Lối xưa xe ngựa 2
Chương II- PHÉP THI NGHIÊM MẬT:PHÉP THI NGHIÊM MẬTXác nhận rằng phép thi đời xưa
nghiêm mật không khỏi khiến cho một số người hoài nghi. Nếu đã "nghiêm" sao lại có những vụ bán văn trong trường thi như kiểu Vân Hạc, Đốc Cung
trong Lều Chõng của Ngô Tất Tố? Quan trường mà nghiêm minh
sao còn xẩy ra những vụ án chấn động giới sĩ phu như vụ Lê Quý Kiệt đổi quyển
thi với Đinh Thì Trung?Sự thật, gian lận thời nào cũng có, song Khoa cử ba năm mới tổ
chức một lần, tỉ lệ số người đỗ mỗi khoa lại rất ít, người đỗ danh vọng cao,
quyền uy nhiều cho nên người học trò đi thi rất dễ bị cám dỗ, miễn sao chóng
được thi đỗ để ra làm quan. Song vì một số người gian lận mà chê Khoa cử tổ
chức thiếu nghiêm mật e không đúng. Quả thật cha ông ta đã nghĩ hết cách để
phòng ngừa, thiết tưởng đời nay chưa chắc đã bằng: không những Thí sinh bị
khám xét, canh phòng cẩn mật, mà cả đến quan trường cũng bị giám thị gắt gao.
Luật lệ cũ đã ấn định từng chi tiết một.Xác nhận rằng phép thi đời xưa
nghiêm mật không khỏi khiến cho một số người hoài nghi. Nếu đã "nghiêm" sao lại có những vụ bán văn trong trường thi như kiểu Vân Hạc, Đốc Cung
trong Lều Chõng của Ngô Tất Tố? Quan trường mà nghiêm minh
sao còn xẩy ra những vụ án chấn động giới sĩ phu như vụ Lê Quý Kiệt đổi quyển
thi với Đinh Thì Trung?Sự thật, gian lận thời nào cũng có, song Khoa cử ba năm mới tổ
chức một lần, tỉ lệ số người đỗ mỗi khoa lại rất ít, người đỗ danh vọng cao,
quyền uy nhiều cho nên người học trò đi thi rất dễ bị cám dỗ, miễn sao chóng
được thi đỗ để ra làm quan. Song vì một số người gian lận mà chê Khoa cử tổ
chức thiếu nghiêm mật e không đúng. Quả thật cha ông ta đã nghĩ hết cách để
phòng ngừa, thiết tưởng đời nay chưa chắc đã bằng: không những Thí sinh bị
khám xét, canh phòng cẩn mật, mà cả đến quan trường cũng bị giám thị gắt gao.
Luật lệ cũ đã ấn định từng chi tiết một.I- Thí sinh và những
điều kiện dự thi Hương thời nhà Nguyễn a) Thi HạchKhông phải người
học trò nào cũng có quyền thi Hương. Muốn thi Hương phải qua một kỳ thi Hạch,
có đỗ mới được dự thi. Thi Hạch được tổ chức mỗi năm một lần, những người đỗ
gọi là Khóa sinh, người đỗ hạng nhất gọi là Đầu xứ.Ai đã đỗ Tú tài
trong một khoa thi Hương trước thì được miễn Hạch.b) Nộp quyểnMấy tháng trước kỳ
thi Hương, Thí sinh phải nộp quyển cho quan Đốc học tỉnh nhà, coi như thế là
ghi tên đi thi.Khoa cử thời nhà
Nguyễn lúc đầu tổ chức còn lạo thảo. Mãi sau mới có định lệ kể từ khoa 1829 học
trò ứng thi phải khai đủ tên họ, lý lịch ông cha ba đời trên mặt quyển. Lời
khai phải được lý trưởng chứng nhận. Những người có ông cha ba đời làm nghề
xướng ca, hay can án trộm cắp, hoặc làm giặc (làm quan với nhà Tây Sơn hay cả
với nhà Lê cũng bị coi là làm giặc) đều không được đi thi, cho nên nhiều người
muốn đi thi đành phải khai man. Thời nhà Lê có khi lýù trưởng còn phải ra tận
trường thi để nhận diện Thí sinh, tránh những vụ nhờ người đi thi hộ. Khoa cuối
triều Nguyễn, Thí sinh phải dán ảnh (1).Khoa 1831, tại
trường Thừa Thiên, Lê Đức Quang, Phạm Huy ông cha làm quan nhà Nguyễn mà biên
lầm là làm quan với nhà Lê đều bị xóa tên trên bảng Cử nhân(2).Nhiều người ở xa
đến kỳ thi không kịp về nguyên quán để thi cũng phải khai gian nên năm 1832 lại
có đạo dụ cấm không được đổi tên họ quê quán để đi thi, kẻ phạm tội dẫu đỗ đến
Tiến sĩ cũng bị truất (3).Năm 1841, trường
Gia Định, Phạm Duy Hàn mạo nhận quán ở Bình Thuận, bị xóa tên trong sổ Cử nhân,
đuổi về quê quán ở Nam Định, suốt đời không được đi thi nữa (4).Lệ năm 1831 định
rằng quyển thi không được có vết tích (e làm dấu hiệu thông đồng với khảo
quan). Họ tên, quê quán phải được duyệt xét cho tường tận, đích xác rồi quan
Trấn (Tổng đốc) mới đóng ấn triện vào, sau đó Học quan (Đốc học) mới chuyển
quyển thi vào trường. Cả hai quan Trấn và Đốc học cùng ký tên vào bản danh sách
những người ứng thi trước khi gửi vào kinh. Triều đình theo đó mà ấn định số
khảo quan nhiều hay ít (5).c) Ngày thi: khám xétTừ nửa đêm hôm
trước các quan mặc áo đại triều lên ghế tréo trước cổng các vi để chứng kiến lễ
điểm danh và coi bọn lính Thể sát khám xét không cho Thí sinh mang sách hoặc
bài vở làm sẵn vào trường.Ngay từ khoa thi
Hương đầu tiên của nhà Nguyễn (1807) đã có lệnh cấm Thí sinh không được mang
sách vào trường, không được dời khỏi lều khác hỏi chữ. Mượn người làm bài, hay
tự mình làm bài thay đều bị tội đồ (6).Trước năm 1826
người đi thi phạm tội này chỉ bị đóng gông, đánh trượng rồi đuổi ra, thi Hội
cũng chỉ bị đuổi ra thôi (7). Từ 1831 mới định lệ ai phạm tội
bị gông một tháng, mãn hạn đánh 100 trượng rồi tha. Những người đỗ Cử nhân, Tú
tài, Giám sinh đều bị xóa tên trong sổ, trở thành bạch đinh, lại vĩnh viễn
không được làm ở các nha môn. Nếu chỉ lỡ mang giấy có chữ vào trường, không
phải văn bài làm sẵn hay kinh sách thì bị đánh 40 roi rồi cho vào thi (8).Khoa 1897, Phan
Bội Châu cũng bị can án "Hoài hiệp văn tư, chung thân bất đắc ứng thí" (mang giấy có chữ vào trường, suốt đời bị cấm không được đi thi) sau
phải vào Huế xin phá án nên năm 1900 cụ Phan mới đỗ Thủ khoa trường Nghệ. Lý do
vụ này không được rõ rệt vì mỗi người nói một cách (9) còn
chính cụ Phan chỉ nhìn nhận có bị can án nhưng không cho biết vì sao.Trường
quy được đặt ra với hai mục đích:- Tránh gian lận- Tỏ lòng tôn kính đối với vua và quan trườngPhạm tội nhẹ thì chỉ bị đánh hỏng, tội nặng tên phải nêu ra bảng
con, tức là một cái bảng xấu xí bằng phên tre, trét vôi trắng, dài độ 3 thước,
ngang độ ba gang, trên ghi tên những người can tội nặng như phạm húy, bất túc
v.v...(10).Nhiều người có tài chỉ vì phạm trường quy không bao giờ đem được
tài ra ứng dụng với đời thật là đáng tiếc. Vậy trường quy đích thực là những
luật lệ gì? Xin chỉ nêu ra đây những luật lệ thường được nhắc tới:Và Phạm húy. Trước ngày thi có bảng yết ở cửa các vi những
chữ húy mà ai cũng phải tránh, kể cả khảo quan. "Tuyệt bút" là cấm
ngặt không được dùng, lúc đọc phải tránh âm, lúc viết phải sửa đổi hay dùng
những chữ cận âm, cận nghĩa thay thế. Những chữ húy lại chia làm hai loại:
trọng và khinh.* Trọng húy là tên các vua nhà Nguyễn như:Miên, Hồng, Đởm, Thì, Ưng v.v... Nếu:- Gặp chữ "Nhậm" thay bằng chữ "Dụng" (cận
nghĩa)- Gặp chữ "Thì" thay bằng chữ "Thìn" (cận
âm).Ngô Thì Nhậm có thể biến thành Ngô Thìn Dụng (11) v.v...* Khinh húy là khi viết bài gặp tên mẹ, tên bà
của vua thì phải bớt đi một nét (tĩnh hoạch) hoặc thêm một nét, hoặc bỏ trống
một bên. Nếu phạm tội thi Hương bị đánh 80 trượng, thi Hội bị đánh 90 trượng,
thi Đình bị đánh 100 trượng. Người nào không có phẩm trật chỉ bị hỏng tuột,
người đã làm quan bị giáng bốn cấp, đổi đi nơi khác(12).Khoa 1847, Đặng Huy Trước đỗ trúng cách, chỉ vì bài văn sách có
câu "gia miêu chi hại" (làm hại lúa tốt) mà bị
hỏng tuột Cử nhân. Nguyên do "Gia Miêu" là tên làng, quê của vua
nhà Nguyễn (huyện Tống Sơn, Thanh Hóa), họ Đặng phạm tội thiếu kính cẩn (13).Vì phạm húy làm hỏng oan nhiều người nên ngay từ thời Hậu Lê, Lê
Quý Đôn đã chủ trương bỏ lệ này và được chúa Trịnh ưng chuẩn. Khoa thi Hội
1772, Lê Quý Đôn làm khảo sát đã chọn đầu bài thi mà không kiêng tên vua Lê,
chúa Trịnh:Kỳ 3: Dĩ quân đức nhật tân (lấy đức vua ngày một
mới).Kỳ 4: Đồ giang dư lương (cầu nhỏ cho người đi
bộ, cầu to cho xe đi) (14).Tiếc rằng chủ trương cải cách của Lê Quý Đôn không được nhà Nguyễn
noi theo.Và Khiếm trang là bên chữ "vua" không được viết
thêm những chữ "hôn", "sát", "hung" để có
thể hiểu lầm vua u mê, hung dữ, hay bị giết v.v...(15).Và Khiếm tỵ là không được viết tên các cung vua, cung hoàng
hậu v.v... Trong Lều Chõng, Đốc Cung bị nêu tên lên bảng con
vì đã viết "tam bách niên xã tắc chi trường, ninh phi lại ư thử tai" (xã tắc nhà Đường lâu dài đến 300 năm há chẳng nhờ điều đó hay sao?).
Tuy chữ "trường" ở cuối câu đầu, "ninh" ở đầu câu sau
những vẫn bị coi là phạm tội vì đứng sát cạnh nhau và "Trường Ninh"
là tên một cung trong nội.Và Khiếm đài. Để tỏ lòng cung kính, viết bài gặp chữ "Trời" phải đài lên cao ba tầng, tức là trên hàng viết ba chữ, đó là đài
lên cao tột bậc. Gặp chữ trỏ vào bản thân vua phải đài lên cao hai tầng, gặp
chữ trỏ vào đức tính hay công việc của vua phải đài lên cao một hàng(17).
Thí dụ: "Thiên địa giao miêu", chữ "Thiên" phải
đài lên tột bậc (hàng du cách)."Hoàng thân", "long nhan", phải đài lên
cao trên hàng viết hai chữ (đệ nhị cách).Và Khiếm cung. Trong bài làm, khi xưng với vua hay quan phải
viết nhỏ lại và lệch sang một bên. Ví dụ:"Đối thần văn", xưng với vua, chữ "thần"
phải viết nhỏ đi một nửa và lệch sang bên hữu."Đối sĩ văn", xưng với quan trường, cũng viết chữ
"sĩ" nhỏ và lệch đi. Trong chiếc ảnh của Salles chụp cảnh lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
(1897) ta thấy phía trái, ông Phó Chủ Khảo ngồi bên cái biển "Phụng chỉ". Chữ "phụng" được viết lệch sang bên phải vì trỏ vào quan
Phó Chủ Khảo, còn chữ "chỉ" được viết to ngay ngắn chính giữa vì
trỏ vào vua.Và Cấm tì ố. Quyển thi phải giữ sạch sẽ không được có vết mực
hay hoen ố, nếu không sẽ bị đánh hỏng. Công dụng của cái ổng quyển mà các Thí
sinh trân trọng đeo trước ngực là để che chở cho quyển văn khỏi bị mồ hôi hay
nước mưa làm hoen ố.Và "Bất túc", "bất cập" là viết không đủ quyển,
không thành bài. "Duệ bạch" là chỉ viết được vài dòng. Tội này nặng
vì chứng tỏ Thí sinh không đủ sức đi thi mà khảo quan duyệt hạnh không kỹ hoặc
cố tình nâng đỡ. Trường hợp này cả khảo quan lẫn thầy học cùng bị phạt.Khoa 1856, Nguyễn Hữu Kiêu, ấm sinh ở Quốc Tử Giám, trước thi
Hương viết không đủ quyển, quan ở bộ Lại cho là quan Giám sát hạch không tinh,
xin theo lệ Đốc học các tỉnh, mỗi tên học sinh có vết xấu, phạt bổng 9 tháng
lương. Vua y(18). Năm 1835, vua hỏi Phan Huy Thực: "Nghe nói đời Hậu Lê, đầu bài
thi Đình rất nhiều, có người làm không xuể, nhúng ướt quyển là tại sao?"
Đáp: "Phép thi thời cựu Lê cốt lấy nhớ nhiều, làm không đủ bài e nhơ đến
danh tiến sĩ nên nhúng ướt quyển thi" (để chỉ mắc tội tì ố).Và Thiệp tích. Chung quanh hai dấu "Giáp phùng" và
"Nhật trung" không được "đồ, di, câu, cải" (tẩy, xóa,
móc, sửa) quá mười chữ. Cũng không được xóa mù tịt, sẽ phạm tội "đồ bất
thành tự". Muốn xóa phải để ba chấm vào mặt chữ cho quan trường nhận rõ
nguyên hình (19)."Giáp phùng" là con dấu đóng giữa trang 2 và 3, trước
khi phát quyển cho học trò, để tránh chuyện mang bài làm sẵn vào đánh tráo. Khi
làm bài đến chỗ có dấu "giáp phùng" phải viết đè lên trên."Nhật trung" là con dấu lấy ở trường thi, sau khi đã
bắt đầu viết được độ hai dòng rưỡi thì lên nhà Thập đạo xin dấu chứng thực bài
viết trong trường. Chung quanh dấu phải để trống, không được viết. Và Cánh quyển. Nếu lỡ viết lầm nhiều quá hoặc quyển bị tì ố,
được phép thay quyển mới, nhưng phải lên nhà Thập đạo xin lại hai dấu "giáp phùng" và "nhật trung".Và Ngoại hàm. Khoảng 5, 6 giờ chiều thì đánh trống thu quyển.
Theo Ngô Tất Tố, phép đánh trống cũng phải theo lệ luật: bày 17 đồng tiền Gia
Long lên mặt bàn, nhặt lên từng đồng xong thì đánh một tiếng trống. Lại bày
tiền xuống, nhưng mỗi lần sau bớt đi một đồng. Đánh đủ ba hồi chín tiếng thì
khoá hòm đựng quyển. Những quyển nộp sau khi hòm đã khóa gọi là "ngoại
hàm", không được chấm nhưng vẫn được đọc kỹ xem có phạm trường quy hay
không. "Ngoại hàm" là tội nặng, cũng bị nêu tên lên bảng con.Khi viết xong bài, phải đếm những chữ xóa, móc v.v... và ghi vào
cuối quyển với mấy chữ "cộng quyển nội" rồi mới đem nộp quyển ở nhà
Thập đao (20). II- Khảo quanKhảo quan có hai hạng: Giám khảo và Giám sát.Khoa thi Hương đầu
tiên của nhà Nguyễn được tổ chức vào năm 1807, ấn định cách chọn khảo quan như
sau:A. Ban Giám khảo, có phận sự chấm thi, chia làm hai trường:Nội
trường gồm có:- từ 6 đến 14 ông
Sơ khảo, hàng bát tới lục phẩm; - từ 4 đến 6 ông
Phúc khảo, hàng lục tới tứ phẩm;- 2 ông Giám khảo,
hàng tứ hay tam phẩm;Ngoại
trường gồm:- 1 Đề điệu (Chủ
khảo) hàng nhị phẩm;- 1 Giám thí (Phó
Chủ khảo) hàng tứ tới nhị phẩm; - 2 Phân khảo,
hàng ngũ phẩm.B. Ban Giám sát có
nhiệm vụ giám thị cả quan trường lẫn Thí sinh, thấy điều gì trái phải đàn hặc,
nếu không thì chính mình sẽ bị trừng phạt. Ban này chia làm hai:Bên trong
trường thi có:- 2 Giám sát hàng
Ngự sử, Chưởng ấn (một coi nội trường, một coi ngoại trường) - 8 viên đội Thể
sát, chức xuất đội- 4 viên Mật sát.Bên ngoài
trường có 600 biền
binh và voi ngựa tuần hành.C. Ngoài ra còn hai quan Đề tuyến Nội và Ngoại trường phụ trách việc rọc phách, kháp phách, kê
khai danh sách những người thi, người đỗ, yết bảng v.v...- và khoảng 40 Lại
phòng (thư ký) giúp việc ghi chép, yết bảng. 1/ Chọn lựa Khảo quanĐộ vài tuần trước
kỳ thi, triều đình dựa theo bản danh sách Thí sinh mà định số Khảo quan. Từ
Phân khảo trở lên chọn các quan Kinh (làm việc tại triều) toàn những người đỗ
đạt. Riêng hai ông Đề tuyển lại chọn người ít chữ để không thể sửa bài hộ, vì
hai ông này là những người độc nhất biết tên người viết bài thi, khi kháp
phách.Ban Giám khảo được
triều đình cử ra rồi đệ lên cho vua chuẩn. Sau đó các ông Chánh, Phó Chủ khảo,
làm lễ bái mạng rồi ra bộ Lễ lĩnh cờ "Khâm sai" (Chủ khảo) và biển
"Phụng Chỉ" (Phó Chủ khảo). Liền đấy hai quan Giám sát theo chân
hai ông Chánh, Phó Chủ khảo về nhà, có Thị vệ canh cổng không cho tiếp xúc với
ai nữa để phòng ngừa những chuyện hối lộ.Ngay từ năm 1448,
Lê Khắc Phục, làm Đề điệu ở Quốc Tử Giám muốn ngăn ngừa những chuyện tư túi, đã
xin bắt các khảo quan phải uống máu ăn thề. Lệ khảo quan phải thề bắt đầu từ
đấy(21).Các ông Sơ khảo,
Phúc khảo kén người địa phương, nhưng người ở tỉnh này phải đổi đi chấm thi ở
tỉnh khác. Nếu có con em đi thi cùng tỉnh thì phải làm giấy "hồi tị", tức là xin cáo không đi chấm trường, nếu không sẽ bị nghiêm trừng.Các Lại phòng, Thể
sát do quan địa phương cử, cũng chọn những người không đỗ đạt nhưng thanh liêm.2/ Lễ tiến trường của các Khảo quanĐộ một tuần trước
ngày thi, các quan ở Kinh ra đến nơi, lập tức đến ra mắt quan Tổng đốc địa
phương, rồi làm lễ bái vọng ở Hành cung và lễ tiến trường (các quan ở ngay Kinh
thì làm lễ bái mạng).Ngày tiến trường,
cờ quạt cắm suốt từ cổng thành ra đến trường thi. Đám rước đi đầu có cờ quạt,
chiêng trống, rồi đến cờ "Khâm sai", biển "Phụng chỉ"
theo sau là võng lọng các quan Chánh, Phó Chủ khảo, rồi theo thứ tự phẩm trật,
đến các ông Sơ khảo thì đi bộ, che một lọng, sau đến các Lại phòng xếp hàng
đôi, có 8 viên đội Thể sát và một toán lính nai nịt gươm giáo đi đoạn hậu. Đến
trường, các quan hàng tỉnh trở về, các khảo quan tiến vào trường. Cổng trường
khóa lại, có lính canh gác ngày đêm trong suốt thời gian chấm thi dài độ 5
tuần.
Miên, Hồng, Đởm, Thì, Ưng v.v...
Và Khiếm đài. Để tỏ lòng cung kính, viết bài gặp chữ "Trời" phải đài lên cao ba tầng, tức là trên hàng viết ba chữ, đó là đài
lên cao tột bậc. Gặp chữ trỏ vào bản thân vua phải đài lên cao hai tầng, gặp
chữ trỏ vào đức tính hay công việc của vua phải đài lên cao một hàng(17).
Thí dụ:
"Đối sĩ văn", xưng với quan trường, cũng viết chữ
"sĩ" nhỏ và lệch đi.
Khoa 1856, Nguyễn Hữu Kiêu, ấm sinh ở Quốc Tử Giám, trước thi
Hương viết không đủ quyển, quan ở bộ Lại cho là quan Giám sát hạch không tinh,
xin theo lệ Đốc học các tỉnh, mỗi tên học sinh có vết xấu, phạt bổng 9 tháng
lương. Vua y(18).
"Nhật trung" là con dấu lấy ở trường thi, sau khi đã
bắt đầu viết được độ hai dòng rưỡi thì lên nhà Thập đạo xin dấu chứng thực bài
viết trong trường. Chung quanh dấu phải để trống, không được viết.
Khi viết xong bài, phải đếm những chữ xóa, móc v.v... và ghi vào
cuối quyển với mấy chữ "cộng quyển nội" rồi mới đem nộp quyển ở nhà
Thập đao (20).
- từ 6 đến 14 ông
Sơ khảo, hàng bát tới lục phẩm;
- 1 Giám thí (Phó
Chủ khảo) hàng tứ tới nhị phẩm;
- 2 Giám sát hàng
Ngự sử, Chưởng ấn (một coi nội trường, một coi ngoại trường)
- và khoảng 40 Lại
phòng (thư ký) giúp việc ghi chép, yết bảng.
Lệ năm 1807 cấm
các quan trường không được mang giấy tờ có chữ và mực đen vào trường (sợ sửa
bài hộ học trò). Nội, ngoại trường nếu không có việc không được gặp nhau. Cần
dùng thức gì phải trình Giám sát Ngự sử ngoại trường, người độc nhất có quyền
giao dịch với quan Tổng đốc bên ngoài nhờ chu biện.Năm 1876, Phúc
khảo Đặng Huy Hoán vì mang hộp mực đen vào trường mà bị phạt 100 trượng và bị
cách chức về quê. Giám sát, Giám khảo tâu hạch đều được thưởng(22).Trên nguyên tắc,
các quan trường cũng không được mang theo đầy tớ, mọi phục dịch đã có lính cáng
đáng. Song ta vẫn nghe những giai thoại kể chuyện quan trường đem ả đào cải nam
trang làm người hầu vào trường thi cho đỡ buồn những khi không chấm bài như
trường hợp Nguyễn Công Trứ, Chủ khảo trường Hà Nội khoa 1840(23).3/ Trường thiĐại để trường thi
chia làm hai phần, phần ngoài dành cho Thí sinh, phần trong cho quan trường.Phần ngoài lại
chia ra làm 4 hay 8 vi, "vi" là nơi dành cho sĩ tử cắm lều. Chính
giữa chỗ gặp nhau của hai con đường hình chữ thập, chia phần ngoài ra làm 4, có
xây một ngôi nhà gọi là nhà Thập đạo. Đấy là chỗ quan trường họp để ra đầu bài
và là chỗ Thí sinh đến xin dấu Nhật trung và nộp quyển.Phần trong cũng
chia ra làm hai, trong cùng là nội trường dành cho các ông Sơ khảo, Phúc khảo
và Giám khảo làm việc. Ngoại trường tiếp giáp với khu Thí sinh là chỗ ở và làm
việc của các ông Chánh, Phó Chủ khảo và Phân khảo.Giữa nội và ngoại
trường lại có một khu nhỏ xây kín mít chỉ chừa có một lối đi ra ngoại trường. Đấy
là khu dành cho các ông Đề tuyển, những khảo quan khác không được bén mảng đến
nơi này.Mỗi khi có chuyện
bất đồng ý kiến, các quan nội trường thảo luận tại Giám viện xây chính giữa nội
trường; các quan ngoại trường thảo luận tại Thí viện, chính giữa ngoại trường.Các Lại phòng, Thể
sát cũng đều bị giam lỏng như các quan trường trong suốt thời kỳ 5 tuần.4/ Quyển thiNgười cùng một nhà
không được xếp cùng một vi.Quyển được giao
cho ngoại trường để phát cho học trò hôm thi.Trước hôm thi một
ngày, treo bảng yết danh và trường quy từ sáng sớm ở mỗi cửa vi.Khoảng nửa đêm,
các khảo quan bận triều phục lên ghế tréo trước cổng vi chứng kiến lễ điểm danh
và coi lính khám xét học trò trước khi phát quyển cho vào trường. Các ông Giám
sát cũng lên chòi canh.Học trò viết bài
được chừng hơn hai dòng phải đến nhà Thập đạo xin dấu Nhật trung (vì lúc ấy vào
khoảng giữa trưa). Bài làm xong cũng nộp ở nhà Thập đạo, có lính đóng dấu vào
cuối quyển chứng nhận trước mặt các ông Đề tuyển, rồi bỏ vào hòm đựng quyển.
Những quyển nộp sau khi khoá hòm gọi là "ngoại hàm".5/ Chấm thiQuyển được giao
cho Đề tuyển rọc phách rồi đưa vào nội trường. Giám khảo phải khám xét dấu niêm
phong trước khi mở hòm phân phát cho các ông Sơ khảo chấm trước tiên bằng son
ta (mầu gạch), xong đến các ông Phúc khảo chấm lại bằng mực xanh, cuối cùng đến
Giám khảo duyệt lại lần nữa bằng mầu hồng đơn. Những người chấm thi phải đề rõ
tên họ, chức tước, số điểm rồi ký tên lên mặt quyển.Nội trường chấm
xong chuyển qua Đề tuyển đưa ra ngoại trường. Các ông Chánh, Phó Chủ khảo chấm
lại những bài được nội trường lấy đỗ. Phân khảo đọc những quyển bị đánh hỏng
xem ai đáng vớt thì trình lên Chủ khảo. Ngoại trường chấm bằng son tầu mầu đỏ
tươi.Chữ đẹp có thể
được tăng điểm, chữ xấu có thể bị đánh hỏng như trường hợp Nguyễn Văn Siêu
(1796-1872) quê làng Kim Lũ, huyện Thọ xương, Hà Nội, thi Hương khóa 1825 đáng
đỗ đầu, bị xếp xuống thứ hai, thi Hội khóa 1838 đỗ Tiến sĩ bị xếp xuống Phó
bảng chỉ vì chữ "như gà bới", xấu đến nỗi vua Tự Đức đã phải trêu:Thần đâu mà chữ
xấu như ma,Lem lọ cho người ngó chẳng ra.Nếu phải hoạ bùa trừ quỷ tặc,Khôn thiêng thì hãy hộ hoàng gia.(24)Khi chấm xong, xếp
đặt cao thấp rồi mới gửi cho Đề tuyển kháp phách, lập danh sách những người
trúng cử, đem yết.Sau mỗi kỳ thi,
Chủ khảo và Giám sát mỗi người phải làm một bản phúc trình đệ về kinh, nếu
không sẽ bị phạt. Tất cả các quyển thi, đỗ hay hỏng, kể cả ngoại hàm đều được
gửi về kinh duyệt lại. Triều đình có thể lấy thêm người này, đánh hỏng người
kia, hay thay đổi thứ bực như trường hợp Cao Bá Quát đỗ Á nguyên (thứ nhì)
trường Hà Nội 1831, bị bộ Lễ xếp xuống cuối bảng.III- Những vụ án nổi tiếngMặc dầu luật lệ phòng ngừa rất nghiêm, nhưng chuyện gian lận vẫn
không thể nào tránh khỏi. Cụ Hà Ngại, một người đã từng đi thi trường Thừa
Thiên, viết trong Hồi Ký (chưa in): "Đến Huế, tôi nhờ
một người bạn thân làm bài cho anh bạn (dốt) với giá 5 đồng, không phải để mong
thi đỗ vì giá làm bài đỗ đến những 50 đồng (1 con gà trị giá 4 đồng). Còn phần
tôi, khi ở trường thi thấy có thì giờ, làm một đoạn văn bán được 5 đồng".Đấy là thời nhà
Nguyễn. Thời nhà Lê xem ra có khi còn tệ hơn với những "Sinh đồ ba quan", đến nỗi triều đình phải bắt thi lại ít nhất hai lần trên bãi sông Hồng.
Nguyên do vì năm 1750, kho quỹ thiếu hụt, chúa Trịnh nghe theo kế hoạch làm
tiền của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc, không theo lệ thi Hạch cũ mà cho phép
học sinh 10 tuổi trở lên hễ ai nộp ba quan tiền gọi là "tiền thông kinh" (thuộc kinh sách) đều được đi thi. Những người không có học nhưng muốn
có một chút danh không ngại bỏ tiền thuê người thi hộ, có những đứa trẻ cũng đổ
tam trường, do đó người ta mới gọi giễu là "Sinh đồ ba quan"(25).Kể ra chuyện gian
lận thì thời nào cũng có, xưa hay nay, Đông hay Tây cũng vậy mà thôi. Nhưng vì
Khoa cử gian lận có thể đưa đến những hậu quả to lớn: Thí sinh suốt đời bị cấm
không được đi thi nữa, khảo quan có thể bị kết án tử hình cho nên sử sách của
ta ghi chép rất kỹ. Vũ Trung Tùy Bút chép vụ Ngô Thì Sĩ, Phạm
Vĩ Khiêm bị quan trường thù ghét đánh hỏng oan, vụ Tao Sơn, Lương Nghị tư túi(26)v.v...* Đại Nam
Thực Lục cũng chép năm 1834, trường Nghệ, có Nguyễn Văn Giao hạng liệt,
Nguyễn Thái Đễ hạng Tú tài nhưng có tiếng là danh sĩ. Chủ khảo Nguyễn Tú lấy
thêm vào hàng Cử nhân, đổi mặt quyển, phê lại. Bộ Lễ phát hiện tâu lên. Vua
ghét làm rối loạn quy luật trường thi sai biền binh truyền chỉ cách chức, bắt
Tú và Ngạn xiềng lại giải về kinh. Tú bị tội trảm giam hậu (giam lại đợi ngày
hành quyết) Ngạn là tòng phạm chỉ bị xử tội lưu. Giám khảo Nguyễn Duy Hựu, Giám
sát Trương Tăng Diễn phải tội đồ, những người khác bị giáng chức, Nguyễn Văn
Giao và Nguyễn Thái Đễ nghe quan trường viết lại quyển, phải 100 trượng, cho về
làm dân, suốt đời không được thi nữa(27).* Sách Cương
Mục (28) cũng chép khoa 1696, trường Thanh Hóa có Ngô
Sách Tuân làm Giám thí. Trước Tuân có tố cáo Tham tụng Lê Hy tư túi, gian lận,
gây mối hiềm khích. Nay thấy con Lê Hy đi thi hỏng, muốn xoá bỏ cựu hiềm, lấy
lòng Lê Hy, đưa quyển cho Khảo quan lấy đỗ. Đề điệu Ngô Hải giấu hộ nhưng Tham
chính Phan Tự Cường phát giác. Ngô Sách Tuân phải xử giảo, Sơ khảo, Phúc khảo
bị phạt, Tự Cường được thăng lên Thiêm đô ngự sử.* Nổi tiếng hơn
nữa là vụ án Lê Quý Kiệt/ Đinh Thì Trung, Khoa Thi Hội 1775, Lê Quý Đôn điều
đình với học trò giỏi của mình là Đinh Thì Trung đổi quyển cho con mình là Lê
Quý Kiệt. Kết quả Kiệt đậu Thủ khoa. Khoa ấy vua Lê, chúa Trịnh đánh cuộc, vua
Lê cho Thủ khoa sẽ về tay Kiệt vì Kiệt là con Lê Quý Đôn, tất học giỏi; Chúa
Trịnh đã biết học lực Thì Trung nên đánh cuộc Trung sẽ đỗ dầu và định bụng hễ
đỗ là sẽ trọng dụng ngay. Chúa Trịnh thua cuộc, không chịu, duyệt lại văn bài,
khám phá ra vụ đổi quyển. Thì Trung cáo tố Lê Quý Đôn làm chủ sự. Vì Lê Quý Đôn
làm quan to, Trịnh Sâm bỏ đi không phạt và Lê Quý Kiệt chỉ bị giam rồi giáng
xuống làm dân thường, Thì Trung bị đầy đi An Quảng. Người đương thời làm câu
đối giễu:Quý Kiệt hoàn
dân, tăng Duyên Hà chi đinh xuấtThì Trung phát
phối, chấn An Quảng chi văn phong(29).* Một vụ án nổi
danh không kém là vụ có dính líu đến Cao Bá Quát. Năm 1841, Cao làm Sơ khảo
trường Thừa Thiên, cùng Phan Nhạ lấy muội đèn thay mực sửa bài hộ cho 24 quyển
phạm trường quy, vớt được 5 người.Nguyễn Văn Siêu
làm Phân khảo lấy đỗ Trương Đăng Trình, cháu Trương Đăng Quế, đã bị đánh hỏng
kỳ hai ở nội trường.Chủ khảo Bùi Quỹ
thấy Quát viết đẹp, gọi ra ngoại trường viết bảng. Siêu giữ Quát ngủ một đêm ở
ngoại trường.Việc bị Giám sát
đàn hặc. Án xử:Quát, Nhạ bị tội
tử hình. Siêu phạt trượng và tội đồ. Chủ khảo bị cách chức. Giám khảo bị giáng
chức. Vua Thiệu Trị cho là Quát không phải gian lận, chỉ muốn cứu vớt những Thí
sinh có tài mà lỡ phạm trường quy, lại thương Quát là người giỏi, tha án xử
trảm, giảm xuống "bảo giam hậu" (giam lại đợi lệnh rồi xử giảo),
chết được toàn thây, kể như nhẹ hơn bị chặt đầu), sau lại đổi ra "xuất
dương hiệu lực" theo một phái đoàn đi Tân Gia Ba lấy công chuộc tội. Siêu
được tha tội đồ (đi đầy).Năm người đỗ phải
thi lại đủ cả ba kỳ, quyển đều khá, lại trả về bảng Cử nhân. Quyển của Trương
Đăng Trinh văn khá thông cũng cho đỗ luôn (30).Xem thế đủ thấy sự canh phòng và trừng phạt thời xưa nghiêm nhặt
là chừng nào.
Ngày nay nói đến
Khoa cử nhiều người lập tức liên tưởng đến những ông Đồ ngâm thơ vịnh nguyệt,
những ông quan tham lam đục khoét của dân, những vụ đi thi gian lận, những
người bị đánh hỏng oan vì phạm trường quy hay bị quan trường thù ghét
v.v... Chuyện tuy có thật, nhưng Khoa cử không phải chỉ có thế mà thôi.
Khoa cử dùng đạo
Nho để kén người ra làm quan, giúp vua trị nước. Người quân tử của đạo Nho trị
dân bằng đức hơn là bằng quyền uy hay luật pháp, phải thương yêu dân như con
nên ta mới gọi những ông quan là "cha mẹ dân". Người quân tử của
đạo Nho phải là người kiêm cả tài lẫn đức chứ không phải trỏ riêng vào người
nắm quyền chính lúc đầu, thời nhà Chu. Theo đạo Nho, những người có tài mà vô
hạnh đều không được dùng. Tuổi trẻ đỗ cao thường sinh thói kiêu ngạo, coi mình
là nhất, khinh rẻ người khác, không còn là người hữu ích cho xã hội nên người
xưa coi đấy là cái họa chứ không phải cái phúc. Lê Quý Đôn nổi tiếng thần đồng,
17 tuổi thi Hương đỗ thủ khoa, song thi Hội ba kỳ liền đều hỏng vì giọng văn kiêu
căng, sau phải thụ giáo quan Ngự sử họ Vũ để "tày" bớt cái kiêu
căng của tuổi trẻ mới đỗ Bảng Nhãn(31).
Nho giáo dạy người
quân tử phải "tu thân" trước rồi mới bàn đến chuyện "tề gia,
trị quốc" v.v... chứ không dạy người học trò tìm cách chóng ra làm quan
để "vinh thân phì gia". Người học đạo không đến nơi, thiếu đức độ,
đi thi thì gian lận, ra làm quan thì đục khoét của dân hẳn không phải lỗi ở đạo
mà cũng không phải phép thi thiếu nghiêm cẩn?.
Chú thích:Nguyễn Tuân, Chuyện Nghề, tr. 176.
Đại Nam Thực
Lục XX, tr. 82-3.
Cao Xuân
Dục, Quốc Triều Đăng Khoa Lục, tr. 64-5.
Đại Nam Thực
Lục XI, tr. 231.
Đại Nam Thực
Lục XXIII , tr.
372-3.
Đại Nam Thực
Lục X, tr. 293-5.
Đại Nam Thực
Lục III, tr. 339-41.
Đại Nam Thực
Lục VIII, tr. 28-9.
Đại Nam Thực Lục X, tr. 293-5.
Ông già Bến Ngự, tr. 64: Theo Tôn Quang Phiệt thì có
người bạn, Cử nhân Trần Văn Lương, thấy cụ Phan say rượu, sợ ra thi không nhớ
kinh điển nên lén bỏ vào tráp bạn mấy quyển sách. Thuyết này hơi vô lý vì họ
Trần đã đổ Cử nhân hẳn phải rõ lệ luật trường thi, và đã là bạn thân thì phải
biết rõ tài học và chí hướng của bạn: Phan Bội Châu đỗ Đầu xứ, lại rất khinh
rẻ Khoa cử, đi thi chỉ vì nhận thấy không có học vị thì nói chẳng ai nghe, đời
nào lại chịu giở sách ra chép trong trường thi? Huống hồ từ nửa đêm học trò đã
phải có mặt ở cổng trường, thế mà họ Phan đã say sưa rồi thì vào trường còn làm
trò trống gì được? Tôi không đọc thấy chỗ nào nói cụ Phan nghiện rượu.
Tr. 152: Thuyết
của Lê Thước có lý hơn: Trước khi thi, Phan Bội Châu đánh nhau với bọn lính
Thể sát nên bị họ thù ghét, nhét giấy có chữ vào lều rồi vu oan cho.
Ngô Tất Tố, Lếu
Chõng, tr. 169.
Bùi Dương
Lịch, Lê Quý Dật Sử, tr. 7.
ĐNTL XXXIV, tr. 77-8.
Cao Xuân Dục, sđd,
tr. 97.
Bùi Hạnh
Cẩn, Lê Quý Đôn, tr. 185
Ngô Tất Tố, sđd,
tr. 175.
Ngô Tất Tố, sđd,
tr. 171.
Ngô Tất Tố, sđd,
tr. 149.
ĐNTL XXIII, tr. 268.
ĐNTL XI, tr. 258.
Ngô Tất Tố, sđd,
tr. 146.
Ngô Tất Tố, tr.
91.
ĐNTL XI, tr. 258.
Ngô Sĩ Liên, Sử
Ký Toàn Thư, III,tr. 147.
ĐNTL XXXIII, tr. 312.
Giai thoại làng
Nho toàn tập, tr. 265.
ĐNTL XXXIII, tr. 199-200 chép Nguyễn Công Trứ
làm Chủ khảo trường Hà, khoa 1840, nhưng không nhắc đến vụ đem ả đào vào trường
thi, còn khoa 1825 có Đốc học Hồ Trọng Điển cho học trò thi ăn mặc giả làm
người hầu đi lẫn vào.
Công dư tiệp
ký III tr. 37, lại
chép Nguyễn Thọ Xuân (đỗ Tiến sĩ năm 1831) khi làm Đề điệu trường Nghệ An cho
hai thị nữ mặc giả lính hầu đem vào trường. Việc phát giác nhưng chúa Trịnh
không nở bắt tội nên ỉm đi hộ.
Vũ Ngọc Khánh, Đỗ
Thị Hảo, Giai thoại Thăng Long, tr. 83-4.
Phó bảng là những người thi Hội không đỗ Tiến sĩ
nhưng được điểm cao, khác với Bảng nhãn là người đỗ Tiến sĩ thứ nhì của hạng
nhất (đệ nhất giáp, đệ nhị danh) chỉ sau có Trạng nguyên mà thôi.
Sinh đồ, sau gọi là Tú tài, là những người thi Hương
đỗ được vào tới trường ba (tam trường) nhưng không đỗ cử nhân mà chỉ ở bảng dự
khuyết.
Hương cống, sau gọi là cử nhân, là những người đỗ cả
bốn trường.
Phạm Đình
Hổ, Vũ Trung Tuỳ Bút, tr. 90-7.
ĐNTL XV, tr. 239. 1841 Nguyễn Văn Giao và
Nguyễn Thái Đễ xin được thi lại, nhưng Thượng Thư bộ Lễ Phan Huy Thực chê văn
dở không cho, sau hai người này cũng đỗ Tiến sĩ.
Cương Mục XVI, tr. 66-7.
Bùi Dương Lịch,
sđd, tr. 36 chép khoa 1778.
Quý Kiệt hoàn dân,
tăng sổ đinh của làng Duyên Hà (quê của Kiệt) lên
Thì Trung bị đày
ra Yên Quảng khiến cho văn phong ở đó dấy lên.
An Quảng = Quảng
Ninh. Trong Vân Đài Loại Ngữ, tr. 20, lại chép là " Đông
Hải " chứ không phải An Quảng.
Cương Mục XIX, tr. 47.
Giai thoại làng
Nho toàn tập, tr.
130.
ĐNTL XXIII, tr. 244-7.
Cao Bá
Quát, tr. 22-7.
31. Trần Thị Băng
Thanh, Ngô Thì Sĩ, tr. 212.
Sách tham khảo:
Bùi Dương Lịch, Lê Quý Dật Sử, Hà Nội: KHXH,
1967.
Dịch giả : Phạm
Văn Thắm.
Bùi Hạnh
Cẩn, Lê Quý Đôn, Hà Nội, 1985.
Cao Xuân
Dục, Quốc Triều Đăng Khoa Lục, Saigon: Bộ Quốc gia Giáo dục,
1962, Dịch giả: Lê Mạnh Liêu.
Diên Hương, Tự
Điển Thành Ngữ, Điển Tích. Houston, Texas: Zieleks tái bản 1981.
Đại Nam Thực
Lục Chính Biên, Hà
Nội: Viện Sử Học, 1962-78.
Khâm Định Việt
Sử Thông Giám Cương Mục,
Hà Nội: Văn Sử Địa, 1957.
Lãng Nhân, Giai
thoại làng Nho toàn tập, Saigon: Nam chi tùng thư, 1966.
Ngô Sĩ Liên, Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư, Hà Nội: KHXH, 1968.
Ngô Tất Tố, Lều
Chõng, Hà Nội: Văn Học tái bản, 1963.
Nguyễn Tuân, Chuyện
Nghề, Hà Nội: Tác Phẩm Mới, 1986.
Ông già Bến
Ngự, Hồi ký (của
nhiều người), Huế: Thuận Hóa, 1987.
Phan Huy
Chú, Lịch Triều Hiến Chương, Khoa Mục Chí, Hà Nội: Sử Học
1961. Dịch giả: Đỗ Mộng Khương, Trịnh Đình Rư, Cao Huy Giu.
Phạm Đình
Hổ, Vũ Trung Tuỳ Bút, Hà Nội: Văn Học, 1972, Paris: Đông Nam
Á tái bản, 1985. Dịch giả: Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến.
Susse, Robert de
la, "Les concours littéraires en Annam". Extrait de la Revue
Indochinoise, N° 2, Fév. 1913, Hanoi-Haiphong, Imprimerie d'Extrême-Orient.
Thơ văn Cao Bá
Quát, Hà Nội: Văn
Học, 1984.
Trần Thị Băng
Thanh, Ngô Thì Sĩ, Hà Nội, 1987.
TrầnVăn Giáp,
"Lược khảo về Khoa cử Việt Nam", Khai Trí Tiến Đức tập
san, số 2-3 Jan.-Juin 1941.
Vũ Ngọc Khánh, Đỗ
Thị Hảo, Giai thoại Thăng Long, Hà Nội, 1987.
Vũ Phương
Đề, Công dư tiệp ký, Saigon: Bộ Quốc gia Giáo dục, 1962. Dịch
giả: Nguyễn Đình Diệm.
Tháng 10/1991 Nguyễn Thị Chân QuỳnhNguồn: Rút
trong Văn lang, số 4, tháng 12/1992
Tháng 10/1991
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét