Người đàn bà bên kia vĩ tuyến 2
Khu rừng lau 2
CHƯƠNG SÁU
NHỮNG CỤM HOA VÀNG
I
Nếu Khiết gặp Kha trước ngày về làng, chưa chắc cuộc gặp gỡ đã đưa đến kết quả hợp tác nồng nàn như vậy. Từ sau buổi về làng, rồi nhận hợp tác với Khiết, Kha hằng nghĩ tới những đợt gió thơm hương lúa vừa thanh thoát vừa bồi hồi của cánh đồng quê nhà.
Hình như có cái gì bất thường lởn vởn trong không khí, sắp đổ ụp xuống đầu những người quốc gia. Quân đội Pháp-Việt thất trận liên tiếp, ôi còn sự hiện diện của đoàn quân viễn chinh thực dân kia thì dù thắng dù bại chỉ là kéo dài sự băng huyết của cơ thể quốc gia. Ngó về phía ngả nào cũng chỉ thấy những khuôn mặt và những tâm trạng ươn hèn, tiêu cực. Thường ngày trong lúc cắm cúi viết, Kha nghĩ "Sống là cố gắng thường xuyên để tái lập một thế quân bình luôn luôn đổ vỡ". Phải chăng Kha đành chấp nhận ý nghĩ cho đời là đau khổ không ngừng, và tìm ý nghĩ của cuộc đời chính là tìm ý nghĩa của đau khổ. Ý nghĩ này giúp Kha thêm can đảm, thêm kiên nhẫn và lạ thay thêm tin tưởng.
Tuy mới quen nhau mà Kha quý Khiết ngang với Hiển cũng chỉ vì có một hôm Khiết nói với chàng ở tòa báo: "Chính những thất vọng đắng cay mà tôi trải qua đã giúp tôi đi sâu vào bản thể sự sống".
Kha làm việc miên man hầu như không biết mệt là gì. Dạy học xong chàng đi thẳng ra thư viện; tối đến sau bữa ăn, chàng ngồi vào bàn viết. Hiện tại có thể hủy diệt cả một quá khứ tốt đẹp, ngược lại hiện tại cũng có thể xây dựng cả một tương lai đáng tin cẩn. Hiện tại thì ai mà chẳng có?
Làm việc! Chỉ có làm việc mới quên được những cảnh tàn phá của quê hương, quên được những nỗi lo âu mà Kha thông cảm được với tất cả mọi người, thân cũng như sơ. Không chỉ riêng ở quê mình mà ở tất cả làng quê trên đất nước. Chàng mải miết làm việc như một họa sĩ mải miết với bức sơn mài bỗng thấy cái khổ, cái lo âu của mình lung linh hiện thành ánh sáng màu sắc. đau khổ! Đau khổ! Sống ở đời tránh sao khỏi đối diện với đau khổ, nhưng đau khổ có thể thi vị hóa qua từng trạng thái tâm hồn.
Đã đến lúc chúng ta có thể kiểm điểm để hiểu sâu hơn về tính tình Kha. Tới tuổi ấy – tam thập nhi lập – với những kinh nghiệm sống, tính tình Kha hẳn như một trái cây vừa chín tới dưới ánh nắng. Kể từ ngày đổi lên dạy trên Tuyên-Quang, cuối niên học nào ông giáo Lãm cũng xin phép dời khỏi trường về quê nghỉ suốt hai tháng rưỡi hè. Chân ướt chân ráo về tới làng, ông đi thăm bà con khắp lượt để trình diện, trong khi bà giáo sắm lễ ra đình và ra chùa để tạ ơn Trời Phật Thần Thánh đã phù hộ độ trì cho ông giáo suốt niên học qua. Gần bắt đầu niên học mới, bà giáo cũng lại sắm lễ ra đình và ra chùa để cầu Trời Phật Thần Thánh cho chồng ra đi được bình yên. Sau khi khấn vái bà gián tiếp tìm hiểu ý kiến Trời Phật Thần Thánh bằng cách gieo âm dương. Cũng có khi các ngài ưng che chở chon gay, nhưng cũng có khi các ngài cười (hai đồng trinh sấp cả) bà lại vật nài khấn vái cho tới khi được ngài ưng, (một đồng sấp, một đồng ngửa) mới thôi. Ngoài ra vào dịp mười ngày nghỉ tết Nguyên Đán, ông giáo cũng có về quê, nhưng vào dịp này sự lễ bái của bà giáo lẫn vào sự lễ bái của những ngày đầu xuân nên không đáng kể.
Ông bà giáo hiếm hoi, hữu sinh vô dưỡng đến ba lần liền. ông giáo đổi lên Tuyên-Quang được hai năm thì bà giáo sinh ra Kha (mà ông Toán nhất định gọi là thằng Tuyên con giáo Lãm).
Nuôi Kha được một năm bà giáo nảy ý định buôn bán thêm để đỡ đần chút ít vào đồng lương của ông giáo, bà đi lại như thoi dệt trên con đường Hà-Nội Tuyên-Quang, chẳng bao lâu số lãi bà kiếm hàng tháng không phải là số tiền kếm thêm nhỏ nhoi mà là số tiền lớn, có tháng gấp ba lương ông, vì vậy bà mới mua thêm hai khu vườn hoang ngay bên hàng xóm rồi làm nhà làm cửa thành dinh cơ nhà ngói cây mít như ngày nay. Bà lại đứng lên cưới vợ cho em chồng (ông Hạo).
"Tội nghiệp – bà vẫn nghĩ thầm – thuở sinh thời cha mẹ thì chú Hạo còn nhỏ, chỉ anh cả Lãm được đi học, khi cha mẹ kề nhau khuất núi trong cùng một năm thì nhà cửa sa sút, anh cả phải phá ngang xin vào học trường sư phạm để thi ra làm giáo viên tiểu học hàng tháng có chút lương còm. Chú Hạo thất học, gia cơ cha mẹ để lại phần chú là miếng đất nửa sào cùng xóm nhưng ở sát rìa đồng, bây giờ Trời thương Phật độ cho mình buôn bán được, phải gây dựng gia đình cho đứa em thiệt thòi đó chứ".
Ông Hạo thấy anh chị thương và săn sóc mình như vậy thì cảm động lắm. Sau này bà giáo mất, Kha còn ở "ngoài ấy" ông đã bán nhà của mình ở rìa đồng mà về trong nom dinh cơ cho cháu.
Trở lại chuyện Kha thuở mới sinh. Tuy Kha không phải là con trưởng (nếu kể mấy đốt trước bỏ đi) nhưng Kha vẫn là con đầu cháu sm được bà ngoại cùng các ông chú bà bác nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa.
Năm Kha lên hai và bà giáo bắt đầu buôn bán xuôi ngược trên con đường Hà-Nội Tuyên-Quang, Kha được mang về trong quê để bà ngoại nuôi. Từ đấy cụ giữ rịt lấy cháu. "Cho nó lên Tuyên Quang làm gì – cụ nói – nhỡ sốt rét ngã nước, xấu cháu bà đi". Ông bà giáo đều cho lời cụ nói là phải, Kha theo tiểu học ở trường làng, rồi trung học ở trường Bưởi Hà Nội. Thoạt Kha ghi tên ký túc xá một nửa nghĩa là Kha chỉ ở lại trường ăn bữa trưa, sáng đi tối về bằng xe đạp trên con đường từ làng đến trường dài chừng tám cây số. Mỗi vụ hè vào dịp tết Nguyên Đán hai cha con gặp nhau. Vào dịp nghỉ lễ nhiều ngày, Kha theo bà giáo lên Tuyên thăm ông giáo như một du khách đi đổi không khí.
Nhớ lại năm lên sáu, năm mới học vỡ lòng, vụ hè năm đó về quê, ông giáo mua thưởng cho Kha một chiếc harmonica nhỏ xíu tám nốt (vừa đúng một âm giai). Buổi chiều Kha theo ông giáo ra đồng đứng hóng mát trên gò cao. Đã bắt đầu có tiếng chuông thu không. Mặt trời chạm đỉnh Ba-Vì rồi như viên ngọc đỏ bị một con sư tử thần thoại há miệng nuốt chửng. Vô tình Kha thổi một nốt trầm, âm thanh như rung động thành gió, thể hiện thành những gơn rùng mình trên ruộng mạ. Vũ trụ tựa hồ rung lên cùng một nhịp với âm thanh buồn buồn đó. Tuy vậy Kha không hề chú ý đến học nhạc, và cho đến ngày kháng chiến, cũng chưa hề sáng tác một bài thơ, một bài văn nhỏ. Không những thế nếu kiểm điểm kỹ lại thì năm thứ nhất trung học, bài luận quốc văn thi đệ nhị cá nguyệt của Kha chỉ được có một điểm (bét lớp), vì tả một người câu cá trên thuyền, cậu bé Kha đã dùng một câu thơ cổ mà cậu bất ngờ nhớ được (câu thơ đó của ai, đọc được ở đâu, vào hồi nào, nhớ có đúng không, chính cậu cũng lờ-mờ không rõ hẳn)
Bất quá môn đinh tam ngũ bộ
Quán tận giang san thiên vạn trùng
(không ra khỏi sân nhà ba hay năm bước mà xem được sông núi, đến ngàn vạn trùng). Thiết tưởng câu thơ cổ trên không có gì là lạc đề, sở dĩ ông giáo "trù" cậu, có lẽ vì ông quan niệm rằng còn "oắt con" mà dám nêu câu thơ cổ bằng chữ Hán chính ông chưa hề đọc tới như vậy, là phạm thượng chăng?
Giàu cảm xúc Kha lại may mắn được thêm ưu điểm có tài ngâm thơ. Giọng chàng trong, rất tự nhiên và khéo uốn nắn cho khi trầm khi bổng để thích hợp với lời thơ khi buồn khi vui khi hoang mang thao thức….
Kha say mê từ nhỏ câu ca dao:
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Anh còn thương cảm vô cùng hình ảnh người lính thú "Ba năm trấn thủ lưu đồn". Sinh trưởng ở một gia đình sung túc, được nuông chiều từ nhỏ nhưng Kha sm có khuynh hướng quý trọng người nghèo. Kể từ năm Kha bắt đầu lên trung học (năm mười lăm) chàng hay đến ngủ nhà một người bạn rất nghèo cùng làng tên là Thận. Thận hơn Kha chừng ba hay bốn tuổi, đỗ xong bằng sơ học ấu lược phải phá ngang làm thợ sắp chữ tại Viễn Đông Ấn-Quán (I.D.E.O). Cha Thận đã già và là một nhà nho lỡ thời, tính tình rất hiền. Mặc dù có dư luận riễu ông là "nho, y, lý số sở ngô khoai" nhưng mọi người trong làng đều mến và thương ông. Những lúc gia đình này túng thiếu, Kha giúp. Từ ngày bà chị Thận đi lấy chồng ở làng bên, Kha thường hay đến ngủ với Thận (gia đình Thận khi đó còn vẻn-vẹn hai cha con, mẹ Thận mất từ sớm). đêm đông đôi bạn nằm ổ rơm, đắp chăn khố tải, vì chăn hẹp đôi bạn phải nằm úp thìa, mỗi lần dở mình hô đùa như thể tập quân sự "Chuẩn bị dở mình …một ..hai". Nhiều Chủ nhật Kha mang sách vở lại đàng Thận vừa học vừa chơi, rồi cùng làm cơm ăn. Hai đứa đi ra ao đình gần đấy câu cá, rồi kiếm một ít cành khô về làm củi (cành nhãn, cành bưởi, cành mít…)
Câu được cá rô to, có thể nướng lên, lọc lấy nạc, cho vào cối dã rồi nấu với canh cải. Cũng có thể ướp cá với nghệ, nấu với dọc sơn hà. Cũng có thể nấu canh rưa với ca trê:
Chồng chê thì mặc chồng che
Rưa khú nấu với cá trê càng bùi.
Cha Thận mất, Kha càng năng lui tới với Thận để Thận bớt cô độc. Những ngày sống với bạn nghèo như vậy, Kha thấy có cái thú tần tiện và khám phá được những nếp rung cảm rất nên thơ của cảnh lá lành đùm lá rách. Cụ ngoại và bà giáo là những người đàn bà phúc hậu thuở nhỏ đã trải qua nhiều cảnh hàn vi nên thấy Kha như vậy thì bằng lòng.
Sau này khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ được ngót một tháng thì quân Pháp tự nội thành mở rộng mặt trận đánh tỏa ra bốn cửa ô, phi cơ nhào lộn, rú máy từ trên cáo sà xuống thấp, đạn liên thanh rít trong không khí, đạn mortier, trái phá vang rền và rít rất đều vào các làng lân cận mà địch nghi có bộ đội ta đóng. Làng Định Quyết bị tàn phá nhiều nhất chính vào dịp này. Chiếc nhà ngói năm gian của ông bà cả Bê vừa cất xong, nóc bằng gỗ sến, sà bằng gỗ trai, cột bằng gỗ lim, dui, mè bằng gỗ trò chỉ, bị một đạn trái phá rớt vào trúng giữa nổ tung, cột lim gẫy nhà xiêu xuống, may người không ai việc gì, cả dãy nhà lá giữa làng bị bom lửa thiêu trụi. Buổi chiều Thận ra ngồi ở bãi cỏ rìa đồng xóm Quán – bãi để thả diều – bất ngờ bị đạn mortier tự trong thành câu ra nổ gần đấy. Thận chết. Dân làng tiếp tục tản cư, người ở lai thì chúi xó trong nhà, xác Thận bị bỏ quên trên bãi cỏ. Thời gian này, Kha chiến đấu bên các bạn tự vệ thành khác ngoài Hà-Nội, tại khu Bờ Sông. Một tháng sau, tình hình tạm yên, làng Định Quyết nằm trong vòng đai kiểm soát của quân đội thực dân, chị Thận ở làng bên – làng chồng – về tìm xác em thì chỉ còn là một cảnh bi đát xương đầu lâu, xương hai bàn chân, hai bàn tay lộ thiên trắng hếu, các xương khác thấp thoáng lẫn dưới lớp quần áo cũ đã mục nát. Cỏ khoảng đó được tẩm xác người rữa nát nên xanh om. Khi đã cùng đoàn tự vệ thành rút lui khỏi Hà-Nội, Kha tìm được đến nơi mẹ tản cư, nghe kể lại cái chết của Thận, ôn lại cảnh đời của người bạn nghèo, mồ côi mẹ từ nhỏ, chị đi lấy chồng xa, rồi cha mất, Kha thấy Thận hiện thân cho một số phận hẩm-hiu mà cả cuộc đời là hình ảnh lạnh-lẽo của mưa gió rầm- rề không một tia nắng vàng soi sáng và sưởi ấm.
Bên nếp sống giản dị với bạn nghèo là một khía cạnh khác phức tạp hơn và hầu như mâu thuẫn với nếp sống trên. Kha dậy thì rất sớm và mười sáu tuổi đã biết đam mê ái tình.
Kha đã yêu cô Dịu con gái ông bá Hỷ và hay giả vờ đến chơi với một ông cậu họ còn trẻ ở ngay bên hàng xóm với ông Bá để được nhìn cô Dịu thỉnh thoảng đi lại ở bên kia chiếc tường hoa xây thấp.
Kha đã yêu cô Đăng con bà ký Thám, hoa khôi xóm Chợ và đỗ bằng cơ thủy sau Kha hai năm. Bà giáo chơi họ với bà ký nên đầu tháng Kha thường khéo-léo tìm cách để mẹ ủy cho mình nhiệm vụ đến đàng bà Ký đóng họ.
Là1ng có ông tham Mỹ, kỹ sư về lục lộ, gia đình ông đã từng theo ông đi lang bạt hầu khắp các tỉnh lớn Bắc kỳ. được đổi về Hà-Nội, ông ở luôn ngoài đó, thỉnh thoảng mới về thăm làng. Vào một dịp tháng hai làng vào đám, ông đưa cả vợ con về đình lễ thành hoàng, ngày đó Kha mới biết ông có một cô con gái đẹp một vẻ đẹp thật quý phái.
Trời hừng nắng nàng mặc tuyền đồ lụa trắng khiến sáng đi của nàng càng thướt tha, nàng bước vào đình khuôn mặt ửng hồng như cô dâu bước vào phòng tân hôn. Nàng trạc trên hai mươi tuổi, hơn Kha ít ra bốn tuổi, thế mà Kha say mê đến như tương tư nàng một dạo. Kha hỏi thăm biết ông tham Mỹ thuê nhà ở phố Lò Đúc. Một chiều thứ bảy Kha đã từ trường Bưởi đạp xuống Lò Đúc tìm thấy nhà mà không gặp nàng. Chiều thứ Bảy sau Kha thoáng thấy bóng nàng mặc áo cánh trắng quần trắng, sit dáng đi yêu kiều quý phái. Bẵng đi hai tuần Kha được tin tự lấy chồng, cưới chạy tang. Kha buồn và thương nàng vì ngày vui nhất đời con gái mà nhuốm màu tang như vậy thì tránh sao những trắc trở về sau.
(Sau này khi đã di cư vào Saigon, một hôm Kha cùng Tân đi dưới hai hàng cây sao cao vút. Tân nói "Thú nhất ở Saigon là những đại lộ đều có những hàng sao cao vút như thế này, đó cậu Hà-Nội đường phố nào có hai hàng cây tương tự?" Kha đáp ngay "Đường Lò Đúc phía Chợ Hôm". Hình ảnh phố Lò Đúc đã bám sâu vào trí nhớ Kha chính vì mối tình câm kia của chàng với cô con gái lớn của ông tham Mỹ ngụ ở đó).
Những mối tình đơn phương và thoáng qua như vậy còn nhiều lắm, nhưng thật sự mối tình đầu phải kể là cuộc gặp gỡ giữa chàng và Vân.
Ngày đó gia đình bà Phán đã về định cư ở làng Định Quyết bên hàng xóm nhà Kha được hơn hai năm, hai gia đình đã thân nhau, Kha vừa đỗ tú tài một. Hai mươi chín tết bà giáo ở Tuyên-Quang về báo tin cho cụ ngoại cùng các anh em thân thuộc hay năm nay ông giáo không về được vì hơi bị mệt, ông ở lại Tuyên-Quang ăn tết tại nhà một bạn đồng nghiệp.
II
Ai cũng bảo Vân học trường đầm – Felix Faure – nên phóng khoáng vô tư, sự thật có gần Vân mới hiểu tình cảm của nàng nhiều khi trầm xuống và khá sâu sắc. Mỗi lần nghe gió heo may thổi, Vân thường nhìn theo lá rụng rồi nói với Kha "Gió thu buồn lạ!" Kể từ ngày gia đình ông Phán chọn nơi định cư là làng Định Quyết, tuy bà Phán vẫn tiền cửa hàng ở phố Hàng Vải Thâm và thường chỉ chủ nhật, ngày lễ và vụ hè mới cho con cái về đây, nhưng năm nào ông bà Phán cũng kéo cả gia đình về làng ăn tết chỉ có Hãng ở lại Hà-Nội trông cửa hàng (dạo đó Hãng mới ở Pháp về).
Chiều ba mươi tết. Kha sang nhà Vân và đứng bên nàng ngoài hiên. Vân lắng nghe cây vườn xào-xạc rồi lại nói "Tiếng gió nghe buồn lạ!".
Kha nhận thấy hình như trong khi Vân nói vậy nàng để hồn mất hút trong tiếng gió. Cùng với nhận xét nhanh chóng đó Kha muốn cúi xuống hôn nàng. Có lẽ Vân đã kịp nhận ra điều gì khả nghi ở Kha, nàng quay vào nhà với lũ em. Cầu cứu đám đông để khỏi bị yếu thế trước đàn ông, đó là phương pháp đối phó thường tình của phụ nữ.
Kha nghĩ thầm "Vân tinh ý thực" như vậy có nghĩa là nếu Vân còn nán lại một chút nữa, Kha dám ôm ghì lấy nàng và hôn đến khiến nàng ngạt thở. Kha bước theo Vân vào nhà cả hai đưa vội khóe mắt nhìn nhau, ngượng-ngùng như đã phạm tội. Kha lên tiếng để phá tan giây phút nặng nề.
- Mấy giờ rồi Vân nhỉ?
Vân chưa kịp trả lời thì lũ em con bà dì nghe tiếng bà Phán về ngoài cổng đã vừa reo la vừa chạy ùa ra ngoài, đứa bé nhất chạy sau cùng cuống-quýt, vừa kéo xếch quần lên vừa méo xệch miệng khóc nhưng không nước mắt.
Bà Phán ở nhà thương thăm Thi về. đã mấy hôm nay Thi nghỉ học vào nằm bệnh viện Lanessan điều trị bệnh phổi.
Tạng Thi vẫn yếu từ nhỏ. Ngày gia đình mới về làng Định Quyết, vào một trưa hè có bóng mây, Thi tha thẩn ra vườn. Cơn bão ập đến bất ngờ, một cành muỗm khô lớn rớt xuống, nàng bị những cành con gạt ngã ngửa, may mà khúc cong vồng hợp với khoảng ngực, Thi không bị thương, nhưng kể từ sau tai nạn ấy sức khỏe Thi càng mong-manh, gần đây bắt đầu húng hắng ho, bà Phán vội đưa nàng đến nhà thương khám phổi, phổi đã bị nhám. Tuy mới ở thời kỳ thứ nhất nhưng bà Phán cũng ưng theo bác sĩ để Thi nằm hẳn trong nhà thương cho đến ngày khỏi hẳn. Ngày nào cũng vậy ít ra là một lần, bà đến nhà thương thăm con.
Lũ trẻ đã ra hết, còn lại Kha và Vân trong nhà. Vân chợt ngước mắt nhìn lên giận dữ và nói:
- Anh phải hứa với Vân là không bao giờ được có ý định xấu.
Kha làm bộ ngạc nhiên:
- Ô hay, ý định xấu nào thế? Ít ra trong thực thế anh cũng không hề một lần nào làm Vân phật ý...
Tuy ánh mắt Vân dịu hơn nhưng giọng còn bất mãn, nàng ngắt lời Kha:
- Vâng, vâng em biết, anh chưa lần nào làm em phật ý, nhưng nếu sểnh em chậm chân, chưa biết thái độ anh sẽ đi xa đến đâu, em biết, em biết!
Kha đáp:
- Ừ giả sử điều đó có thật thì lỗi ở anh sao? Ai bảo em đẹp hử, ai bảo đẹp?
Nhìn bộ ngực Vân phập phồng, Kha tưởng như nghe thấy hơi thở nhẹ của nàng.
Bà Phán và lũ trẻ nhỏ đã bắt đầu bước lên thềm vào nhà, Kha nói vội một câu rất bang quơ:
- Dầu sao cũng cám ơn Vân đã giúp chúng ta thanh toán được tình cảm của nhau.
Nghe Kha nói vậy chắc Vân tưởng Kha cám ơn nàng đã sớm ngăn chàng đừng phạm lỗi, nhưng với Kha câu nói đó lại hàm ý cám ơn Vân đã cho Kha được dịp ướm trước bằng câu "Ừ, giả sử điều đó có thật thì lỗi ở anh sao?" Nghĩa là điều đó sẽ thành sự thật và lỗi không ở Kha, lỗi ở Vân đẹp.
Bà Phán đã vào. Kha cúi chào. Vân hỏi mẹ về tin tức em. Lũ trẻ nhỏ đứa nào cũng có quà "bích quy" cầm tay. Cận, đứa nhỏ nhất, lên bảy tuổi không còn cuống quýt méo xệch miệng khóc nữa. Cậu vừa đưa bánh lên miệng, vừa nói với Kha:
- Bây giờ anh Kha kể chuyện cổ tích cho chúng em nghe đi (Kha vẫn có thói quen kể những chuyện cổ nước Nam cho chúng nghe). Lũ trẻ cùng reo:
- A phải đấy, anh Kha kể chuyện cổ tích đi, hay lắm.
Vân đỡ làn hoa quả nặng ở tay mẹ rồi đặt lên mặt buffet sát với chiếc bình thủy tinh rộng miệng trong có thả con cá sin-sít nhỏ.
Tiến chạy vội lại:
- Ấy, khéo chị làm đổ bình thủy chết cá của em!
Vân nguýt Tiến:
- Chẳng cần tao phải làm đổ, con cá cũng sẽ chết. Mày có thấy không,. Hai con thì sáng nay đã chết một rồi!
Tiến ngần người chạy lại hỏi Kha:
- Làm sao thế anh nhỉ, em chịu khó thay nước luôn, nước mưa trong vắt anh ạ. Rồi Tiến bưng bình nước thả cá lại cho Kha xem:
Kha nói để Vân nghe:
- Con cá đâu có phải chỉ sống vì nước. Trong con cá nhỏ bụng lép kẹp, bơi trong bình nước trong vắt, có thương không này.
Trước khi xuống bếp để chỉ bảo người nhà cách thức sửa soạn các đồ nấu ngày mai, bà Phán ân cần dặn Kha:
- Mai cháu nhớ sang xông nhà sớm cho bác nhé.
Tiến đã để bình thủy tinh thả cá lên chỗ cũ trên mặt buffet. Cậu đã ăn hết phần bánh "bích quy", dùng cả hai tay níu Kha ngồi xuống ghế:
- Anh ngồi xuống đây, kể chuyện cổ tích cho em nghe đi.
Kha đưa mắt nhìn về phía Vân và gặp đôi mắt nàng đặt về phía Kha tự bao giờ. Khi đó Vân đã ngồi vào góc đi văng tay lơ đãng cầm một tờ tuần báo.
- Ừ, nào anh kể chuyện cổ tích! – Kha nói với lũ trẻ, cả bình nước và khiến con cá nhỏ kia cũng phải giật mình.
Tức thì tiếng chúng hoan hô tưởng chừng làm xao động cả bình nước và khiến con cá nhỏ kia cũng phải giật mình.
Bất chấp khoa học, bất chấp kiến thức lũ trẻ, bất chấp bố cục tình tiết câu chuyện, bất chấp cả mọi ý nghĩ phê bình của Vân, Kha bắt đầu kể chuyện:
Ngày xưa có một người lính thú
Ngang lưng thì thắt bao vàng
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài.
Một tay thì cắp hỏa mai
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Đi ngược dòng sông vài ngày rồi lên bộ lẽo-đẽo vượt suối, rồi lại xuống thuyền ngược dòng sông, rồi lại lên bộ, cứ như thế ròng rã một tháng trường mới tới nơi đồn trú. Đó là miền biên giới có thác chảy ào ào suốt ngày đêm, có núi chập chùng cao ngắt chắn mất đường về. Dọc theo ngọn nguồn con sông chảy xiết là những khu rừng già âm u nhiều rắn độc, nhiều thú dữ.
Đau đớn thay cho người lính thú, anh phải ở đây ba năm. Ba năm dài những lo âu, thương nhớ. Bất trắc có thể xảy đến hàng ngày khiến anh bỏ thây nơi rừng núi hùng vĩ nhưng hiểm độc này. Anh mà ngã xuống chỉ một chiếc lá nhỏ cũng đủ phủ thây anh vì thân anh sẽ rữa nát trước chiếc lá để rồi mất tích vào đám bùn đen ẩm thấp dưới rừng. đêm đến anh ngủ, những hình ảnh khủng khiếp đó ùa đến cùng tiếng thác nước để uy hiếp linh hồn anh. Ba năm …ba năm dài…
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thì canh điếm tối dồn việc quan
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn,
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai.
Miệng ăn măng trúc, măng mai
Những giang cùng nứa không thể ai bạn cùng?
Nước trong xanh con cá vẫy vùng…
Phải một hôm kia anh vào rừng chém tre đẵn gỗ, anh lạc đến một khoảng tròn rộng và sâu những đá là đá. Lớn có từng mảng, nhỏ thành từng hòn, nhỏ nữa là cát sỏi. Nước ở đây thật là trong và có một con cá. Thoáng thấy anh, con cá vùng quẫy như muốn tìm nơi ẩn trốn. Người lính thú nào có biết điều đó, anh ao ước được tự do như con cá kia và buột lời ngâm:
"Nước trong xanh con cá vẫy vùng"
Kỳ lạ chưa, con cá đó biết nói. Nó hỏi anh:
"Anh cho là tôi sung sướng lắm sao?"
Người lính thú đáp:
"Sung sướng lắm chứ! Cảnh thì tĩnh, nước thì trong, một mình anh thảnh-thơi, vùng vẫy."
Con cá làm như cất tiếng cười mỉa-mai rồi giải thích:
"Đây trước là con suối. Một hôm mưa nguồn lớn, đá trên núi đổ xuống ngổn ngang, con suối đổi dòng để lại một khúc chết ở đây. Thoạt tiên nước đục, tôi còn khuây khỏa đôi chút, vì mình có thể bơi lội tung tăng mà vẫn no mồi, chẳng phải để ý đến ai, và cũng chẳng ai biết có mình mà để ý. Tai hại thay nước lắng dần. Qua đi một tuần trăng nước trong suốt như gương, tôi thấy mình trơ-trẽn quá. Anh ơi rủi bị tù trong một vũng nước đã là một điều đáng buồn, lại bị tù lộ-liễu trong một vũng nước trong suốt như gương này thực là buồn vừa nhục."
"Nước trong vắt không có mồi, anh có đói không?"
"Tôi có thể ăn rêu bám ở những hòn đá quanh đây"
Người lính thú lấy cơm nắm ra giơ lên rồi nói:
"Tôi bửa cơm ra và ném xuống một ít cho anh nhé"
Giọng cá bình thản một cách buồn rầu:
"Cám ơn anh, giá nước đục anh làm như vậy thì hay, nhưng nước trong như thế này, anh ném xuống để thấy tôi bơi lên đớp lấy, chao ôi còn cảnh nào tủi hổ cho bằng !"
Người lính thú ngẫm-nghĩ, sực nhớ điều gì, anh nói:
"Thế tôi mang anh sang dòng sông gần đây vậy nhé!"
Cá đáp:
"Cám ơn anh, cám ơn anh! nhưng cảnh tôi phải lên nằm trên lòng bàn tay anh để rồi anh mang ra sông thả xuống còn đáng sỉ nhục gấp ngàn gấp vạn lần cảnh bị tù thế này. Tôi tuy bị tù ở đây những vẫn nghe thao-thức tiếng sông qua mạch đất. Sẽ có ngày mưa nguồn làm tràn bờ giếng này, làm rềnh khúc sông kia, lúc đó tôi sẽ nương theo triền nước mà tìm ra sông. Như thế mới đẹp! như thế mới đẹp!"
Có tiếng mõ thu quân. Người lính thú chào cá, bịn-rịn ra về. Từ đấy mỗi khi chém tre, đẵn gỗ hoặc đi kiếm măng trúc, măng mai qua đấy, anh cũng giữ ý chẳng muốn đến bên bờ khúc suối chết để khỏi gây xáo động cho con cá bị tù. Thảng hoặc gặp cơn mưa nguồn khá lớn, anh chạy vội tới đó ném vội xuống khối nước đục ngầu một ít cơm rời rồi ra về trong lòng không vui vì anh vẫn thắc-mắc chẳng hiểu cá còn ở dưới đó để nhận những hột cơm của người tri kỷ này, hay đã trườn mình tìm ra sông rồi.
Lũ trẻ trố mắt nhìn Kha im lặng. Chúng biết Kha đã kể dứt câu chuyện.
Đưa mắt nhìn Vân, Kha thấy nàng cúi đầu im lặng, riềm mi chớp chớp.
Kha đứng dậy ra về. Chàng tin rằng mình đã ra về rất đúng lúc.
Sớm mồng một hôm sau Kha y hẹn sang xông nhà bà Phán từ sớm. Tiến chạy đến báo cáo ngay với Kha:
- Có mỗi một con cá, nó lại chết nốt mất rồi anh ạ.
Bà Phán quát:
- Mới sớm đầu năm mà đã nói chết với chóc gì, ranh con!
Kha chúc ông bà Phán mấy câu khách sáo "sống lâu ,giàu bền". ông bà Phán cũng chúc Kha cuối niên học thi đỗ nốt tú tài phần hai. Cả hai ông bà cùng tránh không chúc Kha lấy vợ, có lẽ vì có Vân đứng đấy. Qua đi dăm phút ngượng ngập, Kha thoát khỏi phòng khách ra sân chơi với lũ trẻ. Vân cũng tiến ra theo, nàng đã trang điểm, đẹp kín đáo nhưng quyến rũ.
Cả ngày hôm đó Kha thì-thọt sang thăm Vân luôn nhưng cũng có lần không gặp vì Vân theo mẹ ra Hà-Nội từ trưa để lễ tết một vài nhà trong họ rồi vào nhà thương thăm Thi đến tối mới về.
Cả ngày mùng một năm đó nắng vàng trong như hổ phách. Gió thổi vào hồn Kha phơi-phới và Kha như nhập vào cánh bướm chập chờn đến đậu lên những hoa cải vàng ngoài vườn. Những hoa cải vàng cao ngất, lắt-lay bình dị, đó là hình ảnh muộn-màng của mùa đông qua còn sót lại. Cây cải thì lớn vồng, có những lá già lỗ-chỗ, hoa cải vàng tuy cười với nắng vàng đầu xuân nhưng dám chắc trong lòng vẫn chưa quên mùa rét mướt những mưa phùn gió bấc vừa qua. Nắng trong quá làm Kha thấy niềm vui như trở thành mong-manh mộng ảo. Kha thấy thiếu, thấy khao-khát một cái gì mà vẫn chưa tìm ra.
Buổi tối khi Kha sang nhà Vân, ông Phán đã ngồi vào bàn tổ tôm với bốn ông bạn khác, bà Phán đi ngủ sớm vì cả ngày bà đi lễ mệt, bà bắt mấy đứa nhỏ đi ngủ theo, chỉ còng hai đứa lớn đương ngồi đối diện ở góc nhà đánh tam cúc ăn tẹt mũi. Kha lảng ra hiên và vui mừng thấy Vân theo ra. Hai người chào nhau bằng nụ cười im lặng. Kha di vào góc khuất, tì tay lên cột gạch nhìn xuống khoảng vườn ngập trong bóng tối. Vân tiến tới. Kha biết nàng đã bằng lòng, tuy nhiên Kha chưa dám có thái độ quá âu yếm. Cả hai đứng gần sát bên nhau, nói những chuyện bang quơ se sẽ. Gió thay chiều tự lúc nào, mây đen ùa tới. Gió thổi mạnh hơn rồi mưa khá nặng hột. Chưa bao giờ có một trận mưa đầu xuân lạ như vậy. Lúc đó Kha mới thấy rằng điều mình khao-khát từ trưa đến giờ chính là cảnh mưa gió bất ngờ này. Và cũng bất ngờ chàng quàng tay ôm Vân rồi ép nàng vào ngực mình. Vân không chống cự hay có chống cự nhưng yếu ớt.
Kha nói như say điên nhưng giọng thì lại dẽ-dàng:
- Mùa xuân không thể chỉ có nắng vàng. Nắng vàng trong quá làm tình chúng ta mong-manh, mùa xuân phải có gió, có mưa nữa Vân ạ. Tuổi trẻ của chúng ta không thể trong suốt như thánh nhân, chúng ta sẽ chết trong sự trong suốt đó như hai con cá đã chết.
Rồi Kha hôn Vân, và cả hai như bị cuốn theo vào một cơn lốc của đam mê, vượt ra khỏi mùaxuân gió mưa nhỏ bé, vào một bão tố vô cùng lớn của vũ trụ, trong đó cuốn theo những vì sao. Và những vì sao trong khi bị hút xuống lòng bão tố như vậy trong chẳng khác gì những hạt ngọc, hạt kim cương rơi vãi của những nạn nhân nào đó.
Rồi Kha cũng phải buông Vân ra cho nàng thở, và cho chính Kha thở nữa. Và Vân đã nhắc lại một câu như để riễu Kha làm Kha giật mình, công nhận nàng là người đàn bà thông minh:
- Dầu sao cũng cám ơn anh đã giúp chúng ta thanh toán được tình cảm của nhau.
III
Sau đêm xuân trác tuyệt, đô bên trao nhau cái hôn đầu tiên khuấy động bão tố tâm hồn, Vân xấu hổ như bị thất thân và hết sức lánh mặt Kha. Biết ý, Kha cũng không dám tìm nàng. Ngày mùng chín sau khi làm lễ hạ cây nêu, bà giáo lên Tuyên-Quang. Rằm tháng giêng bà đánh điện gọi Kha lên.
Ngày hai mươi chín Tết khi bà từ Tuyên về quê, ông giáo ở lại chỉ mệt xoàng. Bà xem bói biết sang năm ông giáo có sao Thái Bạch chiếu. Thái Bạch sạch sành sanh! Thế nào dchg bị hao tài tốn của! ngày mùng một tết bà đã lên chùa làm lễ giải sao và có hình nhân thế mạng, không ngờ ngày mùng chín lên tới nơi, bà thấy bệnh tình chồng nặng lên rất nhiều, ông bị liệt một bên chân, rồi ngày rằm – ngày bà đánh điện về gọi Kha – ông bị liệt nửa người, ngày hai mươi tháng giêng ông từ trần. Bà giáo phải thuê riêng một chiếc xe familial rồi hai mẹ con đưa quan tài, từ Tuyên về làng. Tính ra từ ngày được đổi lên Tuyên đến ngày từ trần ông giáo dạy học nơi đây vừa được hai mươi năm.
Mẹ góa con côi, bà giáo thương con, ưng cho Kha thuê chung một căn nhà cùng với bốn người bạn khác ở phố Bờ Sông.
Kha đã gặp Vân, đôi bên hết ngượng nhưng giờ đây Kha có đại tang. Kha cắm cúi học thi nốt phần hai, hết tang Kha sẽ xin mẹ hỏi Vân cho. Có một đêm rằm thứ bảy Kha sang bên ông bà Phán, xem hoa quỳnh nở, ngồi cùng với các bạn giai của Hãng, các bạn gái của Vân.
Mùng chín tháng ba Nhật đảo chính, Pháp mất chủ quyền. Kế đó là nạn đói lịch sử. Nạn đói làm chết hai triệu người này có làm hốc hác nhiều khuôn mặt làng Định Quyết, có làm sa ngã đôi ba người làng Định Quyết, có đánh quỵ không quá số mười người dân làng Định Quyết. Nguyên do dân làng này công chức có, nhà nông có, đàn bà đều buôn bán đảm vì vậy mọi người có đủ điều kiện để nâng đỡ nhau trong cơn khốn khó. Mười chín tháng tám tổng khởi nghĩa cướp chính quyền. Sau ngày cách mạng, Kha dự cuộc biểu tình bãi khóa kỳ thi tú tài toàn phần khóa một. Toàn thể học sinh nêu lên câu hỏi khẩn cấp: nước nhà đương trong tình trạng khẩn trương như thế này thì thi với cử mà làm gì? Chính Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ họ Vũ phải đích thân tới khuyên nhủ và giải thích, an hem mới chịu vào phòng thi. Kha đỗ nốt phần hai và ghi tên học PCB, dự định sẽ theo ngành Thuốc sau này. Nhưng không khí cách mạng cuốn theo Kha như dòng nước lũ cuốn theo một cành rong nhỏ nhoi, Kha gia nhập đoàn thanh niên cứu quốc khu phố Bờ Sông. Kha ưng hoạt động ở Hà-Nội vì khuôn mặt cách mạng tại thủ đô bao giờ cũng tưng-bừng và duyên dáng hơn bất cứ nơi nào. Khi quân đội Pháp được vào đóng tại Hà-Nội để ngay sau đó dở trò khiêu-khích, Kha gia nhập tự vệ khu phố. Chàng hoàn toàn bỏ học. Không khí tưng bừng của năm đầu cách mạng làm Kha quên Vân. Là con dân – hơn nữa là thanh niên – của một dân tộc vừa thoát ách nô lệ mà tinh thần quốc gia đôi khi đi đến cực đoan, mà trí tưởng tượng thì quá phồn thịnh, việc Kha gia nhập đoàn thể để hợp quần thành sức mạnh, rồi cùngdân tộc nuôi mộng vá trời lấp biển, quên người tình bé nhỏ cũng là lẽ dĩ nhiên. Sự thực Kha không hẳn hoàn toàn quên Vân, nhưng Kha thấy mối tình của Vân giờ đây chỉ là phụ, chỉ là một đường viền nhỏ trang sức cho một bối cảnh mênh- mông, hùng vĩ và vô cùng phong-phú là cách mạng. đôi khi Kha có gặp Vân hoặc ở ngoài phố, hoặc ở làng, Kha có nhớ lại đêm xuân trác tuyệt ôm hôn nàng say đắm, nhưng rồi Kha mỉm cười với kỷ niệm như nụ cười của người khổng lồ đương cầm viên ngọc nhỏ soi lên ánh mặt trời. Có lẽ biết sự nhỏ bé của thân phận mình bên chàng trai thời cách mạng, Vân nhiều khi cố ý gặp Kha và kéo dài phút gặp gỡ tay đôi. Điều này càng khiến Kha thầm kiêu hãnh. Nếu có dịp hôn Vân lần nữa chắc chắn Vân không còn ngượng đến mấy tuần sau như lần trước. Nhưng biết rằng cái hôn lần thứ hai còn giữ được hương vị say đắm như lần đầu? kha quên ngay câu hỏi đó vì chàng còn phải tập kịch để kịp lên sân khấu Nhà Hát Lớn thành phố vào dịp kỷ niệm đệ nhất chu niên ngày 19 tháng 8. Kha ở ban kịch thanh niên cứu quốc, vở kịch nhan đề "người tráng sĩ núi Lam" gồm hai màn. Kha thủ vai Lê-Lợi.
Màn đầu vừa hạ xuống, Kha đứng bên trong hậu trường hé màn nhung nhìn ra nhận thấy có Vân ngồi xem ở hàng ghế thứ ba cùng với mấy người bạn gái của nàng. Đó là mấy người bạn học nghèo và khá thân cũ trong số có Quỳnh-Hương. (Vân rủ mấy cô bạn này đi cho có vẻ tự nhiên, nàng mua vé fauteuil d"orchestre nói thác khao các bạn vào dịp sinh nhật, sự thực sinh nhật của nàng vào tháng mười sắp tới).
Thốt nhiên Kha ôn lại xem màn đầu mình đóng có gì vấp-váp không, chàng vui mừng thấy là mọi lời đối đáp đều đã rất trôi chảy. Tiếng vỗ tay đã chẳng vang dậy là gì? (Trong đó lẽ cố nhiên có cả tiếng vỗ tay của Vân). Màn thứ hai kéo lên..
Cuối màn này là cảnh Lê-Lợi mài gươm dưới trăng. Dáng Kha – (Lê Lợi) – mài gươm đẹp và hào hùng. Chàng ngừng mài gươm lắc đầu ngao-ngán đứng dậy vuốt vạt áo lam rồi ngẩng nhìn trăng cảm khái (và cũng kín đáo liếc xuống hàng ghế có Vân nữa). Chàng để cho tâm hồn trữ tình của mình thật phơi phới như nắng và mưa gió đầu xuân (chàng nhớ lại đêm xuân nào chàng hôn Vân) để sửa soạn ngâm lên mấy câu "Hổ trường", thơ Nguyễn Bá Trác. Chàng hít mạnh cho hơi đầy phổi rồi buông xuôi giọng như buông xuôi con thuyền trên giòng thác lũ của cảm khái, giọng sang-sảng và ai hoài:
Trượng phu không hay xé gan bẻ cật
Phủ cương cường…
Cả rạp rùng mình. Từ người soạn kịch qua diễn viên là Kha đến toàn thể khán giả lúc bấy giờ không một ai thắc mắc về chuyện tại sao Lê-Lợi vào đầu thế kỷ thứ mười lăm đương mưu toan diệt Minh cứu nước mà lại ngâm bài thơ của báo Nam Phong đầu thế kỷ thứ hai mươi. (Nghệ thuật khi đạt tới mức rung cảm thật thì không còn phân biệt không gian và thời gian chăng?) Nền phông rừng núi càng trở nên âm u, mảnh trăng lưỡi liềm như có phát ánh sáng thật, sân khấu bỗng kết tinh thành đời sống, giọng Kha như cũng long-lanh bàng bạc nhập vào ánh trăng rồi tỏa xuống khán giả:
Học chửa thành
Thân chẳng lập
Trai trẻ bao lâu mà đầu bạc
Trăm năm thân thể…bóng tà dương.
Vỗ gương mà hát, nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường…
Cả rạp im phăng-phắc, nhưng riêng Kha, chàng như nghe tiếng trái tim của Vân cùng hòa với nhịp trái tim rất mực trữ tình của chàng lúc đó. Kha muốn có phép tang hình nhảy qua ban nhạc bên dưới, đến hàng ghế thứ ba kéo Vân đi (Vâng cũng tàng hình luôn) và chàng hôn Vân và nhất định cả hai sẽ cùng lại bị cuốn vào cơn lốc đam mê vô cùng rộng lớn của vũ trụ…Sao mà lúc đó Kha yêu Vân! Chàng mang-máng cảm thấy như có hối hận vì đã quá xa vời Vân từ ngày đầu cách mạng.
Lúc tan kịch Kha vội-vã đi từ cửa sau ra phía trước cổng trường Nhà Hát Lớn mong được gặp Vân, nhưng cổng trường rộng như biển hồ rồi làn sóng người đổ về năm đại lộ như năm dòng sông làm sao mà tìm được Vân? Sự thành công của Kha trong vở kịch bỗng đượm màu ngao-ngán vì lạc mất người yêu.
Nhưng rồi từ ngày sau, Kha cũng không gặp được VâTn mặc dù chàng vẫn nhớ Vân lắm. Thời cuộc tram trọng quá mau lẹ, quân Pháp khiêu khích khắp nơi, tại mọi khu phố tự vệ thành đào gâp hầm chiến đấu. Rồi đến vụ giết người, cướp của, hiếp dâm của quân đội Pháp ở Hàng Bún, tâm tình mọi người dân Việt căng thẳng ra mọi chiều như bị cực hình tứ mã phanh thây, căm hờn bốc lên ngột ngạt không khí, hòa bình cố gắng duy trì chỉ còn treo trên sợi tóc…HÌnh ảnh mẹ mà chàng kính mến, hình ảnh Vân mà chàng yêu thương, bỗng chìm lẫn vào không khí u uất đó chỉ còn thấp-thoáng khi ẩn khi hiện như những đường nét của bức sơn mài sơ khởi. Rồi Kha được tin Vân theo gia đình đi lánh nạn trên đồn điền Phú-Thọ.
Có một đêm kia sau phiên gác Kha trở về nằm lăn ra giường ngủ, quá mỏi mệt quên cả thay áo quần. Kha mơ thấy mình đi thơ thẩn trên một cánh đồng hai bên đường có những cụm hoa vàng. Đó là thứ hoa cúc dường như.ai có đầy rẫy ở quê chàng. Gọi là hoa cúc vì chúng chỉ lớn bằng cúc áo. Cánh đồng bỗng ngập nước biến thành cánh đồng chiêm mênh mông.
Dưới ánh nắng vàng trong, nhìn cánh đồng ngập nước long-lanh đó, Kha nghĩ ngay đến khuôn mặt của Vân, người con gái vừa tới tuổi xuân của đời. Chợt trời mưa…Có tiếng gọi, Kha quay lại nhận ra Vân đứng trong một căn lều gianh đương vẫy chàng. Kha bước vào, bên trong có thắp đèn, bên ngoài như tối hẳn. đôi mắt Vân nhìn chàng vừa như trễ nải buồn rầu, vừa như có sức khêu gợi một cái gì thật mãnh liệt ở tiềm thức.
Trong bầu không khí im lặng, ánh đèn tỏa ra dìu dịu. Kha bâng khuâng không hiểu đó là ánh sáng đèn hay ánh sáng vì sao bản mệnh của Vân. Kha vòng tay ôm lấy Vân và cúi xuống với một bề ngoài lặng-lẽ để mở ra trong đáy lòng cả một làn sóng đam mê hùng vĩ làm đảo lộn tâm hồn…
Và chàng sực tỉnh dậy. Nhưng cụm hoa vàng như còn thấp-thoáng trước mắt, mùi tóc, mùi phấn hương của Vân (ký ức tự đêm xuân trác tuyệt) tưởng chừng còn phảng phất đâu đây. Kha có cảm tình với bất cứ loại hoa nào kể từ giấc mơ đó.
Chiều hôm sau tới phiên gác, Kha cầm súng đứng bên bờ hầm chiến đấu và chàng thanh niên khờ-khạo về chiến tranh, lãng mạn về tình yêu ấy vui mừng xiết bao khi nhận thấy sát với hàng giây thép gai phía trước, dẻo theo mép đường Bờ Sông, có vô số những cục đất đỏ lăn lóc (đất tự những ụ chiến đấu lăn xuống) nhưng không một cụm hoa vàng bị đè bẹp.
CHƯƠNG BẢY
TIẾNG HÁT TỰ LÒNG ĐẤT
I
Kha đã gặp Thi vào một chiều Chủ nhật đúng lúc Thi sắp sửa dời cửa hàng phố Hàng Vải Thâm về làng Định-Quyết. Có lẽ cả hai cùng khát-khao gặp nhau nên Thi đã rất tự nhiên giơ hai bàn tay lên và Kha nắm lấy vui mừng trước vẻ mặt cảm động của bà Phán. Thi nói trước:
- Biết anh đã về mà mấy lần em gặp hụt anh!
Kha khẽ nắm chặt hơn đôi bàn tay nhỏ hâm-hấp nóng của Thi (mà lúc đó chàng chủ ý để biết) và đáp:
- Đúng vậy, anh cũng thế! Thi hơi gầy!
- Em nó gầy quá anh ạ!
Tiếng bà Phán thốt lên. Kha buông hai bàn tay Thi nhưng vẫn nhìn thẳng vào đôi mắt nàng, "đôi mắt thăm-thẳm, đôi mắt của cô gái lao!" Nhưng Kha lại tự cải chính thầm "Không đôi mắt Thi từ xưa vẫn thế". Cái nhìn của Thi như đặt nặng và khoáy sâu vào tim Kha.
- Em sắp về làng?
- Vâng em phải về ngay kẻo hết tàu điện. Về đến làng là vừa tối đấy anh ạ.
Bà Phán nói:
- Bác sắp đưa em nó ra bến xe Bờ Hồ.
Lúc đó Kha mới kịp để ý con sen đã ra ngồi trông hàng và ngay trước cửa, người phu xích lô đang đứng chờ. Chàng vội nói:
- Dạ để bác đưa em Thi ra bến xe ngay cho kịp, đàng nào chủ nhật tuần sau bác cháu mình cũng gặp nhau ở quê, cháu đến mời trước bác từ hôm nay, hôm đó là ngày giỗ mẹ cháu.
Bà Phán ồ lên một tiếng ngạc nhiên rồi mới nói:
- Phải rồi, hôm đó là1 hăm bốn tháng chín, anh nhỉ.
- Vâng ạ.
- Thế nào bác cũng về chứ. Thôi bác đưa em đi kẻo muộn anh nhé.
Thi vẫn nhìn thẳng Kha khẽ cúi đầu:
- Anh ạ, em về.
Kha vội đáp lại tất cả:
- Vâng ạ, bác đi. Thi về nhé. Tuần sau!
Hôm sau, chiếc đồng hồ trầm cảm trên nhà ông Cai điểm dứt mười tiếng, Kha vừa chấm bài xong, thoáng thấy bóng ông Hạo từ ngoài cổng vào, chàng biết ngay là ông tự trong quê ra để bàn về ngày làm giỗ mẹ.
Kha vồn-vã ra đón ông Hạo tận cửa, rồi vừa kéo ghế mời ông ngồi vừa hỏi:
- Thưa chú làng ta có gì lạ không ạ?
Ông Hạo thở phào một tiếng rồi đáp ngay:
- Còn gì lạ nữa hở anh giáo? (Ông cũng mới gọi Kha là "anh giáo") Tây nó không về vây làng thì chẳng có việc gì lạ cả (ông đặng hắng) Chú thím cám ơn anh giáo nhiều về những quà anh gởi về cho chú thím vào ngày rằm tháng tám trước đây.
- Thưa chú cũng may hôm đó cô Hĩm ra đây (ông Hạo hơi nhíu mày nhưng Kha không chú ý thấy) nên cháu mới tiện dịp gửi về biếu bà ngoại cháu, chú thím và vợ chồng cô Hĩm (ông Hạo lại nhíu lông mày). Thưa chú gọi là một chút!
- Ấy cụ ngoại cứ khen anh mãi là "thằng giáo nó biết cách ăn ở ". Cụ dặn tôi ra bảo anh gửi về cho cụ chừng ba trăm bạc, cụ mua hai con lợn con nuôi sẵn để sang năm cưới vợ…Cụ muốn anh giáo lấy vợ đấy!
Kha cười, ông Hạo cũng cười và dặng hắng thêm một tiếng nữa trước khi vào chuyện chính:
- À tôi ra đây hỏi anh giáo về việc làm giỗ bác gái ngày hai mươi bốn tháng chín sắp tới. Ý anh giáo định thế nào?
- Thưa chú cháu sẽ về quê làm giỗ mẹ cháu ở làng.
Kha vừa dứt lời, ông Hạo ngồi thẳng người, hai tay giơ lên ngang vai và cùng một lúc xòe đều mười ngón, rõ là câu nói của Kha hợp ý ông quá.
- Anh giáo nghĩ chí phải – ông nói bằng giọng hấp-tấp nhưng vô cùng nghiêm trọng – tôi cũng định ra bàn với anh điều đó. Chẳng gì bây giờ giời cho mình cũng làm ăn mát mặt…
Kha mỉm cười nghĩ đến thế chông-chênh của đất nước hiện tại và số lương dạy tư hơn ba ngàn của chàng. Ông Hạo cho rằng cháu mình vẫn có tật hay vô cớ mỉm cười như vậy, ông nhớ đến đêm nào xem chèo cổ Kha đã mỉm cười vào đúng lúc cảm động nhất – vì vậy ông điềm nhiên tiếp:
- Thôi thì ngày giỗ mình cũng nên sứa soạn vài mâm cho tươm tươm một tí, chính là dịp anh trinh diện lại với một số bà con thân tình. Những người thân vừa vừa không tiện mời thì mình sắp đồ biếu: một đĩa xôi, ba quả chuối, một miếng thịt quay khổ lớn, thế là đủ. Mua hẳn cái thủ lợn quay anh giáo ạ. Tôi đã tính tất cả chỉ hết năm trăm là cùng.
- Vâng, vậy thì thế này chú nhé, việc mua bán các thứ cháu chả biết trông cậy ai ngoài thím cháu và cô Hĩm….
Ông Hạo ngắt lời Kha:
- Anh giáo cứ gọi em nó là cô Toản, chồng nó là thằng Toản mà.
Ý chừng sợ Kha hiểu lầm về việc bắt bẻ đó, ông chặc lưỡi:
- "Lấy chồng phải gánh giang sơn nhà chồng" em nó đã về nhà chồng anh giáo cứ gọi tên chồng nó cho tiện.
Kha mỉm cười hiểu ý:
- Vâng, trăm sự cháu nhờ thím cháu và cô Toản.
Kha đứng dậy ra cửa hướng về phía bếp:
- Cô Miên ơi.
Tiếng Miên:
- Dạ.
- Cô lên tôi nhờ một tí.
- Vâng, em lên ngay đây.
Kha quay lại nói với ông Hạo:
- Thủ quỹ của chúng cháu đấy ạ.
Ông Hạo lắc đầu tỏ dấu thán phục:
- Anh thật tốt số, gặp toàn những bạn tốt quá đi mất.
Mien đã lên, nhanh-nhẩu chào ông Hạo rồi nói:
- Thưa ông, cháu nghe thấy tiếng ông mà đương làm bếp dở không lên chào được xin ông thứ lỗi cho ạ.
- Ấy chết không dám, cô dạy quá lời.
- Thưa ông cháu đã làm cơm để cả ông cùng xơi với anh em chúng cháu đấy ạ.
- Chết chưa, tôi phải về ngay.
Kha gạt lời ông:
- Chú vội đến đâu đi nữa cũng hãy xin ở lại xơi cơm đã. À cô Miên, cô đưa cho tôi năm trăm đồng. Ngày hăm bốn sắp tới tất cả chúng mình sẽ về trong quê làm giỗ.
Miên vui-vẻ như trẻ thơ:
- Ô thích nhỉ, để em mở tủ lấy ngay đây.
Ông Hạo đưa mắt nhìn theo Miên lanh-lẹ đến mở tủ ở góc phòng, lắc đầu nói khẽ vừa đủ Kha nghe:
- Anh thật tốt số, anh thật tốt số!
Chợt nhớ ra điều gì, ông trợn mắt:
- Chết chưa có một việc chính suýt nữa tôi quên.
Ông móc túi lấy ra một mảnh giấy gấp làm tư. Ông trịnh-trọng mở ra và đặt trước mặt Kha:
- Bài khấn! Phải khấn bằng chữ nho, anh giáo! Tôi đọc cho thằng Toản ghi, chữ khí xấu nhưng anh trông được chứ?
Kha đưa mắt nhìn mấy hàng chữ rồi gật đầu:
- Dạ xem được ạ.
- Anh thử đọc lại tôi nghe xem nó chép có đúng không nào.
Miên trao năm trăm đồng cho Kha và xuống bếp, Kha trao năm trăm đồng cho ông Hạo và bắt đầu đọc thong thả:
"Đại Nam quốc, ngoại thành Hà-Nội, Định Quyết xã, Nhâm Ngọ niên bát nguyệt, nhị thập tứ nhật, thừa đích từ Phạm Mạnh Kha cẩn dĩ cụ soạn phù lưu thanh trước chỉ nghi…"
- Nghĩa là soạn bầy đầy đủ trầu cau, vàng hương – ông Hạo ngắt lời Kha và giải thích.
Kha khẽ dạ một tiếng rồi đọc tiếp:
"..cảm chỉ cáo vu hiền tỷ, húy…lai phối hưởng. Kính thỉnh Thổ Công, táo Quân, trụ trạch đồng lai phối hưởng".
Ông Hạo gật đầu, rất hài lòng:
- Nó chép đúng đấy, hiền tỷ là mẹ, hiền khảo là bố, hiền tổ là bà, hiển tổ khảo là ông, anh giáo hiểu chửa.
Thấy thái độ ông Hạo trịnh-trọng quá Kha không dám cười, chàng chỉ khẽ gật-gù làm vẻ trầm tư như đương hết sức theo dõi lời giảng của ông.
Ông Hạo giảng tiếp:
- Mình cũng phải kính thỉnh cả thổ công và táo quan đến cùng hưởng, một ông là thần đất, một ông là quan trị nhậm tại nhà, mình phải mời chứ, anh giáo.
Kha gật đầu liền mấy cái, vẫn cố giữ vẻ trầm-ngâm đáp.
Tiếng Hiển ở bên ngoài:
- Ê cô Miên ơi!
Miên reo:
- Ô anh Hiển đã về.
Hiển vào nhà cúi chào ông Hạo rồi vẫn nói lớn với Miên:
- Thứ hai này cô đi làm đấy.
Miên nhô ra khỏi bếp:
- Có đúng là đi làm ở nhà thương Phủ-Doãn không anh?
- Đúng – Hiển đáp.
Giọng Miên thoáng lo lắng:
- Hôm hăm bốn là thứ mấy, anh Kha nhỉ?
- Cô đừng lo – Kha đáp – hôm đó đúng chủ nhật.
Hiển nhìn Kha hỏi khẽ:
- Hôm hăm bốn làm gì thế?
- Giỗ mẹ tôi ngày đó.
Ông Hạo tiếp lời:
- Hôm đó ngày húy nhật của bác cháu, chúng tôi trù tính làm trong quê. Để rước cậu và cô Miên hôm đó cùng về.
Hiển cười vui vẻ:
- Dạ có chứ ạ, chúng tôi sẽ cùng anh Kha về từ sớm.
Miên đã vào bếp, tiếng nàng vọng ra:
- Em mà đi làm nữa thì nhà mình gà ăn không hết của!
Ông Hạo mỉm cười như vui lây niềm vui của Miên. Ông chợt đưa mắt nhìn Kha, khẽ lắc đầu rồi nói chỉ vừa đủ ông nghe:
- Anh ấy thật tốt số!
II
Chủ nhật hai mươi bốn tháng chín âm lịch Kha cùng các bạn Hiển, Hãng, Miên về làng từ sớm. Miên giành về phần mình phận sự xách lẵng hoa quả (cam, táo, nho) để lát nữa bầy trên bàn thờ.
Thoạt mọi người theo Hãng rẽ vào thăm bà Phán và Thi trước. Bà Phán hẳn có ý ngóng đợi từ sớm nên vừa nghe tưởng những bước chân lao-xao qua cổng, bà đã tự trong nhà bước ra hiên, ân cần chào hỏi mọi người và mời tất cả vào nhà, riêng với Hãng, bà bảo:
- Cậu xuống bếp bảo con sen đun nước ngay cho tôi đi.
Kha vừa bước lên thềm Thi cũng vừa tự trong nhà bước ra tới bậc cửa, nàng bỡ-ngỡ cúi chào Hiển, Miên đồng thời gọi tên chàng:
- Anh Kha!
Lời Thi thốt gọi nhẹ-nhàng đượm vẻ ngạc nhiên rất thân mật nhưng Kha có cảm tưởng vừa thoáng nghe tiếng kêu của một con chim bị thương. Chàng cất tiếng cười để xóa nhòa cảm giác buồn đó và thốt thành lời vui:
- Trời ơi về Hà-Nội được trên hai tháng rồi mà mãi hôm nay mới thật được gặp cô. Tuần trước cô về quê còn sớm chứ?
Không để Thi kịp trả lời, Kha giới thiệu Hiển, Miên với bà Phán, với Thi.bà Phán trở lại vẻ lịch thiệp ngày xưa:
- Cậu Hiển, cô Miên, dạ phải, lần đầu tiên được gặp cô cậu nhưng tôi đã được anh Kha, em Hãng nhắc cho biết từ lâu.
Thi cúi đầu chào Hiển, Miên rồi Thi nói với Kha:
- Em vẫn hỏi thăm anh luôn, nhiều lúc muốn oán anh vì bằng-bẵng chẳng thấy anh về.
Giọng Thi nhỏ nhẹ dường như nàng không thể nói to hơn được, câu trách thân mật trở thành se-sắt, rồi Thi tiến tới gần Miên thành đôi bạn gái. Bà Phán chép miệng nói với Kha:
- Anh xem, em nó còn yếu quá! Chết chưa, xin mời tất cả vào nhà.
Trong nhà đồ đạc ít, giản dị và sạch bóng. Bà Phán vẫn nói với Kha:
- Rồi lát nữa tôi sẽ sang bên nhà giúp một tay (bà lại chép miệng) ngày nào bà chị tôi còn sống, chị em gần-gũi nhau bao nhiêu…
Thi đứng bên Miên, dáng người Thi gần như Miên, nhưng vì mang bệnh phổi nên Thi gầy hơn, xanh hơn. Kha luôn luôn gặp đôi mắt thăm-thẳm của Thi quay sang hoặc ngẩng lên nhìn chàng. Khi Kha gặp cái nhìn ấy một lúc Thi nói, chàng có cảm tưởng tiếng nói của Thi mất hút vào một thế giới dị kỳ nào không để lại một tiếng vang, điều này càng khiến vẻ đẹp của Thi thêm não-nùng.
Chính Miên cũng cảm thấy thương Thi ngay từ phút đầu gặp mặt. Miên thấy ở Thi hình ảnh của chính nàng nhưng đáng thương hơn vì bệnh tật. Từ trước Miên chỉ thương mình, nay gặp Thi quen Thi, tuy thương Thi mà lòng Miên cảm thấy vui vui, có lẽ vì Miên cho rằng tình thương của nàng từ nay được dịp nở rộng để ôm lấy một đối tượng bên ngoài nàng. Miên và Thi cùng gọi nhau bằng chị và xưng với nhau là em.
Rồi tất cả mọi người sang nhà Kha. Ở đây gà vịt, thịt lợn, thủ lợn quay, gạo nếp, đỗ xanh đã được bà Hạo và cô Toản mua đủ. Mấy con gà, mấy con vịt đã được làm lông sạch, rá gạo nếp vo kỹ trắng ngần đặt trên chiếc chậu sành lớn ngay cửa bếp. Trong bếp thấp-thoáng những ngọn lửa cháy đều, và trên mái tranh một làn khói xám nhạt uốn mình lên cao rồi nhẹ-nhàng hòa vào với khí giời của một sớm cuối thu trong trẻo. Bà Phán bàn với bà Hạo cách làm cỗ. Miên nhờ Thi bầy hộ hoa quả lên bàn thờ, còn nàng thì tiến thẳng vào bếp giúp cô Toản.
Thoạt cô Toản nói một câu xã giao:
- Ấy thôi bác cứ lên nhà, mặc em.
Miên cũng không chú ý đến câu cô Toản gọi mình là "bác", như thể nàng đã là vợ của Kha, nàng chỉ thân mật đáp:
- Em phải giúp chị một tay chứ, có thế mới chóng xong.
Việc cô Toản buột miệng gọi Miên bằng "bác" có lý do của nó. Lần này không phải là lần đầu Miên về làng Định Quyết. Lần thứ nhất nàng về bảo cho ông bà Hạo biết tin Kha bị giữ ở ty công an Gia Lâm, lần thứ hai nàng về báo tin Kha đã được tha và đón ông Hạo cùng ra Hà-Nội, lần thứ ba là lần ăn giỗ này.
Lần thứ nhất bà Hạo thoạt thấy một cô gái xinh xắn, khuôn mặt phúc hậu tuy ăn mặc quần trắng áo màu kiểu Hà-Nội nhưng căn cứ vào hàng may cũng như về người bà đoán cô ta không phải thuộc hẳn hạng con nhà dòng giàu sang đài các. Sau khi Miên đã báo tin một cách lễ phép kèm theo đôi lời an ủi dịu-dàng, nàng trở ra, bà Hạo suy nghĩ rồi buổi chiều, có mặt cả cô Toản, bà nói với ông Hạo:
- Ông ạ, tôi chắc nhà cô này là vợ theo của anh Kha.
Cô Toản nhanh miệng hỏi:
- Cô ấy có xinh không hở u?
- Xinh lắm, phúc hậu, tử tế.
Ông Hạo chặc lưỡi:
- Thời buổi loạn này khối người có vợ theo mà toàn là con gái nhà tử tế. Được về làm dâu nhà mình cũng phúc chán!
Lần thứ hai Miên về đón ông Hạo, rồi chú cháu hàn huyên, rồi buổi tối hai chú cháu đi xem chèo cổ, sớm hôm sau ông từ biệt Kha lên chuyến tàu điện Kim-Liên, về tới nhà còn chân ướt chân ráo ông đã cải chính với bà Hạo:
- Cô hôm nọ không phải là vợ theo của anh Kha đâu. Cô ta còn ông anh ruột nữa, cả hai đều là bạn thân của anh Kha.
Bà Hạo kết luận ngay, giọng đanh thép:
- Trai gái mà thân nhau thế rồi cũng đến lấy nhau sớm.
Bà móc túi lấy miếng giầu cho vào miệng nhai. Ông Hạo cương quyết cải chính:
- Đã đành rằng thế, nhưng không phải là vợ theo, bà đừng nói thế oan người ta.
Miếng giầu đã bị nghiền nát giữa hai hàm răng, giọng bà Hạo vì thế thít lên một cách đáng sợ:
- Đấy, rồi ông xem!
Ông Hạo hơi rẩu môi ra một chút, im lặng.
Ông chỉ dám phản đối tiêu cực có thế.
Lần vợ chồng cô Toản ra thăm Kha, Miên đi vắng. Tới dịp làm giỗ này, chính là lần đầu tiên hai người gặp nhau. Nhớ lại lời mẹ đoán ngày nào Miên là vợ theo của Kha, cô Toản bản tính nhanh nhảu đã buột miệng gọi Miên bằng "bác". Nhưng rồi sau đó thấy Miên và Thi xưng hô với nhau là "chị" với "em", cô Toản vội-vã bắt chước theo, cô cũng biết xưng hô như thế tự nhiên hơn.
- Thưa chị chắc anh còn phải đi làm nên không đến được? – Miên hỏi cô Toản
Cô Toản sung sướng vì thấy Miên đã biết chồng mình cũng là dân đi làm ngoài tỉnh, cô đáp ngay:
- Vâng hôm nay thứ bảy nhà em phải đi làm buổi sáng, chắc sẽ xin về sớm chứ chẳng không.
Rồi trong khi cùng đun bếp, cô Toản kể cho Miên hay cô đã sinh được một trai đầu lòng kháu khỉnh nhưng "giời bắt tội, không cho làm người", cô kể cả tính tình chồng nghiêm chỉnh ham học hỏi, ưa âm nhạc cải cách và mới mua được một chiếc mandoline.
Bóng những thanh niên Hà-Nội Hiển, Hãng bên ông Hạo, bóng bà Phán bên bà Hạo, bóng Miên, Thi bên cô Toản, tất cả tạo thành một bức tranh khá đẹp, khá linh động về sự gần gũi thân mật giữa tỉnh và quê.
Nói chuyện một lát, Hãng đưa Hiển đi ngắm cảnh chùa. Ông Hạo cùng Kha lên sửa soạn bàn thờ. Khi đèn đã sáng choang, ông bảo Kha:
- Thôi xôi gà đã bày trên bàn thờ rồi, anh khấn bác gái đi thì vừa, anh nhớ bài khấn bằng chữ nho chứ?
- Dạ, cháu nhớ.
Nghe Kha đáp, ông Hạo yên lòng, ông lảng ra sân. Sự thực Kha có nhớ gì đâu. Chàng đến trước bàn thờ rồi khấn:
"Thưa mẹ, ngày nay là kỳ giỗ thứ ba của mẹ, nhưng con không được gặp mẹ đã từ năm năm nay. Lễ bạc lòng thành, chúng con làm cỗ cúng, kính mời anh linh thầy mẹ về thụ hưởng".
Đứng ngoài giữa sân, ông Hạo vẫn kín đáo quan sát Kha hành lễ. Ông hơi lấy làm lạ là bài khấn chữ nho khá dài mà Kha đọc chóng xong quá nhưng ông quên ngay điểm thắc-mắc này khi nhận thấy khuôn mặt Kha (lúc đó chàng vừa bước xuống sân) tràn ngập một niềm đau buồn khó tả. Bất giác ông cũng cúi đầu thở dài. Có bóng người lướt nhẹ phía trước. Ông ngẩng nhìn. Đó là Miên bưng mâm xôi chè lên bàn thờ, Thi lẽo đẽo theo sau…Ông mỉm cười bâng quơ, nhưng gương mặt trở lại trầm tĩnh. Vô tình ông tiến về bụi tre đầu nhà, những cây tre cao, thân đã ngả mầu vàng, lá xơ xác nhưng bên dưới đã nhú lên vô số măng non, có cái cao tới một gang tay. Tre già măng mọc! Ông chú ý nhìn những cây măng, ông thấy chúng ngộ nghĩnh, mũm mĩm chẳng khác gì những con gà con rúc trong ổ mẹ, những con lơn con chúi đầu tìm vú mẹ, thoáng một giây ông nghĩ đến cả thằng bé dại con cô Toản."Rõ hoài! - ông tự nhủ thầm - giời để làm người bây giờ thằng bé đã làm được khối trò rồi đấy".
III.
Có tiếng chân bên ngoài hàng giậu… Ông Hạo dời bỏ tức khắc mọi ý nghĩ ví-von luẩn quẩn về những cây măng và tiến nhanh ra phía cổng chào mời đon đả:
- Rước cụ vào ạ…Kìa mời ông bà vào.
Kha cũng đã từ góc sân tiến tới vui-vẻ đón bà ngoại, một tay cầm chiếc khăn mặt đỏ, một tay chống gậy cụ bước vào trước, ông bà cả Bê vào theo sau.
Ông cả Bê nhìn quanh rồi nói với Kha:
- Ô thì ra bác đến sớm hơn cả, đúng là ăn cỗ đi trước lội nước theo sau!
Bầu không khí bắt đầu tưng bừng với lời thăm hỏi cùng tiếng cười giữa bà cả Bê, bà Phán và bà Hạo.
Kha vực bà ngoại lên hè. Cụ chống gậy bước qua ngưỡng cửa tiến thẳng tới bàn thờ. Ông cả Bê cũng đã bước vào và nói lớn để cụ nghe rõ:
- Cụ ơi, cụ lẫn rồi, hôm nay là ngày giỗ thím nó việc gì cụ phải lễ.
Cụ ngẩng lên cười – nụ cười hiền như Phật – và đáp lời ông cả Bê:
- Tôi lễ các cụ chứ đâu lễ nó (cụ ngẩng lên nhìn bàn thờ) cỗ bàn thế này liệu nó có dám hưởng một mình không? Nó phải mời các cụ chứ. Nó trông thấy tôi thế này là nó phải đứng dậy tránh sang một bên rồi.
Ông cả Bê cười để lộ hai hàm răng cải mả và cả một phần lợi trên màu đỏ nhờ-nhệch, nụ cười thật dễ thương nhưng người làng vẫn cho là ông vất-vả chính vì tướng lộ xỉ đó. Ông vừa cười vừa gật gật đầu mấy cái để chứng tỏ là ông đã chịu lý cụ rồi. Ông hỏi, giọng vẫn lớn để cụ nghe rõ (nguyên giọng ông đã lớn rồi).
- Thế ông bà bát Thoại cháu đâu mà vẫn chưa thấy lại, thưa cụ? (Ông bà bát Thoại là cậu mợ Kha).
- À, chúng nó cũng sắp lại - cụ đáp - khi tôi thủng thẳng tới đây, thì chúng nó còn đang mặc áo cho thằng Bắc con Đông. Hai đứa vừa đi học về. Bố mẹ nó cứ định không cho chúng nó đi, tôi bảo phải cho chúng nó đi ăn cỗ chứ.
Bà cả Bê vừa bước vào, thoáng rõ câu chuyện, bà nói:
- Cụ dạy thế là phải, ở đây toàn người nhà cả mà việc gì ông bà Bát phải giữ ý. Giá thằng Chiến nhà cháu hôm nay không sốt mọc răng chúng cháu cũng cho lại, cụ ạ. Trâu bò đến ngày phá đỗ, con cháu đến ngày giỗ cụ.
Cụ gật đầu biểu đồng tình, bà Cả tiếp:
- Thôi bây giờ rước cụ lên lễ trước đi rồi đến lượt chúng cháu.
Bà Phán cũng vừa vào lớn tiếng chào. Cụ nhận ra bà ngay, giọng cụ có vẻ cảm động:
- Kìa bà, quý hóa quá, bà cũng nhớ đến em nó mà sang đây hôm nay ư?
- Thưa cụ có chứ ạ, chị em ăn ở với nhau trước làm sao sau làm vậy.
Bà Phán chép miệng – (từ ngày gặp bao nhiêu cảnh buồn bà vẫn có tật hay chép miệng như vậy)
- Thưa cụ mới ngày nào bà chị con còn sống, chị em chúng con hợp nhau bao nhiêu (bà lại chép miệng) thôi thì mùa nào thức nấy có của ngon vật lạ chẳng bao giờ chị em quên nhau.
Những lời trên bà Phán nói bằng giọng bình thường nên cụ nghe không rõ. Cụ chỉ chăm-chú nhìn miệng bà Phán, và khi thấy bà ngừng nói rồi thì cụ cười như để chấm câu lấy lòng.
Cụ dựng gậy vào bờ cửa rồi quỳ xuống sập có giải chiếu hoa. Trước khi lễ cụ đưa mắt nhìn Kha đứng bên rồi như chợt nhớ ra điều gì cụ nói:
- Mày chờ bà lễ xong, rồi bà có câu chuyện hay lắm nói với mày.
Kha cười và "dạ" một tiếng lớn. Chàng đã biết trước cụ sẽ nói gì…Quả vậy cụ nói theo ý cụ nên mua đôi lợn con từ giờ, rồi chỉ nuôi một năm là đủ hai họ ăn uống. Cụ thèm có chắt lắm. Cụ vẫy bà Phán, bà Hạo, bà cả Bê, cô Toản, rồi cả Miên Thi lại nữa và cụ nói như phân bua:
- Thằng giáo mà nó chịu lấy vợ thì chỉ một năm sau tôi có nằm xuống cũng đã có cái khăn vàng đi đưa đám, thế có phải ai cũng khen là nhà có phúc tứ đại đồng đường không hở các bà?
Bà Quân đến – bà dì Kha – Ty, cậu con giai trưởng của bà, Thơ cô con gái thứ đều đã lớn tuổi nên giữ ý không đến, bà chỉ đắt theo Quảng, cậu con út. Nét mặt bà Quân bao giờ cũng sầu muộn, nụ cười héo-hắt vì cảnh góa bụa và cảnh nghèo thường xuyên của bà. Bà Nụ đến. Bà Nụ cũng nghèo như bà Quân, cũng góa chồng như bà Quân từ sớm và không có con, nhưng bà Nụ bao giờ cũng vui, giọng bà trong, tiếng bà ròn.
Bước qua cổng bà Nụ cất giọng sang-sảng nói với Kha đương chạy đến đón bà:
- Nào hôm nay cô đến xem cháu cô làm giỗ mẹ ra sao nào.
Miên ở trong bếp bước ra, hai tay bưng chiếc mâm đồng nhỏ trên có con gà luộc đặt trên đĩa sứ lớn, mỏ cài một bông hồng. Khi qua chỗ bà Nụ đứng Miên khẽ cúi đầu chào.
Bà đáp lễ rồi hỏi Kha:
- Cô nào đấy cháu?
- Thưa cô hôm nay cũng có mấy người bạn của cháu về ăn giỗ. Cô vừa qua đây là cô Miên, em người bạn thân của cháu….
Bà Nụ vỗ vai Kha cười tít:
- Cháu cô kén vợ khéo lắm nhé.
Hãng và Hiển cũng vừa đi thăm chùa về, Kha giới thiệu:
- Thưa cô anh Hãng thì cô biết rồi, còn đây là anh Hiển, anh cô Miên.
Bà Nụ trở lại nghiêm trang cám ơn Hiển, Hãng đã có lòng chiếu cố về ăn giỗ.
Sau cùng ông bà bát Thoại đến là vừa đủ. Căn nhà hàng ngày vẫn yên tĩnh bấy giờ náo nhiệt hẳn.
Tiếng ông Cả Bê oang oang:
- Mời ông bà Bát lên đây, vụ mùa năm nay ông bà đổ đâu cho hết của?
Đáp lại lời quá khen của ông Cả là những lời rất nhũn nhặn của cậu mợ Kha, ông bà bát Thoại.
Cả làng đều gọi ông Thoại là ông bát Thoại, sắc phong bát phẩm đó không phải do vua ban mà do một người làng bạn, thoạt với tính cách khôi hài, lẽ dĩ nhiên, nhưng rồi lâu ngày dân làng gọi thế quen đi, đến nay danh hiệu đó hầu thành chính thức không một chút khôi hài.
Nguyên do ngay từ hồi còn trẻ tuổi ông Thoại đã nổi tiếng là một tay chơi xì cao nhất hàng huyện. Cao ở chỗ ông rất sáng nước, nhớ và đoán được lớp bài. Cao ở chỗ ông rất bình tĩnh để nắm quyền chủ động trong việc quan sát nét mặt, cử chỉ, ngôn ngữ đối phương, khi đi tiền. Kể cả những con bạc thanh niên hăng hái nhất, giàu tự ái nhất, hiếu thắng nhất, qua một lần chơi xì với ông đều chịu nhận mình chỉ là con nít. Người ta quí ông Thoại chính là ở chỗ ông chơi hoàn toàn do trí thông minh, do tài cao đoán, chứ không hề bịp-bợm.
Hàng năm thời gian "dụng võ" của ông Thoại thường vào tiết trọng xuân, những ngày làng Định Quyết mở hội.
Bao giờ cho đến tháng hai
Cho làng vào đám cho giai ra đình
Tháng hai năm đó ông Thoại mới trên hai mươi tuổi và canh xì giữa thanh niên làng được thiết lập ngay góc đình bên hữu, vừa kín-đáo vừa sạch-sẽ. Rút tới con thứ ba, hai thanh niên bên tả và bên hữu ông Thoại đành chịu bỏ vì bài xấu, chỉ còn ông và người bạn đồng niên ngồi đối diện. Anh này khét tiếng trong làng là đam mê xì và hiếu thắng vào bậc nhất. Hai thanh niên bỏ bài, cùng chống hai tay xuống chiếu theo rõi một cách chăm chú, hào-hứng chẳng kém gì hai người trong cuộc (như thể xem một vở tuồng ruột tuy đã thuộc lòng từng đoạn, từng cảnh mà vẫn hồi-hộp).
Rút cây thứ năm đối phương hơn Thoại có đôi đầm trên mặt. Anh chàng chặc lưỡi nhũn mà thách-thức.
- Pha! (nhường cho địch thủ đi tiền )
Chàng thanh niên Thoại cười ha hả:
- Anh chỉ có một đôi mặt thôi mà tôi lại hơn anh hai Xì và Tây. Vậy xin đi năm chục đồng.
Đối phương nhìn nghiêng để bắt chợt nét mặt Thoại, nhưng nét mặt Thoại có bao giờ thay đổi, chỉ lẳng lặng kéo caií điếu lại, vê thuốc tra vào nõ, từ từ đánh diêm rít một hơi thật ròn, vừa nhả khói thì phương đập mạnh tay xuống phản:
- Theo! Này năm chục và….tố ố ố thêm năm chục nữa!
Thoại nhìn thẳng vào mặt đối phương:
- Anh chỉ có một đôi đầm và tẩy chức, tôi nói cho anh biết thế (Thoại dằn giọng) tẩy chức!
Đôi mắt đối phương thoáng bối rối, Thoại quẳng ra năm chục rồi hỏi:
- Anh còn tất cả bao nhiêu tiền?
- Tất cả trước mặt anh đây này.
Hai thanh niên chịu bài rán theo Thoại từng cử chỉ như để "uống" lấy pha xì hồi hộp và quý giá vào bậc nhất đó.
Thoại hỏi:
- Còn muốn đánh thêm tiền trong túi nữa không?
Đối phương cười híp mắt, vững giọng đáp:
- Làng đây cũng thừa đủ!
Thoại hất hàm:
- Đếm xem còn bao nhiêu.
Đối phương đếm hung hăng:
- Còn một trăm hai mươi nhăm đồng nữa.
Thoại điềm tĩnh nói:
- Như vậy thì ván bài này anh có thua cũng chỉ thua chừng ba trăm là cùng.
và chợt cười lớn:
- Ba trăm có thể mua được một mẫu đất ruộng tốt đấy. Bắt! và tố thêm một trăm hai mươi nhăm đồng nữa.
Đối phương vỗ đùi ha hả:
- Anh đôi xì chăng? Đôi tây chăng?
Thoại chặc lưỡi:
- Tháu cáy đấy, vì biết chắc anh chỉ có đôi đầm mặt và tẩy chức!
- Anh định ăn hết cả tiền để tôi về chết với vợ đấy phỏng?
- Thì vợ anh nó cũng chỉ rỉa-róc anh suốt một tháng là cùng, rồi nó phải quên đi chứ.
Bằng một cử động mạnh bất ngờ đối phương vơ gọn tập giấy bạc trong lòng, giơ cao tay quẳng mạnh vào đống giấy bạc giữa chiếu. Nhanh như chớp chàng thanh niên Thoại vồ lấy cả đống giấy bạc ngồn-ngộn như con sư tử vồ mồi ngon vừa định kéo về lòng chàng thì có tiếng đối phương.
- Ấy khoan! Tôi đã bảo "bắt" đâu mà anh vội vơ tiền thế?
Đối phương cười khanh khách:
- Đánh xì như anh còn kém lắm, tôi quẳng tiền vào như vậy chỉ là để đánh cái đòn thăm dò thôi.
Đối phương thu lấy số một trămb hai mươi nhăm đồng về. Tiếng cười chiến thắng – chiến thắng về tâm lý – càng ròn-rã như để trả thù số tiền đành chịu mất vì mấy lần bắt trước.
Đối phương nói qua tiếng cười chế riễu đó:
- Anh có đôi xì hay đôi tây đấy, cho nhau biết được chăng? Xin nhường anh ván này vậy!
Thoại bình tĩnh vơ tiền về, khuôn mặt không hề thay đổi, chỉ nói khẽ:
- Anh bạn có thể mở lấy mà xem.
Đối phương lật con tẩy của Thoại. Tiếng cười ngưng bặt. Đồng thời với hai tiếng "ồ" lớn của hai ông bạn đã chịu bài khi nãy, tiếng vỗ đùi đánh "đét" của đối phương:
- Bỏ mẹ tôi rồi!
Đúng như lời tuyên bố, Thoại đã tháu cáy, bài chẳng có đôi gì hết.
- Đánh như anh đáng được vua ban bát phẩm văn giai. Giỏi, giỏi thật! bá Thoại giỏi lắm! - đối phương kết luận.
Ván bài tháu cáy được truyền tụng khắp làng và cũng kể từ đấy người làng gọi đùa ông Thoại là bát Thoại. Năm năm sau tên đó nghiễm nhiên thành một danh từ kép, không một chút khôi hài.
Trên bàn thờ đã tàn hết ba tuần nhang thẻ, những thỏi trầm bên trong đỉnh đồng cũng đã bén hết, chỉ còn nén hương vòng cháy dở như tượng trưng cho lòng kính ái thường xuyên của người sống dâng lên người chết.
Được sự chỉ dẫn của bà Phán và bà cả Bê, cô Toản và Miên bày ra làm ba mâm. Sự phân chia thành nhóm khá hợp lý theoquan niệm miền quê. Một mâm gồm toàn các ông: ông Hạo, ông bát Thoại, ông cả bê, các thanh niên Kha, Hãng, Hiển và Toản (vừa đi làm về), một mâm gồm toàn các bà: cụ ngoại, bà Hạo, bà Phán, bà cả Bê, bà Nụ, bà Quân, mâm thứ ba gồm cô Toản, Miên, Thi và lũ trẻ mà các cô có nhiệm vụ trông nom cho ăn: Quảng, Bắc, Đông.
Nghĩ mình lao nặng, Thi xin rút lui, nhưng tất cả những người có mặt đều tiếp lời nhau giữ nàng lại cho bằng được (chính bà Phán và cả Hãng nữa ở nhà vẫn ăn cơm cùng mâm với Thi để nàng đỡ tủi).
Thi miễn cưỡng ở lại nhưng trước khi ăn – cũng như ở nhà – nàng đã kín đáo xuống bếp đặt ấm đồng nước sôi để lát nữa dội vào bát đũa của nàng, và trong khi ăn nàng dùng hai thìa, hai đôi đũa…
Vì cô Toản và Miên phải trông nom lũ trẻ nên mâm thứ ba này nói chuyện ít. Trong khi đó ở mâm các bà câu chuyện tuyxì-xào nhưng giữ được nhịp thường xuyên, thoạt là các chuyện làm ăn cày cấy vất vả, buôn bán khó khăn, tiếp đó ôn lại những kỷ niệm xưa với người quá cố, vui có buồn có, tóm lại câu chuyện nông nổi thôi nhưng tình cảm nhẹ-nhàng thành-thực, từ đầu đến cuối không một phút gắng-gượng.
Câu chuyện ở mâm các ông phức tạp hơn cả. Thoạt là chuyện về thời tiết và vụ màu sắp gặt năm nay, câu chuyện chuyển dần sang thời sự, các ông nhắc lại cái nhục khi con tướng De L. Chết ở mặt trận Ninh-Bình, trường tiểu học làng phải để cờ rũ suốt một tuần lễ.
Ông cả Bê vừa với cái điếu vừa gân cổ lớn tiếng phê bình:
- Bố con đưa nhau sang cướp nước nhà người ta chết là đáng còn cờ rũ cờ riệc làm cóc gì?
Ông bát Thoại:
- Nghe nói dạo đó thằng De L. Nó mắng mấy anh chóp bu chính quyền người mình là ngồi ăn hại trong khi con nó chết.
Ông cả Bê đã đánh diêm hơi cúi đầu xuống để miệng ngậm vào đầu xe điếu sắp rít một hơi bỗng ngửng lên công phẫn:
- Thì nó chửi cho là phải, toàn là lũ ăn hại cả.
Ông bát Thoại chêm thêm một ý kiến sâu sắc hơn:
- Chính phủ khỉ gì thay đổi soành-soạch, nay thủ tướng này, mai thủ tướng khác, dân chúng không hề biết lý do mà à à…cũng chẳng cần biết lý do nữa!
Ông cả Bê vừa đánh que diêm thứ hai chưa hút vội nói:
- Thì chúng nó cứ tự Bắc bay vô, từ Nam bay ra chỉ để gặp đức Mệ ở Huế, đứa nào đút được nhiều thì làm thủ tướng. Các chức chủ hiến cũng vậy. Chúng nó chỉ cần tại chức một tháng là thu đủ vốn và từ tháng thứ hai trở đi là lời.
Ông vẫy vội tay vì que diêm thứ hai cháy đến tay, ông phải đánh đến que diêm thứ ba, Kha còn phải hồi-hộp thấy ông tiếp tục nói cho đến khi diêm này cháy một phân nửa ông mới chịu cúi xuống hút.
Các ông lại nhắc đến chuyện lên giá đồng phật lăng vào tháng tư năm ngoái (1952). Tên thủ tướng làm bộ phản đối Pháp kỳ thực đã được quan thầy cho phép chuyển ngân trước mấy triệu rồi.
Có dịp về quêcn trò như vậy Kha, Hiển, Hãng mới thấy rằng chẳng có gì giấu được người dân. Chỉ có câu chuyện của Toản là không được tự nhiên. Toản cùng lứa tuổi với Kha, Hiển, Hãng, Toàn còn là một công chức, thư ký sở Thủy Lâm. Vì có mặc cảm tự ty về "trình độ văn hóa" trước Kha, Hiển, Hãng, nên anh thích bàn về các chủ nghĩa chính trị trên thế giới, anh nhắc-nhở đến tên một vài danh nhân thế giới, hình như có cả một đôi câu anh đả-động đến nghệ thuật kịch ảnh thế giới.
Khi các ông nói đến lũ con buôn chính trị bay ra bay vô để gặp đức Mệ, anh thêm một câu:
- Đức Mệ đâu đã bằng nữ hoàng Katherine của Nga!
Khi nói đến tên chóp bu chính quyền được quan thầy thực dân báo cho biết trước việc lên giá đồng phật lăng và làm lơ cho được chấm mút ít nhiều trong việc chuyển ngân, anh Toản nhún vai nhìn khắp lượt Hiển, Hãng, Kha rồi mới nói "Bao giờ cho nước mình có được một Mustapha Kémal!"
Toàn còn kể với Hiển, Hãng, Kha về việc trước đây hơn một năm anh bị bắt đến đồn Liễu Giai (về phía Bưởi, ngoại thành Hà-Nội) bị tra tấn thập tử nhất sinh, rồi còn bị giải đến Sureté de l"Air của Pháp ở phố Hàng Vôi để lại bị tra tấn lần nữa, thế mà anh không khai gì hết (vì không có gì để khai). Sự thực Toản cũng đáng để khen ở chỗ không vì bị tra tấn mà khai oan cho người khác, ngày nay Toản vẫn coi đó như một thành tích cách mạng của anh.
Anh kết luận:
- Chỉ thương hại cho nhà tôi ngày đó khóc hết nước mắt. Cứ như là tôi bị bắt nhốt vào ngục Bastille!
Ba giờ chiều Hãng, Hiển và Miên ra Hà-Nội trước, Kha ở lại để bàn với bà Hạo xem phải đem biếu những ai. Bà Phán cũng ở lại trong quê với Thi đến chiều cả mới ra phố. Trước khi về, Thi đến chào chàng. Nàng đứng sững trước mặt Kha nhìn chàng thân mật.
Miên thường chạy trốn trước cái nhìn man rợ của Kha. Thi ngược lại, tuy yếu đuối về thể xác hơn, nàng đã tiếp nhận cái nhìn đó ngang nhiên, bình tĩnh. Phải chăng vì thế mà Kha quyết định ngay rằng chàng có bổn phận gần gũi Thi để sưởi ấm cuộc đời bệnh tật của nàng.
Vì tình yêu của chàng mà Thi khỏi bệnh thì ai dám phủ nhận rằng đó không là một bổn phận thiêng liêng? Trường hợp sắc đẹp mong-manh đó nếu mai đây không thoát khỏi lưỡi hái tử thần thì lại càng là một lý do thiêng liêng để Kha yêu Thi chứ sao.
Kha nói khe khẽ với Thi trước khi nàng về.
- Anh đã có thẻ căn cước, tối nay anh ở lại nhà quê Thi ạ.
Tội nghiệp cho Miên! Có lẽ tại Miên quá chủ quan, coi Kha là của mình rồi nên với chàng, nàng không một cử chỉ khêu gợi lẳng lơ - thứ khêu gợi tự nhiên của cô gái đến tuổi dậy thì - để gây một cảm giác mạnh khả dĩ khuấy động tâm hồn Kha. Nàng hiền quá, thực thà quá, không biết cả khép-nép nữa, bởi khép-nép là một thế thủ đề phòng một thế công – dù là thế công mong ước – và thế thủ đó ít ra cũng gợi trong ý thức Kha là nàng có nghĩ đến thế công của chàng, cái khép-nép của Miên - nếu Miên khép-nép - biết đâu không gợi thế công trong lòng Kha? Miên ngoan quá, hiền quá chỉ một mực dịu dàng tự nhiên như người em gái. Miên đã nhầm! sự nhầm đó làm Miên chịu thiệt-thòi bao nhiêu.
Gió thu lạnh ghê ghê, mùi lúa thơm phức, một thành sương trắng quấn ngang lũy tre một làng xa thành một đại tang, khói lam chiều ở từng mái bếp bốc lên như muối lặng-lẽ sưởi ấm cho thiên nhiên. Kha thấy chán sự ồn-ào của đô thành, Kha ở trong quê một hôm thế này để nghe chính tiếng mình nói không bị lẫn vào tiếng xe cộ. Nhà rộng, sân rộng giờ đây còn ba bóng người, ông Hạo, bà Hạo và Kha.
Có tiếng trẻ con khóc ở căn nhà lá lụp-sụp cách dinh cơ nhà Kha một đường hẻm. Thấy Kha nhìn về phía đó bà Hạo nói:
- Nhà chị cả Cầu đấy, anh giáo còn nhớ chị ta không?
- Thưa thím cháu nhớ - Kha đáp.
Bà Hạo tiếp:
- Anh Cầu đi lính, đồng lương chẳng được bao nhiêu, khi nào về thăm nhà thì mang về cho vợ một ít xà phòng, một ít đồ hộp. Anh ta vợ con lắm!
Bà Hạo ngừng. Mấy giây sau bà nói tiếp, ngượng nghịu vì bà đang nhai trầu:
- Chị Cầu chẳng cần gì đến xà phòng cũng không biết ăn đồ hộp, mà đồ hộp thì còn ra cái gì nữa, chị mang đi bán ráo lấy thêm tiền đong gạo mua rau mua vừng cho hai con.
Anh Cầu – Kha còn nhớ - hơn Kha chừng năm tuổi, con nhà nghèo, thuở bé, đi ở chăn trâu cho ông bá Lãnh ở xóm Quản (xóm này ở giữa làng và trên một bãi cỏ rộng thuộc ngõ xóm về phía sát đồng có cái quán gạch) lớn lên anh đi cầy thuê. Thuở xưa mẹ anh mang thai đã trên chín tháng mà vẫn phải ra đồng cấy lúa, bà đẻ rơi anh ở bên lề cầu đá giữa đồng, do đó đặt tên anh. Anh có nước da đen ròn, mắt tinh, miệng cười tươi, lại khỏe, táo bạo, bơi giỏi từ thuở bé. Gần chùa có cái ao rộng và sâu, xung quanh bờ cây cối um tùm. Ao này đã có hai người chết đuối và trên một cành muỗm ven bờ đã có người thắt cổ, vì vậy tuy ao có cầu xây gạch rất sạch sẽ mà ít đàn bà trẻ con dám đến giặt giũ một mình. Nước ao lúc nào cũng mát lạnh thăm-thẳm huyền bí. Chỉ có Cầu chiều chiều đi chăn trâu về là dám nhảy xuống ao này bơi lội nhởn nhơ. Nhiều lần anh trổ tài lặn cho Kha xem, anh lặn từ bờ ao này sang bờ ao kia. Lớn lên ăn nói có duyên, anh thường trêu cợt các cô - cô nào cũng mắng yêu anh là "phải gió", "nỡm", "chết tiệt". Nhiều khi mải suy nghĩ - nhà nghèo thường có nhiều điều phải suy nghĩ - anh không kịp nhận ra các cô, chính các cô lên tiếng trêu anh trước. Hình như cô nào cũng lấy sự được anh trêu là vinh hạnh. Anh có cách đùa kỳ quái và táo bạo nhất, nhè đúng lúc các cô đương xúm xít giặt giũ ở cầu ao, anh bơi tới gần đấy cởi phăng áo r rkhi sắp sửa cởi nốt quần, anh nói "Chà của giời cho, ăn cắp ăn trộm của ai mà sợ!" Các cô la hét vơ vội lấy rổ quần áo quay mặt đi, la hét đấy mà cười đấy, cảnh lộn xộn y như một chuồng gà mái vừa bị cáo nhảy vào bắt đi một con. Cùng xóm có chị Trác kém anh hai tuổi. Chị Trác cũng là con nhà nghèo, cũng khỏe mạnh, lẳn người và đẹp. Da chị trắng, vào mùa phải đi gặt mướn nhiều, màu trắng đó chuyển sang xám hồng. Có nhiều trai làng gặp chị ở khoảng đồng không quãng vắng giở trò chớt nhả nhảy vào ôm bừa, bị chị đấm đạp cho những cái trời giáng. Chẳng sơ múi gì, các anh chỉ còn biết cười trừ, còn chị thì lúc nào cũng cười tươi và ròn, kể cả khi chị đấm đạp chống cự. Một chiều chị ra ao giặt với các chị em, anh Cầu đủng đỉnh từ trong xóm đi ra.
- Cái ông nỡm kia lại sắp giở trò lục sở đấy - một chị nói.
Quả nhiên Cầu tới khoảng bờ gần đấy cởi áo rồi cởi quần và cũng lên tiếng phân trần trước "Chà, của giời cho, ăn cắp ăn trộm của ai mà sợ!" Nhưng trong khi các chị chu chéo quay giạt sang một bên, riêng chị Trác vẫn điềm nhiên vò áo, đúng lúc Cầu trần như nhộng, chị ngẩng lên nhìn trâng-tráo. Cầu nhảy vội xuống nước. Chính anh ngượng! đến mùa đông năm đó chị Trác thành chị Cầu.
Tiếng con chị Cầu bên đó vẫn khóc, chỉ có tiếng khóc là rõ, nó nói gì với chị Cầu, chị Cầu nói gì lại với nó, Kha nghe không rõ. Thốt nhiên Kha quay lại hỏi bà Hạo:
- Thím ơi, nhà còn phần biếu nào không cháu muốn mang sang biếu chị Cầu, tình hàng xóm!
Bà Hạo gật đầu:
- Còn anh ạ, còn xôi, còn chuối nhưng hết thịt quay.
- Hết thịt quay thím xếp cho một đĩa thịt gà.
Bà Hạo cười:
- Một đĩa thịt gà không phải lối, còn con gà luộc không ăn tới kia để tôi chặt lấy cái đùi. Mà biếu đùi gà thì lại trịng trọng quá, như thể biếu hàng cha chú mình.
- Cũng được thím ạ, thím cứ chặt cho cháu cái đùi gà.
- Được, rồi tôi mang sang cho anh.
- Thím để cháu mang sang, như thế thân mật hơn, chắc chị ấy vẫn nhớ cháu.
Mặt trời đã lặn hẳn, sương lạnh chiếm độc quyền xâm lấn da thịt con người. Mấy chiếc lá mít đỏ ửng như lá bàng lơ-đãng rụng theo cơn gió nhẹ từ phía đông ùa vào. Bên dưới gốc mít là cái vại sành được nước bên trên có tấm phên tre mốc đen, trên tấm phên là chiếc gáo dừa cán ngắn.
Thằng Bá con chị Cầu vẫn khóc lớn, tiếng khóc của nó đau đớn dằn-vặt và tiếng nó nói giờ đây Kha nghe rõ (chàng đã bưng khay biếu đến cửa ngõ nhà chị Cầu):
- Đau quá mẹ ơi!
Tiếng chị Cầu:
- Được rồi, con đã uống thuốc, tí nữa khỏi, nín đi con, mai mẹ đi chợ về lại mua quà cho như hôm nay. Thế con không ăn quà của mẹ ư? Bánh bò mềm mà.
Thằng bé vẫn nức nở nhắc lại điệp khúc:
- Đau quá mẹ ơi!
Kha đã vào đến giữa sân, nhìn thấy ngón trỏ thằng bé ấn cong lên khoảng má bên trong có chiếc răng đau, miệng nó méo xệch nước mắt nhễ nhại. Chị Cầu cũng vừa ngẩng lên nhìn Kha đôi mắt mở tròn bỡ-ngỡ.
- Thưa chị, - Kha nói, giọng ôn tồn lễ phép - hôm nay ngày giỗ mẹ em, gọi là có chút ít mang sang biếu anh chị.
Ở xã Địn Quyết vẫn có thói quen đôi bên không họ hàng thì người nhiều tuổi tự nhiên con người ít tuổi như em mình. Vẻ mặt chị Cầu đã bớt ngạc nhiên, chị mỉm cười cảm động, đỡ lấy đồ biếu đặt lên phản:
- Trời ơi, cậu Kha, cậu lại còn bày vẽ biếu anh chị. Anh không có nhà cậu ạ, chắc cậu cũng biết anh đi lính ba-ti-dăng.
- Dạ em có biết. Thỉnh thoảng anh có về thăm chị?
- Dăm ba tháng một lần cậu ạ. Nguy hiểm lắm, sáu tháng trước đây đã một lần bị phục kích đấy, chết hụt! về làng kể lại, tôi hết hồn. Chỉ còn năm tháng nữa là mãn, tôi bảo thôi đừng đăng nữa, về nhà làm thuê, làm mướn nhưng gần vợ gần con là hơn.
Chị Cầu thở dài, im lặng. Lời Kha nói lễ phép khiến chị không ngại giầu nghèo chênh-lệch (Kha mà giầu!) Kha chỉ hơi tiếc là chàng mặc tây, giá chàng còn giữ được bộ quần áo nâu ngoài hậu phương thì mỗi khi nói chuyện như thế nay chàng đã hòa hẳn được vào nếp sống của bạn nghèo quê nhà.
- Thưa chị cháu đau răng?
- Vâng cháu đau răng cậu ạ. Cậu Thạnh cháu làm y tá ở nhà thương răng Hà-Nội có cho cháu uống át-bi-rin và khuyên hễ khi nào không đừng được hãy nhổ.
Nói đến răng thằng bé lại khóc. Nó chừng lênba, mặt mũi nhem-nhuốc vì cả ngày chưa tắm, lại càng nhem-nhuốc vì khóc nữa. Con chị nó chừng lên sáu cũng nhem-nhuốc như vậy đứng nép vào xó nhà nhìn người lạ không dám ra dỗ em. Chị Cầu đau xót nhìn con khóc. Thà chính chị đau, chị chịu đựng lấy lại đỡ khổ. Ngón tay trỏ rất xinh của nó vẫn ấ ncong lên khoảng má răng đau. Cảnh chị Cầu ôm con lên như cố chia sẻ cái đau với nó làm chính lòng Kha cũng thấy quặn đau và trong một phút tê-tái bàng hoàng giữa khoảng bón chiều xẫm màu, tiếng khóc đau thương của đứa bé bỗng như thành tiếng khóc của cả dân tộc.
Kha chào chị Cầu để rút lui, tai lơ đễnh không nghe thấy lời cám ơn của chị. Bà Hạo chạy ra đón Kha tận ngoài ngõ đỡ lấy chiếc khay ở tay chàng, bà mỉm cười bỡ-ngỡ thấy vẻ thẫn-thờ như mất hồn của ông cháu. Vừa lúc đó một cô gái gánh nước từ phía trước lướt tới.
Cô ngượng-ngập cúi đầu chào Kha:
- Anh ạ!
Kha bừng tỉnh vội-vã chào lại:
- Chào cô.
Và Kha nhìn theo, những giọt nước rỏ xuống đường buồn như những giọt lệ.
Người con gái tuy béo mập hơn xưa nhưng Kha cũng nhận ngay được ra là Ngân. Tính theo liên hệ thân thuộc thì bà nội Kha và ông nội Ngân là hai chị em ruột. Kha nhớ lắm, hồi hai đứa còn nhỏ, hai nhà vẫn nói đùa là sẽ thông gia với nhau theo đúng tinh thần ca dao nửa miệng:
Cháu cậu mà lấy cháu cô
Thóc lúa đầy bồ giống má nhà ta.
Bà Hạo nói khẽ:
- Con không cha như nhà không nóc, từ ngày chú Đội chết, thím Đội làm ăn sa sút dần, rồi con Ngân chửa hoang. Anh giáo có biết không? Cứ như nếp sống ngày xưa thì Ngân nó đâu phải đi gánh nước như vậy.
Lúc đó hai thím cháu đã vào đến giữa sân, Kha đứng dừng lại hỏi:
- Ngân chửa hoang ư thím?
- Cũng chẳng biết nó chửa với đứa nào – bà Hạo đáp lẹ - Đẻ non, bảy tháng, thằng bé ra chết ngay, thôi cũng nhẹ nợ cho nó.
- Năm nào hở thím?
- Cách đây chừng một năm…
Được biết Ngân chửa hoang, một kỷ niệm ngày Ngân còn bé bỗng hiện lên rõ-rệt trong trí Kha. Ngày đó Kha mười tám, Ngân mười ba, ông Đội Thập - cha Ngân - đóng ở Lạng Sơn và Ngân theo cha mẹ lên đó đã được một năm theo học ngay trường tỉnh. Vào cuối một vụ hè bà giáo nhân một chuyến buôn dầu hồi ưng cho Kha theo lên Lạng Sơn. Bà nghĩ hai mẹ con sẽ nhân tiện vào thăm chú thím Đội một thể. Kha còn nhớ ông Đội có lính hầu, oai lắm. Mấy bữa cơm thết đều do lính hầu làm. Đêm đến Kha ngủ trên giường có nệm êm và khăn giải giường mới là trắng bong thơm phức đều do lính hầu sửa soạn. Ngày hôm sau trong khi bà Giáo đi cất hàng (dầu hồi đóng thùng) thì Kha được Ngân dẫn đi xem phong cảnh quanh Lạng-Sơn.
Ngay từ thuở mới mười hai mươi ba Kha đã cảm thấy lòng mê say mỗi khi đọc đến những câu:
Đồng-Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô-Thị có chùa Tam-Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mải vui quên hết lời em dặn dò
Thoạt vì còn nhỏ tuổi quá Kha chỉ thấy se sắt vì âm hưởng của những tiếng Kỳ Lừa, chùa Tam Thanh, sinh thành, dặn dò và hình ảnh nửa như cổ sơ nửa như ngộ nghĩnh của kẻ "Tay cầm bầu rượu nắm nem". Nhưng rồi mỗi tuổi một lớn, sự ám ảnh vì âm hưởng của bài ca dao tác động màu nhiệm đến trí tưởng tượng của Kha. Kha nghĩ chắc là Lạng-Sơn phải đẹp lắm và có một sức quyến rũ thần kỳ nên người chồng mới "mải vui quên hết lời em dặn dò". Nên nàng Tô-Thị mới mất chồng, nên nàng Tô-Thị mới hóa đá. Ôi, cái sự mải vui của người chồng lãng mạn biết là chừng nào, cái lòng chung thủy của người vợ và nỗi đau khổ của nàng đẹp biết là chừng nào. (Hồi đó Kha chưa biết chuyện Tô-Thị là em ruột người ra đi). Và Kha đòi mẹ cho đi Lạng-Sơn bằng được là vì thế. Kha bảo Ngân đưa sang phố Đồng-Đăng. Kha dừng lại rất lâu trên cầu sắt bắt qua sông Kỳ Cùng, dòng nước luôn luôn xiết mạnh và vào sườn núi đá ngầu bọt trắng. Kha bảo Ngân đưa đi xem động Tam-Thanh, nhưng cả hai chỉ xem được khoảng cửa ngoài, không có đuốc và cũng không có người dẫn để đi sâu vào phía trong động. Ngân còn đưa Kha đi xem núi Tô-Thị vọng phu. Sau cùng khoảng giữa trưa, Kha, Ngân, mười ba tuổi nhưng lanh lẹ, sắc sảo như cô gái lớn, ngoan-ngoãn như một nàng dâu thảo, thuần-thục như một người vợ hiền. Thành nhà Mạc cũng chẳng còn gì, di tích là nền móng với ít vôi gạch đây đó ngổn ngang, nhưng cảnh thì hoang vắng, thật là hoang vắng. Ngân mới mười ba tuổi còn nhỏ quá Kha chưa nghĩ đến ôm Ngân vào lòng, nhưng Kha nhìn Ngân trìu mến. Kha còn nhớ tiếng cười của Ngân như vỡ thành những mảnh thủy tinh vụn rồi tan biến vào ánh sáng chan hòa nhưng vắng lặng của miền rừng núi vòi-voi ban trưa.
Khi hai đứa về đến nhà mới hay cả nhà đã chờ cơm từ nửa giờ trước.
Ông bà Đội Thập tiếp tục ở Lạng-Sơn mấy năm sau nữa, cho đến ngày đảo chính mùng 9 tháng 3 năm 1945, quân Nhật tấn công chiếm tỉnh Lạng-Sơn. Ông Đội chết dưới cờ Pháp quốc, bà đội mang đứa con gái độc nhất về làng. Ba tháng một lần bà ra kho bạc lĩnh lương hưu của ông, số tiền chẳng được là bao.
Ngày đó Kha gặp lại Ngân ở làng, Ngân đã lớn, đã biết bẽn lẽn, khuôn mặt đẹp lại u sầu, có lẽ vìshe chưa quên việc cha tử nạn. Như vậy nàng có đủ điều kiện để làm Kha say mê và lấy nàng làm vợ, rủi thay cho nàng khi đó bà Phán đã tậu đất làm nhà ngay bên hàng xóm được trên hai năm rồi. Kha đã gặp Vân, Kha sắp được Vân, Kha đang say mê Vân, điên cuồng. Bóng Ngân vì thế mờ nhạt như ngôi sao mọc muộn về lúc vừng Đông hửng rạng.
IV.
Nhớ đến Vân, Kha cảm thấy cần phải sang thăm Thi, Kha sang ngay. Thi đã đứng ở đầu hiên, dường như nàng đứng đấy chờ chàng từ lâu, bên ngoài khoác chiếc áo len ngắn, mỏng. Con bé người làm đang lúi-húi đun nước dưới bếp. Bóng chiều đã phủ mờ cảnh vật. Thi chạy tới ôm Kha trước, nàng gục đầu lên vai Kha, không khóc, chỉ muốn thu nhỏ lại hơn nữa để Kha có thể bế gọn trong lòng. Nàng để nguyên Kha cúi xuống hôn lên tóc, lên trán, lên má, nhưng hết sức tránh không thể để Kha lướt lên môi. Chính nàng bíu chặt lấy Kha để muốn tìm hơi ấm ở chàng.
Gió chiều thanh-thản rộng lớn thổi vào hồn như thổi vào vũ trụ. Bóng tối bắt đầu nhòa nhòa, ánh trăng giữa khoảnh khắc tranh tối tranh sáng đó chưa đủ uy lực bao trùm lấy cảnh vật, cái nhìn của Kha cũng bị nhòa đi, nhưng Kha cảm thấy rõ người con gái nhỏ bé ngoan ngoãn nép má và ngả đầu lên vai chàng đương lên cơn sốt, thứ sốt hầm-hập, âm-ỉ. Kha vuốt tóc nàng nói khẽ:
- Em nên vào nhà nằm nghỉ. Anh đắp chăn cho em.
Kha dìu Thi vào, đặt Thi nằm lên giường, đắp tấm mền len cho nàng và kéo ghế lại ngồi ngay bên đầu giường.
Con bé người làm châm đèn tọa từ dưới bếp đem lên đặt trên chiếc bàn nhỏ kê sát tường gần đấy, ánh sáng tỏa ấm. Khuôn mặt Thi vẫn quay ra nhưng nàng nhắm mắt thở đều, nàng biết là Kha còn ngồi đấy.
Bà Phán không bao giờ nói, Thi không hề nói và Hãng cũng không nói. Kha có ngờ đâu Thi đã phải bơm hơi vào màng phổi cho một bên phổi nghỉ. Vì phổi hư nhiều tất cả các cơ quan khác đều yếu theo, nàng lâm tình trạng cachexie. Các thứ thuốc trị bệnh và trợ lực P.A.S, vitamine B1 B2, C, Extrait de foie, Campolon, Hépatrol, Solucamphre, Biocholine, nàng dùng như cơm bữa và chích nát thịt mà cơn sốt về chiều stk đến đều tuy không gay-gắt nhưng dai-dẳng.
Thi nhớ như in, như thể nhớ một giấc mộng tối hôm trước, ngày nào Kha tới đồn điền, hay tin Vân đã là vợ Mạnh, Vân khóc, hôm sau Kha ra đi, Vân xách lẳng đi lên đồi hái chè, chỉ có nàng theo anh Hãng tiễn Kha (và Tân nữa) ra tận bờ suối, nàng tần-ngần nhìn bóng Kha mãi cho đến lúc khuất, nắng xuân chói-chang, ban sớm mây trắng như sữa, lúc đó cả bầu trời đã nhuộm màu vàng lộng. Thi đâu có biết là nàng yêu Kha từ ngày ấy, nàng muốn thay thế Vân từ ngày ấy, bỡ ngỡ bước vào tình trường từ ngày ấy. Ngày nay gặp lại Kha, nhất là gặp vào lúc bệnh tình của nàng chẳng còn hy vọng gì qua khỏi. Thi thấy Kha chính là sự sống, và yêu Kha là yêu sự sống, yêu Kha là thế nhập là đồng hóa với sự sống, hay đúng hơn yêu Kha và được Kha yêu lại thì không còn ranh giới giữa sống và chết nữa, nàng đi vào cái gì đó mà người ta gọi là sống đời đời. Cho nên đúng sự thực thi đã ra đứng ngoài hiên chờ Kha vì nàng biết thế nào Kha cũng sang thăm nàng. Thực là khó tả được hết trạng thái tâm hồn Thi khi nàng thấy Kha bước vào cổng đúng như ý nàng mong đợi. Đó là trạng thái tâm hồn của một người hiếu khách, quý bạn, trong một ngày mưa ngâu tháng bảy rất buồn, ngồi một mình ở nhà, nhìn lọ trà ngon trên bàn, ấm nước sôi trên than hồng, bỗng cánh cửa mở tung, người bạn ưu ái nhất của mình tự ngoài vùng mưa gió bước vào, khép cửa lại…Thi đã chạy lại ôm Kha trong tâm trạng đợi bạn như vậy.
Khi ôm gọn Thi, thân hình nhỏ, đôi vai gầy, Kha thấy lòng tràn ngập một tình thương yêu cao khiết như tâm trạng của chàng một lần kia sự dậy giữa nửa đêm, tì cằm tìm vần thơ bên cửa sổ giữa tiếng thì-thầm bí ẩn của hoa lá xung quanh.
Nhưng khi đã đặt Thi nằm lên giường, ngồi bên Thi một lúc, rồi từ biệt ra về, Kha bỗng ôn lại vẻ đẹp của Thi vừa rồi, đúng là vẻ đẹp mong-manh của mảnh nắng vàng chiều hôm cố rực rỡ lên một phút trước khi đổ vỡ không một tiếng vang và chìm nghỉm vào bóng đêm. Cảm giác ôm Thi trong lòng, Kha thấy như cảm giác ôm một sự hoang vắng thân yêu, sự hoang vắng làm con người trở thành nhẹ bỗng trở thành hư vô, thoát khỏi mọi phiền lụy của thế gian.
Lần đầu tiên Kha ôm Thi, nhưng đó cũng là lần cuối cùng vì tuần sau chàng tiễn Hãng đi Pháp (Hãng xin được một học bổng sang đó tiếp tục học Luật). Thi yếu không theo qua tận phi trường Gia Lâm tiễn anh được. Trước khi đi Hãng nói với bà Phán "Sang bên đó con hỏi ngay xem có thứ thuốc nào mới nhất con sẽ gửi về cho em Thi." Nhưng việc đó Hãng không kịp làm. Hãng dời nước được chừng dăm hôm thì Kha đến thăm bà Phán vào đúng lúc con sen vừa ở trong quê ra báo tin chẳng lành. Bà Phán nghẹn lời không khóc được…Kha cùng bà về quê ngay.
Hơi thở Thi đã yếu lắm.
Nàng thiếp dần…
Đôi môi cố gắng mấp-máy nhưng không nói được, chỉ ứa nước mắt nhìn mẹ, rồi nhìn Kha. Đôi mắt đó tràn đầy bóng tối rất mau, rồi hết tinh thần…thân hình bất động…
Câu chuyện thương tâm về cô gái thùy mị, bạc phước, mong manh đó chúng ta chỉ nên biết vậy là đủ. Hãy trở lại buổi chiều Kha từ biệt Thi rồi qua đêm đầu tiên chàng ngủ lại giữa lòng quê thân yêu.
V
Lạnh! Kha rùng mình, tâm trí bàng-hoàng trong tiếng u u đều đều mà chàng chưa nhận ra là tiếng sáo diều. Chàng mở mắt trừng trừng như muốn dùng cái nhìn đó để chống đỡ lấy khoảng trống rỗng mênh mông trong tâm trí, vì xung quanh chàng tối đen như mực. Vô tình chàng quờ tay xuống ngực kéo chăn lên ngang vai. Không phải là chiếc chăn len quen thuộc mà là tấm mền vải thoáng mùi mốc dễ chịu. Kha nhớ ra rồi, chàng ngủ ở quê! Buổi chiều khi sang chứng kiến cảnh nghèo của nhà chị Cầu, nghe tiếng khóc đau đớn dằn-vặt của thằng bé để tưởng như nghe tiếng khóc của dân tộc và ngay lúc đó Kha đã có ý nghĩ: giá những kẻ hiện được thực dân trao cho chút ít quyền hành, chúng có lòng thương dân tộc, biết ôm ghì lấy lịch sử dân tộc mà san-sẻ niềm đau như hình ảnh chị cầu với nét mặt xót xa bối rối ôm con lên, giá được như vậy…
Chị Cầu già đi rất nhiều, cảnh nghèo với biết bao lo âu đã làm bệ rạc thân hình chị. Còn đâu sắc đẹp tràn trề sức sống thuở xưa, còn đâu tiếng cười vẫn ròn tan, vô tư và đầy dung thứ khi chị dùng tay đấm, phóng chân đạp những chàng trai cùng lứa tuổi và lực lưỡng không kém. Kha không được gặp anh Cầu nhưng Kha chắc chắn có gặp anh thì cũng lại gặp một hình ảnh xác-xơ khác chứ đâu còn là anh Cầu đùa cợt hồn nhiên "Của giời cho, ăn cắp ăn trộm của ai mà sợ !" Anh Cầu, chị Trác cũng như hàng triệu thanh niên nam nữ tại khắp miền đồng quê nước Việt tuy lớn lên trong cảnh nghèo của gia đình nhưng đi vào tuổi thanh xuân chan hòa sức sống. Bầu không khí của đất nước màtrg sạch (trách nhiệm của những kẻ nắm chính quyền) biết nuôi dưỡng họ, họ có thừa đức tính để trở nên những vĩ nhân của thế giới ở mọi ngành văn học, khoa học, nghệ thuật. Tất cả những sức sống phơi-phới đó bị bạo lực soi mòn, bị tham tàn bóp nghẹt cho rã-rời tắc thở, sau cùng mụ-mẫm đi mà chỉ còn biết sống theo bản năng. Tuy chỉ sống theo bản năng mà nếp cảm nghĩ cũ còn thể hiện được thành những cử chỉ nhỏ nhưng mênh-mông cao quý. Như chị Cầu thức đến mười một giờ khuya xay bột, dậy từ bốn giờ sáng để tráng bánh cuốn, rồi thổi cơm cùng hai con ăn bữa sáng, nắm cơm cho hai con ăn bữa trưa, vội vã gánh hàng ra đi cho kịp buổi chợ, thường mãi đến chiều mới về. Như anh Cầu ra đi cầm súng, rõ ràng là anh chiến đấu cho sự sống còn của dân tộc nhưng bao công lao đều do thực dân và lũ tay sai hưởng thụ, lòng thương vợ thương con của anh chỉ còn thể hiện được ở chỗ hà-tiện lấy vài bánh xà phòng, bớt ra lấy vài hộp thực phẩm để mỗi khi về làm quà đón tay. Kha nghĩ đến cả guồng máy hành chánh nặng nề của lũ thực dân và bù nhìn, chúng như hợp nhất lại, biến thành một con vampire khổng lồ bám lấy người dân Việt mà hút máu không ngớt. Thoáng trong trí Kha ánh đèn rực rỡ huy hoàng tại các công thự (nơi lũ to đầu ở) những khuôn mặt phè-phỡn, áo quần tề chỉnh tấp nập trong các quán ăn thủ đô mỗi chiều thứ bảy…
Khi về đến ngõ Kha lại gặp Ngân, biết thêm một chuyện về nàng. Rồi Kha sang thăm Thi, bầu không khí kỷ niệm u buồn đó càng quyện lấy hồn Kha rồi khuếch đại mãi lên như một cuồng phong đương thời hoạt động. Trời đã tối mịt khi Kha về, bước vào nhà, lên phản nằm, trong trí ôn thêm những hình ảnh cũ và suy nghĩ rất nhiều.
Ngân đã chửa hoang với một anh nào. Ngân phải yêu người đó vì nàng đâu phải là gái lẳng lơ. Lời bà Hạo còn vẳng bên tai Kha:
"Con gái thế là hỏng một đời!"
Bà Hạo còn cho Kha biết thêm lão hàn Công dâm đãng làng bên có ý định hỏi Ngân làm vợ bé, hắn đã trên năm mươi tuổi, người béo tốt, khuôn mặt phì nộn hồng-hào. Nói về sức khỏe mạnh thô bỉ của hắn, một chàng trai xã Định Quyết đã phê bình một câu khá hóm-hỉnh và cay độc "Thằng cha ấy đái vào gốc tre khô cũng nẩy măng!" Ngân đã nhổ nước bọt khi nghe lão rắp-ranh hỏi nàng.
Kha buồn rầu nghĩ thầm "Thảo nào khi chào mình, Ngân cúi đầu bẽn lẽn".
Kha nhớ đến trước ngày kháng chiến. Tín cũng chửa hoang. Tín cũng ở xóm chùa này và ngày đó cũng trạc tuổi Ngân bây giờ. Nàng là cô gái chanh-chua nhất làng. Nàng chửi thẳng vào mặt những cô bạn nào dám "nói động" đến nàng. Nàng chửi có sách và bài chửi linh động tùy theo hoàn cảnh, như một nhạc sĩ sử dụng phím đàn tùy theo nhạc hứng. Nhất là khi đánh nhau với chị em, phải nói làshe được đánh nhau, nàng say mê trong vật lộn y như một nghệ sĩ say mê trong sáng tác, nàng nhỏ người và yếu nên thường bị đối phương đè rấp xuống bùn nhưng nàng túm tóc đối phương mà kéo xuống. Đã có lần cả xóm đổ ra và những bà lực-lưỡng nhất xúm lại phải vất vả đến mười lăm phút sau mới gỡ được tay nàng ra khỏi mớ tóc nạn nhân (vẫn là nạn nhân, mặc dù đè lên trên). Khi đứng dậy mỗi người bị kéo về một phía, nàng chỉ còn chửi, lời lời tuôn ra tưng bừng như dòng suối xuân, đối phương không sao chửi kịp, bởi một lời của đối phương vừa cất lên, lời đó lập tức đã bị chìm nghỉm vào cả một khối lời trơn-tru mà số lượng cũng như chất lượng – có thể nói là chất lượng lắm chứ - phồn thịnh gấp trăm lần.
Rồi nàng về tắm rửa thay quần áo sạch, nhởn-nhơ đi ra đường, tinh thần rõ ràng sảng khoái như một người đã thực-hiện đầy đủ nguyện vọng của mình.
Năm 1945, sau cuộc khởi nghĩa tháng tám, tối tối nàng xách đèn dầu ra đình theo lớp bình dân học vụ. Người dạy là Kiên, một thanh niên xóm Quán, tính tình trang nhã, có vợ và hai con.
Tính tình Tín cũng thay đổi hẳn. Nàng trở nên dịu-dàng thuần-thục, tuyệt nhiên không chửi nhau hoặc cãi lộn với ai.
Năm đó nước lớn, đê vỡ, lúa mùa bị ngập dưới sâu một thước. Một đêm trung tuần tháng chín, Kiên chèo thuyền ra đồng đến quá nửa đêm mới về, mang theo một con đỉa bám vào kẽ ngón chân cái mà không biết. sớm hôm sau con đỉa hút đầy máu to kềnh rụng xuống sàn nhà. Ba tháng qua đi, sang hạ tuần tháng chạp vào khoảng nửa đêm và sáng ngày hai mươi sáu tết cả làng Định Quyết đương chìm trong giấc ngủ say sưa, bỗng có tiếng kêu kinh hoàng, đó là tiếng hú hồn của bà Hương Trí (mẹ Tín):
- Hú ba hồn chín vía con Tín ở đâu thì về với cha mẹ, anh eeeem!
Ba lần như vậy rồi im lặng.
Kiên là một trong những người dit vùng dậy, anh ngồi như tượng, đôi mắt trừng trừng nhìn vào khoảng không, cả bầu trời bên ngoài đen kịt, lạnh buốt căm căm. Từng cơn gió giật, hun-hút khô khan qua những cành bàng trụi lá, rì-rào bí hiểm qua những lùm soan cao vút quanh nhà.
Tín uống thuốc phiện dấm thanh. Miệng nàng ngậm chiếc nhẫn vàng khi chết (người ta bảo ngậm vàng thì chết linh thiêng). Nàng có mang được ba tháng.
Kha thiếp ngủ lúc nào, không ăn cơm chiều. Bà Hạo buông màn và đắp chăn cho chàng chiếc mền vải. Bà biết Kha có lòng thương người, bà thương Kha cách biệt gia đình trong thuở ly loạn, bà giáo chết, mẹ con chẳng được gặp nhau.
Một tia sáng như hư như thực lọt qua khe cửa giúp Kha đoán là trăng hạ tuần đã lên. Chàng ngồi nhổm dậy, khẽ vén màn, khẽ rón-rén mở cửa rồi lách ra ngoài. Dưới ánh trăng mờ đồng hồ tay chỉ ba giờ rưỡi sáng. Tiếng sáo diều đều đều giờ đây nghe thật rõ.
Kha không ngờ sau bao ngày chinh chiến dân làng Định Quyết vẫn còn giữ được thói quen thả diều sáo vào những đêm hạ và đêm thu. Diều cỡ trung bình bề ngang chừng ba thước gọi là diều sáo, cỡ lớn bốn hoặc năm thước là diều chiêng (có lẽ vì mang sáo lớn tiếng kêu âm u như tiếng chiêng). Giấy phết lên diều được quét thêm một lần sơn sống để nhỡ rủi có gặp mưa bất ngờ diều cũng không bị bục từ trên cao. Nếu gió cứ dìu-dịu đều đều, diều thả suốt đêm.
Kha bước xuống sân nhà ngẩng nhìn trăng hạwek giữa khoảng vắng lặng của cảnh vật, ánh trăng buồn-bã chiếu sáng mấy vệt mây trắng bất động giữa đỉnh trời, bóng những lá cau phơ phất, những cây soan cao như những cây thông với những lùm lá thẫm màu nhòa nền trời, ngang tầm mắt, hình hàng rào duối dọc theo ngõ xóm in thành một vệt sẫm thẳng tắp.
Kha tiến tới một cây thấp gần đấy, những hạt sương long-lanh như những hạt lệ của cảnh vật khóc rưng rưng khi nghe tiếng than vãn từ vạn cổ của sáo diều. Lòng se sắt Kha tưởng chàng có gom phần nước mắt của mình vào những giọt sương đó. Hình như tiếng sáo diều chung kết lại tất cả những mối sầu của tình quê kẻ còn (Ngân) cũng như người khuất (Tín). Ánh đèn thấp thoáng bên nhà chị Cầu. Chắc chị đã dậy sửa soạn tráng bánh. Có tiếng chày mau và đều. Thốt nhiên nhịp theo tiếng chày đó một giọng hát cất lên, giọng hát êm tưởng như theo gió từ xa..xa lắm vẳng lại.
Kha đứng lặng như bị chôn chân xuống đất vì chàng chợt nhớ ra rằng tiếng hát đó, cũng như tiếng sáo diều kia chàng đã được nghe từ lâu lắm, từ ngày chàng còn nhỏ xíu luôn khóc đòi mẹ ẵm lên lòng. Rồi từ đấy vì được nghe luôn nên chàng không hề lưu ý tới những âm thanh và âm điệu đó, cho đến nay bặt một thời gian sáu bảy năm xa cách tiếng hát đột nhiên xuất hiện vào giờ này để tự tô đậm nét trường cửu của nó. Tiếng hát giọng đò đưa buồn buồn, chơi vơi xa vắng. Lời không rõ nhưng cảm giác thì như vậy. Tựa như tự thuở nào đến giờ cứ vào những giờ thanh vắng đó là tiếng hát nổi lên, tiếng hát như thoát lên tự lòng đất, kể lể nỗi niềm để vừa thoa dịu vừa làm cho thấm-thía thêm những sầu hận của những kẻ chợt thức giấc đón nghe nó.
Một đợt gió lùa tới làm lanh gáy Kha. Chàng vẫn đứng chôn chân một chỗ, lặng nghe tiếng hát. Có tiếng lá cây xào-xạc tự đàng xa, rồi một đợt gió khác mạnh hơn ào ào lướt tới như một đoàn âm binh trẩy gấp vì một nhiệm vụ khẩn cấp. Kha vẫn đứng nguyên chỗ cũ hoàn toàn bị giọng hát thôi mien, hay đúng hơn để cho tâm hồn tan vào tiếng hát, xóa nhòa ý niệm về thời gian và không gian. Tuy nhiên chàng vẫn cảm thấy lạnh, cái lạnh của một tâm hồn cô đơn. Hình như chàng mỉm cười vì trong cái vô cùng cô đơn ấy chàng thấy rõ rằng chiến tranh tàn phá gây biết bao cảnh đổi đời, nhưng có một cái mà không gì tàn phá nổi là tiếng sáo diều và nhất là tiếng hát kia, tiếng hát tự lòng đất, tiếng hát sầu dằng dặc nhưng là tiếng hát bất tuyệt vỗ về an ủi sự sống làm cho sự sống càng phì nhiêu và bất tuyệt như nó.
PHẦN HAI
CHIẾC BÈ NỮ CHÚACHƯƠNG MỘT
TRÊN BỜ VỰC LỊCH SỬ
I.
Chợt thức giấc ra vườn dưới ánh trăng tà gần về sáng nghe tiếng
sáo diều buồn hiu hiu, nghe điệu đò đưa thổn thức như bốc lên tự lòng đất ghi
nhận sự bất tuyệt của tình quê, rồi Kha cũng phải trở vào nhà, ngả lưng xuống
phản, đắp chăn ngang bụng, để mặc cho ý nghĩ lông bông rồi chợp ngủ lại... Khi
chàng sực dậy đã có tiếng lách cách dọn cơm.
Nhà quê vì việc cày bừa vất vả nên có thổi bữa sáng, mâm cơm
thịnh soạn mà thân mật với những thức ăn dư hôm trước được đun lại. Lâu lắm Kha
mới được vục mặt vào chậu nước mưa trong vắt đầy ắp và hầu như có phảng phất
hương cau hương nhài. Rồi ba chú thím cháu vừa ăn vừa ôn lại chuyện mời mọc hôm
qua xem có điều gì khuyết điểm không. Ăn xong cũng đã tám giờ sáng, trong khi
ông bà Hạo sửa soạn đi thăm đồng, Kha tạm biệt chú thím ra Hà Nội. Khi qua cổng
nhà Thi, Kha đã thấy Thi từ trên hiên bước xuống tới chàng. Nàng hỏi:
- Anh ra phố?
Kha gật đầu âu yếm đáp:
- Anh phải ra phố sớm để kịp soạn bài dạy buổi chiều.
- Em tiễn anh một quãng.
Thi đi bên Kha, nhỏ bé.
- Đêm qua em ngủ ngon giấc?
- Cám ơn anh, khá.
Đi qua cổng chùa một chút Kha dừng lại bảo Thi:
- Thôi em yếu đừng tiễn anh xa lát nữa về một mình mệt.
Thấy không có bóng người, Kha dịu dàng cầm tay Thi:
- Vả lại sớm nay lành lạnh, em nên trở lại nằm nghi, tuần sau
anh về.
Thi ngoan ngoãn vâng lời.
Ra tới Hà Nội, Miên đã đi làm, buổi đầu tiên của nàng tại nhà
thương Phủ Doãn. Kha thấy Hiển ngồi thừ trước bàn, tay cầm mẩu giấy nhỏ. vẻ thẫn
thờ của Hiển làm Kha chột dạ. Kha hỏi:
- Có việc gì thế Hiển?
Hiển lắc đầu ngao ngán:
- Tôi thật ngu như bò, lúc vào đây thực thà khai văn bằng,
bây giờ nó bắt vào Nam theo học lớp sĩ quan Thủ Đức. Giấy vừa nhận sáng này
đây!
Kha chỉ thốt được tiếng "hừ", chưa biết tính sao,
Hiển đã nói:
- Chúng mình đến thăm Hãng, cả ba cùng bàn xem sao.
- Nếu vậy nên đi ngay!
Hãng có nhà và khi hay tin Hiển bị gọi đi theo học lớp sĩ
quan Hãng cũng thốt tiếng "ủa" ngạc nhiên, thành thử ba người gặp
nhau cho ấm lòng thôi, chứ cùng vô kế khả thi. Hiển nói:
- Đây mới là giấy gọi lần đầu, còn thì giờ xoay xở. Ban sáng
ông Cai hàng xóm trước khi đi làm, thấy tôi nhận được giấy này bèn góp ý là tôi
nên thi vào làm thông ngôn trong thành, thi xong chi một tháng sau đi làm và
đóng đội ngay, như vậy tránh được lệnh động viên này.
Đôi mắt Hãng bỗng trợn tròn, miệng há hốc rồi nói ngay:
- Ấy chớ! Nhục! Nhục, thật là nhục!
Thoạt Kha và Hiển chưa hiểu sao, nhưng khi nhớ lại những lời
trước đây Hãng thường cau có thốt ra thì cũng mang máng đoán được phần nào.
Thì ra con đường đó chính là con đường Hãng đã đi. Bỏ
"ngoài kia" vào thành, gặp lúc buôn bán khó khăn, mẹ túng, lại thêm vấn
đề động viên, Hãng vào làm interprète (thông dịch) đồng hóa chân sergent trong
quân đội. Thoạt Hãng ngỡ là chỉ việc ngồi tại phòng nhì - (cái tên nghe đã gây
nhiều ác cảm) - dịch tài liệu ai ngờ họ còn có quyền bắt đi "ốp" (opération).
Lần thứ nhất đi theo chiến dịch Hãng được xếp ở một trại lọc tù binh - camp de
triage. Các thầy đội thông ngôn mỗi người một bàn, tù binh - những người dân tại
các làng lân cận đủ nam phụ lão ấu bị quây dẫn về- xếp thành từng hàng dài, các
thầy hỏi mấy câu theo chỉ thị, rồi tùy theo sự nhận xét của mình phát cho tờ
phiếu xanh hay đỏ (nguy hiểm hay không) nhốt vào hai nơi riêng. Người dân quê vốn
giàu nhận xét thực tế, thấy phiếu đỏ phát cho những người già, những người tàn
tật thi họ đoán ngay là những người phiếu đỏ sẽ được thả sớm bèn ăn cắp của
nhau những phiếu đỏ đó ngay khi còn trong hàng, thế là những lời than khóc, cãi
cọ làm sốt tiết một vài thầy đội thông ngôn đương hỏi cung, những đường gậy
giáng xuống đầu, những dòng máu đỏ tươi rỉ ra chảy xuống, quện đặc lại, tím đen
dần bện vào mớ tóc rối bản bên màu da vàng xỉn... Bức tranh điêu linh còn đó chỉ
phản ảnh được muôn một thảm trạng mênh mông rộng lớn mà người dân quê Việt
đương phải chịu đựng. Lần thứ hai Hãng đi "ốp" theo sát hẳn đại đội
hành quân càn quét. Hãng dừng lại cùng bộ tham mưu bên một nhà thờ nghe bộ phận
truyền tin gọi chasse - khu trục cơ. Mười lăm phút sau bốn chiếc Hell Cat thay
phiên nhau rú máy nhào xuống thả bom napaim rồi nã liên thanh xuống khu đồi sừng
sững ngay trước mặt. "Thực là như ciné!" - một người nói vậy. Sau phần
can thiệp của khu trục, bộ binh từng đợt tiến lên chiếm lĩnh ngọn đồi, thường
thì quân đội chính quy đã rút lui, chỉ còn người dân giơ đầu chịu báng. Các thầy
đội thông ngôn có việc làm, những người dân bị dẫn tới, các thầy hỏi về tình
hình địch, quân số địch khi họ chưa rút lui. Hãng còn nhớ lắm đặc biệt lần đó
người ta dẫn đến trước Hãng một cô gái quê, khuôn mặt sầu khổ, đôi môi mím, đôi
mắt luôn luôn gợn ánh căm hờn, Hãng chợt chú ý đến chiếc quần của cô mặc trái,
đũng có thắm chút máu. Nàng mới bị cưỡn đoạt trinh tiết không bao lâu. Mặc dầu
lời hỏi của Hãng rất dịu dàng lễ độ, nhưng dịu dàng lễ độ như vậy để làm gì? Cứu
gỡ được gì cho người con gái? Thay vì lời hỏi lẽ ra Hãng phải lớn tiếng tự nguyền
rủa mình đã là thầy đội thông ngôn, nhân viên phòng nhì của quân đội viễn chinh
Pháp... Lần thứ ba đi "ốp", Hãng phải theo bộ chỉ huy tiến sâu và mở
rộng các mũi dùi vào một miền đồng bằng. Trên các tường đình, chùa, miếu nào đều
có ghi khẩu hiệu địch vận tiếng Việt có, tiếng Pháp có, dọc đường tiến quân rải
rác những truyền đơn địch vận. Hãng nghĩ trước đây mình đã từng chỉ huy cơ quan
địch vận, việc làm chính đính vằng vặc như trăng sao, giờ đây lật ngược hoàn cảnh,
chàng lại ở về phía địch làm thầy đội thông ngôn phòng nhì, thật là bỉ ổi.
Chàng có thể dẫm phải mìn mà tan thây, có thể bị phục kích mà nằm gục trên vũng
máu đỏ, thật ô nhục, chết cho bộ đội viễn chinh, kẻ thù đương muốn cướp lại đất
nước mình. Trong chuyến đi "ốp" này, Hãng thực mục sở thị cảnh những
xe lội nước theo lệnh dàn thế trận rồi bắn như mưa vào một làng, những cây tre
rập gục, thấp thoáng mấy con trâu con bò vùng chạy lúng túng rồi ngã khuỵu dưới
làn đàn chằng chịt bừng bừng sát khí. Rồi bộ binh tiến vào làng, vắng teo. Và
những khẩu hiệu những truyền đơn! Một binh sĩ chui vào một cái hầm rộng buộc thừng
vào cổ chân một người chết, kéo ra ánh sáng: một cụ già đầu tóc bạc phơ vẻ mặt
phong lưu, người cụ không một thương tích chắc vì hầm nông quá, hơi bom đạn dội
vào mạnh quá làm cụ đứt mạch máu đầu. Rồi đây quân đội rút đi, cái xác còn lại,
con cháu về khóc lóc, chôn cất, hận thù bao giờ nguôi? Tát cả đồng quê chìm ngập
trong hận thù như vậy, thứ hận thù chính đáng rõ rệt như trắng với đen. Quân đội
viễn chinh xì xồ nói tiếng ngoại quốc ra lệnh bắn giết triệt hạ để hòng tái chiến.
Hãng ở phía quân đội đó, thực là sỉ nhục! Chua chát mỉa mai hơn nữa là nếu miền
này hoàn toàn dưới chính quyền vững chắc của cán bộ Việt Minh thì chỗ đứng của
cụ già phong lưu kia lại là ... đấu trường, vậy xung quanh cụ không là lửa đạn
nhưng là những cán bộ tam cùng, người nguyền rủa cụ chẳng là thứ tiếng xì xồ
ngoại quốc mà là tiếng nói biến dạng của lũ con cháu đã được Đảng giáo dục lại
...
Buổi chiều hôm đó bộ đội "ốp" đóng quân trong một
làng khá dài và rộng. Tiếng lợn eng éc, tiếng gà quang quác ... có tên da đen lục
lọi tìm được máy quả trứng tươi trong ổ gà đẻ. Cùng buổi chiều đó Hãng chứng kiến
một "sen" hồi hộp suýt thành bi thảm. Quân đội tạm đóng chia nhau bố
trí canh gác quanh làng. Hãng phải ra đầu làng hỏi cung một thanh niên mới bị bắt
giải về. Người thanh niên ít tuổi hơn Hãng, khuôn mặt sáng sủa, đôi mắt ranh
mãnh, nụ cười cố làm ra ngờ nghệch. Hãng đoán ít nhất cũng là trưởng ban tuyên
truyền hay trưởng ban địch vận chi đây. Chàng làm mặt nghiêm hỏi:
- Tên anh là gì?
Anh chàng làm bộ khúm núm đáp:
- Bẩm quan tên con là Trần Văn Thiên.
Hãng cố dấu nụ cười vì chàng thấy ánh mắt kẻ đối diện thoáng
tia dí dỏm, chàng đoán song song với câu "bẩm quan" trên phải là câu
chửi đổng kèm theo một lời nguyền rủa ngầm bên trong. Hãng lại làm mặt nghiêm hỏi:
- Có phải anh là cán bộ tuyên truyền?
- Dạ bẩm quan không ạ.
- Anh là cán bộ địch vận?
- Dạ bẩm quan không ạ, lạy quan thương tình.
Nếu lật ngược tình thế- Hãng nghĩ thầm- chàng thanh niên này
bắt được Hãng, y chỉ cần biết đơn giản là Hãng làm ở phòng nhì nhất định y ra lệnh
xử bắn ngay, không một chút thắc mắc, mà chính Hãng trong trường hợp đó cũng
không hé một lời van xin, một phần vì biết van xin cũng chẳng được, một phần
Hãng cho rằng rủi mình bị bắt, chết cũng đáng đời mặc dù chàng chẳng làm điều
gì ác, mặc dù cha chàng bị tụi chúng bức tử. Chàng cho rằng riêng việc mình đứng
trong hàng ngũ quân cướp nước- dù là đứng hờ- cũng đáng chết rồi.
Sau một phút đờ đẫn Hang sực định thần bắt chợt ánh mắt riễu
cợt của đối phương. Có thể là y đương quan sát lại Hãng và tưởng tượng cảnh lật
ngược thế cờ xử bắn Hãng. Hãng mỉm nụ cười buồn rầu, chàng giao trả y cho quân
độj canh giữ, vừa lúc có máy người lính vác tiểu liên chạy rầm rập theo đường lớn
ra khỏi làng một quãng rồi lên một gò cao, nơi có bố trí lính canh. Thì ra họ rọi
ống nhòm thấy có ba người dân đương tiến về làng. Hãng theo chân bọn lính lên
gò. Tiếng nói chuyện của ba người dân càng ngày càng rõ dần, giọng họ trong trẻo,
vui vẻ, đượm chút hài hước mà không ngờ rằng đương đi vào tử địa. Khâu tiểu
liên đã được đặt trên chiếc giá ba càng vững chãi, mũi súng chĩa về phía ba người
xa, những người lính nằm nép xuống ... rình mồi. Tiếng nói của ba người đã rõ hẳn,
họ đương thuật lại cho nhau nghe việc chạy loạn sáng này. May thay, cả ba rẽ xuống
con đường nhỏ. Thì ra không phải họ tiến thẳng về làng hiện bị chiếm, họ rẽ xuống
làng đối diện. Lập tức người tiểu đội trưởng cho lệnh bắn, khẩu tiểu liên khạc
lửa, tiếng nổ vang dội trong bóng chiều, ba người dân vùng chạy cuống quýt lảo
đảo nhưng vẫn giữ vững hướng tiến thẳng về phía trước mặt, họ bỏ đường mòn, lội
ùa xuống ruộng lúa, tiểu liên tiếp tục khạc lửa, tiếng những bước chân bì bõm lội
nhanh, nước bắn tung tóe. Hú vía, cả ba đã thoát xa tầm súng... Họ sẽ nhớ đời đời
chiều nay. Ngày mai, ngày mốt họ sẽ kể lại chuyện này cho con cháu nghe, câu
chuyện hào hứng biết là chừng nào, còn gì hào hứng hơn là chạm trán rồi chạy
đua với Thần Chết? Rồi từ đây cho đến ngày họ lìa bỏ cõi đời trên giường bệnh
làm sao họ quên đựợc chiều hôm nay, tất nhiên thỉnh thoảng họ phải ôn lại, thuật
lại. Chuyện thoát chết càng xa ngày, lời kể càng linh động vì thêm những chi tiết
hoang đường hơn một chút.
Hôm sau, quân đội tiếp tục cuộc hành quân càng quét. Vừa khi
gặp đường cái quan đưa về thị xã thì Hãng hay tin anh chàng trẻ tuổi tinh ranh
bị hỏi cung chiều hôm trước đã trốn thoát.
Không đi "ốp" ở lại bàn giấy cũng chẳng thanh thản
gì hơn. Đương dịch tài liệu có thể một sĩ quan Pháp đưa đến một nqười vừa bị
tra tấn xong mặt mũi sưng húp để hỏi cung lại, mình thông ngôn. Có thể một nguời
mới quy thuận được gọi tới đưa sang phòng không quân. Nơi đây Hãng thông ngôn
cuộc gạn hỏi về địa điểm những cơ quan kháng chiến. "Gần con đường Thái
Nguyên Bắc Kạn phải không? Gần suối lớn không? Gần núi không? Bên phải núi hay
bên trái? Có phải vào khoảng này không?" Những tấm hình lớn chụp từ máy
bay xuống được đem ra sử dụng -phòng Nhì Pháp đã chụp hết lãnh thổ Việt Nam. Nếu
kẻ kia nhận ra địa điểm gật đầu (hay gật đầu liều) thì viên sĩ quan tình báo
khoanh một dấu tròn bằng bút chì xanh hay đỏ để đưa sang phòng chiến dịch ủy
nhiệm cho các loại phi cơ phóng pháo đi oanh tạc.
"Nhục, thật là nhục!" Hiển vẫn hằng nghe câu nói đó
thốt ra tự miệng Hãng, khuôn mặt phong trần của Hãng lúc đó có một vẻ gì sót sa
khôn tả. Cho đến hôm nay nhân lời nói của Hiển muốn thi vào làm thông ngôn
trong quân đội viễn chinh để tránh đi lớp sĩ quan Thủ Đức, Hãng mới bộc lộ hết
cả. Hãng kết luận với Hiển:
- Anh nên đi theo lớp sĩ quan đó. Anh biết đấy, trước đây
Pháp nó có dám cho chúng ta học chỉ huy quân sự đâu, chỉ được làm lính chết
thay cho nó thôi, nay gặp dịp nó phải nhả ít quyền hành chính và quân sự mình
nên lợi dụng học lấy, rồi khi ra đã là sĩ quan, dưới anh có bộ đội, ít nhất anh
cũng được quyết định theo lương tri của anh để chống lũ cộng sản mà ít làm
thương tổn đến dân chúng. Lóc những thớ thịt nhiễm độc cộng sản trong toàn cơ
thể miền quê mình hiện nay là một công việc vô cùng tinh tế, không phải là sĩ
quan Việt Nam đã sống với và đã lọt khỏi cộng sản rồi, không thể làm nổi. Anh
nghe tôi, hãy cứ đi đi. Chúng ta đâu có chịu tiếp tay cho thực dân cướp nước?
Contrat đầu tiên ba tháng tôi làm "thầy đội thông ngôn" trong phòng
nhì Pháp, tôi cũng đã lợi dụng được tờ giấy chứng nhận là quân nhân để nhờ một
người bạn đồng học hiện làm ở Bắc Bộ Phủ vận động cho được cái học bổng qua
Pháp tiếp tục học Luật. Mọi công việc đã xong, học bổng đã được cấp, contrat (hợp
đồng) ba tháng của tôi vừa hết, tôi vừa báo tin cho mẹ tôi hay là tuần sau tôi
lên đường, bây giờ đến các anh hay đó.
Kha sung sướng nắm tay Hãng.
- Trời ơi, sao cậu kín đáo thế, gần đến phút cuối cùng mới
cho mọi người hay.
Hãng cười khà:
- Biết làm thế nào, vì chính tôi trong lúc chờ đợi cũng hồi hộp
không biết là có được hay không.
Hiển nói:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét