với những vệt chấn
song mơ hồ, đồng thời tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo trên tường cũng vừa
nổi bật lên tựa như bóng tối đã bất chợt chụp được hình nổi của chúng.
Quỳnh Hương cũng vừa thở phào thật mạnh như để trút hết bực dọc
rồi nói, giọng tỉnh táo như thường:
- Bóng tối dễ chịu quá anh nhỉ?
Đặt tay vuốt mái tóc Quỳnh Hương, Kha âu yếm đáp:
- Dễ chịu lắm, dễ chịu lắm!
- Anh Hãng chắc không về đây nữa anh nhỉ?
- Chắc Hãng về thẳng nhà!
Cả hai cùng yên lặng, vì cùng cảm thấy vừa bước tới ranh giới
vô hình của cuộc đàm thoại và chỉ thêm một lời vụng về không đúng lúc là có thể
làm đổ vỡ tất cả. Chính Kha lùi bước trước, chàng nói rất dễ dàng:
- Giọng em còn tỉnh táo lắm, em chưa buồn ngủ? Quỳnh Hương
làm hiệu lắm đầu.
Vẳng như có tiếng gió và tiếng lá rụng ngoài đường vọng lại
Tiếng một tắc xi vụt tới, vụt xa. Hơi khuya lạnh như cũng tràn vào nhiều cho
Kha thấy rõ hơi ấm tự người Quỳnh Hương tỏa ra quấn lấy chàng thành một tấm
khăn choàng vô hình.
Đồng bồ trên tường thong thả điểm ba tiếng.
- Em có nặng không anh? - Quỳnh Hương hỏi mà không phải là hỏi
đùa.
- Trong bóng tối - Kha đáp - em còn nhẹ lắm, còn mảnh mai lắm!
Tiếp tục kể chuyện em đi!
- Anh thích nghe em lắm sao?
- Thích chứ!
- Hừm!
- Em ở với hắn được bao lâu?
- Chừng một tháng!
- Anh cho như vậy là khá lâu đó.
- Đúng thế, em nhắm mắt chịu đựng để đợi ngày có căn cước sẽ
tính chuyện sau. Anh đừng tưởng “con dê già” không đề phòng điều đó, em phải
làm ra vẻ ngoan ngoãn chiều chuộng nó, làm ra vẻ không muốn rời nó nữa, thỉnh
thoảng em có nhắc khéo đến việc đó nhưng rồi lại làm như lúc nào hắn muốn giới
thiệu em sang Công an thì giới thiệu. Lúc này hắn đã để em ở nhà riêng tại một
phố vắng, em chỉ nằm trong dinh hắn có hai đêm, rồi vợ hắn về thì phải.
Ngừng lại khá lâu, Quỳnh Hương bỗng xoay câu chuyện đột ngột
hỏi Kha:
- Cái anh lúc nãy gặp ở tiệm phở là bạn các anh?
- Bạn thân!
- Hình như ở Hà Nội anh ấy đi thầu?
- Chính thị! - Giọng Kha hơi có vẻ khôi hài - Làm sao em biết
hắn?
- Em gặp anh ấy ở hãng bia Ô Men. Vừa có căn cước, em đến
hãng bia Ô Men ngay, điều đình xin một chân đại lý. Gần tới hãng bia, em gặp
lính Bảo chính dẫn một cô gái trạc tuổi em về đồn Liễu Giai gần đấy. Họ vẫn thường
gặp cô gái nào ngon mắt là bắt tinh nghi, giữ lại trong đồn, qua đêm là hết
danh tiết. Vào trong hãng, cảnh đó diễn ra dưới một hình thức khác: thằng “xếp”
Tây ngang nhiên đùa cợt bằng... tay các nữ công nhân. Hãng bia lúc đó đã có máy
rửa chai, máy đóng bia vào chai, máy dán nhãn hiệu vào chai, số công nhân bị sa
thải nhiều lắm, các cô đành cắn răng chịu đựng để giữ lấy công ăn việc làm mà
nuôi thân hoặc nuôi cả gia đình. Anh cai người Việt đưa em đi thăm đây đó. Em gặp
bạn anh ở đấy.
- Chắc là dạo đó hắn trông coi công việc sửa chữa gì đó.
- Vâng, có những hầm bia cần phải sửa lại. Tên cai hẳn vì uống
nhiều bia hảo hạng mà mập, da đỏ, bụng cũng phệ như thằng cha thủ hiến. Bạn anh
tự trong một trou d’homme của hầm bia chui ra, nhảy xuống trước em. Chàng trai
lanh lẹ, cao, thon...
- Trời ơi, anh ghen!
- Thì cao thon như anh chứ sao! Cả hai cùng cười.
- Từ buổi tối thất thân - Quỳnh Hương tiếp - với tên thủ hiến
“mặt lợn bụng phệ”, em luôn luôn ao ước có người tình cao, thon, cho nên nhìn
dáng cao thon của bạn anh, em mơ ước tương lai có cửa hàng đại lý bia và được
là người vợ nhỏ bé thẹn thùng. Nhưng chẳng hiểu mải suy nghĩ tính toán điều gì
anh ta lướt mắt qua em mà dường như không thấy em chút nào. Anh ấy giờ đây làm
gì thế anh?
- Bác sĩ quân y.
- Trời ơi, chóng dữ! Ngày ấy còn đi thầu.
- Ngày ấy bạn anh đương học dở ngành Thuốc, vì mới hồi cư thiếu
tiền mà tạm đổi nghề.
- À vậy!
Kha hơi cúi đầu xuống, đôi môi mím vào một vành tai
Quỳnh Hương, hỏi đùa khẽ:
- Thế bây giờ còn yêu hắn không?
Quỳnh Hương hơi nghiêng mặt, nghển cổ hôn lướt trên môi Kha:
- Yêu anh là đủ rồi.
Cử chỉ đó của Quỳnh Hương thật nghệ thuật khiến Kha ngây người
trong bóng tối không biết nói sao. Có lẽ Quỳnh Hương biết vậy, Kha thấy nàng cười
run hai bờ vai. Chợt Quỳnh Hương bật cười thành tiếng, toàn thân nàng rung động
cùng tiếng cười lanh lảnh làm lay chuyển bóng tối. Vững tin ở mình, Kha không hề
bối rối, vì biết chắc không phải Quỳnh Hương cười về một cử chỉ sơ hở nào của
mình. Chàng bình tĩnh hỏi:
- Em cười gì thế?
Quỳnh Hương vẫn cười, hai tay Kha nắm chặt lấy hai bờ vai
Quỳnh Hương nhắc lại câu hỏi:
- Em cười gì thế?
Quỳnh Hương cố gắng lắm nín được một giây, nhưng chưa kịp trả
lời thì tiếng cười đã buột tung ra... Kha thấy Quỳnh Hươngđã gập người lại, tiếng
cười thành tắc nghẽn từng đợt... từng đợt... như chiếc chai cao cổ đầy ắp nước,
đổ dốc ngược. Kha ôm ngang Quỳnh Hương kéo thật sát lại gần, một lần nữa chàng
cúi xuống hỏi khẽ:
- Em cười gì thế?
Vẫn nhịp cười mãnh liệt, tắc nghẽn từng đợt.... tiếng cười dường
như làm bóng tối cũng hoang mang, bối rối, hoảng hốt... Vô tình bàn tay Kha quờ
lên má Quỳnh Hương. Trời ơi, nước mắt!
IV
- Em khóc ư, Quỳnh Hương?
Giọng hốt hoảng đó của Kha như trận mưa lạnh làm dịu trận lửa
cười, Quỳnh Hương khẽ lắc đầu giọng hổn hển đôi chút vì còn mệt:
- Không đâu anh, nghĩa là không phải sầu khổ mà em khóc, thật
là cười ra nước mắt anh nhỉ? Em đã không nín cười được vì sực nhớ đến sự tích một
con chó và thấy ở đấy sự tích của nhiều cảnh đời và sao không là sự tích của
chính em nữa? Nhưng thôi phải để em kể tuần tự chứ. Em nhất định tìm cách thoát
ly thằng cha thủ hiến mặt lợn bụng phệ, nhất là em đã liên lạc được với bà cô.
Người không buôn bán gì nữa, người ở một căn nhà nhỏ gần hồ Bảy Mẫu với rể và
con gái (anh chàng đã được thuyên chuyển tự Huế về Hà Nội). Trong khi đợi hãng
bia chấp thuận cho một cửa hàng đại lý, em tạm thời lánh mặt, đến ở với cô ngay
trong căn nhà nhỏ bên hồ Bảy Mẫu.
Kha cười thân ái:
- Quê anh gần đấy!
- Quê anh ở Kim Liên?
- Không. Xuống xe điện ở Kim Liên đi một quãng nhỏ nữa, thấy
một con đường đất khá lớn ở bên trái... Em kể tiếp đi!
- Trước khi đi em có để lại một bức thư cho “hắn”. Em nói thẳng
trong thư là không ưa hắn và không thích kéo dài cuộc sống đó thêm nữa, đằng
nào trước sau cũng chia rẽ thì chia rẽ sớm đi cho nhẹ! Ra đi em không mang theo
một đồ gì quý giá hắn mua để trang hoàng căn phòng em ở trừ mấy bộ quần áo và một
số Cône solubre du docteur Rundell, thứ tlluốc ngừa thụ thai thời đó. Thoạt em
chỉ ngại hắn cho công an truy nã, nhưng không, em thật quá lo xa, hắn đã thỏa,
ngót một tháng qua rồi còn gì. Hãng bia cũng chưa kịp chấp thuận cho em cửa
hàng đại lý thì em gặp François, đại úy trưởng phòng quân nhu, làm việc ngay
trong thành, ngày hai buổi đi di về về như công chức. Em gặp François vào một
buổi sớm trên bờ hồ Bảy Mẫu gần chỗ em ở với cô. Hắn cao thon, lịch thiệp, thứ
lịch thiệp đặc biệt của người Tây phương học thức đối với phái yếu. Hắn đương
thuê thuyền, sửa soạn đi săn vịt trời. Thoạt cùng em trao đổi vài lời giao tế rồi
hắn ngỏ lời mời em xuống thuyền, em vui vẻ xuống theo. Không hiểu sao em tin cẩn
hắn ngay tự buổi đầu, em đã không nhầm. Hắn bắt đầu chèo thuyền men theo hồ. Em
ở đây đã được hai tuần mà mãi tới hôm xuống thuyền đi săn với François em mới
như khám phá thấy cái đẹp hoang dại của hồ Bảy Mẫu chật ních sen Nhật Bản. Săn
tới trưa lèo tèo được vài con vịt trời, nhưng có hề gì, con mồi lớn hắn đã săn
được là em.
Quỳnh Hương bỗng bật cười:
- Em cũng chẳng hiểu là hắn săn được em hay em đã săn được hắn.
Rất có thể vì em vẫn ngại sự theo đuổi của tên thủ hiến mặt lợn và có ý muốn
nương dựa vào người Pháp lịch thiệp này mà em có cảm tình ngay từ buổi đầu. Đàn
bà thường ỷ vào trực giác của minh, ít chịu lý luận anh ạ.
Mặt trời vừa đứng bóng, hắn cho thuyền ghé sát bờ cỏ rậm dưới
gốc một cây gạo cao vòi vọi, phía trước mặt một bên là hồ, một bên là đồng lầy,
phía sau là con đường nhựa có đường xe điện nối liền Hà Nội với nhà thương
Robin, qua Kim Liên. Tuy con đường nhựa tượng trưng cho cuộc sống văn minh đó
chỉ cách chỗ em chừng năm chục thước mà sao em thấy nó là hình ảnh xa xôi của một
thế giới xa xôi nào. Xa xôi thật kia anh ạ, tiếng chuông xe điện keng keng, tiếng
ô tô hút gió vùn vụt vẳng lại mơ hồ, chỉ cần một con ong bò vẽ bay vùng lên vo
ve là lấp được những thứ tiếng đó; cánh bướm chập chờn, cánh chuồn chuồn chập
chờn cũng thu hút được hết ý nghĩ của em.
Giọng Quỳnh Hương bỗng lúng túng, không phải vì ngượng ngập
mà dường như vì không tìm được lời:
- Cảm tình của em với François thật là chóng lớn... chóng phồn
thịnh vào buổi đó. Hay là... hay là tại em chịu ảnh hưởng của khung cảnh quanh
em lúc đó, khung cảnh một trưa hè oi nồng, ba bề trước mặt là hồ và đầm lầy cỏ
rậm... vâng cỏ rậm... cỏ rậm mọc trên đầm lầy dưới ánh nắng hè thiêu đốt...
thiêu đốt...
Kha hiểu kỷ niệm này gợi lên còn làm Quỳnh Hương xúc động nhiều,
chàng tìm cách đỡ lời Quỳnh Hương bằng một giọng nửa trang nghiêm, nửa đùa rỡn:
- Mùi bùn bốc lên... cỏ úa rũ nát đè làm thức bón cho cỏ xanh
vươn lên cao vút, lá sắc mũi nhọn... và... và xuân tình đẫy sức, nắng khêu gợi
cái gì còn ngủ kỹ trong lòng em.
Như một đứa trẻ đương chập chững đi bỗng có người cầm tay vực,
Quỳnh Hương thốt lời reo vui:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Anh diễn đạt như thế mới đúng. Không có
màu gì hoang dại hơn, bất diệt hơn màu cỏ xanh vươn lên phủ lấy màu đen của bùn
lầy bên dưới và cũng không cái nắng nào hoang dại bằng nắng trên đầm lầy... nắng...nắng...
nắng...
- Và em thất thân với François!
- Thật ra, em còn gì đâu mà mất? Sau buổi đi săn vịt trời đó,
em về ở với François theo lời đề nghị của hắn. Dầu sao với François em còn được
hưởng tình yêu nhưng điều em thích nhất là khám phá thấy ở François một tâm trạng
không thực dân chút nào. Vì bị thương ở mặt trận Bắc Ninh, thành tật mất cánh
tay phải mà François được thuyên chuyển về giữ nhiệm vụ trưởng phòng quân nhu.
Em không hiểu khi còn chỉ huy một trung đội chiến đấu thì François đánh nhau ra
sao. Chắc là hắn cũng xục xạo tận tình theo đúng tinh thần trách nhiệm Tây
phương, nhưng hắn không ngớt lời ca ngợi cảnh hàng rào tre xanh vây quanh làng
Việt Nam và mỗi khi được lệnh cấp trên bắt chặt trụi đi hắn tiếc lắm. Hắn còn
thích ngắm con trâu đầm bùn, hắn bảo trông thật capricteux ! Hắn ưa đọc sách kể
cả khi còn ở bộ đội chiến đấu. Được chỉ định tới chỉ huy đồn nào là hắn cho
chuyển tới hòm sách lớn của hắn, em còn nhớ ngày đầu em về em thấy trên đầu giường
hắn cuốn Nourritures terrestres của André Gide. Khi đã biết rõ tâm tính hắn, em
mua tặng hắn vào dịp lễ sinh nhật cuốn Légendes des terres sereines của Phạm
Duy Khiêm. Mặc dầu hai đứa sống rất hòa thuận, có thể nói là rất yêu đương,
nhưng chẳng bao giờ em đả động đến đời tư của François để hiểu hắn đã có vợ con
bên chính quốc chưa. Sáu tháng qua, mãn hạn, François về nước, hai đứa chia tay
như hai người bạn. Đời em từ ngày gặp tên thủ hiến mặt lợn đã như con tàu bị bẻ
ghi nhầm và sự lạc hướng chẳng còn sao cứu được. Em hững hờ với hết thảy.
François về phép, em từ biệt bà cô ở Hà Nội, một mình xuống Hải Phòng mở tiệm
giải khát, ở đây em gặp Pierre, một tên tây lai. Tên này cũng là một thứ con
rơi, con vãi của một viên kỹ sư Pháp trông coi về kiều lộ cả Đông Dương. Mũi hắn
thật lõ, đôi mắt thật xanh, da đỏ hồng, ai thoạt trông cũng thấy là Tây trăm phần
trăm, vậy mà hắn ít nói tiếng Tây và nói thật dở, nhưng nói tiếng Việt thì hệt
như người Việt... hàng ngày ăn cơm Việt, hắn thích nhất hai món : canh cua và đậu
ráng. Có lẽ vì hắn được mẹ, một cô gái quê làm đồn điền, săn sóc từ bé. Khi cha
hắn - viên kỹ sư - chết, hắn vừa đến tuổi trưởng thành, vào làm phòng nhì,
tháng tháng lĩnh lương đem về đưa hết cho mẹ, rồi mới xin một ngàn để chi tiêu
vào việc du hí. Nhảy đầm và nuôi chó là hai đam mê lớn của hắn. Mẹ mất được ít
lâu thì gặp em, hắn khẩn khoản bảo em về với hắn và tháng tháng cũng đưa hết tiền
lương cho em, chỉ bớt lại một ngàn để chi tiêu về nhảy đầm và nuôi chó.
Lúc nãy em cười - Quỳnh Hương tiếp - là nhớ đến con chó
chien-loup mà Pierre gọi là Lu và cưng hết sức. Em cũng chỉ được hắn cưng bằng
con Lu là cùng.. Sau hiệp định Genève, em theo Pierre vào Nam ở tại Vũng Tàu, lẽ
cố nhiên hắn mang theo cả con chien-loup và cuốn sách gối đầu giường của hắn là
cuốn
”Votre chien” dạy cách nuôi chó. Em phải di cư theo Pierre bằng
đường thủy vì viên đại úy phi công Pháp cương quyết không cho con Lu theo chủ
lên Phi cơ. Ngay việc cho cho con Lu theo lên tàu thủy, Pierre cũng phải điều
đình chật vật lắm. Vào đến Vũng Tàu còn nhiều chuyện xảy ra quanh con Lu. Nếu
ít nói tiếng Tây với người, thì Pierre luôn luôn nói tiếng Tây với chó, vì thế
con chó càng có vẻ oai vệ dưới con mắt những gia đình me Tây khác và nhất là với
những người dân Việt ở xóm nhà lá gần đấy. Pierre không cần buộc dây mà con Lu
luôn luôn đi sát với chủ, nó không chạy loăng quăng, không ỉa bậy đái bậy,
không cắn bậy. Chưa bao giờ nó bị đòn, chưa bao giờ nó cúp đuôi chạy, tóm lại
dáng nó luôn luôn digne vô cùng, hàng xóm kiêng nể, lũ trẻ con cùng những người
phu ở xóm nhà lá thì vì sợ oai chủ mà quý lây cả chó. Một lần con Lu lừng lững
đi vào giữa đám chó bình dân quanh lối xóm, bất chợt lũ chó cắn nhau xô ngã Lu,
rất có thể cắn nhầm Lu nữa. Điều tai hại là sau đó mấy ngày Lu bị xưng bọng
đái, chảy nước vàng nhiều lắm, nó rên suốt đêm. Trong cuốn “Votre chien” không
dạy cách chữa bệnh hiểm nghèo đó, mà thú y thì ngoài Cấp không có. Pierre phải
xích cổ con Lu kéo rịt đầu nó sát tường để nó không vùng vẫy được, rồi pha thuốc
tím rửa bọng đái cho nó, rồi rắc bột sulfamide lên, rồi pha sữa hòa với Dagénan
tán nhỏ cho nó uống để tiêu mủ... Con Lu khỏi! Một tuần liền em phải nấu cháo
thịt bò cho nó ăn giả bữa. Chính phủ Việt Nam lần lần thâu hồi toàn vẹn quyền
bính, báo chí Việt Nam suốt hai năm 1954-1955 luôn luôn sáng suốt tố cáo mọi
hành động ngoan cố của thực dân Pháp. Rồi những chuyến tàu hồi Hương: lính Pháp
hồi hương, công chức Pháp hồi hương, Pháp lai hồi hương, mang theo cả bầu đoàn
thê tử của họ trong đó có một số đàn bà Việt. Pierre muốn chính thức hóa cuộc
hôn nhân và đem theo em về Pháp vào dịp này, nhưng em từ chối. Em đã ngừa kỹ việc
thụ thai, nước nhà lại đương tưng bừng trong bầu không khí xây dựng độc lập, việc
ra đi với hắn chẳng có gì là quyến rũ. Hắn ra đi một mình. Hắn có viết thư cho
em mấy bận, hắn kể về đến Marseille, ngụ ở đường Can- nebière, còn chứng kiến một
cuộc đấu khẩu giữa một cựu quân nhân Pháp vừa mới từ Việt Nam về với một người
đồng hương của y hiện làm phu khuân vác ở bến tàu. Người quân nhân thì bảo những
người Pháp chết ở Điện Biên Phủ là bảo vệ màu cờ vinh quang của nước Pháp; người
phu khuân vác thì bảo “lũ lính đánh thuê” đó chết là đáng đời và cuộc chiến
tranh ở Việt Nam là cuộc chiến tranh đầy ô nhục. Trước đấy hơn một năm, cả
Marseille nhan nhản những bích chương vẽ cái tàu có hai cầu, một cầu lính Pháp
xếp hàng đi lên, một cầu quan tài khiêng xuống và bên dưới hàng chữ in đậm nét:
PAIX AU VIET NAM. Cuộc đấu khẩu đó đưa đến ẩu đả, cảnh binh phải can thiệp.
- Pierre về Pháp, em làm ca sĩ từ đấy? Quỳnh Hương lắc đầu:
- Không, còn qua nhiều “cầu đoạn trường” nữa anh ơi. Thoạt em
bực bội về con Lu quá. Nó quen mùi như hồi còn
Pierre, cứ nhảy lên giường em, một lần em quất cho mấy roi, từ
đấy hễ thấy em cầm roi quát là nó đã biết cúp đuôi chạy. Một nhà sản xuất phim
Việt Nam làm quen với em trên bãi biển Cấp, muốn giới thiệu em làm nữ tài tử điện
ảnh. Em để con Lu cho một gia đình Việt hàng xóm nuôi, rồi đi Sài Gòn làm...
tài tử điện
ảnh. Em đã đóng phim đầu tiên của miền Nam nước Việt nói về
cuộc di cư của tám mươi vặn đồng bào miền Bắc. Để được lăng xê thành tài tử em
cũng phải chịu mất mát ít nhiều, anh hiểu hai chữ mất mát ?
Kha cười rung động hai vai, xoa mạnh đầu Quỳnh Hương:
- Mất mát bản thân!
- Nhưng ça vaut la peine anh ạ, anh còn nhớ phim em đóng đó!
Những phim Việt Nam sau này chưa phim nào ăn đứt nó, không kể những phim dở tuồng,
dở cải lương mà báo chí ở đây đã chửi bới nhiều. Em thích đóng phim anh ạ, tiếc
thay sau phim đó thì anh bạn giai em chết, các nhà tư bản Việt Nam làm phim rẻ
tiền, hoặc chuyển âm tiếng Việt những phim Nhật, Ấn Độ.. Em trở về Cấp hùn vốn
với một người quen mở tiệm ăn Tây, một năm qua, tiệm lỗ vốn mất nửa.
Em lên ở hẳn Sài Gòn mở tiệm giải khát nhỏ ở Đa Kao. Thỉnh
thoảng nhớ đời tài tử đóng phim quá em lại đi chụp vài pose ảnh. Em
photogénique lắm kia, hôm nào anh lại chơi em cho anh xem một lô ảnh em chụp dạo
đó.
- Được lắm. Thế tiệm giải khát nhỏ của em ra sao?
- Lỗ vốn và lỗ vốn! Em bán lại cửa hàng, sang làm cho một Mỹ
viện. Cửa tiệm này cũng phải đóng cửa ba tháng sau vì ít khách quá. Hình như số
em là số trâu trắng đi đến đâu mất mùa đến đấy! Một lần về thăm Cấp em gặp lại
con Lu đã hoàn toàn bình dân hóa, nó đi lăng xăng giữa đám chó gầy ghẻ lở ra
chiều quen thuộc lắm; chính nó cũng gầy đi nhiều nhưng chưa ghẻ lở, đến bữa
cũng chạy về chực cơm như... ai. Con chó cái nhà hàng xóm đi đực với nó mới đẻ
ra một lũ vằn, lũ vện...
Quỳnh Hương cười, tiếng cười nhỏ dịu nhưng hai vai nàng rung
động mãnh liệt.
- Em mất liên lạc với Pierre? - Kha hỏi.
- Lá thơ cuối cùng, hắn cho biết hắn tòng quân sang Al-
gérie, rồi biệt vô âm tín. Em ngờ rằng không chết ở Việt Nam, hắn chết ở
Algérie vậy. Cho tròn nghĩa với thực dân!
Kha nhận thấy sau câu khôi hài đó Quỳnh Hương tuyệt nhiên
không thốt lên một tiếng cười nhỏ, mãi sau nàng nói tiếp:
- Không hiểu anh là đàn ông anh nghĩ sao, em là đàn bà em thấy
hết tin tưởng vào sự sáng suốt của con người. Đến như lũ chính khách thực dân
nói khéo thì thật là tởm. Bảo là chúng nói khéo thì cũng không đúng, lời chúng
nói đã thành formule rồi, ngu gì mà bảo là khéo?
Quỳnh Hương vươn vai...
Còn cần gì phải biết những giai đoạn kế tiếp trước khi
Quỳnh Hương thành ca sĩ ? Kha nghĩ vậy và chàng nói:
- Em mệt rồi đó, em ra giường nằm đi.
Quỳnh Hương đứng dậy tới ngả lưng ngay xuống giường, mặc
nguyên áo dài. Giọng nàng bỗng mệt mỏi hẳn:
- Em có nhớ câu con Bích Hương nói khi ở tiệm phở:
Chuyện dĩ vãng buồn sa nước mắt, Chuyện tương lai lạnh toát mồ
hôi.
Người chị dâu em đã tái giá và có thêm ba con nữa, gia đình
túng bấn. Em thương hai cháu quá, một đứa đã đến tuổi lên trung học rồi. Em vẫn
phải cưu mang đấy chớ, em túng thật nhưng nhịn may cái áo là giúp được các
cháu. Mà chị ấy nào có biết ơn em, tiền của em thì biết lấy, mà các cháu của em
thì chị cấm chúng không được nói chuyện lâu với em.
Kha chưa biết nói sao thì Quỳnh Hương đã bật cười, giọng cố
làm ra vui:
- Có thể rồi đây em lấy chồng. Không lấy anh được rồi, vì anh
đã có vợ!
Kha vẫn ngồi nguyên chỗ cũ và lời nói càng tắt ngấm ở cổ họng.
Chàng còn biết nói sao để an ủi Quỳnh Hương?
Đồng hồ trên tường điểm năm tiếng rãi rệ. Hai cánh cửa sổ
trên căn lầu ngay sát bên mở tung, ánh điện bung ra in chếch xuống, chui lọt
qua cửa sổ phòng giấy và in một vệt ngang dài lên giường Quỳnh Hương nằm Một vạt
áo hoa của nàng rủ xuống chấm đất. Có tiếng đánh răng xúc miệng: mấy học sinh ở
gác trọ bên đó đã dậy sửa soạn học bài. Lúc đó Kha mới cảm thấy mệt, chân tay bải
hoải, đầu choáng váng, tai ù, nghe xa xôi thấy tiếng xích lô, tiếng tắc xi bắt
đầu nhộn nhịp dần trong bầu không khí tinh khôi của ban mai cựa mình thức giấc.
Kha đứng dậy tiến lại vén vạt áo hoa lên giường, nhẹ nhàng tung chiếc chăn ở
chân giường đắp cho Quỳnh Hương từ cổ trở xuống. Đường nét Quỳnh Hương chỉ còn
mơ hồ sau lần dạ mỏng. Kha trở lại và nằm xuống divan.
Chương Tám
NỖI LÒNG TÔ THỊ
I
Có lẽ Kha chỉ gục ngủ chừng mươi phút thì Quỳnh
Hương sực tỉnh. Nàng thoạt bàng hoàng nhưng nàng nhớ ra ngay
nơi mình ngủ và hốt hoảng vùng dậy ngó nhìn qua cửa sổ. “May mắn, trời còn tối
mờ mờ, mình phải về ngay!”.
Nàng tự nhủ vậy. Về vào giờ này ngõ xóm còn vắng không gặp
ai, không những tia nhìn dị nghị, không những lời to nhỏ bất lợi.
Nàng ghi vội trên giấy mấy lời mời Hãng, Kha nếu có thể đến
thăm nàng theo địa chỉ ghi dưới và để lại trên bàn. Nàng mang chăn đắp lại cho
Kha rồi rón rén ra về.
Không khí ban mai mát lạnh. Nhà đối diện cũng đã bật đèn sáng,
mùng màn còn xô lệch, người vợ mang cà phê lại cho chồng khi đó đã ăn mặc tề chỉnh,
đầu đội mũ đỏ (mũ hiến binh). Tít phía xa, một tiệm ăn bên vỉa hè lửa quạt đỏ rực,
sửa soạn đón khách lao động. Có tiếng khạc nhổ lẫn với tiếng gà eo óc gáy. Xe
buýt hãng dệt đi đón công nhân phóng vút về phía ngoại vi châu thành, xe buýt
đô thành khởi hành chuyến đầu tiên còn vắng khách, và ngôi sao mai biêng biếc
sáng trên lùm một hàng me cao vút.
Quỳnh Hương lên một tắc xi và quả nhiên khi đi vào hẻm nàng
không gặp ai. Nàng rón bước lên thang gỗ và nhẹ nhàng mở khóa căn gác thuê. Đến
lúc đó nàng mới cảm thấy rã rời cơ thể, bải hoải chân tay, nàng cởi bỏ áo dài,
quần dài, rồi chẳng buồn bận đồ pyjama, nàng nằm lăn xuống giường nệm đắp lên
thân thể lần len nhẹ nhưng ấm và rộng thênh thang.
Đã bốn tháng nay Quỳnh Hương thuê được căn phòng lầu của chiếc
nhà vách ván này. Ngày đầu mới dọn đến đây Quỳnh Hương thích ngắm bè rau muống
mênh mông xanh rờn phía sau nhà. Nửa tháng sau, một chiều chủ nhật nàng ở trên
phố về thấy dân hẻm xôn xao, hỏi ra mới biết cơ quan y tế vừa vớt một xác người
từ phía cầu Bình Lợi theo con nước lên trôi vào sông đào và mắc lại ở bè rau muống.
Từ đấy Quỳnh Hương thấy hết hứng ngắm bè rau muống xanh.
Xóm Quỳnh Hương tuy thế mà không thuần giới lao động như ở
bên ngoài có vẻ. Có thể nói tới hai phần ba dân xóm thuộc giới trung lưu; tư chức
có người làm ở Bộ Quốc gia Giáo dục, có người làm ở Bộ Giao thông Công chánh.
Nhà họ ở nhỏ xinh nhưng sáng sủa sạch sẽ, thường có ít chậu cây cảnh bày phía
trước. Khoảng cuối hẻm giới lao động ở nhiều, đường hẻm khoảng này cũng bắt đầu
hẹp dần theo thế thót đuôi chuột do: nhà hai bên đua nhau làm lấn ra mặt đường.
Thành phần giới trung lưu đã nêu viễn tượng một cuộc hỏa hoạn mà xe cứu hỏa
không thể tiến sâu vào được để cứu gỡ kịp thời. Sau mỗi trận mưa lớn nước rềnh
ngập khoảng này, một vài giờ sau mới tiêu hết. Những người lao động ở đây thường
thường chồng làm thợ nề thợ mộc, hay phu khuân vác, vợ làm thạch đen, sương sâm
bán buôn. Có căn nhà nhỏ của thầy chích dạo gầy gò, thầy mới tới ở còn ít khách
lắm, thành thử thầy là người độc nhất lỡ cỡ giữa giới trung lưu và vô sản. Cũng
có tiệm chạp phô, tiệm ăn và tiệm sửa giày dép nữa. Đủ! Mấy ngày đầu khi Quỳnh
Hương mới tìm tới đây thuê được căn gác này, giới trung lưu nhìn nàng đầy vẻ
nghi kỵ, nhưng rồi ít lâu sau thấy nàng tuyệt đối ở một mình không dắt đàn ông
về, nhất là thấy nàng cũng hay nói chuyện với mấy người quanh đấy, cử chỉ niềm
nở lễ độ thì người ta bắt đầu nhìn nàng bằng con mắt bình thường. Chính khi ghi
địa chỉ của mình để mời Hãng và Kha thong thả lại chơi, Quỳnh Hương cũng đã dự
định nếu Hãng hay Kha có đến nàng sẽ mở tung ba bề cửa và tiếp đón thân kính
như tiếp đón anh ruột mình. Hàng xóm sẽ không thể bình phẩm hay dị nghị vào đâu
được.
Có một điều Quỳnh Hương vẫn thường hay tinh nghịch làm: gặp
chiều nào buồn quá - nhiều khi tự dưng vô cớ nàng thấy buồn vô hạn - nàng lại
đem phơi những đồ mặc trong lên giây thép hớ hênh dưới mái hiên, nàng chải xõa
mấy cụm tóc rủ về phía trước, phía sau bím ngược và kẹp gọn để hở cái cổ khỏe
và làn da cổ trắng muốt, rồi nàng ngồi xoay lưng ra cửa vờ cắm cúi đan hoặc đọc
sách đối diện với tấm gương phản chiếu rõ mặt đường bên dưới. Đó là giờ tan sở
chiều, các công, tư chức trong xóm thuộc giới trung lưu khi qua đấy đều kín đáo
ngước nhìn, kể cả thầy chích dạo gầy còm và túng bấn (có lẽ vì vậy mà trong
thâm tâm, xét về phương diện tinh thần, Quỳnh Hương vẫn liệt thầy vào giai cấp
trung lưu), còn những người lao động, họ như lũ người vượn mới xuống cây, tuy
đi trên hai chân mà đầu còn luôn luôn cúi nhìn xuống đất, dáng lật đật.
Quỳnh Hương khỏa thân (hay gần như thế) ngủ vùi dưới lần chăn
len nhẹ mà ấm được một giấc thì có tiếng ồn ào cãi nhau phía dưới đường. Chỉ mới
thoáng nghe, Quỳnh Hương cũng biết ngay là vợ chồng anh nghiện rượu đương gây
nhau, họ ở căn phòng gần bên xây lấn ra đường. Cặp vợ chồng này với đứa con gái
hơn mười tuổi mới tới đây chừng hai tuần mà khắp xóm đều biết, vì sáng nào, chiều
nào họ cũng chửi nhau, đánh nhau, lời họ vặc ra vừa thô tục vừa tức cười. Căn
phòng họ ở nhỏ xíu, một bề hai thước, một bề ba thước vừa đủ kê mấy tấm ván cho
hai vợ chồng nằm dọc và đứa con gái nằm ngửa dưới chân. Căn phòng vách ván lợp
tôn này cất lên chính là để làm nhà kho, người chủ - cũng thuộc giới lao động -
tham số tiền hai trăm một tháng mà cả xóm cùng chịu nạn rát tai.
Quỳnh Hương giật minh sực dậy khi tiếng chị vợ la:
- Trời đất quỷ thần ơi, uống tranh cả của con! Ai đời vợ đưa
tiền mua thức ăn sáng cho con, đem đi uống rượu!
Anh chồng không đến nỗi say mèm như bữa rượu chiều, còn biết
ngượng, nói lảng:
- Quần áo đấy mặc mẹ tao, ai hối mày đi giặt cho người ta chứ?
Tiếng chị vợ:
- Tối qua mày say mèm đái cả ra quần còn biểu không giặt để
thờ à? Ở đời ai cũng có lạc thú gia đình, huống chi mình đã già mà không có lạc
thú gia đình. Trời ơi, tôi đau đớn vô cùng, đau đớn vô số, mở cửa ra là khai thối.
- Thì... thì tao đã biểu mặc mẹ tao. Thôi... thôi tao còn
đánh xe đi kiếm khách chứ, buổi đầu tao đạp xích lô mà...
Ý chừng ngay sau đó anh chồng vội vã đạp xích lô đi nên không
thấy chị vợ lên tiếng nữa. Quỳnh Hương tung chăn, với lấy bộ đồ pyjama trên mắc,
bận vào rồi xuống giường ra mở tung cửa sổ. Mặt trời đã lên được một quan sào,
ánh nắng ban mai chiếu xiên vào phòng chơi chang. Vì tối hôm trước có mưa nên
mùi cống rãnh không bốc lên nồng nặc như mọi khi.
Quỳnh Hương mở cửa, xuống cầu thang gỗ mang theo khăn mặt,
bàn chải và thuốc đánh răng. Bà chủ nhà đứng dưới chân thang đon đả chào nàng
trước, không ai trong nhà ngờ nàng vừa mới về lúc mờ sớm. Đôi mắt còn cay xè, đầu
còn bốc nóng, mãi tới khi Quỳnh Hương gục mặt vào chậu nước đầy nàng mới thấy
thật dễ chịu và ý nghĩ đầu tiên của nàng ngay đó là câu nàng thầm hỏi:
- Liệu các anh ấy có đến thăm mình ở đây?
II
Liệu các anh ấy có đến thăm mình ở đây? - Liệu các anh ấy có
đến? - Chẳng biết ngày nào các anh ấy đến nhỉ? Ngày này qua ngày khác Quỳnh
Hương có ý mong Hãng, Kha tìm đến thăm nàng, nàng tự hỏi thầm như vậy hoài
hoài. Mỗi lần lên phố mua bán vài thứ, nàng thường lật đật về ngay chỉ sợ Hãng,
Kha đến thăm vào lúc đi vắng.
Về tới nhà, nàng nhè nhẹ mở cửa chăm chú nhìn xuống xem có
danh thiếp hoặc tờ giấy ghi chữ để lại, nhưng lần nào cũng thất vọng như lần
nào. Nàng không muốn đến, không dám đến thăm Hãng ở phòng giấy, nàng cảm thấy
nàng chỉ có bổn phận duy nhất chờ Hãng đến thăm mình ở nhà, và nàng chuẩn bị những
lọ nước hoa, những pose ảnh đẹp để khoe với hai người.
“Chẳng hiểu chiều nay thứ bảy các anh ấy có đến?” - “Chẳng hiểu
hôm nay chủ nhật các anh ấy có vui chân đến?” - Nhưng đã bao thứ bảy và chủ nhật
qua? Niềm hy vọng ấm cúng của nàng úa rụng. Cho tới một ngày kia, nàng không
dám hy vọng nữa. Nàng tủi thân, riêng với Hãng nàng không dám oán trách. Nàng
nghĩ là Hãng thương nàng và không nỡ đến thăm căn gác xép này, e nàng xấu hổ
“Anh đã nhầm anh Hãng - nàng nghĩ thầm vậy - với anh việc gì em xấu hổ?!”.
Nhưng với Kha, nàng giận hờn, nàng hối hận đã thổ lộ tâm sự với “con người đó”
nhưng ôn lại kỷ niệm buổi gặp gỡ, rồi đêm tâm sự’ có thể bất chợt nhớ đến bất cứ
cử chỉ nào, lời nói nào của Kha, nàng đều thấy mình không có lý do gì giận hờn
Kha. Đôi mắt Kha, đôi mắt có tia nhìn mãnh liệt nhưng dị kỳ êm ái như kẻ vung
thẳng tay lên mà chỉ chém xuống bằng... bóng gươm. Anh muốn tàn phá công trình
nghệ thuật đó bằng chính môi anh! - Quỳnh Hương sực dậy thấy chăn đắp ngang
mình, Kha ngủ gục trên divan kia. Không, Kha đâu có khinh nàng, con người đó
tình cảm quyết không thô bỉ, thái dộ quyết không kênh kiệu. “Tại sao mình cứ muốn
bắt hai anh ấy phải thực hiện điều mình thầm ước? Mình đã là người tình của Kha
đâu mà bắt anh ấy phải chung tình?” Quỳnh Hương đã hơn một lần hồi tâm tự trách
thầm như vậy.
Nàng đã là chiêu đãi viên ở New York Café đi đi về về bằng
vélo-solex. Nàng mua chiếc vélo mới toanh. Những buổi làm ở New York Café nàng
tới và về bằng vélo, vào những giờ hát thêm xen kẽ, nàng đi tắc xi. Qua tuần đầu
bỡ ngỡ, sang tuần thứ hai nàng nói và nghe tiếng Anh đã khá thạo. Nàng vốn
thông minh. Cũng suốt hai tuần đầu này, Quỳnh Hương có ý ngóng đợi Hãng, Kha tới
New York Café để rồi càng thất vọng.
“Thế là thế nào? Các anh ấy nghĩ gì về mình? Các anh ấy có
còn nghĩ đến mình không chứ?” Quỳnh Hương muốn gắt thầm thế.
Sự thực Quỳnh Hương đã nghĩ rất đúng về Hãng, Kha. Đi Hồng
Kông về, có một chủ nhật kia, ngủ trưa dậy nhìn đồng hồ tay, Hãng nghĩ: “Ba giờ
rồi, hẳn Quỳnh Hương đã dậy. Rồi Hãng đi rửa mặt chải đầu, thay đồ, lên xe,
nhưng khi xe qua Trương Minh Giảng, Hãng lại nhấn mạnh ga cho xe vút nhanh hơn
rồi rẽ sang đường Trương Tấn Bửu để quay trở về Sài Gòn đường Công Lý. Thương
Quỳnh Hương không muốn vào tìm gặp Quỳnh Hương trong xóm nghèo đó. Thế nào rồi
đây - chàng nghĩ - chẳng có lần bất chợt gặp Quỳnh Hương ở đường phố, chàng sẽ
niềm nở bảo Quỳnh Hương đi xi nê, trịnh trọng đưa Quỳnh Hương tới ăn ở tiệm
sang rồi đưa Quỳnh Hương về chỗ làm, như vậy đỡ khiến Quỳnh Hương bận lòng. Ý
nghĩ này cũng y hệt ý nghĩ của Kha. Kha không quên Quỳnh Hương nhưng Kha đinh
ninh rằng hay lang thang như chàng, thế nào cũng có khi bắt gặp Quỳnh Hương
ngoài phố, tới lúc đó hãy mời nàng đi đây đi đó, như vậy vừa tự nhiên vừa tỏ
thái độ biết trọng đời tư của nàng. Thâm tâm hai người đàn ông cùng nghĩ vậy mà
bề ngoài cả hai làm như quên khuấy Quỳnh Hương. Từ sau đêm để cho Kha và Quỳnh
Hương ở lại bàn giấy của mình, khi gặp lại Kha, Hãng không hề đả động hỏi xem
đêm đó dã xảy ra chuyện gì, mà Kha thì cũng giữ vẻ thản nhiên kể chuyện gia
đình Văn Hóa, hoặc nói những chuyện đâu đâu. Có một lần, phải, có một lần đôi bạn
hẹn gặp nhau ở bàn giấy để rồi cùng đi loăng quăng, tiếng radio nhà hàng xóm
đương rộn ràng bản Mambo Ý Đại Lợi, câu chuyện có lướt đến Quỳnh Hương. Hãng lựa
cravate thắt, Kha ngồi ghếch chân lên bàn thuật lại mấy nét đơn sơ về cuộc đời
Quỳnh Hương: diễn kịch kháng chiến, bị Lê dương bắt, bị tên Thủ hiến mặt lợn bụng
phệ cưỡng ép rồi François, rồi Pierre... Có vậy thôi rồi chuyển lẹ sang chuyện
khác tự nhiên như không. Có lẽ thâm tâm Hãng đinh ninh là sau đó tất... có chuyện,
mà Kha cũng chưa quan tâm nói đôi lời gián tiếp cải chính.
III
Đương nằm dài trên giường, nghe thấy tiếng chửi thề cãi lộn
bên hàng xóm, Quỳnh Hương nhìn đồng hồ, mới sáu giờ rưỡi chiều mà anh chàng đã
say rồi, hôm nay say sớm. Quỳnh Hương vùng dậy ra ngồi bàn trang điểm, nàng quyết
định lên phố sớm ăn cơm tiệm trên đó, đợi giờ vào làm ở New York Café.
Trời đất quỷ thần ơi, giỗ ba tao, tao bày hoa quả cúng giữa
trời, tuần nhang chưa cháy hết nửa, mày đã hạ đồ xuống nhậu, trời ơi là Trời!
Tiếng anh chồng đáp gọn:
- Tao đ. cần Trời!
- Mày chửi trời nên trời phạt mày bệ rạc thế này.
- Ờ tao vẫn bảo ông đánh chết tao đi, ổng không chịu đánh.
- Ổng không đánh chết mày nên tao mới khổ thế này.
- Bởi zậy!
- Trời đất quỷ thần ơi tại sao mày không đi mần? Một mình tao
mần sao đặng.
(Mụ nhận đồ khâu thuê vá mướn quanh quẩn vài hẻm gần đây)
- Tao đã thử đạp xích lô rồi đấy?
- Mày đạp một quãng ngoài đường lộ, mày ngủ một giấc dài dưới
gốc me ngoài đường lộ rồi đạp xe zề, mày có mần gì đâu? Mất không hai chục bạc
thuê ngày đó! trọi!
- Ờ đúng đấy, với tao bây giờ ngày nào cũng chủ nhật ráo
- Trời đất quỷ thần ơi, còn ai zô liêm sĩ hơn mày nữa không
kia chứ, mảy !
- Này này trước còn ông già mày tao phải vì nể một chút, bây
giờ ông già mày chết rồi tao không ngán ai ráo trọi!
Lần đầu tiên Quỳnh Hương nghe tiếng đứa con gái nhỏ lên tiếng:
- Thôi đừng la lối um sùm, rầu quá Trời!
- Mày nói chi ranh con? A mày đang đọc sách hả? Dóc tổ! Năm
hai ngàn tận thế mà năm nay đã min nớp săng xóa săng tiêng (1961) rồi, học chi?
Kìa như nước Tàu theo hai chủ nghĩa, một quân chủ, một dân chủ (!), chết mẹ!
Hắn bỗng gầm lên với vợ:
- Đưa tao mượn mấy đồng ăn bát cháo. Tao mệt thấy bà, muốn xỉu!
Ăn bát cháo tự sớm mơi đến giờ, đ. mẹ thiệt là nhẫn tâm! Đ. mẹ , tao cũng không
cần, ông cầm cha cái quần lấy hai chục đồng rồi ăn cho sung sướng rồi chết cho
rồi, ông quạu rồi đó! Ai biểu mày theo ông?
- Trời đất quỷ thần ơi, nhục nhã zô cùng, tao có thèm zề đâu?
Mày nắm, mày kéo mà mày quên a mảy? Trời đất, có khi nửa đêm rồi, nó cũng kiếm
chuyện chửi tôi goài, nó không cho tôi nghỉ ngơi.
- Xe kia mày đi đi. Tao nhớ tên ông già mày, đồ đĩ chó! Tao
đây đâu mười ba mười bốn a mảy, còn mày có giỏi lắm chỉ mười lăm, mười sáu chứ
gì? (Thực ra y với vợ y đồng niên). Tao uống rượu đã ba mươi hai năm, chơi bời
đủ thứ. Cái đêm mày gặp tao lần đầu tiên ha ha, tao còn nhớ rõ a mảy.
Hắn bèn tả,.. mặc cho vợ hắn vì ngượng, đạp và đấm hắn thùm
thụp, hắn ngã lăn chiêng. Lũ trẻ con nhà bình dân lối xóm xúm lại reo cười như
xem xiếc, những đứa lớn vì hiểu mà cười, những đứa nhỏ vì thấy những đứa lớn cười
mà cười theo. Giới trung lưu cực lực phản đối người chủ nhà đã vì tham hai trăm
bạc một tháng mà chứa chấp cặp vợ chồng này. Nghe đâu chủ nhà đã phải cam kết
là cuối tháng này thì đuổi đi.
Lại có tin một người trong giới trung lưu đã làm đơn đi trình
cảnh binh.
Y say lắm rồi, giọng y nhẹ thớt, tiếng nọ liền với tiếng kia
như một chuỗi viên tròn bằng bông lăn theo một triền dốc, vì vậy mà kể cả khi y
chửi thề hay hăm dọa nghe ra vẫn như có ẩn ý khôi hài. Khi Quỳnh Hương đạp Véo
solex ra khỏi ngõ xóm, tiếng anh chàng còn vẳng theo, lần này y mắng vợ theo điệu
vọng cổ hoài lang:
- Mày khóc mà là cừi mày cừi mà nước mất nhà tan!
IV
Gửi Vélo Solex ở sau rạp Eden, Quỳnh Hương thong thả đi xuyên
hẻm Eden ngang qua New York Cafe, nhưng còn hơn một tiếng nữa mới tới phiên
nàng làm việc nên nàng đi thẳng ra phía cửa lớn trước rạp Eden, rồi rẽ sang phải
thong thả đi theo vỉa hè đường Tự Do. Quỳnh Hương dự định lang thang một lát
như vậy, hôm nay là chiều thứ bảy may ra gặp Hãng hay Kha.
- Quỳnh Hương!
Quỳnh Hương giật mình quay lại, nàng thất vọng vì gười gọi
không phải Hãng, chẳng phải Kha, mà là Kiến, nhưng Quỳnh Hương cũng giữ được vẻ
niềm nở:
- Chào anh.
- Chào Quỳnh Hương hôm nay bận toàn hàng đen đẹp lắm.
- Vậy a anh? Hàng crêpe đấy anh ạ.
- Da em trắng, người em chắc lẳn, em bận hàng crêpe đen trông
nổi vô cùng.
Nghe giọng nói thiết tha của Kiến, Quỳnh Hương đưa mắt nhìn y
riễu cợt, sự thèm thuồng của y đạt tới tối cao độ đã từ lâu, y vẫn chưa được thỏa
mãn. “Cái giống đàn ông thuộc loại này như vậy - Quỳnh Hương nghĩ thầm - mình
chỉ có thể kiêu với họ khi họ chưa chiếm đoạt được mình”.
Hai người đi ngang qua tiệm giải khát Givral, Kiến kéo Quỳnh
Hương sang đường. Xe hơi đủ các kiểu đỗ dọc theo con đường nhỏ quanh co ngay
sát bên Nhà Hát Lớn, nay biết thành Quốc Hội.
- Anh đưa em đi đâu thế này?
- Vào phòng perroquet với anh.
- Phòng Perroquet của khách sạn Continental này?
- Đúng! Hôm nay Phòng Thông tin Hoa Kỳ mở cuộc tiếp tân ở đấy,
họ trưng bày mười hai họa phẩm của mười hai họa sĩ Việt Nam tượng trưng cho mười
hai tháng mà họ sẽ in lên mười hai tờ lịch năm tới.
Quỳnh Hương dừng lại đưa mắt ngần ngại lặng ngắm đám quan
khách quốc tế Việt, Mỹ, Pháp... chưng diện bảnh bao, nam thanh nữ tú. Nàng hỏi
Kiến:
- Em vào làm đồ trang điểm cho anh?
- Em hỏi câu đó để trách thì không nên, còn đi với ai em chẳng
là một thứ trang điểm rất kiêu sa cho người đó, anh rất hãnh diện được có em
bên cạnh. Vào đi em! Đủ các giới hành chính, luật pháp, văn nghệ sĩ, giáo sư...
tai mắt. “Văn nghệ sĩ? Cứ vào may gặp Kha!” Quỳnh Hương nghĩ thầm thế rồi theo
Kiến tiến thêm mấy bước để cùng rẽ vào phòng Perroquet.
“Con bạn” của Quỳnh Hương đi xe Mỹ, gửi tiền ở Quốc gia Ngân
hàng chính là được ba Kiến bao... Vì biết rõ “xuất xứ” của Kiến như vậy nên Quỳnh
Hương mời rắp tâm “hành” Kiến cho hả. Kiến hiện tập sự luật sư năm thứ nhất.
Còn trẻ, lại giầu có danh vọng, y chưa kết hôn với ai, y muốn chơi cho đã rồi mới
tính chuyện vợ con sau. Kiến mê Quỳnh Hương bởi cái đẹp vẫn trắng trẻo mà vẫn
khỏe mạnh của nàng; sự trắng trẻo đã khêu gợi, sự khỏe mạnh với thân hình chắc
lẳn còn khêu gợi đến điên cuồng. Vị trí xã hội không cho phép y được xàm xỡ một
cách hạ cấp với Quỳnh Hương mà chỉ vờn như ếch vờn hoa để đợi ngày... Y chiều
Quỳnh Hương đủ thứ, mời Quỳnh Hương tới ăn những tiệm sang nhất, thường đón Quỳnh
Hương vào những cachet cuối cùng ở China Doll rồi đưa Quỳnh Hương lên sân thượng
Bồng Lai ăn cháo gà, crème de volaille, sau đó đôi lần ướm rủ nàng cùng lại căn
phòng building E., nàng không chịu, y ngoan ngoãn đưa nàng về đến tận đầu hẻm.
Một lần y gạn hỏi Quỳnh Hương ở căn nhà nào trong đó, Quỳnh Hương chỉ mỉm cười
và lắc đầu. Một lần khác, nàng sắp xuống xe thì y giữ nàmg lại. Quỳnh Hương cảm
thấy cổ tay nàng bị cùm trong một khối sắt đúc. Kiến đã hữu ý dừng xe sát bên một
căn nhà ba tầng đổ bóng xuống. “Cho phép anh hôn từ biệt em một cái chứ!” Dứt lời
y cúi xuống tìm môi nàng hung hãn tưởng đến nghẹt thở. Trước khi buông tay, y
còn cúi xuống thấp hơn ngoặc vào khoảng ngực bên trái. Quỳnh Hương bậm môi. (Về
tới nhà thay đồ lên giường ngủ, vệt răng còn in hẳn trên khoảng đó). Tuy vậy mà
lúc đó trước khi đi khuất vào bóng tối nàng cũng giơ tay vẫy cho Kiến dịu dàng,
cố tình trêu y cho đến nẫu người. Kiến nhấn mạnh chân ga, máy rú lên và chiếc
Floride décapotable chồm lên như con thú bất kham tung bốn vó muốn đá lật nhào
bóng tối. Cái hôn đục ngầu dục vọng của y làm nàng nhớ đến tên thủ hiến Phùng
Văn G. ngày nào và nàng mỉm cười đắc thắng. Dầu sao Tiến cũng để lại trên môi
nàng một cảm giác dễ chịu: y còn trẻ! Y hiểu đàn bà sao bằng Quỳnh Hương hiểu
đàn ông, loại đàn ông như Phùng Văn G. như cha con y. Mấy lần sau, mỗi khi tiến
sát bên nàng, hoặc nắm tay nàng, hoặc quàng ngang lưng, nàng thấy nhịp thở y
khi thì nghẹn ngào khi thì hổn hển.
Quỳnh Hương cũng rắp tâm sẽ... “cho” y cho xong chuyện, vì quả
tình y đối với nàng đã quá hậu, thì nàng gặp lại Hãng và do đấy quen Kha. Qua một
đêm tâm sự với Kha nàng hết sức tránh Kiến và chờ đợi Hãng Kha đến thăm mình.
Gian phòng Peerroquet chiều nay tưng bừng hẳn. Mấy nhân viên
phòng Thông tin Mỹ ăn mặc tề chỉnh cúi chào và bắt tay các quan khách. Khoảng
tường dài phía trong cùng treo mười hai họa phẩm Việt Nam, sơn dầu có, tranh lụa
có, sơn mài có...
Phía trái là quầy rượu, những anh bồi, quần áo trắng toát
thêu nhãn hiệu đỏ phía trước ngực, đi đi lại lại với khay đồ uống, hoặc khay
bánh mặn, bánh ngọt xinh xinh. Giới giáo sư mà đứng được thành một nhóm thuần
túy thì lời ăn tiếng nói dẽ dàng mô phạm hơn cả, nếu có xen văn nghệ sĩ vào, hoặc
nhóm đó thuần túy văn nghệ sĩ thì họ ăn nói oang oang ngổ ngáo (kể cả khi trong
nhóm có bóng đẹp.) Những người của chính quyền kín đáo đứng với nhau, đôi khi một
người Pháp, hoặc Mỹ quen họ thân hay sơ vô tình qua đó, đôi bên bắt tay, chào hỏi,
giới thiệu nhau với tất cả vẻ xã giao thời thượng. Gian phòng đã khá đông và
khá ồn ào, đề tài đủ các loại, khi thì bằng giọng giải tỏa một niềm u uất ôm
trong lòng đã từ lâu, khi thì bằng giọng bột chộp gặp đâu nói đấy.
Kiến và Quỳnh Hương đủng đỉnh tới giữa phòng. Kiến gia nhập
nhóm các luật gia và giới thiệu Quỳnh Hương với các bạn đồng nghiệp là “con
chim sơn ca của China Doll.” Mấy luật gia này đều đã đứng tuổi thuộc loại “chân
chỉ hạt bột” chỉ biết đi xi nê, ít tới phòng trà hoặc tiệm nhảy, họ cúi chào Quỳnh
Hương khá trịnh trọng. Người bồi bưng khay đồ uống tới, Kiến loại những ly màu
vàng của nước cam, màu nâu sẫm bóng của Co- ca-Cola và tự ý chọn hai ly màu
cánh gián khá sẫm.
- Anh định đầu độc em bằng Whisky? Quỳnh Hương cười hỏi đùa
Kiến.
- Cứ say đi em, không đi được đã có anh bế ra xe. Đứng sát
bên là nhóm văn nghệ sĩ. Một người nói:
- Dạo Bình Xuyên bắn phá, Sài Gòn mất liên lạc với Côn Sơn, con
ông Trưởng chi Thông tin đau gần chết vì không có thuốc.
- Cậu vừa theo phái đoàn báo chí ra thăm ngoài ấy?
- Ừ, đi bằng giang hạm mất đến 24 tiếng đồng hồ. Ở ngoải công
chức thường có bốn tội nhân hầu hạ. Những tội nhân bị chung thân cấm cố thì trồng
dứa, trồng rau, nuôi xúc vật làm lương thực bán. Cách chào lật nón hô: “Đả đảo
Hồ Chí Minh!”
Một văn nghệ sĩ hoặc giả là không ưa chính trị hoặc giả không
thích nghe chuyện tù đày với những hình thức giả tạo, những cưỡng ép mất nhân
cách, bèn nhăn mặt phản đối:
- Thôi cậu xếp lại chuyện đó cho bài phóng sự của riêng cậu
trong kỳ báo sau!
Một văn nghệ sĩ trẻ tuổi khác nắm luôn lấy cơ hội trống trơn
đó để thao thao giải tỏ niềm u uất của mình:
- Tôi hỏi các cậu có đồng ý là mình nặng mặc cảm tự ti quá
không. Mẹ kiếp văn nghệ là sự sống, còn sự sống nào gian nan và phong phú bằng
sự sống của người Việt mình sốt dẻo nhất hãy kể tới những ngày kháng chiến rồi
từ ngày di cư đến nay. Tôi nói thật với các cậu đ.m tôi đi, quốc tế gì hết, bởi
một lẽ giản dị là làm đ., gì ra thứ văn chương quốc tế thuần túy. Nhà văn nào
thì cũng là nhà văn dân tộc đã, nhà văn của hoàn cảnh dân tộc họ. Ông Nguyễn Du
ông ấy đâu có cần là nhà thơ quốc tế, ông ấy là nhà thơ dân tộc, rồi quốc tế phải
đến mà tìm hiểu ông ấy.
Quỳnh Hương nhận thấy nhà văn họ Hứa đứng ở nhóm gần đấy, vì
thấy nhà văn trẻ tuổi kia nói hăng quá nên lừng lững sang nhập bọn, tay lắc lắc
ly Whisky cho đá va vào thành lanh canh, và họ Hứa góp ý kiến ngay, giọng nói
làm ra bộ đứng đắn nhưng ai cũng biết có cái gì đứng đắn trên đời này với họ Hứa
:
- Ừ phải, quốc tế đ. gì!
Nhà văn trẻ tuổi (cũng là chỗ quen biết cả) bắt lấy lời đó:
- Có phải không anh? Cố ngắc ngư nuốt cho có vị vài “quốc tế”
rồi ngợi ca, có đứa ngợi ca một cách rúm ró đến như không dám có nhân cách nữa,
rồi trích dẫn này nọ... Hót phân!? Xin lỗi các cậu tôi mệnh danh thái độ ấy là
thái độ hót phân thiên hạ!! Nếu nhiều sản phẩm loại đó cứ lẳng lặng dịch ra tiếng
Việt rồi ký một tên Việt Nam bên dưới, chính họ, họ sẽ chửi bằng thích! Bồ Tùng
Linh chết vào niên hiệu Khang Hi thứ năm mươi tư chứ gì? Tức là đầu thế kỷ thứ
mười tám chứ gì? Mình thì tiền bán thế kỷ mười sáu đã có Nguyễn Dữ viết Truyền
Kỳ Mạn Lục rồi. Vô phúc mà Nguyễn Dữ nhà mình chỉ sinh trước Bồ Tùng Linh chừng
mươi mười lăm năm, dám đổ cho Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của Bồ Tùng Linh lắm ạ.
Thế là cái chó gì!
Họ Hứa nhìn nghiêng nhà vua trẻ tuổi tay vẫn lắc lắc ly
Whisky dặng hắng khẽ, có tiếng róc đờm quen thuộc trong cổ họng, và hỏi bằng giọng
vẫn cứ điềm đạm như không:
- Này chắc là cuốn tiểu thuyết mới xuất bản của cậu bán đ. chạy
chứ gì.
Nhà văn trẻ chỉ cười vì chẳng lạ gì tính khí thường xuyên
khôi hài và hay sỏ ngọt của họ Hứa.
Thường như vậy, khi họ Hứa đã góp chuyện bao giờ đám đông
cũng được cười hỉ hả, không ác ý. Chính Kha đã nhận định là mỗi khi nói chuyện
với Luận hay với họ Hứa hay với cả hai cùng một lúc, ai nấy có cảm tưởng vào một
club khoả thân, quần áo tung hê cả, tồng ngồng với thiên nhiên, cho da thịt trực
tiếp với khí trời, khoái lạ. Nhiều mầm non văn nghệ cho việc được nói chuyện với
họ Hứa là một vạn hạnh, họ Hứa có bốp chát - mà họ Hứa thì bốp chát luôn - họ
cười hềnh hệch lấy đó làm một vinh hạnh nữa.
Một mầm non tay cầm ly birley đến bên họ Hứa cười cười. Họ Hứa
mặt đỏ gay làm bộ nghiêm trừng mắt:
- Anh cười đ. gì tôi. Mầm non vẫn cười:
- Thế nào đại ca có viết thêm cái gì mới? Họ Hứa không đáp
vào câu đó, tiếp:
- Anh không nên uống birley mà chỉ nên uống sữa!
Một người cao lớn ập tới tay cũng một ly whisky nói như hét:
- Họ Hứa!
Quỳnh Hương hơi né mình cho lấp sau chiếc cột tròn lớn giữa
phòng vì người đó chính là Luận. Nàng nghĩ thầm: “Quái Luận đến mà sao anh Kha
không đến”. Tiếng họ Hứa nói với Luận:
- Tôi đ. nói chuyện với anh! Đ. mẹ anh đ. phải là người! Tiếng
Luận:
- Đ. mẹ, lại dở chứng gì thế?
- Bởi tôi một vợ sáu con mà anh chưa vợ. Cái thằng mà
“người” nhất, ấy phải là thằng có vợ và nhiều con.
- Ha ha thế đấy, bố hì hục sáng tác ra con, rồi con nó dạy bố
thành người, ờ ờ mà phải, mẹ kiếp cứ đẻ cho lắm như mày rồi một mặt hò hét, một
mặt lo chạy gạo nuôi chúng nó cũng đủ “người” quá đi rồi.
- Chứ không ư. Có thằng bảo tao “chỉ dân hậu tiến mới đẻ nhiều,
tao đ. m, ông hậu tiến ông đẻ sáu con, ông văn minh ông còn đẻ gấp đôi số đó. Đất
đai nước mình thừa đủ nuôi bảy chục triệu dân, sao không đẻ? Mà đ.m. điều này
tao nói thật chứ đ. nói đùa đâu ạ, chính A-Nam mình lại càng phải đẻ nhiều để dự
trữ, đ.m. vị trí ở ngay cái ngã ba của các nền văn minh này bên tả nó xô vào,
bên hữu nó xô ra, bên trên nó xô xuống, bên dưới nó xô lên, đ.m, không nhiều dự
trữ có chầu tiêu ạ, chứ chúng mày đừng tưởng. Ha ha, ở cái nước A-Nam như mình
vấn đề đ. gì cũng đặc biệt!
Họ Hứa vỗ vai nhà văn trẻ khi nãy thao thao về việc “hót phân
thiên hạ” và tiếp:
- Dư luận quốc tế cho rằng dân số phải đạt tới một trăm triệu
trở lên mới có khả năng làm bom nguyên tử. Đ.m bom nguyên tử làm đ. gì. Cậu
tính xem, dân mình chỉ cần bảy mươi triệu là sách của cậu mỗi lần in ra cũng
bán ít nhất được năm chục ngàn, thế có phải là sống không. Rồi bảy mươi triệu
dân nó ca ngợi câu thì làm đ. gì còn sự kiện “hót phân thiên hạ” nữa.
Cả bọn lại cười ồ.
Một bóng trắng lướt qua: người đàn bà đẹp thùy mị đi bên chồng
bận đồ đen lịch sự. Câu chuyện cơ hồ chệch hướng như kim sắt ngửi thấy hơi nam
châm. Tiếng thì thầm:
- Thằng K. giám đốc hãng nhập cảng phim đấy. Vợ đẹp nõn thế
mà nó định ly dị để lấy một con nữ tài tử hạng bét đã lăng nhăng với trăm thằng
Việt có, ngoại quốc có. Hết khôn dồn đến dại!
- Về đi anh Kiến!
Thực ra Qụỳnh Hương muốn về ngay từ lúc nàng đã đảo mắt nhìn
khắp căn phòng lớn và không thấy có Hãng và Kha.
- Thì về!
Kiến đáp rồi cầm luôn cả ly whisky đã cạn nửa của Quỳnh Hương
và ly của chàng đã cạn hết đặt trả lên khay của một anh bồi vừa qua đấy. Ra tới
ngoài đường dáng Quỳnh Hương thảnh thơi hẳn. Kiến lẳng lặng theo nàng sang bên
kia vỉa hè đường Tự Do.
- Quỳnh Hương!
- Anh bảo gì cơ?
- Đi ăn với anh.
Quỳnh Hương nhìn đồng hồ:
- Em chỉ còn nửa tiếng đồng hồ nữa tới phiên làm.
- Em làm ở đâu?
- Ở New York Café ngay trong hẻm Eden đây, đã hai tuần!
- Thảo nào mấy lần anh đến China Doll khoảng mười hai giờ
khuya để đón em đều không gặp. Em có tới hát nhưng rồi lại về New York Café
ngay?
Quỳnh Hương gật đầu.
- Nửa giờ cũng còn kịp chán, chúng mình vào tiệm Papillon
vert ngay gần đây.
- Vâng thì đi.
Nhưng Quỳnh Hương bỗng đứng sững lại. Hai người khi đó đứng
ngay bên tiệm Givral. Nhìn qua cửa kính Quỳnh Hương cắn môi suy nghĩ một giây rồi
nói khẽ với Kiến:
- Chúng mình vào ăn những thức nhẹ trong Givral này, đến giờ
em chỉ việc sang New York Café cho tiện.
Quỳnh Hương không để Kiến kịp phát biểu ý kiến gì, nàng ẩn cửa
bước vào, lẹ làng tiến tới một chiếc bàn khuất sau chiếc cột gương. Sát bên kia
cột là một chiếc bàn xinh khác, một người đàn ông ngồi quay lưng lại đương thì
thầm nói chuyện với một thiếu nữ trẻ măng dáng còn e lệ lắm.
Người đàn ông đó là Hãng.
Căn phòng nhỏ của tiệm Givral hôm nay khá đông, nhiều đàn ông
hút thuốc lá, phòng lạnh mà nghẹt thở. Hãng quay lưng lại nên không thấy Quỳnh
Hương, và dù Hãng có ngồi đối diện cửa ra vào chàng cũng không nhìn thấy Quỳnh
Hương như thường, chàng còn mải cúi xuống thì thầm nói gì với cô gái. Quỳnh
Hương đã ngồi xuống khuất bên cột gương ló tai nghe rõ mà vẫn giữ được vẻ tự
nhiên như không. Kiến hỏi ý kiến nàng về mấy thức gọi, nàng gật đầu ưng thuận
cho xong chuyện. Bồi đã mang đến bàn Hãng hai ly kem hạnh nhân, màu xanh phớt.
Hai người cũng vừa mới gặp nhau thôi - Quỳnh Hương tự nhủ thầm
thế.
Hãng chăm chú nhìn thẳng vào khuôn mặt trái soan trắng mát của
người con gái trong khi cô lảng nhìn về phía cửa ra vào, ngượng ngùng. Không một
chút hồng của phấn, không một vệt đỏ của son, cô gái giữ nguyên vẻ đẹp mộc mạc
của một nữ sinh trung học, dù là ở tuổi đó cô hẳn đã bước qua ngưỡng cửa đại học.
Quỳnh Hương hơi cúi mặt làm bộ đăm chiêu để Kiến khỏi hỏi
chuyện. Sự thực Quỳnh Hương cảm thấy tâm hồn xa vắng, não nề, tuyệt vọng. Nàng
nhìn rõ nụ cười e lệ của cô gái, hàm răng trắng đều, bốn răng trước cửa phẳng,
hai răng nanh cũng không lấy gì làm nhọn lắm, điểm này - theo sách tướng - chứng
tỏ nàng không thuộc loại người nham hiểm.
- Áo Thu màu gì nhỉ? - tiếng Hãng hỏi khẽ.
Cô gái đáp khẽ quá chính Hãng nghe cũng không rõ phải hỏi lại:
- Thu bảo màu xanh gì kia?
Cô gái nhắc lại, giọng vẫn nhỏ lắm. Hãng gật gật đầu.
- Màu xanh rêu. Thu mặc màu xanh rêu thật hợp, nhũn nhặn, kín
đáo như chính Thu. Tóc Thu mà đi vào mưa còn đẹp biết mấy nữa.
Cô gái mỉm cười và cúi thấp hơn luống cuống như cơn gió mạnh
từ đâu ào đến và cành cây mềm xôn xao để rụng những hạt mưa lả tả.
Khiếp, đàn ông thời nay không ông nào là không biết tán gái -
Quỳnh Hương tự nghĩ thầm - cô gái tên là Thu, đúng vẻ đẹp trầm lặng của mùa thu
miền Bắc. Cô gái cũng là người miền Bắc? Giọng cô nói khẽ quá. Quỳnh Hương
không sao phân biệt được là giọng Nam hay giọng Bắc. Mái tóc đẹp thật, rất mềm,
xõa xuống ngang vai, không uốn một chút nào chỉ khẽ cúi đầu là mái tóc xỏa xuống
che hai bên má, nũng nịu.
- Em ăn đi chứ - Kiến nhắc khẽ, không ngờ gì hết.
- Vâng em ăn.
Hãng vẫy bồi, trả tiền, Quỳnh Hương cầm muỗng, ồ crème de
volaille! Một khay sandwich gà vừa mang tới.
- Andouillettes grillées với cresson đâu? - Kiến hỏi anh bồi.
- Dạ sắp mang lại.
- Súp gà ăn được chứ em? - Giọng Kiến âu yếm.
- Ngon lắm anh ạ - Quỳnh Hương đáp rất khẽ.
- Ly vang của em!
- Ồ cả vang nữa nhỉ.
Quỳnh Hương vẫn ngồi thẳng người, mặt nàng hoàn toàn lấp sau
cột gương. Hãng cùng cô gái đứng đậy đi ra.
Quỳnh Hương thở phào.
Lúc ăn xong đã trả tiền, Kiến nói với Quỳnh Hương:
- Anh đến ngồi với em trong New York Café một lúc nhé.
- Tùy anh... nhưng thôi anh nên đi về, hôm khác hãy lại.
- Mười hai giờ anh tới đón em vậy nhé.
- Để hôm khác đi, hôm nay em đã có Véo solex.
- Tên cao bồi nào đèo em?
- Véo của em mới mua đấy chứ.
Cả hai cùng cười. Chia tay ngay trước cửa Givral, Quỳnh
Hương còn đãi lại một câu cho Kiến đỡ thất vọng:
- Rồi một hôm nào đó anh sẽ đến New York Café với em. Lần đầu
tiên Quỳnh Hương cảm thấy thương hại Kiến.
Hay nàng thương nàng? Mười hai giờ khuya, rời New York Café,
chiếc Vélo solex bon bon trên đường về rồi rẽ vào hẻm, đường hẻm gồ ghề và tối
om, nhưng chiếc vélo vẫn nổ máy tiến đều, nàng thuộc lối về như con ngựa già đã
chán đường thiên lý. Giấc ngủ đêm đó nàng mơ thấy đi qua phòng giấy của Hãng và
bất chợt thấy cô nữ sinh tóc mềm mặc áo xanh rêu mở cửa sổ, ánh đèn bên trong hắt
ra và nàng nghĩ thầm “con ranh con vào nhà anh ấy làm gì, tự lúc nào, mà cửa sổ
đóng ?” Giấc ngủ mệt nhọc...
Vẫn tiếng vợ chồng anh nghiện rượu đánh thức nàng dậy. Tiếng
chị vợ chu chéo:
- Nó cầm mất của tôi hai cái áo dài, hai cái quần! Không mày
cầm thì ai? Chó đẻ nào nằm đây?
Tiếng anh chồng đã nhẹ thớt, say bí tỉ rồi:
- Đ. mẹ, tao thì chu di tam tộc nhà mày, mày tao còn bán nữa
là áo với quần, một đồng hay năm cắc ông cũng bán để nhậu.
Chị vợ sấn đến vừa đạp vừa la:
- Mày cầm cho ai chỉ cho tao đi chuộc! Lần trước cái áo mới
tao may hai trăm bạc mày đi cầm lấy sáu chục?
- Ô hay sao kỳ zậy mày đấm tao goài, tao đá chết mẹ mày bây
giờ.
- Trời đất ơi say goài say gủy làm sao mà mần ăn đặng? Trông
kìa bò lê bò càng!
- Đĩ chó! Đ. mẹ tao chứ ai mà mày sủa? Khùng. Một thằng đi
chơi bậy thử máu ở Pát-tơ một trăm đồng, uống tám viên Tép- tô-my-xin hai mươi
bốn đồng năm cắc một viên, cứ cho ông tất cả, đủ tiền nuôi con rồi, việc gì ông
phải bán áo của con?
Quỳnh Hương mở cửa lơ đãng nhìn xuống đường. Chị vợ vút ra đi,
hẳn là để tìm nơi anh chồng vẫn mang tới cầm quần áo, chị bận đồ bà ba đen, đầu
trùm chiếc khăn trắng lớn bằng bông dệt.
Đã nhiều lần thoáng gặp như vậy mà Quỳnh Hương vẫn chưa thật
biết mặt chị. Anh chồng dáng người thật cao, lưng hơi gù, mặt dài và đỏ gay. (Nếu
không nghiện rượu, không bệ rạc và được ăn học hẳn hoi, khuôn mặt đó trông rất...
trí thức). Đứa con gái da đen ròn, khuôn mặt gọn, nó mặc chiếc áo đỏ. Thoạt Quỳnh
Hương cho là nó thích diêm dúa lắm, sau mới hay con bé chỉ còn cái áo đó, tối
ngủ mặc may-ô. Ba chiếc áo mới màu khác nhau, chẳng biết ba nó đã đem đi cầm
hay bán nơi đâu rồi.
Khoảng mười một giờ anh chồng tỉnh rượu xách thùng nước ra
trước cửa, dội từng lon nước lên người, kỳ cọ, tắm cho sạch. Thuở thiếu thời, y
hẳn thuộc một gia đình khá giả. Trong buồng, dưới mái tôn ngộp thở, đứa con gái
không chịu được nữa, lẳng lặng lấy chiếu ra trải bên chân tường dưới bao lơn
căn gác xép của Quỳnh Hương, nó vừa nằm vừa dở tờ nhật báo ra đọc những tiểu
thuyết in ở trang hai, trang ba, đôi mắt chăm chú nhưng gương mặt bình thản đến
gần như lạnh lùng không gợn một chút vui buồn.
Quỳnh Hương đi vào thế giới âm ti của những kỷ niệm nhơ nhớp.
Sống trong hoàn cảnh gia đình đó - nàng nghĩ - chỉ bốn năm nữa
vừa đến tuổi dậy thì, con bé sẽ chẳng thoát khỏi sự dòm ngó của một mụ Tú Bà
nào đó.
Quỳnh Hương biết chuyện hai chị em mồ côi kia ở với bà thím
góa chồng. Cô chị được lên Sài Gòn học. Nhân dịp đầu hè, em lên tìm chị, rủi gặp
một mụ Tú Bà, mụ nhận đưa giúp em đi, mụ đưa vào tên tàu buôn sáu mươi tuổi trong
Chợ Lớn. Giới thương gia con trời vẫn tin là kẻ chiếm hữu lần đầu một cô gái
trinh trắng sẽ gặp vận đỏ lớn. Mụ Tú Bà kiếm được hai vạn, cho con bé hai trăm.
Chị em gặp nhau, đưa nhau về Bến Tre. Con bé hốc hác, đêm hay thức giấc, đi tiểu
xót, rồi khóc âm thầm. Giang mai! Chị hiểu, vội vã hỏi thầy, hỏi thuốc chữa chạy
cho em khỏi, nhưng em sa ngã từ đấy, chị mang tiếng lây không lấy được chồng. Một
chàng Sở quyến rũ, ve vuốt. Bỏ rơi. Hai chị em cùng làm tiền, Quỳnh Hương quen
cô chị.
Chao ôi! chua xót?
Quỳnh Hương đã trang điểm xong xuống thang gác, đi ra cửa
không biết sẽ đi đâu. Nàng dừng lại trên vỉa xi măng nhìn xuống một căn nhà lụp
xụp bên dưới, đấy là cửa hàng sửa giày dép. Nàng xuống bực gạch. Một cô gái mặt
choắt, thân hình khô đét đương khâu khoảng rách một chiếc giày da. Quỳnh Hương
bảo cô đóng lại cho miếng cao su dưới gót guốc. Nàng muốn lợi dụng việc này để
đắm mình thêm trong bầu không khí âm phủ của kiếp sống. Nhìn sang bên cạnh cũng
một gian hẹp và lụp xụp như vậy là tiệm ăn, bày một ít la-de, coca-cola, cam
vàng, tôm khô, củ kiệu cùng một vài khổ thịt lợn đã luộc. Bên trong kê một chiếc
bàn vuông ghép bằng mấy miếng gỗ mộc đã cũ đen và nứt nẻ, khắp nơi trên bàn la
liệt những đũa mộc, chén đàn, thức nhắm rẻ tiền, quây quần xung quanh chiếc bàn
đó là năm người đàn ông đứng tuổi cùng gầy nhom đương thù tạc, hơi men như được
hun nóng dưới mái tôn chói lọi cho nở rộng để bốc ra tận chỗ Quỳnh Hương đứng.
Họ bỏ miền quê thiếu an ninh về đô thành sống chui rúc như chuột. Quỳnh Hương
ra khỏi hẻm gặp đường lớn nhìn thấy cơn mưa đen kịt phía chân trời xa. Nàng
đành quay về, cởi áo dài mặc nguyên áo lá uể oải ra tì tay lên bao lơn nhìn xuống.
Cơn mưa đen kịt phía Tây Nam nhưng bao lơn căn gác Quỳnh Hương ở nhìn về phía
Đông Bắc, trời đẹp không gợn một sợi mây, ánh sáng thảnh thơi trong suốt. Có tiếng
sấm ầm ỉ tiếng sấm từ phía Tây Nam sau nhà vọng lại.
Quỳnh Hương trở vào giường nằm mệt mỏi, hai tay kho- anh lại
làm gối gối đầu. Có biết bao những cuộc đời hai mặt, một mặt trông thấy thanh
bình như trời Đông Bắc ngoài kia, nhưng khoảng thật sâu trong tâm hồn là bão tố,
là chua xót, là bi đát của mặt Tây Nam khuất mái nhà, khuất chòm cây, chỉ có tiếng
sấm dồn dập vọng lại.
Có tiếng gõ cửa thoạt khẽ Quỳnh Hương không để ý, tiếng gõ cửa
mạnh hơn hòa cùng nhịp với tiếng sấm âm vang.
- Ai? -Quỳnh Hương hỏi xẵng.
- Anh! - Tiếng đáp sau cửa dịu dàng.
Quỳnh Hương ngồi bật lên như lò xo cùng với lời reo vui:
- Anh Hãng!
Cánh cửa mở toang do sức kéo cuống quít của Quỳnh Hương. Hãng
đứng nguyên chỗ cũ nhìn Quỳnh Hương mỉm cười, vẫn nụ cười bao dung dành riêng
cho Quỳnh Hương.
- Mời anh vô! Mời anh vô, anh Hãng!
- Bận áo dài vào đi theo anh!
- Theo anh?
- Ngay lập tức!
- Vâng em đi ngay.
Quỳnh Hương với chiếc áo dài trên mắc, mặc vội. Hai người
cùng xuống thang lầu.
- Anh vừa đến New York Café, bà chủ bảo chiều nay mới đến
phiên em làm.
- Đi đâu anh?
- Xe anh ngoài kia.
Có thế chứ, lẽ nào anh Hãng nỡ quên mình! - Quỳnh Hương nghĩ
thầm thế. Ra tới xe thoáng nhìn, Quỳnh Hương nhận ngay ra cô nữ sinh ngồi ở
Givral với Hãng chiều hôm qua.
- Em Thu! Em Quỳnh Hương! - Hãng giới thiệu vắn tắt. Hai người
đàn bà cúi chào nhau. Thu vẫn giữ nguyên vẻ thẹn thùng, hơi cúi mặt. Hãng tiếp:
- Quỳnh Hương giúp anh một việc: đưa Thu đi chọn áo cưới và
xem các thứ lặt vặt khác của cô dâu, còn một tuần nữa cưới.
- Có thế chứ - Quỳnh Hương nghĩ - anh Hãng nỡ nào quên mình!
Nàng nói:
- Trời em mà biết gì? Hãng ngắt lời ngay:
- Đừng nhũn em, anh tin ở Quỳnh Hương!
Thực ra việc này Hãng có thể nhờ Miên, nhưng đây là một dịp để
chàng tìm đến Quỳnh Hương và tỏ lòng tin cẩn gia đình. Ba người cùng ngồi ở ghế
trên, Thu ngồi giữa. Trước khi cho xe chạy, Hãng đưa Quỳnh Hương gói tiền qua
Thu:
- Cả gia sản nhà có ngần ấy để cưới vợ! Quỳnh Hương cười, cải
chính:
- Ấy để sắm cho vợ chớ. Còn tiêu nữa!
- Tiêu thì không lo, các bạn anh họ sẽ góp tiền mừng gánh khoảng
tiệc đãi, rất thực tế! Cũng như em đã mừng anh một cách thực tế và vô cùng quý
giá là bỏ ra một buổi để đi sắm đồ cho Thu.
- Bao nhiêu đây anh? - Quỳnh Hương hỏi về gói tiền.
- Anh cũng chẳng để ý, vét voi lung tung cả được ngần ấy, em
soạn thử xem.
Quỳnh Hương đếm rồi nói:
- Vâng được để em tự liệu.
Hãng bắt đầu cho xe chạy. Tuy số phận chẳng may Quỳnh Hương
chưa bao giờ là cô dâu chính thức nhưng nàng cũng chẳng lạ gì những thứ cô dâu
cần sửa soạn cho cái ngày đáng ghi nhớ nhất của đời người con gái. Và đến lúc
đó Quỳnh Hương mới dọn giọng thẳng thắn hỏi Hãng:
- Sao trước đây anh không đến thăm em?
- Em quên anh đi Hồng Kông ? (Sự thực Hãng chỉ xa Sài
Gòn có một tuần lễ).
Ba người thoạt vào Plais des Soieries đường Tự Do. Thu thật
là hiền chẳng biết chọn lựa ra sao, Quỳnh Hương có hỏi ý kiến thì chỉ cười rồi
đáp: “Tùy chị chọn cho em”, hỏi đến Hãng thì Hãng cũng trả lời “Tùy em toàn quyền
hành động!”. Thế là Quỳnh Hương toàn quyền chọn hàng áo, rồi toàn quyền chọn
mua các đồ trang điểm khác ở những tiệm Chà hoặc Việt quanh quẩn gần đấy, vừa
chọn hàng, vừa giải thích bằng giọng khi thì hối hả, khi thì tỉ tê:
- Bốn chiếc quần sa tanh trắng đi! Dáng tầm thước như chị
Thu hai thước mốt một chiếc.
- Chị Thu, em chọn cho chị hàng gấm Thượng Hải màu vàng này
cho nhũn, hợp với tính chị. Lát nữa đi cắt xong em lấy chỗ vải thừa để làm ví
và đóng giày cùng màu cho chị.
- Anh Hãng, em chọn hàng nội hoa màu hường này để may cho bốn
cô phù dâu, được chứ anh?
- Ngày cưới, chị Thu đừng “đính” lên đầu cái vương miện chị
nhé, trông ngán lắm, em chọn cho chị chiếc lược cài mặt đá nhỏ này trông xinh
và nhũn biết chừng nào.
- Đôi găng tay bằng ni lông trắng của chị đây. Bông hoa bằng
voan trắng này cài ở cúc áo, mua năm bông cả thảy chị ạ, còn bốn cô phụ dâu nữa!
Khăn quàng bằng voan kim tuyến để đến tối trời dự tiệc chị hãy khoác lên vai.
- Ấy đấy, còn cái này nữa lắt nhắt suýt quên, cái quạt xinh bằng
gỗ trầm hương chị ơi, để chị lễ trước bàn thờ gia tiên và bàn thờ tơ hồng.
- Anh Hãng, em sắm sẵn luôn cho anh chị hai chiếc nhẫn marié
bằng vàng tây. Hai trăm một chiếc là rẻ đấy anh ạ.
- Còn chiếc nhẫn đính hôn và dây kim cương đeo cổ nữa. Chẳng
nên đeo kiềng bằng vàng chạm và vòng tay làm gì, cổ lắm.
Khi cả ba vào tiệm ăn có phòng lạnh, Hãng nói với Quỳnh
Hương:
- Quỳnh Hương hôm nay mệt nhé, anh e rằng em không được ngủ
trưa.
- Không sao anh - Quỳnh Hương đáp - ăn xong em vào New York
Café ngay, ở đấy chợp mười lăm phút là đủ, dậy trang điểm ra ngồi guichet. Rồi!
Quỳnh Hương có mệt thật. Đối diện với nàng, Thu thùy mị ngồi
sát vào với Hãng, nàng nghĩ nếu không có mình thì Thu đã nép đầu vào vai Hãng.
Thốt nhiên Quỳnh Hương cảm thấy tất cả thái độ nàng vừa qua khi giúp Hãng, Thu
mua hàng này hàng nọ sao mà trơ trẽn, tựa như một thứ nịnh bợ người ta chưa mượn
đã làm, tựa như một kẻ khốn cùng không bỏ lỡ dịp để hớt hơ hớt hải hầu hạ kẻ
giàu sang, tựa như... tựa như... Biết bao hình ảnh hèn hạ tương tự ùa tới dồn dập
làm cho Quỳnh Hương thấy tủi hổ, thấy trống rỗng tâm hồn, thấy ê chề cuộc sống.
Chỉ mấy phút trước đây nàng vui đến kiêu hãnh về sự chọn lựa thông minh và chu
đáo của mình! Sự trống rỗng lần này khủng khiếp đến nỗi nghĩ đến trò tiêu khiển
cho phơi những đồ mặt trong rồi kín đáo quan sát thái độ của thiên hạ hiếu sắc
và khát dục, Quỳnh Hương cũng chỉ thấy đó là một trò chơi trơ trẽn.
- Nào đi ăn chứ, em nghĩ gì mà cau mặt Quỳnh Hương? Giọng nói
dịu đàng và thân mật của Hãng kéo Quỳnh
Hương ra khỏi vùng u ám nặng nề của nghi kỵ. Nàng cười cùng
những hình ảnh dĩ vãng quý giá và đáp với hiện tại:
- Em nghĩ xem mình còn quên gì chăng.
Từ biệt Hãng, Thu vào New York Café, khi đã cởi áo dài ngả
lưng trên ghế bố, Quỳnh Hương mới sực nhớ ra một điều, và tự trách thầm:
- Chết chưa mình quên hỏi anh Kha!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét