Truyện ngắn kỳ lạ 2
Đêm Noël
"Noël! Noël! A! nhưng không, tôi sẽ không dự tiệc đêm
Noël đâu".
Ông Henri Templier nói điều đó bằng một giọng bực bội như thể
người ta đã đề nghị ông một điều gì đó rất bỉ ổi.
Những người khác bật cười và kêu lên: "Sao anh lại cáu
lên thế?"
Ông ta trả lời:
- Bởi vì vào ngày Noël tôi hay bị chơi xỏ, và vì tôi đã có một
kỷ niệm tệ hại không thể quên được vào cái đêm vui rồ dại đó.
- Là gì thế?
- Là gì á? Các anh muốn biết ư? Vậy thì nghe đây:
Các anh còn nhớ cách đây hai năm, cũng vào thời gian này, trời
lạnh đến thế nào đấy. Một cái lạnh chết người, sông Seine đóng băng, những vỉa
hè cũng đông cứng lại. Có vẻ như mọi việc đều bị đình trệ lại.
Tôi có một lô việc phải làm gấp vì thế nên tôi từ chối mọi lời
mời dự buổi tiệc đêm Noël. Tôi thích nhất là được yên tĩnh một mình ăn tiệc
Noël tại nhà mình. Tôi ăn tối một mình, rồi tôi bắt đầu viết. Nhưng rồi đến khoảng
mười giờ, cái ý nghĩ rằng niềm vui đang tràn ngập Paris, rằng bên ngoài kia,
người ta đang vui cười nhảy múa, và rồi cho dù không muốn nhưng những tiếng ồn
bên ngoài vẫn vọng được đến phòng tôi, tiếng chuẩn bị bát đĩa cho bữa đêm lanh
canh, tiếng chuông cửa kính koong, tiếng cười nói, chào hỏi khiến tôi cảm thấy
trong lòng rộn ràng khó tả. Tôi cũng không biết mình đã làm gì nữa, tôi không
sao tập trung được, tôi viết ra những điều ngớ ngẩn, và tôi hiểu rằng tôi cần
phải từ bỏ cái ý định ngồi viết được cái gì đó hay ho ở buổi tối hôm nay.
Tôi đi lại trong phòng một lát, tôi ngồi xuống, rồi lại đứng
lên. Hiển nhiên là tôi bồn chồn, tôi bị ảnh hưởng bởi tiếng ồn vui vẻ ngoài
kia, và rồi tôi làm dấu thánh.
Tôi nhấn chuông gọi cô người hầu và nói "Angèle, cô đi
kiếm cái gì để ăn đêm cho hai người: Hàu, gà gô, tôm, giăm bông, bánh ngọt,
mang lên đây cho tôi hai chai sâm panh, bày bàn cho tôi rồi hãy đi ngủ
đi".
Cô ta vâng lời ngay tuy hơi có chút ngạc nhiên. Khi mọi thứ
đã sẵn sàng, tôi khoác áo choàng lên vai và đi ra phố.
Một câu hỏi cần được trả lời: Tôi sẽ tổ chức tiệc Noël với ai
đây? Những người bạn gái của tôi đều đã có hẹn hết rồi. Để có được một cô bạn
gái dự tiệc Noël cùng, lẽ ra tôi phải mời cô ta từ trước. Thế nên tôi nảy ra một
ý khác. Tôi tự nhủ: "Paris đầy những cô gái nghèo khốn khó, đầy những cô
gái nghèo xinh đẹp, những người không có gì để chuẩn bị cho bữa tiệc đêm Noël,
và hẳn họ đang đi lang thang mong tìm được một chàng trai hào hiệp". Tôi
muốn mình sẽ trở thành một ông Noël tốt bụng trong đêm Noël này đối với một cô
gái nghèo khốn khó xinh đẹp nào đó.
Tôi đi lang thang mò mẫn giữa các khu vui chơi, tra hỏi, kiếm
tìm, săn đuổi, chọn lựa theo ý tôi.
Tôi đi lang thang khắp cả thành phố.
Đương nhiên tôi gặp rất nhiều các cô gái nghèo khổ đang cầu
may. Nhưng họ xấu xí, gày còm, cảm tưởng như chỉ một cơn gió mạnh thổi qua cũng
có thể khiến họ bay lơ lửng lên mất... Các anh biết đấy, tôi có nhược điểm là
chỉ thích các cô gái mũm mĩm có da có thịt. Các cô ấy càng mũm mĩm, tôi càng
thích. Một cô vóc dáng lực lưỡng sẽ khiến tôi mất hết cả lý trí.
Đột nhiên, đối diện nhà hát Variétés, tôi nhìn thấy một mẫu
người đúng như sở thích của tôi. Điều làm tôi để ý trước tiên là bộ ngực, một bộ
ngực nở nang, đẹp tuyệt trần. Và dưới nữa là một cái eo tròn trịa. Quả là một tạo
vật tuyệt vời của Thượng đế. Tôi run hết cả mình và thốt lên tiếng trầm trồ
xuýt xoa: "Mẹ kiếp, cô ta mới đẹp làm sao!" Chỉ còn một điểm tôi cần
phải khám phá nữa: đó là khuôn mặt.
Khuôn mặt, là bữa khai vị, những bộ phận còn lại là... là món
thịt quay. Tôi rảo bước đến gần rồi đi qua cô gái đang đi lang thang vơ vẩn đó.
Đến đúng cột đèn đường, tôi quay phắt lại. Trước mắt tôi là một cô gái rất trẻ,
xinh đẹp với mái tóc nâu và đôi mắt to đen.
Tôi đưa ra lời đề nghị của mình và cô đồng ý ngay không chút
ngần ngừ.
Mưòi lăm phút sau, chúng tôi ngồi vào bàn ăn trong căn hộ của
tôi.
Ngay khi vừa vào cô đã thốt lên: "A! Được ở đây thật tuyệt".
Và cô ngắm quanh với một vẻ vui thích khi nhìn thấy cái bàn
bày đồ ăn đang bốc khói trong cái đêm lạnh giá này.
Cô ấy thì rất tuyệt, cô xinh đến nỗi khiến tôi phải ngỡ
ngàng, và vẻ đẹp của cô càng ngắm tôi càng thấy thích.
Cô cởi bỏ áo choàng, mũ, ngồi xuống và ăn luôn. Nhưng cô
không có vẻ hồ hởi lắm; thỉnh thoảng mặt cô lại tái đi như thể cô đang phải chịu
một nỗi buồn phiền nào đó.
Tôi hỏi cô:
- Em có chuyện gì bực mình ư?
Cô trả lời:
- Kệ! Quên đi.
Cô bắt đầu uống. Cô làm một hơi hết ly sâm- panh, rót đầy rồi
lại làm một hơi hết, cứ thế không ngừng.
Một lát sau, má cô bắt đầu hồng lên, và cô bắt đầu cười nói.
Tôi đã thấy yêu quá cô gái xinh đẹp này mất rồi, tôi hôn em
say đắm, thấy em không hề ngu ngốc, vụng về, tầm thường giống như các cô gái đứng
đường. Tôi hỏi em về cuộc sống của em. Em trả lời tôi: "Anh yêu, anh chưa
từng thấy một cuộc sống như thế bao giờ đâu!"
Thế rồi một giờ sau...
Cuối cùng cũng đã đến giờ đi ngủ, trong khi tôi loay hoay dọn
bàn, cô đã vội vã cởi bỏ quần áo và luồn vào chăn.
Hàng xóm nhà tôi làm ồn ào kinh khủng, họ cười đùa, hát hò
như những kẻ điên. Tôi tự nhủ: "Ta thật vô cùng có lý khi đã quyết định đi
tìm cô gái xinh xắn nhường kia để cùng ăn mừng Noël, với những tiếng ồn ào khủng
khiếp đến thế kia thì đằng nào ta cùng chẳng thể làm việc được".
Một tiếng rên rỉ âm trầm khiến tôi quay người lại. Tôi hỏi:
- Có chuyện gì thế em, con mèo nhỏ của anh?
Cô không trả lời nhưng vẫn tiếp tục thốt ra những tiếng rên rỉ
đầy vẻ đau đớn, như thể cô đang phải chịu một cơn đau kinh khủng.
Tôi lại hỏi:
- Em khó ở à?
Đột nhiên cô bật lên một tiếng kêu, một tiếng kêu xé ruột.
Tôi vội lấy một cây nến chạy đến.
Khuôn mặt cô biến dạng bởi cơn đau, hai tay cô xoắn vào nhau,
cô thở hổn hển, từ sâu trong họng phát ra những tiếng rên rỉ nặng nhọc làm thắt
ruột thắt gan người nghe.
Cuống lên, tôi hỏi:
- Nhưng, làm sao thế em? Nói đi em, em sao thế? Em đau ở đâu?
Cô không trả lời và bắt đầu hét lên.
Ngay lập tức hàng xóm nhà tôi im bặt, lắng tai nghe xem điều
gì đang diễn ra bên nhà tôi.
Tôi hỏi đi hỏi lại:
- Em đau ở đâu? Em đau ở đâu? Nói cho anh biết đi!
Cô lắp bắp:
- Ôi! Cái bụng tôi!... Cái bụng tôi!
Tôi giật tung chân, và tôi nhận thấy... cô ta có chửa, các bạn
thân mến ạ.
Hốt hoảng, tôi nhảy bổ ra cửa, kêu ầm lên:
- Cứu với! Cứu với!
Mọi người chạy ùa sang nhà tôi, những người đàn ông ăn mặc tề
chỉnh, những người phụ nữ mặc váy hở vai, những người diễn trò, những người Thổ,
những người lính ngự lâm quân... cả một đống người ào vào nhà tôi khiến tôi
phát hoảng đến nỗi tôi chẳng biết giải thích thế nào nữa.
Họ cho rằng hẳn đã có một tai nạn hoặc một tội ác nào đó đã
diễn ra, thế nên khi vào họ cũng chẳng hiểu gì nữa.
Cuối cùng tôi nói:
- Là... là... cô gái này... cô ấy... có ấy chửa.
Thế là mọi người xông vào khám xét cô, hỏi thăm cô. Nhất là một
tu sĩ khẳng định rằng ông am hiểu vấn đề này và muốn giúp đỡ cô.
Họ bu lại quanh cô như ruồi, mỗi người nói một câu, tôi tin rằng
họ sẽ giết cô mất. Thế nên tôi cuống lên, đầu trần, chạy ra cầu thang, bổ ra phố
đi tìm ông bác sĩ già sống ở phố bên cạnh.
Khi tôi quay về cùng với ông bác sĩ, nhà tôi sáng trưng và đầy
chật người, người ta đã bật cả đèn cầu thang, đèn hành lang, gần như tất cả mọi
người sống trong khu nhà đều đang có mặt ở tầng nhà tôi, bốn người nào đó đang
ngồi ở bàn ăn của tôi uống nốt hai chai sâm-panh của tôi và ăn nốt chỗ tôm hấp
mà chúng tôi chưa ăn hết lúc nãy.
Ngay khi tôi về, một tiếng thét lại vang lên, một bà đưa sữa
mang đến cho tôi xem trong bọc chăn một đứa trẻ nhăn nheo, dúm dó, đỏ hỏn đang
oe oe khóc tiếng nghe như mèo kêu. Bà ta bảo: "Một cô con gái này thưa
ông".
Ông bác sĩ khám cho sản phụ, rồi thông báo một cách đầy hoài
nghi về tình trạng sức khỏe của cô, ông bảo tai nạn có thể xảy đến ngay sau bữa
ăn đêm và rồi ông ra về với lời hứa sẽ gửi ngay đến cho tôi một y tá và một vú
em.
Khoảng một giờ sau, hai người phụ nữ đến nhà tôi mang theo một
bọc thuốc.
Tôi qua đêm đó trên một nhiếc đi-văng, quá bối rối để có thể
suy nghĩ mọi vấn đề một cách mạch lạc.
Ngay sáng hôm sau, ông bác sĩ lại tới, ông thấy rằng người bệnh
có vẻ còn mệt nặng hơn trước.
Ông bảo tôi:
- Thưa ông, vợ ông....
Tôi ngắt lời ông:
- Đó không phải là vợ tôi.
Ông ta nói lại:
- Thưa ông không có gì nghiêm trọng đối với cô nhân tình của
ông đâu.
Rồi ông bác sĩ kê đơn thuốc cho cô cùng với một bản liệt kê tỉ
mỉ chi tiết những gì cần phải làm cho cô, cần phải tránh cho cô.
Tôi biết quyết định thế nào bây giờ? Gửi cô gái khốn khổ này
đến bệnh viện chăng? Lẽ nào tôi có thể xử sự như một tên tồi tệ vô lương tâm
như thế được.
Tôi đành để cô ở lại nhà tôi. Cô đã ở lì trên giường tôi suốt
sáu tuần. Còn đứa trẻ? Tôi đã gửi nó đến nhà những người tá điền ở vùng Poasy.
Và việc đó ngốn của tôi năm mươi frăng mỗi tháng. Vì tôi đã bỏ tiền ra nuôi dưỡng
nó ngay từ những ngày đầu đời của nó, nên tôi đã và sẽ phải nuôi nó cho tới tận
khi tới chết.
Sau này, nó đinh ninh tôi là bố đẻ của nó.
Nhưng điều tệ hại nhất là, khi cô gái trẻ đó bình phục, cô ta
yêu tôi... cô ta yêu tôi điên cuồng, si dại.
Rồi sao?
Rồi thì nàng ấy gầy mòn đi như một ả mèo hoang, và vì tôi cố
tránh né tình cảm mãnh liệt cuồng si của nàng ta, cố tránh những vuốt ve âu yếm
của nàng ta, thì nàng ta rình rập tôi trên phố, nấp trong một xó nào đó để nhìn
tôi đi qua, chặn đường mỗi tối tôi đi chơi để hôn lên tay tôi... khiến tôi phát
bực và cuối cùng khiến tôi phát điên.
Và đó chính là lý do khiến tôi sẽ không bao giờ tổ chức tiệc
đêm Noël một mình nữa.
Đồ trang sức
Là một cô gái có vẻ đẹp kiêu sa, duyên dáng, thế nhưng trớ
trêu thay, cô lại sinh ra trong một gia đình viên chức xoàng xĩnh, cô không có
của hồi môn, không được thừa hưởng một gia tài nào, cũng chẳng có phương cách
gì để trở nên nổi tiếng, để được biết đến, được mến mộ, được yêu, được cưới một
người đàn ông giàu có và tao nhã; và cô đã hạ mình cưới một viên chức quèn làm
việc trong bộ Công.
Cô thường ăn mặc giản dị và không trang điểm: nhưng cô luôn cảm
thấy cô thật bất hạnh như bị hạ thấp. Vì người phụ nữ không chỉ được phân loại
theo dòng dõi mà sắc đẹp của họ, về duyên dáng yêu kiều của họ, sự tinh tế bẩm
sinh, sự trang nhã thiên phú và sự mềm mại của tâm hồn, tất cả những điều đó tạo
nên thứ bậc giữa những người phụ nữ, đã khiến cho những con gái nhà bình dân có
thể sánh ngang hàng với các quý bà sang cả.
Cô luôn phải sống trong sự chịu đựng: cô cho rằng cô được
sinh ra để có được những gì tinh tế nhất, sang trọng nhất. Cô khó chịu với sự
nghèo nàn của ngôi nhà mình ở, cô bực bội vì những tấm giấy dán tường cũ bẩn,
vì những chiếc ghế sờn rách, vì những tấm khăn ăn xấu xí. Lẽ ra một người như
cô, một người thuộc tầng lớp cô không phải chịu dựng như vậy mới đúng, và điều
đó đã ám ảnh hành hạ cô đêm ngày, làm cô phẫn nộ. Ánh mắt của cô bé nông dân
khi nhìn vào căn hộ xoàng xĩnh hèn mọn của cô đã khơi dậy trong cô những tiếc
nuối đã xa, khơi dậy trong cô những mơ ước thuở trước. Cô nghĩ đến những căn
phòng với hệ thống chống tiếng ồn, những tấm nệm trần, với những tấm giấy dán
tường theo kiểu phương Tây, được chiếu sáng bằng những chiếc đèn bằng đồng lớn,
và cô nghĩ tới hai người phục vụ mặc đồng phục soóc ngắn trong các nhà hàng lớn,
thiu thiu ngủ dưới làn hơi ấm của chiếc máy tỏa nhiệt. Cô nhìn những chiếc ghế
bành cũ kỹ với tấm vải phủ bằng soa cũ mèm, nghĩ tới những đồ gỗ tinh xảo chứa
toàn những đồ trang trí vô giá, và cô nghĩ tới những phòng khách nhỏ duyên
dáng, thơm nức được trang hoàng cho phù hợp với những buổi chuyện trò thân mật
vào lúc năm giờ với bạn bè thân, với những người đàn ông nổi tiếng, với những
người phụ nữ đến đó để mong được chú ý.
Khi ngồi vào bàn ăn tối, chiếc bàn được phủ một tấm vải đã trải
từ ba hôm nay, đối diện với người chồng đang múc súp ra đĩa một cách vẻ vui vẻ:
"A! Món thịt bò hầm rau! Tôi chẳng còn biết đến một món
ngon nào khác ngoài món này..."
Còn cô thì lại nghĩ đến những bữa tối ngon lành, tới bộ đồ ăn
bằng bạc sáng lấp lánh, tới những món ăn thơm lừng được trình bày đẹp mắt, tới
những lời tán tỉnh thầm thì, tới những cô gái vừa nghe những lời tán tỉnh vừa nở
những nụ cười bí ẩn. Những con người đó ăn món thịt gà lôi, thịt chim ưng và
các món đặc sản ngon lành khác.
Cô chẳng có quần áo đẹp, không đồ nữ trang, cô chẳng có gì cả.
Mà cô lại yêu thích những thứ đó biết bao nhiêu; cô cảm thấy cô sinh ra là để
được có tất cả những thứ đó. Cô thèm muốn biết bao nhiêu, được vui chơi, được
chiêm ngưỡng, được tán tỉnh, được quyến rũ, được nhiều người yêu chuộng.
Cô có một cô bạn giàu có, một người bạn từ thời đi học, mà giờ
đây cô không muốn gặp lại nữa, cô phải cảm thấy khổ sở biết bao nhiêu khi nhìn
cuộc sống đủ đầy vui vẻ của cô bạn này. Cô đã khóc ròng nhiều ngày nhiều tháng,
vì buồn rầu, thất vọng, tiếc nuối, và căng thẳng.
* * * * *
Một tối, chồng cô về nhà với mặt đầy vẻ hoan hỉ. tay giơ cao
một chiếc phong bì lớn.
- Xem anh có gì cho em này, em yêu.
Cô xé phong bì một cách nôn nóng và rút ra một tấm thiếp mời
trên đó viết:
"Bộ trưởng bộ Công cùng bà Georges Ramponneau trân trọng
kính mời ông bà Loisel tới dự dạ hội tại nhà khách của Bộ vào thứ hai ngày mười
tám tháng Một".
Thay vì nhảy lên sung sướng như chồng cô đã tưởng, cô ném toẹt
tờ thiếp mời lên bàn và rên lên đau khổ:
- Anh muốn em làm gì với nó cơ chứ?
- Nhưng, em yêu, anh đã tưởng rằng em sẽ thích, em sẽ hài
lòng. Em chưa bao giờ tham dự các dạ tiệc, và đây là một cơ hội cho em, một cơ
hội tốt. Anh đã phải tốn bao công sức để có được nó. Mọi người ai cũng mong có
được tấm vé mời ấy, buổi dạ tiệc đó rất lớn, được tổ chức rất long trọng, thế
nên người ta không mời nhiều nhân viên lắm đâu. Rồi em sẽ gặp tất cả các quan
chức cấp cao ở đó.
Cô nhìn chồng bằng ánh mắt bực bội rồi thốt lên:
- Anh muốn em khoác lên người cái gì để đi đến đó?
Chồng cô còn chưa nghĩ đến chuyện đó, anh ấp úng:
- Nhưng chiếc váy mà em đã mặc đi xem hát. Nó rất hợp với em,
theo anh...
Anh im bặt, hoảng hồn, mất bình tĩnh khi thấy vợ bật khóc.
Hai hàng nước mắt lăn dài trên má, đến tận góc miệng, lã chã tuôn rơi. Anh ấp
úng:
- Em sao thế? Sao thế?
Nhưng bằng một cố gắng phi thường, cô đã thôi khóc và vừa trả
lời chồng bằng một giọng bình tĩnh vừa chùi nước mắt.
- Không có gì. Chỉ là vì em chẳng có bộ cánh nào ra hồn, vì
thế em chẳng thể đi tới dự dạ hội đó được, hãy mang tấm thiếp của anh cho anh bạn
đồng nghiệp nào đó của anh mà vợ anh ta có quần áo tươm tất hơn em.
Buồn bực, chồng cô hỏi:
- Để xem nào, Mathilde. Một dịp như thế này cho em là rất hiếm
hoi, chỉ vì một điều vớ vẩn như thế mà để lỡ mất nó thì thật tiếc. Một bộ phù hợp
cho dịp như thế này mất khoảng bao nhiêu tiền?
Suy nghĩ vài giây, tính toán bao nhiêu tiền là đủ, và cô cũng
còn phải tính xem khoảng bao nhiêu thì chồng cô có thể chấp nhận được. Sau một
hồi suy nghĩ, cô trả lời một cách do dự:
- Em không biết chính xác, nhưng theo em thì khoảng bốn trăm
frăng là em có thể xoay xở được.
Chồng cô hơi tái mặt, anh đã dành dụm được đúng một khoản như
thế để mua một khẩu súng săn và anh đã dự định sẽ dùng nó để đi săn vào mùa hè
tới với mấy người bạn cùng làm ở vùng cao nguyên Nantes. Chủ nhật trước họ đã tới
đó và đã săn được một vài con chim ngói.
Thế nhưng anh nói:
- Thôi được rồi. Anh sẽ đưa cho em bốn trăm frăng. Hãy dùng
nó mua một bộ váy áo đẹp vào em nhé.
* * * * *
Ngày dạ hội đã đến gần, nhưng cô vẫn có vẻ buồn, bồn chồn, lo
lắng. Tuy rằng bộ váy áo dạ hội của cô đã rất hoàn hảo, sẵn sàng đợi cô xỏ tay
vào. Một tối chồng cô hỏi:
- Em sao thế? Từ ba ngày nay em có vẻ lạ lắm.
Cô trả lời:
- Điều làm em lo lắng là em chẳng có lấy một đồ trang sức nào
cả. Em chẳng có lấy một sợi dây chuyền để đeo. Trông em sẽ có vẻ rất nghèo khổ
đáng thương cho mà xem. Em thấy tốt hơn hết là em không đi thì hơn.
Chồng cô mách nước:
- Sao em không dùng hoa tươi, giờ đang là mốt dùng hoa tươi để
trang điểm đấy. Chỉ cần mười frăng là em có thể có ba bốn bông hoa đẹp tuyệt rồi.
- Không, - Cô phản kháng lại một cách dữ dội - chẳng có gì nhục
nhã hơn là có vẻ hèn kém giữa các quý bà sang trọng.
Bỗng chồng cô kêu lên:
- Sao em ngốc thế! Hãy đến tìm bà bạn thân Forestier của em ấy.
Hãy mượn cô ấy một đồ trang sức nào đó, các em thân nhau đến thế thì có gì đâu
mà cô ấy không cho em mượn.
Cô bật kêu lên vì mừng rỡ:
- Ừ nhỉ, sao em lại không nghĩ ra nhỉ.
Ngay ngày hôm sau cô đến nhà bạn và kể cho bạn nghe về nỗi ưu
phiền của mình.
Cô bạn Forestier đến ngay tủ gương và lôi ra một chiếc hộp lớn,
cô mở nó ra và gọi bạn:
- Chọn đi, bạn thân mến của tôi.
Trước tiên cô nhìn những chiếc vòng đeo tay, rồi đến một chuỗi
vòng cổ bằng ngọc trai, rồi những dây đeo có mặt bằng vàng và bằng đá quý, tất
cả những thứ đó đều rất đẹp, tinh xảo. Cô đứng trước gương, ướm hết cái này đến
cái kia lên người, không biết nên chọn cái nào. Cô luôn miệng hỏi:
- Cậu còn cái nào khác nữa không?
- Còn chứ, để mình lấy, mình không biết cậu sẽ thích cái nào.
Thế rồi bỗng bạn cô mở một chiếc hộp nhung đen, lấy ra một
chuỗi vòng nạm kim cương tuyệt đẹp sáng lấp lánh: tim cô đập cuồng lên, tay cô
run run khi chạm vào nó, cô ướm nó lên trên cái cổ cao, trắng ngần của mình, cô
đứng lặng ngắm nhìn mình trong gương.
Do dự và hơi lo lắng, cô hỏi bạn:
- Cậu có thể cho mình mượn chiếc vòng này được không? Chỉ một
chiếc vòng cổ này thôi.
- Tất nhiên là được rồi.
Cô nhảy lên ôm cô bạn một cách phấn khích, rồi từ biệt bạn và
về ngay với chuỗi vòng vô giá.
* * * * *
Ngày lễ đã đến. Mathilde đã có một đêm dạ hội thành công. Cô
là tâm điểm của dạ hội đêm đó, cô là người phụ nữ xinh đẹp yêu kiều nhất, duyên
dáng nhất, lịch lãm nhất, sang trọng nhất với nụ cười tươi tắn luôn nở trên
môi, cô như ngây ngất, như say trong không khí vui tươi nơi đây. Mọi người đàn
ông đều nhìn cô, hỏi tên cô, tìm cách làm quen với cô. Ai cũng muốn mời cô nhảy
và thậm chí cả đến ngài bộ trưởng cũng để ý đến cô.
Cô nhảy trong trạng thái sung sướng mê say, cô chẳng còn nghĩ
đến điều gì khác, cô xoay tròn trong hết vũ điệu này đến vũ điệu khác, vô cùng
phấn khích, ngất ngây vì được ngắm nhìn, được thấy mình xinh đẹp, được tán
dương, được chiều chuộng. Cô như bay lên chín tầng mây hạnh phúc và thành công.
Cô lên đường về nhà lúc khoảng bốn giờ sáng. Chồng cô, đã vào
một phòng trống nằm nghỉ từ lúc mười hai giờ với ba bốn người bạn trong khi những
người vợ đang miệt mài chơi đùa, tán gẫu, nhảy múa.
Chồng cô khoác lên vai cô chiếc áo choàng mà họ đã bỏ ra trước
khi vào dạ tiệc, một chiếc áo choàng tầm thường xấu xí mà ngày thường cô vẫn mặc.
Vẻ nghèo khổ của nó thật lạc lõng với bộ váy áo dạ tiệc. Cô cảm thấy điều đó và
cô muốn bỏ đi thật nhanh để không bị những người phụ nữ khác đang khoác lên người
những chiếc áo choàng sang trọng để ý.
Chồng cô giữ cô lại:
- Đợi chút em, bên ngoài lạnh lắm và em sẽ bị cảm lạnh mất.
Anh đi gọi một chiếc xe.
Nhưng cô không nghe, cô bỏ chạy xuống gác thật nhanh, khi họ ra
đến ngoài phố, họ chẳng gặp được một chiếc xe nào; họ đành cuốc bộ, vừa đi vừa
ngó ngang ngó dọc tìm kiếm, gọi váng lên mỗi khi nhìn thấy một chiếc xe từ đằng
xa.
Họ đi về phía sông Seine, không hy vọng gì gọi được một chiếc
xe nữa, run cầm cập vì rét. Cuối cùng, đến bên sông họ lên một chiếc xe cũ kỹ
mà người ta chỉ có thể nhìn thấy vào ban đêm ở Paris như thể chúng cảm thấy ngượng
vì vẻ nghèo hèn của chúng.
Người đánh xe ngựa đưa họ đến tận cửa nhà họ trên phố Marty,
và họ leo lên nhà một cách buồn rầu. Với cô, thế là hết. Còn với chồng cô, anh
nghĩ đến việc phải có mặt ở nơi làm việc lúc mười giờ.
Lặng lẽ đứng trước gương, cô hất chiếc áo choàng xấu xí tầm
thường trên vai xuống để ngắm lại lần cuối cùng vẻ đẹp rạng ngời của mình. Bỗng
cô thốt kêu lên, chuỗi vòng không còn trên cổ cô nữa!
Chồng cô lúc đó đã cởi bỏ trang phục, hỏi:
- Có chuyện gì thế em?
Cô quay về phía chồng đầy hoảng hốt:
- Em... em mất... mất.... chuỗi vòng của Forestier rồi.
Chồng cô đứng phắt lên, hoảng hồn:
- Cái gì?... Sao!... Không thể thế được!
Họ vội vàng tìm trong những nếp váy, trong áo khoác ngoài,
trong các túi, khắp mọi nơi. Nhưng họ chẳng tìm thấy gì cả.
Chồng cô hỏi:
- Em có chắc là em vẫn còn nó khi rời khỏi phòng nhảy không?
- Em chắc mà, em còn chạm phải nó khi ở ngoài phòng tiền sảnh
mà.
- Nếu chúng ta đánh rơi nó khi đang đi trên phố, chúng ta phải
nghe thấy tiếng nó rơi. Nó hẳn đã rơi trong xe rồi.
- Vâng, có thể như thế lắm. Anh có nhớ số xe không?
- Không. Thế em có nhìn thấy biển số không?
- Không.
Họ rụng rời nhìn nhau. Cuối cùng chồng cô mặc lại quần áo và
nói:
- Anh sẽ quay lại tất cả những đường mà chúng ta đã đi bộ
qua, may ra anh có thể tìm lại được nó.
Rồi anh đi, cô vẫn đứng như trời trồng, trong bộ váy dạ hội,
không còn đủ sức cởi nó ra nữa, rồi ngồi bịch xuống một chiếc ghế, cô cứ ngồi
như thế trong lạnh giá, không buồn đốt lò sưởi lên, không suy nghĩ gì hết.
Khoảng bảy giờ chồng cô về, anh không tìm thấy sợi dây chuyền.
Anh đến khai báo ở đồn cảnh sát, tới các tòa soạn báo để thông báo rơi mất và hứa
thưởng một khoản tiền hậu hĩnh cho công ty hoặc cá nhân nào biết về chiếc xe
hôm qua đã đỗ ở bờ sông Seine và đã chở khách về phố Marty với hy vọng mong
manh có thể tìm lại được sợi dây chuyền.
Cô ở nhà đợi tin suốt cả ngày trong tâm trạng hoảng hốt trước
thảm họa khủng khiếp này.
Đến tối, chồng cô về nhà, khuôn mặt hốc hác xanh xao, anh chẳng
tìm thấy một manh mối nhỏ nào về chiếc xe hôm trước đã chở họ về. Anh bảo vợ:
- Em phải viết thư cho bạn bảo cô ấy rằng em làm gãy chốt cài
của sợi dây chuyền và rằng em sẽ đem sửa trả cô ấy. Như thế chúng ta có thêm thời
gian để định liệu.
Rồi anh đọc cho cô chép một bức thư gửi cho bạn.
* * * * *
Sau một tuần tìm kiếm, họ đã mất hết hy vọng, chồng cô trông
già đi đến một chục tuổi, bảo vợ:
- Chúng ta phải mua một sợi dây khác trả cho bạn em thôi.
Hôm sau, theo tên và địa chỉ ghi trên hộp đựng chuỗi vòng, họ
đến cửa hiệu kim hoàn đã làm ra nó để hỏi thăm, người thợ kim hoàn tra cứu một
lúc lâu trong tập sách những sản phẩm đã ra lò của anh ta rồi bảo:
- Thưa bà, cửa hàng chúng tôi chưa chế tác một sợi dây chuyền
như thế, nếu bà muốn chúng tôi có thể chế tác cho bà một sợi khác.
Họ đi từ cửa hàng đồ trang sức này đến cửa hàng trang sức
khác, tìm một sợi dây tương tự như sợi dây đó, hỏi thăm các chủ tiệm xem họ có
từng bán một sợi dây tương tự như thế không. Và cả hai đều mệt nhoài vì buồn rầu
và cáu kỉnh.
Cuối cùng họ tìm thấy trên đường Pale Royal một cửa hàng có
bày một chuỗi vòng kim cương hoàn toàn giống với chuỗi mà họ đang tìm kiếm. Giá
của chuỗi vòng là bốn mươi nghìn frăng. Chủ tiệm đồng ý bán cho họ với giá ba
mươi sáu ngàn frăng.
Họ nài nỉ chủ tiệm đừng bán chuỗi vòng đó trong vòng ba ngày
để họ về thu xếp tiền và nếu từ giờ đến cuối tháng Hai họ tìm lại được chuỗi
vòng đã mất cửa tiệm sẽ mua lại chuỗi vòng này với giá ba mươi tư ngàn frăng.
Loisel có mươi tám nghìn frăng được thừa hưởng từ bố anh, số
còn lại họ phải đi vay mượn.
Họ đi hỏi vay, hỏi mượn mỗi người một ít, người này thì một
nghìn frăng, người kia năm trăm frăng. Họ cầm cố nhà cửa, đi vay ở những nhà
cho vay nặng lãi, họ tìm đủ mọi phương cách để có được số tiền đó dù chưa biết
đến bao giờ trả cho hết được nợ nần. Họ vừa ký giấy nợ vừa run sợ khi nghĩ đến
viễn cảnh đen tối sau này. Nghĩ đến việc họ sẽ phải cố công cố sức làm đêm làm
ngày để kiếm tiền trả nợ, nghĩ đến việc họ sẽ luôn bị các chủ nợ hối thúc sau
lưng, tất cả những điều đó khiến họ cảm thấy tinh thần bị tra tấn khủng khiếp bởi
một tương lai mịt mù đen tối. Cuối cùng họ cũng có đủ ba mươi sáu ngàn frăng để
mua được sợi dây chuyền.
Khi cô mang trả chuỗi vòng cho bạn, bạn cô nói với cô bằng một
giọng bực bội:
- Lẽ ra cậu phải mang trả nó cho mình sớm hơn chứ, nhỡ mình cần
dùng đến nó thì sao.
Cô không dám mở hộp đựng vòng ra vì sợ bạn cô có thể nghi ngờ,
phát hiện thấy đó không phải là chiếc vòng cũ. Lúc đó liệu cô ấy sẽ nói gì, sẽ
nói gì, và cô ấy có thể cho rằng cô là một con ăn cắp thì sao.
* * * * *
Kể từ hôm đó, cô biết đến một cuộc sống cơ cực nghèo khó. Vả
lại bỗng đâu đùng một cái cô đã quyết định một cách anh dũng, dấn thân vào cuộc
sống khổ cực khốn khó đó. Họ cần phải trả món nợ khổng lồ đó. Cô sẽ trả. Họ cho
người giúp việc nghỉ việc, họ thay đổi chỗ ở: họ thuê một căn phòng áp mái để sống.
Cô nếm trải nhưng công việc nội trợ nặng nhọc, những công việc
bếp núc ghê tởm. Cô rửa chén bát, làm hỏng những ngón tay búp măng trắng hồng
xinh xắn bằng việc chà rửa chén bát và cọ nồi xoong. Cô giặt giũ ga giường,
rèm, thảm, quần áo và những khăn lau bẩn thỉu rồi phơi chúng trên dây phơi. Cô
mang rác từ trên tầng cao nơi mình ở xuống, rồi mang nước từ dưới đó lên, hết mỗi
tầng lại dừng lại ở thềm nghỉ thở hổn hển. Và ăn mặc như những người đàn bà
nghèo khó, cô đến hàng rau, hàng thịt, hàng mắm, hàng cá... tay xách làn, chửi
thề, cò kè mặc cả từng xu như tất cả các bà nội trợ thường dân thô kệch.
Mỗi tháng đều phải trả tiền các hóa đơn, trả tiền những khoản
vay nợ đã đến hạn, rồi lại vay những khoản nợ mới để đập vào những khoản thiếu
hụt.
Chồng cô nhận thêm việc chép lại cho sạch sẽ những sổ sách kế
toán của một số thương nhân và anh làm việc đó cả tối, có khi cả đêm để kiếm
thêm được năm xu cho mỗi trang chép lại.
Cuộc sống như thế kéo dài đã được mười năm.
Đầu năm thứ mười, họ đã trả được hết nợ nần, kể cả những khoản
lãi suất chồng chất.
Giờ đây, cô Loisel đã già. Cô đã trở thành một phụ nữ mạnh mẽ,
khỏe khoắn và thô lỗ vì những công việc nội trợ khó nhọc hàng ngày. Đầu bù tóc
rối, váy áo xộc xệch, bàn tay thô ráp, cô đã quen thói ăn to nói lớn, cô đã có
thể xách một xô nước đầy ắp lên đến phòng mình không cần phải nghỉ lại ở mỗi tầng
như trước nữa.
Nhưng thỉnh thoảng, khi chồng cô đang đi làm, cô ngồi bên cửa
sổ, mơ màng nhớ đến cái tối xa xưa đó, nhớ đến cái tối mà cô đã trở thành tâm
điểm của sự chú ý bởi sự lộng lẫy, bởi sự duyên dáng xinh đẹp, bởi nét tươi vui
ngời trong mắt biếc.
Điều gì sẽ đến nếu đêm đó cô không làm mất chuỗi vòng đó? Ai
mà biết được? Ai mà biết được? Cuộc sống mới nhiều bất ngờ làm sao! Chỉ trong
tích tắc mà người ta có thể lên đến tột đỉnh của vui sướng rồi tụt xuống tận
cùng của sự khốn cùng!
* * * * *
Thế rồi một chủ nhật nọ, trong khi cô đang đi dạo ở quảng trường
Champs - Élysées sau một tuần làm việc vất vả, cô bỗng nhìn thấy một phụ nữ
đang dắt tay một đứa trẻ đi dạo đầy vẻ thong dong. Đó chính là cô Forestier, cô
vẫn trẻ, vẫn đẹp, vẫn quyến rũ như xưa.
Cô bỗng thấy xúc động vô cùng. Có nên nói cho cô ta biết
không? Có chứ. Giờ đây cô đã trả được hết nợ nần, cô sẽ nói tất cả cho cô ta biết.
Tại sao lại không nhỉ?
Cô tiến lại gần cô bạn cũ và nói: "Chào Jeanne".
Cô bạn cô không hề nhận ra cô, ngạc nhiên vì được một người
phụ nữ thô lậu chào một cách đầy thân mật như thế. Cô ta ấp úng:
- Nhưng... thưa bà...Tôi không biết... Hẳn bà đã nhầm tôi với
ai đó chăng.
- Không, mình là Mathilde Loisel.
Cô bạn cô bật kêu lên:
- Ôi!... Mathilde khốn khổ, cậu mới thay đổi làm sao!...
- Ừ, mình đã có những ngày rất nặng nề và vô cùng khốn khó kể
từ ngày gặp cậu lần cuối cùng... và chính là vì cậu mà mình đã phải chịu đựng tất
cả những điều đó!...
- Vì mình ư? Nhưng sao lại thế?
- Cậu có còn nhớ chuỗi kim cương mà cậu đã cho mình mượn đi dạ
hội nhà ông bộ trưởng không.
- Có nhớ, nhưng sao?
- Mình đã làm mất nó.
- Gì kia, nhưng cậu đã trả nó lại cho mình kia mà?
- Mình đã trả lại cậu một chuỗi vòng y hệt. Và vợ chồng mình
đã phải mất mười năm để trả giá cho nó đấy. Cậu biết rõ điều đó chẳng dễ dàng
gì với bọn mình, những kẻ chẳng có gì... Cuối cùng thì cũng đã xong, mình thật
sự hài lòng.
- Cậu nói rằng cậu đã mua một chuỗi vòng kim cương khác để đền
cho mình ư?
- Phải, và cậu đã không nhận ra sự khác biệt đúng không?
Chúng thật vô cùng giống nhau đúng không nào.
Và cô nở nụ cười với đầy vẻ kiêu hãnh.
Cô Forestier, vô cùng xúc động, nắm lấy hai tay cô:
- Ôi! Mathilde khốn khổ của tôi! Chuỗi vòng của tôi là đồ dỏm
mà. Nó chỉ có giá trị nhiều lắm năm trăm frăng là cùng!...
Cái ghim
- A! Bạn yêu quý của tôi, bọn đàn bà mới hiểm độc làm sao!
- Sao bạn lại nói thế?
- Vì họ đã chơi tôi một vố rất tệ.
- Chơi cậu?
- Phải, chơi tôi.
- "Họ" hay chỉ một người thôi?
- Hai cùng một lúc.
- Hai người cùng một lúc?
- Phải.
- Vố nào thế?
Hai thanh niên trẻ đang trò chuyện trong một quán cà phê lớn
nhìn ra đại lộ, họ vừa chuyện trò vừa nhâm nhi cốc-tai nho, món rượu khai vị
này khi đã được pha chế trông có màu xanh như màu nước.
Họ trông trẻ như nhau, khoảng từ hai lăm đến ba mươi tuổi. Một
người tóc vàng còn người kia tóc nâu. Họ có một vẻ gì đó vừa sang trọng vừa
phong trần, họ có dáng vẻ của những người môi giới chứng khoán, những người vừa
có mặt ở những phòng khách sang trọng, vừa có mặt trong những sàn giao dịch chứng
khoán. Họ có mặt ổ khắp mọi nơi, sống ở khắp nơi, dàn trải tình yêu ở khắp nơi.
Cậu thanh niên có mái tóc nâu lại tiếp:
- Tôi đã nói cho cậu nghe về cuộc tình duyên của tôi với cô
nàng tư sản gặp trên quảng trường Dieppe rồi đúng không.
- Đúng rồi.
- Bạn thân mên, cậu biết thế là thế nào rồi đấy, tôi đã có một
cô nhân tình ở Paris, một cô nhân tình mà tôi yêu với cả tấm tình si, một người
bạn cũ, một người bạn thân, một người bạn tốt, và tôi rất yêu thương gắn bó.
- Một người tình cũ?
- Vâng một người tình cũ. Cô cũng đã cưới một chàng trai
trung hậu, tử tế mà tôi cũng rất mến. Một chàng trai tốt, rất dễ mến, một người
bạn thật sự. Căn nhà đó đã từng là nơi tôi ở trọ một thời gian khá dài.
- Rồi sao?
- Sao ư, họ không thể rời khỏi Paris, còn tôi, tôi đến Dieppe
một mình.
- Sao cậu lại đến Dieppe làm gì?
- Để thay đổi không khí. Người ta không thể ở mãi một chỗ được.
- Rồi sao?
- Rồi ở Dieppe tôi đã gặp cô nàng mà tôi vừa nói với cậu đấy.
- Vợ của ông trưởng phòng?
- Phải đấy, cô ta đang rất buồn phiền, vả lại chồng cô ta chỉ
về vào ngày chủ nhật, và ông ta thì rất xấu trai lại cả xấu tính nữa. Tôi lại
khéo chiều cô ta, thế nên chúng tôi đã cùng nhau vui đùa khiêu vũ.
- Thế sau đó?
- Vâng, sau đó chúng tôi đã hò hẹn với nhau, chúng tôi cảm thấy
rất vui khi ở bên nhau, tôi đã nói với cô ta cảm xúc của mình: cô ta nhắc lại để
hiểu rõ hơn, và thế là giữa cô ta và tôi chẳng còn rào cản gì nữa.
- Cậu yêu cô ta?
- Ừ, một chút, cô ta rất dễ mến.
- Thế còn cô kia?
- Cô kia thì ở Paris! Quả là trong suốt sáu tuần, mọi việc diễn
ra rất suôn sẻ, và chúng tôi đã ở đây rất vui vẻ. Cậu có biết làm thế nào để cắt
đứt một mối quan hệ với một người phụ nữ trong khi cô ta không hề có lỗi gì với
cậu không?
- Đương nhiên là có chứ.
- Cậu làm thế nào?
- Tôi bỏ rơi cô ta.
- Nhưng làm thế nào để bỏ rơi được cô ta?
- Tôi không đến chơi nhà cô ta nữa.
- Thế nếu cô ấy đến tìm cậu?
- Tôi... tôi giả vờ không có nhà.
- Nếu cô lại đến nữa?
- Tôi nói với cô ta là tôi bị mệt.
- Nếu cô ta ở lại để chăm sóc cậu?
- Tôi... tôi sẽ chơi sỏ cô ta, chọc giận cô ta.
- Nếu cô ta chịu cho cậu chơi sỏ, chịu cho cậu chọc giận?
- Tôi sẽ viết một bức thư nặc danh gửi đến chồng cô ta để anh
ta theo dõi cô ta vào những ngày cô ta có thể đến nhà tôi.
- Thế thì hơi quá! Tôi, tôi không có khả năng ấy. Tôi không
biết cách cắt đứt quan hệ. Tôi sưu tập họ. Với cô này tôi chỉ gặp cô ta một năm
một lần thôi, với cô khác là sáu tháng một lần, với các cô khác nữa thì tôi chỉ
gặp họ những ngày họ muốn ăn tối ở các quán cà phê ca nhạc. Những cô mà tôi gặp
gỡ một cách ngắt quãng như thế không bao giờ làm phiền tôi, và tôi chỉ thường gặp
phải phiền toái một chút, buồn rầu một chút khi phải xa dời những cô mới.
- Rồi...
- Rồi, bạn thân mên, cô bạn vợ sếp đã trở nên đầy hăng hái, đầy
nhiệt tình, và không hề có một chút lầm lỗi gì với tôi như tôi đã nói với cậu!
Bởi chồng cô ở lì lại văn phòng, cô thường đến tìm tôi không báo trước. Đã hai
lần cô suýt chạm trán với các cô nhân tình cũ của tôi.
- Kinh khủng!
- Vâng, kinh khủng vậy nên tôi đã ấn định ngày cho từng cô để
tránh lộn xộn. Thứ hai và thứ bảy cho cô cũ, thứ ba, thứ năm và chủ nhật cho cô
mới.
- Sao lại có sự ưu đãi với cô mới thế?
- À thì vì cô ấy trẻ hơn.
- Thế tức là cậu chỉ có hai ngày mỗi tuần để nghỉ ngơi.
- Với tôi thế là đủ.
- Xin có lời khen cậu đấy.
- Thế mà cậu biết không, đã có một chuyện nực cười nhất, xuẩn
ngốc nhất trần đời này xảy đến với tôi đấy. Từ bốn tháng nay, mọi chuyện vẫn diễn
ra thuận chèo mát mái, tôi vẫn ngủ ngon trong giường của mình và tôi thật sự thấy
hạnh phúc thì bỗng nhiên, thứ hai tuần trước mọi chuyện vỡ lở.
Tôi đang đợi cô nhân tình cũ vào giờ đã định, một giờ mười
lăm, vừa đợi vừa hút xì gà. Tôi mơ mộng, rất hài lòng về chính bản thân mình, rồi
tôi thấy đã trễ giờ hẹn mà cô ta vẫn chưa đến, tôi hơi ngạc nhiên vì cô thường
đến rất đúng hẹn. Nhưng tôi cho rằng có lẽ hôm nay cô đến hơi muộn vì một sự cố
nhỏ nào đó. Tuy nhiên, nửa tiếng sau, rồi một tiếng, một tiếng rưỡi sau giờ hẹn
cũng đã trôi qua mà không thấy bóng dáng cô đâu. Tôi cho là cô đã bị vướng vì một
lý do nào đó mà không đến được, một cơn đau đầu chẳng hạn hoặc một việc quan trọng
gì đó. Thật là chán ngắt vì đã đợi hoài công... thật khó chịu, bực cả mình. Cuối
cùng tôi quyết định đến tìm cô xem có chuyện gì. Tôi thấy cô đang ngồi đọc truyện.
Tôi hỏi cô:
- Thế là sao?
Cô trả lời tôi một cách bình thản:
- Anh yêu, em đã không thể đi được, em bị ngăn lại.
- Vì sao bị ngăn lại?
- Vì.... bận việc.
- Việc gì vậy?
- Phải tiếp một vị khách rất chán.
Tôi cho rằng cô không muốn nói cho tôi biết lý do thật, và bởi
cô rất bình tĩnh nên tôi không lo lắng gì nữa. Tôi định gỡ lại thời gian đã mất
với cô kia vào ngày mai.
Thế nên ngày hôm sau, ngày thứ ba, tôi rất hồi hộp và hạnh
phúc đón chờ cô nhân tình trẻ mới của tôi, và tôi cũng rất ngạc nhiên không thấy
cô đến sớm như lệ thường. Chốc chốc tôi lại nhìn đồng hồ đầy nóng ruột.
Tôi nhìn đồng hồ thấy kim giờ kim phút cứ trôi qua giờ hẹn,
mười làm phút, ba mươi phút, một tiếng rồi hai tiếng... Tôi không thể ngồi yên
được nữa, tôi đi những bước dài dọc ngang trong phòng, tì trán vào cửa sổ ngóng
đợi, áp tai vào cửa nghe xem có phải cô đang lên cầu thang hay không. Rồi hai
tiếng rưỡi trôi qua, rồi ba tiếng! Tôi vồ lấy mũ và chạy đến nhà cô. Cô ấy đang
ngồi, cậu ạ, đọc truyện. "Sao thế em?" Tôi hỏi cô một cách lo lắng.
Cô trả lời tôi một cách bình thản như cô nhãn tình cũ của
tôi:
- Anh yêu, em đã không thể đi được, em bị ngăn lại.
- Vì sao bị ngăn lại?
- Vì.... bận việc.
- Việc gì vậy?
- Phải tiếp một vị khách rất chán.
Thế là rõ rồi, ngay lập tức tôi cho là cô ta đã biết hết mọi
chuyện. Thế nhưng cô có vẻ bình thản đến nỗi tôi nghĩ rằng đó chỉ là ngẫu
nhiên, và cô không thể giả vờ khéo đến như thế. Sau một tiếng chuyện gẫu đầy
thân thiết với cô, tôi đành sượng sùng ra về vì con gái cô cứ chạy ra chạy vào
đến hai mươi lần.
Và cậu biết chuyện gì xảy đến tiếp vào ngày hôm sau không?
- Vẫn thế à?
- Ừ, và cả hôm sau nữa cũng vẫn thế. Cứ thế kéo dài trong suốt
ba tuần, không một lời giải thích, không một yếu tố nhỏ nào tiết lộ sao lại xảy
đến chuyện buồn cười đến thế, tôi chỉ nghi ngờ có thể điều bí mật của tôi đã bị
vỡ lở.
- Các cô ấy biết hết cả rồi à?
- Tất nhiên. Nhưng làm thế nào các cô ấy biết cơ chứ? Tôi đã
đau đớn khổ sở biết mấy trước khi biết được làm thế nào các cô ấy biết.
- Cuối cùng cậu phát hiện ra là như thế nào?
- Vì các bức thư.
Vì các bức thư. Các cô ấy thường viết thư gửi đến cho tôi, những
bức thư cùng thể loại, cùng gửi đến những ngày nghỉ phép định kỳ của tôi.
- Và?
- Và thế là... cậu biết đấy, bạn thân mến, phụ nữ họ luôn có
trong người họ hàng đống ghim cài đầu, tôi biết rất rõ chúng, tôi cũng rất cảnh
giác với chúng, tôi luôn để mắt đến chúng. Nhưng có những chiếc ghim cài đầu nhỏ
vô cùng phản trắc, những chiếc ghim cài đầu nhỏ chết tiệt, chúng cùng nhỏ tẹo
và cùng một màu đen như nhau. Với chúng ta thì chúng có vẻ như giống hệt nhau,
nhưng với họ, họ phân biệt được chúng ngay lập tức như kiểu chúng ta phân biệt
được ngay một cách rõ ràng một con ngựa với một con chó vậy.
Thế nên một hôm, hình như cô nhân tình mới của tôi đã cài một
chiếc ghim cài đầu của cô ta vào trong màn cửa của tôi, gần gương soi.
Cô nhân tình cũ của tôi, chỉ bằng một cái liếc mắt đã nhận thấy
ngay trên màn treo một chấm nhỏ chỉ to bằng một con rận, và không hề nói gì về
cái mà cô đã tìm thấy, lặng lẽ lấy chiếc ghim đó ra và thế vào đó một trong những
chiếc ghim cài của cô, cũng màu đen nhưng có hình khác.
Ngày hôm sau nữa, cô nhân tình mới muốn lấy lại chiếc ghim
cài của cô, và nhận ra ngay vật bị đánh tráo; thế là một sự nghi ngờ dấy lên
trong cô. Cô liền gắn luôn lên đó hai chiếc ghim theo hình chữ thập, cô nhân
tình cũ liền đáp lại bằng ba chiếc ghim ghim liền một hàng, cái này sau cái
kia.
Lần nọ tiếp nối lần kia, các cô ấy cứ dùng ghim cài nói chuyện
với nhau, và đến một hôm một cô cài thêm một mảnh giấy nhỏ viết: "Cửa phụ,
đại lộ Malesherbes, C.D"
Thế là các cô ấy viết thư cho nhau, tôi không hề biết gì, tôi
đã thua họ. Họ đã đến đó vô cùng cẩn thận, với hàng nghìn mưu mẹo, với một sự cẩn
thận cần có trong những trường hợp tương tự. Nhưng cô nhân tình cũ của tôi đã
làm một cú táo bạo, cô ấy hẹn hò với người khác.
Các cô ấy đã nói gì với nhau, tôi cũng không biết nữa, tôi chỉ
biết rằng tôi đã phải trả giá khá nhiều cho những cuộc gặp gỡ của họ, thế đấy!
- Thế thôi à?
- Ừ.
- Cậu không gặp lại họ nữa?
- Ồ, tôi vẫn gặp họ như gặp những người bạn gái, chúng tôi
không hoàn toàn cắt đứt quan hệ.
- Thế còn các cô ấy, các cô ấy có còn gặp lại nhau không?
- Các cô ấy vẫn gặp nhau, và hơn thế nữa, các cô ấy còn trở
thành bạn thân của nhau.
- A! A! Thế điều đó không cho cậu một ý tưởng gì à?
- Không, sao?
- Chàng ngốc đặc ạ, ý tưởng khiến cho họ lao vào đâm xé nhau
với hai cây ghim hai tay chứ còn gì nữa?!
Nỗi sợ
Viết cho J. K Huysmans
Sau bữa tối chúng tôi lên cầu tàu hóng mát. Phía trước chúng
tôi, biển Địa Trung Hải không có lấy một gợn sóng, trăng sáng vằng vặc. Con
thuyền lớn như đang bay trên bầu trời đầy sao, khói phun lên đen kịt như một
con rắn lớn đang uốn lượn; và phía sau chúng tôi, nước tung bọt trắng xóa, bắn
tóe ra hai bên khi con thuyền lớn vùn vụt đi qua.
Chúng tôi có tám người ngồi trên boong tàu, chúng tôi cùng im
lặng, cùng dõi mắt về hướng châu Phi xa xôi nơi chúng tôi đang cùng nhau đi tới
đó. Bỗng nhiên ông thuyền trưởng vừa hút thuốc vừa gợi chuyện:
- Ôi, một lần, tôi đã hoảng hồn lên khi thuyền tôi bị kẹt
trong một hốc đá suốt sáu tiếng đồng hồ, đến gần tối may có một chiếc thuyền chở
than của người Anh đi ngang qua nhìn thấy chúng tôi và giúp chúng tôi đưa thuyền
ra.
Một người đàn ông với nước da rám nắng, đầy vẻ phong trần, từng
trải cắt lời:
- Thuyền trưởng, ông nói rằng ông hoảng hồn, ông sợ; tôi chẳng
thể tin được. Ông hẳn đã nhầm khái niệm sợ, cảm giác sợ với cảm giác mà ông đã
trải qua. Một người đàn ông rắn rỏi không bao giờ sợ khi đối mặt với khó khăn,
hiểm nguy. Anh ta rung động, lo lắng: nhưng sợ, đó lại là chuyện khác.
- Ai chà chà! Tôi sợ, tôi xin nói rõ lại với ông như thế. -
Ông thuyền trưởng vừa cười vừa nói.
Thế là người đàn ông rám nắng đó liền nói với giọng chậm rãi:
- Cho phép tôi được giải thích! Nỗi sợ (và những người đàn
ông gan dạ nhất, táo bạo nhất cũng có thể có một nỗi sợ), đó là một cái gì đó rất
khủng khiếp, một cảm giác tồi tệ như thể tim bị bóp nghẹt, cơ căng cứng, óc trống
rỗng. Một cảm giác mà chỉ nghĩ đến nó thôi cũng đủ rùng mình kinh sợ. Nhưng điều
đó sẽ không xảy ra khi người ta gan dạ, không thối chí trước một trận tấn công,
trước một cái chết không thể tránh khỏi, trước mọi nỗi hiểm nguy mà người ta phải
đối đầu: điều đó chỉ xảy ra trong một vài trường hợp đặc biệt, dưới ảnh hưởng của
những điều thần bí, đối mặt với những nguy cơ mập mờ, hư ảo. Nỗi sợ thật sự, đó
là một cái gì đó như là khi sực nhớ tới một nỗi khiếp sợ khủng khiếp trước đây.
Một người tin rằng có hồn ma, và tưởng tượng thấy xuất hiện những bóng ma trong
đêm là người sẽ cảm nhận thấy sự kinh sợ tột cùng. Tôi, tôi đã từng đối mặt với
nỗi sợ khủng khiếp suốt một ngày dài cách đây khoảng mười năm. Và tôi lại cảm
thấy nỗi sợ đó vào một đêm đông năm ngoái. Và tuy tôi đã từng qua biết bao hiểm
nguy chết người, từng vật lộn với cái chết biết bao lần. Tôi, kẻ đã từng bị bọn
kẻ cướp tìm giết, kẻ từng bị tuyên án tử hình vì tội nổi dậy ở châu Mỹ, kẻ đã từng
bị vứt xuống biển từ trên một tòa nhà ở Trung Quốc. Mỗi lần như thế, tôi đương
nhiên hồi hộp xúc động và lo lắng nhưng tôi không hề mủi lòng và thậm chí cũng
không hối tiếc.
Nhưng sự hồi hộp xúc động đó không phải là sự sợ hãi. Không,
không hề phải.
Tôi đã từng cảm thấy nỗi sợ ở châu Phi. Hãy chú ý tới điều
này, thưa các ông. Ở phưdng Tây, cuộc sống chẳng có nghĩa lý gì; người ta thường
cam chịu trước mọi việc; đêm sáng và chẳng có gì bí ẩn, tâm hồn con người ở đây
cũng thế, chúng trống rỗng, chúng chẳng hề có những lo lắng u tối, những lo lắng
ám ảnh trí não của con người xứ lạnh. Ở phương Đông, người ta có thể biết đến nỗi
kinh hoàng, người ta không biết đến sự sợ hãi. Vậy đấy, và đây, tôi sẽ kể cho
các bạn nghe điều đã xảy đến với tôi trên vùng đất châu Phi:
Tôi đi qua các cồn cát lớn ở vùng phía Nam vùng Ouargla. Đó
là một trong những đất nước kỳ lạ nhất thế giới. Các ông chỉ biết đến loại cát
mịn màng, trơn nhẵn êm ái trên bờ biển vô tận của đại dương. Vậy các ông có biết
rằng chính đại dương cũng tạo ra cát trong những trận bão táp. Hãy tưởng tượng
đến một trận bão, một trận bão được gây ra bởi những hạt bụi vàng, yên lặng tiến
đến, không gió giật, mưa gào báo hiệu. Cơn bão cát cao lừng lững, tiến tới như
một khối núi lớn, từng đợt không đều, khác hẳn nhau, được nâng lên như thể những
làn sóng không đến tiếp liền nhau, nhưng càng ngày càng lớn, và có vân như cát
nhiễu. Ở phía Đông mặt trời như một ngọn lửa lớn thiêu đốt mặt đất. Cần phải
trèo lên trên các trảng cát vàng như tro tàn bị thiêu rụi bởi mặt trời. Phải
leo lên, tụt xuống, lại leo lên, rồi lại tụt xuống không ngừng, không nghỉ,
không có lấy một bóng mát để nghỉ chân. Bọn ngựa đang hí ầm lên, chúng bị lún
trong cát tới tận đầu gối, chúng leo lên khó nhọc rồi lại trượt xuống những đồi
cát.
Chúng tôi gồm hai người theo sau tám kỵ binh và bốn con lạc
đà cùng với những người chăn chúng. Chúng tôi không nói chuyện gì nữa, mệt lả
vì nóng, vì mệt, khát khô như đang đi trong một sa mạc nóng bỏng nhất. Đột
nhiên một người bỗng kêu lên một tiếng; tất cả mọi người dừng lại, chết trân, cực
kỳ ngạc nhiên bởi một hiện tượng phổ biến, không giải thích được mà những lữ
khách ở các vùng hẻo lánh xa xôi rất hay gặp. Ở một nơi nào đó gần chúng tôi,
theo một hướng nhất định có tiếng trống đang vang lên, tiếng trống huyền bí
trên cồn cát; tiếng trống nghe rất rõ, lúc ầm vang, lúc khẽ khàng, có lúc ngừng
bặt rồi lại dồn lên theo một điệu nhạc kỳ dị. Những người Ả Rập, kinh hoàng
nhìn nhau; một người nói bằng tiếng Ả Rập: "Thần chết đi theo chúng
ta". Thế là đột nhiên bạn tôi, người bạn thân thiết như anh em với tôi ngã
ngựa, đầu đập xuống đất, ngất lịm vì say nắng.
Trong suốt hai giờ đồng hồ tôi gắng sức cứu chữa cho anh ta,
tiếng trống vẫn cứ lúc xa lúc gần, lúc to lúc nhỏ, tiếng trống đơn điệu, nhát gừng,
khó hiểu khiến tôi phát sợ, một nỗi sợ thật sự, một nỗi sợ khủng khiếp như khi
ta ôm thi hài của người yêu nằm gọn trong huyệt mộ đang cháy rực bởi mặt trời
nóng bỏng, nằm gọn giữa bốn con quỷ cát, trong khi đó âm thanh lạ thường đang vọng
đến cách chúng tôi khoảng tám trăm mét, tiếng vang đó phát ra từ một ngôi làng
kiểu Pháp, tiếng trống dồn dập hối thúc.
Hôm đó, tôi đã hiểu sợ nghĩa là thế nào; và tôi đã hiểu rõ
hơn thế nữa vào một lần khác...
Thuyền trưởng ngắt lời ông ta:
- Nhưng tiếng trống? Đó là cái gì thế?
Người kể chuyện trả lời.
- Tôi không biết, chẳng ai biết. Các sĩ quan thường ngạc
nhiên bởi tiếng động kỳ lạ này thường quy cho đó là tiếng vang được nhân lên,
to lên nhiều lần bởi thổi qua các cồn cát, đụn cát. Tiếng động gây ra khi gió
xoáy cuốn cát bay đập vào các bụi cây khô. Người ta cho như vậy bởi hiện tượng
này thường diễn ra ở gần những nơi có bụi cây quá khô tự bốc cháy dưới ánh mặt
trời. Tiếng trống thực ra chỉ là một loại ảo giác âm thanh. Thế thôi, thế nhưng
mãi sau này khi tôi trải qua cảm giác thứ hai của mình tôi mới hiểu ra.
Mùa đông năm ngoái, trong một khu rừng phía Đông bắc nước
Pháp. Trời tối sớm hơn các nơi khác khoảng hai tiếng, hôm đó trời vừa sâm sẩm tối,
tôi đang ở trên một con đường nhỏ với người dẫn đường là dân địa phương đi bên
cạnh, hai bên trồng thông, gió reo vi vu trên đầu. Bỗng chốc tôi nhìn thấy mây
đổi chiều và những đám mây lớn đang bay vùn vụt, đang bị đẩy bởi một cơn cuồng
phong, cả cánh rừng như vặn mình kêu răng rắc. Tôi cảm thấy lạnh dù tôi cô đi rất
nhanh và dù tôi mặc áo khoác dày. Chúng tôi sẽ đến nghỉ đêm lại nhà một người
gác rừng và dùng bữa đêm tại đó. Ngôi nhà của người gác rừng này không xa nhà
tôi là mấy nhưng tôi đến đó để đi săn. Người dẫn đường của tôi thỉnh thoảng lại
ngước mắt lên nhìn trời và lẩm bẩm: "Thời tiết xấu quá!" rồi anh ta
nói với tôi về những người ở nơi mà chúng tôi đang đi đến. Người cha hai năm
trước đã giết chết một tên săn trộm và kể từ khi đó, ông ta trở nên u sầu như
thể bị ám ảnh bởi điều đó. Hai đứa con trai của ông đều đã cưới vợ và hiện đang
ở cùng ông.
Trời tối om như mực. Tôi chẳng còn nhìn thấy gì nữa cả, thậm
chí ngay cả cái tay tôi xòe ra trước mặt tôi cũng nhìn không thấy. Tôi chỉ còn
nghe thấy tiếng những cành cây đập vào nhau không ngừng phía trên đầu. Cuối
cùng, tôi nhận thấy có ánh đèn sáng, ngay sau đó người dẫn đường đập cửa. Có tiếng
phụ nữ trả lời, rồi đến một giọng đàn ông ồm ồm hỏi: "Ai đến thế?"
Người dẫn đường xưng danh, cửa kẹt mở, chúng tôi bước vào. Đó là một cảnh tượng
không thể quên được. Một ông già râu tóc bạc phơ, mắt đầy vẻ điên dại, tay cầm
súng săn đang đợi chúng tôi ở giữa nhà, hai bên cửa là hai gã to lớn tay lăm
lăm rìu. Tôi để ý thấy trong góc nhà có hai phụ nữ đang quỳ, mặt úp vào tường.
Chúng tôi tự giới thiệu và nói rõ lý do đến, ông già buông
súng xuống, để nó dựa vào tường và ra lệnh dọn phòng cho tôi; và bởi hai người
phụ nữ vẫn chưa hề nhúc nhích, ông ta nói với tôi:
- Ông thấy đấy, tôi đã giết một người, đêm nay là tròn hai
năm ngày chết của người đó. Năm ngoái, anh ta đã quay lại tìm tôi, gọi tôi. Thế
nên đêm nay tôi còn đang đợi anh ta. - Rồi ông ta nói thêm bằng một giọng khiến
tôi phì cười - Hôm nay chúng ta sẽ chẳng yên nổi đâu.
Tôi đảm bảo rằng tôi đã lấy làm vui mừng vì đến đúng đêm đó để
chứng kiến một màn kịch về một nỗi khiếp sợ dị đoan. Tôi nói thế để các bạn khỏi
sợ. Gần bếp lửa, một chú chó già gần như mù lòa và lông lá bù xù đang nằm ngủ,
mũi gác lên trên chân. Phía ngoài ngôi nhà, cơn bão đang gào thét. Qua lỗ nhìn
gần cửa, bỗng chốc nhờ tia sáng một ánh chớp tôi thấy một cành cây bị gió giập
vùi.
Tôi cảm thấy có một nỗi sợ hãi đang ngự trị trong những người
đang ngồi đây cùng tôi, mỗi khi tôi ngưng nói, mọi người đều dõi tai để ý nghe
có tiếng động lạ nào đó không. Chán ngắt vì phải ngồi với những nỗi sợ vơ vẩn
như vậy, tôi định đứng lên đi ngủ, đúng lúc đó ông già bỗng nhảy phắt tới cây
súng săn, ông vừa tóm lấy nó vừa lắp bắp lạc cả giọng: "Anh ta đấy! Anh ta
đấy! Tôi nghe thấy anh ta!" Hai người phụ nữ lại quỳ thụp xuống góc nhà,
giấu mặt vào tường; hai người con trai cầm lấy rìu. Tôi vừa định nói mấy câu an
ủi giúp họ nguôi sợ thì con chó đang ngủ bỗng vùng dậy, đầu ngẩng cao, cổ vươn
về phía lò sưởi, con mắt gần như lòa của nó dán chặt vào lò sưởi, nó tru lên một
hồi sầu thảm, tiếng chó tru đó sầu thảm đến mức đủ khiến mọi lữ khách phải rùng
mình. Mọi con mắt đổ dồn về phía con chó, đến lúc đó con chó vẫn đứng im, bất động,
bốn chân choãi ra như thể nó đang gầm gừ với một cái gì đó vô hình, kỳ lạ, và hẳn
là đáng sợ bởi lông nó dựng hết cả lên. Người gác rừng, tái mét kêu lên:
"Nó cảm thấy được đấy! Nó cảm thấy anh ta đấy! Anh ta đã đứng ở đó khi tôi
giết anh ta". Hai người phụ nữ tái mét mặt cùng hét lên một lúc với con
chó.
Cho dù tôi không hề biết sợ, thế nhưng một cơn rùng mình khiến
tôi rung động từ đầu đến chân. Cái nhìn của con chó vào giờ này, ở nơi này giữa
những con người đang cuống cuồng sợ hãi, tất cả những điều đó cũng khiến tôi
lây cái sợ mà họ đang cảm thấy.
Thế là trong suốt một tiếng đồng hồ, con chó cứ tru lên không
ngừng, và nó cũng không hề động đậy, nó cứ giữ nguyên tư thế như thế trong suốt
một tiếng đồng hồ liền, nó cứ tru lên như thể nó đang mơ một giấc mơ kinh
hoàng: và sự sợ hãi, một sự sợ hãi khủng khiếp bao trùm lên tôi; sợ gì nhỉ? Tôi
biết tôi sợ gì không? Không, đó là một nỗi sợ, thế thôi.
Chúng tôi cùng ngồi im bất động, xanh xám, chờ đợi một sự kiện
gì đó hết sức khủng khiếp, tai căng ra, trống ngực đập thình thịch, cuống cuồng
lo sợ trước bất cứ tiếng động nhỏ nào. Rồi con chó đi vòng quanh phòng, vừa đi
vừa ngửi hít bốn bức tường vừa rên rỉ không ngừng. Con vật khiến chúng tôi phát
rồ! Thế nên người dẫn đường của tôi, không thể chịu đựng được hơn nữa đã mở cửa
ra sân sau và ném con vật ra ngoài. Ngay lúc đó nó im bặt; chúng tôi lại chìm
vào một sự im lặng còn đáng sợ hơn cả trước. Đột nhiên, cùng một lúc, chúng tôi
cùng giật thót mình: bên ngoài, ở phía tường đối diện rừng, có cái gì đó bò dọc
tường, đi ngang qua cửa, nó có vẻ như đang sờ lần bằng tay một cách ngập ngừng;
rồi người ta không nghe thấy tiếng gì nữa trong khoảng hai phút, hai phút đó
khiến người ta sợ phát điên. Rồi nó lại quay lại, lại sượt qua tường; nó cào
nhè nhẹ như thể một đứa trẻ lấy ngón tay cào nhẹ vào tường; rồi bỗng nhiên một
cái đầu xuất hiện ở lỗ nhìn cạnh cửa, một cái đầu trắng toát với đôi mắt hoang
dại lấp lánh như mắt của bọn thú ăn thịt, có tiếng nói phát ra từ miệng của nó,
một giọng nói không rõ ràng, một giọng rầm rì than thở. Có tiếng súng nổ, người
gác rừng già đã bắn. Và ngay khi đó hai người con trai chạy bổ tới, bít chặt
cái lỗ nhìn bằng cách dựng cái bàn lớn lên trên cái tủ buýp phê.
Và tôi xin thề với các ông rằng vì đột ngột nghe tiếng súng
không đợi trước đó mà tôi bỗng cảm thấy sợ, một nỗi sợ bóp nghẹt tim, làm thân
thể bủn rủn, đầu óc trống rỗng, tôi cảm thấy mình mệt lả đi, gần như chết vì sợ.
Chúng tôi cứ ngồi yên như thế cho tới tận bình minh không thể
cử động, không thể nói năng, co quắp trong một nỗi sợ khó tả. Chúng tôi không
dám dỡ bỏ rào chắn khỏi cửa cho tới tận khi nhận thấy có ánh mặt trời lọt qua
khe trên mái nhà dọi xuống. Dưới chân tường, dựa vào cửa, con chó già nằm bất động,
mõm vỡ toác bởi một phát đạn. Nó đã bò ra khỏi sân sau bằng cách đào một lỗ nhỏ
dưới hàng rào.
Người kể chuyện có khuôn mặt rắm nắng ngưng lại một lúc, rồi
anh ta nói thêm: "Đêm đó, tôi đã không phải trốn chạy khỏi bất cứ một nguy
hiểm nào; nhưng nếu thời gian quay lại thì tôi thà đương đầu với mọi hiểm nguy
chết người còn hơn phải chịu đựng giây phút nghe tiếng súng vang lên và nhìn thấy
cái đầu lông lá qua lỗ nhìn đó...".
Coco
Trong khắp các vùng lân cận, người ta gọi trang trại của gia
đình nhà Lucas là "Trại lĩnh canh". Người ta không biết tại sao lại gọi
như vậy. Những người nông dân, đương nhiên, đã đánh đồng nghĩa của từ "Trại
lĩnh canh" với sự giàu có và to lớn, bởi trang trại này hiển nhiên là
trang trại rộng lớn nhất, trù phú nhất, ngăn nắp nhất trong vùng.
Khoảng sân rộng lớn được bao quanh bởi năm hàng cây tuyệt đẹp
rợp bóng mát che cho trang trại khỏi cái nóng khắc nghiệt của bình nguyên. Những
cây táo lùn rợp bóng, phủ mát cho dãy nhà mái ngói để giữ rơm, hạt khỏi bị khô
héo, phủ mát cho chuồng trại xây bằng đá ong, cho chuồng ngựa ba mươi con, và
cho nhà ở xây bằng gạch đỏ. Ngôi nhà trông giống như một tòa lâu đài nhỏ.
Chuồng trại được giữ gìn sạch sẽ; những con chó gác cửa nằm
trong chuồng của chúng, lũ gia cầm đi dạo trong cỏ cao.
Mỗi trưa, mười lăm người: chủ, tớ và người phục vụ, ngồi
quanh bàn bếp dài nơi món súp ngon lành đựng trong bát sành hoa xanh, tỏa mùi
thơm ngào ngạt đang đợi họ.
Lũ súc vật, ngựa, bò, lợn và cừu, béo mầm, sạch sẽ vì được
chăm sóc tốt. Ông chủ Lucas là một người đàn ông to lớn và cẩn thận, tỉ mỉ: ông
đi coi sóc mọi việc trong trang trại ba lần mỗi ngày, ông biết đến mọi việc,
chu toàn mọi việc.
Ông Lucas giữ lại, tít sâu trong chuồng ngựa, một con ngựa trắng
già, và ông muốn nuôi nó cho tới khi nó chết già vì đó là con ngựa ông đã tự
tay chăn dắt thuở thiếu thời. Con ngựa đó là kỷ niệm đáng nhớ đối với ông, nó
nhắc ông nhớ lại những kỷ niệm đã qua.
Một thằng nhóc mười lăm tuổi, tên là Isidore Duyal, và thường
được gọi tắt là Zidore lãnh trách nhiệm coi sóc con ngựa. Mùa đông, cho ngựa ăn
yến mạch và lấy cỏ khô lót chuồng cho ngựa. Mùa hè, dắt ngựa ra đồng cỏ, buộc
ngựa vào cọc buộc trên đồng cỏ và bốn lần mỗi ngày đến thay đổi chỗ buộc ngựa để
ngựa có thể ăn được những ngọn cỏ non tơ.
Con vật, gần như là bại liệt, đứng một cách khó nhọc trên đôi
chân nặng nề, với hai khớp gối to sù, sưng phồng. Bộ lông mà từ lâu người ta chẳng
còn chải, có vẻ như là màu trắng và bộ mi rất dài phủ xuống mắt nó một cái nhìn
u buồn.
Khi Zidore dẫn ngựa ra đồng cỏ, nó phải dùng hết sức bình
sinh để kéo dây buộc. Con vật chậm chạp bước, cho dù bị thúc giục. Thằng nhóc
chăn ngựa cong lưng, thở hổn hển, chửi thề, mắng con vật, cáu kỉnh vì phải chăm
sóc một con nghẽo già nua.
Những người trong trang trại nhìn cảnh cáu giận của thằng nhóc,
rất buồn cười. Thế là họ trêu Zidore bằng cách nói nhiều chuyện về Coco với
Zidore để chọc tức nó. Và thậm chí họ gọi tên kép Coco-Zidore.
Thằng nhỏ phát khùng, và dần dần trong nó lớn dần một mong muốn
trả thù con ngựa. Zidore là một thằng nhóc gầy nhỏng, bẩn thỉu, tóc hoe đỏ, cứng
đầu và khó bảo nó có vẻ ngu ngốc, ăn nói cục cằn, khó ưa.
Từ rất lâu, nó luôn ngạc nhiên sao người ta lại giữ lại Coco,
nó phẫn nộ vì cho rằng thật phí phạm khi phải tiêu tốn cỏ và lúa mạch cho một
con nghẽo già như Coco. Từ khi Coco không làm việc nữa, nó cảm thấy thật vô lý
khi nuôi con vật vô ích này. Nó cảm thấy uất ức khi phí phạm lúa mạch cho con
nghẽo già yếu, bại liệt, mà lúa mạch lại đắt đỏ. Vậy là, cho dù ông chủ Lucas
đã ra lệnh phải chăm sóc tốt cho con ngựa, phải lấy đủ yến mạch và cỏ khô cho
nó vào mùa đông, phải luôn đảm bảo nó được ấm và no đủ, thằng nhốc vẫn cố tình
tiết kiệm thức ăn cho ngựa, thậm chí nó chỉ lấy cho ngựa một nửa số thức ăn cần
thiết, dè xẻn cả rơm và cỏ khô lót chuồng ngựa! Và nỗi căm ghét cứ lớn dần lên
trong tim óc thằng nhóc chăn ngựa: nỗi căm ghét của một tên nông dân tham ;am,
xảo trá, tàn ác, hung dữ và hèn hạ.
Khi mùa hè đến, nó phải đưa con vật ra đồng cỏ. Nhưng đồng cỏ
thì xa. Thằng ranh, càng ngày càng cáu giận khi sáng sáng nó phải đưa con vật
lê bước chân nặng nề qua cánh đồng lúa mì. Những ngưòi nông dân làm việc trên
cánh đồng nhìn thấy cảnh đó, lại trêu chọc nó, họ gọi:
- Này Zidore, cho tôi gửi lời hỏi thăm tới Coco nhé!
Thằng nhóc chẳng trả lời câu nào, nhưng khi đi ngang qua hàng
rào, nó âm thầm bẻ lấy một thanh gỗ và khi đến cọc buộc ngựa trên đồng cỏ, nó
buộc dây vào cọc, và thật độc ác, nó quất mạnh vào khoeo chân con vật già nua
khốn khổ, con vật đau đớn cố bỏ trốn một cách vô vọng bằng cách đá hậu và cố
tránh những cú đánh ác độc, kéo căng dây buộc hòng thoát thân, và thằng khốn nạn
bám riết lấy con vật, hai hàm răng nghiến chặt, nó đánh con ngựa một cách tàn độc,
điên dại.
Thường thì một lúc sau, nó bỏ đi không buồn quay đầu nhìn lại
trong khi con ngựa nhìn theo bằng đôi mắt rầu rĩ của mình, xương sườn nhô ra, mệt
lử sau trận trốn chạy đòn roi. Và Coco chỉ dám cúi cái đầu trơ xương với chòm
lông trắng xuống gặm cỏ sau khi đã khuất bóng áo budông xanh của thằng chăn ngựa.
Bởi đêm rất nóng nên người ta để Coco ngủ ngoài đồng cỏ, bên
cạnh khe nước chảy, sau cánh rừng và chỉ Zidore có trách nhiệm đến để coi sóc
nó.
Thằng nhóc thậm chí còn giải trí bằng việc ném đá vào con ngựa.
Nó thường ngồi cách con ngựa mười bước chân, trên một sườn dốc, và thỉnh thoảng
lấy một hòn sỏi có cạnh sắc ném vào con vật. Con vật bị buộc, không có khả năng
trốn chạy, lúc nào cùng nơm nớp lo sợ và chỉ dám gặm cỏ chừng nào thằng chăn ngựa
bỏ đi.
Thế nhưng ý nghĩ "Vì sao lại phải nuôi một con nghẽo già
nua vô ích chẳng để làm gì?" luôn quẩn quanh trong đầu thằng nhóc. Với nó
có vẻ như là con ngựa khốn khổ này đã ăn cắp thức ăn của các con ngựa khác, ăn
cắp yến mạch của con người, ăn cắp của cải của ông chủ và ăn cắp cả thời gian của
nó, của Zidore, vì nó phải làm việc.
Vậy là, mỗi ngày, thằng khốn thu hẹp dần dây buộc, thu hẹp dần
diện tích cỏ ngựa có thể gặm.
Con vật ngày càng xanh xao, gầy yếu, héo hắt. Quá yếu để dứt
đứt dây buộc, nó vươn cổ về phía những nhánh cỏ non mềm, rất gần, tỏa hương
thơm ngọt dịu mà không sao với tới được.
Một sáng, Zidore chợt nảy ra một ý: đó là không dắt Coco ra đồng
cỏ nữa. Nó chả việc gì phải đi xa như thế vì một con nghẽo già da bọc xương.
Tuy nhiên, nó vẫn đến để tận hưởng sự báo thù. Con vật, lo lắng
nhìn nó.
Hôm đó nó không đánh đập con ngựa, nó đi vòng quanh con ngựa,
hai tay để trong túi quần. Thậm chí nó còn làm ra vẻ sắp dắt con vật ra đồng cỏ,
nhưng rồi nó lại ấn sâu cọc buộc vào lỗ cũ, rồi nó bỏ đi, huýt sáo vang vui vẻ
vì sáng kiến của mình.
Con ngựa, nhìn theo, hí lên gọi nó; nhưng thằng nhóc vẫn bỏ
đi, để con ngựa lại một mình, đơn độc, bị buộc chặt, và chẳng có lấy một ngọn cỏ
để nhai.
Đói lả, Coco cố với tới ngọn cỏ xanh mỡ màng mà nó gần như chạm
được mũi đến. Nó quỳ trên hai chân trước, vươn dài cổ, kéo dài đôi môi dày chảy
dãi. Mọi cố gắng đều vô ích. Suốt ngày hôm đó, hết lần này đến lần khác, con vật
cố gắng ghê gớm để vươn được đến ngọn cỏ, nhưng mọi cố gắng của nó đều uổng
công. Kiệt sức, cái đói giày vò, và cái đói lại càng khủng khiếp hơn khi quanh
nó, cỏ non mơn mởn trải dài tới tận đường chân trời.
Ngày hôm đó thằng khốn không quay lại. Nó lang thang trong rừng
để bắt chim.
Ngày hôm sau, nó quay lại chỗ Coco bị buộc. Coco, mệt lử, nằm
dài trên đất, vội nhổm dậy khi thoáng thấy bóng Zidore, chờ đợi được di chuyển
chỗ buộc.
Nhưng thằng nhóc chăn ngựa, thậm chí không sờ vào dây buộc,
nó lại gần con ngựa, nhìn con vật, ném vào mũi Coco một cục đất và nó lại vừa bỏ
đi vừa huýt sáo.
Con ngựa đứng yên nhìn cho tới khi khuất bóng thằng nhóc; và
rồi thấy rõ là mọi cố gắng để chạm được tới những ngọn cỏ chỉ là vô ích, nó lại
nghiêng mình nằm duỗi ra và nhắm mắt lại.
Ngày hôm sau Zidore không đến.
Ngày hôm sau nữa, khi nó tiến lại gần con vật đang nằm duỗi
ra, nó nhận thấy rằng con vật đã chết.
Thế là, nó đứng lên, nhìn con vật, hài lòng vì tác phẩm của
mình, ngạc nhiên vì cuối cùng thế cũng đã xong. Nó chạm vào chân con ngựa, nhấc
một cẳng ngựa lên rồi thả nó rơi xuống. Ngồi lên trên con ngựa, mắt nhìn chằm
chằm vào thảm cỏ xanh, đầu óc trống rỗng.
Nó quay trở lại trang trại, nhưng không nói gì về sự việc vừa
qua, vì nó còn muốn lang thang trong thời gian mà thông thường nó phải đổi chỗ
buộc cho ngựa.
Ngày hôm sau nữa nó quay lại xem con ngựa. Lũ quạ bay tán loạn
khi nó đến gần. Ruồi bu đen đặc trên con ngựa và bay vù vù xung quanh nó.
Quay về trang trại, Zidore thông báo sự kiện ngựa chết. Con
ngựa già đến nỗi chẳng ai ngạc nhiên khi hay tin nó chết. Ông chủ bảo hai người
làm:
- Lấy xẻng đi và hãy chôn nó ở chính nơi nó sống.
Và người ta đã chôn nó, ở chính nơi nó đã chết vì đói.
Rồi cỏ mọc lên tươi xanh, đầy nhựa sống vì được bón bởi da thịt
chú ngựa khốn khổ.
Luyến tiếc
Viết cho Léon Dierx
Ông Saval, mà ở Mantes người ta vẫn gọi là "Cha
Saval", vừa trở dậy. Trời đang mưa. Đó là một ngày thu buồn thảm, mưa thu
làm rụng lá, những chiếc lá chầm chậm rơi trong mưa. Ông Saval không vui, ông cứ
đi đi lại lại, từ lò sưởi đến cửa sổ rồi lại đi từ cửa sổ về lò sưởi. Cuộc đời
có những ngày thật buồn. Và giờ đây với ông cuộc sống sẽ chẳng còn gì nữa ngoài
những ngày buồn thảm bởi ông đã sáu mươi hai tuổi, lại sống có một mình, không
gia đình, không người thân, không có ai ở bên cạnh. Buồn làm sao khi phải giã từ
thế giới này trong cô đơn, trong đơn độc, không có lấy một ai xót thương!
Ông nghĩ tới sự tồn tại trần trụi, vô nghĩa của mình. Ông nhớ
lại thuở xưa, thuở thiếu thời, khi ông còn sống trong nhà của bố mẹ, rồi ông nhớ
tới thuở còn đi học, nhớ tới những lần đi chơi, nhớ tới những ngày ông học luật
ở Paris, ngày bố ông ốm rồi ông cụ mất.
Ông trở về sống cùng mẹ. Mẹ con họ, một thanh niên trẻ và một
bà già, họ đã có những ngày thật êm đềm, hạnh phúc bên nhau, và họ đều không có
một ước vọng nào khác là được sống mãi cùng nhau như thế. Nhưng rồi mẹ ông ốm,
và cuối cùng bà cũng rời xa ông mãi mãi.
Cuộc đời mới buồn làm sao!
Giờ đây ông còn lại có một mình, và tới lượt ông, rồi ông
cũng sẽ phải lìa xa thế giới này. Ông sẽ biến khỏi cõi đời này, và thế là hết.
Sẽ chẳng còn ông Paul Saval trên trái đất nữa. Điều đó mới khủng khiếp làm sao!
Những người khác sống, vui đùa, cười cợt. Vâng, thế đấy, họ vẫn cười vẫn đùa và
ông, ông sẽ không còn tồn tại nữa! Có lạ lùng không, khi người ta có thể cười
đùa, vui vẻ được trong khi rồi chắc chắn người ta sẽ chết. Giá như cái chết chỉ
là một điều gì đó có thể xảy đến với ai đó chứ không phải tất cả mọi người thì
người ta còn có hy vọng. Nhưng cái chết là điều không thể tránh khỏi, nó hiển
nhiên như sau ngày sẽ là đêm.
Giá như ông còn nhiều thời gian, giá như ông đã làm được một
việc gì đó, giá như ông đã từng chu du thế giới, giá như ông đã từng làm những
cuộc thám hiểm, giá như ông đã từng có những ước mơ lớn lao, từng có những
thành công, từng được hài lòng kiểu như vậy. Nhưng không, ông chẳng từng làm gì
cả, chẳng có được gì cả ngoài việc sáng sáng ông trở dậy, rồi ăn, rồi ngủ cùng
đúng những giờ như nhau, không ngày nào khác ngày nào. Và cuộc đời ông cứ thế
trôi đi, cho đến tận bây giờ, khi ông đã sáu mươi hai tuổi. Thậm chí ông còn
không cả kết hôn với ai đó, như mọi người đàn ông khác. Tại sao? Ừ nhỉ, tại sao
ông lại không kết hôn? Ông đã thừa sức làm được điều đó vì ông có cả một gia
tài. Phải chăng ông đã bỏ lỡ mất cơ hội? Có thể! Nhưng người ta có thể tạo ra
cơ hội! Ông đã quá uể oải, đúng vậy. Sự uể oải đã làm nên những nỗi đau khổ lớn
cho ông, tạo nên những lỗi lầm của ông, những sai sót của ông, những thói hư tật
xấu của ông. Có biết bao người đang làm hỏng cuộc đời họ bởi sự lười nhác uể oải.
Việc dậy sớm mỗi sáng, hoạt động, suy nghĩ, làm việc, nói
chuyện, học hỏi, vươn lên là một điều quá khó khăn với một số người.
Ông thậm chí còn chưa từng một lần được yêu. Không một người
phụ nữ nào muốn ngủ trên ngực ông, trên khuôn ngực hoàn toàn thiếu vắng tình
yêu. Ông không hề biết đến nỗi bực tức ngọt ngào của việc chờ đợi người yêu,
không hề được nếm trải cảm giác bị cầm tù trong vòng tay người yêu, cảm giác mê
ly ngây ngất trong tình yêu.
Biết bao hạnh phúc ngập tràn con tim, khi lần đầu hai đôi môi
gắn lại làm một, khi bốn cánh tay siết chặt hai thân thể thành một, khi hai con
người hết lòng yêu nhau.
Ông Saval đang ngồi hơ chân trên lò sưởi, trên mình khoác bộ
quần áo mặc ở nhà.
Đương nhiên là cuộc đời ông đã bị bỏ phí hoài, hoàn toàn bỏ
phí. Tuy vậy nhưng ông cũng đã từng yêu, chính ông. Ông đã từng yêu một cách lặng
thầm, kín đáo, đầy đau khổ nhưng cũng đầy uể oải như mọi việc ông từng làm.
Vâng, ông đã từng yêu một người bạn cũ của ông, cô Sandres, vợ của một người bạn
học cũ, ông Sandres. A! Giá như ông quen với cô từ khi cô còn con gái! Nhưng
ông quen với cô khi đã quá muộn, cô lúc đó đã là gái có chồng. Giá như lúc đó
cô còn chưa có ai, chắn chắn ông đã hỏi cô làm vợ! Tuy nhiên, ông đã yêu cô biết
bao, yêu mãi, yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Và cứ mỗi khi gặp cô ông lại thấy bồi hồi, bối rối, mỗi khi
phải chào tạm biệt cô lòng ông lại buồn bã không nguôi, rồi đêm đó, và một vài
hôm sau đó thế nào ông cũng mất ngủ vì nhớ cô. Nhưng đến sáng hôm sau, khi tỉnh
dậy thì tình yêu trong ông lại nhạt đi một chút so với đêm hôm trước. Sao thế
nhỉ?
Cô ấy mới duyên dáng làm sao, từ xưa đến nay vẫn thế, cô ấy
thật đẹp với mái tóc xoăn óng vàng, với khuôn mặt luôn tươi cười rạng rỡ.
Sandres không hề xứng với cô. Giờ đây, cô đã năm mươi tám tuổi. Cô luôn có vẻ hạnh
phúc. Ôi! Xưa kia, giá cô để mắt đến ông! Giá cô yêu ông! Tại sao cô lại không
yêu ông, chính ông Saval đây, vì ông yêu cô đến thế kia mà, cô Sandres.
Giá như cô đã đoán được tình cảm của ông...
Sao cô chẳng bao giờ chịu đoán, sao cô chẳng bao giờ nhìn thấy
tình cảm của ông, sao cô chẳng bao giờ chịu hiểu gì thế nhỉ? Nếu cô đoán được,
hiểu được, liệu cô sẽ nghĩ gì? Nếu ông thổ lộ tình cảm với cô, liệu cô sẽ trả lời
ra sao?
Cứ thế, ông Saval tự đặt cho mình hàng nghìn câu hỏi. Ông hồi
tưởng, ông như sống lại cuộc đời mình, tìm cách chộp lại một loạt những chi tiết.
Ông nhớ lại tất cả những tối chơi bài ở nhà ông Sandres, khi
đó cô vẫn còn là một phụ nữ trẻ và vô cùng xinh đẹp. Ông nhớ lại những gì ông
và cô đã nói với nhau, nhớ lại giọng nói trong trẻo dễ nghe của cô thuở trước,
nhớ tới những nụ cười tủm tỉm đầy ý nghĩa của cô.
Ông nhớ lại những tối cùng đi dạo dọc sông Seine của cả ba
người, vợ chồng cô và ông. Nhớ tới những bữa ăn ngoài trời vào những ngày chủ
nhật bởi ông Sandres làm việc ở quận. Và bỗng nhiên kỷ niệm này, làm ông nhớ lại
một buổi chiều, ông cùng cô đi dạo ở trong rừng dọc một con sông.
Hôm đó, họ rời nhà từ sáng sớm, với đầy tay nải đồ ăn, hôm đó
là một ngày mùa xuân đẹp trời, mùi hoa thơm, mùi cỏ cây, mùi đất ẩm... lại có
tiếng vỗ cánh của chim, tiếng chim hót líu lo nữa chứ, mọi vật đều trở nên tuyệt
vời trong một ngày như thế. Họ đã dùng bữa trên cỏ, dưới bóng một cây sồi.
Không khí ấm áp, thoang thoảng đâu đây mùi nhựa cây, họ cùng uống rượu một cách
đầy vui thú. Hôm đó, trời mới đẹp làm sao!
Sau bữa trưa, Sandres nằm ngửa, thiu thiu ngủ, tỉnh lại nói:
"Giấc ngủ ngon nhất cuộc đời tôi".
Cô Sandres khoác tay Saval, và họ cùng nhau đi dạo dọc theo bờ
sông. Cô Sandres dựa vào ông, cô vừa cười vừa nói: "Em say rồi, em say hẳn
rồi". Ông nhìn cô, rung động đến tận đáy lòng, cảm thấy mặt mình tái nhợt
đi, nghi ngại rằng ánh mắt của mình quá sỗ sàng, rằng sự run rẩy của tay mình sẽ
tố cáo bí mật của mình mất.
Cô bện một chiếc vòng bằng cỏ và hoa huệ tây, đội lên đầu rồi
quay lại hỏi ông: "Ngài yêu em, phải thế không?"
Và vì ông không trả lời gì cả, vì ông chẳng biết trả lời thế
nào, ông suýt nữa ngã khuỵu xuống, cô bắt đầu phá lên cười, tiếng cười không được
vui vẻ, bằng lòng lắm, rồi cô phảy tay: "Ngốc ạ, nào, ít ra thì cũng nói
gì đi nào!"
Ông suýt bật khóc mà vẫn không sao tìm được một từ nào để
nói. Mọi chuyện hôm đó hôm nay lại tái hiện trước mắt ông, rõ mồn một như thuở
nào. Sao cô lại bảo ông: "Ngốc ạ, nào, ít ra thì cũng nói gì đi nào!"
Ông nhớ lại cô đã dựa vào ông, âu yếm đến thế nào. Khi đi
ngang qua một cái cây đổ nghiêng, ông đã cảm thấy mái đầu cô nghiêng nhẹ chạm
vào má ông và ông đã vội lùi ra xa vì sợ cô vô tình nhận ra được sự đụng chạm
đó.
Khi ông bảo: "Chúng ta về chứ?" cô đã liếc nhìn ông
với một ánh mắt thật lạ. Chắc chắn là cô đã nhìn ông một cách tò mò, và ánh
nhìn đó đã khiến ông nhớ mãi đến tận bây giờ.
- Tùy ngài thôi, bạn thân mến. Nếu bạn mệt rồi thì chúng ta
quay về thôi.
Và ông đã trả lời:
- Không phải tôi mệt, nhưng có thể Sandres đã thức dậy rồi.
Thế là cô nhún vai và nói:
- Nếu ông sợ chồng tôi đã thức giấc, thì đó lại là chuyện
khác. Chúng ta quay lại thôi!
Lúc quay về, cô giữ im lặng và cô cũng không khoác tay ông nữa.
Sao lại thế nhỉ?
Và câu hỏi "tại sao" đó, đến tận giờ ông vẫn còn
chưa giải được.
Đến giờ, hình như ông đã nhận ra một điều gì đó mà ông đã chẳng
bao giờ hiểu được.
Phải chăng...?
Ông Saval cảm thấy mặt mình đỏ lên và ông đứng lên một cách bối
rối như thể như từ ba mươi năm trước, ông đã nghe thấy cô Sandres nói với ông:
"Em yêu anh"
Liệu có thể như thế không? Nỗi nghi ngờ đó cứ ám ảnh tâm hồn
ông và làm ông khổ sở! Liệu có thể ông đã chẳng nhìn thấy gì, chẳng đoán được
gì chăng?
Ôi! Nếu điều đó là thật, giá ông có thể quay ngược thời gian
để trở về đúng được ngày hôm đó, ông tự nhủ: "Ta muốn biết. Ta không thể
giữ mãi mối nghi ngờ này. Ta muốn biết!"
Và ông vội vàng mặc quần áo. Ông nghĩ: "Ta đã sáu mươi
hai tuổi, cô ấy giờ đây đã năm mươi tám, giờ ta đương nhiên có thể hỏi cô điều
đó".
Và ông ra khỏi nhà.
Nhà ông Sandres nằm ở khu phố bên cạnh, gần như là đối diện với
khu phố ông đang ở. Ông đi đến đó. Ông nhấn chuông và ngay lập tức có cô giúp
việc chạy ra mở cửa. Cô này có vẻ rất ngạc nhiên khi thấy ông đến sớm đến thế:
- Ngài đấy ạ, thưa ngài Saval, có chuyện gì ạ?
- Không đâu, cô gái, nhưng hãy vào thưa với bà chủ cô rằng
tôi muốn nói chuyện với bà ngay lập tức.
- Thưa ông, bà đang ngâm cất làm mứt lê cho mùa đông. Bà đang
ở trong bếp lò, và ăn vận không được chỉnh tề, ông biết đấy.
- Tôi hiểu rồi, nhưng hãy vào thưa với bà rằng, ta có một
chuyện vô cùng quan trọng muốn nói với bà.
Cô giúp việc đi vào, ông Saval đi đi lại lại trong phòng
khách với những bước dài bồn chồn. Tuy thế nhưng ông không cảm thấy lúng túng. Ồ!
Ông cần phải hỏi bà điều đó, đơn giản như thể ông hỏi bà một công thức nấu ăn vậy.
Đó là vì ông đã sáu mươi hai tuổi rồi!
Cánh cửa kẹt mở, bà xuất hiện. Giờ bà đã trở thành một phụ nữ
sồ sề với khuôn mặt tròn căng, với tiếng cười rổn rảng. Bà bước đi, hai tay
vung vẩy, không khoác khăn choàng, trên hai cánh tay trần vẫn còn đang dính đường.
Bà hỏi một cách lo lắng:
- Có chuyện gì thế, ông bạn thân mến. Ông không ốm đau gì đấy
chứ?
Ông trả lời:
- Không, bà bạn thân mến, nhưng tôi muốn hỏi bà một điều rất
quan trọng với tôi, hỏi bà một điều đã khiến tôi dằn vặt khổ sở bấy lâu. Hãy
cho phép tôi được hỏi bà một cách thắng thắn nhé?
Bà cười.
- Tôi lúc nào cũng luôn thẳng thắn mà. Ông nói đi.
- Là thế này. Tôi đã yêu bà ngay từ cái hôm đầu tiên tôi nhìn
thấy bà. Bà chưa bao giờ lờ mờ đoán được điều ấy hay sao?
Bà vừa bật cười vừa trả lời, cũng với cùng một kiểu nói xưa
kia:
- Ngốc ạ, tôi đã đoán được điều đó ngay từ ngày đầu tiên rồi!
Saval run bắn lên, ông lắp bắp:
- Bà đã biết... thế sao...
Và ông im tịt.
Bà hỏi lại:
- Thế sao... ông nghĩ gì nào... rằng... rằng... Ông lẽ ra đã
phải nói gì rồi nào?
Rồi bà bật cười, cười rất to. Những giọt nước đường bắt đầu
chảy thành giọt trên cánh tay bà, rồi rơi xuống sàn nhà.
- Tôi ư?... Nhưng lẽ ra bà đã phải hỏi tôi. Lẽ ra bà đã phải
tạo cho tôi cơ hội để tôi có thể bày tỏ tình cảm với bà!
Rồi tiến thêm một bước về phía bà, ông lại hỏi:
- Hãy nói cho tôi biết... nói cho tôi biết... Bà có nhớ cái
hôm mà Sandres ngủ trên cỏ sau bữa trưa... cái ngày mà chúng ta đã cùng nhau...
đi dạo mãi cho tới chỗ rẽ, ở đó?...
Ông ngừng lời. Chờ đợi. Bà ngưng cười và nhìn sâu vào mắt
ông:
- Đương nhiên là tôi nhớ hôm đó rồi.
Thốt nhiên rùng mình, ông hỏi lại:
- Ôi... thế... hôm đó... nếu tôi... tôi... tìm cách quyến rũ
bà... bà sẽ làm gì?
Bà lại cười và trả lời một cách thẳng thắn bằng một giọng rõ
ràng nhưng hơi có chút mai mỉa:
- Tôi sẽ nhượng bộ, bạn thân mến ạ.
Nói xong, bà quay gót đi vào trong, quay vào với món mứt của
bà.
Saval lại đi ra phố, rụng rời như sau một thảm họa. Ông lê những
bước dài dưới mưa, đi thẳng qua nhà ông, đi xuống dưới bờ sông, lang thang
không biết mình đang đi đâu.
Khi đi đến sát mép sông, ông rẽ phải và tiếp tục đi dọc theo
bờ sông. Ông đi bộ rất lâu, như thể bị đẩy đi bởi bản năng. Quần áo ông ướt đẫm
nước mưa, mũ của ông cũng đẫm nước, méo mó, biến dạng trông như một miếng giẻ
rách, rỏ giọt tong tỏng như một mái hiên. Và ông cứ đi, cứ đi mãi. Rồi ông chợt
nhận thấy, ông đã đến được đúng cái nơi mà họ đã ăn trưa ở đó, đến được đúng
cái nơi mà kỷ niệm ở đó đã mãi dằn vặt con tim ông.
Thẫn thờ đứng nhìn rừng cây trần trụi, ngồi sụp xuống dưới một
gốc cây trơ lá và ông bật khóc.
Một chuyện có thật
Một cơn gió lớn lại nổi lên, một cơn gió thu gầm rú, thét
gào, cuốn bay ào ào, vặt trụi nốt những chiếc lá cuối cùng còn sót trên cây và
cuốn nó bay tít lên tới tận mây xanh.
Những người đi săn đã ăn xong bữa tối, chân vẫn còn đi ủng, mặt
bóng nhãy, đỏ phừng phừng, chuyện trò rất sôi nổi. Đó là những con người nửa
lãnh chúa, nửa cường hào, nửa nông dân, giàu có và mạnh khỏe, đủ khả năng bẻ
gãy sừng bò nếu có con bò ngớ ngẩn nào đó dám cản bước đường đi của họ.
Họ đã săn bắn suốt cả ngày trên vùng đất của ông Blondel,
lãnh chúa vùng Éperville, giờ đây, họ ngồi xung quanh một chiếc bàn lớn, vừa có
dáng thô kệch nông thôn, vừa có vẻ cầu kỳ phố thị của ông chủ nhà, họ ăn uống,
bông lơn, chuyện phiếm.
Họ nói to như hét, cười như tiếng ác thú gầm gào, uống như những
hũ chìm, những đôi chân dài, những cùi tay chống lên khăn trải bàn, những đôi mắt
lấp lánh sáng dưới ánh đèn, nóng người lên vì ánh lửa hắt ra từ chiếc lò sưởi lớn
ở góc phòng đang phát ra những tiếng nổ tí tách và hắt lên trần nhà một ánh
sáng đỏ quạnh. Họ chuyện trò bàn tán về chuyến săn và về bọn chó săn.
Một lát sau, vãn chuyện săn bắn, họ bắt đầu liếc mắt dõi theo
cô gái mạnh khỏe với đôi má bầu bĩnh đang phục vụ bàn ăn, cô đang bê trên bàn
tay to khỏe đỏ hồng chiếc đĩa lớn chất đầy thức ăn.
Ông Séjour, bác sĩ thú y, người chăm sóc cho tất cả súc vật
trong vùng bỗng thốt lên:
- Chúa ơi, ông Blondel, ông có một cô hầu thật duyên dáng,
đáng yêu. Cô ta thật xinh xắn đến con ruồi bay qua cũng phải ngoái lại nhìn.
Và mọi người bật cười ầm ĩ lên. Một quý ông quý tộc, không
còn được nể trọng vì nát rượu, ông Varnetot, cất tiếng.
- Trước kia tôi đã có một chuyện tình với một cô gái như thế!
Tôi phải kể hầu các ông mới được. Mỗi khi tôi nhớ đến chuyện đó, nó lại làm tôi
nhớ đến con chó cái Mirza của tôi. Tôi đã bán nó cho bá tước Haussonel, nhưng
ngày nào cũng như ngày nào, cứ khi nào người ta thả nó ra, nó lại chạy ngay về
tìm tôi. Nó quyến luyến tôi đến độ nó không muốn rời tôi nữa. Cuối cùng, phát bực
lên tôi đã phải đề nghị ông bá tước cho xích nó lại để nó không thể bỏ về được
nữa. Các ông có biết con vật khốn khổ đó đã thế nào không? Nó đã chết vì buồn rầu.
Nhưng thôi, quay lại về chuyện người hầu của chúng ta nào.
Chuyện là thế này:
Khi đó tôi mới hai mươi lăm tuổi, tôi sống độc thân trong lâu
đài của mình ở Villebon. Các ông biết đấy, khi người ta còn trẻ mà lại không phải
lo nghĩ đến chuyện kiếm tiền vì đã có khoản lợi tức hàng năm đủ để chi dùng một
cách tương đối thoải mái, hơn nữa lại quá nhàn rỗi và cuồng chân cuồng cẳng thì
mỗi khi ăn tối xong, người ta thường để mắt đến tất cả các cô gái trông tàm tạm.
Tôi đã sớm để ý đến một cô người làm nhà ông Déboultot ở
Cauyille. Hẳn các ông biết rõ ông Déboultot, nhất là ông, thưa ông Blondel! Nói
một cách ngắn gọn, cô gái hư đó đã mê hoặc tôi, quyến rũ tôi đến nỗi một hôm
tôi đã phải đến gặp chủ nhân của cô ta và đề nghị với ông ta một cuộc trao đổi.
Ông ta đồng ý nhường lại cho tôi cô hầu gái đó và đổi lại tôi phải bán cho ông
ta con ngựa cái có bộ lông đen tuyền mà ông ta đã muốn có từ hơn hai năm nay của
tôi. Ông ta giơ tay cho tôi và bảo:
- Đập tay đồng ý nào ông Varnetot.
Thế là mọi chuyện đã được giải quyết xong. Cô gái thu dọn quần
áo đến lâu đài của tôi, còn tôi dắt con ngựa đen tuyền của mình đến Cauyille,
và bán nó với ba đồng tiền vàng.
Trong thời gian đầu, mọi chuyện diễn ra vô cùng suôn sẻ.
Không ai có ý nghi ngờ gì, chỉ có điều Rose đã có vẻ yêu tôi quá mức cần thiết.
Cô gái đó, các ông thấy đấy, cô ta chẳng là cái gì cả, nhưng hẳn trong nhận thức
của cô ta phải có cái gì đó khác người thường, có thế cô ta mới dám làm cái việc
táo tợn là quyến rũ chủ của mình.
Tóm lại, cô ta si mê tôi. Cô mơn trớn tôi, vuốt ve chiều chuộng
tôi, gọi tôi bằng hàng đống những cái tên thân mật, luôn tỏ ra yêu chiều tôi đến
mức tôi phải suy nghĩ.
Tôi tự nhủ: "Phải kết thúc việc này đi thôi, ta cần phải
rũ bỏ cô ta đi thôi!" Nhưng chẳng dễ gì mà rũ bỏ một chuyện như vậy một
cách đơn giản, tôi không phải là kẻ mà người ta có thể quyến rũ được chỉ bằng
hai nụ hôn. Cuối cùng, tôi đã phải để ý đến cô ta khi cô thông báo với tôi rằng
cô đã có mang.
Đùng! Đoàng! Nghe như thể người ta vừa gí súng vào ngực tôi
mà nổ liền hai phát. Cô ôm lấy tôi, hôn tôi, cười to lên sung sướng, cô nhảy
múa, cô ta điên rồi, đúng thế!
Ngày đầu tiên, tôi không nói năng một lời nào, nhưng đến đêm,
tôi không sao ngủ được, tôi trằn trọc suy nghĩ, tính toán. Tôi tự nhủ:
"Chuyện đã rồi, nhưng ta cần phải chuẩn bị sẵn sàng cho việc này, ta cần
phải nhanh chóng dứt ra khỏi việc này, cần phải làm ngay không mọi việc vỡ lở
thì trễ mất".
Các ông biết đấy, tôi có bố mẹ ở Barneville, chị gái tôi đã
thành hôn với hầu tước Yspare ở Rollebec, cách Villebon hai dặm. Không thể đùa
được với một chuyện như vậy.
Nhưng làm thế nào để tôi có thể thoát ra khỏi chuyện này? Nếu
bỗng dưng cô dời khỏi lâu đài liệu người ta có bàn ra tán vào, bép xép thêu dệt
lung tung không? Nếu tôi giữ cô ở lại trong lâu đài thì chẳng chóng thì chầy
người ta cũng sẽ phát hiện thấy cái bụng chửa của cô. Và rồi tôi sẽ không thể để
cô như vậy được.
Tôi mang chuyện này ra nói với người chú họ của tôi, một người
cũng đã từng ong bướm nhiều nơi, tôi muốn xin chú một ý kiến. Chú chậm rãi trả
lời tôi:
- Phải cưới cho cô ta một tấm chồng.
Tôi nhảy nhổm lên:
- Cưới chồng cho cô ta? Nhưng cưới ai mới được cơ chứ?
Chú tôi nhún vai:
- Cưới cho cô ta người nào cháu muốn. Đó là việc của cháu,
không phải việc của chú. Khi người ta không quá ngốc, thế nào cũng sẽ tìm ra được
ai đó thế vào chỗ khó xử của mình.
Tôi suy nghĩ suốt tám ngày những điều chú tôi đã bảo, cuối
cùng tôi tự nhủ: "Chú của ta có lý".
Thế là tôi bắt đầu đào bới trí nhớ, tìm kiếm xem có thể tìm
đâu đó được một kẻ chịu nhận lấy hậu quả do tôi tạo ra hay không. Một tối, tôi
ăn tối với một người bạn, anh này làm việc ở tòa án, anh ta nói chuyện:
- Con trai của mụ Paumelle lại vừa làm một cú đột vòm, nhưng
lần này hắn đã bị tóm. Quả là mẹ nào con nấy.
Mụ Paumelle là một mụ già xảo trá, cả thời tuổi trẻ của mụ,
trôi qua trong các toan tính mưu mô, lừa lọc. Chỉ vì một đồng tiền vàng, mụ có
thể sẵn sàng bán linh hồn mụ cộng thêm cả linh hồn thằng con trai vô lại của mụ
cho quỷ dữ.
Thế là tôi liền đi tìm mụ, và rất từ tốn tôi nói cho mụ biết
tôi muốn gì.
Trong khi tôi còn đang loay hoay giải thích, mụ đột nhiên hỏi
độp:
- Ông sẽ cho cô gái cái gì?
Mụ già thật ranh ma, nhưng tôi cũng chẳng ngu gì, tôi đã chuẩn
bị sẵn sàng câu trả lời.
Tôi sở hữu ba lô đất xa xôi gần với Sasseville, ba lô đất đó
thuộc ba trang trại ở vùng Villebon. Những chủ trang trại vẫn thường phàn nàn rằng
ba khu đất đó xa quá. Nói ngắn gọn lại là ở đó tôi có ba cánh đồng rộng khoảng
ba héc ta. Và vì những người nông dân của tôi kêu ca nhiều quá nên tôi đã cho
phép họ được tự canh tác trồng trọt ở đó không khoán tô tức, và đến cuối năm họ
muốn nộp hoa mầu thế nào tùy họ. Và việc đó cũng đã diễn ra từ vài ba năm nay rồi.
Tôi cũng đã mua thêm một mảnh đất nhỏ ở gần đó, trên đó tôi đã cho xây một ngôi
nhà tranh vách đất, tất cả những điều đó chỉ tốn của tôi mười lăm frăng. Thế là
không tổn hao gì lắm nhưng tôi cũng đã dựng lên được một tài sản nho nhỏ và tôi
sẽ đem nó làm của hồi môn cho cô gái.
Mụ già kêu lên: "Thế chưa đủ"; nhưng tôi kiên quyết
chỉ cho thế thôi, và chúng tôi tạm biệt nhau mà chưa đi đến quyết định gì.
Ngay sáng sớm ngày hôm sau, gã trai đã đến tìm tôi. Đến giờ
tôi không còn nhớ nổi mặt hắn trông thế nào nữa. Khi nhìn thấy hắn, tôi đã yên
tâm: trông hắn có vẻ là một nông dân không tồi, nhưng hắn cũng có một vẻ ranh
ma vô lại giống mẹ hắn.
Hắn nói chuyện một cách vòng vo như thể hắn đến để mua một
con bò sữa. Khi chúng tôi đi đến thỏa thuận, hắn muốn xem số của cải cô gái sẽ
được hưởng, tôi dẫn hắn ra xem cánh đồng. Tên khốn đã khiến tôi mất đến ba tiếng
đồng hồ ở đó, hắn đo đạc, hắn định lượng chiều dài chiều rộng của khu đất, hắn
nhặt một cục đất lên và bóp nát trong tay như thể hắn là một kẻ đi mua hàng và
đang sợ bị con buôn lừa. Căn nhà lá vẫn còn dang dở, hắn đòi phải lợp mái ngói
thay vì mái rơm với lý do khỏi phải mất công mất của lợp, đổi mái sau mỗi mùa.
Hắn hỏi tôi:
- Còn đồ đạc trong nhà ông sẽ trang bị hết chứ?
Tôi cam đoan:
- Tôi sẽ trang bị đầy đủ cho vợ chồng chú, chú lời quá còn
gì, vừa cưới được vợ vừa được cả một trang trại nhé.
Hắn cười khẩy:
- À vâng, một trang trại và một đứa trẻ.
Dù không muốn nhưng tôi vẫn đỏ mặt. Hắn ta lại nói:
- Vậy là ông sẽ mang đến giường, bàn, tủ quần áo, ba chiếc ghế
ngồi, và bát đũa. Thế đúng không.
Tôi gật đầu xác nhận.
Và chúng tôi lên đường quay về. Hắn ta không hỏi một câu nào
về cô gái. Nhưng bỗng nhiên hắn hỏi với một vẻ xảo trá và khó chịu:
- Nhưng, nếu cô ta chết, ai sẽ được thừa hưởng tất cả số của
cải đó?
Tôi trả lời:
- Hiển nhiên là anh rồi.
Đó là điều hắn cần biết nhất trong tất cả các thông tin mà hắn
đã có trong suốt cả buổi sáng nay.
Thế nên khi ra về, hắn bắt tay tôi với một vẻ vừa lòng. Chúng
tôi đã đi đến thỏa thuận.
Ôi! Quả thật tôi đã đau lòng khi phải giải quyết việc của
Rose như thế. Khi nghe tôi bảo lại, cô sụp xuống chân tôi, khóc lóc, nhắc đi nhắc
lại:
- Chính ngài đã rủ rê em làm chuyện đó, rồi giờ đây lại chính
ngài sắp đặt chuyện này! Chính ngài! Chính ngài!
Trong hơn một tuần lễ, cô đã kháng cự lại quyết định của tôi
dù tôi năn nỉ khuyên dỗ thế nào đi chăng nữa. Bọn đàn bà, họ thật ngốc, một khi
mà họ đã yêu thì trong đầu họ chẳng còn suy nghĩ gì khác ngoài tình yêu cả. Họ
chẳng còn hiểu thế nào là đúng là tốt nữa, họ chẳng còn một chút khôn ngoan nào
nữa cả. Với họ lúc đó tình yêu là tất cả và tất cả chỉ vì tình yêu.
Cuối cùng tôi phát cáu lên và dọa sẽ đuổi cô ra khỏi nhà tôi.
Đến thế cô mới chịu nhượng bộ với điều kiện cho phép cô thỉnh thoảng về thăm
tôi.
Đích thân tôi dẫn cô đến bên bàn thờ làm lễ cưới, đích thân
tôi đứng ra lo liệu và chịu mọi phí tổn của đám cưới, cùng mọi phí tổn trong suốt
tuần trăng mật. Tôi đã tỏ ra vô cùng hào hiệp. Cuối cùng, sau mọi nghi lễ, tôi
đã có thể nói: "Chúc mọi việc tốt lành, các em của ta!" và tôi lên đường
đến chơi nhà anh tôi ở Touraine trong suốt sáu tháng.
Khi về, tôi được biết là tuần nào cô cũng đến lâu đài tìm
tôi. Và chỉ khoảng một tiếng sau khi tôi về đến nhà, tôi đã thấy cô đến tìm tôi
với một thằng cu bé tí bế trên tay. Các ông có tin tôi không thì tùy nhưng có một
cái gì đó thôi thúc tôi khiến tôi muốn ngắm nghía thằng nhỏ đó và thậm chí tôi
đã ôm hôn nó.
Khi tôi quay ra nhìn đến mẹ nó, một phụ nữ tàn tạ, một bộ
xương, một cái bóng. Rất gầy, rất già. Mẹ kiếp, có vẻ như việc cưới xin không tốt
gì cho cô ta! Tôi hỏi cô một cách máy móc:
- Em có hạnh phúc không?
Thế là cô bật khóc như mưa gió, vừa nấc vừa thổn thức, cô vừa
gào lên:
- Em không thể, em không thể sống như thế này được nữa, em
thà chết đi còn hơn, em không thể sống tiếp như thế này được nữa!
Và cô lăn lộn khóc lóc ầm ĩ lên. Bằng hết nỗ lực của mình,
tôi an ủi cô, đưa tiễn cô tởi tận hàng rào của lâu đài.
Cuối cùng tôi được biết rằng chồng cô đánh cô, và rằng bà mẹ
chồng bắt cô làm việc quần quật, không cho nghỉ ngơi, mụ già thổ tả ác độc.
Hai ngày sau cô lại đến, cô ôm chặt lấy tôi, sụp xuống chân
tôi:
- Ông hãy giết em đi nhưng em không muốn quay trở về đó nữa.
Tình cảnh đó, đôi mắt cầu khẩn van nài đó giống hệt như của
con chó cái Mirza của tôi, và nếu biết nói, hẳn nó cũng nói những lời như thế.
Điều đó bắt đầu làm tôi bực mình, và để thoát ra khỏi chuyện
này, tôi lại lên đường đi chơi sáu tháng nữa. Khi quay về... khi tôi quay về,
tôi hay tin cô đã chết ba tuần trước, trước khi chết, chủ nhật nào cô cũng đến
lâu đài tìm tôi.... giống hệt như Mirza. Tám ngày sau đứa trẻ cũng chết nốt.
Còn chồng cô, gã trai ma mãnh, hắn thừa kế gia tài của cô. Và
hắn có vẻ rất giỏi trong việc quay vòng vốn, có vẻ như thế. Giờ đây hắn đã có
chân trong hội đồng thành phố.
Rồi ông Varnetot vừa cười vừa nói thêm:
- Thế cũng công bằng thôi, chính tôi là người đã tạo cho hắn
ta có được gia sản ngày nay.
Và ông Séjour, bác sĩ thú y, vừa nâng một cốc rượu lên môi vừa
kết luận một cách chậm rãi:
- Vì những gì các ông muốn, nhưng phụ nữ là thế đấy, không
nên bận tâm đến họ!
Pierrot
Viết cho Henry Roujon
Bà Lefèvre là một quý bà nông dân, một bà góa, một kiểu quý
bà nửa quê nửa tỉnh, đầu óc thô kệch nhưng lại chuyên nói chuyện thơ phú kịch cọt;
trong lớp áo ngoài thêu kim tuyến buồn cười là một tâm hồn thô lậu, như kiểu bà
đeo một đôi găng tay bằng đăng ten mong manh tinh tế vào đôi bàn tay hộ pháp to
đùng của bà.
Bà có một cô hầu gái đặc sệt nông dân có cái tên dân dã giản
dị là Rose.
Hai người phụ nữ cùng sống trong một ngôi nhà nhỏ có những
cánh cửa nhỏ màu xanh nằm dọc dài trên đường đi tới Normandie, ở giữa vùng
Caux.
Phía trước nhà bà có một khu vườn hẹp, ở đó, bà trồng một vài
cây rau.
Thế rồi một đêm, kẻ trộm đã trộm mất của bà mười hai củ hành.
Ngay khi phát hiện thấy điều này, Rose đã chạy ngay đến mách với bà chủ. Thật
là một chuyện động trời, có người đã ăn cắp, có người đã ăn cắp của bà Lefèvre!
Thế tức là đã có kẻ cắp ở vùng này, và hắn sẽ còn quay lại.
Và thế là hai người phụ nữ hoảng hốt lặng tìm những vết chân,
những dấu vết còn sót lại, họ thì thầm nói chuyện, đoán già đoán non: "Xem
này, chúng đã đi theo đường này. Chúng vẫn còn để lại dấu chân trên tường đây
này. Chúng đã nhảy qua bờ tường rào thấp".
Rồi họ hoảng sợ khi nghỉ tới những ngày tới. Làm sao có thể
ngủ được bây giờ cơ chứ!
Tiếng đồn về vụ trộm lan xa. Những người hàng xóm tới hỏi
thăm, và giờ đến lượt họ lại bắt đầu tranh luận, đoán già đoán non, hai ngưòi
phụ nữ giải thích cho mỗi người mới đến, những gì họ đã quan sát thấy và đồng
thời đưa ra nhận định của họ.
Một chủ trang trại cạnh nhà họ khuyên: "Các bà nên nuôi
một con chó".
À phải, họ cần có một con chó, một con chó để nó canh nhà khi
họ ngủ. Nó không cần phải là một con chó to lắm, lạy Chúa! Họ biết làm gì với một
con chó to cơ chứ! Nó sẽ ngốn hết biết bao là thức ăn. Nhưng một con chó nhỏ, một
con chó bé chạy lăng xăng, biết sủa ăng ẳng là được rồi.
Ngay sau khi mọi người về hết, bà Lefèvre thảo luận bàn cãi rất
lâu về ý tưởng nuôi một con chó. Sau hàng nghìn lý lẽ, bà cảm thấy khiếp sợ trước
hình ảnh một cái chân chó đầy patê bởi dù sao thì bà cũng mang trong mình cái
cá tính dè sẻn của những ngưòi phụ nữ nông thôn, những ngưòi luôn dè sẻn từng
hào từng đồng để làm từ thiện cho những kẻ đói nghèo ngoài đường và góp vào quỹ
từ thiện ở nhà thờ mỗi chủ nhật.
Rose, kẻ rất yêu động vật, đưa ra rất nhiều lý lẽ và tìm mọi
cách bảo vệ những lý lẽ của mình. Thế nên, cuối cùng họ đi tới quyết định sẽ
nuôi một con chó, nhưng một con chó nhỏ tẹo thôi.
Họ bắt đầu đi kiếm một con như thế, nhưng họ chỉ toàn thấy những
con chó to lớn, loại có thể nuốt chửng một đĩa súp trong chớp mắt. Ông bán đồ
khô nhà Rolleville cũng có một con, một con chó rất nhỏ bé xinh xắn, nhưng ông
này đòi họ phải trả cho ông hai frăng. Bà Lefevre đã quyết định rằng bà sẽ nuôi
một con chó nhỏ nhưng bà sẽ chỉ xin thôi chứ không đời nào bỏ tiền ra mua.
Thế nên, ông hàng bánh mì, sau khi biết hết mọi chuyện, một
sáng đã mang đến cho bà một con vật nhỏ kỳ lạ vàng tuyền từ đầu đến đuôi, gần
như không có chân, với hình dáng rất kỳ lạ: mình như mình cá sấu, đầu như đầu
cáo, và cái đuôi trông giống hình một cái kèn trôm-pet vì đuôi nó lại có một
chùm lông vừa dài vừa xù, chỉ riêng cái đuôi đó cũng đã bằng toàn bộ thân mình
nó. Một khách hàng đang muốn tống khứ con vật này đi. Bà Lefèvre thấy con chó
lai bẩn thỉu này thật đẹp, nhất là vì bà chẳng tốn một xu nào để mua nó. Rose ôm
lấy nó rồi hỏi xem nó được gọi tên là gì. Ông bán bánh mì trả lời:
"Pierrot".
Nó được đặt trong một cái thùng trước kia đựng xà phòng và
trước tiên họ mang đến một chút nước cho nó uống. Nó uống liền. Họ mang đến tiếp
cho nó một mẩu bánh mì, nó ăn luôn. Bà Lefevre lo xa đưa ra ý kiến: "Khi
nào nó đã quen nhà thì chúng ta sẽ thả nó ra, nó sẽ phải tìm lấy cái ăn trong
vùng".
Họ thả nó ra, thế nhưng cho dù có thả nó ra nó không phải lúc
nào cũng tự kiếm được cái gì đó để ăn, vì thế nó thường sủa ăng ẳng để đòi ăn,
và khi nó sủa để đòi ăn, nó cứ sủa một cách dai dẳng không ngừng.
Ai cũng có thể vào được trong vườn. Pierrot mừng rỡ bất cứ
ai, kể cả những người nó mới gặp lần đầu, tức là nó gần như không bao giờ sủa
người lạ.
Thế nhưng bà Lefèvre đã quen với sự có mặt của con vật. Thậm
chí bà còn gần như yêu nó, thỉnh thoảng bà còn lấy những mẩu bánh mì nhúng đẫm
nước sốt của bà để trong lòng bàn tay cho nó ăn.
Nhưng bà lại không nghĩ đến việc phải trả tiền thuê nuôi động
vật, và khi người ta nói với bà: "Bà phải nộp tám frăng, thưa bà!" -
Tám frăng để được nuôi một con chó lai nhỏ xíu chỉ biết sủa ảng ang khi đòi ăn,
bà suýt ngất xỉu vì kinh ngạc và xúc động.
Ngay lập tức họ quyết định tống khứ Pierrot cho bất cứ ai muốn
nuôi nó. Nhưng trong vòng bán kính mười dặm, chẳng có ai đồng ý nuôi Pierrot cả.
Thế nên, họ quyết định giải quyết vấn đề theo hướng khác. Họ quyết định
"thả nó vào tự do". "Thả vào tự do" nghĩa là cho nó tự đấu
tranh sinh tồn. Người ta "thả vào tự do" tất cả những con chó mà người
ta không muốn nuôi nữa, mà người ta muốn tống khứ đi.
Ở giữa bình nguyên rộng lớn, người ta thấy một thứ trông như
cái lều, hay một cái nhà tranh nhỏ với mái rơm, được dựng lên trên đất. Đó là lối
vào một cái mỏ. Trong đó có một giếng thẳng đứng sâu chừng hai mươi mét, từ đó
dẫn đến một loạt đường hầm dẫn ra mỏ.
Mỗi năm người ta xuống đây một lần để làm việc bón magiê cho
đất, thời gian còn lại, nơi đó phục vụ vào việc chôn sống những con chó đã bị kết
án phải rũ bỏ, và mỗi khi có ai đi qua gần chỗ đó, người ta thường nghe thấy tiếng
chó hú lên rên xiết, tiếng chó sủa điên cuồng hoặc đầy tuyệt vọng, những tiếng
kêu gọi thảm thương ai oán vọng lên.
Ở đó có cả những con chó săn và những con béc giê bỏ trốn rơi
xuống, và nếu có ai tò mò nghiêng đầu xuống xem, sẽ thấy bốc lên một mùi thối rữa
khủng khiếp.
Nhưng phải đến đêm, mới là lúc diễn ra những bi kịch khủng
khiếp.
Khi một con vật hấp hối từ mười đến mười hai ngày trong đáy
giếng, tự nuôi sống mình bằng xác thối của những con vật chết trước nó, thì một
con mới đến, to hơn và đương nhiên là khỏe hơn đột nhiên bị quăng xuống đó. Thế
là, chúng cùng nhau ở đó, đơn độc, đói khát, mắt sáng rực. Chúng rình nhau,
chúng vờn nhau, chúng đuổi theo nhau, lo lắng, do dự. Nhưng cái đói thúc giục
chúng: chúng tấn công nhau, chúng đánh nhau. Và con khỏe hơn sẽ ăn thịt con yếu
hơn.
Khi đã quyết là họ sẽ thả vào tự do Pierrot, họ định tìm một
ai đó để giúp họ giải quyết cho xong việc Pierrot. Nhưng người chuyên làm việc
đó đòi mười xu, thật quá thể, đó là một khoản tiền vô lý đối với bà Lefèvre. Một
tên hàng xóm đểu cáng của họ đòi năm xu, vẫn quá nhiều với bà Lefèvre. Rose,
sau khi đã quan sát, đã dò hỏi cách thức làm thế nào quyết định rằng tốt hơn hết
là họ tự làm lấy bởi dẫu sao thì việc làm đó cũng không hẳn là quá ác độc và
tàn nhẫn gì quá đến nỗi họ chẳng thể tự làm được, dù sao thì cũng như là hóa kiếp
cho nó thôi mà. Thế nên, họ quyết định cả hai bọn họ sẽ cùng đi để giải quyết
việc đó khi đêm xuống.
Tối đó, họ chiêu đãi Pierrot một bữa súp ngon tuyệt với hẳn một
miếng bơ to bằng ngón tay. Nó nuốt sạch, liếm sạch cả bát. Và vì nó vẫy đuôi mừng
họ đầy vẻ hài lòng, Rose bê nó lên, đặt nó ngồi vào lòng cô.
Tối đến, họ cúi lom khom và rảo bước chân đi trông như thể những
kẻ ăn trộm, vượt qua bình nguyên. Ngay khi nhìn thấy ngôi nhà lá đó và đến được
đến nơi. Bà Lefèvre nghiêng người nhìn xuống cái giếng nghe ngóng xem xem liệu
có con vật nào đang rên rỉ dưới đó không. Không. Chẳng có gì hết, Pierrot sẽ chỉ
có một mình ở trong đó. Thế là, Rose, nước mắt nước mũi đầm đìa, ôm lấy con
chó, quẳng nó xuống giếng, cả hai người phụ nữ cùng nghiêng đầu xuống đó, căng
tai ra nghe ngóng.
Đầu tiên, họ nghe thấy một tiếng rơi bịch xuống, rồi sau đó
là một tiếng kêu chói tai, đầy đau đớn của một con vật bị thương, rồi tiếng rên
rỉ đau đớn không ngừng của con vật nhỏ, sau đó là tiếng sủa gọi đầy tuyệt vọng,
tiếng chó sủa đầy vẻ khẩn nài, cái đầu bé nhỏ ngẩng cao nhìn lên hướng miệng giếng.
Nó sủa ăng ang, ôi! Nó sủa ăng ẳng!
Bỗng nhiên cả hai người phụ nữ cùng rùng mình hối hận, kinh
hoàng, một nỗi sợ hãi bỗng chụp lấy họ, một nỗi sợ không sao giải thích được,
và họ cùng lùi lại rồi bỏ chạy. Và vì Rose chạy nhanh hơn nên bà Lefèvre vừa chạy
vừa gọi: "Đợi ta với, Rose, đợi ta với!"
Đêm đó họ có những cơn ác mộng kinh hoàng. Bà Lefèvre mơ thấy
bà ra bàn ăn để ăn súp, nhưng khi bà mở nồi súp thì nhìn thấy Pierrot đang ngồi
lù lù trong đó. Nó nhảy xổ ra và cắn vào mũi bà.
Bà choàng dậy và cảm tưởng như vẫn còn nghe tiếng sủa ăng ẳng
đâu đó. Bà lắng tai nghe, bà đã nhầm.
Bà lại chìm vào giấc ngủ và thấy mình đang ở trên một đường
cao tốc lớn, một đường cao tốc dài bất tận, và bà cứ đi. Đột nhiên, ở giữa đường,
bà thấy có một chiếc giỏ, một chiếc giỏ lớn để đựng rau quả đem bán bị quẳng
lăn lóc giữa đường, và chiếc giỏ này làm bà sợ.
Tuy nhiên bà vẫn dừng lại và mở chiếc giỏ đó ra, và Pierrot,
đang thu mình trong đó, cắn vào tay bà, và không nhả ra nữa. Và bà cuống cuồng
bỏ chạy, với con chó vẫn treo lủng lẳng ở trên tay, miệng nó vẫn cắn chặt lấy
tay bà.
Tinh mơ hôm sau, vừa tỉnh dậy, bà đã chạy bổ ngay đến chỗ nhà
lá có cái giếng đó.
Nó vẫn đang sủa ăng ẳng, nó đã sủa ăng ẳng suốt cả đêm.
Bà bật khóc và gọi nó đầy trìu mến, nó trả lời lại bằng cách
chuyển giọng sủa, một tiếng sủa đầy trìu mến và mừng vui.
Thế là bà muốn gặp lại nó, bà tự hứa với lòng mình sẽ đem đến
cho nó mọi vui sướng hạnh phúc cho tới khi nào nó chết.
Bà chạy bổ đến chỗ người trông cái giếng và trình bày trường
hợp của bà. Ông này nghe bà nói mà không hề hỏi lại một câu nào. Khi bà đã nói
xong, ông ta tuyên bố: "Bà muốn lấy lại con chó nhỏ của bà? Vậy bà sẽ mất
bốn frăng".
Bà nhảy dựng lên, mọi thương cảm xót xa biến mất tức thì.
"Bốn frăng! Ông cứ việc để cho nó chết! Bốn frăng!"
Ông ta trả lời: "Thế bà cho rằng tôi tốn công tốn của tự
dưng mang dây thừng, mang tay quay ra đó, tự dưng tôi và con trai tôi phải trèo
xuống đó để bê con chó của bà lên, mà không cẩn thận lại còn bị nó cắn cho là
công không à? Tùy bà thôi. Lẽ ra bà không nên vứt nó xuống đấy mới phải".
Bà bỏ đi, đầy phẫn nộ. - Bốn frăng!
Ngay khi vừa về đến nhà, bà gọi ngay Rose đến và nói với cô
ta những đòi hỏi quá đáng của người trông giếng. Rose nhắc lại: "Bốn
frăng! Đó là cả một món tiền, thưa bà!" Rồi cô ta lại nói: "Hay là ta
ném thức ăn xuống đó cho nó, cho nó khỏi chết đói?"
Bà Lefèvre đồng ý ngay, đầy vui mừng. Thế là họ liền lên đường
ngay, mang theo một lát bánh mì to tướng phết đầy bơ. Họ cắt nhỏ nó ra và ném từng
miếng xuống dưới giếng, vừa ném vừa gọi tên Pierrot. Và ngay khi con chó bắt được
một miếng, nó lại ăng ang sủa lên để thông báo và họ lại ném miếng tiếp theo xuống.
Họ quay lại đó vào tối hôm đó, rồi ngày hôm sau, và cả những
ngày sau đó nữa. Nhưng họ không làm thế mãi được vì đã có một biến cố mới.
Một sáng, khi họ ném xuống đó miếng bánh đầu tiên, ngay lập tức
họ nghe thấy có tiếng chó lạ sủa trong giếng. Trong giếng giờ đây đã có hai con
chó! Ai đó đã quang một con khác xuống giếng, một con chó to!
Rose gọi to: "Pierrot!" Pierrot sủa ăng ẳng trả lời.
Thế là họ liền ném xuống một miếng bánh, nhưng mỗi lần ném một miếng bánh xuống
họ lại nghe thấy rất rõ tiếng xô đẩy khủng khiếp bên dưới, rồi tiếng kêu ăng ẳng
đầy đau đớn của Pierrot, bị con chó to kia cắn. Và con chó to kia nó đã ăn tất
cả những miếng bánh họ ném xuống, vì nó khỏe hơn, và nó nhảy cao hơn.
Trên miệng giếng, hai bà phụ nữ hoài công gọi bảo:
"Pierrot, miếng này dành cho con này!" Nhưng hiển nhiên là Pierrot chẳng
nhận được gì.
Hai người phụ nữ, nín lặng nhìn nhau. Rồi bà Lefèvre tuyên bố
bằng một giọng gay gắt: "Ta không thể nuôi hết tất cả những con chó mà họ
sẽ quẳng xuống đây. Cần phải ngưng việc này ở đây thôi".
Và hoảng lên vì ý tưởng là tất cả các con chó rồi sẽ sống nhờ
vào thức ăn của bà, bà bỏ đi, thậm chí trong tay vẫn còn đang cầm một miếng
bánh nhỏ, và bà vừa đi vừa đưa lên miệng ăn nốt.
Rose vừa lóc cóc chạy theo bà chủ vừa lôi một góc tạp dề lên
lau nước mắt.
Tình yêu
Ba trang trong "Nhật ký của người đi săn"
Tôi vừa đọc trong phần rao vặt của một tờ báo về một vụ giết
người vì tình. Hắn đã giết bạn gái, rồi tự tử, chỉ vì hắn đã quá yêu cô. Cái gì
là quan trọng đối với hắn và cô gái đó? Chỉ có tình yêu của họ là quan trọng; Vụ
án đó đã làm tôi lưu tâm không phải vì nó làm tôi ngạc nhiên, không phải vì
tính khốc liệt của vụ án, cả thủ phạm lẫn nạn nhân đều đã chết. Bởi vụ án này
đã làm tôi nhớ tới một kỷ niệm thời tôi còn trẻ, một kỷ niệm lạ lùng về một
chuyến đi săn, chính trong chuyến săn đó tôi đã biết đến thế nào là tình yêu,
đó là lần đầu tiên tình yêu đã xuất hiện trong tôi như thể cây thập giá trên nền
trời xanh lần đầu tiên xuất hiện trước mắt những tín đồ Thiên Chúa giáo.
Ngay từ khi mới sinh, tôi đã có khả năng xét đoán và giác
quan thính nhạy của những người nguyên thủy, nhưng lại có cảm xúc của những người
văn minh. Tôi ham mê săn bắn, và khi nhìn thấy những con vật máu me đầm đìa, những
con chim máu nhuộm đỏ lông, bàn tay tôi vấy máu tôi thấy tim mình rộn ràng một
niềm vui hoang dại.
Năm đó, vào khoảng cuối thu, đã bắt đầu có những cơn gió lạnh
buốt, một trong những cậu em họ của tôi là Karl de Rauville, gọi tôi đến cùng
đi săn vịt trong đầm vào lúc bình minh.
Cậu em họ tôi ở độ tuổi trung niên, khoảng bốn mươi tuổi, tóc
đỏ, trông rất to khỏe với bộ râu rậm rì, một kiểu mẫu nông dân vô cùng chất
phác, vui tính, tốt bụng và dễ mến. Một tinh thần Gaulois đặc trưng - lúc nào
cũng thoải mái vui vẻ dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Cậu ta sống trong một ngôi nhà
nửa như trang trại, nửa như lâu đài trong một thung lũng rộng lớn có một dòng
sông chảy qua. Hai bên trang trại là những quả đồi phủ đầy cây xanh. Những khu
rừng ở đây thuộc quyền sở hữu của các lãnh chúa nơi vẫn còn có những cây to đẹp
tuyệt, và ở nơi đây người ta tìm được những giống chim quý hiếm để săn bắt. Đôi
khi người ta có thể bắn được những con đại bàng, những con chim bay ngang qua,
những con chim mà gần như không bao giờ tới những xứ sở quá đông dân, chúng thường
dừng tại đây và nghỉ trong các tán cây rậm rạp lâu niên, chúng dường như đã rất
quen với khu rừng này, và chúng nương náu và ẩn mình trong các vòm lá để nghỉ
ngơi qua một đêm.
Thung lũng là một đồng cỏ lớn được tưới tắm bởi những mương
thoát nước, bị phân chia bởi các hàng rào; ở xa hơn một chút, là dòng sông, nước
dồn về đây, lan ra tạo thành một khu đầm lầy rộng lớn. Khu đầm lầy này là khu vực
được các tay súng săn ưa chuộng nhất, nó là tất cả mối bận tâm, lo lắng của cậu
em họ tôi, cậu ta đã giữ gìn chăm lo bảo dưỡng nó như chăm lo bảo dưỡng cho một
công viên. Qua một đám lau sậy rậm rạp, rì rào, xáo động, người ta đã vạch ra
những lối đi hẹp, nơi mà những con thuyền độc mộc đáy bằng, được lái đi bằng
mái chèo, lướt trên mặt nước đọng, sượt qua các thân sậy, làm lay động mặt nước
khiến bọn cá cuống cuồng bỏ trốn; đi qua các bụi cỏ cao, làm bọn gà nước chúi
xuống mặt đầm, những cái đầu đen xì nhọn hoắt của chúng lặn biến trong chớp mắt.
Tôi thích nước với một tình yêu khó diễn tả, khó sắp xếp. Biển,
cho dù lớn hơn nhiều, nhưng bất ổn hơn nhiều, và khó có thể sở hữu nó. Những
dòng sông đẹp đến thế nhưng nó cứ trôi đi, chảy đi, bỏ đi. Và nhất là những đầm
lầy nơi có những sinh vật xa lạ, những sinh vật thủy sinh đang phập phồng thở.
Đầm lầy, đó là cả một thế giới tồn tại trên trái đất, một thế giới khác, nơi tồn
tại sự sống, nơi có cư dân lâu niên, có khách du hành, có âm thanh, có tiếng động
và nhất là có sự bí hiểm. Đôi khi chẳng có gì khiến người ta lo lắng hơn, hoảng
sợ hơn một khu đầm lầy. Tại sao nỗi hoảng sợ này lại trùm lên những bình nguyên
thấp ngập nước? Phải chăng đó là những con sóng rì rào đập vào thân sậy, những
ngọn lửa ma trơi kỳ lạ, sự yên lặng sâu thẳm, ẩn chứa trong màn đêm đen tĩnh lặng,
hay trong những lớp sương mù dày đặc lạ kỳ, sự tĩnh mịch phủ lên những thân cây
một màn sương mờ ảo như một lớp áo liệm, hay như tiếng vỗ bập bềnh rất nhẹ, rất
êm gần như không thể nhận thấy, tiếng sóng vỗ đó đôi khi còn đáng sợ hơn cả tiếng
súng nổ ầm vang hay tiếng sấm gầm, tiếng sóng vỗ đó khiến người ta liên tưởng đến
những cái ao chết trong những xứ sở lạ kỳ, trong những xứ sở ẩn chứa những bí ẩn
còn chưa được biết đến, những bí ẩn nguy hiểm, đáng sợ.
Không, một cái gì đó chưa được làm sáng tỏ, một điều kỳ bí,
thẳm sâu hơn, trầm trọng hơn, bập bềnh trong những đám sương mù dày đặc. Sự bí ẩn
của tạo hóa, có thể! Bởi phải chăng không phải trong làn nước tù đọng bùn lầy,
trong sự ẩm ướt nặng nề của bùn nhão dưới cái nóng của mặt trời, mà nó bị xáo
trộn lên, nó rung lên vào cái ngày đầu tiên của mầm sống?
Tối đó, tôi đến nhà người em họ, trời lạnh đến nỗi mọi thứ đều
đóng băng cả.
Chúng tôi dùng bữa tối trong một phòng ăn lớn, treo đầy các
con chim nhồi bông. Trong tủ, trên tường, trên trần nhà treo các con chim nhồi
bông mà em tôi đã từng săn được. Từ những con đại bàng đang giương cánh, đậu
trên những chạc cây được đính chặt vào tường, những con chim cắt, những con diệc,
con cú mèo, cú muỗi, diều hâu, chim mồi, chim kền kền, chim ưng... cậu em họ
tôi cũng có dáng vẻ của một loài động vật xứ lạnh, lạ lùng với chiếc áo khoác bằng
da rái cá, cậu ta vừa ăn, vừa nói cho tôi biết đã chuẩn bị những gì cho chuyến
săn đêm nay.
Chúng tôi sẽ lên đường từ ba rưỡi sáng, đến được nơi săn khoảng
bốn rưỡi sáng để chọn được một chỗ rình tốt. Ở đó người ta đã cho dựng một căn
lều nhỏ để chúng tôi có thể nương náu, tránh những cơn gió buốt lạnh khi rình mồi.
Những cơn gió đêm ở đây đã nổi tiếng khắc nghiệt, nó tê buốt như thể xé rách
da, rách thịt bởi những lưỡi cưa. Nó làm người ta tê buốt như bị kim châm, làm
người ta rét xé ruột xé gan như bị gươm chém, nó khiến tim phổi ta quặn lại như
bị kìm kẹp.
Em họ tôi xoa tay nói: "Em chưa bao giờ thấy một mùa
đông giá lạnh đến thế, vào lúc sáu giờ tối nhiệt độ xuống đến âm mười hai độ".
Tôi ném mình lên giường, ngay sau khi dùng bữa tối, và thiu
thiu ngủ trong ánh sáng tỏa ra từ lò sưởi lớn trong phòng.
Đúng ba giờ sáng, có người đến đánh thức tôi dậy. Đến lượt
mình, tôi khoác lên một tấm da cừu và tôi thấy em họ Karl của tôi đang khoác một
bộ áo lông gấu. Sau khi mỗi chúng tôi cùng uống hai cốc lớn rượu mạnh rồi lại
nuốt vội hai cốc cà phê đặc, chúng tôi cùng đi, mỗi người dắt chó của mình: con
Plorgeon và con Pierrott.
Ngay khi bước chân ra khỏi cửa, tôi đã cảm thấy lạnh buốt tới
tận xương. Đó là một trong những đêm lạnh đến mức có cảm giác cả thế giới im
lìm như đã chết dưới cái lạnh. Không khí lạnh như đông cứng lại, như có thể sờ
thấy được, thời tiết mới tệ hại làm sao; không một làn gió nào có thể khuấy động
cái không khí băng giá đó được; không khí như đông đặc, bất động; không khí buốt
như kim châm, luồn vào trong áo, làm khô cóng, giết chết những mầm cây, làm chết
cóng cây cối, côn trùng... Những con chim nhỏ cóng chân ngã bộp từ trên cành
cao xuống dưới đất cứng, và thân thể những chú chim cũng trở nên cứng ngắc dưới
cái rét ghê người.
Trăng hạ tuần chiếu ánh sáng yếu ớt, nhạt nhòa xuống mọi vật,
khiến cho mọi vật có một vẻ nhợt nhạt chết chóc.
Chúng tôi đi sát cạnh nhau, Karl và tôi, lưng cúi khom khom,
tay thọc sâu trong túi, súng trên vai. Giày của chúng tôi được bọc len để có thể
đi mà không bị trượt trên dòng sông bị đóng băng và không gây ra một tiếng động
nhỏ nào; tôi nhìn những lỗ mũi phập phồng của hai chú chó đang bốc ra những làn
khói trắng.
Ngay khi tới bò đầm lầy chúng tôi lấy thuốc ra hút, và chúng
tôi đi vào một trong những lối đi giữa hai hàng sậy khô trôi qua khu rừng thấp.
Khuỷu tay chúng tôi lướt qua những lá sậy, lá lau dài, và tạo
nên một tiếng động nhẹ sau mỗi bước chân đi. Cảm giác thật khác thường, trong
tôi trỗi lên một xúc cảm lạ lùng, rất mạnh, rất lạ. Tôi cảm thấy như tôi sắp bị
chụp bắt, cảm thấy như cái đầm lầy đang chết đi vì giá lạnh. Vì chúng tôi đang
đi trên nó, đi giữa đám thân cây chết khô của nó.
Đột nhiên, ở chỗ vòng của con đường, tôi nhận thấy cái lều bằng
đá mà người ta đã xây dựng cho chúng tôi làm chỗ nghỉ. Tôi đi vào đó và vì
chúng tôi vẫn còn phải chờ thêm khoảng một tiếng nữa để bọn chim mới bắt đầu
bình minh và đi lang thang, tôi cuộn mình vào trong chăn hòng làm ấm người lên
chút đỉnh.
Thế là, cuộn mình trong túi ngủ, tôi nằm ngửa ngắm trăng.
Nhưng cái lạnh cắt da cắt thịt của vùng đầm lầy xuyên qua lớp tường dày, xuyên
qua các lớp chăn, lớp áo của tôi, nó luồn vào tôi, khiến tôi rùng mình và khiến
tôi không kiềm được ho húng hắng.
Cậu em họ Karl của tôi lo lắng: "Thây kệ việc chúng ta
chẳng săn được gì hôm nay, tôi không muốn anh bị cảm lạnh, chúng ta sẽ đốt lửa".
Rồi cậu ta liền ra bẻ củi khô.
Chúng tôi nhóm một đống lửa trong nhà, che chắn cẩn thận để
khói không lọt ra ngoài. Đến khi ngọn lửa đỏ bốc lên cao, chiếu sáng khắp cả
căn nhà, nó bắt đầu làm tan giá, rất từ từ, như thể cái nóng đang làm những bức
tường đá, làm nóc lều đá đang toát mồ hôi... Karl vẫn đang đứng bên ngoài lều bỗng
gọi tôi:
- Anh ơi, ra đây mà xem này.
Tôi đi ra ngoài và tôi đứng lại ngây mặt ra nhìn vì ngạc
nhiên. Căn lều của chúng tôi có hình nón, có dáng vẻ của một khối kim cương
quái gở, tâm lửa đột ngột nổi lên trên làn nước đóng băng của đầm lầy. Bên
trong ta có thể nhìn thấy hai hình dạng kỳ dị, hình dạng của những chú chó săn
của chúng tôi, chúng đang ngồi sưởi.
Một tiếng kêu lạ lùng, một tiếng kêu đơn độc, một tiếng kêu lạc
lõng bỗng bay ngang qua đầu chúng tôi. Ánh sáng hắt ra từ lều của chúng tôi đã
đánh thức bọn chim lang thang dậy.
Chẳng có gì làm tôi xúc động như lần đầu tiên tôi nghe tiếng
kêu đó, một tiếng kêu của sự sống vang lên, trong khi ta còn đang chưa nhìn thấy
gì, và tiếng kêu đó bay nhanh trong không gian tối mịt mùng, tiếng kêu bay đi rất
nhanh, rất xa. Như thể nó đã bay đến được tận chân trời trước khi ánh dương đầu
tiên rạng lên. Tôi có cảm tưởng là vào giờ băng giá trước bình minh này, tiếng
kêu đó như thể tiếng kêu của một linh hồn đang ẩn náu trong hình hài của một
con chim.
Karl nói: "Tắt lửa đi. Bình minh rồi".
Quả thật ánh ngày đã bắt đầu rạng lên, còn rất mờ nhạt nhưng
trời đã hừng sáng. Xa xa, một đàn vịt trời đang bay ngang qua bầu trời, trông
như những chấm đen trên nền trời đang xanh dần lên.
Có tiếng nổ vang lên trong đêm, Karl vừa bắn, hai chú chó lao
bổ đến. Thế là hai chúng tôi, lúc người này, lúc người kia, ngắm bắn những bóng
đen của một đoàn chim xuất hiện trên ngọn cỏ lau lách, cả Pierrot và Plongeon đều
mệt lử và phấn khích mang về cho chúng tôi những con chim đầy máu me, đôi khi
có con vẫn còn sống mở mắt nhìn chúng tôi.
Trời sáng dần lên, nền trời cao xanh, sáng sủa. Mặt trời đã
xuất hiện ở chân thung lũng, và chúng tôi nghĩ đến việc quay về khi hai con
chim, cổ vươn thẳng, cánh dang rộng bay ngang qua đầu chúng tôi. Tôi nhắm bắn,
pằng! Một con gần như rơi ngay sát chân tôi. Đó là một con chim mồng két với
cái bụng màu trắng bạc.
Trên không trung phía trên đầu chúng tôi, có tiếng chim kêu,
tiếng kêu như xé lòng đau khổ, từng tiếng ngắn, lặp đi lặp lại, thảm thương, và
chú chim, một chú chim nhỏ không quản sợ, bay lượn vòng trên đầu chúng tôi, vừa
bay vòng quanh vừa nhìn xuống con chim nhỏ đã chết mà tôi đang cầm trong tay đầy
đau khổ.
Karl, quỳ gối, súng trên vai, rình ngắm nó, đợi nó bay lại gần
hơn nữa.
- Anh đã giết con mái, - Karl nói - con trống sẽ không bỏ đi
đâu.
Quả vậy, con trống không hề bỏ đi, nó cứ bay vòng quanh, vòng
quanh, và kêu khóc phía trên đầu chúng tôi. Không bao giờ tôi có thể quên được
tiếng kêu rên đầy đau khổ của con chim hôm đó, tiếng kêu rên rỉ, đau đớn, xé
lòng, ai oán, thê thảm của một con chim bị mất đi bạn đường thân yêu.
Đôi khi, trước họng súng đang rình chĩa theo đường bay của
nó, nó tạm né đi, có vẻ như nó đã sẵn sàng tiếp tục bay tiếp, bay đi một mình,
nhưng cũng có vẻ như nó không thể rời xa con mái được, nó lại bay trở lại để
tìm.
- Hãy để con mái xuống đất, - Karl nói với tôi - nó sẽ tiến lại
gần ngay.
Tôi để con mái xuống, và con trống lập tức bay xuống đỗ sát
ngay cạnh con mái, không hề lo lắng gì đến nguy hiểm đang cận kề, nó đã phát
điên vì đau khổ, vì tình yêu của nó dành cho con chim mái mà chính tôi đã giết
chết.
Karl giơ súng ngắm bắn, tiếng súng vang lên như cắt đi sợi
dây mong manh treo con chim trên bầu trời. Tôi nhìn thấy một vật rơi xuống và
nghe có tiếng rơi. Pierrott chạy bổ đi rồi mang con trống về cho tôi.
Tôi cho cả hai con, đều đã lạnh ngắt, vào trong cùng một túi
săn... Và ngay ngày hôm đó tôi lên đường trở về Paris.
Trông linh cữu
Bà lặng lẽ ra đi không trối trăng, đầy yên bình như thể một
phụ nữ đã sống một cuộc sống không có gì để chê trách. Giờ đây, bà nằm duỗi dài
trên giường, hai mắt khép lại, nét mặt bình thản, mái tóc dài bạc trắng, được
chải mượt như thể bà vừa chải mượt chúng một cách cẩn thận trước khi chết chừng
vài phút, toàn bộ dáng hình xanh xao của người đã khuất đầy một vẻ tĩnh tâm, tự
tại và hiền dịu đến độ người ta cảm thấy trong cơ thể này, xưa kia từng trú ngụ
một linh hồn hiền dịu, biết mấy, một con người đã sống một cuộc đời không một
biến loạn, một người thanh thản về với tổ tiên không một chút vướng bận gì,
không còn một nỗi ăn năn lo lắng gì với cõi đời này.
Quỳ gối, khóc thống thiết bên giường là con trai bà, một viên
chức cao cấp, và con gái bà, cô Marguerite, đã đi tu với tên thánh là xơ
Eulalie. Bà đã trang bị cho họ ngay từ thuở thiếu thời một tinh thần cố chấp, dạy
họ một đức tin không yếu đuối và những bổn phận không có sự thỏa hiệp. Anh ta,
con trai bà, đã trở thành một quan tòa, người sử dụng luật pháp để trừng phạt
không thương xót những sự yếu hèn, những lỗi lầm. Còn cô, con gái bà, đã được gửi
vào trường dòng từ nhỏ, sống cuộc sống khắc khổ, đã quyết dâng hiến cả cuộc đời
cho Chúa vì đã quá chán ghét con người.
Họ chẳng biết nhiều về cha của họ, họ chỉ biết rằng ông đã
khiến mẹ họ đau khổ mà không hề biết thêm một chút chi tiết nào khác.
Nữ tu sĩ hôn mãi một cách cuồng dại một cánh tay thõng xuống
của người đã quá cố, một bàn tay trắng ngà giống như hình một cây thánh giá để
nghiêng trên giường. Phía bên kia của cơ thể đang nằm đó, bàn tay còn lại có vẻ
như còn đang nắm nhàu cả tấm ga trải giường trong một cái dướn mình cuối cùng
trước lúc chết. Tấm ga có những nếp nhàu như những gợn sóng nhỏ, nó gợi lại những
cử động cuối cùng, trước khi đi vào cõi vĩnh hằng mãi mãi.
Có tiếng gõ cửa khe khẽ, khiến hai khuôn mặt đang chan hòa nước
mắt ngẩng lên, và ông cha cố, vừa ăn tối xong bước vào. Cha cố mặt đỏ tưng bừng,
có vẻ mệt lử vì ăn quá no, ông ta đã làm một cốc cà phê tướng pha với rượu cô
nhắc để chống lại cái mệt dồn từ mấy đêm thức trước và để chịu được nốt đêm cuối
cùng tụng kinh bên linh cữu này.
Ông ta có vẻ buồn, ông làm dấu thánh giá rồi tiến gần đến bên
giường người chết một cách thành thục:
- Nào, các con đáng thương, ta đến để giúp các con, để thay
các con trông linh cữu mẹ qua những giờ buồn thảm này.
Nhưng đột nhiên xơ Eulalie ngẩng đầu lên và nói:
- Cảm ơn Cha, nhưng con và anh con, đêm nay chúng con muốn ở
lại một với mẹ chúng con, như thuở còn nhỏ, chỉ có chúng con và mẹ. Như... hồi
còn bé.... chỉ có.... mẹ...
Cô không sao nói cho rành mạch được, vì nước mắt đã lại lã
chã rơi, cô phải chịu nỗi tang thương mới lớn lao, đau khổ làm sao.
Cha cố nghiêng đầu, trong một cử chỉ an ủi:
- Tùy ý các con.
Ông quỳ gối xuống bên giường, làm dấu thánh, cầu nguyện rồi đứng
dậy, thốt lên khe khẽ:
- Bà ấy là một thánh nữ.
Họ còn lại, người quá cố và hai con của bà. Có tiếng đồng hồ
của ai đó đang kêu tích tắc, tích tắc một cách đều đều. Qua cửa sổ mở, có mùi cỏ
khô, mùi gỗ mục ẩm ướt. Ánh trăng mờ mờ chiếu rọi qua cửa sổ bỏ ngỏ. Không còn
một âm thanh nào khác nữa ngoài những âm thanh quen thuộc hay gặp ở các vùng
nông thôn, thỉnh thoảng có tiếng ếch kêu, thỉnh thoảng lại có tiếng côn trùng
trỗi lên. Một sự yên bình, tĩnh lặng vô tận, một nỗi u sầu thần thánh, một sự
thanh thản lặng lẽ, bao quanh người quá cố, nó như đang nâng bà lên, khiến bà
bay ra bên ngoài, làm cho cả không gian tĩnh lặng lại.
Con trai bà, vẫn quỳ gối, vùi đầu vào trong chăn đang đắp phủ
lên bà, một giọng trầm đục, xé lòng vọng ra đầy đau khổ: "Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ
ơi!". Và em gái anh, cũng đang quỳ trên sàn, hòa vào giọng anh ngân lên đầy
đau thương tang tóc: "Lạy Chúa, mẹ ơi, lạy Chúa, lạy Chúa!"
Cả hai quằn quại trong cơn thổn thức, trong cái đau đớn mất mẹ
khôn nguôi.
Dịu cơn đau lòng, họ bình tĩnh lại dần, họ chỉ còn thỉnh thoảng
nấc lên, nước mắt chảy dài. Rất lâu sau, họ đứng lên, ngắm nhìn di thể người mẹ
thân yêu. Những kỷ niệm lại ùa về, những kỷ niệm xa xưa thuở trước mới êm đềm
làm sao, nó khiến cho hiện tại tàn khốc hôm nay càng thêm đau xót. Chìm đắm
trong kỷ niệm, tâm tưởng họ tràn đầy những hình ảnh, những chi tiết mà họ đã
lãng quên từ lâu, những hình ảnh, những chi tiết vô cùng thân quen của mẹ họ, họ
nhớ giọng nói tiếng cười của người mẹ, mà giờ đây tiếng nói giọng cười đó họ sẽ
không còn bao giờ nghe thấy nữa. Họ cứ đứng mãi thế, im lặng ngắm mẹ, nhớ lại
những lời bà thường hay nói, mỗi khi có chuyện gì quan trọng.
Và trong họ dâng tràn một tình yêu với bà như thể họ chưa từng
yêu bà như thế.
Họ nhận thấy, trong nỗi thất vọng tột cùng rằng giờ đây họ đã
bơ vơ. Người luôn nâng niu, bảo bọc, che chở cho họ suốt thời thơ ấu cũng như
thời tuổi trẻ. Người luôn mang đến niềm vui cho họ chỉ cần nhờ vào sự xuất hiện
đã ra đi mãi mãi. Sợi dây liên hệ của họ với cuộc sống: mẹ họ, người sinh thành
ra họ, người dẫn dắt họ... đã ra đi mãi mãi. Giờ đây họ trở thành những kẻ cô
đơn. Họ không còn ai đứng đằng sau để khích lệ cho họ, để trông chừng cho họ nữa
rồi.
Người em nói với anh: "Anh biết không, mẹ chúng ta vẫn
luôn đọc lại những bức thư cũ của mẹ đấy, và chúng còn ở tất trong kia, trong
ngăn kéo tủ của mẹ. Nếu đêm nay, tới lượt chúng ta đọc nó, có thể nó sẽ khiến
chúng ta cảm thấy mẹ ở gần hơn. Có thể chúng ta sẽ hiểu rõ về mẹ hơn, có thể
chúng ta sẽ biết thêm chút gì đó về ông bà của chúng ta vì có cả thư của ông bà
ở trong đó, mẹ vẫn thường bảo như thế, anh còn nhớ không?"
Và họ lôi từ trong ngăn kéo ra khoảng một chục xấp thư cũ kỹ
đến nỗi giấy đã ngả vàng và được buộc lại cẩn thận và được xếp ngăn nắp.
Họ đặt tất cả những di vật đó lên trên giường và chọn một tập
được viết ở ngoài chữ "Bố". Họ mở ra và đọc.
Đó là những bức thư cũ đến nỗi người ta chỉ có thể tìm thấy
được trong những ngăn tủ đựng đồ kỷ niệm của gia đình, những bức thư có đề ngày
của những thập kỷ trước. Các bức thư được bắt đầu bằng những cách gọi vô cùng
âu yếm: cái đầu là "Con gái yêu quý", cái khác là "Con
yêu", cái khác nữa "Con gái bé bỏng xinh đẹp của ta"... Bỗng
nhiên cô con gái bắt đầu cao giọng đọc một bức thư, như thể cô đọc cho mẹ cô
nghe, với một giọng đọc đầy âu yếm. Và người anh, tay chống lên giường, mắt
chăm chăm nhìn mẹ, lắng tai nghe. Thi thể bất động của người mẹ trông có vẻ như
rất hạnh phúc.
Đột nhiên, xơ Eulalie ngừng đọc và nói: "Chúng ta sẽ để
mẹ mang theo những bức thư này, chúng ta sẽ đặt chúng dưới lớp vải liệm và chôn
cùng mẹ nhé".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét