Ba sinh hương lửa 3
Khu rừng lau 1
CHƯƠNG I
NGƯỜI ANH TRỞ VỀ
I
Một buổi trưa oi nồng ăn xong ai nấy mồ hôi mồ kê ướt đẫm trở
về giường nằm mong cố chợp mắt chút ít cho lại sức. Miên lẳng lặng trở xuống bếp
lấy hai cặp ống bương đi gánh nước.
Ông Lợi, trưởng ban cấp dưỡng, một người đàn ông nhà quê đã
trên bốn mươi tuổi, mắt kém, tính tình chất phác, thấy vậy bèn lên tiếng ngăn:
- Thôi cô Miên ạ, hãy nghỉ trưa một tí, nước thổi nấu bữa chiều
cũng đã tạm đủ.
Miên đáp giọng vui:
- Nước ăn thì đủ, nhưng nước uống thì chưa có, ông Lợi có thấy
đúng không ?
- Đã đành rằng thế nhưng ...
- Nhưng tôi đi gánh cho ông yên chí, nóng thế này cũng chẳng
ngủ được.
Khi nàng vừa gánh ống bương ra tới ngõ, nàng bỗng đứng sững,
tựa như có lùi lại chút xíu. Có thật vậy không? Chỉ thoáng thấy bóng người ấy,
cảm giác nóng bức bỗng nhường cho cảm giác dịu mát, thứ dịu mát mênh mông khiến
Miên thấy như chính nàng được hòa biến vào trong đó. Người đứng trước cửa là Hiển!
là Hiển! Quả thực là một giấc mơ, nàng không sao thốt lên được một tiếng kêu
vui.
Hiển cười thoạt buồn rầu chắc vì thấy nàng gầy và xanh rớt,
nhưng rồi nụ cười tươi ngay lên. Miên sung sướng quá, anh nàng vẫn còn ở bên
này của cuộc sống tình cảm, vẫn còn là ... người.
Hiển nói, vẫn giọng nói ấm cúng và âu yếm của anh nàng khi
xưa:
- Anh đến xin phép cho cô về nghỉ ba ngày.
Miên hỏi:
- Anh còn nghỉ nhà ba ngày?
Hiển mỉm cười:
- Ừ, ba ngày.
Miên theo anh tiến vào nói tiếp:
- Bà Quản bị cô lập anh biết chưa?
Hiển đáp nhanh:
- Anh chưa biết vì anh đã về làng đâu.
- Thế còn "ba lô" của anh?
- "Ba lô" của anh đã có một anh bạn ngồi ở đầu đường
kia giữ hộ.
- Còn một anh bạn nữa hở anh?
Hiển không trả lời câu hỏi ríu rít đó vì đã đến bàn giấy cơ
quan quân y. Anh cán bộ phụ trách còn nhớ Hiển là anh Miên. Việc xin phép cho
Miên nghỉ ba ngày không có gì trở ngại, ai cũng biết Miên đã tận lực làm việc.
Khi ra ngoài sân Hiển bảo Miên:
- Cô gói hết quần áo về vì còn ở nhà ba ngày.
Miên ngoan ngoãn vâng lời. Năm phút sau nàng đã theo anh ra cổng,
mắt sáng và đen láy, khuôn mặt vẫn gầy nhưng màu da tựa như có hồng hào lên nhiều.
- Ấy chết! - Miên kêu khẽ.
Hiển dừng vội lại:
- Gì thế, cô?
Miên cười chỉ hai cặp ống bương lăn lóc bên tường:
- Em vừa định ra suối gánh nước thì gặp anh, để em mang vào
trả ông Lợi.
- Thôi, đi cho nhanh cô ạ.
- Không được, thế không tiện.
Miên cúi nhặt hai cặp ống bương vội vã tiến về phía nhà bếp.
Khi nàng trở lại Hiển vừa rảo bước vừa nói khẽ:
- Phải tạt về thăm bà Quản cái đã.
Miên hỏi lại:
- Ô hay, chẳng về đấy thì đi đâu hở anh?
Hiển đã tới quãng quẹo đầu đường. Một người ngồi đấy đợi.
Miên không chú ý tới người đó vì còn mãi nghĩ đến câu nói vừa rồi của anh.
Từ cơ quan quân y về làng Hạc Thủy đi thong thả mất một giờ
đường, nhưng theo nhịp bước của Hiển như thế này chỉ mất nửa giờ hay hơn một
chút. Miên bám sát lấy anh, "người kia" đi sau cùng. Dọc đường Hiển
có hỏi Miên vài câu về bà Quản rồi lại suy nghĩ.
Khi qua làng Thạch Trục "người kia" cất giọng nói với
Hiển:
- Hiển này, ngày xưa tôi học Luật ở đây.
- Trường Luật đóng ở đây à? - Hiển hỏi trong khi Miên đưa mắt
quan sát "anh chàng".
- Phải trường Luật trước đóng ở đây - "anh chàng"
đáp.
Miên muốn quan sát "anh chàng" thế vì chợt nhớ đêm
nào khi trở về cơ quan, nàng đi vào bóng thông dưới trăng và tiếng một sinh
viên phê bình khẽ: "Nàng tiên đi dước trăng". Thoáng một chút suy
nghĩ, Miên tung lời tìm hiểu với "anh chàng":
- Ngày xưa tôi có chị bạn quen đi qua đây và có một anh gọi
đùa là "nàng tiên đi dưới trăng".
- Ấy chính tôi ! - "anh chàng" nói như cướp lời.
Miên dấu nụ cười đắc ý. Cả ba lại im lặng miết mải bước. Hiển luôn luôn dẫn đầu.
II
Tới Hạc Thủy, rồi tới cổng nhà bà Quản có hai người du kích đứng
canh. Hiển và Miên tiến lại.
Theo nguyên tắc ai tới thăm địa chủ thì lúc vào cũng như lúc
ra đều bị khám. Sự thực cũng rất ít người dám đến thăm. Anh du kích xã biết Hiển
thuộc cấp chỉ huy quân đội, lại thấy anh có anh chàng ngồi coi "ba
lô" đằng xa, anh vội mở cửa ngay cho Hiển và Miên vào.
Bà Quản đã gần lòa hẳn. Bà gầy như chiếc que, lưng còng nữa.
Bà ngồi thu hình vào một góc nhà nghe ngóng vì bà biết có bước chân người lạ tiến
vào.
- Lạy bà ạ!
- Ấy chết tôi không dám, ai đấy ?
- Con đây, con là Hiển.
- Và con là Miên nữa.
Bà Quản thoáng vẻ vui nhưng bà kiềm chế được ngay. Bà cất tiếng
nói khẽ:
- Hiển, Miên các con đấy ư?
Hai tiếng "các con" thốt ra ở miệng bà khi ấy làm
Miên se lòng, rõ ra là lời nói của người thèm được ban phát tình cảm và ao ước
được nhận tình cảm.
Hiển nói rất ngắn và gọn:
- Chúng con biết là bà bị đem ra kiểm thảo trước để uy hiếp
tinh thần cụ cử Hứa còn chôn dấu của cải. Trong một địa phương người ta chỉ cần
trừng trị nặng một người thôi!
Bà Quản biết ý Hiển muốn nói người ra đấu trường sau này để
lãnh án tử hình là cụ cử Hứa.
Hiển tiếp:
- Chúng con đến thăm bà, biếu bà lọ thuốc sốt rét có chừng
hai chục viên ký ninh vàng và một số tiền nhỏ.
Hiển khẽ cúi xuốn lanh lẹ ấn những thứ đó xuống dưới chiếu chỗ
bà Quản ngồi, trong khi Miên hỏi nhỏ:
- Thưa bà anh Tài con không về?
Bà Quản thở dài:
- Trông mong gì ở nó hở cô?
- Chị Nẵng, chị Nhơn ra sao? - Vẫn lời Miên hỏi.
- Chúng nó cũng đứt từng khúc ruột nhưng chẳng dám làm gì ...
Hiển nói:
- Thôi chuyến này chúng con đi công tác hơi xa, chúng con đến
chào bà. Bà yên lòng, rồi mọi việc ổn thỏa. Ngộ tết chúng con không về kịp, bà
trông nom hai phần mộ giúp chúng con.
Miên không sao cất lời chào bà Quản được nữa vì nàng thấy bà
Quản chợt gục đầu lên gối, hai vai gầy rung động.
Bà Quản khóc, trong thâm tâm bà vừa đau khổ vừa sung sướng,
đau khổ vì hoàn cảnh của bà, sung sướng vì bà cảm thấy rõ trên đời không bao giờ
thiếu những người tốt. Tấm lòng vàng như mạch nước mát rợi không biết tự đâu chảy
đến thấm qua khe đá chảy mãi, chảy mãi không bao giờ ngừng không bao giờ hết.
Cuộc đến thăm chỉ lâu chừng ba phút. Dáng đi hiên ngang của
Hiển làm hai người du kích xã không chút nghi ngờ gì cả và Miên đã hiểu anh sắp
đưa mình đi đâu. Lần này đến chổ để ba lô, Miên có dịp chú ý nhiều hơn đến
"anh chàng". Đó là một chàng thanh niên trạc tuổi Hiển, khuôn mặt đăm
chiêu kín đáo như cố giữ không cho thoát lộ tình cảm, như luôn luôn đượm chút
nghi kỵ. Nhưng khi anh chàng ngẩng lên nhìn thẳng về phía Miên.... chạm phải
đôi mắt ấy Miên có cảm giác rờn rợn, vừa lạ lùng vừa êm ái. Miên lại đi sát bên
Hiển, để mặc anh chàng đi sau cùng.
- Cô hiểu rồi chứ? - Hiển hỏi.
- Em hiểu - Miên đáp - Thực em không ngờ, em sung sướng quá!
Ra tới đầu làng Hạc Thủy, cùng trên đường đi, Hiển dẫn đầu rẽ
sang bên phải theo đường bạc ruộng khu thung lũng đi lên dần tới mộ cha mẹ.
Không khí xung quanh vắng lặng, hoang vu, Hiển cúi xuống dùng
hai tay lực lưỡng nhổ cây mua hao tím trên mộ mẹ. Miên chạy tới thửa ruộng mới
cấy gần đấy, lễ mễ khiêng lại tảng đất lớn đắp lên khoảng hoắm của cây mua vừa
bị nhổ bật rễ.
Hiển nói:
- Cũng may anh em mình đã cho xây gạch quanh một từ mấy năm
trước.
Rồi Hiển rút trong ba lô ra thẻ hương và bao diêm. Rõ ràng
chàng đã có ý sửa soạn từ trước.
Khói hương bốc lên mỏng mảnh và âm thầm.
Ba người tiếp tục theo đường lên núi, Miên còn ngoái cổ ngắm
lại làn khói hương trên mộ cha mẹ một lần nữa như để vĩnh viễn chụp lấy vào tâm
tưởng mình. Lát sau cả ba đã tới đỉnh, đúng khoảng trước đây Miên thường leo
lên để ngắm vạn vật xuất hiện dưới tia nắng đầu tiên của vừng đông hay dưới ánh
nắng hấp hối của chiều tà.
Thốt nhiên Miên quay phắt lại:
- Hãy dừng lại anh, cho em nghỉ một chút thôi, đi một mạch
lên đỉnh núi em mệt!
Sự thực Miên không mệt. Nàng nhìn thẳng về phía núi xa, nơi
trước đây có khoảng lay động màu xanh cẩm thạch. Màu xanh cẩm thạch không còn,
nhưng vẻ dạt dào uyển chuyển vẫn như xưa.
Miên hỏi Hiển:
- Sao màu xanh cẩm thạch của khu rừng lau trên núi Sáng nay lại
thấp thoáng chuyển sang màu tím hoa cà hở anh?
Tuy còn giữ nguyên vẻ vội vã, Hiển cũng đứng lại để thở, nhìn
về phía khu rừng lau và suy nghĩ về câu hỏi của Miên.
- Bây giờ đương mùa hoa lau cô ạ - "anh chàng" vừa
ngồi xuống vừa nhìn thẳng về khu rừng lau vừa trả lời = hoa lau màu tím phớt,
đúng như thế kia đó.
Rồi anh chàng quay lại, không nhìn Miên ( Miên cũng không muốn
anh ta nhìn mình, nàng sợ!) nhưng nhìn ngón tay út của nàng, ngón tay có đeo
chiếc nhẫn saphir màu đỏ. Anh chàng hơi nghiêng đầu chú ý ngắm, thành thử trông
anh bỗng ngộ nghĩnh như con chim khuyên sắp mổ hạt thóc. Khi anh nhìn về phía
cũ - phía khu rừng lau xa - đôi mắt anh chăm chú, đôi lông mày hơi nhíu, răng bậm
lấy môi dưới suy nghĩ, vẻ mặt dịu hẳn xuống. Miên yên lòng kín đáo theo dõi. Sự
khám phá ra "thủ phạm" lời nói đùa "nàng tiên đi dưới
trăng" cộng thêm sự hiểu biết về hoa lau của chính kẻ đó càng khiến Miên
muốn tò mò quan sát anh chàng kỹ hơn. Kỳ dị thay Miên nhận thấy đặc biệt khuôn
mặt trái soan của anh chàng có ánh vẻ lãng mạn của màu tím hoa lau. Anh chàng bỗng
cất tiếng ngâm hai câu lục bát, lúc đó anh như chẳng thèm biết có ai quanh
mình, nội dung hai câu thơ ngẫu hứng đó có nhắc đến màu tím hoa lau:
Tình ta thức trắng tinh cầu
Hồn ta tím ngát một màu hoa lau.
Giọng ngâm đắm đuối của anh tỏa ra man mác cùng gió và nắng,
giọng ngâm như biến thành mũi tên êm ái, tim Miên bị thương trong vắng lặng. Tiếng
ngâm dứt, âm thanh còn vang vang, anh chàng bỗng quay sang trao đổi một vài ý
kiến với Hiển. Miên biết thêm tên anh chàng là Kha. Khi trao đổi ý kiến, đôi mắt
anh chàng hoặc chiếu thẳng vào người đối thoại hoặc chiếu thẳng vào khoảng
không nhưng bao giờ cũng man mác sinh lực, đượm tính chất siêu hình, khoáy sâu
vào bản thể sự vật vào hồn người. Khi phát biểu xong ý kiến đôi môi anh thường
mím lại nhưng hơi rung động như cánh bướm còn đập nhẹ khi vừa đậu vững trên
hoa, vì vậy lời nói của anh tuy có vẻ cương quyết nhưng vẫn đượm chút duyên
tinh nghịch. Miên nhắm mắt ôn lại trong trí lời ngâm của anh chàng đồng thời
nàng cũng thấy xuất hiện khuôn mặt trái soan ấy, lời nói đôi môi hơi rung động ấy,
cái nhìn man mác sinh lực siêu hình ấy ... tất cả tổng hợp lại toát ra một sức
mạnh man rợ. Sức mạnh man rợ đó thuộc tinh thần thuần túy nên có làm điên đảo đối
phương - (Miên quên rằng đối phương đấy chính là nàng) - nhưng là thứ điên đảo
gây kỳ thú, chứ chẳng hề gây lo âu, dằn vặt.
- Xuống núi thôi! - Hiển nói qua tiếng thở phào làm Miên giật
mình, mở choàng mắt ngẩng lên bất chợt anh chàng đang chăm chú nhìn chiếc nhẫn
saphir ở ngón út của nàng, dường như chiếc nhẫn saphir có gợi lên trong tâm tưởng
anh một kỷ niệm, một thắc mắc nào. Miên không hiểu anh chàng ngắm nhẫn saphir
(và cũng là ngắm nàng vào lúc nhắm mắt) như thế đã bao lâu.
Miên sực nhớ ra điều gì, nang hỏi:
- Anh Kha có quen anh bạn nào tên là Tân không nhỉ?
Đôi mắt Kha chiếu thẳng vào đôi mắt nàng suy nghĩ một giây rồi
gật đầu lia lịa:
- Có, có, tôi gặp Tân ở đồn điền Lợi ký và chia tay ở bờ sông
Hồng !
- Thôi đúng là anh Tân ấy rồi - Miên thốt, không dấu được vẽ
vui mừng - tôi gặp anh Tân ở một đơn vị hậu cần quân y cách đây ngót hai năm
...
- Phải, Tân học quân y - Kha nói - dạo đó Tân rủ tôi học Thuốc
mà.
Miên mỉm cười, nàng còn nhớ lời Tân kể chính Kha rủ Tân học
thuốc rồi bỏ rơi câu chuyện đi biệt tích phương nào. Nàng hỏi giọng tính nghịch:
- Anh Tân rủ anh hay chính anh rủ anh Tân?
Đáp câu hỏi nhiễm vẻ riễu cợt của Miên, Kha đáp lại thực thà:
- Tôi không nhớ rõ tôi rủ Tân hay Tân rủ tôi nữa.
Nhưng Miên không chú ý đến lời Kha đáp, nàng cúi nhìn chính
bàn tay của nàng đương vân vê một lá cỏ, nàng nhớ lại câu người xưa thường nói
"hữu duyên thiên lý năng tương ngộ". Nàng bỗng thấy cuộc đời đáng sống
và rất dễ thở, hầu như càng chịu nhiều đau khổ hạnh phúc càng trong sáng, trong
sáng đến thành muốn yêu ... đau khổ!
- Đi ngay thôi chứ cô Miên? - Chính Kha nhắc nàng.
- Vâng đi! Miên vừa đứng dậy vừa đáp.
Kha né mình nhường lối cho nàng đi và chàng vẫn đi sau cùng.
CHƯƠNG II
Ý THỨC VỀ NỐT NHẠC
I
Từ sau ngày Miên tiễn anh sang bên kia bờ sôn Đáy đã có những
chuyện gì xảy ra cho Hiển?
Có khá nhiều chuyện! Thời gian thì ít mà không gian di chuyển
thì nhiều, tình tiết cũng lắm khiến sau này khi kể lại cho Miên nghe, một đầu
óc toán học minh mẫn như Hiển đôi khi cũng cảm thấy lúng túng.
Để câu chuyện có được thứ tự thời gian và nhất là để so sánh
sự quyết định giã từ kháng chiến của ba người - Hiển, Kha, Miên - chúng ta cần
biết ngay những gì đã xảy ra cho Hiển từ ngày chàng qua bờ sông Đáy. Khởi đầu là
sự ý thức của chàng về một nốt nhạc.
Qua sông Đáy, vượt ngọn Tam Đảo, sang Thái Nguyên, ở đây Hiển
nhập đơn vị sang Tàu theo học Lục quân khóa Tám địa điểm ở Phụng Minh Thôn cách
Côn Minh ba mươi sáu cây số về phía Tây Nam. Vừa tới nơi, cấp trên cho Hiển hay
chàng được cử đi Nga học về bộ phận nặng quốc phòng: trọng pháo, xe tăng cùng
các loại cơ giới khác. Nguyên vì trước đây một năm đã có một trung đoàn bộ binh
dời mặt trận Nam Định sang bên này sửa soạn chịu huấn luyện thành trung đoàn trọng
pháo đầu tiên, linh hồn của chiến thắng Điện Biên Phủ sau này, Hiển được cấp tốc
cử sang Nga học để có uy tín chỉ huy trung đoàn đó. Cùng đi với Hiển có hai anh
hùng quân đội, một nam một nữ sang dự hội nghị các chiến sĩ giải phóng Đông Nam
Á. Cả ba lên xe hỏa đi Bắc Kinh rồi lên phi cơ đi Mạc Tư Khoa. Kèm theo ba người,
Bắc Kinh đặc biệt củ một chính trị viên tư tưởng rất vững. Tới Mạc Tư Khoa,
trong số ủy ban tiếp đón có người thông ngôn tiến Việt, có người thông ngôn tiếng
Tàu. Họ đều đã tốt nghiệp ở trường Đông Phương Ngữ Học ra. Đặc biệt nội dung
bài diễn văn đọc trong buổi họp mặt đầu tiên, đồng chí trưởng ban tiếp đón người
Nga có kể rành mạch tiểu sử cùng chiến công của từng người. Hiển hiểu điều đó
là thái độ chính trị cần thiết nhưng hai nam nữ đồng chí anh hùng quân đội là
những người nông dân chất phác thì cảm động đến ngẩn ngơ, đến run cả người. Rồi
tuần tự, ba người được đưa tới thăm một nông trường kiểu mẫu, tới thăm xưởng
máy Staline sản xuất nông cụ; tới thăm trường đại học Lénine đương xây cất dở
chiếm trọn một khu đồi; các đường ngang dọc trong khu đại học này tính tới hàng
trăm cây số; vào thư viện chỉ cần viết giấy bấm nút là sách tự động đến tay. Buổi
đi thăm xe điện ngầm, ba người được thấy tại từng ga một bản đồ ánh sáng ghi
chú những nơi lên xuống; xe chạy vun vút, hai bên đường hầm là cả một viện bảo
tàng mênh mông những công trình điêu khắc; mỗi quãng đường là một kiểu kiến
trúc tượng trưng cho một giai đoạn tiến hóa của nhân loại.
Lòng thán phục của hai đồng chí anh hùng quân đội thuộc thành
phần nông dân thuần túy lên tới mức bộc lộ hẳn nhiệt tình sẵn sàng hy sinh để bảo
vệ thiên đường Nga Sô. Riêng Hiển, chàng thấy ngao ngán và lòng tự ái như bị
xúc phạm mạnh. Mấy năm trước đây xông pha tiền tuyến, công phá hết đồn này sang
đồn khác, trưởng thành cùng quân đội trong chiến đấu tron mưu cơ trong tổ chức
Hiển đã xóa được trong ký ức hình ảnh tượng trưng cho nhục vong quốc; người
thanh niên Việt chạy trước cô đầm trước rạp Eden; giờ đây Hiển khao khát muốn sớm
đuổi kịp các cường quốc về kỹ thuật nhưng làm sao mà đuổi kịp họ về kỹ thuật
trong tình trạng chinh chiến của nước nhà ngày nay? Chàng không muốn cam nhận
mình chỉ là đại diện một tiểu nhược quốc đến thăm để chiêm ngưỡng, thán phục kỹ
thuật của nước đàn anh vĩ đại. Chàng thấy lúc nào nước Việt cũng có thể bình đẳng
với bất cứ cường quốc nào về phương diện tinh thần. Trong khi chờ đợi đất nước
thanh bình để có thể đuổi kịp nước ngoài về kỹ thuật, chàng muốn những đức tính
tinh thần của dân tộc phải được triệt để bổ xung và phát triển ngõ hầu người
mình vẫn có thể ngang nhiên nhìn mọi tiến bộ kỹ thuật bên ngoài mà không mảy
may tự ti mặc cảm. Một tiểu nhược quốc chỉ có thể tự trọng hiên ngang, giữ được
bình thản mà tiến khi biết tin, biết quý, biết tận tâm tận lực phát triển đức
tính tinh thần của dân tộc mình. Không biết tới điều dó thì cho đến vạn kiếp
người dân nhược tiểu chỉ là thứ tốt biên nhỏ mọn trên bàn cờ quốc tế. Hiển nghiến
răng và mím chặt môi phóng ra một ý nghĩ thầm lặng nhưng đanh thép: Nước Việt
Nam quyết không chịu làm con tốt biên cho bất cứ một cường quốc nào, người Việt
Nam quyết không chịu làm một thức "cóc vái giời", nước Việt Nam phải
là một nốt nhạc có ý thức trong bản hợp tấu của nhân loại.
Hiển chưa là đảng viên, nhưng các đồng chí ở nước nhà sau một
buổi họp kín đã quyết định cử Hiển đi theo lớp huấn luyện này vì mấy lý do
chính sau đây:
- Hành động như vậy Đảng sẽ được dịp tỏ cho một số quần chúng
thấy rằng, mặc dầu một số lầm lẫn Đảng đã mắc phải nhưng Đảng vẫn sáng suốt nhận
định những tài năng xứng đáng để cử họ vào những trọng trách xứng đáng.
- Đảng cho Hiển được dịp thực mục sở thị những gì là vĩ đại của
thành trì Sô Viết, những mong hoàn toàn khắc phục con người tiểu tư sản đó, giải
thoát cho hẳn mọi nghi ngờ, để rồi đây khi trở về nước, được chính thức vào Đảng,
con người đó sẽ đem hết năng lực ra phục vụ chủ nghĩa quốc tế.
Sự phản ứng của Hiển đã hoàn toàn ngược lại dự kiến của Đảng!
Ngoài việc thăm viếng những đại công tác trên của thành trì
Sô Viết, về phần giải trí, hàng ngày ba người được xem kịch hoặc được xem chiếu
bóng.
Bữa ăn có nữ chiêu đãi viên hầu bàn, sáng sáng có bác sĩ đến
chăm nom sức khỏe. Thực là chu đáo!
Chu đáo và chặt chẽ nữa! Đi đâu cũng có người chỉ dẫn thông
ngôn; mọi đề nghị phải qua trưởng đoàn là chính trị viên đã được cử đi kèm theo
ba người từ Bắc Kinh.
Không ai được quyền tự do đi chơi phố, hoặc tự do tiếp xúc bất
cứ ai trong ngay nơi cư trú đó. Thành thử cho đến nay, ôn về nước Nga, Hiển
cũng chỉ giữ được trong ký ức có ngần nhiêu hình ảnh.
Sau buổi đi xe điện ngầm, Hiển được đồng chí chính trị viên
cho biết chàng không được theo lớp học dự định và hai hôm sau nữa, một mình Hiển
theo chính trị viên ra phi trường lên phi cơ về Bắc Kinh.
Thoạt tiên Hiển tưởng chàng vô tình phạm một lỗi vô chính trị
nào, nhưng trên đường về, chính trị viên cho hay sở dĩ chàng không được theo học
vì chàng không hoàn toàn có đủ hai điều kiện do Nga Sô chỉ định: Điều kiện văn
hóa phải có tú tài toán học hoặc trình độ tương đương, điều kiện giai cấp phải
thuộc thành phần công nông. Hiển đã thiếu điều kiện thứ hai.
Hiển đã có thái độ dửng dưng với việc không được chấp nhận
theo học lớp cơ giới tại Nga Sô vì bài học trong chuyến đi Hiển cho là mình đã
đạt được rồi: "Phải kiến thiết lâu đài tinh thần của dân tộc để giữ vững
tin tưởng, nước Việt Nam quyết không chịu làm con tốt biên cho bất cứ một cường
quốc nào, nước Việt Nam phải là một nốt nhạc có ý thức trong bản nhạc hợp tấu của
nhân loại"!
CHƯƠNG III
PHONG TRÀO TAM PHẢN KHÓA BẢY
I
Hiển trở về Phụng Minh Thôn đúng hôm nơi này tràn ngập làn
gió nhẹ từ Đông Nam thổi tới, làn gió như có mang lại những hương thơm của đất
nước. Trong khi chờ đợi quyết định của thiếu tướng chính ủy chỉ huy trường lục
quân Hiển được mấy ngày rảnh để quan sát Phụng Minh Thôn. Chàng đã băng qua khu
rừng thông phía Tây, có những con sóc đuôi xòe như bông lau từ trên cao nhìn xuống
với đôi mắt đen tò mò một cách ngộ nghĩnh. Hiển theo đường mòn dưới rặng thông
đưa xuống một dòng suối rộng, nước trong như pha lê và lạnh buốt. Hai bên bờ suối
là những bụi cây nhỏ hoa tím và những dây leo hoa vàng. Con suối rộng này chảy
theo hướng Đông Bắc tìm đường đổ ra Dương Tử Giang. Khu rừng núi phía Đông và
phía Nam âm u hơn với những cây cổ thụ mọc san sát và cao ngất, với các giống
khỉ, hươu, nai, sài cứu (một giống chó rừng)... Phía Bắc là một cánh đồng lúa
khá rộng trên đó tầm mắt được dịp phóng đi thoải mái. Ven cánh đồng có con đường
đất đỏ rộng, hai bên là cỏ xanh. Dọc theo con đường là nhà dân chúng; nơi đây
dân chúng tuy đã chịu vài sự đổi mới nhưng vẫn giữ được nếp sống thuần phác đặc
biệt đáng mến.
Hiển trở về Phụng Minh Thôn được ba ngày thì tới ngày giỗ cha
mẹ. Tại phòng Hiển, trên đầu giường nằm của mỗi người có một chiếc kệ nhỏ bằng
gỗ tạp làm nơi để các đồ dùng lặt vặt. Các đồ lặt vặt được bỏ xuống, đĩa hoa quả
được đặt lên, Hiển thắp hương tưởng niệm. (Các thứ đó Hiển mua ở nhà dân
chúng). Lúc đó vào giờ ăn chiều, trong phòng chỉ có mình Hiển. Chợt một số cán
bộ trong ban Giám Đốc trường sịch vào, không hiểu do vô tình hay có người mật
báo trước. Một cán bộ, thoáng trông cũng biết là thuộc thành phần tam đại bần cố
nông, tiến đến nói bằng một giọng khá hách dịch:
- Đồng chí còn nặng tư tưởng phong kiến lạc hậu thế đấy!
Đôi mắt Hiển chợt ngầu đỏ. Tuy nhiên Hiển cũng sẵn sàng không
chấp anh cán bộ bần cố nông đã bị Đảng mê muội hóa và cuồng tín hóa nếu anh ta
không quá trớn hơn nữa. Số là thấy mắt Hiển đỏ ngầu, anh cán bộ cho ngay đó là
triệu chứng của "căn bệnh tự ái tiểu tư sản", anh bèn chỉ trích thêm
giọng riễu cợt:
- Chúng tôi chẳng biết đồng chí cúng ai và tưởng niệm cái gì ở
khoảng trống này.
Hiển nghiến răng trừng mắt:
- Anh câm mồm, bàn thờ cha mẹ, bàn thờ các liệt vị anh hùng
chính là bàn thờ giá trị dân tộc, giá trị chính mình! chỉ có những kẻ vô giá trị
mới nhìn lên bàn thờ mà thấy đó là khoảng không.
Sự thực Hiển cũng khÔng có ý đặt vấn đề đến mức siêu hình như
vậy, Hiển chỉ muốn gián tiếp trình bày với mấy cán bộ cao cấp đứng quanh đấy rằng
chàng làm giỗ cha mẹ với một quan niệm vững chãi, không hề đi xa đường lối của
Đảng. Nhưng sau khi sừng sộ nói một hồi như vậy Hiển thấy trừ một khuôn mặt
nhìn chàng với cảm tình đặc biệt còn tất cả giữ vẻ lạnh lùng.
Anh cán bộ bần cố nông chỉ vào mặt Hiển nói giọng lêN án cảnh
cáo:
- Đồng chí còn nặng đầu óc cá nhân, tiểu tư sản thoái hóa, tối
nay giờ sinh hoạt, đồng chí sẽ tự kiểm thảo trước toàn thể anh em.
Quả nhiên tối hôm đó thái độ cùng lời nói của Hiển được đem
ra mổ sẻ vào giờ sinh hoạt. Hiển ngồi giữa, các lời phát biểu, phê bình, chất vấn,
từ bốn phía thay phiên nhau đổ lại. Buổi họp kéo dài đến mười hai giờ khuya, Hiển
mệt nhừ. Sau cùng Hiển đành thú nhận là còn nặng bệnh anh hùng cá nhân, còn quá
nô lệ cho lòng tự ái, tự túc tự mãn.
Khi mọi người đã về giường ngủ, Hiển còn ra trước hiên làm mấy
động tác hô hấp thật mạnh như muốn dùng hơi lạnh ban đêm thoa dịu những bực rọc
trong lòng. Cảnh nghèo đói, cảnh cha mẹ chết trong cực nhọc, làm sao mà một tâm
hồn cương trực và dễ xúc động như Hiển quên nổi? Hiển luôn luôn thương quí những
người dân quê nghèo, đó là lẽ dĩ nhiên. Hiển vẫn thành kính nghĩ qua nỗi niềm
chủ quan của chàng: họ chính là viện bảo tàng sống vừa gìn giữ thể hiện những
năng lực bền bỉ cùng những đức tính tinh khiết nhất của dân tộc. Cách mạng là bồi
bổ những năng lực đó, những đức tính đó. Người cán bộ nông dân kia đã để mất những
thiên tính cao quí của người nông dân thuần hậu chất phác, hắn rơi vào cử chỉ
kiêu hãnh tầm thường nhất, lầm lỗi nhất là lên mặt với một dúm trí thức hời hợt,
hắn mới học mót được của người (ý nghĩ này của Hiển cũng gần giống như ý nghĩ của
Tân về Mạnh, chủ tịch huyện Thanh Ba). Cách mạng hầu như khuyến khích sự kiện
đó. Không được ! Hiển nghĩ nếu cán bộ thuần một giống bò sát như thế thì muôn
kiếp dân tộc ở vào vị trí chầu rìa để làm cái công việc tung hô và ngưỡng mộ vô
cùng đơn bạc hèn kém (Như mấy anh hùng quân đội trong chuyến sang thăm Liên Sô
với chàng). Hờn giận làm Hiển thấy nghẹn ngào nơi cổ.
Có bóng người tiến lại. Hiển nhận ra anh cán bộ ban chiều đã
nhìn mình với cảm tình đặc biệt. Anh ta hỏi trước:
- Quê anh ở đâu?
- Ở Vĩnh Yên - Hiển đáp.
- Anh có học ở Hà Nội?
- Có.
- Hình như anh đỗ tú tài toán học?
- Đỗ năm 1944.
- Tôi đỗ sau anh một năm, ban Triết học Văn Chương.
Chợt anh ta hỏi thêm:
- Bực lắm hả?
Biết thổ lộ với người này cũng không sao, Hiển chặc lưỡi đáp:
- Kể cũng hơi bực. Ba bốn năm giời đi dự các chiến dịch,
không năm nào tôi quên ngày giỗ cha mẹ và không ở đâu anh em phản đối điều đó.
- Anh lầm, tình anh em đồng chí ngoài tiền tuyến lúc công đồn
khác, ở đây khác. (Ngừng mấy giây) Thằng đó cùng học với tôi khóa bẩy.
Hiển biết hai chữ "thằng đó" dùng để chỉ ai, bèn hỏi
lại:
- Anh cùng làm việc ở hiệu bộ với hẳn?
- Không, tôi chỉ phụ trách tờ nội san ở hiệu bộ và tôi sẽ học
lại cùng các anh ở khóa tám.
Hiển lặng lẽ đưa mắt quan sát kín đáo anh cán bộ một lần nữa.
Anh ta có khuôn mặt thật dễ thương, dáng người anh cao thẳng, đôi mắt nhìn thẳng,
đôi môi mím nhưng hơi rung động. Ngừng một phút anh ta tiếp:
- Đã trải qua một bi hài kịch như vậy mà chúng vẫn không biết
ngượng.
- Bi hài kịch nào? - Hiển hỏi.
- Chuyện còn dài! - Anh cán bộ đáp gọn, lời đáp như có ý nói:
"Rồi tôi sẽ kể cho anh nghe!"
- Anh không buồn ngủ? - Hiển hỏi.
- Giờ này là phiên tôi đi tuần - Anh cán bộ đáp.
Lại ngừng một phút. Anh cán bộ ngừng nhìn trời, mấy vì sao
khuya lấp lánh hiu quạnh. Khoảng rừng núi phía Đông và phía Nam hiện thành một
khối lớn đen đặc nửa như bí hiểm nửa như ngu đần. Tiếng lá rung khe khẽ theo từng
đợt gió đêm của những rặng cây gần đấy nghe buồn thật buồn, một nỗi buồn dằng dặc
mà vô tư, tựa như một nỗI buồn đã dĩ nhiên có tự thời nào và sẽ còn có mãi như
bóng theo hình người. Một nỗi buồn vô tư!
- Hiển tự nhủ - có thể như thế được lắm !
Tiếng anh cán bộ hỏi:
- Anh có biết trung đoàn pháo binh Lê K?
- Trung đoàn của con bà Cát Hanh Long chứ gì?
- Chính hắn ở trung đoàn đó, trung đoàn có nhiều người tự tử
nhất trong khóa bảy.
- Sao lại tự tử?
- Chuyện còn dài; thôi anh đi ngủ đi.
Hai người chia tay lặng lẽ, Hiển vào giường nằm, nhưng nào
chàng có ngủ được.
Hôm sau, Hiển được biết tên anh đã học khóa bảy đó là Kha.
Buổi chiều Hiển thấy Kha chợt reo mừng chạy ra cổng trại đón
một tốp mới chín người. Đôi bên nói nói cười cười ra vẻ quen thuộc nhau lắm.
Sau buổi sinh hoạt tối, Hiển lại gặp Kha ngoài hiền.
Kha nói:
- Có thêm chín anh học khóa bảy đã về tới biên giới, phải
quay lại đây để theo lớp chỉnh huấn mới.
- Sao vậy? - Hiển hỏi.
Kha lại hỏi Hiển:
- Khi anh đến đây có qua cầu Thanh Thủy không?
- Có cầu Thanh Thủy cách chừng mười lăm cây số về phía Bắc Hà
Giang.
Kha gật đầu:
- Vì các "tướng" này về đến cầu biên giới đó, ném cả
tài liệu hồ sơ sổ sách xuống cầu nên phải quay lại đây học thêm ba tháng để đả
thông tư tưởng.
- Sao vậy?
- Câu chuyện còn dài, thôi đi ngủ đi!
II
Câu chuyện còn dài, thôi ngủ đi !
Tưởng rằng hôm sau Hiển sẽ được Kha cho biết đầu đuôi
"câu chuyện còn dài" đó. Nhưng không, lục quân khóa tám bắt đầu khai
giảng, Kha và Hiển được biên chế vào cùng đại đội nhưng ở hai trung đội khác
nhau. Vì là cựu học viên của khóa bảy nên Kha ở thế "dé chân chèo", nửa
là học viên khóa tám, nửa là cán bộ phụ trách ban văn nghệ của hiệu bộ (văn
phòng ban giám đốc trường). Những buổi đầu khai giảng, cả cán bộ lẫn học viên đều
bận túi bụi, một tháng sau mới điều hòa xong mọi hoạt động trong trường. Và
cũng cho tới lúc đó, Hiển mới bắt đầu được Kha kể cho nghe "câu chuyện còn
dài" trên, kể làm nhiều lần vào những giờ đi tuần trong đêm khuya hoặc những
giờ cùng nhau vào rừng kiếm củi.
Sau chiến thắng Cao Bắc Lạng, trường lục quân Trần Quốc Tuấn
dời khỏi Thái Nguyên chuyển sang Côn Minh (Vân Nam) để tránh nạn phi cơ oanh tạc,
địa điểm ở Phụng Minh Thôn. Hết khóa sáu, sang tới khóa bảy, thì cơ sở cho các
ngành bộ binh, công binh, pháo binh đã được thiết lập quy củ đâu vào đấy.
Khóa bẩy học yên lành được nữa chương trình thì viên sư đoàn
trưởng cố vấn bèn khuyên thiếu tướng chính ủy Trần B. nên đem kinh nghiệm Trung
Hoa áp dụng vào trường lục quân Việt Nam. Đó là kinh nghiệm phát động phong
trào "tam phản". Theo sư đoàn trưởng cố vấn thì trước đây nhờ có
phương pháp tam phản mà đảng Cộng sản Trung Hoa đã khám phá ra biết bao thành
phần phản động từng trực tiếp hoặc gián tiếp làm gián điệp để phá hoại Đảng. Lịch
trình cuộc học tập đó như sau:
- Thoạt tiên đương sự tự bộc lộ mình đã nghĩ điều gì, làm điều
gì qua từng biến cố.
- Các đồng chí trong tổ tâm giao, trong tiểu đội, trong trung
đội sẽ căn cứ vào những lời đương sự tự tố cáo đó mà nêu nghi vấn rồi chất vấn
để soi tỏ đường đi mà tìm ra căn bệnh. Có mấy căn bệnh chính là: cầu an, hưởng
lạc, giao động, hủ hóa ...
- Cấp lãnh đạo sẽ căn cứ vào kết quả trên, dùng "ánh
sáng lý luận Mác Lê" mà quyết định thành phần đương sự.
Việc kiểm thảo nhân sinh quan theo ba đợt như trên áp dụng
sang trường hợp Việt Nam sẽ lấy năm 1945 làm mốc phân chia hai giai đoạn: từ
1945 trở về trước là xã hội cũ, từ 1945 trở lại đây là xã hội mới. Các đảng
viên cốt cán được chỉ định vào ban nghiên cứu học tập. Việc làm đầu tiên của
ban này là lập một bản "danh sách đen" ghi sẵn những người thuộc
thành phần nặng tội lỗi nhất (là theo ý kiến của ban đó) để chuẩn bị đưa họ lên
"bàn mổ" (nghĩa là đưa họ ra kiểm thảo). Ban nghiên cứu học tập còn bố
trí sẵn những câu hỏi "phản phúc" (hỏi đi hỏi lại), học tập trước
thái độ nên phản ứng ra sao để đối phó với tùy từng đương sự. Ban nghiên cứu học
tập lại khôn ngoan chỉ định một số đảng viên xung phong lên "bàn mổ"
trước làm "người điển hình", có tác dụng chuẩn bị tinh thần học tập
cho những người sau.
Phong trào tam phản bắt đầu!
Khẩu hiệu căng khắp nơi nhắc nhở sự quan trọng của phong trào
tam phản. Tất cả mọi phương tiện đều phục vụ cho phong trào tam phản! Mỗi tiểu
đội học tập ở một nhà riêng, tuyệt đối không ai được nói chuyện với người ngoài
tiểu đội mình.
"Người điển hình" vào ngồi căn phòng nhỏ xung quanh
quay vải đen, ôn lại quãng đời dĩ vãng hồi tiền cách mạng để bắt đầu viết bản
phản tỉnh thư dưới ánh đèn dầu loe loét. "Người điển hình" đi chân
không, mặc áo không cài khuy, mặc quần không giải rút, ăn cơm lạt, vẻ mặt giáng
người đau đớn, sầu khổ, thiểu não vì hối hận cho những tội lỗi xưa của mình.
Có người điển hình tự tố cáo đã ba lần rắp tâm đầu hàng địch:
kháng chiến gian khổ quá, thà làm tù binh địch một thời gian, rồi được trở về
quê quán ở vùng tề còn hơn.
Có người điển hình tự tố cáo đã từng làm chỉ điểm cho địch bằng
cách treo ngửa gương trên ngọn cây để phi cơ địch biết mà oanh tạc.
Có người điển hình tự tố cáo, ôi ghê tởm, đã có ý tưởng ngủ với
em gái. Trong buổi kiểm thảo này người đó nói một hồi rồi lại ngất đi ... nói một
hồi rồi lại ngất đi ... ngất thật sự! Sau cùng đương sự đứng lên kết tội xã hội
cũ đã làm con người sa đọa đến cùng cực, ca ngợi xã hội mới với "ánh sáng
Mác-Lê" đã dìu nhân loại từ vực thẳm tội lỗi lên đến đỉnh non cao của đạo
đức.
Xin mở một ngoặc đơn để ghi chú ngay đây là chỉ sáu tháng
sau, vào dịp học tập lại những sai lầm của phong trào tam phản, chính những người
điển hình lại thú nhận ra những tội lỗi trên hoàn toàn chỉ có trong tưởng tượng;
họ cho rằng càng tưởng tượng ra được những lỗi tầy trời càng chứng thực được kỳ
công khắc phục lòng tự ái, tự giải phóng khỏi cá nhân chủ nghĩa, chỉ còn biết
trung kiên phục vụ Đảng. Có thể là tội lỗi tưởng tượng, nhưng họ đã hối hận thật,
bởi họ tin tưởng rằng xã hội cũ đầy rẫY nhưng tội lỗi như thế mới phải, mới
đúng. Không nhìn thấy những tội lỗi do xã hội cũ gây nên ở chính bản thân là
chưa giác ngộ, chưa thấm nhuần tư tưởng Đảng. Lẽ nào một cán bộ được Đảng tín
nhiệm đến đề cử ra làm người điển hình, mở đầu phong trào tam phản mà lại chưa
thấm nhuần tư tưởng Đảng?
Các người điển hình đã thi đua tưởng tượng để tự tố cáo một
cách hùng hồn những tội lỗi nặng nhất chính là vì thế.
Sau những người điển hình đến những người có tên ghi trong sổ
đen. Đây mới là nạn nhân chính, những đích chính của phong trào tam phản.
Có những cán bộ trước là du kích nằm trong vùng địch, có những
cán bộ đã từng bị phòng nhì của địch bắt được và tra tấn đến chết đi sống lại,
có những cán bộ từng vào sinh ra tử trong bao nhiêu chiến dịch đã được tặng
huân chương chiến sĩ hạng nhất ( trong số đó phần lớn đã là cán bộ chi ủy viên
của Đảng) vậy mà trước những câu hỏi lục vấn lăng líu ngu xuẩn: "Tại sao
thế này, vì sao thế nọ" họ cũng bị đưa dần đến thái độ lúng túng, thái độ
của "kẻ phản cách mạng đã bị lột trần mưu mô". Mặc dầu đương mùa đông
tuyết phủ, có những anh bị lột hết quần áo ngâm nửa giờ xuống nước lạnh rồi cứ
trần truồng như vậy cổ đeo bảng "phản cách mạng" đi diễu trước đám
đông đủ các học viên và nhân viên hiệu bộ, trai có, gái có (trong số những nhân
viên hiệu bộ có một số phụ nữ Trung Hoa). Điểm kỳ dị nhất chính là ở chỗ ban
lãnh đạo học tập đã khéo giữ được hai bề mặt hoàn toàn mâu thuẫn ở cùng một buổi
học tập. Đương sự làm bản phản tỉnh thư, các anh em đồng đội thông cảm phản tỉnh
thư rồi nêu nghi vấn, chất vấn, sỉ vả hành hạ cho điêu đứng ê chề ... Sau buổi
kiểm thảo đương sự được vỗ về nhắc nhở cho biết là có tự bộc lô như vậy, có bị
anh em đồng đội hành ha như vậy mới tẩy rửa được tàn tích nô lệ cũ mà phục vụ Đảng,
phục vụ nhân dân.
Đã được giải thích như vậy, nếu buổi kiểm thảo xong nạn nhân
cười nhạt tức là trong lòng còn tàng trữ một tư tưởng phản động nào chư bộc lộ.
Tiếp tục tam phản tìm căn nguyên mới!
Nạn nhân mà tức uất đến phát khóc ấy là hèn hạ và còn tư tưởng
oán Đảng để có thể phản Đảng sau này. Tiếp tục tam phản để tẩy não!
Nạn nhân mà im lặng là ngoan cố. Tiếp tục tam phản để khai
thác thêm căn bệnh!
Thường khi buổi kiểm thảo dứt, nạn nhân muốn gục xuống tại chỗ
vì cảm thấy cả thân thể lẫn tâm hồn bị nhão đừ, gương mặt chĩu nặng u sầu như
người vừa hay tin cả nhà bị tử nạn.
Chưa thoát! Tinh thần sau buổi kiểm thảo chưa được phóng
thích buông xuôi. Nếu sau buổi kiểm thảo mà ăn ngủ như thường ấy là có thái độ
nhơn nhơn với tội lỗi, ăn ít hay bỏ ăn là kém thành thật, còn tiềm ẩn tư tưởng
oán hận. Phải làm sao vẫn đau khổ thấm thía, đau khổ vì hối hận, vẫn niềm nở
chào hỏi anh em, có thể xuống sân vui vẻ gia nhập một sét "vô lây".
Sau đó lại lập tức đi vào căn phòng căng vải đen, ngồi dưới ánh đèn dầu leo
lét; tiếp tục ôm đầu suy nghĩ, tìm thêm hành động tội lỗi để chứng minh cho tư
tưởng tội lỗi ngõ hầu giải đáp được một số nghi vấn chính đáng của anh em đồng
đội đã giúp mình đối chiếu bệnh trạng trong những ngày qua; rồi thành khẩn hý
hoáy viết thêm những trang mới để bổ khuyết cho bản phản tỉnh thư cũ.
Tất cả những công việc đó kể cả khi phải tạm ngừng để đi sau,
đi tiểu đều đặt dưới sự canh chừng gắt gao của tổ tâm giao.
Tới một giai đoạn kia, nhiều người bị dồn vào thế cùng và
nhân một lúc giây thần kinh bị căng thẳng đến cực độ bèn cho bùng nổ công phẫn,
như quả mìn bùng nổ dưới sức nặng của chiến xa và thét lêN:
- Ừ tao phản cách mạng !
- Ừ tao là bí thư của Vũ Hồng K. !
- Ừ tao là phản gián cho phòng nhì Pháp!
- Ừ tao chiến đấu vì cá nhân chủ nghĩa, vì anh hùng chủ
nghĩa!
Lê K, con bà Cát Hanh Long, khi đó còn đương là phó chính ủy
lãnh đạo học tập.
Sau cái chết thương tâm của Đồng (sẽ được thuật lại sau đây)
phong trào tự sát bắt đầu và trung đoàn Lê K. nổi tiếng là trung đoàn có nhiều
người tự sát nhất. Đã có kẻ dùng giây thừng tự tử; đã có kẻ bẻ vụn những lưỡi
dao cạo râu mõng hòa với nước uống, rồi ra sân chơi bóng rổ, được nửa cuộc thì
gục xuống chết ...
Để ngăn phong trào tự sát, chính trị viên tiểu đoàn Hoàng Q.
bèn chỉ vào xác một nạn nhân cuối cùng thét mắng:
- Quân phản bội! Quân trốn nợ nhân dân! Các đồng chí hãy quẳng
xác nó lên đồi!
Xác nạn nhân được quẳng lên đồi. Qua đi một đêm, sớm hôm sau,
khi được phép chôn, anh em đồng đội lên tới nơi thì chỉ còn thấy những mảnh áo
rách tơi tả kéo lê dưới mặt đất, vướng một ít vào bụi cây thấp ven thung lũng:
sài cứu - một giống chó rừng - đã tha xác chàng thanh niên Việt xấu số đó xuống
tận đấy thung lũng sâu và xa dưới kia!
U uất, căm hờn chất thành núi thành non mà phải ngậm miệng! Kể
cả giữa đôi bạn tâm trí nhất cũng không ai dám hé miệng thổ lổ với ai một lời,
bởi ai nấy sợ nhỡ sẩy miệng đến tai Đảng, Đảng căn cứ vào đấy đặt lên bàn mỗ
tam phản thì thực là tàn cả một đời.
Trong cảnh "tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây" đó
có hai chuyện đáng được thuật lại, một vào lúc mở màn cực kỳ thương tâm, một
vào lúc gần hạ màn nhiễm tính chất bi hài.
CHƯƠNG IV
ĐÔI BẠN NHỎ
I
Câu chuyện thương tâm là câu chuyện giữa hai cậu nhỏ Uy và Đồng
thân nhau hơn ruột thịt mà rồi một bên lỡ lầm ...
Trước ngày bùng nổ cuộc kháng chiến toàn quốc - 19-12-46 cha
Uy đã bị công an Việt Minh bắt, người ta tình nghi ông có dính líu với Quốc Dân
đảng. Gia đình còn lại hai mẹ con, tản cư lên Phú Thọ. Ở đây mẹ Uy lúng túng vì
sinh kế đành gửi Uy vào "trại thiếu nhi bác Hồ". Nhưng bà đã gửi nhầm
Uy vào đoàn trẻ thuộc Cô nhi viện phố Hàng Bột, Hà Nội nay tản cư lên đây. Khi
Pháp nhảy dù Phú Thọ, mẹ Uy chạy xuống xuôi - Việt Trì - còn Uy theo đoàn ngược
Thanh Ba, ngược Vũ Yển, ngược Phê Đình, ngược Âm Thượng tới Văn Phú, dừng lại ở
đây. Uy hoàn toàn mất liên lạc với mẹ từ đấy.
Trên con đường di chuyển từ Phú Thọ ngược đến Văn Phú, Uy làm
quen với Đồng rồi tình thân nảy nở rất chóng giữ đôi trẻ nhỏ.
Đồng thực sự là trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ, được nuôi trong cô
nhi viện từ thủa còn phải ẵm ngửa.
Tới văn Phú đoàn thiếu nhi tự sửa soạn lấy nơi ăn chốn ở. Tại
Văn Phú cũng như tại Phê Đình, Âm Thượng, hai bên bờ sông chỉ thấy ngút ngàn ruộng
mía, đây đó là mái tranh xám của những nhà quay mật. Quanh nhà quay mật, bã mía
phơi khô chất thành những đống lớn như đống rơm ở vùng xuôi, ruồi nhặng bao phủ
trên đó như cả một sư đoàn chiếm trọn khu đồi trọc dưới một mô hình nhỏ; thỉnh
thoảng thấy động chúng bay vù lên tiếng ve ve dào dạt rộng lớn, qua đi một vài
giây chúng lại đậu xuống tựa như con nào về nguyên chỗ cũ của con ấy, chỉ còn lại
tiếng bước chân trâu theo vòng tròn kéo mật và tiếng máy nghiến mía kin kít tự
bên trong vọng ra đều đều. Buổi trưa mùi bã mía khài khài bốc hơi dưới nắng tỏa
ra ôm lấy khu nhà, trong khi mùi mật nồng nàn bốc lên từ lò lửa bên trong.
Buổi chiều Uy và Đồng ra sông tắm. Đồng mới võ vẽ biết bơi,
Uy dắt tay Đồng lội xuống nước lần theo bãi cát thoai thoải. Chợt bàn chân Đồng
gặp phải khoảng bùn trơn nhày nhụa rồi sao vào một khoảng hoắm sâu như giếng.
Vì mất đà, Đồng ngã sấp xuống bị cuốn theo dòng, Uy nhào vội ra túm được một
cánh tay bạn rồi Uy cố lựa theo dòng nước bơi vào phía trong, một chân tầm
phòng trên mặt nước, một chân quờ quạng bên dưới để xem đã đến quãng nông chưa.
Mấy lần chân Uy vừa chạm vào cát thì dòng nước như một cánh
tay lực lưỡng và quái ác lại du Uy ra xa để gặp khối nước sâu lạnh như băng bên
dưới. Chắc là Đồng đã uống nhiều nước mà Uy thì cương quyết giữ chặt lấy tay bạn
hy vọng rạt vào một quãng nông nào rộng hơn. Chợt có một cánh tay khác lực lưỡng
hơn cánh tay của dòng sông, cánh tay đó phải dài lắm vì quàng được cả hai đứa.
Đồng, Uy cùng ngửa mặt thở không khí vì cả hai được lật ngửa kẹp vào giữa cánh
tay và khoảng xương háng của người cứu.
Thoáng một phút sau thân hình lực lưỡng đó đã nhoai tới khoảng
nông, nước chỉ vừa ngập đầu gối, cánh tay lực lưỡng dựng Đồng, Uy đứng thẳng
lên, rồi theo sau một tiếng thở phào là giọng nói khàn và ấm của một ông già:
- Tí nữa các cháu chết nhé!
Còn run cầm cập Đồng, Uy ngẫng lên nhìn ân nhân. Đó là một cụ
già trạc trên sáu mươi tuổi nhưng còn vạm vỡ lắm, khuôn mặt cụ nếu đều đặn ra
thì hình trái soan nhưng vì má hóp xuống (chắc hẳn vì mấy chiếc răng hàm rụng)
lưỡng quyền nhô lên, chiếc cằm càng nhọn với mấy sợi râu màu muối tiêu khiến bộ
mặt cụ phảng phất giống một trái vải chín mõm. Đặc biệt cụ bị hói cả một khoảng
từ trán đến gần đỉnh đầu, da khoảng đó nhẵn bóng như sẹo. Khoảng tóc còn lại
hai bên và phía sau cũng đã hoa râm và không được nhiều nhặn gì cho lắm.
Cụ nhìn hai đứa trẻ lúc đó đã cùng cụ lên tới bãi cát. Đôi mắt
sáng cương quyết một cách thuần hậu, nụ cười còn thuần hậu hơn, cụ hỏi:
- Quần áo của các cháu trên bãi cát đằng kia phải không?
Đồng, Uy gật đầu.
Cụ nói:
- Đứng đây chờ bủ chạy lại lấy cho nghe!
Lát sau Đồng, Uy đã ngồi sưởi bên lò mật của Bủ Tôn, tên cụ
già (miền này chữ "bủ" có nghĩa như ông hay cụ miền xuôi).
Lò mật của Bủ Tôn ở ngay bên bờ sông, còn nhà thì ở chân đồi
cách đấy chừng ba trăm thước. Về trại, tối hôm đó trước khi đi ngủ, Đồng nắm lấy
tay Uy nói:
- Anh em mình khi vui khi buồn có nhau nhỉ.
"Khi buồn" đây Đồng muốn ám chỉ tai nạn suýt chết
đuối ban chiều.
II
Dân chúng Văn Phú vẫn thường nhắc đến con hổ thọt đã tác họa
cả vùng Tuyên Quang, Phú Tho, Yên Báy khoảng bốn mươi năm nay. Khoảng mười năm
đầu - hồi nó chưa bị thọt - riêng vùng này, có tới mười người bị nó vồ, như vậy
trung bình mỗi năm một người bị nạn cọp. Rồi đồn điền Văn Phú được mở mang giồng
chè, sơn và trầu, chủ đồn điền là một người Pháp ưa săn bắn. Con hổ bị ông rượt
bắn trượt vào ngay năm đầu ( khi ông vừa tới Văn Phú), nó thành hổ thọt từ đấy
và xuất hiện luôn quanh vùng, có năm tổng số nạn nhân lên tới ba hoặc bốn người.
Nó tăng cường hoạt động để trả thù? Tới đâu nó để lại hình tích: Ba vết chân lớn
to bằng chiếc mũ và vết chân phải phía sau nhỏ như bông sen hàm tiếu.
Rồi những chuyện hoang đường được thêu dệt trong dân chúng.
Người ta nói hổ thọt đã thành tinh, từng hiện hình người vẫy nạn nhân vào bụi rồi
mới hiện thành hổ mà vồ. Có lần - vẫn theo truyền thuyết hoang đường của dân
vùng này - nó bắt chước tiếng mẹ gọi con; người con "dạ" một tiếng, vội
vã mở cửa ra, bị nó vồ liền và cấu ngay vào yết hầu ( đã thành tinh nên vồ ai
là nó biết cấu ngay vào yết hầu để hết kêu).
Bốn mươi năm qua ... hổ thọt còn sống như thường. Hổ thành
tinh hẳn không thể già yếu đi được, dân chúng nghĩ thế. Mà có già yếu thì nó đã
biết lột để trở thành cường tráng như xưa.
Đồng, Uy đâu có ngờ những chuyện về con hổ thọt thành tinh đó
lại có chút ít liên lạc đến cái đầu hói của ân nhân chúng là bủ Tôn. Ngày đó bủ
Tôn mới khoảng ba mươi tuổi, anh em bà con còn gọi là đoàn Tôn.
"Đoàn" là một chức vị trong hàng xã, ai cũng có thể bỏ tiền ra mua để
được miễn tuần đinh, cũng như ở miền xuôi người ta mua "xã" mua
"nhiêu". Một hôm đoàn Tôn vào rừng hái củi được nửa chừng thì lên cơn
sốt nhưng vẫn cố tiếp tục chặt cho đủ gánh. Anh Đoàn lại không quên kiếm thêm
ít măng tươi để lá nữa về nấu canh cho bầm (mẹ) sơi. Trời đổ cơn mưa lớn, sấm
sét vang động cả cánh rừng; anh Đoàn thấy ù tai, không phải vì sấm sét mà vì
cơn sốt đã lên tới cực độ. Đầu óc bỗng choáng váng, chân tay rời rã, Đoàn Tôn
chỉ còn kịp nhận thấy chiếc miếu nhỏ thấp thoáng gần đấy trong màn mưa, bèn gắng
rảo bước lại nằm vật dưới mái hành lang hẹp. Anh Đoàn ưỡn ngực oằn oại người và
rên một cách sảng khoái. Anh Đoàn thấy mình hiện thành con hổ trắng như chuyện
Tiết Nhân Quý xưa ở nhà nàng Liễu Kim Huê. Anh đập đuôi gầm lên một tiếng vì
trước mắt anh khi đó là con hổ thọt thành tinh. Loài hổ quái ác ăn thịt người
thành tinh thì cao quý sao bằng bạch hổ? Anh gầm thêm một tiếng nữa rền vang
thành sấm sét khiến con hổ thọt hoảng sợ chạy mất. Mệt, anh gục xuống, đầu vẫn
bừng bừng nóng. Bỗng thấy lạnh trên đỉnh đầu, anh ngẫng lên, con hổ thọt đã trở
lại lúc nào vừa thè lưỡi liếm. Anh đứng nhỏm lên hùng dũng và hiên ngang như một
thiên tướng khoác bào trắng, anh quật đuôi, gầm một tiếng còn uy nghi hơn tiếng
sét và làm lóe lửa một góc trời. Lần này hổ thọt chạy miết vào rừng sâu không
còn dám thò mặt ra nữa. Tiếng rên ngớt dần cùng với cơn sốt. Chiều ! Cơn mưa đã
tạnh, chỉ còn tiếng con suối lên cao đương xoáy cuộn lao mình ra sông Thao. Anh
đoàn Tôn đứng dậy, tâm thần bàng hoàng, chân tay bải hoải. Quần áo anh ướt đẫm
không phải vì nước mưa mà vì mồ hôi đổ ra trong cơn sốt như nung như nấu vừa
qua. Anh đứng dậy, lảo đảo tới chỗ kiếm củi khi nãy. Chiếc dìu của anh bị bao
phủ bởi một đống bọt trắng. "Hừm, nước dãi con hổ thọt chứ gì"! - Anh
nghĩ.
Anh chỉ xách có cái rìu về. Bầm chờ anh ở cửa. Anh về nhà
thay quần áo khô rồi nằm vật lên giường. Bầm nấu cháo cho ăn ăn. Mồ côi cha từ
nhỏ và là con một, anh vẫn được bầm thương chiều.
Ăn xong bát cháo, anh cúi đầu trầm ngâm một phút rồi mới nói:
- Bầm ạ, lúc nãy con gặp hổ thọt.
Bà cụ giật nẩy mình:
- Mày gặp hổ thọt? Mày không bị nó ăn thịt ?
Nụ cười anh Đoàn tuy mệt nhọc, nhưng bao hàm biết bao là
kiêu:
- Lúc đó con đương lên cơn sốt, tướng tinh con xuất hiện
thành Bạch Hổ. Hai lần hổ thọt đến gần, hai lần con gầm lên, lần thứ hai con hổ
thọt chạy mất hút vào rừng. Nó liếm lên đầu con một cái.
Bà cụ chắp tay trước ngực:
- A di đà Phật, thì trước sau tao vẫn bảo là tao cầu tự được
mày ở miểu Đức Bà. Mày là con Đức Bà. A di đà Phật, con Đức Bà tướng tinh Bạch
Hổ thì hổ thọt làm gì được?
(Miền này, ngay ven rừng cách bờ sông chừng một trăm thước,
có chiếc miếu cổ thờ bà Âu Cơ, tương truyền dựng lên tự thời Lý cùng với chiếc
miếu nữa ở Yên Báy).
Tin anh đoàn Tôn tướng tinh Bạch Hổ đánh bạt hổ thọt lan đi rất
chóng khắp vùng, ai cũng lắc đầu le lưỡi. Anh lại bắt đầu rụng tóc. Một năm sau
anh hói từ trán tới đỉnh đầu. Trước các anh em trong họ ngoài làng, anh thường
đưa tay lên xoa khoảng hói đó và nói bằng giọng bình thản:
- Nó chỉ liếm có một cái mà tóc rụng hết, độc thế !
Anh vâng theo lời bầm lấy vợ nhưng được một năm thì vợ chết,
chưa kịp có con. Bầm cũng quy tiên. ANh cho rằng mình tướng tinh Bạch Hổ nên hiếm
con là phải và chẳng thấy chẳng nghĩ đến tục huyền nữa. Vả lại bầm mất rồi còn
ai đủ quyền giục anh việc đó?
Tính anh thẳng thắn, hay giúp đỡ nên được nhiều người vì nể
nhưng đôi khi cũng xảy ra sự xô xát có thể đưa đến ấu đả. Những lúc đó anh đứng
rạng chân, khoanh tay lại, uy nghi như Bạch Hổ và anh nói với địch thủ:
- Mày cứ giỏi vào đây, đến hổ thọt ông còn không coi vào đâu
nữa là mày.
Sự thực, nguyên sức vóc anh đoàn Tôn đã vào hạng lực lưỡng vạm
vỡ đáng kể, huống chi thành tích tướng tinh Bạch Hổ của anh với hổ thọt, bởi vậy
khi anh nói vậy, địch thủ thường tìm cách rút lui có ... trật tự.
Anh đoàn Tôn xưa, nay đã thành bủ Tôn rồi. Thấm thoát chóng
thế! Bủ Tôn vẫn ở căn nhà cũ ở chân đồi, ven sông, lại còn dư dật tiền hùn vốn
với mấy người cùng xã dựng lò kéo mật. Cuộc đời cô độc nhiêu khi cũng làm bủ
Tôn thấy buồn. Bủ yêu trẻ lắm, song nhà cửa vùng trung du này cách nhau xa quá,
lũ trẻ ít chịu đến chơi với bủ. Hàng ngày chúng chỉ đến tụ tập ở lò mật. Bủ thường
mùa nào thức nấy mang hoa quả ở vườn nhà đến cho chúng: chuối, quít, cam, nhãn
... Đôi khi gặp ngày phiên chợ bủ mua một ít bánh rán. Lũ trẻ đến bủ cho thêm
bát mật lò nhà để chúng thêm vào ăn cho thực ngọt đậm. Trẻ con thích ngọt mà!
Buổi chiều hôm đó nấu xong mẻ mật cuối cùng, bủ ra sông tắm
thì thấy hai đứa trẻ đương chới với giữa dòng. May mà bủ đứng phía dưới dòng
nên nhào ra đón kịp. Thoạt bủ tưởng chúng thuộc đoàn trẻ quen thuộc, hàng ngày
gặp ở lò mật, ai ngờ đó là hai thiếu nhi "trại bác Hồ" mới đến.
Đồng, Uy là những đứa trẻ biết nhớ ơn, nên kể từ đấy hằng
ngày cứ vào buổi chiều, khi chúng không phải làm gì nữa, chúng cố bớt chút thì
giờ đến căn nhà ở chân đồi thăm bủ một lát. Từ trại thiếu nhi đi tắt qua bãi
cát bờ sông đến nhà bủ chỉ chừng hai trăm thước là cùng. Hai "ông khách tý
hon" đó quen sau mà lại thăm bủ trước, chứ chẳng lười như lũ trẻ kia chỉ
biết chờ quà ở lò mật.
Bảo rằng Đồng, Uy là những đứa trẻ biết ơn cũng đúng, nhưng
cũng đừng quên vì bủ Tôn yêu trẻ nên mới có sức "nam châm hút sắt"
như vậy.
Ba mươi năm qua, bủ Tôn chưa hề quên chuyện tướng tinh Bạch Hổ
của mình đã từng làm bạt vía hổ thọt. Ngày nay không còn những chuyện gây gổ
như hồi còn trẻ, bủ không phải đứng khoanh tay hiên ngang như Bạch Hổ mà thách
thức ai. Trước anh em bà con thân thuộc thỉnh thoảng bủ chỉ đưa tay lên xoa khoảng
đầu hói nhắc lại câu bủ vẫn nhắc từ xưa:
- "Nó chỉ liếm có một cái mà tóc rụng hết, độc thế"!
III
Sớm hôm đó trời còn mờ mờ sáng mà Đồng, Uy cũng đã dậy. Đôi bạn
nhỏ rủ nhau vác hai ống bương dài ra sông kiê"m nước để về kịp giờ điểm
danh là vừa. Trước sau rồi cũng phải làm công việc đó, làm sớm còn hơn. Đường
đi còn giữ nguyên hơi mát thăm thẳm của ban đêm, bóng tối còn tràn ngập khe lạch.
Đồng, Uy khi đi ngang cầu tre nhìn xuống chỉ thấp thoáng thấy mấy dòng nước nhỏ.
Gió sớm phe phẩy, những bụi cây dọc theo lạch nước xào xạc một cách huyền bí.
Đồng theo đường mòn xuống sông trước. Bỗng tiếng Đồng thét
thanh:
- Trời ơi, hổ thọt, Uy !
Một luồng điện giụt làm tê ran khắp cơ thể, Uy nhẩy bổ xuống
với Đồng. Nguy biến đã thu hút đôi bạn nhỏ làm một chứ không tách rời.
Đồng chỉ tay xuống khoảng cát ướt ngay trước mặt giọng run bần
bật:
- Hổ thọt, Uy ơi!
Ba vết chân to bằng cái mũ cùng vết chân phải phía sau nhỏ bằng
bông sen hàm tiếu in hằn kia, rõ quá và mới như còn đọng ngấn nước ở từng vết.
Uy đứng sát Đồng, cả hai cùng dựng ống bương về phía trước
như vừa dùng nó làm mộc che lại vừa dùng nó làm dáo để chuẩn bị chiến đấu.
- Nó vừa ra đây uống nước - Uy nói - thấy động nhẩy vội vào bụi
cây khe lạch, chắc thế!
Mấy bông cỏ đuôi chồn - Đồng nhìn - ở ngay khoảng khe lạch phất
phơ như nhịp theo với bước chân vô hình. Mấy bông cỏ đuôi chồn ấy - Đồng nghĩ -
mà chụm lại thì thành đuôi con hổ thọt.
- Phải gọi bủ Tôn! - tiếng uy nói ăn khớp với ý Đồng nghĩ.
- Phải bước giật lùi - vẫn tiếng Uy - nó đương rình, hễ quay
lưng lại là chết với nó.
Đôi bạn lùi nhanh mấy bước, bốn mắt dán lấy bụi cây khe lạch,
nín thở.
Tiếng Uy đã quyết định hét:
- Bủ Tôn, cứu chúng cháu!
Cùng với tiếng hét của uy, gió vừa xoay chiều thổi mạnh đưa cả
một mảng sông đập phải khúc quành thốt thành một tiếng gầm, nước bắn tung tóe.
Tiếng Uy hét hòa với tiếng sóng đó như một cái gì tượng trưng cho kinh hoàng lồng
vào một cái gì tượng trưng cho hung dữ.
Đồng liếc nhìn lại phía sau, mái nhà Bủ Tôn trông khá rõ
nhưng còn xa.
Đôi bạn lùi nhanh thêm một mạch nữa, tiếng Uy hét cương quyết
hơn:
- Bủ Tôn, cứu chúng cháu!
Có tiếng vang dập vào khúc quành của bờ đáp lại?
Không, ôi sung sướng, đó là tiếng của Bủ Tôn:
- Bủ Tôn đây ! Gì đấy, các cháu?
- Hổ thọt, bủ ơi!
- A .. Hổ thọt, có bủ đây!
Tiếng chân nhảy xuống bãi, tiếng chân chạy lại tưng bừng. Thoắt
thôi, bủ Tôn đã tiến tới, bủ còn cởi trần, hai tay không mang gì nhưng có bủ
bên cạnh Đồng, Uy cũng cảm thấy hoàn toàn qua cơn tai biến.
Đồng chỉ:
- Bủ trông vết chân nó kìa.
- Đích thị! - Bủ Tôn đáp rồi tiến nhanh lại cúi nhìn, rồi ngẩng
về phía bụi cây khe lạch vẻ thách thức.
- Các cháu ra kín nước? - Bủ hỏi giọng vang vang.
- Vâng! - Đồng, Uy cùng đáp.
- Cứ xuống kín nước đi, có bủ đây! - Bủ Tôn vẫn nhìn thẳng về
phía bụi cây khe lạch nói như vậy.
Đồng, Uy kín nước xong cùng bủ Tôn xếp thành hàng ngang lên
đường cái. Bủ Tôn luôn luôn án ngữ về phía bụi cây khe lạch, mắt luôn luôn dán
về phía ấy, thành thử trong khi đi quành như thế bủ Tôn bỗng có dáng điệu khuềnh
khoàng nghiêm trọng của một Samourai già đương vờn một địch thủ vô hình trong một
bụi cây dưới chân núi Phú Sĩ. Mặt trời đã ló rạng, ánh hồng xua bóng tối khỏi
khe lạch, dòng nước bên dưới tựa hồ rộng ra và tươi tỉnh như khuôn mặt đứa trẻ
ngủ đẫy giấc, mấy bông cỏ đuôi chồn phất phơ dưới gió sớm hiền lành.
- Bớ ... hổ thọt ... hổ thọt ... có ta đây!
Tiếng bủ Tôn vang lên, bủ cảm thấy tướng tinh của bủ đang bốc
khỏi đầu óc hiện thành Bạch Hổ. Tiếng bủ hét vừa rồi như có nhịp với tiếng gầm
vang của tướng tinh và con mắt tâm linh của bủ như trông thấy hổ thọt, kìa,
đang chạy miết ... chạy miết ...
Đến cổng trại.
- Các cháu vào nhé - bủ nói - bủ về. Có bủ không sợ! Bủ tướng
tinh Bạch Hổ mà!
Đồng, Uy đã về kịp giờ điểm danh. Đứng trong hàng, Đồng bỗng
nắm lấy tay Uy, vẫn nhìn thẳng, nói:
- Anh em mình khi vui khi buồn có nhau nhỉ.
Uy gật đầu mỉm cười. Đã ba tháng nay chung sống với Đồng ở trại
này, Uy nhận thấy cứ sau mỗi cơn nguy biến hoặc cực nhọc, Đồng lại nắm tay mình
nhắc câu đó.
IV
Ở Văn Phú bên những rừng mía ngút ngàn là tác phẩm của người,
còn một thứ ngút ngàn hơn, ngút ngàn đến như bất tận, ấy là rừng tre nứa. Tre nứa
phủ kín đồi núi, tre nứa phủ kín thung lũng, tre nứa phủ kín hai bên bờ sông,
do đó món ăn độc nhất của toàn "trại thiếu nhi bác Hồ" là măng tươi.
Với người thành thị măng là món ăn hiếm đắt và bổ nhưng ở đây măng nhiều quá,
thừa ứ nên có dư luận ngược lại: vì ăn măng nhiều mà sốt rét ngã nước! Thực vậy
trại thiếu nhi bác Hồ gồm chừng năm trăm em thì trên bốn trăm em mắc bệnh sốt
rét cách nhật, trong số có những em sốt rét nặng thành báng mà Đồng là một.
Uy đã lẳng lặng một mình đến nhà bủ Tôn hỏi về cách chữa báng
cho Đồng. Bủ Tôn nói khó gì, bủ có cách châm cứu. Thế là hôm sau Uy mang Đồng đến
để bủ Tôn châm cứu cho. Bủ lấy ra không biết là thứ ngải gì; bủ châm lửa, ngải
bén như than hồng, bủ đặt lên khoảng gần rốn Đồng rồi bủ úp lên một chiếc sừng
bò. Thoạt Đồng run lẩy bẩy vì sợ, bỗng Đồng hét: "Nóng quá bủ ơi!"
Bủ Tôn nắm chắc lấy hai cánh tay Đồng, nhưng giọng vẫn âu yếm:
- Chịu khó một tí cháu, thế mới khỏi báng!
Ba lần như thế để lại ba vết phỏng lớn đỏ ửng quanh rốn Đồng
như ba nốt đậu mùa đang mưng. Sau này, ba nốt đỏ đó thành ba cái sẹo xinh.
Ở nhà bủ Tôn về, Đồng đi khom lưng. Uy biết Đồng đau lắm. Về
tới trại khi Đồng nằm yên trên giường rồi, Uy khẽ nắm lấy tay Đồng êm đềm nói:
- Anh em mình khi vui khi buồn có nhau nhỉ?
Uy đoán nhắc câu nói đó như gãi đúng chỗ ngứa cho Đồng, Đồng
sẽ vui và chóng khỏi. Quả nhiên đôi mắt Đồng sáng lên, Đồng khẽ rên để vừa tỏ
ra đồng ý vừa cho quên đau.
Báng không khỏi, nhưng Đồng, Uy không kịp để ý đến điều đó vì
ngày tháng càng đen tối hơn. Phi cơ địch bắt đầu oanh tạc dữ. Một ngày biết bao
nhiêu lần kẻng báo động và tiếng bom dội rung chuyển cả vùng. Tiếng rú của những
chiếc Spitfire kế tiếp nhào xuống và tiếng liên thanh 12-7 giữ lấy hơi thở của
những người trú ẩn dưới hầm. Trại thiếu nhi vội di chuyển vào sâu hơn nữa, thoạt
tạm ở Phương Viên cách chỗ cũ chừng ba cây số. Một tuần sau, trại tiến thẳng tới
Hà Lương, cách chổ cũ đến mười cây, xung quanh toàn tre nứa và suối. Đồi núi
như bát úp. Mất hẳn chân trời! Chỉ có buổi sáng sớm là mát đôi chút, kể từ lúc
mặt trời cao bằng con sào không khí bắt đầu oi bức, tới trưa mùi tre, nứa, thân
chuối mục xông lên đến nghẹt thở.
Bệnh sốt rét chưa giết hại em nào, giờ đây, bệnh dịch tả xuất
hiện. Không có thuốc! Các em rụng như sung! Các em sống khiêng chôn các em chết.
Đêm hôm trước một bạn đồng đội còn nói chuyện với Uy, sớm hôm sau đã chết tự
bao giờ, đôi môi thâm méo xệch, đôi mắt khẽ hé thấp thoáng màu trắng dã.
Đồng, Uy chỉ còn da bọc xương. Uy giờ đây cũng có báng như Đồng,
cả hai tóc rụng gần hết chỉ còn lơ thơ.
May sao lúc đó có người lạ đến gặp ban giám đốc xin cho Uy về
với gia đình.
Nguyên ba Uy trước đây bị bắt tình nghi, nay đã được thả về
nhận công tác ở ngay ủy ban tỉnh PHú Thọ. Ông phải tích cực làm việc để tự
thanh minh. Mẹ Uy trải qua một thời gian lo buồn quá đỗi, mắc chứng tê thấp nặng
không thể đi xa được. Bà hay trại thiếu nhi hiện ở Hà Lương bèn nhờ ông chủ nhà
nơi bà tản cư, lên tìm đón Uy về giúp. Mới lần đầu gặp ông ngồi chờ ở văn phòng
ban giám đốc, Uy đã gọi luôn ông ta một cách thân mật là bủ. Uy đã quen thân với
bủ Tôn!
- Bủ làm ơn - Uy nói - nhận giúp cháu anh Đồng cũng là người
nhà, để anh Đồng cùng về với cháu.
Ông ta nhận lời. Lý lịch của Đồng đã mất, ban giám đốc còn nhớ
đâu Đồng là con mồ côi vào cô nhi viện Hàng Bột từ ngày ẵm ngửa? Vả lại trông dạng
Đồng, Uy khi đó mặt bủng da chì, bụng báng, tóc rụng, chân tay như cẳng que thì
cũng gần đất xa giời lắm, giữ làm gì?
Ban giám đốc cho cả hai ly khai trại về với gia đình. Đôi bạn
không quên tới chào từ biệt bủ Tôn.
Về tới nơi mẹ Uy ôm Uy khóc rồi bà ôm cả Đồng khóc; bà vừa
khóc vừa nói không ngờ có ngày cha mẹ con cái được đoàn tụ như thế này. Ba Uy
ngồi ngay đấy cùng với một cán bộ tỉnh đôi mắt quằm quặm xét nét; ông cố giữ vẻ
mặt nghiêm lạnh để tỏ rằng mình đã làm chủ được tình cảm.
Ba Uy có một người bạn thân làm y tá trưởng tại cơ quan tỉnh;
Uy, Đồng được uống thuốc trừ sốt rét, tiêm thuốc trợ lực. Hơn một tháng qua ...
cả hai khỏi sốt rét, khỏi báng, duy có Đồng còn giữ xung quanh rốn ba cái sẹo
xinh, kỷ niệm châm cứu của bủ Tôn.
Mẹ Uy chợt bị một cơn đau nặng, mê sảng. Ba ngày sau bà mất,
trước khi chết một giờ, bà tỉnh hẳn, rất sáng suốt, khi chết còn giữ vẻ hỷ hả
vì cha mẹ con cái được sống đoàn tụ. Ba Uy vẫn như có linh tính báo cho biết là
ông còn ở tình trạng bất an lắm, ông ưng cho Uy cùng Đồng đi nhận công tác xa.
Thời này nhiều địa phương nỗi tiếng về những vụ thủ tiêu khủng
khiếp do những hung thần khát máu gặp thời nắm được quyền sinh sát trong tay.
Liên khu ba, tại quán Âm Hồn giữa cánh đồng chiêm mênh mông
thuộc Phủ Lý, đêm đêm cán bộ ra xử án Việt gian. Một tên ngồi giữa cầm quyển sổ
ghi tên những người chúng cho là Việt gian, hai tên đứng hầu hai bên, một cầm
thanh long đao, một cầm kiếm. Cách bố trí ngồi và đứng như vậy là do chúng khiển
hứng theo bức tranh Quan Công ngồi xem binh thư, Quan Bình và Châu Xương đứng hầu
hai bên.
Sau một tiếng cồng rùng rợn, "Việt gian" được điệu
ra trước "ba tòa quan lớn". Lẽ cố nhiên những người khốn nạn này chỉ
được hỏi vài câu chiếu lệ, sau đó kiếm của "Quan Bình" hoặc thanh
long đao của "Châu Xương" được uống máu. Đau đớn thay, phần lớn nạn
nhân thuộc thành phần trí thức ưu tú của dân tộc.
Tại Liên khu Mười cũng vậy, khúc quành con sông Thao bên trên
ga Thanh Ba một chút có khoảng nước xoáy sâu hoắm thành vực, bờ sông chỗ này
cao vòi vọi và dựng đứng như bức tường, nhìn xuống thấy chóng mặt. Cả một mảng
rừng cổ thụ từ bờ sông ăn lấn vào chân đồi gần đấy; trên một cây đa cổ thụ giữa
rừng có tổ quạ khoang. Hễ đêm nào dân chúng xung quanh nghe tiếng quạ kêu bất
thường ấy là đêm tên chủ tịch tỉnh cho đốt đuốc xử trảm "Việt gian" rồi
quăng xác xuống khoảng vực sông. Tên này chủ trương "phòng bệnh còn hơn chữa
bệnh". Phòng bệnh có nghĩa là xử trảm những người đương bị tình nghi hoặc
trước đây đã bị tình nghi.
Sau chiến thắng Sông Lô và Bông Lau của ta, quân Pháp mở chiến
dịch càn quét miền đồng bằng Thái Bình, Nam Định, để trả thù, rồi lại có tin
chúng sửa soạn vượt Việt Trì lên càn quét Phú Thọ. Dân chúng hốt hoảng chuẩn bị
tản cư. Đồng, Uy đã về tới huyện Yên Thế (Bắc Giang) nhận công tác liên lạc
viên cho Ủy ban huyện sở tại Uy vẫn hy vọng có ngày trở lại Phú Thọ gặp ba, Uy
đâu có ngờ ... dân chúng rục rịch tản cư... "Phòng bệnh còn hơn chữa bệnh"
... Ánh đuốc bập bùng trong khu rừng cổ thụ ... Có tiếng quạ khoang kêu bất thường
... Và ba Uy, đêm đó, đã là một trong số mười nạn nhân bị quăng xác xuống vực.
V
Cơ quan hành chính huyện Yên Thế ở ngay xóm nhà lá thuộc đồn
điền bến Trăm, bên bờ sông Thương. Thời Pháp thuộc, bến Trăm là nơi buôn gỗ khá
sầm uất. Gồ từ trong rừng đóng bè chở ra chất cao như núi ở bến Trăm. Các thầy
đội kiểm lâm từ ngoài đồn Bố Hạ vào đây kiểm soát, bổng lộc kiếm ra trò. Đã có
nhà tư bản trù tính đặt máy cưa ở đây để xẻ gỗ thành ván rồi vẫn theo đường thủy
trở về Bắc Giang. Dự định đó chưa thành thì tác chiến.
Nếu thời bình, bến Trăm sầm uất về buôn gỗ thì thời chiến bến
Trăm sầm uất về cá cơ quan hành chính. Nguyên do vùng này đã bắt đầu chuyển
mình vào miền rừng núi, lại thêm là đầu mối của các đường giao thông giữa Yên
Thế thượng và Yên Thế hạ, giữa Yên Thế và Lạng Giang; có đường xuôi qua chợ Bằng
đến ga Kép về Bắc Giang; có đường ngược qua chợ Phổng gặp quốc lộ số Một đi Lạng
Sơn. Đồng, Uy đến nhận công tác nơi đây khi đó đương vào mùa mưa, con sông
Thương cuồn cuộn sóng, đêm ngày táp nước vào ven bờ phá hủy các bụi cây. Những
dòng suối đổ ra sông Thương thì thật là thất thường, những ngày nắng ráo nước lội
đến bắp chân, nhưng sau một trận mưa lớn lập tức nước tự dãy núi bên trong chợ
Phổng đổ ra ào ạt, suối sâu ngập nửa ngọn tre, nhiều khi cuốn phăng cả cầu
giây.
Đồng làm liên lạc viên giữa Ủy ban huyện với Ty Thông tin tỉnh
Bắc Giang, trụ sở đặt ở Vi Sơn, tức là dãy đồi đất ngay cuối rặng Kai-Kinh, đường
đi qua Đồi Hồng.
Uy làm liên lạc viên giữa Ủy ban huyện với cấp hành chánh tỉnh,
trụ sở đặt ở phía trong gần chợ Phổng, đường đi qua đồn điền Mai Chỉ Nam. Ban
ngày làm đầy đủ bổn phận, ban đêm Đồng, Uy ưa nhất những đêm mưa. Thoạt tiếng
mưa rơi hấp tấp lộn xộn trên mái lá như một khúc rạo vô tổ chức sau đó là âm
thanh rào rào đều đặn, hơi ấm của Đồng, Uy cũng vừa kịp tỏa ra dưới làn chăn mỏng.
Những lúc đó Uy thường nói với Đồng:
- Anh em mình khi vui khi buồn có nhau nhỉ?
Thâm tâm Uy nhắc vậy để riễu đùa bạn, nhưng Đồng thực thà cựa
mình nhìn nghiêng Uy trong bóng tối, gật đầu làm lung lay gối rồi nhắc lại bằng
một giọng thật là trịnh trọng:
- Anh em mình khi vui buồn có nhau!
May cho Đồng, Uy, trong thời gian công tác ở đây gặp được anh
thư ký ủy ban là một sinh viên cũ trường Luật. Hằng ngày khi thấy hai chú liên
lạc đã về đủ, anh lên tiếng:
- Chú Đồng, chú Uy đâu, ra học!
Anh đã tuần tự dạy Đồng, Uy đủ các môn toán, khoa học, sinh
ngữ ... từ dễ đến khó để cuối năm Đồng, Uy có thể đi thi Trung học Phổ thông.
Anh rất vui tính. Đây là lời anh thường tuyên bố với Đồng,
Uy:
- Cuối niên khóa hai chú có thi trượt - mà chắc chắn lần đầu
thế nào cũng trượt rồi - sang năm anh dạy lại y hệt như thế. Càng trượt nhiều,
sự học như cách mạng, càng chín mùi vì giàu kinh nghiệm.
Hết mùa mưa, nước rút dần để lại ngấn bùn trên ngang lưng các
bụi cây ven sông. Rồi những trận mưa ngâu dìu dặt rửa sạch ngấn bùn đó. Tạo hóa
nhường như ra công lau chùi vạn vật bằng những trận mưa ngâu.
Cuối thu, sông Thương chỉ còn là một dòng xanh êm chảy, nhiều
nơi nước sông chưa đến đầu gối, có thể lội từ bên này sang bên kia. Những ghềnh
đá lòng sông được dịp phô lên màu nâu sẫm sạch bóng. Cũng vào mùa này, sông
Thương về đến gần Bắc Giang thì gặp một dòng suối đục đổ vào, ngấn nước hai
dòng bên đục bên trong phân biệt rõ rệt ra đến một cây số xa, vì vậy mới có bài
ca dao bất hủ:
Sông Thương nước chảy đôi dòng
Đèn khêu đôi ngọn anh trông ngọn nào
Muốn tắm mát anh lên ngọn sông Đào
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh ...
Đồng, Uy cùng nghỉ giá cuối niên khóa đi thi mà gặp đề luận
Việt văn: "Anh hãy tả dòng sông mà anh thích", Đồng, Uy sẽ tả dòng
sông Thương, chắc chắn được nhiều điểm lắm. Nhưng đề thi trung học phải khó hơn
chứ, lẽ nào người ta chỉ đòi hỏi tả có một dòng sông ở tiểu học?
Cuối niên khóa, Đồng, Uy đi thi và trượt thật, đúng như lời
anh thư ký tiên đoán và anh dạy lại chương trình đúng như lời anh đã hứa. Học lại,
nhiều chỗ vở lẽ hiểu thêm, Đồng, Uy mới thấy đúng như lời anh nhận xét, sự học
như cách mạng càng thất bại càng được dịp nghiền ngẫm cho chín mùi.
Ai qua Việt Bắc vào những năm 1949-50 đều nhận thấy hồi đó đồng
bào thanh niên thiểu số miền này đi đâu vãn hẳn. Tới bản nào cũng chỉ thấy ông
già bà cả, phụ nữ và trẻ con. Thanh niên đã gia nhập bộ đội để thường xuyên quấy
phá, chặn đánh địch dọc theo đường số 4 ( chạy từ Móng Cáy theo biên thùy Hoa
Việt qua các tỉnh Lạng Sơn Cao Bằng). Quân đội kháng chiến đang lớn mạnh cần được
tăng cường gấp. Đồng, Uy thôi công tác liên lạc viên, gia nhập bộ đội vào dịp
này. Hai chú đã mười bẩy rồi !
Hai chú cùng được huấn luyện ở Thái Nguyên cùng được vực đi đột
kích địch ở mấy đường giao thông nhỏ miền trung du. Trong một trận giáp lá cà,
một bạn đồng đội của Đồng, Uy bò hớ hênh thế nào bị đạn địch bắn bay mất hạ bộ.
Được chở vào quân y băng bó anh bạn trẻ đó đã rên rỉ nói với y tá trưởng:
"Thưa đồng chí, em còn thiết gì đời nữa" !
Và sau này mỗi lần chuẩn bị đi đột kích, Đồng, Uy lại nhắc
đùa nhau: "Có bò thì khép đùi cẩn thận nhé, kẻo mất chân lý hạnh
phúc". Rồi nhìn nhau cười phá. Cả hai cùng đã lớn, vừa đến tuổi dậy thì!
Vui nhất và cũng đáng tiếc nhất là trận đánh lấy đồn Đông Khê
lần thứ nhất. Đánh một đồn quan trọng như vậy ( giữa Lạng Sơn và Cao Bằng) mà
bên nhà chỉ chết có hai người. Có biết cơ man nào là chiến lợi phẩm! Lẽ ra chiếm
đồn xong, lập tức phải thu dọn chiến trường mà rút lui mới phải; đằng này ban
chỉ huy thấy trời bảng-lảng về chiều cho rằng địch không dám nhảy dù cứu viện
nên để anh em đủng đỉnh nán lại. Ai ngời địch nhảy dù thật, quân ta rút lui còn
bị chúng truy kích đến mười mấy cây số, chiến lợi phẩm bỏ lại hết. Rõ hoài! Rồi
Hồng quân của họ Mao chiếm trọn Hoa Nam, lập đồn ở bên kia biên giới. Vào dịp
này bộ đội của Đồng, Uy có sang phối hợp tác chiến và một lần giải vây cho Hồng
quân trong một trận đánh rất oanh liệt, quân Tưởng vừa chết vừa bị thương trên
một ngàn. Sau chiến thắng này các chiến sĩ Việt nam thấy có tự tôn mặc cảm và
thấy mình thật xứng đáng là những con cháu của Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang
Trung.
Khi Hồng quân của họ Mao với sự trợ lực của các chiến sĩ Việt
đã chiếm trọn Hoa Nam lập đồn ở bên kia biên giới, Pháp phải tính chuyện rút gấp
khỏi Cao Bằng. Đồn Đông Khê bị quân ta chiếm lại lần thứ hai, lần này chiếm đứt.
Bông Lau! Bông Lau!
Rừng xanh pha máu.
Bông Lau! Bông Lau!
Ngàn đời lưu danh về sau.
Bài ca chiến thắng Bông Lau từ năm 1947 nay lại vang lên
trong đoàn quân có Đồng và Uy. Họ gôm hàng ngàn người tiến đến địa điểm trên.
Khi tới nơi, họ bí mật đào công sự đợi phục kích đoàn quân lê dương Pháp từ Cao
Bằng sắp rút qua.
Cảnh trí đèo Bông Lau - tiếng địa phương gọi là Đèo Lũng Vài
- có một vẻ đặc biệt ngoài những chiến công lịch sử của nó: một bên là khu đồi
trùng điệp thuần một giống lau mọc san sát, một bên là sườn núi đứng dựng như một
bức thành cổ đã bị thời gian tàn phá nhiều nhưng còn giữ được vẻ uy nghi của
nó. Bộ đội của Đồng, Uy nấp sau núi đó đã rót rất đúng những trái moóc-chê 8 ly
vào khúc giữa con trăn khổng lồ là đoàn lê dương của Pháp.
Đồng cười lớn:
- Uy ơi, anh em mình khi vui khi buồn có nhau nhỉ!
Uy nắm lấy tay Đồng cười theo.
Hai chú bé ở trại thiếu nhi, hai chú liên lạc ủy ban ở bến
Trăm nay đã là hai chiến sĩ, khuôn mặt có già dặn trước tuổi vì nắng gió nhưng
tâm hồn còn trẻ thơ.
Có tin hai đại tá địch bị bắt sống. Vài ngày sau tiếp tin
quân đồn trú địch tại Lạng Sơn cũng đã rút lui không kèn không trống. Việt Bắc
hoàn toàn được giải phóng! Tinh thần quân đội và nhân dân phấn khởi tới tối
cao. Đồng, Uy cùng được kết nạp là đảng viên vào dịp này để rồi cùng được cử
sang Tàu theo học lục quân khóa bảy.
Cũng kể từ đấy Đảng chuyển hướng hẳn. Cho rằng mình đã tuyệt
đối nắm vững ưu thế, thiên thời và nhân hòa, Đảng bắt đầu dời bỏ mảnh đất dân tộc
nhảy sang mảnh đất giai cấp đấu tranh.
VI
Nhân danh dân tộc trong một cuộc chiến đấu vì chính nghĩa thì
từng giải đất từng ngọn cỏ, từng thớ cây như có sự giao tình thắm thiết với người
chiến đấu và trăm ngàn vạn mớ lệch lạc đem tình dân tộc ra kê cũng thành vừa.
Nhảy sang mảnh đất khô cằn của gia cấp đấu tranh, lũ người lãnh đạo kia như lũ
chó thả mồi bắt bóng. Rồi trong thế chơi vơi vỡ lở, một mặt chúng bám lấy những
ưu thế dĩ vãng, một mặt chúng dùng đủ thủ đoạn mà củng cố lập trường. Thực thể
dân tộc là sự hiện diện mênh mông của lịch sử của thời gian, của không gian, cố
tình bưng tai bịt mắt phủ nhận thực thể dân tộc, kìa, hãy trông chúng bơi trong
ảo tưởng như bơi trong khoảng bọt ngầu trắng bập bềnh vì phải bội.
Trở lại chuyện Đồng, Uy vừa được kết nạp thì sang Tàu ngay
theo học Lục quân khóa bảy. Lòng hăng hái của kẻ mới được kết nạp đặc biệt thổi
bồng trí tưởng tượng lứa tuổi hai mươi của Đồng. Được chứng kiến "các bậc
đàn anh" tự giam mình trong phòng kín leo lét nog.n đèn dầu, viết phản tỉnh
thư, Đồng nghĩ ngay đến việc "xây dựng" cho bạn, vì sau người điển
hình, đến lượt Uy lên bàn mổ tam phản. Kể từ thưở biết nhau tại trại thiếu nhi,
rồi cùng đảm nhiệm công tác liên lạc ở bến Trăm, rồi vào sinh ra tử với quân đội,
đôi bạn đã cùng nhau có biết bao kỷ niệm và kỷ niệm nào phân tích theo "biện
chứng Mác-Lê" chẳng giúp Đồng tìm thấy được những uẩn khúc "phi cách
mạng" cần được khách quan tố cáo để xây dựng "nhân sinh quan cách mạng"
cho Uy?
Đồng nghĩ: Việc Uy hằng nhắc đến ba ở Phú Thọ khi công tác ở
bến Trăm há chẳng là triệu chứng của căn bệnh "gia đình chủ nghĩa"?
Như vậy làm sao Uy có thể hoàn toàn quên mình khi Đảng cần tới? Việc uy trước
đây từng luôn miệng ca ngợi vẻ đẹp của con sông Thương vào mùa mưa ngâu tháng bảy
há chẳng là căn bệnh yếu hèn của tụi tiểu tư sản? Trong chiến dịch Cao Bắc Lạng
vừa qua, việc Uy reo vui khi tìm ra đôi giày da chiến lợi phẩm vừa chân như in,
há chẳng tố cáo Uy còn nặng óc hưởng thụ, còn nô lệ cho cá nhân chủ nghĩa?
Còn nhiều ... nhiều nữa những kỷ niệm được Đồng phân tích thấy
khía cạnh phi cách mạng của nó. Nhưng đặc biệt phải kể đến cách Đồng phân tích
một giấc mơ gần đây của Uy khi phong trào tam phản chư bắt đầu. Uy mơ thấy cùng
Đồng đi qua một cánh đỒng chiêm một đêm đông không trăng không sao. Gió thổi mạnh
lắm, như ở trên đỉnh núi trông xuống đèo Bông Lau. Uy nắm lấy tay Đồng, cả hai
nép vào nhau, lội bì bõm, cùng tiến đến ánh đèn của một căn nhà lá tít đằng xa.
Căn nhà lá đó được dựng trên một gò cao, trong căn nhà lá đó người ta đương xay
bột và tráng bánh cuốn là thứ quà mà Uy rất thích và đã nhiều lần rủ Đồng cùng
ăn. Đi được nửa đường vừa bước lên quãng cao ráo thì có một đàn chó xô tới, Uy
rút ra một con dao ngắn. Mỗi lần Uy vung dao lên là một lần đàn chó lùi xa ra
và một con gầm gừ chạy quanh sát bên Đồng nhưng không cắn mặc dầu tay Đồng
không cầm gì. Rồi một người to lớn xuất hiện, người đó cầm thanh kiếm dài, đứng
chặn giữa đường ra lệnh cho Đồng, Uy phải trở xuống cánh đồng chiêm, không được
tiến tới căn nhà lá có ánh sáng ...
Ngày đó khi được Uy kể lại cho nghe giấc mơ, Đồng cảm động
cho tình bạn thắm thiết, nhưng giờ đây dưới "ánh sáng lý luận
Mác-Lê", Đồng đã giải thích với chính trị viên đại đội là Uy có tiềm ẩn tư
tưởng đầu hàng địch. Uy muốn kéo bạn dời khỏi cánh đồng chiêm - tượng trưng cho
cuộc kháng chiến gian khổ - về đất địch có căn nhà ánh sáng để được ăn sung mặc
sướng theo sở thích ...
Vì Uy và Đồng ở hai tiểu đội riêng biệt nên mỗi lời tố cáo của
Đồng đều được chính trị viên đại đội ghi lại rồi đem chất vấn Uy, bắt Uy phải bổ
khuyết thêm vào phản tỉnh thư.
Thoạt Uy không nhận vì không ngờ do Đồng tố cáo. Uy cho rằng
trong lúc vui câu chuyện Uy đã kể những kỷ niệm đó ra, rồi kẻ nào trong đại đội
nghe được bèn nhân dịp này đem tố cáo và giải thích xuyên tạc. Uy là người đầu
tiên trong số bị ngâm nước lạnh nửa giờ rồi cứ khỏa thân vậy đo bảng "phản
cách mạng" mà đi riễu trước toàn thể anh em. Tới tối kiễm thảo kia khi
nghe chất vấn về tư tưởng đầu hàng địch trong giấc mơ, Uy mới rõ người tố cáo
mình chính là Đồng. Uy cảm thấy gì? Giận hờn chăng? Tủi hổ chăng? Không rõ,
nhưng chắc chắn Uy vẫn thương mến Đồng và tất cả những kỷ niệm chung sống với Đồng
vẫn không hề vẩn đục. Thêm một điều: khi khám phá ra chính Đồng tố cáo mình, Uy
nhận hết những tội lỗi tưởng tượng cũ mà cho tới ngày đó Uy vẫn cương quyết bác
bỏ. Về phía Đồng, sau lần tố cáo cuối cùng (về giấc mơ) vào buổi trưa với chính
trị viên đại đội, rồi chứng kiến cảnh Uy khỏa thân đeo biển "Phản cách mạng"
(sau khi đã ngâm nước lạnh nửa giờ) ngay chiều hôm ấy, thì Đồng tưởng như chính
mình bị ngâm nước lạnh và có pha cả cường toan nữa. Sự hối hận của Đồng cũng thật
là kỳ quặc. Đồng không oán Đảng đã xui mình tố cáo bạn, nhưng Đồng cũng không
còn chấp nhận lý luận: hành hạ bạn là xây dựng cho bạn! Chỉ biết Đồng đau đớn lắm.
Nếu trí tưởng tượng hồn hậu của Đồng trước đây cho rằng tố cáo bạn là xây dựng
cho bạn thì giờ đây vẫn trí tưởng tượng trong trắng và đáng quí đó giữ nguyên
mãnh lực mà trở ngược chiều. Cái nhìn thất lạc tinh thần vì xấu hổ của Uy như
làm sụt khoảng đất đứng của Đồng.
Đồng lủi ra về nằm vật xuống giường, chuẩn bị sẵn câu nói dối
là mình bị sốt nếu có ai đến hỏi. Mà Đồng sốt thật rồi còn việc gì phải nói dối
nữa. Bệnh sốt rét cách nhật kinh niên vẫn thỉnh thoảng "đột kích" Đồng
cũng như Uy. Thoạt là rét, rét từ trong ruột rét ra, bao nhiêu chăn của bạn đắp
lên chỉ có tác dụng chắc gió chứ không làm cho người bệnh thấy ấm lên chút nào.
Sau cơn rét là cơn sốt nóng, nóng đến mê sảng, mồ hôi vã ra như tắm, chân tay bại
hoại, miệng đắng, lòng chán ngắt ...
Khi bắt đầu sang sốt nóng, Đồng nhớ lại cảm giác đất sụt dưới
chân khi Uy khỏa thân riễu qua ... Đồng ngã xuống sông, Uy nhảy theo nắm kịp
cánh tay ... Trời ơi, hổ thọt, Uy! Uy nhảy bổ xuống với Đồng. Nguy biến đã hút
đôi bạn nhỏ làm một - A ... hổ thọt ... hổ thọt có ta đây! Tiếng bủ Tôn vang
lên giữa rừng mía, rừng tre nứa ngút ngàn ... Những ngày ở Phú Thọ khỏi sốt
rét, khỏi bán nhờ cha mẹ Uy săn sóc ... Những ngấn bùn trên ngang lưng các bụi
cây ven sông Thương ... Những trận mưa đêm ào ạt phũ phàng .. Những trận mưa
ngâu dìu dặt ... - Có bò thì khép đùi lại, ha ha!
Hơi thở dồn dập miệng khô đắng, chán chường. Đồng nghển cổ với
chiếc bi đông ở đầu giường uống ừng ực, nước chè ngọt thỉu như nước luộc ngô. Đồng
rên khe khẽ ... lẫn trong tiếng rên như có tiếng nói của Uy "Anh em mình
khi vui khi buồn có nhau nhỉ" Ngày nay chỉ còn buồn ... một người buồn ...
và đau đớn thay, lại do người kia làm nên câu chuyện!
Có tiếng ồn ào ... cánh cửa mở toang.
- Đồng chí Đồng đâu? Đồng chí Đồng đâu? Trời ơi đồng chí sốt
à, thảo nào giờ ăn không thấy!
Chính trị viên đại đội ngồi xuống giường sát bên Đồng hỏi tiếp:
- Đồng chí về lúc nào? Có kịp chứng kiến lúc đồng chí Uy đi
riễu trước hiệu bộ và toàn thể anh em không?
Đồng khẽ gật đầu.
Chính trị viên đại đội đứng dậy, nắm tay Đồng dặn:
- Đồng chí cứ nằm nghỉ nhé, để tôi đi lấy thuốc cho.
Nửa đêm hôm đó khi anh em ở lớp học tập về, Đồng được biết
thêm tin Uy đã thú nhận cả tội lỗi ( Vì đêm đó mới kiểm thảo đến giấc mơ và đêm
đó Uy mới biết rõ Đồng tố cáo mình).
Hôm sau chính trị viên đại đội đến thăm Đồng rất sớm. Ba viên
thuốc ký ninh vàng y gởi đến hôm qua vẫn còn lăn lóc trên đầu giường. y nói:
- Trời ơi sao đồng chí chưa uống thuốc? Chết, phải uống chặn
ngay đi chứ không có mai đến ngày lên cơn rồi. Đây còn ba viên nữa cho ngày
nay!
Đồng liếm môi khô rồi nói:
- Em muốn xin đồng chí cho được gặp mặt Uy.
Chính trị viên vừa quan sát Đồng vừa đáp:
- Chết, như vậy sao được, đồng chí quên kỷ luậ học tập rồi
sao? Hai đồng chí ở hai tiểu đội hác nhau!
- Nhưng em cần được gặp Uy, gặp ngay! - giọng Đồng sắc gọn hầu
như không phải là lời yêu cầu nữa mà là một ý chí đòi thực hiện bất chấp hoàn cảnh.
Chính trị viên đứng dậy giữ nguyên nụ cười, nhưng nhìn Đồng e
dè hơn, một giây sau mới nói:
- Việc đó tôi sẽ quyết định và trả lời đồng chí vào trưa nay.
Chính trị viên đã ra tới cửa phòng còn ngoái lại:
- Đồng chí nhớ uống thuốc nhé, kẻo mai lên cơn nữa.
VII
Chính trị viên trở về hiệu bộ đem lời yêu câu của Đồng ra hội
ý hội báo. Ban lãnh đạo học tập thấy cần chìu theo ý muốn của Đồng để còn khai
thác thêm tài liệu về những căn bệnh điển hình của Uy. Buổi trưa, chính trị
viên giữ đúng hẹn đến gặp Đồng báo cho hay là Uy còn tiếp tục lên bàn mổ tam phản
nốt tối hôm đó nữa, sớm hôm sau Đồng sẽ gặp Uy với điều kiện hai người đứng
cách xa nhau sáu thước, ở giữa là chính trị viên.
Chính trị viên bỗng la lớn:
- Trời ơi, đồng chí vẫn chưa uống thuốc, đồng chí đãng trí
quá.
Đồng vội vã vớ lấy ba viên ký ninh vàng, nói giọng tuân phục:
- Vâng em uống ngay đây, uống liền ba viên để chặn cơn.
Chính trị viên gật đầu tỏ vẻ hài lòng, nhưng khi y vừa ra khuất,
Đồng đã giận dữ ném cả sáu viên ra khỏi cửa sổ.
Mãi đến trưa hôm sau, sau bữa cơm, đôi bạn mới được gặp nhau
y như điều kiện: đứng cách xa sáu thước giữa là chính trị viên đại đội. Cả hai
cùng im lặng, khuôn mặt cùng hốc hác tiều tụy. Uy nhìn Đồng dịu dàng thành thực,
nhìn rất lâu và không chớp như thể mở rộng cửa linh hồn cho Đồng nhìn vào. Rõ
ràng đôi mắt của Uy muốn nói: "Uy không giận Đồng đâu, không giận mảy may,
dù việc làm của Đồng trái hay phải". Đồng hơi mỉm cười để tỏ ra hiểu ý Uy
thì Uy đã mĩm cười ngay, có thể nói là Uy mỉm cười trước Đồng nữa, tựa một người
lanh tay giơ vội một cái gì để vừa kịp hứng một cái gì. Thế là ngay từ phút đầu
gặp nhau, sự hòa đồng đã hoàn toàn thể hiện trong một thứ yên lặng thần thánh
vươn lên cao, rất cao. Sự hiện diện của chính trị viên đại đội, cả Đồng lẫn Uy
đều coi như không có.
Chợt Đồng cúi mặt xuống ... Trở về thực tại của riêng mình,
đôi mắt Đồng thoáng một vẻ gì cương quyết. Vẫn cúi xuống như vậy, Đồng nói:
- Hôm nay tôi ... (Đồng ngừng lại nuốt nước bọt) tôi gặp Uy lần
cuối cùng.
Chính trị viên tuyên bố cắt đứt câu chuyện. Nhưng hình như
chính trị viên đã làm một việc thừa. Đồng đã quay đi, Đồng chỉ muốn nói có thế.
Trên đường đưa Uy về tiểu đội, chính trị viên khuyên Uy hãy nghĩ đến tình bạn
thiêng liêng của Đồng tỏ gương mẫu sau đợt kiểm thảo đầu tiên này và viết bản
phản tỉnh thư thực đầy đủ.
Ngược đường trở lại để gặp Đồng, chính trị viên nhẩm tìm lời
phê bình thái độ thiếu "cách mạng tính" vừa qua của Đồng. Tới nơi
không thấy Đồng trong phòng.
- Đồng chí có gặp đồng chí Đồng? - chính trị viên hỏi một học
viên vừa đi qua.
- Thưa đồng chí không ạ - lời đáp.
Chính trị viên thốt tiếng kêu khẽ: "Ô hay!" rồi tiến
thẳng về phía bếp. Bếp vắng tanh. Có tiếng người lao xao dưới suối. Chính trị
viên theo đường dốc xuống suối, ban cấp dưỡng rửa nồi, xanh, chảo ...
- Các đồng chí có gặp đồng chí Đồng vừa qua đây không?
- Dạ không ạ.
Chính trị viên đi ngược lại, tiến về phía cầu tiêu công cộng,
khi tới nơi, cất tiếng gọi:
- Đồng chí Đồng !
Im lặng !
Có tiêng còi xé không khí, tiếng còi tập hợp ! Chính trị viên
chạy về hiệu bộ. Tin lan ra, truyền đi từ các cửa miệng rất nhanh chóng. Đồng
đã vào bốt gác lấy đi một khẩu mút-cơ-tông có nạp đạn! (trong thời gian học tập
tam phản, tất cả súng đạn đều tịch thâu vào kho, trừ bốt gác). Thoạt Đồng tới
như thể một người ốm không có công tác, nhân lúc buổi trưa nhàn rỗi đến nói
chuyện với mấy người bạn quen. Nhưng rồi Đồng bất chợt ra về lúc nào, trên giá
súng một khoảng trống toang ngoảng: khẩu mút-cơ-tông có nạp đạn đã mất mà người
lấy không thể ngoài ai khác là Đồng.
Được tin dữ, Uy đã băng mình vào khu rừng thông phía Tây Phụng
Minh Thôn. Tiếng Uy vang lên ảm đạm như gió và mây buổi tàn đông ngày ấy:
- Đồng ơi i i i ...
Những con sóc đuôi sòe như bông lau hốt hoảng chạy trốn trên
những cành cao. Uy băng theo đường mòn, lội qua dòng xuối không lưu ý nước suối
lạnh như băng. Sang tới bờ bên kia, xét thấy bờ cỏ không một chỗ nào rập nát tố
cáo có người vừa đi qua, Uy đành quay trở lại. Thoắt thôi đã thấy bóng Uy chạy
miết trên con đường phía Bắc, rồi dáng điệu lật đật hơn dừng bước trước từng
căn nhà gianh:
- Đồng ơi i i i ... Đồng!
Tiếng gọi bồi hồi thổn thức. Một vài người dân áo chàm nhô ra
... Uy hỏi, người dân lắc đầu ... Uy lại chạy miết.
- Đồng ơi i i i ... Đồng!
Tiếng gọi từ đầu đường đất đỏ vọng lại chứng tỏ Uy đã bắt đầu
theo đường bờ ruộng lên từng bực thung lũng để đi vào khu rừng núi phía Đông có
loài sài cứu.
Trong khi Uy đi tìm Đồng thì một số học viên được cắt cử đi
tìm Uy.
VIII
Mùa đông - dù là cuối đông - tại Phụng Minh Thôn vẫn có những
ngày như ngày hôm đó, hoảng bốn giờ chiều gió thổi mạnh, mây đen từ phương Đông
ùn tới sà xuống thung lũng khiến vạn vật chìm trong một màu xám u ẩn tưởng như
chiều xuống đã từ lâu, người đãng trí có thể ngửng nhìn trời mong thấy ngôi sao
hôm quen thuộc.
- Đồng ơi i i i ... Đồng!
Tiếng gọi từ ba bề vọng lại xa lắm ... xa lắm ... Nhiêu khi
như lạc giọng đi để biến thành tiếng khóc nức nở của rừng núi và không ai có thể
phân biệt được là Uy hiện ở khoảng rừng phía Đông hay khoảng rừng phía Nam.
Cho đến khi tối hẳn ... Cuộc tìm kiếm không có kết quả! Người
ta rủ nhau đến mai sẽ tìm kiếm kỹ hơn. Nhưng với những người còn nhớ là Đồng ra
đi mang theo khẩu mút-cơ-tông có nạp đạn thì họ lo lắng ... họ nghe ngóng ... họ
chờ đợi .. và nếu có tiếng nổ trong đêm tối thì dù sao khi họ tìm được tới nơi
cũng đã muộn.
Buổi học tập ban tối tạm ngừng. Sự chờ đợi căng thẳng đến nửa
đêm, không thấy động tĩnh gì, nhưng khi mọi người, kể cả những người lo lắng nhất
chợp ngủ - lúc đó vào khoảng ba giờ sáng - chợt một luồng tiếng xôn xao chuyển
đi rất nhanh từ tiểu đội này sang tiểu đội khác, từ trại này sang trại khác, những
ánh đuốc bừng lên, những bước đi xao xuyến ...
- Tại một nhà chứa chuốc lá của dân ....
- Ừa sao ?
- Có tiếng thổn thức, người dân đến báo ngay.
- Có chắc là Đồng không?
- Chưa rõ, nhưng chắc! Còn ai khác nữa ?
- Quái, sao giờ này mới biết!
- Có thể là Đồng vừa ở rừng về, vì tiếng chó cắn đánh thức chủ
nhà dậy.
Uy cầm đuốc cùng người dân (người chủ nhà) đi trước, chính trị
viên dẫn tiểu đội thường trực theo sau. Nhà chứa thuốc ở ngay xóm đầu tiên, sát
bên đường đất đỏ cách bốt gác chừng năm trăm thước. Vừa tới nơi, Uy trao bó đuốc
cho người chủ nhà, một mình leo lên cầu thang gỗ. Cửa đóng. Bên trong im lặng.
Sáu bó đuốc dàn ra bên dưới. Con chó đen không sủa nữa, ve vẫy đuôi ngẩng nhìn
những bó đuốc như ngạc nhiên, thỉnh thoảng cúi xuống liếm chân chủ.
- Đồng! Uy đây Đồng ạ. Mở cửa cho Uy!
Tiếng Uy vừa đủ nghe, rất êm như muốn vỗ về, ngầm chứa một sức
mạnh khẩn cầu tha thiết.
Uy khẽ gõ cửa hit dài một hơi thở vừa toan cất lời khẽ gọi lần
nữa, thì bên trong, tít bên trong, tận phía cuối nhà, bỗng bật ra một tiếng
khóc nức. Rõ ràng Đồng đã phải bậm môi kìm giữ tiếng đó từ lâu lắm. Đôi mắt Uy
sáng lên, nụ cười nở rộng tràn ngập hy vọng. Đôi môi Uy tròn lại, yết hầu hơi đẩy
lên ... nhưng tiếng "Đồng" sau cùng Uy vừa thốt ra chính Uy cũng
không nghe thấy vì nó lẫn vào tiếng nổ, một tiếng nổ rùng rợn trong đêm khuya
mà tiếng vang từ ba bề đáp lại như để chứng tỏ rằng rừng núi cũng vừa choàng thức
dậy kinh hoàng cùng ánh đuốc lao đao. Cánh cửa mở toang dưới sức xô của Uy, đồng
thời Uy mất thăng bằng ngã chúi vào. Những bước chân dồn dập lên thang. Một bó
đuốc qua cửa soi cho bốn người dẹp vội những bồ thuốc (đã thái) và những đống
lá thuốc (chưa thái) sang một bên để lấy lối đi. Ánh đuốc tiến vội về cuối nhà.
Uy đã quỳ xuống ôm lấy xác Đồng. Đồng chết dựa lưng vào tường, chân trái duỗi
thẳng, chân phải hơi co, ngón cái còn lồng vào cò súng, mặc dầu, vì sức giật,
chiếc mút-cơ-tông đã lật nghiêng sang bên. Một mảng mặt vỡ toang nhưng vì Đồng
vừa chết nên sự kiện đó chưa đến nỗi ghê rợn, thoạt trông chỉ như một người bị
thương ngồi chờ băng bó. Dưới ánh đuốc, Uy chú ý thấy môi dưới Đồng còn vết
răng bậm sâu trước khi bật thành tiếng khóc nức hai phút trước đây, chân tay
còn nóng.
IX
Đó là vụ tự sát mở màn cho cả một chiến dịch tự sát sau này.
Vì là vụ đầu tiên nên ban chỉ huy học tập nương nhẹ tay. Học tập ngừng lại một
ngày - ngày chôn Đồng.
Buổi tối câm lặng và âm thầm, Uy ngồi trước bàn viết dưới ánh
đèn leo lét, những trang phản tỉnh thư kín đặc. Có tiếng hát từ trại xa vọng lại
bài "Mẹ nuôi chiến sĩ" lời ca mang máng như sau:
Bà ... bà mẹ ơi,
Bà đến cho đời thêm tươi
Bà ... bà mẹ ơi,
Lòng chúng tôi luôn nhớ người.
Nhìn về miền xa,
Nụ cười nở hoa ...
Thoáng nghe câu đầu của bài hát, đôi mắt Uy đương thẫn thờ bỗng
nhìn vào bóng tối để tìm một cái gì. Một kỷ niệm âm thanh đã gợi lên những kỷ
niệm hình bóng Uy nói khẽ: "Bài hát của Đồng",rồi gục xuống mặt bàn.
Đồng không bao giờ thuộc hết một bài hát nào. Trong những buổi
sinh hoạt, mỗi khi đồng ca, Uy thường mỉm cười nhìn miệng Đồng "a ... a
..." một cách ngượng ngập để nương theo giọng của các bạn. Nhưng đặc biệt
bài "Bà mẹ nuôi chiến sĩ" thì Đồng thuộc cả điệu lẫn lời từ đầu đến
cuối và hát luôn miệng nghe thật nhẹ nhàng thanh thoát, lột được hết cả sự rung
động thành kính. Nếu ai chưa biết Đồng, lần đầu tiên nghe Đồng hát bài này, chắc
chắn người đó sẽ không nghi ngờ gì mà liệt Đồng vào hạng danh ca quân đội. Uy
hiểu rằng âm điệu bài đó buồn buồn, ý nghĩa bài đó gợi lên mối tình mẫu tử xa
xôi, chính là những điều mà Đồng hằng khao khát trong tiềm thức.
Uy vẫn gục mặt trên bàn, hai bàn tay để sau gáy tự vít cổ xuống
cho tê dại khoảng mũi và trán. Như thế lâu lắm! Bỗng Uy cảm thấy bàn tay ai đặt
tên vai mình. Ngửng lên, Uy nhận thấy một người lạ mặt bằng tuổi anh trưởng
mình ( mặc dầu Uy không có anh trưởng), người đó quắc thước đôi mắt nhin thẳng
khỏe mạnh và chân thật. Uy thấy yên lòng. Đã cúi xuống nhìn trang giấy, (vì lúc
đó Uy luống cuống không biết làm gì hơn) Uy lại chợt ngửng lên chăm chú nhìn
người "anh trưởng" một lần nữa:
- Hình như em đã gặp anh ở đâu.
- Ở đèo Bông Lau!
- A, em nhớ ra rồi, anh ở ban địch vận.
"Người anh trưởng" mỉm cười. Uy hỏi:
- Anh ở đại đội nào? Sao anh lại đến đây, trái quy tắc học tập?
"Người anh trưởng thong thả ngồi xuống bên Uy đáp:
-Ban chỉ huy học tập ưng tôi đến thăm đồng chí. Tôi ở đại đội
ba bên kia đồi. Tôi là Hãng, đồng chí gọi tôi là Hãng.
Câu chuyện đầm ấm ngay từ đầu. Hãng và Uy ôn lại cái chết của
Đồng. Uy kể lại cho Hãng nghe tình bạn của Uy với Đồng từ ngày gặp gỡ. Câu chuyện
kéo dài đến một tiếng đồng hồ. Cả hai cùng không tự đặt câu hỏi xem vì sao
trong hoàn cảnh "sa mạc" của học tập tam phản ấy, ủy ban lãnh đạo lại
làm ngơ cho phép hai người dừng chân khá lâu ở "ốc đảo tình cảm" để
được hưởng những phút giây mát rợi của bóng cây, của dòng nước tâm tình như vậy?
Thấy Hãng đứng dậy Uy nói:
- Đồng chí hãy ngồi với em.
Ngay từ phút đầu gặp gỡ cho tới giờ, Uy xưng em với Hãng một
cách tin cẩn tự nhiên như vậy.
Hãng đáp:
- Thôi, giờ này tôi phải về họp tiểu tổ.
Bỗng sực nhớ ra điều gì Hãng hỏi:
- Đồng chí có biết hiện giờ ở bốt gác chỉ để một khẩu súng
trường?
Uy chợt buồn, trở về với tang bạn. Đôi mắt xa xôi Uy đáp:
- Em không muốn tự tử như Đồng, em phải làm một việc gì đích
đáng.
Yên lặng một phút, hai người bắt tay nhau và Hãng về.
Nghỉ một ngày học tập, Đồng được chôn cất mồ yên mả đẹp và
Hãng gặp Uy. Nhưng rồi ngay sau đó phong trào học tập tiếp tục gay gắt hơn, hầu
như ban chỉ huy cố tình gây một bầu không khí gay gắt như vậy để một mặt xóa kỷ
niệm đầu tiên đó trong trí mọi người, một mặt chứng tỏ guồng máy chỉ đạo của Đảng
một khi đã chuyển động thì không một sức phản động tình cảm nào có thể ngăn chặn
nổi.
Một ngày là một thế kỷ nặng nề những hủy diệt, trong thâm
tâm, thực tình chưa ai - kể cả những cán bộ trong ban chỉ đạo học tập - thấy một
tia sáng tái sinh, nhưng Đảng đã chủ trương (Đảng là tất cả nhưng lại không là
một ai) thì phải đúng chứ!
Guồng máy chỉ đạo tiếp tục quay tiến ... nghiền nát ...
- Ừ tao phản cách mạng!
- Ừ tao là bí thư của Vũ Hông K.
- Ừ tao làm phản giánn điệp cho Pháp!
- Ừ tao chiến đấu vì cá nhân chủ nghĩa, vì anh hùng chủ
nghĩa!
Tự tử bằng giây thừng
Tự tử bằng lưỡi dao cạo bẻ vụn hòa nước.
Chó rừng đã tha xác chàng thanh niên Việt xấu số bị quẳng
trên đồi qua đi một đêm ...
Để bế mạc cho tấn thảm kịch vô tiền tuyệt hậu Phụng Minh Thôn
là một bi hài kịch cũng vô tiền tuyệt hậu trong lịch sử học tập của Đảng.
CHƯƠNG V
MỘT TẤN BI HÀI
I
Suốt thời gian bi thảm trên, Hãng vẫn thỉnh thoảng đến thăm
Uy. Hãng là đảng viên chính thức được ngót một năm, tính cho tới ngày phong
trào học tập tam phản phát động. Thành tích tranh đấu cũa Hãng quá rực rỡ và
lòng trung kiên của Hãng thì không đồng chí nào chối cãi nổi. Hãng thuộc hạng
người cương trực nghĩ thế nào nói thế, sống thế nào nghĩ thế, đã tin ai thì tin
vô điều kiện không thắc mắc, chẳng nghi ngờ. Nhưng khi chợt thấy thắc mắc, chợt
thấy nghi ngờ thì ... Nhưng thôi, chúng ta hãy tiếp tục câu chuyện. Mặc dầu
thành tích tranh đấu rực rỡ, lòng trung kiên không đồng chí nào chối cãi nổi mà
Hãng vẫn bị ghi vào hàng đầu sổ đen! Sao vậy? Mặc dầu đứng đầu sổ đen mà Hãng
khÔng bị lên "bàn mổ" tiếp ngay sau "người điển hình". Sao
vậy? Đã thế Hãng còn được ban lãnh đạo học tập thả lỏng cho phép thỉnh thoảng đến
đàm thoại một giờ với Uy trong câu chuyện tình cảm. Sao vậy?
Có thể nói Hãng bị ghi vào hàng đầu sổ đen chính vì Hãng bị Đảng
liệt vào thành phần trí thức cũ ( có một phần cử nhân Luật) và là con địa chủ.
Hãng còn bị Đảng đặc biệt chú ý về thái độ quá hồn nhiên của anh. Anh tin rằng
đã bỏ gia đình như thế, gia nhập đội quân Tây tiến chiến đấu gian khổ như thế,
bị địch bắt giam và tra tấn như thì Đảng không thể bắt anh phải tự tố cáo bất cứ
một hành vi hay một tư tưởng phi cách mạng nào.
Để Hãng đến nói chuyện với Uy, ban lãng đạo học tập có thâm ý
muốn khuấy động mạnh vào ý thức của Hãng, những mong Hãng sẽ phản tỉnh thư, vậy
chính Hãng khi lên bàn mổ phải nên có thái độ thế nào? - Nhưng khi nói chuyện với
Uy, Hãng chẳng hề tự nêu vấn đề như thế.
Rồi để cho Hãng lần lượt chứng kiến mấy đợt kiểm thảo các bạn
đồng đội - vẫn theo thâm ý của ban lãng đạo học tập - thái độ cương cường của
Hãng sẽ được gián tiếp mài rũa cho mòn bớt. Trong khi đó ban lãng đạo lại có đủ
thì giờ liên lạc với tất cả những người trước đây đã có thời kỳ chung sống với
Hãng, sưu tập và bố trí trước tài liệu chất vấn.
Rồi ngày chờ đợi tới, ngày chính Hãng phải lên bàn mổ.
Bản tự thuật đầu tiên của Hãng vẻ vẹn như sau:
"Tôi sinh năm 1921. Năm 1939 tôi sang Pháp học. Năm 1944
tôi về nước, ở Hà Nội vừa học Luật vừa giúp đỡ sổ sách trong công việc buôn bán
của ba mẹ tôi. Năm 1945 tôi đỗ phần thứ nhất cử nhân Luật. Cuối 1946 tôi về đồn
điền ở Âm Thượng (Phú Thọ). Những ngày đầu kháng chiến, tôi còn ở lại đồn điền
chứng kiến một lớp huấn luyện tăng gia sản xuất ở đó. Cuối 1948 ngót hai mươi
trại tăng gia sản xuất quanh đồn điền đều tan rã, tôi gia nhập bộ đội theo đoàn
quân Tây tiến hoạt động về kinh tế trên quãng đường Nho Quan Sầm Nứa. Năm 1950
tôi đổi sang cơ quan địch vận. Đầu năm 1951 tôi có mặt ở trận Đèo Bông Lau. Cuối
xuân sang hạ, tôi có mặt ở chiến dịch đồng bằng Liên khu Ba. Tới đầu thu năm đó
tôi bị bắt trong chiến dịch Citron của địch tại Hải Dương. Hơn một tháng sau
tôi thoát khỏi trại giam Hải Dương về Ninh Giang bắt được liên lạc cũ, trở lại
bộ đội được cử sang đây theo học Lục quân khóa bảy."
Hãng vừa đọc dứt bản tự thuật chính trị viên lãnh đạo học tập
đứng lên nói:
- Thưa các đồng chí, việc kiểm thảo nhân sinh quan của đồng chí
Hãng vẫn theo y như đường lối đã định, nghĩa là lấy năm 1945 làm mốc phân chia
hai xã hội mới cũ khác nhau. Nhưng trước khi thực sự đi vào việc kiểm thảo nhân
sinh quan, xin các đồng chí nào trước đây từng có liên lạc ít nhiều với đồng
chí Hãng hãy soi sáng giúp đồng chí Hãng bằng cách thấy điều gì nghi ngờ thì chất
vấn ... chất vấn càng tỉ mỉ bao nhiêu càng xây dựng bấy nhiêu.
Chính trị viên đã dứt lời nhưng còn khẽ gật gù cái đầu, đưa đẩy
đôi mắt nhìn khắp hộ trường, giữ trọn vẹn lấy bầu không khí im lặng nghiêm
trang đó một phút rồi mới từ từ ngồi xuống.
Cuộc chất vấn bắt đầu. Từ cuối phòng một tiếng vọng lên:
- Tôi xin có ý kiến chất vấn đồng chí Hãng ... Tôi muốn hỏi đồng
chí Hãng khi dời đồn điền của cha mẹ theo đoàn quân Tây tiến là theo tiếng gọi
của Đảng, của nghĩa vụ hay chỉ là theo tiếng gọi của anh hùng cá nhân?
- Khi ở đồn điền, tôi thường tổ chức đi săn đêm, tôi ưa hoạt
động mạo hiểm - Hãng đáp - Thoạt đầu tôi có thái độ dửng dưng trong ngày đầu
kháng chiến, về sau được chứng kiến cảnh các cán bộ tăng gia sản xuất chịu khó
học tập và thực hành canh tác ở ngay đồn điền nhà tôi, chứng kiến cảnh nheo
nhóc của các đồng bào tản cư tại các trại tăng gia quanh đấy, tôi tự thấy băn
khoăn xấu hổ cho nếp sống an nhàn của mình tại đồn điền. Vừa hay dịp gặp anh bạn
học cũ, anh bất ngờ có công tác qua địa phận đồn điền nhà tôi. Được biết anh là
chính trị viên trung đoàn Tây tiến, tôi bèn nhờ anh giới thiệu cho gia nhập bộ
đội này, nghĩ rằng đáng lẽ ra đi săn thú đêm phù phiếm vô ích thì nay đi săn địch
đêm góp phần vào kháng chiến chẳng hợp tình hợp ly hơn sao? Tôi ra đi theo tiếng
gọi của kháncg chiến và được kích thích bởi lòng yêu nước chứ chẳng phải theo
tiếng gọi của anh hùng cá nhân!
- Đồng chí quen sung sướng trên đất Pháp - một đồng chí khác
cũng đứng cuối phòng chất vấn - về Hà nội đồng chí tiếp tục sống sung sướng, ăn
ngon mặc đẹp, lại từng lên đại học đỗ một phần cử nhân luật; lên đồn điền đồng
chí tiếp tục sống sung sướng, từng tổ chức đi săn đêm để giải trí, vậy khi gia
nhập đoàn quân Tây tiến gặp nhiều gian nan khổ ải chắc chắc phải có ngày đồng
chí cảm thấy tinh thần giao động và có ý tưởng đầu hàng địch?
- Trước hết - Hãng đáp - bảo tôi quen sống sung sướng trên đất
Pháp là nhầm, nói là tôi tập quen kham khổ trên đất Pháp thì đúng hơn. Tôi sang
Pháp tháng ba năm 1939, năm đó tôi mới mười tám tuổi, thì tháng chín 1939 bùng
nổ thế chiến lần thứ hai. Tháng sáu năm sau - 1940 - Ba Lê đầu hàng, quốc hội
Pháp cử thống chế Pétain lên cầm quyền và nghị hòa với Hitler; tướng De Gaulle
rút quân sang Anh lập chính phủ lưu vong. Vào mùa đông năm này, nhiều khi bữa
ăn của tôi chỉ có mẩu bánh mì và củ hành sống, không cả pho-mát! Có những chiều
đông rét đến nỗi tôi đành nằm lại ở trong phòng nhịn ăn, vì tính toán thấy rằng
bữa ăn còm cõi buổi chiều không đủ bù đắp lại số nhiệt lượng trong người mất
đi, khi mình tung chăn ra đi kiê m bữa. Chính tôi là người đã sớm chứng kiến cảnh
bom đạn, cảnh đói rét thơi chiến ở xứ người, nhưng vì còn ít tuổi quá nên những
điều mắt thấy tai nghe đó chưa làm tôi suy nghĩ nhiều đến tình nhân loại. Năm
1944 sau cuộc đổ bộ thành công của tướn Mỹ Eisenhower lên bờ bể Normandie phía
Tây bắc nước Pháp, quân Đồng Minh giải phóng được Ba Lê rồi tiến tới sông Rhin,
thì ba mẹ tôi gọi tôi về nước. Tại Hà Nội, tôi ghi tên học Luật, tôi hết sức hưởng
thụ cuộc đời chính vì luôn bị ám ảnh bởi cảnh bom đạn đói rét mà tôi được chứng
kiến thời còn sống ở Pháp. Điều đó tưởng cũng là lẽ dĩ nhiên của con người. Hơn
nữa tôi vừa đến tuổi trưởng thành ham sống. Hai mươi bốn tuổi !
Cả phòng im lặng một phút. Lời nói lưu loát của Hãng hầu như
có uy hiếp được cả tinh thần chính trị viên.
- Tôi có ý kiến chất vấn - một tiếng nói cương quyết vang lên
giữa phòng - tôi là người cùng tiểu đoàn 150 trong trung đoàn Tây tiến với đồng
chí Hãng. Tiểu đoàn đóng ở đồn điền Bát Cô cách Nho Quan tám cây số. Chính mắt
tôi một buổi tối bắt gặp đồng chí Hãng đội mũ xụp xuống để che mặt rồi bước vào
một tiệm cà phê ở Nho Quan. Ngày đó gạo 2.800 đồng một tạ, lương bộ đội chỉ huy
như đồng chí Hãng là 220 đồng, chưa đủ mua một yến gạo. Vậy tôi xin chất vấn đồng
chí Hãng lấy tiền đâu mà vào tiệm? Phải chăng đồng chí Hãng đã lợi dụng lòng
tin của đoàn thể, lạm công quỹ để tẩm bổ riêng cho bản thân mình, đúng với tinh
thần vị kỷ tiểu tư sản, con đẻ của một xã hội thối nát là xã hội thực dân liên
kết với tay sai phong kiến trước 1945?
- Tôi công nhận - Hãng đáp ngay chẳng hề trù trừ - có vào tiệm
cà phê ở Nho Quan. Việc xụp mũ che mặt là việc của bất cứ cán bộ cao cấp nào bước
chân vào tiệm, bởi trong khi đồng bào cùng các đội viên khác kham khổ cực nhọc,
mình bước chân vào tiệm "tẩm bổ lẻ" như vậy không là điều đáng thẹn
sao? Nhưng tiền ăn uống đó của tôi không hề là tiền xâm lạm công quỹ. Nguyên vì
trên con đường đi công tác từ Nho Quan đến Sầm Nứa tôi gặp nhiều đồng bào tản
cư quen, trước là bạn hàng của ba tôi ở Hà Nội, họ ân cần mời ăn uống ... Số tiền
lương không tiêu đến tôi để mua vài tá bút máy rẻ tiền, trữ trong sacoche, đến
đâu cần tiền, bán ra từng chiếc một mà tiêu. Dạo đó tôi vẫn nói đùa mỗi chiếc
bút máy là một tấm chèque bình dân của tôi.
- Đồng chí ăn ở nhà người quen - một đồng chí khác hỏi - tất
nhiên "hòn đất ném đi hòn chì ném lại", đồng chí lấy tiền đâu để đáp
lại miếng ăn?
- Đôi khi tôi nhận lời mua giúp học một vài vật dụng ngoại
hóa cần thiết ở ranh giới vùng tề.
- Như vậy là đồng chí lạm dụng quyền hành đoàn thể để phục vụ
cho cá nhân đồng chí! - vẫn tiếng nói đó vội vã hằn học kết tội.
- Điều đó tôi nhận có, nhưng thật tình không phương hại chút
nào đến công tác đoàn thể giao cho.
- Đồng chí Hãng ngoan cố - một tiếng khác còn hằn học hơn - lợi
dụng công tác để buôn lậu hàng ngoại hóa, đồng chí đã làm một thứ tay sai cổ động
cho nền kinh tế địch!
- Mỗi chúng ta đây - Hãng đáp - đều có một bút máy ngoại hóa
để ghi chép học tập, đoàn thể mặc nhiên công nhận điều đó vô hại, thì việc tôi
mua trữ một ít bút máy là một thứ "chi phiếu bình dân" không thể đem
quan trọng hóa để kết tội là làm tay sai cổ động cho nền kinh tế địch. Còn nếu
đồng chí nghi là tôi ăn cắp hàng của đoàn thể thì xin thưa việc tổ chức của
đoàn thể rất là chu đáo!
Theo dõi cuộc chất vấn, chính trị viên đại đội không ngờ là
Hãng còn cố bám vào thái độ "cương trực tiểu tư sản" đó, giá biết trước
thế, có lẽ ban học tập sẽ không vội chọn Hãng lên bàn mổ tam phản. Đã lỡ thì
đành phải theo đuổi đến cùng, chính trị viên tin tưởng ở tài uốn nắn cá nhân của
đoàn thể. Nhưng, cuộc lãnh đạo học tập cần phải thận trọng và khéo léo lắm! Nhận
thấy nếu còn kéo dài thì buổi học tập nhất định sẽ thất bại, y bèn đứng dậy,
giơ cao cánh tay lên, đợi mọi người im lặng được một phút mới cất tiếng nói:
- Việc kiểm thảo nhân sinh quan để tìm ra căn bệnh là việc tối
hệ trọng. Đoàn thể chỉ giúp đồng chí Hãng tự tìm ra tội lỗi, phải chính mình
tìm ra tội lỗi của mình, có như vậy cuộc kiểm thảo mới có ích lợi cho đồng chí.
- Tôi rất đồng ý ở điểm đó! Hãng bất chợt ngắt lời.
- Vậy tôi đề nghị - chính trị viên tiếp - ngừng buổi học tập
tại đây, đồng chí Hãng về sẽ bổ túc phản tỉnh thư bằng cách thuật rõ lại khoảng
thời gian đồng chí hoạt động trong trung đoàn Tây tiến. Chúng ta sẽ căn cứ vày
đấy mà giúp đồng chí Hãng một cách đích đáng trong việc nhận định ra tội lỗi của
mình !
Lẽ cố nhiên mọi người đồng ý với chính trị viên.
II
Bản bổ túc phản tỉnh thư thuật lại thời gian công tác trong
trung đoàn Tây tiến, Hãng viết rất ngắn gọn, nhất là câu kết. Nếu nội dung
không gồm những sự kiện cụ thể, người ta có thể ngờ là Hãng tỏ thái độ ngạo mạn,
với đoàn thể.
Tiểu đoàn 150 của trung đoàn Tây tiến ngày đó đóng ở đồng điền
Bát Cô cách Nho Quan chừng tám cây số. Công tác của chúng tôi là công tác kinh
tế mạo hiểm: buôn thuốc phiện lậu. Vì đoàn thể mà làm, rủi bị bắt ở những nơi
đoàn thể không tiện can thiệp vì "nhĩ mục quan chiêm" thì cá nhân chịu
trách nhiệm trước tòa án. Lộ trình của chúng tôi như sau: từ Nho Quan qua Kim
Tân tới Cảm Thủy theo đường bộ; từ Cảm Thủy qua La Hán tới Hồi Xuân theo đường
thủy ngược dòng sông Mã, rồi sang Sầm Nứa. Mấy tháng đầu chúng tôi phải mua bạc
hoa xòe ( đồng bạc có hình bà đầm xòe) ở Phát Diệm, Phủ Lý vì người Lào chỉ chịu
đổi thuốc phiện lấy bạc thật, về sau hết bạc hoa xòe chúng tôi cố thuyết phục họ
lấy bạc giấy Đông Dương. Khi đã qua La Hán, Hồi Xuân, tới những trạm liên lạc gần
biên giới Lào - Việt, chúng tôi thường bị phục kích bao vây ban đêm, hỏa châu
sáng rực, liên thanh nổ rền quát ngang bụi rậm. Có đồng chí tử thương đành bỏ
xác lại, nhưng bạc hoa xòe, bạc Đông Dương nhất định phải mang theo bằng được.
Tới địa phận Sầm Nứa nhiều khi chờ hai tuần mới có hàng, phải ăn sắn phơi khô
trừ bữa. Kiết lỵ và sốt rét là hai bệnh thông thường của chúng tôi. Đó là khoảng
1948 và đầu 1949. Chúng tôi đi từng trung đội như một cuộc hành quân. Hàng về,
từ đại đội trưởng trở lên mới được dùng thẻ hỏa tốc, chính quận trưởng công an
mới được phép khám hàng trong phòng kín rồi cùng ký. Chúng tôi bắt liên lạc với
người tàu ở Pắc Hổi (Bắc Hải), họ đưa hàng lậu từ Ma Cao Hồng Kông sang. Thoạt
trao hàng ở Phát Diệm, sau đưa sang Diêm Điền (Thái Bình), sau đưa sang Hải Hậu
(Nam Định). Mỗi lần trao hàng, có trung đoàn Hà Nam Ninh (Hà Nam, Nam Định,
Ninh Bình) bố trí thiết quân luật để nhân dân khỏi thấy. Chúng tôi trao hàng tạ
thuốc phiện đổi lấy máy chữ, đá lửa, vải, và các chất nổ như mélinite, tolite
... Sang mùa hạ 1949 Pháp luôn luôn ngược dòng sông Đáy càn quét từ Ninh Binh
lên câu Gián Khẩu qua Trường Yên đến tận Nho Quan. Cuối tháng 11-1949 Pháp nhảy
dù xuống Yên Mô, chiếm Phát Diệm, chúng tôi bất ngờ bị vây mất mấy ngày nhưng rồi
may thoát được. Chiếm Phát Diệm xong, Pháp tiến vào chợ Ghềnh định sửa trường
bay Đồng Giao, nhưng bị phá. Đường Việt Bắc bị cắt đứt, Hà Đông, Phủ Lý bị càn
quét liên tiếp, kiểm soát nghặt nghèo, các khu vực biến thành tự trị. Muốn liên
lạc với Việt Bắc phải quành lối trong, qua Chi Nê. Chính dạo này chúng tôi bị
đói nhiều và là dạo gạo 2.800 đồng một tạ, lương cấp chỉ huy của tôi 220 đồng,
không đủ mua một yến gạo. Bữa ăn nào cũng phải có rau muống già để độn; bữa nào
rau muống già nấu với nước luột thịt trộn với ít tót mỡ, ấy là đại tiệc. Và
cũng chính vào thời này khi tôi có chút tiền dư là đội sụp mũ che mặt đi uống vụng
cà phê. Xin nhắc tôi không hề ăn cắp tiền nhưng nghĩ rằng xung quanh mình còn
nhiều bạn đồng đội và hầu hết đồng bào không có tiền, đói, khát, thì bước chân
vào tiệm cà phê như vậy lương tâm cắn rứt. Vì luôn luôn gặp lực lượng địch phục
kích chúng tôi phải hành quân cấp tốc, mặc dầu ba lô trên lưng nặng, mặc dầu đường
hết leo đèo lại xuống dốc, chúng tôi vẫn đi được sáu mươi cây số một ngày. Lên
cơn sốt rồi, đi cố cũng được mười cây số để kịp đến trục liên lạc. Chúng tôi
hành quân lần giây trong đêm tối dưới rừng, giây trùng thì đi chậm, giây căng
thì đi nhanh. Một lần vào buổi chiều chạng vạng, chúng tôi tới Bát Cô, qua gầm
cầu còn thấy sọ người đỏ máu vì bị cọp ăn. Có một bài thơ nói đến chúng tôi mở
đầu bằng câu: "Tây tiến, đoàn quân không mọc tóc! Đúng thế!"
Hãng đã ngồi xuống chờ chất vấn, giây lâu mọi người mới biết
rằng bản bổ túc phản tỉnh thư tận cùng bằng hai chữ "đúng thế". Rồi
cuộc chất vấn khởi đầu. Thái độ sáng suốt của Hãng làm những câu chất vấn mất
tính cách huyền hoặc mà lộ vẻ ngớ ngẩn. Câu trả lời của Hãng luôn luôn đơn giản
nhưng vô cùng xác thực và đượm một niềm tin tưởng nhiệt thành. Quả là hai bên
nói hai ngôn ngữ khác nhau, một bên cố quy về tội lỗi, một bên hoàn toàn phủ nhận
tội lỗi, thứ tội lỗi a dua cố bịa ra cho có.
Hai câu chất vấn cuối cùng như sau:
- Hành quân sáu mươi cây số một ngày, hành quân lần giây dưới
rừng đêm tối, hành quân leo đèo lặn suối như vậy, khi qua gầm cầu Bát Cô lại thấy
sọ người còn đỏ máu vì mới bị cọp ăn, tôi tin rằng đồng chí Hãng phải thấy ngã
lòng vì kháng chiến quá gian khổ và chắc chắn phải đã có tư tưởng hàng định lởn
vởn trong đầu óc, tôi muốn đồng chí Hãng cho biết lúc đó đồng chí nghĩ gì, rắp
tâm đầu hàng địch ra sao ?
- Trong óc, tôi luôn luôn chia đất nước làm hai miền, miền địch
và miền ta, không bao giờ tôi nghĩ sang ở vùng địch. Tôi ưa mạo hiểm, ở đồn điền,
tôi thích tổ chức săn đêm, gia nhập kháng chiến tôi hành quân đêm, nhìn sọ người
đẫm máu vì bị cọp ăn càng là một thứ giaq vị kích thích cho lòng ưa mạo hiểm của
tôi thêm hào hứng !
Chính trị viên khẽ lắc đầu. Biết cơ sự thế này thì bãi bỏ cuộc
tam phản của Hãng ngay từ hôm qua lại hóa có chính trị. Vừa lúc một giọng chất
vấn khác tiếp theo:
- Cách đây chừng ba tháng, đồng chí Hãng có thuật lại cho tôi
hay khi phụ trách địch vận đã có lần đồng chí trốn địch ở một hang đá Đông Triều,
rồi lên cơn sốt rét, đồng chí đã ngủ trên bụng một nữ đồng chí ...
Cả phòng cất tiếng cười ồ. Đồng chí chất vấn chờ cho tiếng cười
ngớt mới tiếp:
- ... Tôi ngờ rằng còn có điều chi khuất tất, đồng chí Hãng cần
bộc lộ rõ hơn để chúng tôi giúp đồng chí tìm ra căn bệnh.
Đôi mắt chính trị viên thoáng tia sáng, y giơ tay, mọi người
im lặng, y cất tiếng:
- Năm 1950 đồng chí Hãng đổi sang cơ quan địch vận, rồi dự trận
đèo Bông Lau, rồi dự chiến dịch đồng bằng Liên khu Ba. Tôi thấy đồng chí Hãng cần
bổ túc phản tỉnh thư thuật rõ lại khoảng thời gian này cho đến ngày đồng chí
theo khóa bảy sang đây, có như thế chúng ta mới có đủ tài liệu giúp đồng chí
Hãng kiểm thảo nhân sinh quan.
Lẽ cố nhiên đề nghị của chính trị viên lại được đoàn thể chấp
thuận.
III
Gian phòng của Hãng cũng căng vải đen với những khẩu hiệu
ngang dọc, Hãng cũng đi chân không, mắc áo không cài khuy, mặc quần không giải
rút, ăn cơm lạt để viết bản bổ túc phản tỉnh thư thứ hai dưới ánh đèn leo lét,
nhưng điều làm cho chính trị viên phát phiền là Hãng không có dáng người, vẻ mặt
thiểu não sầu khổ vì những tội lỗi trong quá khứ của mình, bởi lẽ giản dị là
Hãng vẫn chưa chịu nhận đó là tội lỗi. Khẩu hiệu chính căng lớn tại văn phòng
hiệu bộ: TẤT CẢ CHO PHONG TRÀO TAM PHẢN! Trong khi các người lên bàn mổ cặm cụi
viết bản phản tỉnh thư hoặc bản bổ túc phản tỉnh thư thì ban nhạc cử những bài
ai oán bên ngoài cửa sổ như tiếng khóc thương trước cửa nhà mồ. Ban nhạc có đến
trước cửa phòng Hãng vừa đờn vừa ca một bài hát buồn trong phim "Bạch Mao
Nữ". "Anh có nhớ chăng quê hương tơi bời khói lửa ..." nhưng
chính trị viên không tin ở hiệu lực của lời ca tiếng nhạc đó chút nào đối với
Hãng. Vấn đề Hãng, hay đúng hơn "hiện tượng Hãng" mấy ngày mấy đêm
nay ám ảnh y và toàn ban lãnh đạo học tập vẫn chưa tìm được giải pháp ổn thỏa.
Hạt thóc không thể gieo trên phiến đá nhẳn thín mà nảy mầm, chính trị viên tin ở
tài lãnh đạo của đoàn thể, hạt thóc có thể nảy mầm trên phiến đá phủ rêu, nhưng
từ phiến đá nhẵn đến phiến đá phủ rêu đòi hỏi thời gian. Đã chót chỉ định Hãng
lên bàn mổ, thời gian không còn nữa, cái lầm, của ban lãnh đạo học tập là ở đấy.
Buổi tối hôm đó Hãng lên sập ngồi đối diện với các đồng chí đọc
bản bổ túc phản tỉnh thư thứ hai của anh.
"Cuối năm 1949 vì địch khủng bố dữ quá nên công tác buôn
thuốc phiện bị ngừng trệ hẳn, chúng tôi phải xoay buôn gỗ, nhưng bè bị vỡ ở
thác Hồi Xuân, phải huy động quân đội đi vớt; chúng tôi nuôi gà, gà toi; chúng
tôi nuôi vịt, vịt không đẻ. Tôi đổi sang cơ quan địch vận vào dịp này (đầu năm
1950). Suốt một tháng đầu tôi không giúp được việc gì cho cơ quan mới vì chứng
sốt rét lưu trữ từ thưở hoạt động trong đoàn quân Tây tiến. Một lần cơ quan bị
động, toàn thể anh chị em phải lẩn tản mát vào những hang núi Đông Triều, tôi
lên cơn sốt vào nửa đêm, một nữ đồng chí có cảm tình cho tôi nằm ngả lên người
đồng chí để tránh hơi đá lạnh buốt. Chỉ có thế thôi! Vả lại lúc đó tôi ốm chỉ
còn da bọc xương (Có tiếng cười khúc khích đâu đó trong phòng). Khi bệnh sốt
rét ngớt lui, tôi trực tiếp điều khiển tờ báo bằng Pháp ngữ: viết bài, chọn
bài, in báo và phân phát. Đầu năm 1951 tôi lên mặt trận đèo Bông Lau vừa để ngầm
tung báo địch vận tới các đại đội Pháp vừa tổ chức một hệt thống phát thanh lợi
dụng vị trí thuận chiều gió cho lời tuyên truyền của ta lọt tới tai địch mỗi
khi tiếng súng của chúng vừa dứt đợt. Sau chiến thắng đèo Bông Lau đoàn thể cử
tôi về đồng bằng tăng cường cho cơ quan địch vận nơi đây. Chiến dịch REPTILE của
địch bao trùm cả Hải Dương Hưng Yên. Thoạt chúng đánh các vùng Thanh Miện, Bình
Giang, Gia Lộc thuộc Hải Dương rồi chúng quành sang Hưng Yên như thể trò chơi rồng
rắn của trẻ con. Chủ trương của chúng: bao vây tiêu diệt cán bộ và bộ đội. Tôi
về tăng cường cho bộ đội địch vận của trung đoàn 42, trung đoàn phụ trách Hải
Dương, Hưng Yên và đường số 5, khét tiếng là khi ẩn khi hiện như ma làm điên đầu
tướng Cogny chỉ huy chiến dịch này.
Cuối hạ sang thu địch mở tiếp chiến dịch CITRON đánh cả Hải
Dương, Thái Bình. Giữa hai tỉnh này là con sông Luộc, chiến dịch đồng thời diễn
ra ở hai tỉnh như hai nửa trái chanh đã cắt mà lưỡi dao phân đôi là con sông Luộc.
Chiến thuật của địch quây tròn rồi thắt chặt lại để tiêu diệt cán bộ và bộ đội
ta. Chúng bắt cả ngàn người đưa đến trại hỏi cung. Tôi bị bắt ở Ninh Giang (Hải
Dương)\. Camp de Triage của chúng loại dần, sau cùng còn lại chừng ba ngàn người
tình nghi, già có trẻ có, thuần là đàn ông. Chúng tập trung chúng tôi vào một
khu đất trống giữa trời, xung quanh rào giây thép gai. Mười tám ngày ròng, dầm
mưa rãi nắng như vậy. Tới bữa chúng chia cho mỗi người một nắm cơm với con cá mắm,
chúng tiếp tục lọc dần để gửi những người tình nghi thực sự lên camp Hải Dương
và camp Hải Phòng, tôi bị giải lên camp Hải Dương. Tới đây tôi mới biết em rể
tôi là Mạnh, tỉnh ủy viên Hải Dương, cũng bị bắt trong chiến dịch CITRON và cũng
bị giam ở khu đất lộ thiên mà trước đây vì đông quá không biết nhau. Phương
pháp hỏi cung của nhân viên Phòng Nhì nơi đây là đánh phủ đầu, đánh tối mặt mũi
rồi hỏi dồn dập: "Mày có phải cán bộ Việt Minh? Mày có phải Việt Minh quan
trọng?" Mình chối nó tiếp tục đánh. Mạnh, em rể tôi, chịu qua đợt đòn này
thì được thả vì y có bộ mặt nông dân nên Phòng Nhì Pháp cho là bắt nhầm. Chúng
kêu là tôi có bộ mặt trí thức và chắc chắn là "Việt Minh quan trọng";
tôi nhất định khai mình là giáo sư trường trung học Ngô Sĩ Liên ở Bắc Giang về
thăm gia đình ở Ninh Giang nhưng gia đình đã vào Hà Nội, không biết ở phố nào.
Chúng tiếp tục tra tấn tôi, chúng đánh đòn theo kiểu Nhật "xin âm
dương", nghĩa là đánh cho té xấp lật ngữa liên tiếp, chúng cột tôi vào
phía sau xe Jeep, rồi cho xe chạy khiến tôi phải chạy giật lùi, mỗi lần ngã khụy
là một lần trầy xương bánh chè, chúng cho quay điện rồi gí vào hai tai tôi ...
Tôi chịu qua thời gian truân đó, giữ vững lời khai. Một số cán bộ công an cũ
cu/a ta về hàng địch và được cử tới nhận diện, may thay tôi mới về công tác đồng
bằng nên chúng không biết. Sau cùng tôi dược xếp hạng tù binh nhốt trong phòng
C, ngày ngày đi phu làm đường, làm cổng hoặc đi hầu các dinh thự. Tòa hành
chánh Ninh Giang, các công sở khác, cùng các đồn bót, nhà cửa đều còn lợp tôn với
hàng rào giây kẽm gai vây quanh. Ở salle C này tôi may mắn gặp được đồng chí
liên lạc viên công tác đội trong cơ quan địch vận của tôi. Trong lúc giả vờ
đánh cờ hút thuốc chúng tôi mới dám nhận nhau và trao đổi một vài câu thầm lén.
Nơi đây là cả một cuộc tranh sống! Chính nhờ chú Khải - tên đồng chí liên lạc
viên công tác đội - tôi mới có được bát cơm đầy mà ăn, có được bát nước mà uống.
Salle C có hai dãy sàn gỗ, giữa là lối đi, tù nhân ngủ trên và dưới gầm sàn, chật
ních; chính nhờ chú Khải mà tôi có được một chỗ nằm dưới gầm sàn gần một khe hổng
để bắt lấy tia gió mỏng qua đó mà đỡ ngạt thở phần nào. Sáng sáng vào lúc rửa cầu
tiêu, chính nhờ đồng chí Khải mà tôi có được một bơ nước để tắm, tắm bằng cách
kỳ cho bở ghét rồi rắp nước vào khăn mặt mà lau. Trong lúc giả vờ đánh cờ hút
thuốc, chú Khải thường bảo tôi: "Thế nào em cũng được tha trước anh, không
sao. Các anh bị giam tối ngày ở Salle D họ mới nhớ mặt, còn anh ở salle C này
thì không lo. Vả lại Nô-en, hoặc Tết Nguyên Đán tới, anh cũng được tha; nếu
không thì ngày Phật Đản mùng tám tháng tư hoặc cùng lắm đến ngày rằm tháng bảy
sang năm là cùng anh cũng phải được tha, ngày đó em ra cũng được, không sao. Quả
nhiên hơn một tuần sau chú Khải được tha, tôi đã đội tên chú mà ra trước như đã
bàn định với nhau; họ cấp cho tôi một mảnh giấy nhỏ để về nguyên quán là một
làng thuộc huyện Ninh Giang ( như lời chú Khải đã khai hồi bị tra tấn). Ra khỏi
trại giam tôi rẽ tay trái tới bến ô tô gần vườn hoa, mua vé về Ninh Giang cho
khỏi bị nghi ngờ, nhưng khi ô tô qua khỏi Cầu Cất (cầu kéo lên được) một quãng
xe ngừng, tôi nhảy xuống đồng tìm vào một làng tề, bắt liên lạc được ngay với
anh em đi về Việt Bắc. Và đoàn thể cử tôi sang đây vừa kịp theo học Lục quân
khóa Bảy"
Hãng ngồi xuống, mọi người biết là bản bổ túc phản tỉnh thư
đã hết. Một đồng chí đứng ngay lên cất tiếng nói hằn học:
- Tôi thấy cần chỉnh đốn lại danh từ, lần trước cũng như lần
này, đó chỉ là bản bổ túc tiểu sử chứ không phải là bản bổ túc phản tỉnh thư bởi
đồng chí Hãng có chịu nêu lên những tội lỗi gì của mình đâu?
- Tôi đồng ý với đồng chí - Hãng đáp - thực ra đó chỉ là những
bản bổ túc tiểu sử để các đồng chí căn cứ vào đấy mà chất vấn, giúp tôi tìm ra
tội lỗi. Sở dĩ tôi không bộc lộ tội lỗi vì tôi chưa nhìn thấy tội lỗi của tôi
đâu cả.
Rồi cuộc chất vấn bắt đầu, vẫn những câu hỏi ngu xuẩn cố lái
về phía tội lỗi. Câu đáp lại của Hãng thường đầy đủ chi tiết khiến cuộc chất vấn
đỡ ngớ ngẩn phần nào.
Đáp lại câu chất vấn "khi bị đổi công tác từ đoàn Tây tiến
sang cơ quan địch vận như vậy có phát sinh tư tưởng oán Đảng không?" Hãng
nói: "Tôi chẳng hề có tư tưởng oán Đảng vì sang ngành địch vận Liên khu
ba, trông coi tờ báo La Résistance để thi đua với tờ Frères d
Armes của trung ương tôi có dịp ôn lại tiếng Pháp".
Đáp lại câu chất vấn "trong công tác địch vận nguy hiểm
như vậy hẳn có khi phải ngã lòng thối chí và phát sinh tư tưởng đầu hàng địch",
Hãng nói: "Kể về gian nan thì công tác tại trung đoàn Tây tiến gian nan vất
vả hơn nhiều. Phát truyền đơn và báo chí địch vận, chúng tôi thường rải trên
các con đường chúng tôi đi tuần tiễu, gần các đồn bót. Gọi loa theo chiều gió
thì chúng tôi đã đào trước nhiều hố để núp, sau mỗi lần gọi loa chúng tôi lại
thay hố núp để tránh luồn đạn liên thanh. Chúng tôi rất vui trong cái trò chơi
rỡn với địch, rỡn với tử thần như vậy. Theo chiều gió tiếng nói của chúng tôi
có thể đi xa vài trăm thước".
Gay go nhất là câu kết tội "Hãng đã úy tử cầu xin nhận
giấy tha của Khải để thoát thân mình, không xứng đáng chút nào đạo đức cán bộ".
Hãng đáp: "Khải đề nghị với tôi như vậy cũng làm thấm nhuần chính sách bảo
vệ và bồi dưỡng cán bộ của đoàn thể. Tôi ở trại giam ra, không ở lại đất địch nửa
ngày, lên xe ngay, bắt liên lạc với các đồng chí ngay, nửa tháng sau đã có mặt ở
đây để theo Lục quân khóa Bảy, tôi tự thấy không có điều gì hổ thẹn với đồng
chí Khải cả".
Lời chất vấn khác nhất định buộc Hãng phải có tinh thần giao
động cầu an muốn về thanh khi ở trạm giam ra, Hãng trả lời: "Thái độ của đồng
chí Khải trong trại giam đối với tôi như vậy, khi ở trại giam ra tới bến ô tô
tôi có mua một ít thức ăn, đồng bào nhất định không lấy tiền vì biết tôi là tù
chính trị vừa được thả. Tình đồng bào, tình đồng chí đối với tôi như vậy làm
sao tôi có thể có tinh thần giao động cầu an rắp tâm về thảnh"
- Đồng chí thấy gì khi bị địch quay điện? (Ý câu chất vấn muốn
quay về vấn đề giao động tinh thần).
- Tôi chỉ thấy - lời Hãng đáp - hoa cà hoa cải đổ ra trước mắt.
Cả phòng cười ồ, có tiếng cười thích chí của những người vẫn
ngầm phản đối phong trào tam phản. Không phải là Hãng dụng tâm khôi hài, chính
trị viên biết lắm. Lời đáp của Hãng chỉ là lời anh chàng thẳng ruột ngựa có thừa
thiện chí nhận lỗi nếu rõ ràng đó là lỗi thật, nhưng cương quyết khước từ mọi tự
kỷ ám thị để gây thành một tội lỗi hư ảo. Cũng biết lời đáp trên nhiễm nhiều
tính chất khôi hài, để tránh mọi hiểu nhầm, Hãng giải thích thêm:
- Thoạt đầu bị quay điện ai cũng sợ nhưng rồi ai cũng quen vì
biết rằng khi họ kê giây điện vào tai, mắt mình nhắm lại, một khoảng hồng rực
lóe ra phía trước, chỉ qua đi vài giây là toàn thân ê ẩm, đầu óc tê dại, mình
ngất đi không biết gì nửa. Đáng sợ nhất, chính là đòn xin âm dương ...
Cánh cửa phòng họp bỗng mở tung, một đồng chí trong ban lãnh
đạo học tập bước vào tiến nhanh lên bục, trao đổi khẽ vài lời với chính trị
viên, vẻ bàng hoàng thoáng lộ. Tổ tâm giao của Hãng được gọi lên. Cả phòng nín
thinh chờ đợi ... Chính trị viên quay lại tuyên bố buổi học tập tạm giải tán.
Có việc gì vừa sẩy ra đây!
IV
Việc gì vừa sẩy ra?
Việc sẩy ra bên trung đoàn 34, trung đoàn pháo binh do phó
chính ủy Lê K. (con bà Cát Hanh Long) lãnh đạo phản tỉnh. Phong trào phản tỉnh
đã tới giai đoạn chót, trung đoàn 34 của Lê K. nhiều người tự tử nhất. Thiếu tướng
chính ủy Trần B. báo cáo tổng quát về nước với Trung Ương Đảng Bộ là phong trào
tam phản đã giúp y khám phá tới 70% Việt gian trong trường Lục quân. Mặc cho mọi
người bất mãn! Mặc cho mọi người mất hết tinh thần! Người lên bàn mổ song song
với Hãng bên trung đoàn 34 là Duy Hoàn.
Trái hẳn với Hãng, DUy Hoàn có dáng nhỏ nhắn như con gái, nước
da trắng xanh khuôn mặt trái soan trông rất dễ thương, đôi mắt khi vui thành thực
thì mở lớn, khi suy nghĩ hoặc muốn dấu tình cảm thì lim dim, vẻ lim dim nửa chịu
đựng nửa khôi hài, tuyệt nhiên không nham hiểm. Cũng là người được nhiều cảm
tình với quần chúng như Hãng nhưng DUy Hoàn có một vẻ quyến rũ huyền bí như những
chuyện huyền bí anh thường kể cho anh em nghe. Trước kia, hồi chưa phát động
phong trào tam phản, cứ sau giờ sinh hoạt, về khú, tuy đã rất mệt, anh em trong
tiểu đội hay trung đội vẫn thích ngồi nán lại nghe chuyện huyền bí của Duy
Hoàn, ai nấy miệng há hốc.
Tất cả bạn bè đều biết câu chuyện tình của Duy Hoàn với nữ
cán bộ Phương Thảo. Trí tưởng tượng của Duy Hoàn thật phong phú! Ngày đó và cuối
năm 1945, đoàn tuyên truyền xung phong Kiến An vừa thành lập, Duy Hoàn hay tin
trong đoàn của anh sẽ có một cô gái tên là Phương Thảo, anh mê ngay tên đó, rồi
muốn mê luôn cả người, mặc dầu anh chưa biết mặt người đẹp. Phương Thảo là cỏ
thơm, cái tên sao mà hiền sao mà thơ mộng, sao mà lãng mạn! Anh tự nhiên thích
tất cả những câu cổ thi trong đó có hai chữ phương thảo.
Anh ngâm lớn
Vương Tôn du hề bất quy
Phương Thảo thanh hề thê thê.
Rồi hôm khác anh ngâm bài khác:
Xuân du Phương Thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
Thu ẩm hoàng hoa tửu
Đông ngâm bạch tuyết thi.
Một anh bạn nghiêng tai lắng nghe rồi lắc đầu cải chính bằng
giọng thân mật:
- Không phải rồi ông ơi, "Xuân du thanh thảo địa" mới
đúng! Bốn câu thơ nhấn mạnh ở bốn sắc màu thanh thảo địa, lục hà trì, hoàng hoa
tửu, bạch tuyết thi.
Nhưng Duy Hoàn vẫn khăng khăng ngâm theo ý hướng của anh:
Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
...
Rồi người đẹp Phương Thảo tới nhận công tác, nàng đẹp và hiền
đúng như Duy Hoàn đã tưởng tượng trước. Duy Hoàn được bầu làm trưởng ban, người
ta cấp cho anh một chiếc xe ngựa, một con ngựa. Dưới quyền cu/a anh có Phương
Thảo và hai anh Vệ quốc quân nữa, vị chi là bốn người. Duy Hoàn có mang theo
chiếc mandoline của anh. Thế là chiếc xe ngựa cọc cạch chở bốn người
đi hết làng này đến làng nọ, hết tổn này đến tổn nọ để tuyên truyền giải thích
đường lối của chính phủ. Trước khi diễn thuyết mọi người đứng nghiêm làm lễ
chào cờ, cùng hát quốc ca, Duy Hoàn đánh mandoline theo. Lẽ cố nhiên anh và
Phương Thảo yêu nhau và khi ban tuyên truyền đến tổng Đồ Sơn sẵn cảnh sơn thủy
hửu tình khích lệ, Duy Hoàn đã hoàn toàn chiếm hữu Phương Thảo dưới ánh trăng,
khoảng bãi cỏ thơm, trên mỏm Hòn Đẩu, một địa điểm tuy đẹp thật nhưng đượm vẻ
khốc liệt của chốn sơn cùng thủy tận. Sau phút ân ái Phương Thảo gục đầu lên
vai anh khóc nức khiến cảnh núi, rừng, trăng, biển Hòn Đẩu bỗng như run rẩy
trong cô quạnh và tang thương. Sau đó Phương Thảo được cử đi công tác nơi khác,
Duy Hoàn gia nhập bộ đội, rồi kháng chiến toàn bùng nổ, hai người không được gặp
nhau nữa. Linh tính cho Duy Hoàn hay Phương Thảo đã chết, Duy Hoàn tin chắc vậy.
Vào bộ đội chiến đấu, Duy Hoàn truy kích binh đoàn Pháp trong chiến dịch sông
Lô, phục kích tiêu hao địch trên quốc lộ số 4, thuyên chuyển sang trung đoàn 42
để đặt mìn phá hoại đường số 5 cùng công đồn địch tại Hưng Yên Hải Dương, ở đâu
anh em cũng thấy Duy Hoàn hăng hái đi hàng đầu, tự nêu khẩu hiệu đánh nhan đánh
mạnh, vì trong tâm linh Duy Hoàn luôn luôn có tiếng nói huyền bí của Phương Thảo:
"Anh tiến thật nhanh đi, đánh thật mạnh đi, đã có em phù hộ". Trước
khi được cử sang Tàu theo học lục quân khóa bảy Duy Hoàn được tặng huân chương
chiến sĩ hạng nhất. Anh em đồng đội thường gọi đùa Duy Hoàn là Mã Siêu (trong
Tam Quốc). Trong dịp đi tuyên truyền ở các làng, các tổng quanh Kiến An, Duy
Hoàn đã được chứng kiến cảnh người cộng sản thủ tiêu anh em Dân chủ đảng, cho
nên sau này anh chiến đấu rất anh dũng cho kháng chiến chứ nhất định khước từ lời
dụ dỗ vào Đảng. Vào Đảng theo ý anh là a tòng với bọn giết người (giết anh em
Dân chủ đảng). Anh đâu có là đảng viên Dân chủ nhưng một hình ảnh ghê tởm nào
anh đã thấy thì in sâu trong trí anh đến mãn đời, anh vốn giàu tưởng tượng!
Duy Hoàn chẳng còn ai thân thích trên đời, cha mẹ đã mất sớm,
anh trên chẳng có, em dưới thì không, lẽ ra anh không phải lên bàn mổ tam phản,
nhưng ban lãnh đạo học tập thấy cần phải mổ xẻ anh vì bốn điểm sau này:
- Một người không phải là đảng viên mà chiếm được nhiều tình
cảm quần chúng như vậy rất có hại cho sự lãnh đạo của Đảng.
- Mối tình của Duy Hoàn với Phương Thảo sặc mùi lãng mạn tiểu
tư sản.
- Duy Hoàn trước đây rất giỏi đàn tam thập lục, thường ca ngợi
nhữNg bài Tàu như Vương cô nương, một thứ tiểu tư sản và bài Nhì Voòng (nhị
vương) ca ngợi phong kiến.
- Ưa nhưng chuyện huyền bí có hại cho ánh sáng Mác-Lê.
Bởi thế Duy Hoàn phải lên bàn mổ. Đảng đã khôn ngoan để Hãng
và Duy Hoàn lên bàn mổ vào giai đoạn cuối vì cả hai đều được cảm tình quần
chúng, nếu họ bị hành hạ ngay từ phút đầu e bất lợi. Lên bàn mổ vào giai đoạn
cuối hai người đã được thừa dịp quan sát và nghiền ngẫm trường hợp những kẻ
giác ngộ nửa vời bị trói rồi lấy báng súng đập vào đầu, bị lột trần truồng ngâm
trong nước lạnh nửa giờ rồi đeo bảng "Ngoan cố" hoặc "Phản cách
mạng" mà ddi diễu trước mọi người. Cả những gương tự vẫn bị quẳng xác lên
đồi làm mồi cho sài cứu nữa. Hai người tất nhiên cũng phải hiểu hoặc cố hiểu rằng
lý do tẩy não hoán não điêu đứng như vậy chính là để sau đây có thể phục vụ cho
đoàn thể, phục vụ cho kháng chiến đắc lực gấp bội.
Nhưng hai người đã phản ứng ngược lại với dự tính của Đảng, mỗi
người một cách!
Phần nặng nhất của Hãng là có ông nội làm tay sai cho giặc (cụ
đề Kình), và cha là địa chủ (ông phán Nghị). Nhưng phần kiểm thảo bản Hãng chưa
xong thì Duy Hoàn đã cứu Hãng bằng tấn bi hài kịch do chính Duy Hoàn vừa đạo diễn
vừa thủ vở.
V
Cũng như Hãng, Duy Hoàn khởi sự buổi học tập bằng cách thuật
lại tiểu sử, Duy Hoàn thuật miệng chứ chẳng phải nhìn vào giấy tờ chi cả. Lẽ cố
nhiên tiểu sử Duy Hoàn cùng có lởn vởn những bóng ma. Ban lãnh đạo học tập
không ngắt lời Duy Hoàn vì cần thu lượm những bằng cớ hoang đường đó để "đập"
lại sau này, còn anh em khác thì nín thở theo dõi, kể cả những anh đã được nghe
chuyện một lần rồi. Trong bầu không khí nghẹt ngào u uất của học tập tam phản
mà có được một buổi công khai nghe chuyện ma như vậy, giây phút giải thoát đó
giá đáng ngàn vàng.
° °
°
Tôi sinh ngay tại tỉnh Kiến An, mồ côi cha mẹ từ sớm, ở với
người anh giai làm thư ký tòa Sứ. Hàng tuần anh tôi họp các bạn tại nhà vào
ngày chủ nhật để họa đàn. Anh tôi mê đàn hơn mê gái nên năm đó đã trên hai mươi
tuổi rồi mà chưa chịu lấy vợ. Tuổi tôi mới chừng mười hai, mười ba. Trong lúc
anh tôi cùng các bạn họa đàn tại phòng khách thì tôi nằm ở trong phòng nghe lỏm;
chẳng bao lâu tôi thuộc hết những bài anh tôi thường họa: Bình bán, Lưu thủy,
hành vân, Khổng Minh tọa lầu, Tay thi, Kim tiền ... Vào những ngày giờ anh tôi
đi làm, tôi mang cây đàn từ xuống dò lại những bài đó, rồi tụ tập các bạn trể
cùng lứa tuổi tại nhà, đàn và dạy chúng hát. Chúng thích lắm. Đôi khi tôi đánh
đứt dây đàn nối không đúng kiểu, anh tôi chỉ mặt dọa đánh, lại có khi tôi đương
tụ tập dạy hát thì anh tôi quên cái gì chợt về, tôi bị những cái củng tưởng như
đến thủng đầu. Tôi sợ anh như cha, có phần hơn thế. Buổi chiều khi đi học về,
anh tôi cũng đã ở sở về, tôi len lét như rắn mùng năm. Không phải là anh tôi
nghiêm ác gì, người vốn có cái oai như vậy. Năm mười sáu tuổi tôi thi được vào
trường Canh Nông Thực Hành tại Tuyên Quang. Tôi sống cuộc đời tự lập. Nơi dây
tôi gặp một anh bạn giỏi kéo nhị, thường cùng tôi họa đàn vào những ngày giờ
nghỉ. Anh bạn dạy tôi thêm đàn tam thập lục. Nói là tam thập lục kỳ thực những
ba mười tám giây, vì còn phải kể thêm hai giây chập đôi thật trầm nữa. Tôi chơi
giỏi tam thập lục những bản Tàu như Chống Bản, Vương Cô Nương, Nhì Voòng ... Bản
Vương Cô Nương nghe như lời khóc than thiết tha của người đàn bà xa tình nhân
vào thời chinh chiến; bản Nhì Voòng tức là Nhị Vương - hai vua - thoạt có khúc
dạo, rồi đến bản đàn chính nghe như hai vua ngồi đàm thoại với nhau về quốc kế
dân sinh, đoạn kết thúc nghe sang sảng như tiếng cười tâm đầu ý hợp của hai vua
trước khi chia tay. Đàn đó đắt quá, của anh bạn, nên từ sau ngày dời khỏi Tuyên
Quang tôi không được mò tới lần nào nữa. Chương trình lớp canh nông thực hành học
hai năm. Vào dịp hè tôi có về Kiến An thăm anh. Giờ đây tôi tự coi như đã trưởng
thành, không còn len lét sợ anh như xưa nữa. Hai anh em họa đàn. Thấy tôi chơi
hay và đúng anh tôi ngạc nhiên hỏi: "Chú biết đánh đàn tự bao giờ thế?"
Tôi đáp là đã biết đánh mò thừ thuở còn ở nhà với anh. Tốt nghiệp ở trường canh
nông Tuyên Quang ra, chưa kịp đền đáp công nuôi nấn của anh chút nào thì anh bị
bạo bệnh mất. Tôi vào Thanh Hóa nhận việc tại đồng điền Vân Du, một đồn điền
nhà nước mới phai phá (Một vài người mỉm cười một cách kín đáo vì họb biết sắp
đến đoạn kể chuyện ma).
Chuyến tàu xuyên Việt qua đèo Đồng Giao sang địa phận Thanh
Hóa tới ga Bỉm Sơn ngừng lại mấy phút. Tôi xuống ga này và còn phải đi vào chừng
mười sáu cây số nữa mới tới đồn điền Vân Du. Đền Phố Cát cách đấy chừng một
cây, vào những ngày rằm, mùng một, phu và cai đều tới đền lễ để cầu xin bà Liễu
Hạnh che chở cho khỏi bị ma rừng quấy nhiễu. Tối đầu khi vừa thiu thiu ngủ tôi
bỗng thấy có người nằm ngay cạnh tôi. Trí suy xét còn hoàn toàn minh mẫn, tôi
nhớ rằng mình đến đồn điền có một mình, và một mình mình ở căn nhà ba gian này,
cai và phu ở chung một căn khà khác phía gần cổng, thì làm sao có người thứ hai
nằm cạnh được? Tôi cất tiếng hỏi dõng dạc: "Anh là ai mà nằm cạnh tôI
thê" này?" - Nó đáp, giọng con gái: "Tôi là cô An đây mà, anh
Hai!". Cô An! Sao nó biết chuyện cô An với tôi? Nguyên vì khi còn học ở
Tuyên Quang, vào những đêm trăng, thế nào tôi và anh bạn cũng bỏ ra ít thì giờ
lên đồi họa đàn. Cô An thường đứng lẩn ở chân đồi nghe trộm, cô là con gái ông
giám đốc trường, cũng trạc tuổi tôi. Một lần gặp tôi trên đường, cô nói:
"Anh Hai chơi đàn hay lắm, anh Hai!". Ý cô muốn đợi tôi tỏ tình. Vì
ít thời giờ quá, chương trình học nặng cả về lý thuyết lẫn thực hành nên chuyện
đó tôi bỏ qua, nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao cô ta biết tôi là con thứ hai
trong gia đình. Tôi vừa nghĩ đến đây thì người nằm cạnh thọc nách cù tôi, lập tức
tôi dùng cùi tay gạt hắn ra lia lịa, chứ không dám đấm (tôi còn nhớ rõ đấy là
đàn bà). Vì làm nhiều cử động như vậy, tôi tự trạng thái nửa mê nửa tỉnh trở
thành tỉnh hẳn. Tôi bàng hoàng nhìn quanh không thấy ai. Tôi vẫn chưa biết mặt
hắn. Sau đó tôi ngủ yên suốt đêm. Ba bốn đêm sau liền không hề thấy động tỉnh
gì. Sắp rằm tháng tám, tôi muốn về ăn tết Trung Thu với ít người thân ở Kiến
An. Tôi dời đồn điền vào sáng sớm, đi xe đạp. Dọc đường tôi nghỉ ở hai chặng:
Ninh Bình và Phủ Lý. Tôi tới Hà Nội vào khoảng năm giờ chiều, định ra ngồi ghế
đá ngắm hồ Hoàn Kiếm một lúc rồi đi ăn và mua bánh trung thu sửa soạn mai về Kiến
An là vừa. Vừa ghếch xe đạp cạnh ghế đá chưa kịp ngồi thì có bàn tay ai đặt
trên vai tôi. Giật mình quay lại, tôi vui mừng nhận ra anh bạn thân thường cùng
tôi họa đàn ở Tuyên Quang. Anh được bổ đi làm ở một đồn điền nhà nước tại Sơn
Tây, anh cũng vừa về tới Hà Nội sắp sửa đi mua bánh trung thu để còn kịp về
thăm nhà trong Hà Đông. Anh rủ tôi về ăn Trung Thu tại Hà Đông với gia đình
anh, nhân tiện anh sẽ kể một câu chuyện có liên lạc với tôi. Tôi cũng muốn về
Hà Đông lắm để cùng anh bạn họa lại những bản đàn Chống Bản, Vương Cô Nương,
Nhì Voòng, nhưng mệt quá rồi, tôi từ chối; anh bạn bèn ngồi ngày ghế đá kể chuyện
cô An. Cô An đã chết. Cô treo cổ trên sà nhà tự tử. Cô có mang với anh bạn xấu
nhất và dốt nhất lớp, hiện còn phải ở lại học đúp một năm nữa. Da đen mặt rỗ,
người gầy như que củi nhưng rất tốt bụng, khi hay tin An có mang, anh bàn chuyện
ăn hỏi và làm lễ cưới, nhưng An nói thẳng cho anh hay là An không yêu anh mà chỉ
thầm yêu trộm nhớ có tôi. Rồi An tự tử.
Kể xong chuyện anh bạn tôi cười, kết luận: Đứa con đó đẻ ra,
nhất định giống cậu vì khi ngủ với hắn, An tơ tưởng đến cậu.
Tôi chưa yêu An, không mấy khi nghĩ đến An nhưng hay tin An
chết như vậy tôi thương nàng vô cùng.
Ăn tết trung thu ở Kiến An xong tôi trở về đôn điền Vân Du bằng
đường ngang qua Nam Định. Lần thứ hai tới đồn điền này, tôi mới có dịp quan sát
kỹ địa thế nơi đây. Cả Thanh Hóa chỉ vùng này có đất đỏ, xung quanh là rừng
già, cây lớn tới sáu bảy người ôm, thổ dân phần lớn là người Mường. Tự đó có đường
xuyên rừng đi Nho Quan thuộc Ninh Bình. Tôi bắt đầu trông nom việc giồng sơn và
giồng cam. Hổ báo nơi đây đã nhiều, đồn điền lại có con bò mộng giống Ấn Độ,
đêm đêm gầm lên chẳng khác gì tiếng cọp gầm. Tôi còn sắp khám phá thêm một điều.
Căn nhà chính ba gian thênh thang, gian giữa có tiền đình, phòng khách rồi
phòng ăn, gian phía Nam làm nhà kho chứa thóc và dụng cụ, tôi ở gian phía Bắc.
Tôi hỏi người cai: "Lấy vợ hiền hòa làm nhà hướng Nam, tai sao gian hướng
Nam lại dùng làm nhà kho? Ở gian hướng Bắc thế này, rồi sắp tới mùa lạnh đây chịu
sao được?" - Lúc đó người cai mới nói thực là cách đây một năm, khi căn
nhà này sắp hoành thành thì hai chú cháu người thợ mộc có điều chi xô xát, người
cháu sẵn rìu trong tay bổ chú một nhát chết tươi. Nhà làm xong người cai có
mang vợ đến ở gian phía Nam, nhưng bảy ngày sau người vợ cuốn gói về quê, không
dám ở nữa, vì hể cứ chợp mắt là ma xuất hiện, khi thì thọc nách cù, khi thì bóp
cổ, trên cả hai vợ chồng. Vợ về quê, người cai xuống căn nhà gần phía cổng, ngủ
chung với phu.
Hôm sau tôi nhất định cho chuyển kho thóc và dụng cụ sang
gian phòng phía Bắc, tôi ở gian phòng phía Nam. Người cai dặn hễ đêm khuya thấy
ai rung cửa dù gấp đến mấy cũng chớ có mở. Mấy đêm qua không có chi lạ, tới buổi
tối đó, đương nằm đọc sách dưới anh đèn dầu tôi chợt thiu thiu ngủ và thấy cánh
cửa rung lên như có người cầu cứu bên ngoài. Vẫn trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh
tôI lẳng lặng quan sát cho rằng gió lớn chuyển rừng. Bỗng bên phòng khách có tiếng
đưa võng và tiếng ru con. Tôi nhớ rõ phòng khách không có chỗ nà mắc võng, và đồn
điền không có đàn bà. Tôi cố rướn mắt cho tỉnh hẳn nhưng chỉ được chừng một
phút, tôi lại rùng mình thấy tim nặng và chìm vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê,
nhưng đầu óc rất sáng suốt để nghe thấy rõ tiếng võng kẽo kẹt và tiếng ru con.
Sau cùng tôi cố vùng dậy ra khép cánh cửa thông sang phòng khác và nói:
"Thôi được, bên đó mày cứ ru con, bên này tao ngủ". Rồi tô ngủ như
thường. Cứ thế cách dăm bảy hôm lại một lần tôi rơi vào trạng thái nửa mơ nửa tỉnh,
khi thì cảm thấy như giường bay lên trần nhà, khi thì cảm thấy như giường trôi
veo veo quanh phòng. Những lúc đó tôi trùm kín chăn tự nhủ: "Kệ cho mày nô
rỡn, mày có lật tao xuống đất thì tao lại leo lên giường ngủ như thường".
Tôi tự hỏi phải chăng đúng vào lúc nửa mơ nửa tỉnh, trí xét đoán minh mẫn như vậy,
là lúc mình ở trạng thái có thể giao cảm với hai miền âm dương?
Thường thường tôi tự trạng thái tỉnh chìm xuống trạng thái nửa
mơ nửa tỉnh, nhưng tới đêm kia vào khoảng hai ba giờ sáng tôi đương ngủ mê mệt
bỗng bình bồng nổi lên trang thái nửa mơ nửa tỉnh và nghe tiếng trẻ con khóc lặng
bên phòng khách. Thường khi nghe tiếng khóc lặng như vậy, bao giờ ta cũng ngóng
đợi cho tới lúc đứa bé lấy lại được hơi và khóc sang đợt khác, lần này tôi nghe
tiếng khóc ằng ặc bặt luô, tựa hồ đứa bé bị bóp cổ cho nghẹt thở. Tôi còn đương
phân vân thì thấy có người vén màn lên, trời ơi, An! An ăn vận hệt hôm gặp tôi
giữa đường và khen tôi câu: "Anh Hai chơi đàn hay lắm, anh Hai". Tôi
ngồi nhỏm dậy nắm lấy tay An, An rụt vội tay lại. Sực tỉnh hẳn, thấy mình quả
đã ngồi dậy, trước mặt không có gì, vừa lúc con bo Ấn Độ gầm lên một tiếng hãi
hùng. Tôi cứ tưởng đêm sau, tôi tất còn gặp An nữa, nhưng không, cả tiếng võng
kĩu kịt và tiếng ru con cũng bặt mất. Một đêm kia thấy màn rung động, mở mắt ra
tôi thấy ba người đàn ông, một người dưới chân giường đối diện tôi, một người
ngồi mép giường sát khủy tay trái của tôi và một người đứng. Tôi hỏi: "Các
anh muốn gì mà vào đây?" - Người ngồi dước chân giường đáp: "Thưa
ông, xin ông cúng cho chúng con". - Tôi làm vẻ gật đầu: "Được rồi!"
Khi ba người ra tới gần cửa tôi chợt nhớ một điều vội gọi lại: "Các anh phải
cho tôi biết tên chứ." Người trước đây ngồi dưới chân giường đáp:
"Con tên là Chu Trác Ngọc, hai em con đây là Chu Trác My và Chu Trác Phục".
Tôi thấy những tên đó không có vẻ Việt Nam chút nào. Tôi lại hỏi: "Thế các
anh ở đâu?" Chu Trác Ngọc đáp: "Chúng con đều ở núi Ông Voi".
Tôi nghĩ thầm: "Quái ở KIến An mới có núi Ông Voi chứ ở đây làm gì có núi ấy".
Rồi ngủ thiếp đi. Hôm sau hỏi người cai mới hay vùng này có núi Ông Voi, cách đồn
điền chừng sáu cây số. Tôi tới thăm, núi đó chỉ là một ngọn đồi thấp nhấp nhô
lên giữa khoảng đồng lầy, lau sậy mọc ngút ngàn. Dân cư vùng này vào mùa mưa phảI
trữ thức ăn chừng mươi hôm, vì khi mưa, nước lũ đổ xuống, cả vùng biến thành biển
hồ, có nhà nền cao một thước mà nước lên mấp mí bực cửa. Trên núi Ông Voi có một
khu làm nghĩa địa, có một cái miễu bỏ hoang đã lâu ngày không ai cúng vái gì. Trở
về đồn điền, nhớ lại lời hứa của mình đêm hôm trước tôi có mua đồ cúng. Bảo là
tin tôi không tin hẳn, cho đến nay tôi cố tìm hiểu trạng thái nửa mơ nửa tỉnh
đó. Bảo là sợ, tôi cũng không hề sợ, vì tôi đã quen với trạng thái hồi hộp này
lắm, nhất là cũng có khi trong trạng thái này tôi thấy mình đi vào một thế giới
có thứ nắng vàng đẹp vô cùng. Thực tình tôi ngờ là con người có một linh khiếu
nào khiến mình có thể nhìn thấy một chiều khác của sự vật. Linh khiếu đó, khoa
học chưa khám phá ra hoặc không thể khám phá ra được.
Buổi học tập tạm ngừng vì đã mười hai giờ khuya. Để "giải
độc" bầu không khí những mộng cùng mị những mà cùng quái đó, chính trị
viên đại đội lên tiếng:
- Chúng ta tạm ngừng ở đây để tối mai tiếp tục. Đồng chí Duy
Hoàn đã thuật lại tiểu sử bằng một giọng thành thực, tuy nhiên hẳn các đồng chí
cũng nhận thấy qua lời tự thuật, tính cách lãng mạn rẻ tiền tiểu tư sảng và tư
tưởng huyền bí phản Mác Lê! Đó là những con rắn độc thuở nhân sinh quan kể từ
1945 trở về trước, chúng ta có bổn phận chuẩn bị giúp đồng chí Duy Hoan đánh rập
đầu những con rắn độc đó!
VI
Lời cảnh cáo của chính trị viên đại đội không ảnh hưởng gì đến
Duy Hoàn; hôm sau anh thuật đến quãng đời tham gia cách mạng của anh, thoạt là
khoảng thời gian đi tuyên truyền trên chiếc xe ngựa và gặp Phương Thảo. Anh kể
rất kỹ mối tình của anh với Phương Thảo, anh thuật rõ cả buổi ân ái dưới trăng
trên mỏm Hòn Đầu và niềm tin do linh tính báo là Phương Thảo đã ra người thiên
cổ. Trái lại tới quãng đời gia nhập bộ đội chiến đấu, anh kể rất ngắn gọn, anh
quên cả việc anh đã được thưởng huân chương chiến sĩ hạng nhất.
Cũng như Hãng, Duy Hoàn đã ngồi để anh em chất vấn hai đêm liền,
Duy Hoàn không đơn giản và thẳng ruột ngựa như Hãng. Nếu Hãng có thái độ sẵn
sàng nhận lỗi nếu quả đó là lỗi thật, Duy Hoàn trái lại có vẻ cương quyết âm thầm
(âm thầm với anh nhưng thách thức với toàn ban học tập) của một một con ngựa
già trở về đường cũ theo khe rừng lạch suối. Nếu Hãng giữ được thái độ hồn
nhiên suốt từ đầu đến cuối buổi chất vấn thì Duy Hoàn càng về sau càng có thái
độ nửa khinh mạn nửa chua chát nhưng luôn luôn giữ vững lập trường của anh và
tuyên bố rằng đó là những lời thực ý nghĩa thực. Anh ngước nhìn người chất vấn
chăm chú như nhìn ai, anh trả lời trầm trầm như còn đồng thời lắng nghe lời ủng
hộ của An, của Phương Thảo ở thế giới bên kia; lời đáp của anh đôi khi như văng
vẳng âm u trên một nền âm thanh cổ xưa của những bản Vương Cô Nương, Nhì Voòng,
Kim Tiền ...
Vừa hay có thêm một đồng chí tự vẫn vì phong trào tam phản. Một
người dân địa phương có cảm tình với xẻ xấu số này bèn gửii vào cho chiếc áo
quan. Phó chính ủy lãnh đạo phong tar`o học tập cương quyết khước từ và tập hợp
tất cả anh em quanh xác nạn nhân - (Duy Hoàn được xếp đứng sát với phó chính ủy)
- trịnh trọng tuyên bố tước đảng tịch, tước quân tịch, tước quyền công dân vì tội
đã làm ô nhục thanh danh Đảng, thanh danh quân dội, rồi cho vùi nông trên núi.
Qua một đêm, hôm sau mất xác: loài sài cứu đã mò tới bới mộ lên ...
Duy Hoàn tuyên bố với tổ tâm giao sẽ thú nhận hết tội lỗi trong
những trang phản tỉnh thư cuối cùng. Tổ tâm giao lập tức mật báo tin đó lên ban
lãnh đạo học tập. Phó chính ủy Lê K. mỉm một nụ cười đắc thắng nói với thiếu tướng
chính ủy: "Thưa đồng chí thế là chúng ta đã khám phá thêm một tên phản
cách mạng, truy kích tơi bời thêm một kẻ thù của tư tưởng Mác-Lê".
Tổ tâm giao quan sát thấy Duy Hoàn lục tận đáy ba lô lấy ra một
quyễn nhật ký cũ, rồi vừa đổi chiều nhật ký vừa hý hoáy viết bổ túc phản tỉnh
thư dưới ánh đèn dầu leo lét. Tiếng violon của ban nhạc nỉ non bên ngoài, rồi
giọng ca u sầu bài Bạch Mao Nữ: "Anh có nhớ chăng quê hương tơi bời khói lửa?"
...
Buổi tối khi Duy Hoàn lên ngồi sập, ban lãnh đạo học tập có cảm
tưởng như hai bên má Duy Hoàn hóp hẳn, mái tóc bù lên, cả khuôn mặt thiểu não.
Duy Hoàn đứng lên lảo đảo tưởng sắp ngất, nhưng anh bỗng cười thé, tiếng cười
khác thường, ai nấy trố mắt ngạc nhiên. TIếng cười ngắn và dứt ngay, vài người ở
cuối phòng đã trí chưa kịp nhận ra thì Duy Hoàn đã cất tiếng nói:
- Tôi là một tên duy tâm không tưởng, tôi thật có tội với
nhân dân, tôi thật là một tên Việt gian phá hoại Đảng!
Tất cả phòng họp im lặng hồi hộp.
Duy Hoàn bắt đầu tự kể tội, bốn tội lớn.
Tội thứ nhất vào tháng giêng năm 1944 rắp tâm đầu độc anh vì
anh đã quá nghiêm khắc với mình. Duy Hoàn kể tỉ mỉ mua năm viên gardenal, tán
nhỏ, pha vào ấm nước, để trên table de nuit vì biết ông anh thường
đêm đêm sực dậy uống nước; may thay đêm đó ông anh đã ngủ say một mạch đến
sáng, nếu không Duy Hoàn đã thành người giết anh, một ông anh vô cùng gương mẫu
đã thay cha nuôi mình ăn học nên người.
Tội thứ hai vào tháng mười năm 1947. Ngày đó Duy Hoàn ngồi
nói chuyện với một tên mà Duy Hoàn biết là gián điệp của địch tại một quán nước
dưới chân núi Tam Đảo. Bất mãn vì cuộc kháng chiến quả có vẻ trường kỳ, trong
câu chuyện Duy Hoàn đã cố ý tiết lộ là bộ đội ta hiện đương đóng trên Tam Đảo.
Hôm sau phi cơ địch oanh tạc Tam Đảo, Duy Hoàn những mong bộ đội ta sớm bị tận
diệt để trở về thủ đô sống nô lệ nhưng thanh bình.
Tội thứ ba vào tháng 5 năm 1948 Duy Hoàn quyết tâm vào tề.
Duy Hoàn khởi hành từ thị trấn Phú Lộc thuộc huyện Phù Ninh tỉnh Phú Thọ, qua
chợ Vàng, tới bến Vàng, qua sông Phó Đáy, tới Phú Vinh, chỉ còn chặng cuối cùng
qua Đông Đạo nữa là tới tỉnh lỵ Vĩnh Yên, vùng địch kiểm soát. Rủi thay tới
Đông Đạo, Duy Hoàn thấy nhiều công an quá, biết là không thể đi thoát, đành nuốt
hận quay về đường cũ.
Tội thứ tư vào tháng chạp năm 1950, nhân một dịp Duy Hoàn đi
công tác vào vùng hậu địch ở chân núi Thiên Thai thuộc Bắc Ninh, Duy Hoàn đã
quyến rũ một nữ cán bộ có phận sự dẫn đường. Sau cùng vào một đêm tối trời Duy
Hoàn đã hiếp nữ cán bộ trên bờ sông máng.
Duy Hoàn vừa giứt lời thú tội, phó chính ủy lãnh đạo học tập
đứng ra cổ súy:
- Nhân danh Đảng, nhân danh quân đội, tôi khen ngợi đồng chí
Duy Hoàn đã chiến thắng kẻ thù tội lỗi, tôi khen ngợi các đồng chí khác đã giúp
đồng chí Duy Hoàn truy kích được kẻ thù tư tưởng!
Rồi mọi người theo phó chính ủy hô mấy khẩu hiệu hùng hồn trước
khi cùng hát Quốc Tế Ca. Khi im lặng trở lại như cũ, Duy Hoàn đứng lên nói:
- Thưa các đồng chí, thành thật cám ơn các đồng chí đã khích
lệ. Tôi thiết nghĩ tạo hóa sinh ra con người không dễ ai mỗi lúc tiêu diệt được
bản chất con người đó. Các đồng chí vừa đồng ca Quốc Tế Ca, giờ đây tôi xin đơn
ca bài khác hợp với bản chất tôi, đó là bài hát theo điệu Kim Tiền nhan đề
"Dưới trăng" do anh tôi làm vào dịp thưởng trăng thu, bài này làm ra
được một tháng thì anh tôi mất.
Giọng Duy Hoàn cất lên ấm và buồn khác hẳn với giọng thù hận
đằng đằng sát khí của Quốc Tế Ca.
Anh em chúng ta, nay họp mặt chơi,
Vui dưới trăng được buổi sáng trời.
(Mọi người cảm thấy rùng mình, lời ca tựa như mang ánh trăng
mát lạnh vào phòng họp)
Ta ngắm trăng ánh sáng rạng soi
Sáng tỏa khắp nơi
Hương sắc trời
Cơn gió thoảng
Hương sắc trời
Ta thấy ta muôn tình tỉnh say.
(Mọi người thốt nhớ đến mối tình thất vọng của An đối với Duy
Hoàn, và mối tình thơ mộng dưới trăng của Duy Hoàn với Phương Thảo).
Mảnh hồn lẹ bay
Là bay ruổi theo mây bạc
Cùng tận khắp nơi
Ngày năm không thôi.
(Ai nấy nhắm mắt nương theo giọng ca nhịp nhàng của Duy Hoàn,
như muốn được uống ánh trăng thần tiên).
Chốn này êm ái lắm thay!
Chốn này êm ấm lắm thay!
Thú vui trong mộng,
Dưới trời sáng rộng,
Này cảnh trăng mây,
Thú vui trong mộng
Dưới trời sáng rộng ...
(Tiếng rên xiết kêu gọi căm hờn của Quốc Tế Ca không còn một
chút đồng vọng. Giọng hát đơn độc đáng yêu của Duy Hoàn đã dìu anh em về quê
hương thật của lòng người, quê hương hiền hòa thơ mộng)
Anh em chúng ta, nay họp mặt chơi
Vui dưới trăng được buổi sáng trời
Ta ngắm trăng ánh vàng rạng soi
Sáng tỏa khắp nơi.
Duy Hoàn ngừng giọng. Anh em mong đợi giọng hát còn tiếp tục
để kéo dài giây phút quý giá gặp gỡ quê hương nhưng Duy Hoàn ngừng hẳn.
- Thưa các đồng chí - giọng Duy Hoàn nghe sao mệt mỏi chán
chường - bài hát theo điệu Kim Tiền vừa qua là của anh tôi làm để thưởng trăng
thu năm 1943, sau đó một tháng, anh tôi mất, mãi tới tháng giêng năm 1944 tôi mới
rắp tâm đầu độc anh tôi! Cả tháng mười năm 1947 tôi ở mặt trận sông Lô truy
kích địch đến Đoan Hùng, sau trận truy kích cuối cùng này, anh P. trung đội phó
vì suốt một tuần mỗI ngày hai lần lên cơn sốt rét, nên tới phủ Đoan vừa uống
xong cốc nước tranh, bị cấm khẩu chết liền. Anh N. hồi đó là trung đội trưởng
hiện có ở đây chắc hẳn nhớ chuyện đó. Tháng năm năm 1948, chúng tôi đương thực
tập bôn tập tại Phúc Trìu thuộc Thái Nguyên, thực tập bằng cách ôm súng lăn từ
cao trên sườn núi Guột cho tới khi rơi tòm xuống dòng sông Kông, đồng chí H.
người đã đặt cho tôi cá tên hiệu Mã Siêu hiện có ở đây, hẳn nhớ chuyện đó.
Tháng chạp năm 1950 địch oanh tạc dữ lắm, hai con chó đùa nhau trên bờ sông
máng tung bụi mù, B24 địch cũng sà xuống bắn chết, đã có một lần đồng chí chính
trị viên đại đội trong ban lãnh đạo học tập đây chỉ kịp quẳng chiếc xe đạp Sterling trên
mặt đường mà nhẩy vội xuống hầm trú ẩn, chếc xe đạp bị bắn nát khung. Phải đợi
tối đến thắp đèn lên mới biết những ai còn sống. Cả đại đội hoạt động trên đường
số 5 phải đào lại tranchée theo lối hàm ếch. Thưa các đồng chí tôi đã
tự tố cáo là Việt gian phá hoại Đảng! Nhưng hãy xét lại coi, khi tôi nói thực
thì không tin, đến khi tôi bịa chuyện thì hát Quốc tế ca chào mừng. (Giọng Duy
Hoàn bỗng đanh lại) Việt gian phá hoại Đảng chính là các anh (Duy Hoàn không
dùng hai chữ "đồng chí" nữa) - chính là các anh trong ban lãnh đạo học
tập tam phản! Tôi yêu các bóng ma của tôi còn có lý bằng vạn các anh yêu những
bóng ma tội lỗi của các anh!
Không ai ngờ câu chuyện xoay chiều ra như thế. Duy Hoàn đã
khéo dẫn dắt câu chuyện nửa úp nửa mở, đến giây phút cuối cùng, phó chính ủy Lê
K. mới vỡ lẽ. Y đứng phắt dậy quắc mắt nói như thét:
- Đồng chí Duy Hoàn loạn trí, các đồng chí trong tổ tâm giao
hãy đưa đồng chí Duy Hoàn về phòng!
VII
Ban lãnh đạo học tập vẫn hàng ngày hội ý hội báo nên rất rõ
tình hình học tập toàn thể. Khi tấn bi hài kịch do Duy Hoàn đạo diễn và thủ vở
vừa chấm dứt, lập tức chính ủy cho liên lạc sang ngay bên đại đội Hãng yêu cầu
ngừng học tập kẻo rơi vào trường hợp Duy Hoàn.
Không rõ qua một đêm hội ý hội báo, ban lãnh đạo học tập quyết
định những gì? Dù sao thì quyết định đó cũng bằng thừa vì công văn Trung ương Đảng
bộ bên nước nhà vừa tới kia cho hay tất cả những chỉ thị, thông cáo, mệnh lệnh
về tam phản đều được tạm thời bãi bỏ tới khi có lệnh mới.
Nguyên do: Trung ương Đảng bộ khi nhận được phúc trình của
Thiếu tướng chính ủy Trần B. cho hay là y đã khám phá ra 70% Việt gian trong
trường Lục quân thì ai nấy đều thất kinh, biết là y đã đi quá trớn, nhất là
trong bản phúc trình còn ghi rõ chi tiết những hình phạt và những vụ tự vẫn. Sợ
trường Lục quân nổi loạn, Trung ương Đảng bộ cử ngay một phái đoàn điều tra do
Nguyễn chí T. cầm đầu. Một đảng ủy viên của Trung Cộng cũng được cử từ Bắc Kinh
xuống gia nhập phái đoàn này. Phái đoàn trực tiếp xem các hồ sơ, trực tiếp đến
hỏi những người đã bị ghi trong lý lịch là: "Phản cách mạng". Lúc đó
các học viên mới được dịp bộc lộ thật. Có cả người co rúm lại, biến dạng đi,
nói như thét, có người vừa nói vừa nghiến răng kèn kẹt, có người vừa nói vừa
khóc ... Họ nói:
- Từ sau chiến thắng Cao Bắc Lạng tôi có về thăm gia đình
không? Không ! Chính tôi chỉ huy đại đội bắt sống được tên Ch. của 2/3 REI, sau
đó tôi được huân chương hạng nhất, như vậy mà tôi phản cách mạng à?
- Tôi hoạt động trong vùng địch, tôi đã từng bị phòng phản
gián địch tra tấn sống đi chết lại, chúng tha tôi về, không phải vì tưởng tôi
vô tội mà vì chúng sợ tôi chết trong sà lim, thế mà ghi vào lý lịch tôi là phản
cách mạng à?
- Vân vân và vân vân ....
Sau cùng đến chính những "người điển hình" mở đầu
phong trào tam phản cũng đứng ra thú nhận những tội lỗi mình bộc lộ trước đây đều
là những tội lỗi tưởng tượng, để vừa chứng tỏ mình đã khắc phục được lòng tự
ái, vừa khuyến khích những người sau.
Để thoa dịu sự công phẫn của phần lớn học viên, Nguyễn chí T.
cho mở cuộc tổng kiểm thảo giữa toàn thể học viên với tên thiếu tướng chính ủy
Trần B. và toàn ban lãnh đạo học tập, kể cả tên sư đoàn trưởng cố vấn. Thái độ
tên chính ủy hết sức mềm dẻo. Các học viên thay phiên nhau gay gắt chất vấn làm
sao, gay gắt phê bình làm sao, hắn nhận hết lỗi. Phẫn uất bộc lộ đến cực độ,
trong đám học viên có tiếng nói vắt vẻo như tiếng chửi đổng: "Cứ cho nó một
quả lựu đạn hay một phát mút cơ tông!"
Trần B. vẫn luôn giữ nụ cười nhũn nhặn. Hắn đứng lên kết luận
cuộc tổng kiểm thảo:
- "Thưa các đồng chí, trong phong trào tam phản vừa qua
tôi đã lầm lẫn nhiều. Trong số ba ngàn học viên, phần lớn các đồng chí bị nghi
oan, một số đồng chí bị thác oan. Sai lầm thì chúng ta thẳng thắn sửa đổi cho kịp
thời, đúng với tinh thần bôn sê vích! ...
Giọng chính ủy đanh dần:
- ... Nhưng vì quyền lời Đảng, uy tín Đảng xin đồng chí tuyệt
đối không nên công bố những chuyện đó khi về nước.
Đôi môi chính ủy mím lại, đôi mắt y quắc lên, vẻ nhũn nhặn nhận
lỗi vừa qua không còn mảy may dấu vết:
- Những đồng chí nào ở lại khóa tám làm công tác ở hiệu bộ
nên nhớ cho điều này: "Khóa tám mà nghi ngờ, khóa bảy chịu trách nhiệm!"
Thực tình tới lúc đó Hãng mới cảm thấy cái vẻ muôn mặt đáng
kinh tởm của những kẻ lãnh đạo Đảng. (Lẽ cố nhiên Duy Hoàn quá hiểu điều đó từ
lâu rồi).
Chắc hẳn tên chính ủy Trần B. không quên câu nói lớn của một
học viên: "Cứ cho nó một quả lựu đạn hay một phát mút cơ tông", nên kể
từ đấy, nơi hắn ở có lính Tàu gác.
Hãng nhận thấy - Hãng bắt đầu chú ý để nhận xét - Đảng để cho
những người được quần chúng cảm tình ra lãnh đạo, chính Hãng và Duy Hoàn mỗi
người phải phụ trách một trung đội. Mấy ngày đầu, hiệu bộ đành để mặc cho các
chiến sĩ muốn làm gì thì làm, các người trong ban lãnh đạo học tập luôn luôn nở
nụ cười, mặc cho các chiến sĩ thốt lên những lời mỉa may cay độc. Nhiều người bỏ
bữa ăn trưa, họ lang thang lên tận Minh Hồ, cách Phụng Minh Thôn chừng ba cây số,
để ngắm cảnh hồ (hồ này dài 20 cây số, lên tận Côn Minh) hoặc để thăm các bạn của
họ theo lớp sĩ quan trung cấp (tiểu đoàn trưởng trở lên) và sơ cấp (đại đội trưởng
trở xuống) tại đó. Hãng mệnh danh cho chính sách Đảng vào thời này là chính
sách nụ cười - politique du sourire.
Đáng lẽ sau cuộc tổng kiểm thảo chỉ còn nửa tháng thì mản
khóa, nhưng chính ủy quyết định kéo dài khóa học thêm ba tháng nữa để học tập về
"sự tiến bộ không ngừng" của Đảng sau sự sai lầm vừa qua và nhất là để
nghiên cứu về tư cách một "cán bộ gương mẫu" biết giữ uy tín và danh
dự cho Đảng trong mọi trường hợp. Tuy học tập khẩn trương là vậy mà một số lớn
vẫn bất mãn ra mặt. Những phần tử bất mãn nhất được đề nghị ở lại theo học khóa
tám.
CHƯƠNG VI
DÒNG SUỐI TÌM ĐƯỜNG
I
Lần cuối cùng Hiển được nghe kể dứt câu chuyện lục quân khóa
bảy này đúng vào một dịp Kha đi tuần đêm. Kể dứt chuyện, Kha còn đứng bên Hiển
trong khi Hiển ôn lại trong trí cả khung cảnh Phụng Minh Thôn. Hiển nhớ nhất
khoảng rừng thông phía Tây mà chàng đã băng qua ngày nào vừa tự Nga về, khu rừng
có những con sóc đuôi xòe như bông lau từ trên cao nhìn xuống với đôi mắt đen
tò mò một cách ngộ nghĩnh. Hiển nhớ cả con đường mòn dưới rạng thông đưa xuống
một dòng suối rộng, nước trong như pha lê và lạnh buốt, hai bên bờ là những bụi
cây nhỏ hoa tím và những cây leo hoa vàng. Tựa hồ như tâm hồn Hiển đang mở rộng
... mở rộng ... Ngay lúc đó Hiển chưa rõ lý do vì sao mà chàng có cảm giác vui
vui như vậy, chỉ biết Hiển quên bẵng cả Kha bên cạnh và tiếp tục nghĩ về dòng
suối rộng chảy dưới khu rừng thông phía Tây, dòng suối theo hướng Đông Bắc tìm
đường đổ ra Dương Tử Giang ... phải rồi, dòng suối tìm đường đổ ra Dương Tử
Giang.
Hiển không ngờ tình bạn của Kha đã làm ấm lòng Hiển và hình ảnh
dòng suối tìm đường thoát ra sông lớn chính là uyên nguyên của hành động giã từ
kháng chiến sau này.
Bỗng sực nhớ ra điều gì, Hiển quay sang nhìn Kha chăm chú hỏi:
- Anh cùng đơn vị với Hãng khi còn chiến đấu bên nước nhà?
- Không!
- Hai anh là bạn học cũ?
- Không! (Ngừng một giây) Nhưng tôi với Hãng tuy không cùng
làng mà thành như cùng làng.
- Sao vậy?
Kha nở một nụ cười nửa vui nửa buồn với chút ít bí mật rồi tiếp:
- Đó là một câu chuyện khác, còn dài!
Biết rằng Kha chưa chịu kể tiếp "câu chuyện còn
dài" này, Hiển trở về chuyện Đảng mà chính Hiển thấy cần được biết rõ hơn.
Hiển nói để gợi chuyện:
- Tôi biết lắm, Đảng độc quyền quyết định làm điều này điều nọ,
nếu Đảng lầm lẫn khiến xương máu đổ oan, Đảng sẽ độc quyền tự phê bình, nhận lỗi,
để rồi lại độc quyền quyết định điều khác. Chúng ta chỉ là nguyên liệu cho Đảng
dùng trong các cuộc thí nghiệm và trước sau chỉ có độc quyền cúi đầu tuân lệnh!
Kha gật đầu:
- Anh nói đúng, anh hẳn còn nhớ chín đồng chí về đến cầu
Thanh Thủy chỉ vì còn bất mãn, ném giấy tờ hồ sơ lý lịch xuống sông mà phải
quay trở lại học tập thêm ba tháng rồi có thể thành sáu tháng, hoặc rất có thể
thành chín mười tháng cũng nên. Đảng đã hối hận cho kia rồi mà, sao còn bất
mãn?!
Yên lặng khá lâu, Hiển nhớ lại chuyến sang Nga và thái độ
thán phục của hai đồng chí anh hùng quân đội, thán phục đến mức bộc lộ nhiệt
tình sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ "thiên đường Sô Viết", thán
phục đến mức quên mình còn cá tính, dân tộc mình còn cá tính. "Không,
không thể thế được, nước Việt Nam quyết không chịu là một thứ cóc vái trời, nước
Việt Nam phải là một nốt nhạc có ý thức trong bản hợp tấu của nhân loại"!
Hiển vẫn khăng khăng nghỉ vậy. Tiếng Kha tiếp:
- Nghĩ lại khuôn mặt làm ra vẻ hối hận của thằng chính ủy Trần
B. buổi tổng kiểm thảo mà tôi thấy ... buồn nôn. Thực khôi hài như một con gấu
làm trò đứng trên hai chân ôm mật làm bộ xấu hổ mà lại quên không che ... hạ bộ.
Vừa xúc động về phong trào tam phản khóa bảy, vưa cảm động về
chân tình của Kha đối với mình, Hiển hỏi:
- Thế trong phong trào tam phản anh bị hành hạ ra sao?
- Tôi ở trong một tình trạng đặc biệt: bố mẹ chết cả, anh em
không còn một ai, tham gia cách mạng từ thời bí mật; sang tới đây tôi được hiệu
bộ ủy cho trông nom tờ nội san, ngoài cái tội vô hại là trong vần thơ của tôi
thường có những lời bóng bảy lãng mạn, ngoài ra tờ báo vẫn theo sát tôn chỉ Đảng,
họ không thể bới ra điều gì để gán cho tôi thuộc thành phần phản cách mạng cần
lên bàn mổ.
- Vì vậy anh thoát?
- Vì vậy tôi thoát.
Yên lặng một giây Kha ngửa mặt hứng gió đêm rồi tiếp:
- Hồi còn ở bên nhà, hình như có hơi ấm của dân tộc nên khi
chiến đấu cho Đảng mình ngỡ cũng là chiến đấu cho dân tộc. Sang tới đây đồng đất
nước người, chứng kiến cảnh Đảng lăng nhục đồng chí, chứng kiến cảnh mấy đồng
chí chết thảm thương tôi mới cảm thấy hết cái mọi rợ của lũ người cuồng tín và
cái phí lý của quan niệm muốn thần thánh hóa Đảng, coi Đảng là một cái gì lớn
hơn dân tộc, biệt lập hẳn với dân tộc.
- Thế vì sao anh phải ở lại khóa Tám học với chúng tôi?
- Vì tôi luôn luôn tỏ ra thân mật với Hãng.
- Hãng đâu?
- Hãng được về nước công tác rồi.
- Chính Hãng được về nước mà anh ở lại?
- Thoa dịu đương sự nhưng trừng phạt những ai có cảm tình nồng
đượm với đương sự đó là chính sách "mâu thuẫn thống nhất" của Đảng.
Giọng Hiển âu yếm hẳn:
- Tại sao anh tin tôi đến mức kể hết những chuyện đó?
Kha cười:
- Trước hết tôi biết anh chưa được kết nạp là đảng viên thưc
thụ; anh lại chỉ mặt cán bộ đảng viên mắng như vậy thì chuyện thực thụ còn lâu
lắm. Thứ nữa tôi biết xem tướng (Kha lại cười), anh không có tướng phản bạn!
Ngừng một chút Kha tiếp:
- Vui nhất là đúng vào dịp đó phó chính ủy Lê K. bị
"nhân dân" đòi về. Nguyên do: Bà Cát Hanh Long bị giam tại trại Liên
khu Việt Bắc khoảng cây số 5 trên con đường từ Thái Nguyên đi Bắc Lạng, rồi bà
bị tòa án nhân dân kế án tử hình; rồi một hôm vào bốn giờ sáng họ đưa bà vào
Phúc Xuân; bà bị bắn cùng cụ cử Trần Thúc Cáp là người hồi đầu kháng chiến đã từng
làm thơ với "già Hồ", đã từng được Đảng đề cao uy tính bằng cách cử
làm chủ tịch hội Liên Việt Liên khu Việt Bắc. Xử tử mẹ xong, "nhân
dân" gọi đến con; phó chính ủy Lê K. phải về đúng vào dịp này. Em ruột y
là H. còn nhỏ tuổi chỉ bị có năm năm cấm cố, chính ý bị hai mươi năm khổ sai. Mới
đây lại có tin đồn y chết trong một trận oanh tạc. Chẳng rõ có đúng?
- Duy Hoàn và Uy còn ở đây không? - Hiển hỏi.
- Đi rồi.
- Đi đâu?
- Mông Tự bên kia Lao Kay.
- Làm gì?
- Theo lớp huấn luyện pháo binh ở đó. Anh còn nhớ tôi có thuật
lời Uy nói với Hãng vào buổi đầu Hãng đến thăm Uy sau khi Đồng tự tử?
Hiển nheo mắt cố nhớ lại thì Kha đã nhắc:
- "Em không tự tử như Đồng, em phải làm một việc gì đích
đáng!"
- À phải rồi, phải rồi, tôi nhớ - Hiển vưa nói vừa gật đầu
lia lịa.
- Duy Hoàn không nói ra nhưng tôi biết là cùng tâm trạng như
Uy. Và còn biết bao tâm trạng Duy Hoàn và Uy trong đám gia nhập trung đoàn pháo
binh đó. Họ đương sửa soạn dự một chiến dịch lớn. (Tức là chiến dịch Điện Biên
Phủ sau này).
Qua đi một phút im lặng, Kha tiếp:
- Anh hẳn nhớ Vronsky tron truyện Anna Karénine? Vronsky đi
đánh giặc thuê để tìm sự an ủi tâm hồn, nhưng Duy Hoan và Uy và nhiều khác nữa,
họ không đồi bại như vậy, họ xử dụng cả cái chết của họ để đem lại ích lợi cho
tổ quốc như con nhà nghèo không muốn phí phạm cái gì.
- Thế còn Hãng được cử về nước?
- Hãng về nhận công tác tại Bộ Tổng Tham Mưu. Chắc lại ở cơ
quan địch vận!
- Tại sao Hãng với anh tuy không cùng làng mà như cùng làng?
Kha cười, nụ cười thật hiền. Anh nhìn đồng hồ tay rồi nói:
- Khuya lắm rồi chúng ta nên đi nghỉ, chỉ còn mấy phút nữa là
hết phiên tuần đêm của tôi.
Kha giơ tay, Hiển nắm lấy ưu ái! Họ đã thật là đôi bạn thân,
cảm thấu lòng nhau. Đôi bạn giữ chặt tay nhau khá lâu, hai luồng điện thông cảm
giao thoa nơi hai bàn tay đó, rồi chiếu sáng hai tâm hồn khiến họ quên ánh sao
lấp lánh trên vòm trời khuya, quên hơi sương lạnh của núi rừng Phụng Minh Thôn.
II
Tới đây xin mở một dấu ngoặc.
Hãng, người con trai thân hình vạm vỡ, tính tình thẳng ruột
ngựa đó, bắt đầu cảm thấy đường lối tráo trở của Đảng và thường cũng như tâm lý
những người trước đây đã cho ai lòng tin không mặc cả, khi phảI lấy lại, càng
nhìn bằng đôi mắt nghi kỵ, xét nét, xoi móc. Có điều đôi bạn Hiển Kha không biết
rằng Hãng được cử về nước một tuần thì viên chính ủy nhận được công văn bí mật
tự nước nhà gửi sang cho hay cha Hãng, địa chủ bị bao vây, đã tự vẫn, hiệu bộ cần
giữ Hãng ở lại khóa Tám và cho theo dõi hành vi, tư tưởng. Trót để Hãng đi rồi,
viên thiếu tướng chính ủy chỉ còn ước mong Hãng đừng về thăm nhà, mà đến thẳng
Bộ Tổng Tham Mưu trình diện, nhận công tác mới.
May thay, Hãng đã về đồn điền Thanh Ba - đồn điền Lợi Ký - và
gặp Vân giữa đường. Tới lúc đó chàng mới hay tin cha treo cổ tự vẫn, cán bộ tam
cùng cho lột trần truồng ông, chỉ xác mắng là "quân trốn nợ nhân dân"
trước khi cho chôn, không cả bó chiếu.
Vân khóc lóc kể cho anh hay thêm là cả Mạnh - (chồng nàn, cựu
chủ tịch huyện Thanh Ba) - cũng mất tích luôn từ ngày bị địch bắt trong chiến dịch
Citron. (Thôi làm chủ tịch huyện Thanh Ba, Mạnh được cử làm tỉnh ủy viên hoạt động
tại Hải Dương). Hãng cho Vân biết chính anh cũng bị bắt trong chiến dịch đó
cùng với Mạnh. Hai anh em không dám nhận nhau, khi cả hai bị giải tới trại giam
Hải Dương thì Mạnh được tha trước.
Vậy thì Mạnh mất tích ở đâu?
Vân hàn huyên với anh những gì?
Chính nàng rồi đây ra sao?
Chỉ biết Hãng không quay lên Việt Bắc để tới trình diện tại Bộ
Tổng Tham Mưu. Vân tiễn anh một quãng đường, rồi Hãng vào thành. Anh cần tìm gặp
mẹ và em; bốn tháng trước ngày ông Phá bị bao vây bà Phán đưa Thi vào thành để
điều trị bệnh lao cho nàng. Như vậy chỉ còn Vân ở lại hậu phương kháng chiến;
nàng đợi Mạnh!
III
Nơi huấn luyện trung đoàn pháo binh không ở Phụng Minh Thôn
mà ở Mông Tự - phía Lao Kay sang, nhưng chúng ta biết - Hiển được cử tới đó
theo học sau khi đã qua ba tháng cơ bản về bộ binh. Phải khéo léo lắm Kha mới
xin được một công tác về nước liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu để rồi sẽ quay lại.
Hiển giả vờ ốm nằm quân y viện hai ngày đợi. Đôi bạn ra đi cùng một ngày!
Dời khỏi trường, họ bước miết trên đường ra ga xe lửa đi Khai
Viễn. Hai cặp giò khỏe mạnh là thế mà cũng run lên vì cảm động. Khi đã ngồi bên
nhau trong toa xe lửa rồi, Kha mới nói:
- Tôi cô độc từ hai năm nay, ra đi có đôi thế này ấm cúng
quá.
Hiển bảo bạn:
- Về nước tôi còn phải đến huyện Lập Thạch đón đứa em gái.
Kha gật đầu:
- Được lắm chúng ta sẽ cùng về Lập Thạch.
Từ Phụng Minh Thôn đi Khai Viễn mất một ngày xe lửa. Từ Khai
Viễn tới Nghiên Sơn mất hai ngày đi bộ đường núi. Đi thêm non một ngày nữa tới Si
Kai, nơi đây ngọn nguồn con sông Lô là một khe suối nhỏ. Kha ghé miệng xuống uống
một ngụm rồi gục mặt rất lâu trong dòng suối, khi đứng lên nói với Hiển:
- Hơi hướng tôi sẽ theo ngọn nguồn con sông Lô này mà về nước
trước!
Từ Si Kai đôi bạn luôn luôn dọc theo đường đỉnh núi, nhìn xuống
bên dưới là Ma Li Phố, một thị trấn nhỏ; dưới nữa là dòng sông Lô càng về gần
Việt Nam càng rộng lớn. Đường lên Cổng Giời ngước trông chỉ thấy hun hút, đi từ
sáng tới trưa mới tới đỉnh, nơi đây có cây đa cổ thụ hàng mấy trăm năm. Từ Cổng
Giời đi xuống, về tới cầu Thanh Thủy mất một ngày đường nữa. Qua cầu sang biên
giới quê hương rồi, đôi bạn dọc theo hữu ngạn sông Gấm qua Bác Me, Pac Van, Đại
Thi. Tới Tuyên Quang đôi bạn mới vượt sông Lô về huyện Lập Thạch. Tới đâu, qua
đâu cả hai cùng có thái độ rất đàng hoàng: vừa là quân đội cấp chỉ huy, vừa đủ
các giấy tờ!
Một tuần qua đi, quân y viện Lập Thạch hay việc Miên theo anh
biệt tích, nhưng tại Phụng Minh Thôn phải đợi ngót một tháng sau vào ngày mùng
một tháng tám, ngày kỷ niệm thành lập giải phóng quân Trung Quốc, trường lục
quân đương tưng bừng treo đèn kết hoa, viên thiếu tướng chính ủy mới hay tin cấp
báo đôi bạn đã về vùng quốc gia.
Thật ra tất cả câu chuyện Phụng Minih Thôn phải đợi tới khi về
Hà Nội Miên mới được nghe Hiển dần dà thuật lại cho hay, thuật lại từng chi tiết
nhỏ với thứ nghệ thuật kể chuyện đơn sơ mà vô cùng gợi cảm, đặc biệt của Hiển.
"Anh vẫn có tài kể chuyện! Nếu cứ được anh kể chuyện mãi thế này, mình sẽ
vĩnh viễn là trẻ thơ" - Miên luôn luôn tự nhủ thầm vậy sau mỗi lần nghe dứt
một đoạn.
Giờ đây chúng ta hãy theo dõi bộ ba Hiển, Kha, Miên từ lúc họ
dời khỏi Lập Thạch tới khi họ vào được miền quốc gia. Quãng đường tuy ngắn
nhưng không phải là không có điều đáng ghi nhớ
CHƯƠNG VII
HAI LẦN SANG SÔNG
I
Tình ta thức trẳng tinh cầu
Hồn ta tím ngát một màu hoa lau.
Giọng ngâm đắm đuối của Kha tỏa ra man mác cùng nắng và gió
trên đỉnh núi đầu làng Thạch Trục đã biến thành mủi tên êm ái mà Miên là… con
chim bị thương. Hiển luôn luôn cắn môi, nhíu lông mày, theo dõi điều gì thăm thẳm
trong tâm tư. Ba người dời khỏi Lập Thạch sang địa phận huyện Học trì, họ dự định
vào thành bằng ngả Sơn Tây. Đi về ngả này xa hơn về ngả Vĩnh yên rất nhiều
nhưng theo tin tức truyền qua cửa miệng dân chúng thì địch đương mở cuộc hành
quân lớn quanh Vĩnh Yên, họ cần tránh tên bay đạn lạc! Họ dự định vào nửa đêm
hôm đó sẽ lẩn vào với dân chúng qua Ngã ba Hạc sang vùng quốc gia.
Cả ba vào ngồi một quán nước khuất dưới cây đa um tùm. Qua những
mẩu chuyện dân chúng trao đổi, ba người được biết đồn binh địch tại Việt trì lại
mới được biết đồn binh địch tại Việt trì lại mới được tăng cường. Mấy ngày nay,
chiều nào trọng pháo cũng trõ sang vùng kháng chiến mà khạc đạn và suốt mười
cây số đê trên và dưới Việt trì, các đội lê dương dồn dập tuần tiễu đêm ngày tựa
như sắp có trận đánh lớn. Nhưng đó cũng có thể chỉ là nghi binh - vẫn dư luận
dân chúng - vì dạo này địch hay dương Đông kích Tây lắm.
Vẫn theo lời dân chúng thì cửa ngõ giao thông giữa hai khu quốc
gia và kháng chiến đã chuyển lên Ngã ba Lời phía trên Hạc trì chừng mười hai
cây số vừa đường đê vừa đường nhựa: nhu cầu giao thông giữa hai miền khẩn bách
như sức cây đang lớn, chặt cành này chồi đâm ở cành khác.
Hiển khẽ đưa mắt, cả ba cùng đứng dậy. Họ cần vượt ngay mười
hai cây số để còn kịp lợi dụng ánh sáng buổi chiều mà quan sát quãng sông sẽ
sang ngang đêm nay. Hai người đàn ông đi trước, Miên dẻo bước theo sau. Đi suốt
năm cây số đường đê, nhìn bãi ngô mênh mông bên trái, những làng mạc với lũy
tre xanh rờn bên phải, Kha mới sực nhớ đã có qua đây vào năm đầu kháng chiến
khi trung đoàn Thủ đô vừa rút khỏi Thành. Chàng nói với Hiển:
-Khoảng quê hương lâu đời nhất của dân tộc hẳn là vùng này. Hồi
mới kháng chiến, vào dịp đầu xuân tôi qua đây còn thấy dân chúng giồng cây đu
chơi xuân. Đến nay tuy không phải mùa xuân và đầu có gặp mùa xuân chắc chắn
cũng chẳng còn cảnh giồng cây đu, nhưng xem ý dân chúng cò thuần phác không đượm
về kinh hoàng hay nghi kỵ như những vùng bên trong chúng ta đã đi qua.
-Đây sát vùng tế - Miên góp lời - nếu cũng đấu tố như ở Tuyên
quang, Thái nguyên và phía trong Vĩnh yên, Phú thọ, dân chúng sang sông hết thì
xong.
Cùng lúc đó có tiếng hò trên sông vẳng lại:
Ơ này hò ơ…
Sông Thao nước đỏ người đen,
Ai lên phố Ẻn thì quên đường về.
Hiển nói:
-Đã lâu lắm tới đây tôi mới được gặp lời ca thật của dân tộc,
không bị nhuộm "màu và mùi" tuyên truyền.
Kha giọng mỉa mai hơn:
-Tôi tởm tuyên truyền! Đã lâu lắm tôi mới lại được nghe tiếng
"người" hát.
Kha lơ đãng quay sang bên Miên, Miên thấy tia nhìn của
"anh chàng" có chiều âu yếm và dịu đi nhiều. Một chiếc thuyền rẽ
sóng, lướt theo bờ rồi ghé vào bến vắng, một cô gái mặc áo nâu non, đầu chít
khăn mỏ quạ,t ay cầm nón, từ khoảng lau bên bến nhô ra, lên thuyền, con thuyền
ngược dòng một quãng rồi sang ngang. Hiển và Kha miết mải đi. Miên rảo bước
theo nhưng vẫn không quên nhìn theo con thuyền khi đó chỉ còn nhỏ tắp như chiếc
lá rụng. Miên có cảm tưởng nàng vừa ra đây để tiễn một cô bạn cùng làng lấy chồng
ở bên kia sông.
Cả ba tới bến Lời vào lúc mặt trời vừa lặn. Một vài ánh nắng
tàn còn rớt trên các ngọn cây đây đó. Trời sâu thăm thẳm. Những tiếng động tự
trong các thôn xóm vẳng ra hòa với tiếng sóng vỗ vào bờ và tiếng chim ríu rít về
tổ thành một bản nhạc chiều muôn thuở êm như ca dao.
Bến Lời còn vắng thuyền, vắng người. Trai gái tự trong thôn
theo nhau ra tắm ở khoảng có ghềnh đá đỏ ven bờ. Kha thốt lời nói:
-Da cô nào cũng đỏ hồng như dòng sông, đôi mắt đến là tinh
nghịch, cô nào cũng đẹp như công chúa Tiên Dung chẳng cần phải lên đến phố Ẻn mới
quên đường về. Kìa, đàn ông thì vị nào cũng tắm kiểu… Chử Đồng Tử!
Thấy Hiển chỉ tủm tỉm cười, Kha sực nhớ còn Miên đứng phía
sau, vội nói lảng:
-Ba sinh hương lửa, ha! Chúng mình thật là ba sinh hương lửa!
Hiển và Miên ngơ ngác, Kha giải thích thêm:
-Này nhé! Hết Pháp thuộc đến Nhật thuộc rồi đến Việt minh thuộc,
thế chẳng là ba sinh hương lửa sao?
-Ồ nhỉ đúng! - Hiển vừa đáp dứt lời thì Kha đã vì một liên tưởng
nào đó cất tiếng ngâm:
Ba sinh đã phỉ mười nguyền
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.
Hiển giơ tay chỉ về phía xa:
-Dưới đê đằng kia có cái quán, tốt hơn hết chúng ta nên lại
đó nghỉ, đợi đến nửa đêm.
Ba người theo đường mòn men xuống vệ đê. Kha lại cất tiếng
ngâm:
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân,
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Giọng ngâm của Kha tuyệt hay, Miên thấy rùng mình với gió chiều.
Miên nhận thấy khi ngâm thơ Kha coi như không có ai quanh chàng cả. "Con
người này phải nhiều đam mê lắm", Miên nghĩ thầm thế.
Cả ba đã tới quán ăn.
III
Quán tranh thấp nhưng có vẻ ấm cúng. Trong cùng kê hai giường
tre cho khách trọ ngả lưng, giữa nhà kê bốn bàn gỗ, mỗi bàn gỗ có bốn ghế đầu gợi
hình ảnh một mẹ bốn con, ngoài cùng là quầy hàng có bày các thức ăn. Đậu, thịt
kho bày trên đĩa; xu hào hành, tỏi, giò heo, thịt bò… treo lủng lẳng trên móc.
Trong quán, ngồi bên chiếc bàn gỗ mộc ở bên phải phía ngoài là một thanh niên
dáng người quắc thước, trán rộng, mắt sáng, nước da trắng hồng. Căn cứ vào cách
ăn mặc - quần si-mi-li xám, áo lót mình kẻ vuông - người đó muốn chừng mới ở
"bên kia" sang thì phải.
Hiển đương định tìm cách làm quen thì chàng thanh niên đã tiến
tới hỏi ba người:
-Tôi xin lỗi hỏi thi không phải, các đồng chí là bộ đội cả
thì phải?
Hiển đáp:
-Vâng, chúng tôi cùng trong bộ đội cả. Còn đồng chí mới tự
trong Thành ra?
Chàng thanh niên nhìn Hiển Kha bằng con mắt thán phục và thèm
muốn rồi mới đáp:
-Đúng ạ. Kể ra thì tôi bắt được liên lạc ngoài này đã từ ba
tháng rồi, nay mới thoát được. Đồng chí dẫn tôi còn đi lấy giấy tờ, chắc chỉ sớm
mai lại trở lại đây.
Kha hỏi:
-Tình hình bên đó ra sao?
-Bỉ ổi! - Chàng thanh niên đáp gọn như một tiếng nổ công phẫn,
tựa hồ đã từ lâu chàng chỉ đợi hỏi thế để đáp thế.
-Tinh thần dân ta ra sao? - Kha hỏi tiếp.
-Tinh thần dân ta thì ở đâu cũng một lòng lo lắng đến tương
lai tổ quốc, nhưng thối nát ở tụi cầm quyền. Biết rằng có thể gọi chúng là
"tụi cầm quyền" được không, vì sự thực chúng làm gì có quyền! Chúng
tuyên bố ầm ĩ là Pháp đã trả độc lập cho Việt Nam, kỳ thực bao quyền hành chính
vẫn gọn thon lỏn trong thực dân. Nhất là về kinh tế lại càng bi thảm. Các đồng
chí hãy tưởng tượng vào thành phố Hà nội, chao ôi, lớn từ chiếc xe ô to, nhỏ đến
chiếc đinh đóng guốc đều là hàng ngoại hóa. Các đồng chí hãy tưởng tượng vào một
công sở, thôi thì bóng đèn nê-ông sáng xanh, máy chữ, cặp giấy, cặp sách, bút mực,
bút chì… thầy đều nhập cảng tự ngoại quốc. Mình nhìn thấy thì đau lòng, trong
khi lũ cao cấp, chúng đua nhau nịnh hót quan thầy, chúng biết chỉ là nhục,
chúng, lũ không óc!
Miên rụt rè hỏi:
-Nghe nói phụ nữ Hà nội tiến lắm phải không ạ?
-Chà như đầm! - Chàng thanh niên vừa thở phào, vừa mỉm cười
đáp - Tôi không phản đối việc Âu hóa của họ, điều đáng buồn là họ chỉ Âu hóa được
cái hình thức. Chẳng riêng gì phụ nữ, các giới khác cũng vậy, họ như những chai
dò đáy, bên ngoài dán nhãn hiệu Tây phương bên trong rượu nồng của ông cha đã
chảy hết, chỉ còn chai rỗng.
Kha chợt hỏi:
-Thế còn văn chương nghệ thuật?
Người thanh niên cười rũ:
-Cơ quan liên lạc đưa những người tự thành vào hậu phương thiết
lập ngay dưới mũi địch là một làng tại Gia lâm. Trước khi từ giã Hà nội, tôi ra
ngắm hồ Gươm một lần nữa. Máy phóng thanh khoảng gần nhà Khai Trí Tiến Đức ông ổng
một bài nhịp slow ảo não nhưng lời ca toàn những: "ra đi, chiến đấu, quyết
diệt thù…" Quân thù nào? Quân thù là lũ thực dân ở ngay trước mắt chứ còn
ai nữa.
Người thanh niên cúi đầu, ngón tay trỏ gãi trán, dáng điệu
càng khôi hài, tiếp:
-Cùng lúc với bài slow "Quyết diệt quân thù" hòa điệu
với hình ảnh bác xích lô ghếch xe ven đường rồi tiến tới một gốc cây lớn, vén
quần, hơi khuỵu hai đầu gối tè!
Chàng thanh niên lại cười rũ một hồi, rồi mới tiếp:
-Tôi phải xin lỗi nữ đồng chí đây vì tôi không thể thuật lại
sự thực đó một cách thanh nhã hơn, nhưng âm thanh slow với lời ca "quyết
diệt quân thù" hòa điệu với hình ảnh bác xích lô khuỵu hai đầu gối tiểu tiện
dưới gốc cây, quả thực đã tượng trưng trọn vẹn cho hiện tình văn nghệ Hà nội dưới
danh nghĩa một nền độc lập giả hiệu.
Sự thất vọng mênh mông tràn vào tâm hồn ba người nghe chuyện
cùng một nhịp với bóng tối tràn tới mênh mông ngập cả cánh đồng, làng mạc, dòng
sông… Người chủ quán đương lăng xăng đi tìm diêm thấp đèn.
-Trước khi vào đây, đồng chí làm gì ở Hà nội? - Chỉ nghe thấy
Kha hỏi, khuôn mặt anh chìm trong bóng tối.
-Tôi chưa làm gì cả. Tôi sang Pháp học từ năm 1949 năm ngoái
tôi đã đỗ một phần tiến sĩ Luật về kinh tế. Tôi bỏ dở việc học về nước những
mong giúp chính phủ mới giành được độc lập. Về tới nơi thấy cảnh tượng như vậy
tôi bèn… "trùm chăn", rồi bắt được liên lạc với ngoài này, rồi hôm
nay đến đây để chờ giấy giới thiệu lên Việt Bắc. Cha mẹ tôi đều còn sống và ở
Hà nội cả.
Ánh đèn dầu tây nhuộm vàng hoe cả căn nhà trọ. Bên ngoài, trời
đen kịt không còn nhận đâu là đường ra sông, đâu là cánh đồng. Vẻ mặt chàng
thanh niên lộ vẻ nhẹ nhõm sau khi tố cáo những thối nát ở vùng quốc gia. Chủ
quán lách cách sửa soạn dọn cơm, người thanh niên trí thức xin rút lui trở lại
bàn cũ ngồi.
Kha thở dài nói khẽ đủ để ba người nghe thôi:
-Anh bạn tưởng đương đi vào tương lai, chúng mình sắp mất hiện
tại mà tương lại thì chưa có!
Rồi cả ba cũng gọi cơm ăn.
Quán đã bắt đầu tấp nập, kể từ bến Lời tới, người từ các thôn
xóm ra. Bến quan ải đã mở cửa, giờ giao thông bắt đầu. Cơm nước xong chàng
thanh niên tới mắc áo thò tay vào túi blouson lấy ra bao cotab mang lại mời Kha
và Hiển rồi trở về bàn. Quán đông người quá rồi, câu chuyện tương đối đã đủ nên
đôi bên cùng không muốn gọi chuyện thêm nữa mặc dầu cảm tình với nhau có lai
láng.
Hiển và Kha khuyên Miên nên ra giường ngả lưng nằm nghỉ lấy sức
để khoảng nửa đêm còn sang sông, sau đó hai chàng lững thững lên đê nghe ngóng
tình hình.
Dòng sông đen ngòm, đôi bờ bí hiểm, ánh đèn của những con
thuyền đây đó phản chiếu xuống dòng nước thành những ánh vàng leo lét càng làm
tăng vẻ hiu quạnh của cảnh sông nước. Tiếng người ồn ào vẳng từ dưới bên, bốc hỏa
lên, rồi mất hút ngay trên vòm cao mà bóng tối tựa như trong suốt.
-Lịch sử có định mệnh của nó - tiếng Hiển - cuộc kháng chiến
toàn quốc xảy ra vào năm 1946, giả sử nó có chậm đi vài năm thì rồi chúng ta và
dân chúng vẫn rơi vào tay cộng sản. Một đảng thì được huấn luyện kỹ trong trường
lừa đảo, lại biết rút kinh nghiệm quốc tế, một đằng thì ô hợp, ngờ nghệch, cả
tin.
-Thôi, cầu mong cho anh chàng ban nãy khi tỉnh mộng cũng gặp
được nhiều may mắn như bọn mình - Kha nói.
-Hồi đầu kháng chiến - giọng Hiển trầm ngâm hẳn - tôi có được
nghe thuật lại lời của một lãnh tụ quốc gia, - quốc gia chân chính, lẽ cố nhiên
- ông nói: "Chúng ta chưa đến thời. Phải để cho cộng sản thành công đã,
nhiên hậu sự thành công của chúng ta mới bền". Hồi đó tôi còn đương hăng,
không để ý đến ý nghĩa sâu sắc của lời nói, bây giời càng thức thời chói lọi đứng
tít trên đỉnh cao, nhìn suốt dòng lịch sử, thấy trước những khúc quành phải
kinh qua, họ cô độc thật!
Kha đặt nhẹ tay lên vai Hiển và nói:
-Hình như Moise có nói: Je suis grand mais solitaire!
Sao đã mọc rất nhiều trên vòm trời. Bãi Kiều mộc ngăn đôi
dòng sông Hồng và dòng sông. Đã hiện lên lờ mờ đằng xa như một bãi tha ma trôi
trên một cons sông lạnh dưới âm phủ. Tiếng Kha ngâm cố làm vẻ đùa cợt nhưng
nghe thật buồn, cũng chẳng khác gì tiếng than thầm tự âm phủ vẳng lên:
Ai mang tôi đến chốn này
Bên kia không óc bên này không tin
III
Miên lại mơ thấy mình leo lên núi Sáng, gần tới khu rừng lau
thì lửa bốc cháy tự một bãi cỏ, lửa bén rất nhanh vào khu rừng lau khô xác, rồi
lửa quấn vào thân cây trò chỉ cao ba mươi thước. Cây trò chỉ biến thành thác lửa
đổ sập xuống. Miên muốn thét lên một tiếng thì vừa bừng tỉnh. Nàng ngồi xổm dậy
ngơ ngác nhìn quanh. Trong quán kẻ ra người vào tấp nập một cách xa lạ. May
thayy Kha cũng vừa tiến tới sát bên nàng nói khẽ:
-Cô sửa soạn, chúng ta lên đường.
-Mấy giờ rồi anh Kha - Miên hỏi.
-Khoảng hai giờ sáng.
-Chết chưa, tôi ngủ được nhiều thế kia anh?
-Cô ngủ được thế là may.
Miên chú ý thấy Hiển tay cầm bút chì đang ghi vội những gì
trên tờ giấy màu vàng bẩn. Ghi xong, Hiển đứng lên dời khỏi bàn, tiến về phía mắc
áo, gài nhanh mảnh giấy đã gấp gọn vào túi blouson (chàng thanh niên khi đó
đương ngáy khò khò ở giường bên). Miên lờ mờ đoán được nội dung bức thư Hiển viết
cho chàng thanh niên.
Ba người đưa mắt nhìn nhau kín đáo ra hiệu. Họ ra khỏi quán,
rẽ vào một ruộng ngô; mấy phút sau họ hoàn toàn có vẻ là ba người dân vùng tề
chuyên đi bờ lờ (buôn lậu). Hiển đã dấu giấy tờ của cả ba dưới một tảng đá lớn
bên vệ đê, để nhỡ sang bên kia không trôi chảy thì ba người còn giữ được nguyên
giấy tờ bên này, tránh mọi lôi thôi. Là Hiển quá lo xa thế!
Trên một mô đất khuất có đám con buôn đương đổi tiền, Hiển tập
trung tiền của ba người lại mới đổi được bốn chục bạc Đông dương.
Kha nói khẽ:
-Giá sinh hoạt bên kia rẻ, với số tiền này thừa đủ để chúng
ta cầm cự về tới Hà nội.
Mãi tới bốn giờ sáng ba người mới xuống thuyền sang sông,
trên thuyền còn chở thêm năm người nữa đều là dân buôn lậu, không kể hai vợ chồng
người lái.
Miên hồi hộp lắm, luôn luôn đưa mắt nhìn lên bờ chỉ e có sự
gì trở ngại: công an miền kháng chiến bất chợt xuất hiện hỏi giấy tờ chẳng hạn.
Kha cũng như Hiển đều giữ được vẻ mặt lầm lì điềm tĩnh.
Giây phút nóng lòng chờ đợi tới. Người chồng dựng chiếc quan
sào lên, chống vào bờ rồi tì vai, lưng hơi khom lấy sức đẩy. Con đò tròng
trành… tròng trành… Ba lần như vậy con đò dời hẳn bờ, người chồng hạ quan sào
xuống bắt đầu dùng tới hai mái chèo, người vợ chăm chú bẻ lái.
"Cảnh sông nước này, con thuyền này đúng là sông nước trầm
luân con thuyền tế độ!" - Miên nghĩ thầm thế.
Hiển khoanh tay trước ngực khẽ thở dài nói với Kha:
-Dân tộc mình còn phải chiến đấu nhiều, chiến đấu với nô lệ
bên kia, chiến đấu với độc tài bên này, chiến đấu với những thói quen nô dịch ở
ngay trong lòng mình.
Cả ba cùng ngồi xuống thang thuyền. Miên ngồi sát bên Kha. Vì
chỗ ngồi chật, Miên cảm thấy nàng đang dựa vào một thân hình vững chắc như cây
lim xanh rờn trên núi Thạch trục nhưng lại nở hoa tím ngát rất thơ mộng. Miên
nhớ đến câu thơ Kha ngâm trước khi xuống núi:
Tình ta thức trắng tinh cầu,
Hồn ta tím ngát một màu hoa lau.
Không khí ban mai lạnh toát! Chắc chắn, chắc chắn Kha có cảm
thấy hơi ấm của người Miên truyền sang, vì cả hai cùng đưa mắt nhìn nhau mim cười
bâng quơ. Miên lại thoáng nhơ tới tờ Pari Match với trang hình ảnh chụp những cặp
tình nhân nằm dài ôm sát nhau trên bãi cỏ một vườn hoa Luân đôn. Nàng vẫn âm thầm
khao khát tình yêu… Sự tuyệt vọng cam chịu làm gái già giữa một thế giới lang
soi không còn… Nang đương đi sang một thế giới khác tuy nhiều nhơ bẩn nhưng còn
tình yêu, nghĩa là còn hy vọng.
Con thuyền đã ra tới giữa sông lướt đều theo nhịp chèo… Chỉ
còn một lát nữa là cập bến. Miên nhắm mắt lại, nàng tưởng tượng nếu thiu thiu
ngủ nàng sẽ ngả đầu lên vai Kha…
Chợt có tia chớp! Tiếng vang ầm! Đạn xiết không khí vòng đỉnh
đầu. Tiếp theo tiếng ầm thứ hai phía bên kia sông, vùng kháng chiến.
-Sao vậy?
-Cái gì thế?
-Trời ơi, ca nông địch!
-Chết rồi, có khổ tôi không!
Hai ba tiếng nổ liên tiếp. Vẫn tiếng đại bác.
Mọi người xôn xao…
Con thuyền tròng trành gần sát bờ…
Tiếng đại bác liên tiếp… rền rỉ, rền rỉ… không còn đếm được nữa.
IV
Tâm thần thảng thốt, chân tay rụng rời, tim hồi hộp, một sự
chán nản, một sự tuyệt vọng mênh mông chưa từng thấy, choàn lấy cả tâm tư Miên
thành một tấm vải liệm bi đát. Thuyền đã ghé sát bờ nhưng chưa ai lên, chưa ai
muốn lên. Tiếng người lao xao dò hỏi tin tức, trao đổi ý kiến. Miên vẫn cúi gầm
mặt. Kha đã đứng lên cùng Hiển chắc cũng chỉ để nghe ngóng. Dư luận kẻ dưới
thuyền người trên bờ mỗi lúc một tới tấp lộn xộn nhưng đầy đủ mọi khía cạnh:
-Chúng nó ở Vân xa kéo lên chắc? (Vân xa, tên làng).
-Vân xa cóc gì, Vân xa cách đây mười cây số! Chúng nó ở ngay
bến Nhông này này.
-Trời ơi!
-Bến Nhông là chỗ đầu cầu quân viễn chinh mà! Tự đấy chúng có
thể đánh tỏa đi Hòa Bình, Phú Thọ, và nửa trên Vĩnh Yên. Chúng chiếm trọn mấy đồi
lớn, xây bun-ke.
-Nhiều tây đen lắm!
-Đại bác yểm hộ thế là quân chúng tiến rồi đấy!
-Chúng định sang sông!
-Hẳn đi! Chiếm Phú Thọ đã sao?
-Làm sao bây giờ?
-Xuôi thuyền về đâu?
-Hãy xuôi thuyền đã, vì nhất định đại quân chúng sắp kéo qua
đây. Đó, thấy chưa, tiếng súng con!
Người lái đò lúc đó mới phát biểu:
-Xuôi thuyền là phải! Đi sát bãi Kiều mộc tránh được làn đạn.
-Thuyền xuôi đi nhanh, tới chỗ nào xa tiếng súng chúng ta lên
đê, tìm đường đi sâu vào các làng.
Tiếng Hiển hỏi lo lắng:
-Vậy chúng ta lại sang bên kia sông?
-Phải sang bên kia sông chứ!
Không muốn sang sông! Không muốn sang sông! Miên không muốn
ba người phải sang sông lần nữa. Từ lúc biết anh sẽ đưa mình về vùng quốc gia
Miên đã đoạn tuyệt với vùng Cộng sản rồi. Bước chân xuống thuyền, con thuyền dời
đất Cộng sản, rồi sang bên này bờ sông, tuy mới chừng nửa giờ qua mà Miên tưởng
chừng mươi mười lăm năm qua. Mươi mười lăm nam8q ua rồi, còn sang đất của cán bộ
tạm cùng, của đấu tố đó làm gì? Tâm hồn Miên nhầu nát vì mảnh đất đó, rồi đây lại
sang sông, lại lên đê, lại đi sâu vào miền đất đó, khác chi tự lột da mình làm
giày mà đi?
Con thuyền bỗng tròng trành dữ.
-Trời ơi thuyền đông thế này rồi còn nhảy xuống làm gì?
-Ông lái cho xuôi thuyền đi thôi?
-Tất cả đồng ý xuôi thuyền chứ?
-Để tôi phụ cho tay sào nào.
Miên vẫn ngồi im bên Kha như tượng đá.
Kha đưa mắt nhìn bàn tay Miên. Bóng tối còn tràn đầy, không
có ánh nhẫn saphir, nhưng ánh sao mai trước mắt lấp lánh.
Thuyền đã có đà, bắt đầu xuôi theo dòng nước. Miên nghe tiếng
Hiển nói khẽ với Kha:
-Chúng mình không thể quay lại chỗ cũ để lấy giấy tờ!
-Không lo - tiếng Kha đáp khẽ - hay tin địch hành quân cả khoảng
để bên kia sẽ không còn một bóng người!
-Xuôi thế này, liệu đến bến nào thì lên được, ông lái? - Hiển
hỏi lớn.
-Ai mà đoán trước được! - Người lái đáp gọn!
Bình minh bắt đầu hé rạng. Mọi người nhíu lông mày nghe
ngóng, chợt tiếng kêu hốt hoảng:
-Chết cha rồi, phi cơ!
Thuyền tròng trành rồi quay ngang mũi vì người bẻ lái đã
buông tay để cùng nằm rạp xuống với mọi người. Chiếc phi cơ hạ thấp nghiêng
cánh lượn vòng.
-Dakota! - tiếng Hiển.
Kha nói:
-B-26 thì nó bắn rồi!
Miên nhắm nghiền mắt nói thầm với lòng như lời cầu nguyện:
-Anh Hiển, anh chết thì còn giời đất nào nữa!
Chắc chiếc Dakota quan sát rõ thấy những người trên thuyền chỉ
là thường dân, không phải bộ đội, nên ngược chiều bay thẳng về Phú Thọ.
-Hú vía! Nhanh tay lên nào!
-Đã chắc đâu thoát!
Thuyền xuôi. Trời sáng hẳn. Chiếc Dakota không quay trở lại.
Xa dần… xa dần… tiếng súng đại bác, tiếng súng con. Nắng vàng tràn ngập dòng
sông, tràn ngập bờ bãi, tràn ngập những làng mạc xa. Thuyền tiến dần tới khúc
quành con sông có mấy chiếc thuyền khác đậu. Bến!
-Dừng lại đây được rồi! - Người lái nói.
Tiếng người lao xao trên bến hỏi tin tức.
Hiển hỏi khéo, giọng dịu dàng:
-Ông lái này, lên đê, theo đường thẳng xuống, đi đến đâu?
-Vĩnh yên! - Người lái đáp gọn.
-Còn cách chừng bao cây số nữa ông?
-Mười lăm cây! Nhưng chỉ đi bảy cây nữa là gặp đồn bảo chính
đoàn.
-Những làng dưới vệ đê còn thuộc vùng kháng chiến không ông?
-Tề!
Miên thốt lời vui mừng:
-Tề rồi!
-Tề hai mang! - vẫn giọng cộc cằn của người lái - Trước khi
lên bờ xin các ông bà cho thêm tiền.
V
Lên bờ đê nhìn xuống, cánh đồng Vĩnh Yên lấp lánh nước. Dưới
đê có con đường khá rộng - chắc là đường liên huyện - giải đá cuội lớn, nhiều
chỗ phá hoại, cuội đường dắp lên thành ụ lẫn với đất thịt màu đỏ kệch. Đường vắng
tanh, hai bên cánh đồng vắng tanh. Ba người không ai bảo ai đều cầm đầu rảo bước.
Lát sau tiếng Miên hổn hể:
-Sao đường vắng thế này, hai anh?
-Có thế chạy mới dễ - Kha đáp - Tôi biết trước mà, nghe tiếng
súng dạo, thấy phi cơ lượn, công an và bộ đội du kích vùng tề hai mang này buộc
lòng phải tạm lẩn đi.
-Đi nhanh hơn nữa các anh ạ! - Miên nói mà vẫn phải nửa đi nửa
chạy mới theo kịp Hiển, Kha.
-Bảy cây số nữa đã gặp đồn bảo chính! - Kha đáp.
Ba người cắm đầu đi miết… đi miết…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét