Thứ Ba, 15 tháng 10, 2024

Với nhau, một ngày nào 1

Với nhau, một ngày nào 1

Trước khi vào truyện
Tôi về Saigon, cho đến hôm nay là 17 ngày. 17 ngày đời sống không khác chi một cơn mộng dữ. Ngày đầu tiên, nghĩa là tám tiếng đồng hồ đầu tiên kể từ lúc tôi bước chân xuống xe đò, là khoảng thời gian duy nhất trong suốr 23 năm nay, tôi mới biết thế nào để gọi là hạnh phúc. Tôi nghĩ rằng mình phải viết lại, ở đây tất cả mọi điều, dù là nhỏ nhặt nhất, xảy ra từ lúc tôi rời căn nhà chị Quyến để trở về, rời người thân yêu cuối cùng của tôi, để đương đầu với muôn nghìn tủi nhục đang đợi chờ ập xuống. Tôi nghĩ mình phải viết lại, phải nhớ hết, không sót, bởi chẳng còn bao lâu nữa, tôi sẽ rời khỏi đời sống này, đến một nơi nào đó không biết tối tăm hay rực sáng, không biết sẽ sung sướng hay khổ đau, và những dòng chữ này, những dòng chữ sau hết, những dòng chữ cuối cùng, sẽ là thứ duy nhất mà tôi có thể để lại cho chàng, cho tình yêu nhục nhằn tôi đã cạn.
Tôi sẽ nhớ lại hết, phải không, những đớn đau cuối cùng còn nhận!
Ngày 1 tháng 8, tôi lên một trong những chuyến xe đò đầu tiên rời Vũng Tàu về Saigon với hành lý duy nhất là bốn tờ chúc thư chàng đã nhờ Hiên đưa ra trưa hôm trước, bốn tờ thư đầy ngập nhiếc móc, rủa xả về những thứ tội lỗi mà tôi không bao giờ phạm phải. (Khi đọc xong bốn tờ thư dó, trong căn phòng tối tăm và mốc meo của chị Quyến, ý tưởng hủy mình đã sáng lên trong hồn tôi bằng thứ ánh sáng chói lòa của một ngọn đuốc lớn, và từ bấy đến giờ, nghĩa là cho đến lúc chàng nhận được những dòng chữ này, lúc chúng tôi đã xa nhau bằng biên giới của sinh tử, thì ánh sáng khốc liệt vẫn còn đó, sau khi đã đốt cháy tất cả mọi thứ trong đời tôi, lòng tin, hạnh phúc, tình yêu, hy vọng, những ước mơ và cả sự sống. Chưa bao giờ tôi thấy rõ hơn, khi đọc xong những lời nguyền rủa của chàng: sự sống của tôi đã cạn).
Qua ba tiếng đồng hồ ngồi ép mình trên xe, giữa hai anh đàn ông nhiều lời, nhiều khói thuốc và nhiều ngu xuẩn, tôi được thả xuống ở Hàng Xanh lúc 10 giờ sáng. Chuyển sang một chiếc xích lô, tôi đến thẳng nơi chàng làm việc. Chúng tôi gặp nhau ngay ngoài cổng, khi tôi vừa bước chân lên lối dốc dẫn vào trạm kiểm soát. Cái cảm giác đầu tiên khi tôi vừa trông thấy chàng, là một cơn chóng mặt dữ dội đổ ập xuống thân thể, và cùng lúc, ở bụng dưới phía bên trái, cơn đau dấy lên kinh khiếp, bẻ gập người tôi làm hai như bẻ một cây dương liễu quanh ngôi mộ con tôi quạnh quẽ. Cái gì đã làm nên những đớn đau dữ dội đó? Không biết, nhưng mong đừng phải là vì con tôi. Tôi nhớ một đoạn của Han Suyn trong Đường Về Trung Khánh, bà cũng nói đến một cơn đau tương tự như cơn đau của tôi lúc ấy. Và cũng xảy ra một thời gian ngắn sau lúc bị sẩy thai, rồi bà kết luận: tôi biết tôi không bao giờ còn có thể sinh đẻ được nữa. Lạy Chúa, cái kết luận bất giác nhớ đến đó đã làm tôi lạnh ngắt cả chân tay, và, vượt qua sức chịu đựng có thể có được, tôi nghiến răng cố đứng thẳng người dậy, theo chàng bước qua đường. Lạy Chúa, dù thế nào, dù thần chết có rình rập thả xuống lưỡi dao oan nghiệt, dù tôi có thể cắt đứt sự sống mình bất cứ lúc nào mà không hề ân hận, thì trước đó, tôi vẫn không thể nào trở thành một người đàn bà bất hạnh như người đàn bà của Han Suyn được.
Chúng tôi ngồi một chút ở cái quán nhỏ bên kia đường, rồi cơn đau tiếp tục bốc lên khắp người làm tôi nhiều lần phải chảy nước mắt. Tôi không giải thích, và chỉ nói với chàng, giản dị: Cho em một chỗ nằm, em mệt.
Chúng tôi về nhà. Nhà. Extra. Nơi Ngạc thành hình ngay ngày đầu tiên vừa dọn đến. Ngạc - khi những nụ hôn của bố đổ trên mặt mẹ, thì cơn đau vẫn chảy loang loáng, liếm suốt từ bụng dưới lên đến ngực. Có lý nào, lạy Chúa.
Đó là tám tiếng dồng hồ đầu tiên khi tôi về đến thành phố, đó là hạnh phúc duy nhất mà tôi được nhìn tận mặt, được sờ tận tay. Chúng tôi đã nằm nhà, chảy với nhau những giọt nước mắt tủi cực. Chúng tôi đã ngồi Ngọc Hương ăn với nhau những hạt cơm tình nghĩa. Chúng tôi đã ngồi uống với nhau những giọt cà phê đắng. Chúng tôi đã gặp Lam, gặp Hiến, gặp Vĩnh, cười với nhau những tiếng cười mê mải vui thích. Hạnh phúc mở ra, bao la. Rồi hạnh phúc đóng lại, đưa tôi về, về căn nhà của bố mẹ, về với oan nghiệt đợi chờ.
Mười sáu ngày sau đó, tôi đã sống thế nào? Tôi không thể nào không nhớ tới, dù thèm khát được quên đi, quên đi cho mất biến. Không được đâu, làm sao quên, khi chưa hết.
Tôi bị cầm tù trong bốn bức tường tróc lở những sơn hồng. Ra đến cửa sau, quay vào. Lên đến cửa trước, quay vào. Đừng bước thêm. Bởi vì mẹ tôi là cái bóng hung dữ ở phía sau lẽo đẽo. Đừng nghĩ ngợi, đừng chìm đắm, đừng mơ mộng. Bởi những lời đay nghiến của mẹ tôi gõ từng nhát đều đặn bên tai. Tôi không có một chút tự do được biểu hiện bằng khi trời bên ngoài hay tư tưởng bên trong.
Đêm ngày, mẹ tôi dằn vặt bằng những lời thở than, trách móc, nhiếc mắng, đe dọa, chửi rủa, đay nghiến. Đêm ngày, mẹ tôi dọi đến tôi những tia nhìn xoi mói, dò xét, canh giữ, cầm tù. Đêm ngày, mẹ tôi tìm đủ mọi cách chứng tỏ cho biết, tôi đang là một tù nhân nguy hiểm mà bà có nhiệm vụ canh phòng cẩn mật, và bà chứng tỏ thêm, bà nghi ngờ tôi, bà xét nét tôi, bà hoàn toàn không thể tin tôi, dù một chút tin nhỏ nhặt.
4 tháng 8, buổi chiều tôi đi dự buổi ăn khao của Lan, Lam và Loan đến nhà đón. Khi về Linh đưa tôi đến chiếc PC hết xăng của nó. Mẹ tôi đến chỗ chúng tôi họp mặt để nhìn xem tôi có quả thật ở đó, tôi có còn ở lại hay đã trốn đi. Và khi thấy tôi trở về sau bà, ướt đẫm đầu tóc, bà kết cho tôi những tội lỗi được dựng lên rất chi tiết bằng đầu óc tưởng tượng phong phú của bà.
Những ngày kế tiếp, tình trạng cầm tù trở thành nghiêm nhặt hơn.Tôi vừa bước sang tiệm tạp hóa sát cạnh nhà, bà đã hốt hoảng mở cửa đi theo. Tôi muốn ra gọi Ích vào nhờ công việc, bà cũng đòi đi thay thế. Mẹ tôi tin tưởng một cách lạ lùng rằng chỉ cần năm phút thoát ra ngoài cửa, tôi cũng có thể trở thành một đứa con gái hoang đàng, dù từ lúc trở về, bà không hề nhìn thấy một chi tiết nào có thể vịn vào đó để nghi ngờ đã có sự liên lạc trở lại giữa tôi và chàng. Bà hành hạ tôi suốt ngày đêm bằng những lý luận kỳ dị của bà. Thứ luật pháp quái gỡ và những quan niệm, những phán đoán và những bản án lầm lạc, phi lý, độc đoán do chính bà tạo dựng. Ngày đêm, tôi không biết làm cách nào thoát ra khỏi những dằn vặt không ngừng của mẹ tôi. Bà ở trên gác, tôi tìm cách xuống nhà. Bà ở dưới nhà, tôi lẩn lút trên gác. Đêm tối, tôi ngồi lại với ngọn đèn chong sáng, chờ đợi bà ngủ say mới lén vào giường. Như thế, tôi sống cạnh mẹ tôi những phút sống ngại ngùng, những phút sống đầy dẫy những khiếp sợ và thù oán. Lạy Chúa, tôi đã thù oán mẹ tôi như người ta thù oán một kẻ giết người. Lạy Chúa, tôi đã khiếp sợ mẹ tôi như người ta khiếp sợ một loài quỷ dữ. (Chính thế, lạy Chúa, tôi có thể nói thế mà không sợ trừng phạt của Ngài, dù mai đây, khi tôi chết đi, tội lỗi tôi sẽ được xử xét trong vườn Ngài bằng một luật tắc khắt khe và nghiêm nhặt. Tôi đang nói như một con chiên thuần túy, phải không, dù tôi không hề có mặt trong một lễ sáng, một chầu chiều nào. Tôi đang nói như một kẻ rất ngoan đạo, dù thật sự tôi chỉ tìm đến nơi chốn người ta thờ phượng Ngài vào lúc cực cùng đau đớn. Nhưng tôi tin không hề chi những thứ đó. Tôi không phải là một người công giáo. Tôi cũng không hẳn là một phật tử. Tôi không thấy gần gũi chút nào với giáo lý của Phật Thích Ca, dù chính những thứ đó góp mặt một phần rất quan trọng trong cái mảnh bằng Cử nhân mà tôi cung cúc đạt đến. Tôi không thể đi chùa lễ Phật, bởi giản dị một điều, tôi bị đau tim, và có thịt dư ở mũi. Đi chùa, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng mõ đổ dồn nhiều lần khiến tôi ngất xỉu. Ngay từ thuở bé, khói hương ngan ngát là đã một thứ cực hình đối với tôi, chúng chỉ cần kích thích nhẹ vào chỗ thịt dư là đường khí quản của tôi bị bịt kín. Tôi xa lánh cửa chùa vì bệnh tật, tôi không thể ở lại lâu hơn với khói hương và chuông mõ. Nói thì có vẻ khôi hài, nhưng có sự thực nào mà không hoặc khôi hài, hoặc bi thảm? Chỉ có những điều người ta che phủ nó mới long trọng, mới đứng đắn, mới trang nghiêm thôi. Còn thì, rỗng tuếch. Cũng thế, cái việc tôi cương quyết lánh xa cái tôn giáo của gia đình, rỗng tuếch. Nhưng quả thật, có một thứ làm tôi xúc động, lạy Chúa, không phải là cuộc đời cay đắng khổ sở của Ngài, cũng không phải là cái chết bi thảm của Ngài trên đồi Golgotha, mà lại là những lời cầu nguyện của Ngài ở Gethsémani, những lời tủi cực trước khi bị hành hình, những lời van vỉ cầu xin, những khóc lóc yếu đuối như con trẻ. Lạy Chúa, lời kêu van thống thiết đó, đâu chỉ của riêng Ngài, phải không? Đâu chỉ riêng Ngài mới thấy quạnh quẽ và tuyệt vọng. Khi ấy. Đâu chỉ riêng Ngài mới tủi cực và khổ sở khi thấy mình bị bỏ rơi lại trước cái chết. Pourquoi vous m’abandonnez? Tôi xúc động bất cứ lúc nào nghe nhắc lại tiếng than ấy, bởi tôi thấy tôi, rõ rệt, nằm phủ phục ở Gethsémani, trên đầu là trời cao tối thẳm và lạnh lẽo, sau lưng là mọi người say ngủ, và cái chết thì đến gần, từ từ, chắc chắn. Không phải chỉ riêng Ngài đâu, Jésus, mà chính tôi, khi ở Vũng Tàu, với đứa con lìa bỏ. Tôi nhìn thấy cái chết nhích lại từng bước, chậm chạp, chắc chắn. Tôi nhìn thấy trời cao. Tôi nhìn thấy đêm tối. Và tôi hốt hoảng kêu cầu, tôi hốt hoảng gọi chàng, tôi van xin, tôi nài nỉ, tôi lạy lục. Không có gì hết. Chàng nín lặng. Pourquoi vous abandonnez? Tiếng kêu của Jésus hay của chính tôi đã cất lên, khi ấy? Bố ơi, tại sao bố vẫn bỏ em?
Tôi dài dòng quá mất rồi. Để tôi trở lại với mẹ tôi. Nào, tôi đang trở lại với mối oán thù kỳ dị của tôi đây. Tôi thù oán bà, tôi khiếp sợ bà. Có lý nào, phải không? Mẹ tôi, người đàn bà khổ cực là mẹ tôi. Người đàn bà đau đớn là mẹ tôi. Người đàn bà trăm chiều cay đắng là mẹ tôi, giờ đây lại tai quái, lại khắc nghiệt đến thế này. Tôi khổ sở vì cùng một lúc, tôi bị dày vò bởi tình thương xót xa lẫn lòng oán thù chất ngất. Một mặt tôi thấy mình sợ hãi và ghét bỏ bà vì những hình phạt ghê gớm bà đã dành cho tôi suốt thời gian gần đây. Thay vì rộng tay đón nhận tôi, đón nhận đứa con gái nhiều tham vọng đã bỏ hết mọi toan tính, mọi mưu đồ để trở về sống hắt hiu, buồn bã với mẹ, thì trái lại, bà dành cho tôi một thứ đón chào khủng khiếp đêm ngày, thứ đón chào đẩy tôi đến một chân tường khủng hoảng, đẩy tôi đến một cùng đường vùng vẫy. Thứ đón chào làm tê liệt mọi giác quan, hủy hoại cả hệ thống thần kinh mỏng manh. Tôi thù oán và khiếp sợ mẹ tôi khi nhớ lại khuôn mặt dữ tợn của bà khi từ Saigon ra gặp tôi ở Vũng Tàu, buộc tôi lựa chọn hoặc tình yêu tôi hoặc cái chết của cả hai mẹ con (lúc ấy, trời ơi, tôi vừa bỏ con tôi hơn nửa tháng. Nếu bà biết, lời đòi hỏi của bà không phải chỉ là cái chết của hai người, mà là cái chết của cả ba đời, ba thế hệ, liệu bà có còn nghiệt ngã đến thế?). Tôi ngập sâu hận thù, nhưng cùng lúc, tôi thấy rõ tôi bị buộc chặt vào bà không thể đứt lìa. Tôi bị buộc vào mẹ tôi vì sự hình thành của tôi, vì cái nguồn gốc tủi nhục của tôi, vì người cha mà không bao giờ tôi gặp mặt giống như những đứa con đã mất khi đi không kịp trông thấy dạng hình). Tôi biết rõ không bao giờ tôi có thể tách rời bà, vì những đau khổ bà đã chịu đựng từ khi tôi yêu chàng. Yêu chàng, tôi đã cắt đứt mọi liên lạc với Học, xóa bỏ cuộc hôn nhân đã được loan báo với họ hàng đôi bên. Yêu chàng, tôi đứt lìa tình nghĩa anh em, chối từ buộc ràng máu mủ. Yêu chàng, tôi từ khước mọi tương lai rực rỡ mà những người đàn ông địa vị, quyền thế sẵn sàng đem lại. Và yêu chàng, tôi tạo nên miệng tiếng. Tôi làm thành phỉ nhổ. Tôi dựng lên nhơ nhuốc. Ba năm yêu chàng, tôi làm mẹ tôi già đi mười tuổi. Ba năm yêu chàng, tôi làm mẹ tôi nhục nhằn tủi hổ. Tôi yêu chàng, và mẹ tôi cúi gầm trước mặt dư luận, một thái độ đối nghịch hẳn với cung cách tự tin và vững vàng bà đã có từ hơn 60 năm qua. Chính những điều đó, chính sự có mặt của tôi, chính tình yêu của tôi đã buộc chặt tôi với bà (dù cả tình yêu lẫn nguồn gốc của tôi đều là một bất hạnh lớn lao không nên nhắc tới).
Và tôi cùng quẫn, và tôi vẫy vùng, và tôi đến mình, nếu nó không có đầy đủ chứng cớ là việc ấy quan trọng. Sau đó là Tiến, đây mới là mối bận tâm của tôi. Tiến đã công khai nói sẽ không giúp đỡ gì tôi trong việc tôi gặp gỡ chàng nữa vậy để tránh một phần nguy hại sau này. Tiến sẽ được tôi cho thấy tôi đã cắt đứt liên lạc với chàng, và không có gì đáng nói nữa. Tuy thế, tôi vẫn ngại lắm. Sau khi tôi chết đi, biết đâu Tiến chẳng nghi ngờ, chẳng khai lại tất cả những gì nó biết? Mà nó thì lại biết nhiều lắm, trời ạ. Cuối cùng là Lam. Tôi không biết có nên tin tưởng rằng Lam sẽ giữ kín mọi việc như Hiên không nhưng tôi sẽ cố gắng để có một thời gian dài không gặp Lam, hầu Lam không biết rõ đời sống tinh thần tôi trong những ngày cuối cùng này.
Tôi sắp xếp tất cả mọi điều để tránh những phiền phức có thể xảy đến cho chàng sau khi tôi chết đi, nhưng liệu những sắp xếp của tôi có đem lại kết quả mong muốn?
Có một điều phải nói thêm, hộp thuốc tôi mua ban nãy bằng tiền của chàng, số tiền chàng đã nhờ Hiên chuyển đến tôi mấy hôm trước. Kể thì cũng chua chát thật, nhưng tôi đã sống từ chàng sống đến, thì sao tôi không lại chết, từ chàng chết đi?
Chương 1.
Chuyến bay đem tôi trở về phố núi là chuyến bay đầu tiên trong ngày, khi những hạt sương đêm chưa kịp tan hết trong phi trường. Tôi ra đi một mình, không ai đưa tiễn. Trước lúc đi chỉ có mẹ tôi đứng đón xe với tôi một lát dưới ngọn đèn điện thành phố ngơ ngác, ngái ngủ.
Hơn một giờ bay qua đi trong cái mớ hỗn độn của hồi tưởng và áy náy hiện tại. Hình như từ lúc ra khỏi nhà, thân xác và cảm giác đã ra ngoài sự kiểm soát của trí óc. Tất cả những gì xảy đến với tôi còn nguyên vẹn đó. Nóng hổi, giá buốt, bàng hoàng. Những nụ hôn, những tay xiết, những ánh mắt, những hẹn hò, những băng ghế, những ngôi quán, những chỗ ngồi bên những lề đường, những bát phở, những đĩa bánh cuốn, những ly đá chanh, những hàng cây, những góc phố… như còn nguyên đấy. Còn nguyên đấy, căn phòng tối, chiếc hành lang sâu, những bậc thang trải thảm… Tôi không dám chắc phải chính tôi cái con nhỏ sáng nào còng lủi thủi trên những con đường đầy sương muối, tới những lớp học như tới với một bãi cát thênh thang, mỗi lúc một lún sâu hơn đời mình tẻ nhạt. Phải chính tôi, con nhỏ mới chiều nào còn nghe bước chân mình dội vang những tiếng giày lạc lõng hiu quạnh, trở về một căn nhà, sống với một gian phòng gỗ thông bốn phía. Những chồng bài xếp cao tới cổ, những rác rến lều bều của đám đàn ông vây quanh.
Tôi không dám tin những biến chuyển kia. Những biến chuyển ngược đảo tất cả. Những biến chuyển nhhư những cơn bão lớn ập tới và nhổ bật lên những thân cổ thụ ù lì trong cánh rừng thâm u đời tôi khuất lấp. Những biến chuyển như một cơn địa chấn, ném xuống miệng vực thẳm hai mươi năm đời người quạnh quẽ đi qua. Tôi không dám tin làn môi kia, đã táp xuống mặt tôi lạnh lẽo, ánh mắt tôi đã xoáy vào trái tim tôi phong kín. Tôi thấy như đó chỉ là ảo giác. Tôi nghe như đó chỉ là những cơn sóng vỗ mênh mông vào bờ thành những cơn mê rời rã. Cái ảo giác của một người sắp chết khát trong sa mạc, thấy nước ở phía trước, mưa ở trên đầu. Cái ảo giác của đắm say đưa tôi tới biên giới của điên cuồng hạnh phúc và hoan lạc.
Phi trường vắng, còn đẫm sương. Có lẽ đây là chuyến bay đầu tiên được đáp xuống. Anh Quyến cho xe ra đón. Tôi hơi loạng choạng khi chui ra khỏi lòng phi cơ vì cái lạnh và một chân bị tê cóng. Chú Tín, tài xế, hỏi thăm tôi những ngày ở Saigon. Tôi ừ trả lời cho qua chuyện. Những con đường cũ hiện ra. Cảnh đời xưa diễn lại, bật lên vỡ ra với những chán nản ùa tới, ăn loang và nhuộm tím hồn tôi trong khoảng khắc. Tôi tự hỏi, không lẽ tôi trở về đây để tiếp tục kéo dài thêm một cuộc sống lây lất trên những con đường này, trong những lớp học nọ!Không lẽ cánh cửa đời tôi chỉ mở ra và khép lại trong một nháy mắt mịt mù, thấp thoáng? Không. Tôi trở lại để thanh toán một lần cho gọn ghẽ, cho dứt khoát những vướng mắc, những liên hệ tối tăm, vô nghĩa với thị trấn này. Tôi muốn lúc ra đi, cũng như khi tôi trở về, thanh thản, không nợ nần, lạnh nhạt, không vương vấn. Tôi muốn ra đi với mặt ngước cao, mắt nhìn thẳng. Cái vẻ khó chịu bực bội đối với mọi người. Đó là con đường duy nhất tôi phải tới. Đó là việc làm cần thiết nhất, đối với tôi trong lúc này. Tôi không thể quên được nét mặt khắc khổ của Hãn, với những đường nhăn cắt ngang vầng trán rộng: không bao giờ anh trở lại thành phố đó, ngày nào em còn ở đấy. Hoặc em bỏ hết để trở về. Hoặc em ở lại, để nhận giữ những gì thị trấn đã và đã đem lại cho em. Ai cũng quen sống với những mặt nạ của mình. Em và anh, cũng vậy. Nhưng em hãy thử một lần, tháo gỡ nó, nhìn anh sau khi đã nhìn thẳng vào chính mình. Tất cả sự sống hay lẽ chết, hạnh phúc hay tủi nhục, chỉ có thể mang một ý nghĩa nào đó tùy thuộc nơi thái độ thẳng thắn, cam đảm của mình.
Tôi cho là chàng đã phải dùng tới nhiều cố gắng trong câu nói kia, vì khi nói xong tôi nghe chàng thở nhẹ. Chàng trùng người xuống với hai cánh tay xuôi thõng. Điếu thuốc cháy dở, hững hờ, tuột rơi khỏi mấy ngón tay chàng rung động. Tôi không có một lời nào cho chàng lúc ấy. Chàng không dòi hỏi tôi phải tỏ bày ngay lập tức, như tôi cũng không muốn nói sớm cái ý định manh nha trong óc từ sau buổi chiều trên building. Hình n hư ngay sau buổi chiều của đời sống khoảng khắc đó, tôi đã định cho tôi một con đường. Tôi đã chọn lấy cho tôi một thái độ. Nói một cách khác, tôi đã như một mũi tên thoát bay khỏi giây cung. Tôi đã như một đường gươm rút ra khỏi bao kiếm. Có thể tôi chưa thực sự lên đường, nhưng hồn tôi đã ra khơi. Có thể tôi chưa thực sự khởi hành, nhưng hồn tôi đã vút lên tới chín tầng, tan nát.
Và trở lại này, thật đúng với ý nghĩa sửa soạn xuống núi. Xuống núi không phải để về rừng, xuống núi để ra khơi, để tìm tới đại dương, để chết đi trong một ý nghĩa nào đó, cái phần đời thực sự, cái phần đời bấy lâu chỉ có trong mơ ước bâng khuâng, trong tiềm thức đục mờ sương khói.
Chị Quyến đón tôi dưới thềm nhà. Ánh mắt chị còn reo vui hơn cả nụ cười hân hoan trên môi, nhưng tôi lại nghe lòng thực dửng dưng, hồn thật xa lạ. Phải chăng vì tình yêu chàng đã như lửa ngọc, thiêu cháy, và hóa thân tôi thành một người khác. Tôi rùng mình. Tôi run sợ trước tất cả mọi nhắc nhở chuỗi ngày xa cũ. Cái chuỗi ngày của con đà điểu dúi đầu trong cát.
Tôi nói thay cho lời chào:
- Anh chị vẫn thường?
Chắc chị Quyến không kịp đọc thấy những đổi khác đột ngột nơi tôi. Chị vẫn cười, đỡ lấy chiếc xách tay:
- Không thường cũng chẳng được. Sao cô lên chậm quá vậy? Trường họ mới cho người lại cô đấy. Tôi cũng chẳng biết phải nói sao nữa. Chị ngừng một giây. Ở nhà có chuyện gì không? Và chị như quan sát tôi chăm chú hơn.
Tôi lắc đầu, đáp không. Chú Tín đã đem va li vào phòng khách. Tôi soạn ra những thứ chị dặn mua, cùng ít bộ quần áo và đồ chơi cho lũ trẻ. Xong, tới xách tay, là đồ ăn, quà bánh của mẹ tôi gửi lên. Chị Quyến reo vui như một đứa trẻ với từng món đồ được bày ra, làm như thể chưa bao giờ được trông thấy chúng. Tôi tránh nhìn chị để khỏi ái ngại, xót xa. Mười năm sống với chồng, với anh Quyến, thực tế đã biến dổi chị từ một nữ sinh đẹp có tiếng của một trường nữ danh tiếng trở thành một thiếu phụ già nua, xốc xếch. Trông chị ở hiện tại, không ai có thể nghĩ một thời chị là cái đinh của những buổi họp mặt. Đã một thời, chị là mặt trời nhỏ cùa con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ai có thể tưởng tượng người thiếu nữ đã từng làm cháy rát bao trái tim thanh niên, từng gây điên dại bao tâm hồn đắm say, nóng hổi, nay ngồi kia, giữa những món đồ tạp nhạp, giữa những chiếc bánh, những lọ, những chai, những gói lỉnh kỉnh. Tôi không tin hôn nhân là cách thế hay nhất để duy trì, để thăng hoa tình yêu hạnh phúc. Tình yêu dù đẹp ngần nào, tâm hồn dù say đắm bao nhiêu, khi tiếp giáp với thực tế hàng ngày, hàng tháng, hàng năm thì tình yêu nào rồi cũng phai nhạt, mộng mơ nào rồi cũng phải phai. Đấy là chưa nói tới nhiều lúc những đứa con lần lượt ra đời ngoài ý muốn, đưa tới những vấn đề cơm áo từng giờ, thúc bách. Liệu người ta khi ấy, có tránh khỏi héo hon dần đi, như lá úa. Liệu người ta có tránh khỏi nhược suy đi, như nước xuống! Khi ấy, còn gió đâu cho hồn bay chín cõi? Còn nước đâu cho sóng dội nghìn trùng? Còn biếc xanh đâu mà cho xạc xào mưa thơm lối lá?
Tôi không lãng mạn tới độ nghĩ chia lìa là đích đến cuối cùng của tình yêu. Tôi không lý tưởng đến mức tin yêu là cùng nhìn về một phía. Với tôi, yêu nhau là nhìn thẳng vào nhau, và chỉ nhìn nhau mà thôi. Với tôi, yêu là sống, sống cái đời sống không thể có khi một mình. Sống cái đời sống lãm liệt uy nghiêm (dù cho buồn thảm) trên lưng những khắc nghiệt, những đớn đau ê chề của định mệnh. Cái quan niệm nhìn về một phía, cái lãng mạn tiền chiến cần tan vỡ cho tình yêu thành hoa, thành gấm, xưa quá rồi. Nó có vẻ tiểu thuyết hay màn ảnh cải lương. Với tôi, tất cả vấn đề là đắm mình vào, để từ đó sống hết, cho một dời, cạn hết, cho một người. Với tôi, không một điều kiện hay một ước định nào cho chọn lựa tàn khốc đó. Tôi đã sống như thế với Hãn. Tôi đã làm như thế, trong tình yêu tôi. Nếu sự cạn hết đời tôi, cháy tiêu hồn mình, để nhận được ở Hãn, một ngày nào, những phụ rẫy ê chề, những phỉ nhổ nhơ nhuốc khi ấy tôi sẽ sống cách sống khác. Cách của tự tử. Cách của hoàn tất, xóa sạch, êm thấm nhất.
Sự chết, phải thế không anh? Ở phần đầu, em đã hành động như những gì em đã nói, thì ở phần còn lại, chắc anh không thể nghĩ rằng em sẽ ngại ngần, vì tới đó, vấn đề chỉ còn như một dấu chấm. Một dấu ngắt, cho một câu văn hết nghĩa, một lời nói đã trọn ý. Có khó gì một dấu chấm, phải không anh? Còn tiếc nuối làm chi khi đường ta đi đã cụt, cửa mở vào đời ta cũng khép. Và cái xác thân còn lại, khi ấy, cũng chẳng thể có, được một nghĩa gì khác hơn những mảnh vụn của một viên ngọc nát.
Chị Quyến hỏi thăm tôi những ngày qua. Tôi trả lời nhát gừng. Chị hỏi tôi về Hãn, tôi nói như trả lời một bài học thuộc lòng: không có gì đáng nói hết. Và sau đó tôi kêu mệt để xin phép về phòng mình.
Tôi gieo người xuống giường. Sự nhắc nhở, thăm hỏi của chị Quyến, vô tình khiến tôi muốn khóc.
Tôi muốn khóc vì tủi thân, vì một cái gì đó, tôi đã không thể thẳng thắn nói với Hãn trước khi chia tay. Có lẽ đó là một niềm chua xót của một đứa con gái sớm phải bước chân vào đời. Nếu tôi được sinh trưởng trong một gia đình giàu có, nếu tôi được như những đứa con gái trong những gia đình quyền thế, vết nhơ nào chạm được tới gót chân tôi? Dư luận nà dám chọn tôi như một con vật tế thần (dù bùn nhơ chưa thực sự vấy được vào khoảng trắng thanh tân của tâm hồn tôi ắp đầy khinh miệt). Nhưng Hãn đã nhìn những va chạm, những dòm ngó, săn đón, nhắc nhở kia như một xúc phạm khó quên, một đớn đau khó nói, một vấy bẩn không còn hy vọng tẩy xóa. Dù Hãn biết tôi không thể làm gì khác hơn, khi chưa gặp chàng. Tôi không thể không bước ra khỏi nhà, khi cái không khí gia đình tôi là cái không khí chỉ thích hợp cho những ra đi, những tan tác. Tôi không thể bước ra khỏi nhà, khi hàng ngày, sự túng thiếu, đã là những mũi kim chích sâu vào những đầu giây thần kinh tôi căng thẳng. Cái không may cho riêng tôi (và phải chăng cả chàng) là ý thức đã đếnvới tôi quá sơm. Trách nhiệm tự nguyện tìm tới với tôi khi tôi chưa tới tuổi để nghĩ và lo lắng. Và tinh thần hy sinh, tinh thần phản kháng tiêu cực chống đối hàm hồ, đã xô đẩy tôi trong những bước chân hụt hẫng vào một bầu khí nhiễm độc, một vùng của móng vuốt thâm hiểm. Anh có quá đáng chăng khi đã nhìn những va chạm không thể tránh được đó, như những vết bầm, một dấu đen trong tuổi hai mươi của đời em.
Nhưng tôi đã chẳng có chút oán hờn nào về việc này. Nó cũng mặc nhiên cũng nằm ngoài ý muốn, nằm ngoài chọn lựa như vết chàm tôi đang trên mặt. Và hơn thế, lẽ ra tôi phải cám ơn phố núi, cám ơn thị trấn, cám ơn những con đường khuynh diệp, cám ơn những thung lũng, sương mù, cám ơn lớp học, cám ơn những em nhỏ thắm tươi như những trái hồng, trái quất, và cám ơn luôn định mệtnh, vì từ đó, tôi đã gặp chàng, vì ở đó, đời đã mở ra chín cấp bậc đi lên. Nhưng đủ rồi, thế là đã quá đủ. Vâng, đã đến lúc tôi phải xuống núi. Kẻ tội đồ đã mãn cái hạn kỳ thẳm thiết tự nguyện. Đã đến lúc tôi phải được quyền thấy mặt trời, thấy trăng sao, thấy cả những ngày mưa đi ngang trên mái đầu hai đứa trước khi đời chưa thành từng nhánh ly tan. Trước khi tôi về cuối một giòng lũ cuốn. Trước khi tôi chìm dưới một đáy sông sâu. Trước khi tôi Trương Chi về với một bóng thuyền, êm như một giòng chảy ngậm nín một tình câm.
Buổi trưa, trong bữa ăn, tôi loan báo quyết định dứt khoát của mình:
- Cuối tuần, em trở về Saigon.
Chị Quyến buông đũa. Anh Quyến nghẹn với miếng cơm vừa nuốt.
- Thế nghĩa là gì?
- Cho cháu về với. Cháu về với bà.
Chị Quyến trợn mắt, bé Ty hấp tấp lập lại:
- Cho con về với. Con về với bà.
Anh Quyến nhìn tôi, như nhìn một quái vật từ trái đất chui lên:
- Em bỏ dạy.
- Cô điên rồi!
Chị Quyến nói sau một lát im lặng nặng nề. Anh Quyến lo ngại. Ánh mắt anh là lạ.
- Cô đau?
Tôi cười tươi nhìn (như nhìn lần đầu) gương mặt người anh rể với quá nhiều vết nhăn xếp ở hai bên mắt và kéo thành góc ở hai bên mép. Mái tóc hoa râm rung rinh, anh lắc đầu:
- Tôi nghĩ, nếu đau, mìnhn có thể xin phép một hai tuần. Trường chắc họ cũng chẳng nỡ làm khó đâu. Ở đây, tỉnh nhỏ, quen biết nhau hết mà.
Ý anh Quyến muốn nói anh sẵn sàng can thiệp cho tôi tạm nghỉ một thời gian. Tôi đáp ngay:
- Em có đau gì đâu.
Chị Quyến muốn bật tung khỏi chỗ. Chị chống đũa, giọng đã được nén lại, nhưng vẫn còn nhiều bực dọc.
- Tôi không hiểu cô rồi đấy. Cô định cái gì? Cái gì mới được chứ? Cô đã nói chuyện với bố mẹ chưa?
Tôi và nuốt miếng cơm còn trong bát.
- Em đã nói với mẹ. Chính bố và anh Long cũng muốn em về đi học lại.
Tôi đứng lên. Chị Quyến giơ hai tay lên, tỏ dấu tuyệt vọng. Tôi về phòng nằm,. Buổi trưa nhưng không khí vẫn còn se lạnh. Tôi nghe được tiếng vi vu của những gốc thông phía sau nhà, và tiếng suối đổ chậm ở phía bên kia con dốc. Thỉnh thoảng, tiếng một trái thông khô rơi xuống mái tôn, lăn những vòng lóc cóc trước khi rơi tới đất, càng làm cho buổi trưa thêm xa vắng và mịt mờ, hiu hắt.
Lúc này đầu óc tôi rỗng không. Điều quan trọng nhất, tôi đã nói được. Cái khó khăn đã trút. Cái ám ảnh nặng nề phân vân, u ẩn đã qua. Thế là xong. Thế là hết. Tôi đã tự cởi bỏ cho mình bản án lưu xứ. Tôi đã ra ngoài tôi và trên bục quan tòa, tôi đã rưng rưng tuyên lấy cho mình một bản án chung thẩm. Không có xét xử lại.
Chương 2.
Một mình trong cái im lặng bụi phủ của giá sách, của bàn ghế, của chăn màn, của kỷ niệm vụn vặt… tôi chợt nghe lòng ngậm ngùi. Tôi bỗng nghe lòng bật rung những giây tơ khác. Những chập chờn nhung nhớ mong manh, như đâu đó một vạt nắng muộn màng nào đang tan đi, như đâu đó, một cánh vàng hoa cúc đang lìa tách khỏi đài. Phấn vàng tung bay, bụi trắng tơi mỏng. Tôi bỗng thấy gần hơn, yêu hơn, những ngày heo may về trên chập chùng đỉnh thông xơ xác. Những ngày mù xuống sệt trắng lũng rừng, những ngày sương dềnh mịt mờ ăn loang từ miếng trời xuống thấp, và mưa, mưa bạt ngàn, chạy qua những cánh đồng tâm hồn tôi lênh láng nước ưu tư. Tôi thấy nhớ như đã xa hẳn rồi, xa thật rồi, những sớm mai giá rét, khoác tấm áo choàng ra đi, thả những bước chân lạnh cóng, lẫn trong đám học trò môi như son, má như sữa… Những ngày nghỉ, trở dậy muộn bằng áo len mỏng với vốc thóc trên tay, bầy bồ câu xù lông, sà xuống một chiếc sân lá dày xếp lớp. Những con chim có những đôi mắt rất… thi sĩ. Những con chim có những bước chân rất tình tứ đàn bà… Cái cảm giác biệt ly được chia đều cho từng gốc cây, được trải những phần mỏng manh nhất, những phần trong sáng và lung linh nhất, mà thời gian xô bồ qua, đã che khuất, đã ẩn lấp. Phố núi thực sự cũng có đấy, những êm đềm xa vắng, những nét, những đường, những thơ mộng, những ngát xanh… chỉ tiếc êm đềm kia, chẳng là mơ ước của khách giang hồ. Ở đây người ta sống vội sống vàng, ăn sổi ở thì, cái chụp cái giựt. Người ta không có thì giờ để lắng nghe một ngọn thông reo, chờ trông một ngày mưa tới. Và tôi đến đây, ở lại, quả thực là một cái gì không hợp, một cái gì gai mắt, xa lạ và tẻ lạnh.
Nghĩ tới lúc tin tôi rời bỏ nơi này, được loan truyền, chắc sẽ không có dưới một trăm hơi thở phào ra nhẹ nhõm. Chắc sẽ không có dưới một ngàn cặp mắt nhìn theo, dọ hỏi thực hư. Sự thực sẽ như vậy đó. Như vậy hóa ra tôi quan trọng, tôi cũng là một cái gì, có giá đến thế sao? Đứa con gái đến như một bất đắc chí, sống như một thọ hình, với vết chàm giữa trán, với mắt nhìn lên hay ngó xuống, cũng chỉ là một mảnh hồn căng gió miệt khinh. Tôi đấy, tôi, từ lúc nào, đã trở thành đối tượng của thị dân trong những ngắm nhìn, soi bói không một chút thiện cảm. Tôi đấy. Tôi mỉm cười một mình. Mà kể cũng đáng cười thật.
Tôi sắp xếp vật dụng trong phòng. Cái gì cần thì giữ lại, cái gì không, vứt bỏ. Tôi muốn khi trở về, sẽ chỉ có một chiếc vali, như khi tôi đã đến. Công việc thu dọn này gây hứng khởi cho tôi. Vừa làm việc, tôi vừa hát khẽ một đoạn trong Trở về mái nhà xưa. Đôi khi dừng tay, dừng trí, tôi lắng nghe chính tiếng hát của mình, bài hát tôi đã hát một lần trong lớp cho học trò trước khi về Sàigòn nghỉ tết. Cũng là một bài hát, cũng là cái tình cảm rạc rời, chia tan, dổ nát, trong bước chân trở về của đứa con hoang trên thềm nhà cũ, nhưng giọng hát ở trưa nay của tôi, đã khác. Như có một chút reo vui nào đang chảy tan trong đó. Như có một chút thương xao xuyến nào đang hòa lẫn cùng thanh âm phát ra. Tôi sững người. Tôi buông tay, bưng ngực. Ở đâu đó, mùi hơi Hãn, vừa thoảng tới. Ở đâu đó, hương vị khét khét, nồng nồng, chua chua, chát chát vừa thoảng bay, vướng vất. Hình như Hãn ở đâu đấy. Hình như chàng đang ở cùng khắp. Phải thế chăng? Tôi đỡ ngực, khép hờ đôi mắt mỏi, để giữ theo cách của tôi, cái vừa thấp thoáng kia. Tôi giữ lấy Hãn cho mình, trong một tâm hồn an lành nhẹ bổng trên cao,trong ngu ngơ, khờ khạo con tim đang rộn rã hân hoan trong mạch máu.
Anh. Tôi gọi nhỏ. Anh. Tôi kêu van. Anh. Tôi run rẩy, toàn thân tôi tê buốt ở khắp mọi miền cảm giác. Những buổi trưa ngfắn ngủi trên building như sớng lại trong tôi rực rỡ, từng khoảng khắc.
Chương 3.
Tôi lẻn ra khỏi nhà bằng cửa sau, trước khi anh Quyến đi làm. Công việc đầu tiên tôi phải làm, cho bằng được và bằng mọi cách là tấm giấy chứng nhận của bác sĩ. Giấy chứng nhận tôi không đủ sức khỏe để tiếp tục dạy học. Tôi phải được nghỉ ngơi. Tôi phải vào ngay bệnh viện. Tôi nghĩ tới ông Khảm. Ông ta là bạn của anh Quyến. Tôi hy vọng sự quen biết giữa hai người sẽ giúp dễ dàng cho tôi.
Phòng mạch của ông ở cuối đường tôi ở. Cô y tá hỏi cho tên tuổi và hỏi bệnh trạng. Tôi lắc đầu nói muốn gặp bác sĩ có chuyện riêng. Ông Khảm ra. Thấy tôi, ông làm dấu bảo vào và hỏi có chuyện chi vậy? Tôi trình trường hợp, đúng hơn dự tính của mình, ông ngập ngừng. Có lẽ cảm tường đầu tiên của ông cũng giống như nơi anh chị Quyến. Con bé này điên rồi chắc. Tôi im lặng một lát trước khi nói thêm:
- Anh Quyến nói tôi cứ lại đây. Thế nào bác sĩ cũng giúp.
Ông Khảm vẫn chưa dứt khoát. Ông hỏi lại:
- Anh Quyến có nói vậy sao?
Tôi trả lời tỉnh:
- Vâng. Hơn nữa, cả trường họ trông đợi ở tôi việc này lâu rồi.
Ông Khảm tròn đôi mắt lồi:
- Để làm gì?
Tôi đáp liều (chắc cũng không sai lắm):
- Để họ chia nhau số giờ tôi bỏ lại.
Ông cười. Ông Khảm là bạn của anh Quyến theo nghĩa có giao thiệp quen biết với nhau nhiều hơn là nghĩa bạn bè thân thiết. Tôi nghe được khá nhiều dư luận không tốt về ông, đối với nữ bệnh nhân. Tôi không thể đi một bác sĩ khác. Bác sĩ tư, mất tiền, công việc sẽ nhanh chóng hơn, nhưng tôi sợ không đủ giá trị, không đủ tính chất bắt buộc nhà trường phải cho tôi nghỉ. Kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt vừa bắt đầu. Chỉ còn vài tháng nữa, niên học chấm dứt. Họ sẽ khó khăn trong việc kiếm giáo sư dạy thế, cho đề thi và chấm bài. Nếu là đầu niên học, chắc chả cần giấy bác sĩ,chỉ nói miệng không thôi cũng có thể nghỉ chơi một cách thật dễ dàng. Tôi cũng thấy quyết định của mình, trên phương diện nào đó thật không phải. Không phải với các em học sinh của tôi. Nhưng rồi mai kia, lớn lên, các em sẽ hiểu, tôi không thể làm khác. Các em sẽ thông cảm hành động hôm nay của tôi, khi các em bắt gặp được lẽ sống của đời mình. Cơ hội chỉ đến với chúng ta một lần. Biến cố chỉ xảy ra một bận. Và chỉ một bận, chỉ lần đó, mới mang ý nghĩa của một lay động tận cùng, một mở ra suốt kiếp. Rồi các em sẽ cũng có lúc như tôi, hoặc dứt khoát tức thì, hoặc lấp lửng để rồi buông trôi. Vuột hết. Tôi biết, nếu tôi không quyết định ngay, nếu tôi chần chờ, tôi sẽ ở lại và ở lại mãi mãi chốn này. Ở lại như một cam đành thúc thủ trước định mệnh. Ở lại như một chứng tỏ cụ thể của bạc nhược ý chí, lụn bại tinh thần. Rồi tôi sẽ tìm thấy những gì ở đây? Thành phố này không phải là nơi cung cấp cho tôi những dưỡng chất để sống, dù thực phẩm đời thối tha, nhục nhã hay tươi tốt vinh quang. Người ta không thể sống với cái thây trước rữa tàn trong ù lì trí tuệ. Người ta sống để chờ đợi, chờ đợi một cái gì. Ở tôi đó là sự chờ đợi một tiếng gọi lên đường. Ở tôi, đó là sự chờ đợi trên đường gươm chém xuống. Và hồi còi lên đường đã giục giã. Và đường gươm tử sinh đã phập ngọt. Hãn chính là người đã rúc lên hồi còi đó. Hãn chính là người đã phóng tới đường gươm kia.
Cuối cùng ông Khảm miễn cưỡng gật đầu khi cô y tá vào báo có bệnh nhân. Ông hẹn tôi bốn giờ trở lại bệnh viện. Tôi viết tên cho ông và một vài đều cần thiết khác.
Lúc trở ra nắng đã xế trên những rừng cây phía bên kia thung lũng. Tôi thả bộ xuống chợ vì chưa muốn trở về nhà lúc này. Trong lúc lang thang, tôi chợt nhớ tới chị Lập. Vợ chồng chị dạy cùng với tôi một trường. Nhà chị ở bên hông chợ. Tôi biết chị đang được nghỉ hộ sản. Trước khi về Saigon, tôi cũng có ghé thăm chị. Khi chị mới sinh được một tuần. Ngoài tư cách một đồng nghiệp, chị Lập còn là một người bạn vong niên duy nhất mà tôi có thể gần gũi trong những ngày sống tại thị trấn này. Đó là một người đàn bà khẳng khiu. Tất cả mọi thứ trên mặt chị đều cùng tỏa ra một vẻ khô cằn như vậy. Cặp kính nhiều độ trên mặt chị lại càng cho người ta cái cảm tưởng lạnhh lẽo, nhạt nhẽo hơn. Nhưng sự thực, chị Lập là người rất mau mắn và đa sự. Chị có cái thô của người làm việc nhiều bằng tay chân, nhưng lại có dáng của một người quý phái lúc chị đi đứng. Tôi không hiểu tại sao hai điều này lại có thể dung hợp được vơi nhau nơi một người. Chồng chị Lập là giáo sư hướng dẫn văn nghệ cho trường. Anh có lối nói chuyện làm vừa lòng học trò. Cùái khéo của anh là anh dễ khiến cho mọi người tin tưởng rằng chuyện chi anh cũng làm được….
Chưa vào tới nhà, chị Lập đã réo tên tôi oang oang như hét gọi một đứa bé. Chị không giấu mừng rỡ đến cảm động:
- Nhỏ kia, tưởng biến luôn rồi. Vào xem mặt công chúa đi.
Tôi cười:
- Đã hân hạnh diện kiến dung nhan công chúa từ lúc mới lọt lòng kia mà.

Chị Lập bồng con lên nựng “à, há”. Tôi lại gần ngó xuống mặt con nhỏ ló ra ngoài đống chăn mền trắng toát. Chị chuyển cho tôi. Tôi bồng nó, không, tôi ôm đống chăn mềm thì đúng hơn. Con nhỏ ngủ thật say. Nó có nhiều nét gống chị. Tuy nhiên tôi vẫn nói sao nó giống anh ấy như khuôn đúc vậy? Chị Lập cười sung sướng.
Sự sinh nở làm chị xồ xề, nhếch nhác khác hẳn mọi khi: nồng nặc mùi dầu nóng, mùi gừng, mùi thuốc bắc. Chị bịt kín đầu bằng chiếc khăn len dày. Tôi bảo trông chị giống như một người ở Bắc Cực. Chị cười đáp rằng anh Lập cũng nói thế. Chị kết luận “đàn bà đẻ mà”. Tôi hỏi thăm anh Lập. Chị nói đi dạy rồi. Tôi nói “Siêng dữ”. Có công chúa rồi tính làm giầu sao đây? Trong giọng nói của tôi có chút trách cứ anh Lập, nhưng chắc chị không để ý. Chị cười xềnh xệch và thành thực một các tội nghiệp “Có con rồi, phải lo chứ”. Tôi ngồi chơi một lát, hỏi thăm năm ba chuyện vớ vẩn ở trường. Chị Lập cũng chẳng biết gì hơn ngoài những điều được anh kể lại. Sau chót, chị ngắm nhìn tôi từ đầu tới chân. Cái nhìn của chị khác thường khiến tôi vừa ngạc nhiên vừa ngượng nghịu. Tôi hỏi có chuyện chi mà chị nhìn em lạ vậy. Chị Lập lắc đầu: “Người ta dồn em không trở lại đây nữa”. Và chị tiếp ngay “Nhưng chị tin em sẽ trở lại”. Tôi nhìn xuống đôi môi đứa nhỏ: “Điều đó đúng đấy chị”. -“Cái gì đúng?” -“Lời đồn đãi”. Tôi đáp nhanh và ngước lên. Chị Lập tỏ ra lúng túng. Tôi trao trả đứa bé cho chị: “Chị ngạc nhiên phải không?”. Chị Lập ôm sát con vào lòng mình. Chị áp má vào đầu đứa nhỏ, như thể cố lắng nghe xem đứa bé muốn nói điều gì với chị trong giấc mơ của nó. Chị điềm tĩnh khi đáp: “Không. Chị chỉ hơi ngỡ ngàng một chút”. Con nhỏ chợt ré lên. Chị đập nhè nhẹ vào người nó. Nó nằm im trở lại. Chị Lập đứng lên thả con lại nôi. Chị nói: “Ra đây ngồi chơi với chị một chút. Thế là hai chị em mình sắp sửa xa nhau rồi đấy nhỉ”. Giọng chị không chút ngậm ngùi nhưng tôi thấy lòng thoáng chao động. Tôi bước ra và ngồi xuống bộ ghế salon gỗ kê sát cửa ra vào. Để đánh tan cái u ám vừa hiện ra của một đám mây bất chợt, tôi đùa:
- Chị cứ làm như vĩnh biệt tới nơi không bằng.
Chị Lập ngồi xuống sát bên tôi, chị vói tay sửa lại bó hồng nhung trong bình.
- Chẳng phải thế, nhưng em về dưới rồi thì chị em mình cũng khó có dịp gặp nhau lắm.
Tôi vẫn giọng bỡn cợt:
- Ai bảo chị vậy. Em sẽ lên đây thăm chị luôn. Bỏ thành phố này dễ rồi, bỏ chị và công chúa kia nữa thì khó đấy.
Chị lập không cười. Chị nghiêm nghị:
- Ai đó? Ông Hãn phải không?
Tôi giật mình:
- Chị tài thật đó.
Chị Lập nhìn tôi. Lại cái nhìn khó phân biệt trạng thái tình cảm. Chị lắc đầu:
- Em tôi thật ngây thơ quá đi. Cả thành phố này biết chứ nào riêng gì chị.
Tôi bối rối thật tình. Không lẽ tin đồn lại đi nhanh đến thế. Tuy nhiên tôi vẫn tiếp tục đánh lạc hướng để xem phản ứng của chị Lập ra sao. Tôi nói:
- Chẳng lẽ nhân vật trong cuộc chưa có quyết định mà chung quanh quyết định trước giùm hay sao?
Chị Lập sửa lại chiếc khăn trên đầu, nới rộng nút thắt ở dưới cằm. Chị nói:
- Thế mới lạ chứ. Anh Lập mới nói chuyện với chị tối hôm qua. Anh bảo người ta nói em không đi dạy nữa, vì Hãn không thích. Em bỏ tất cả mấy trường và cũng chẳng cần lãnh lương.
Tôi cười, xoa xoa hai bàn tay:
- Điều đó thì không đúng rồi. Nếu đúng, chiều nay, em đã chẳng ngồi đây.
- Thôi không nói đừa nữa. Sự thực sao?
Tôi cười bằng mắt:
- Sự thực nào mới được chứ?
- Em với Hãn.
- Chẳng có gì hết.
- Láo
Chị Lập buông gọn một tiếng hàm ý trách yêu. Tôi nói:
- Chị không tin sao?
Chị Lập không trả lời vào câu hỏi của tôi:
- Chị thấy Hãn cũng được chứ. Có điều không hiểu sao, đa số lại có dư luận không được tốt lắm về Hãn. Chị bảo anh Lập, có dịp nên nói với họ rằng khoan có nhận xét về một người nào, khi chưa biết nhiều về người đó. Tôi gần chị Lập vì chị luôn tỏ ra bênh vực và đứng hẳn về phía tôi, chống lại tất cả những mũi dùi nhắm vào tôi của đám đông. Nhưng lần này, tôi không tin hoàn toàn nơi lời nói của chị. Tôi kéo một lọn tóc ngậm ngang miệng. Đó là thói quen của tôi trong những trường họp chưa chọn được cho mình một cách xử trí hoặc những khi lòng quá phân vân suy tính. Tôi nhìn chị thăm dò. Chị cũng nhìn tôi, ánh mắt thẳng thắn nghiêm trang.
Tôi hỏi:
- Chị đã gặp Hãn chưa?
- Gặp thì chưa. Nhưng chị có thấy Hãn một lần khi Hãn đến đón em ở trường. Học trò nó thấy hết. Một lần khác chị và em cùng gặp Hãn trên đường về. Em quên rồi sao?
Tôi nhớ lại, đó là một buổi chiều, trước khi Hãn trở về một ngày. Tôi hẹn chàng đến đón sớm. Tôi cho học trò nghỉ một giờ và đi chơi với Hãn tới khuya. Lần đó hình như chị Lập tới trường để xin nghỉ dạy vì đã sát ngày nằm chỗ. Chị Lập tiếp
- Tuy nhiên, chị còn biết nhiều hơn thế, dù em không kể với chị.
Tôi hỏi vu vơ, không chủ tâm:
-Theo chị thì sao?
Chị Lập nhíu mày, im lặng hồi lâu.
-Khó nói lắm. Nhưng cứ như chị thì ăn thua là em. Xét mình cho kỹ. Cân nhắc, đắn đo cho cẩn thận. Tính xa tính gần đủ mọi mặt đi. Mà phải nhớ là nên dự trù những trường hợp bi đát nhất. Đừng bao giờ lạc quan. Sau đấy nếu thấy chịu đựng được thì tiến tới. Chừng đã quyến định thì không có lùi bước nữa. Chị biết có nhiều người cuối cùng rồi không ra làm sao, chẳng thành cái gì hết cũng chỉ vì tính chập chờn, ấp úng. Lúc thế này, lúc thế khác. Còn trong trường hợp nhắm thấy mình không thể kham nổi, cũng phải thôi ngay. Cũng phải dứt khoát, quyết liệt, rõ ràng mới được.
Tôi vò lọn tóc đẫm nước:
- Sao em lo sợ quá, chị à.
Chị Lập đặt một tay lên đùi tôi:
-Chị hiểu. Làm sao không lo sợ cho được. Bình thường còn như vậy. Huống hồ chi….
Câu nói nửa chừng của chị Lập cho tôi ý nghĩ, chị đã hiểu khá đầy đủ hoàn cảnh riêng của Hãn và cái khó khăn, tế nhị của gia đình tôi. Tôi đặt tay mình vào lòng bàn tay chị.
Chị siết lấy. Tôi không dám ngửng lên, dù biết chị đang nhìn tôi với ánh mặt chan chứa trìu mến, an ủi.
Cũng có tới một phút sau, chị Lập chậm rãi:
-Chuyện của em quan trọng quá. Việc làm của em ghê gớm quá. Chị không dám có ý kiến. Nhưng trường hợp nào thì chị cũng nghiêng mình cảm phục em. Chị nói thành thực đó. Ít nhất đời người phải có được một lần cái giây phút thiêng liêng ấy. Cái giây phút chạm mặt, đối đầu với chính đời sống của mình. Nhưng chị tha thiết mong em được toại nguyện (chị ngập ngừng). Em cũng thừa biết, tuy cùng dạy với nhau, nhưng chị thương em, như thương một đứa em út trong gia đình. Và sự thực thì em cũng còn quá nhỏ. Em đâu có lớn lao là bao. Đời sống khó khăn lắm, em à.
Tôi muốn khóc vì những câu nói của chị Lập.
Trước khi đứng dậy ra về, tôi lấy lại bình tĩnh:
- Em đã quyết định.
Chị Lập gật đầu., không chút ngạc nhiên.
- Chị cũng nghĩ thế. Ngay khi vừa trông thấy em. Và dù là em trở lại.
Tôi giữa lại bàn tay chị Lập trong tay mình. Tôi nói và nhìn vào mắt chị.
- Chị còn điều gì dành cho em không?
Chị Lập lắc đầu. Chị gượng cười, cúi xuống:
- Chị chẳng có gì để cho em hết. Chị chỉ xin ơn trên luôn cho em được ngay thẳng. Khi sống cũng như lúc chết.
Tôi quên nói chị Lập là người công giáo. Khi buông tay chị ra, tôi nói thay cho lời chào:
- Dù cho không gặp lại nhau, và dù ở đâu chị cũng nên yên trí một điều là em tham sống, mhưng đồng thời lại rất thân mật với sự chết.
Chị Lập đưa tay vuốt mau dsợi tóc lòa xòa trên trán tôi. Không biết bvô tình hay cố ý chị dừng vài giây nơi vết chàm trên ytrán, tôi thấy hình ảnh tôi thật rõ trng đôi mắt chị, rưng rưng.
Tôi đến thẳng bệnh viện, nơi ông Khảm hẹ. Chút nắng vàng mới le lói đã tắt lịm phía bên kia, trong thung lũng. Nhưng mặt trời thì còn là vùng đỏ ối bên này, đỉnh nhọn của những rặng núi.
Chương 4.
Hình như tôi đã sửa soạn, đã sẵn sàng từ một tuần nay, hay hơn thế, để đón chờ một cơn mưa. Trận mưa sẽ thả xuống hồn tôi những sợi óng chuốr, trong như thủy tinh quấn quít và buồn lạnh. Và những sợi mưa đó sẽ bò qua tấm màng lọc vsà trôi biền biệt tâm hồn tôi. Và cơn mưa đã tời. Nhưng cơn mưa đã không đến như ước mơ của tôi. Nó bắt đầu bằng những riếng động lộp bộp trên cái phần lợp ngói của mái nhà, như tiếng gõ hối hả, gấp gáp của một người khách lạ man đến những lời chúc dữ.
Tôi trở mình, nghe ê ẩm một phần thân thể. Cảm giác ê ẩm cùng với hơi nước lạnh đi khắp thân thể tôi, cho cảm tưởng toàn thân đang bị đè hơi xuống bởi một sức nặng của thân thể nào đó. Điều này khiến tôi sống lại một lần nữa, cái đời sống khoảng khắc của buổi trưa. Buổi trưa với chàng. Buổi trưa đã đi qua, để trở vào bằng một ngưỡng cửa khác. Tôi muốn nói tới ngưỡng cửa ký ức, của kỷ niệm. Buổi trưa lơ lửng trên khoảng không, cái lưng chừng khiến những tiếng động từ dưới không thể dềnh tới, nhưng ở trên đó, trong nơi chốn lơ lửng đó, người ta có thể nghe được tiếng róc rách của những hạt nước từ chiếc hoa sen chảy rỉ xuống nền đá trắng. Tiếng rè rè và đôi khi như khụt khịt của chiếc máy lạnh cũ. Tất cả những thứ đó, cùng với tình yêu, Hãn đã tạo cho tôi cái chờ đợi sẵn sàng, cái sửa soạn thân mật, yêu mến, một cơn mưa. Một ngày mưa, nếu có thể.
Tôi rụt chân về rồi búng ra, với hy vọng sẽ tung rộng được mảnh chăn phủ kín hai bàn chân lạnh. Mưa vẫn với những tiếng lộp bộp, nhưng hình như nặng hạt hơn, và hơi lạnh cũng phả ra nhiều hơn. Tôi nghĩ tới và không tránh được cái liên tưởng giờ phút này, ở bên là ai. Tôi biết, là ai đó. Một người nào, không phải tôi. Dĩ nhiên. Cái dĩ nhiên này, nghe chừng ngậm ngùi và chua xót quá. Những ngón chân vẫn bị thừa ra, có lẽ tại chiếc chăn quá ngắn, tôi cảm thấy rõ ràng hơn, cái cô quạnh và vắng vẻ hắt hiu của đời sống mình. Đôi khi tôi thấy tôi chẳng khác bao nhiêu với một người chinh phụ. Tôi nghĩ còn quá nhỏ để tự gán lấy cho mình cái ví von thảm thiết ấy. Nhưng quả thật tôi đang sống những ngày, như thế đó. Những ngày chàng mù tăm hẳn ở một đầu dây cách biệt, với những bổn phận, những bon chen cần thiết để hoàn tất bổn phận. Trong khi tôi lầm lũi ngày hai buổi tới trường. Lớp học mở ra những hàng dao nhọn. Những rình rập, những đe dọa lẩn khuất với những mũi tên tẩm độc. Cái gì có thể quen được, chứ những lời dè bỉu, những lời bỉ thử, tôi nghĩ khó mà quen được lắm. Tôi không nghĩ như một tác giả, khi nói về tâm lý của người phụ nữ cho rằng, đám đông phụ nữ có thể cùng lên án gièm xiểm một người đàn bà khác, mặc dù thâm tâm, họ vẫn thầm mơ ước mình được như người bị kết án kia. Tôi cũng không có ý quan tâm tới họ, quả thực cái đám đông lúc nhúc ở quanh tôi chẳng có một chút gì đáng để phải bận lòng, nhưng họ đã không ngớt léo nhéo, không ngớt cố tình nói lớn, như tát vào mặt tôi, những gì họ biết được về đời sống, về quá khứ của Hãn. Trong một giây mất bình tĩnh, tôi muốn trả lời chung cái đám đông đó bằng một câu đại ý cho họ biết: với tôi vô ích và vô nghĩa tất cả mọi đàm tiếu. Chỉ có hành động, chỉ có sự lựa chọn, và dứt khoát với lựa chọn (đau đớn) của tôi, thay vì ý nghĩa nào đó mà thôi. Và nếu cần thêm, họ nên cám ơn tôi, thay vì đả kích, bởi phải có tôi, nhờ tôi, họ mới được tiếng là\ những người con gái nết na, những người con gái của đạo đức và luân lý. Nếu không có tội, và không có những tình yêu như tình yêu chúng tôi, đời sẽ tẻ nhạt biết chừng nào. Nhưng hình như tôi đã chỉ mỉm cười. Tôi mỉm cười với đôi mắt mở lớn, lơ láo. Đôi mắt mà chàng bảo như suối (nếu anh biết trước, trong tình yêu của anh, em chỉ nhìn thấy mây mù, chỉ còn nhìn thấy những cơn dông kéo qua một trời tăm tối, thì chắc anh sẽ ví mắt em với một hình ảnh khác. Thí dụ,con chim mù, thí dụ, con mắt đá. Bởi sự thực như anh đã thấy, dòng suối chỉ chuyên chở và kéo trôi trong đó những muộn phiền, những vẩn đục, những cặn bả và rác rưởi của đời. Đôi mắt em, chỉ thực là đôi đôi mắt em, khi em trước anh, khi em, có thể dùng nó như mặt gương phản hắt lại tâm hồn em, tình yêu nồng nàn, và lòng thương xót đẫm ngất. Đôi mắt em chỉ thực là nó, khi nó được cô đơn, soi xuống chính tình yêu, những khuya khoắt một mình. Những bước không chi chung lúc ra đi, hay trở lại).
Nhưng tôi không nói được. Và tôi chỉ mỉm cười. Nụ cười bình thườnng đã lạnh lẽo, nhạt thếch và khó ưa. Có lẽ tôi đã khiến đám đông vây quanh tôi, bực bội, khó chịu hơn. Tôi nghĩ, chỉ còn một cách, ra khỏi lớp học. Dời khỏi chiếc ghế của mình. Và tôi một mình ngược xuôi, chạy trên những con đường cây dâm, những con đường mà chúng tôi thường ngang qua, với hy vọng tình cờ sẽ gặp được chăng. Hy vọng, luôn luôn tôi cho đó chỉ là cách nói, bởi nó là chữ có sau chữ tuyệt vọng. Tuyệt vọng, cái tiếng đó mới thật. Vì nó có trước. Và hy vọng, chỉ là cái mặt bên kia. Cái mặt không thực. Cái mặt người ta nói chơi, nó cho có chuyện.
Tôi chạy xe dưới bầu trời ỉ ỉ một cơn mưa. Tôi nghĩ cơn mưa sẽ ập xuống bất thần, một lúc nào, trên những con đường tôi đi tìm kiếm Hãn. Nhưng những đám mây ẩm hơi nước đã bị lùa dạt đi bởi những cơn gió mạnh. Và bầu trời, trở lại cái màu xanh trong suốt,của những hứa hẹn nóng gắt. Cuối cùng, tôi nhớ đến Mậu. Tôi muốn nghe Mậu hát riêng cho tôi bài hát gì đó. Bất cứ, một bài gì. Tôi muốn lẩn tránh ngay chímh ngôi nhà của tôi. Hình như tôi e ngại và sợ sệt phải chịu đựng cái nhìn nghiêm lặng của mẹ tôi, mỗi khi tôi trở về nhà trước sáu giờ tốâi. Sự trở về sớm hơn thường lệ, luôn luônđem tới cho mẹ tôi những lo ngại và những dò hỏi. Tôi không đủ cam đảm làm khổ người mẹ già đã dốc lòng tin tưởng vào việc học hành chăm chỉ của mình. Tôi không thể dấu được gì. Trên nét mặt, khi bóng tối chưa thực sự có trong ngôi nhà. Tôi vẫn nghĩ một ngày nào, rồi mẹ tôi sẽ biết hết mọi chuuyện, bằng cách này hay cách khác. Nhưng điều mong mỏi của tôi vẫn là chưa phải bây giờ. Vâng chưa phải bây giờ.Ở trong tôi có một mâu thuẫn rõ rệt. Hình như một mặt tôi muốn thủ thỉ với mẹ tôi về Hãn. Nhưng mặt khác tôi lại tìm cách dối quanh hay lảng tránh mỗi khi bà đề cập tới chuyện chồng con. Tôi không sợ mình thiếu nghĩ lực để công khai nói với mọi người là tôi đã chọn Hãn như chọn lựa đầu tiên và cuối cùng của một đời con gái. Nhưng tôi sẽ không đủ sức để chịu đựng, để đứng vững trước xác nhận bàng hoàng, và oan trái ấy. Mậu đón tôi bằng câu hỏi với nụ cười hóm hỉnh.
- Muối mặn đâu?
- Muối mặn quá nên xót đau cả ruột.
Mậu gọi Hãn bằng cái tên kỳ quặc này. Tôi cũng hiểu cái hỗn danh được Mậu đặt ra từ bao giờ, nhưng nghe hay hay, nên gặp nhau, chúng tôi thường ám chỉ Hãn bằng hai chữ đó.
Không biết vẻ mặt tôi có phải là vẻ mặt của người khác không mà Mậu yên lặng nhìn tôi sau câu nói đùa, trong khi tôi mệt mỏi đi thẳng vào phòng khách, gieo người xuống ghế. Mậu vào nhà trong. Cái bóng trắng của Mậu thấp thoáng trong mắt tôi lờ mờ, mệt mỏi. Tôi ngả đầu vào thành ghế, khép lại từ từ, đôi mắt hực hơi nóng. Lát sau Mậu trở ra đem cho tôi một cái khăn ướt và một ly nước lạnh. Tôi im lặng lau đi lớùp bụi nhờn trên mặt và uống hết ly nước. Mậu đặt hai tay trên đầu gối, nhìn tôi như nhìn một vật xa lạ hoặc một đứa em với chút ít thương xót. Tôi bảo Mậu hát đi. Đến để nghe Mậu hát chứ không phải để được ngắm nhìn. Mậu cười. Nụ cười cũng trắng toát như quần áo, như gương mặt của vòm sáng nhà nguyện. Tôi nghe thân thể rời rã. Cũng vẫn những rời rã nhưng không giống như những rời rã của ban trưa… Cái rời rã còn thèm muốn hưởng lại.
Trên nệm ghế, trong giấc ngủ mơ màng tôi lắng nghe tiếng quạt chạy lạch cạch trên đầu và tiếng hát buồn của Mậu, mang theo một cơn mưa lẩn khuất. Một cơn mưa hứa hẹn ở những giây phút cuối của một ngày. Tôi choàng mắt bật người, khi tiếng kẻng khua chậm chạp và ngơ ngác từ sân trại lính phía sau lưng nhà Mậu. Mậu vẫn còn ngồi trước mặt tôi, hút sâu trong chiếc ghế bành rộng. Cơn mưa hứa hẹn đã không còn trên môi Mậu. Ngoài sân chung, những chiếc lá vú sữa chạy xạc xào cùng với sự vắng vẻ những bước chân bụi mù của trẻ nhỏ, khiến tôi thấy được như ở phía ngoài, một cơn mưa nào, vẫn còn lẩn khuất. Tôi đứng dậy ra về thật mau. Tôi không thể nán lại thêm chút nữa. Vì nếu nán lại trong mắt nhìn lặng lờ (với nhiều tra hỏi và ái ngại) của Mậu chắc tôi khóc mất. Em thật dễ khóc. Phải anh thường mắng em như vậy? Và em đã không kể lại với anh rằng chính em, em vẫn thường tự mắng mình như vậy. Em vẫn thường tự kiển trách em: Ơi nhỏ, có chi đâu mà mày khóc. Phải, chẳng đáng gì hết. Chẳng có điều gì ở trên dời này đáng để cho mày phải chảy nước mắt hết. Đời sống chẳng qua, chỉ là một trò chơi lớn, triền miên với những chiếc mặt nạ thay đổi theo từng người và từng hoàn cảnh,. Mãy hãy để dành những giọt nước mắr quý báu kia, cho cái giây phút được cởi bỏ mặt nạ sống với đời sống đáng lẽ ra của mày. Nhưng mà, phải không anh, em vẫn cứ khóc một cách thật dễ dàng, như trẻ nít, Em đã khóc khi không, ngon lành một buổi sáng trong góc tối của một ngôi quán, khi anh kéo về gần, mặt em. Khi anh nói với em: Anh yêu và anh cần em, hỡi nhỏ. Lúc đó, em không hiểu tại sao, những giọt lệ kia. Nhưng sau đấy thì em biết, tại sao. Em biết tại sao. Nhưng em im lặng. Em đã nuốt đi, như nuốt cơn xúc động bùi ngùi của em. và em mím môi im lặng. Lúc ấy, anh đâu biết em bật khóc, chỉ vì ngay sau câu nói của anh, hình như em cảm thấy nó đã bật lên một vực thẳm, mở ra những tối tăm, đe dọa, mất hút. Và em nhìn thấy chính mình đang lao xuống vun vút. Hình như ngay sau câu nói của anh, đã bật lên trăm nghìn ngọn giáo và những móng ghen tuông, và em lại thấy một khuôn mặt bê bết máu. Khuôn mặt ấy chẳng phải là ai khác hơn em. Nhưng anh yêu dấu, anh yên tâm.
Cho đến bây giờ và có lẽ tới ngày em chết, em vẫn thấy đúng câu văn của ai đó, về tình yêu. Vấn đề là có được một tình yêu để mà lụy hay không, chứ không phải là có nên hay không lụy vì nó. Em đã tự nhủ mình nhiều lần mỗi khi lên giường và một số khuôn mặt hiện ra những đêm mưa trong một thành phố bùn nhơ với nhiều ảo tưởng. Những đêm mưa thốc về, sau khi đã ào ạt băng qua những đỉnh núi cao, những rừng hoang dã, em thèm khát, phải, một nụ hôn môi, một lời gay gắt. Bây giờ, em đã ở trong hơi thở anh đẫm mùi thuốc khét. Bây giờ em đã ở trong những lời gắt gỏng, những cái cốc đầu, những cái bợp tai. Ôi, sao thỉnh thoảng em vẫn thấy em lớn hơn anh, vậy mà em lại vẫn có thể để anh bợp tai hay cốc đầu như vậy nhỉ? Có phải đàn ông thì có nhiều quyền như vậy, và đàn bà chỉ có nghĩa như một cái gì cần cho sự thể hiện quyền hành đó của đàn ông? Có lẽ anh lại sắp cáu với em về cái lối lý luận sặc mùi “đấu tranh” của em rồi đấy. Thôi, dẫu bây giờ, anh ở quá xa, nhưng những giờ cách biệt nhau là những giờ mà em thấy như anh đang sống trong một thế giới khác. Một thế giới làm nên những đớn đau, tủi hờn hôm qua ở em!
Chương 5.
Tôi bắt đầu nghe được tiếng nước chảy từ vách gỗ xuống tới nền xi măng và thoát ra khỏi ngõ. Người khách lạ quả đã đem đến cho tôi những lời chúc trong khuya này. Tôi không thể ngủ lại, mắt tôi mở trâng tráo. Ánh sáng của ngọn điện nhỏ trên trang thờ xuyên qua màn, cho thấy gương mặt già cỗi của mẹ tôi. Mấy lúc gần đây, kể từ ngày yêu Hãn hình như tôi né tránh những cái nhìn thẳng vào mặt bà. Tôi né tránh cả những tia nhìn có hay không có ẩn ý của những người chung quanh. Cái mặc cảm phạm tội với những người thân yêu đó, khiến tôi rút co lại như một con ốc. Tôi luôn luôn giương ra cái vỏ cứng lạnh của mình. Cái vỏ bao ngoài trơn bóng và vô tri. Tôi nhìn mọi người qua cái vỏ đó. Phải chăng tôi đã tới cái tuổi sợ sệt mọi dòm ngó của chung quanh vào đời sống riêng mình.
Tôi chống một tay và hơi nhỏm người dậy. Mẹ tôi ngủ quay mặt về phía tôi. Đôi chân bà co lên. Tôi sờ bàn tay bà lạnh ngắt. Mái tóc bạc tơ ra từng sợi. Tôi nhìn thấy lớp da đầu nhăn và cảm tưởng nếu bứt nhẹ, những sợi tóc kia, có thể sẽ kéo theo cả mảnh da đầu của bà. Cái ý tưởng thoạt tiên nhuốm nhiều khôi hài đã đẩy tôi tới chỗ chợt thấy mình tội lỗi quá. Tôi vuốt ve những ngón tay xương xẩu của bà, và nghĩ tới những ngón tay đó, liên tiếp hai mươi năm qua, đã chăm bẫm, nuôi nấng tôi. Cũng ngón tay đó, trong suốt cuộc đời bà, từ ngày về làm dâu gia đình bố tôi,. Đã bao lần đưa lên ngang mặt, gạt nuốt những giọt lệ đắng. Tôi đắp chăn cho bà, và rón rén bước xuống khỏi giường. Tôi sợ ở lâu bên cạnh bà, với những ngón tay xương xẩy kia, với cái giá buốt ấy, chắc rồi tôi sẽ ôm lấy bà và tôi sẽ đem bà ra khỏi cơn mơ. Cơn mơ ước thấy đứa con gái duy nhất còn lại, ở bên cạnh bà đang làn đúng theo những gì bà mong ngóng và trông đợi.
Mưa vẫn rào rạt. Những tiếng lộp bộp mạnh, nhanh và nhiều hơn. Căn nhà như lún xuống, cho tôi cảm tưởng như nghe được những tiếng gõ cửa rất gần và rất gấp. Tôi hoảng hốt với những bước chân không, vội vã về phía cửa, Hình như tôi đang trôit heo cái hối hả gấp gáp của một sự việc gì đó, không rõ mặt. Hình như tôi thấy rất rõ ai đó đang chờ tôi ở ngoài hiên. Một người nào, có thể là Hãn và cũng có thể là người khách lạ. Người khách hứa hẹn mang tới cho tôi những lời chúc dữ. Tôi run rẩy áp tai vào ván cửa. Tôi run rẩy đưa tay bưng lấy ngực mình. Linh cảm cho tôi thấy quả thực có một người đang đứng ngoài cửa. Quả thực có một người khách trong giờ này, giữa cơn mưa. Tôi hình dung y với chiếc áo mưa kéo cao cổ và chiếc mũ dạ kéo xuống che hết vầng trán, che luôn cả đôi mắt. Hình dung y, người khác lạ, nhưng một phần nào nhen nhúm, lập lờ trong trí tưởng tôi, người đó lại là Hãn. Biết đâu, Hãn chẳng đến tìm tôi trong cơm mưa về sáng nay. Hãn đã chẳng từng nói. Hãn yêu mưa từ những ngày còn bé. Hãn yêu một tình yêu không thể thay đổi. Và có thể lắm, cũng như tôi, Hãn tỉnh dậy cùng với những hạt mưa đầu tiên và Hãn ra đi.
Tiếng lộp cộp thôi thức hơn. Tôi trong một giây mơ hồ không định trước, như bị sai khiến bởi một quyền lực bí mật, tôi mở tung cánh cửa. Gió tạt mưa ào ạt vào mặt, như muốn hất tôi ngã vào trong, nhưng mắt tôi còn kịp thấy con ngõ trườn mỉnh dưới làn nước lênh láng. Ngọn đèn đường ở đầu ngõ dưới một cành lớn của cây sao ngoẹo đầu xuống, trông như một người thắt cổ. Tôi rùng mình ngồi xuống ngạch cửa. Hai bàn tay khoanh trên hai đầu gối. Tôi úp mặt. Mưa vẫn trì rào trên đầu. Những hạt nước li ti liên tiếp bắt dính khắp thân thể. Tôi nghĩ tôi có quá nhiều điều để nói với chàng. Anh biết em đã nhớ anh? Nhớ anh quay quắt cả người, ngay khi chúng ta vừa chia tay. Em nhớ anh bảo: Chỉ có những chia cắt khởi tự lòng người mà thôi. Nhưng sao em lo quá, anh hiểu không: Em sợ chúng mình sẽ vĩnh viễn mất nhau và sự chia cắt đó, không khởi đi tựng lòng anh cũng chẳng tự lòng em. tự một cái gì đó. Một nơi khác. Em đã chọn lựa sẵn cho em., Em không ân hận và cũng chẳng có gì để phải phân vân đắn đo. Nhưng còn anh. Ôi, anh của em. Anh sẽ như thế nào? Ở đâu? Chúng ta sống với một đời sống quá nhiều âu lo và như vậy sao gọi là sống được, phải không anh? Chúng ta lo âu đấy, chúng ta có sống đâu! Anh có cũng nghĩ như em vậy chăng?Cơn mưa đầu mùa dứt vào lúc năm giờ rưỡi sáng. Tôi không ngủ lại được, nên vào bếp đặt siêu nước và xúc bình trà cùng sửa soạn đồ pha trà cho bố. Mẹ tôi trở dậy lúc tôi đã làm xong giúp người việc vặt cần thiết cho một buổi sáng. Mẹ tôi nói bà hết hồn khi mở mắt ra mà không thấy tôi bên cạnh. Tôi cười, nửa đùa nửa thật nói với bà: Mẹ cứ hết hồn vài lần như vậy đi, tới chừng thực, mẹ sẽ không hết hồn nữa. Mẹ sẽ yên tâm hơn. Bà nghiêm nét mặt hỏi tôi nói vậy nghĩa là gì? Tôi trả lời rất thành thâät: “Con cũng chẳng biết nữa”.
Tôi ra khỏi nhà như thường lệ. Nhưng thay vì đến trường, tôi đi kiếm Hãn. Tôi nao nức quá, muốn kể cho Hãn nghe cơn mưa đêm hôm. Muốn nói với Hãn về ông khách đến trong cơn mưa và đem tới những lời chúc dữ, nhưng khi tôi mở cửa thì ông đã biến mất, Tôi tưởng tượng gương mặt vừa lắng nghe vừa cười cười của Hãn. Hình như Hãn luôn sửa soạn sẵn một nụ cười trên môi mỗi khi lắng nghe tôi nói. Hãn cho tôi cảm tưởng Hãn nhìn tất cả mọi chuyện tôi kể đều chỉ là những chuyện hoang đường dành riêng cho trẻ con.
Và tôi đã cười, như thể Hãn đang ở trước mặt.
Tới nơi, người ta cho biết chàng đã đi khỏi từ sớm. Lúc cơn mưa dứt. Và họ không thể biết chắc được ngày về. Có thể trong một tuần, có thể hết mùa mưa, và có thể lâu hơn thế.
Tôi choáng váng.
Đất ẩm, trời cũng ẩm, và một cơn mưa khác như đang được sửa soạn trên bầu trời. Phải chăng cùng với mùa mưa tới, chúngta bắt đầu sống thực sự với cái ám ảnh của cuộc tình mình. Cái ám ảnh có ngay từ phút giây thứ nhất của một lần anh hôn em, và em nói lời đầu tiên với anh: em yêu anh. Nếu quả thực cùng với mùa mưa bắt đầu, cái hạn kỳ thảm thiết của định mệnh đã tới, thì anh, anh ở đâu, hãy tìm cách báo cho em biết. Báo cho em cho em biết và em sẽ, liệu lấy dời mình. Em sẽ liệu như thế nào, anh thừa biết. Riêng chỉ có một điều đáng tiếc là đã không được sống với anh, một giây khắc nào trong mùa mưa này. Người khách lạ đem đến cho em những lời chúc dữ, quá sớm. Phải. Sớm quá. Và y đã bỏ đi, khi mà những hạt mưa, mới chỉ khởi đầu. Khi những sợi thủy tinh chưa kịp dò qua màng lọc của tâm hồn em, thì tình yêu chúng ta, đã chảy trôi đi, biền biệt.
Tôi trở về trường, vào lớp với một sẵn sàng chờ đợi một cơn mưa lớn. Một cơn mưa không xuống từ trời thấp. Không ngang qua những đỉnh cây. Một cơn mưa bắt đầu tự ngay lòng tôi. Ôi tâm hồn tôi, đời sống tôi, còn non và xanh quá.
Chương 6.
Tôi về nhà vào lúc bốn giờ chiều. Cơn mưa được báo hiệu bởi những đám mây chất nặng hơi nước đã tan, tuy bầu trời còn thấp và không gian còn giữ được chiếc áo màu tro cùng với hơi mát luồn trong những cơn gió và những chiếc lá trên mặt đường lạnh lẽo. Hiên được theo ở phía sau xe, như một vị thần hộ mạng, ép phải ra tay cứu độ cho một người khổâng lồ (là tôi) thoát khỏi mối đe dọa chập chờn một trận mắng thậm tệ. Tôi không muốn áy náy vì sự đi chơi băng qua cả buổi trưa, không ăn cơm và cũng không xin phép trước, nhất là trong buổi đi chơi lại có mặt anh Các. Tôi muốpn chứng tỏ với mọi người: tôi đã lớn. Có lẽ đó là một trong những khao khát mãnh liệt nhất của tôi trong những năm còn ngồi trên ghế trung học.
Mà tôi không lớn là gì, khi năm nay tôi đã bước vào tuổi hai mươi mốt. Cái tuổi mà một lần nào đó, ngồi trong thư viện, vô tình mở cuốn sách Luật, đúng phần nói về tuổi trưởng thành, tuổi hai mươi mốt (tuổi tôi bây giờ). Tôi lặng người vì sung sướng ngây ngất. Tôi hai mươi mốt. Tuổi thành niên, trong trí tưởng tôi có nghìn khung trời với những cánh cửa lớn được mở ra cho tôi bước vào, cho tôi bay lượn, nhảy múa. Ôi, cái tuổi hai mươi mốt. Tôi gấp sách lại, nhắm nghiền đôi mắt và mỉm cười một mình giữa thư viện. Tôi muốn hét lớn “anh”. Tôi muốn chắp cánh để bay ngay tới Hãn và chỉ nói với Hãn một câu “Em đã hai mươi mốt”. Và tôi nghĩ chàng hiểu được nỗi hân hoan tràn dâng ở trong tôi như ngọn triều cao khiếp nhất. Tôi sẽ chờ đợi ở Hãn một câu nói gì đó khác hơn câu Hãn vẫn dành cho tôi kèm theo cái cốc đầu: nhỏ, liệu. Nhưng tôi càng muốn chứng tỏ mình lớn bao nhiêu lúc được ra khỏi nhà, lúc đứng trước mặt Hãn, trước mặt bạn bè, thì lúc trở về tôi lại càng thấy mình không thể phồng to lên được trước mặt mẹ tôi, với cái nhìn nghiêm khắc hay nồng nàn yêu mến. Hình như tôi không thể to lớn hơn cái hình ảnh đã được định vị từ bao nhiêu năm trong mắt nhìn lo lắng của bố. Những lúc đó hình như tôi còn mỏng hơn nữa. Mỏng hơn cả chiều dầy của một thân cây ốm o bị xẻ đôi (lời Hãn bình phẩm đấy). Những lúc đó hình như tôi đã thu rút người lại, để hiện nguyên hình một đứa trẻ bị đeo trước ngực cái bằng “nói dối”… “nói láo” to hơn cả cái chiều ngang của ngực mình. Đó là những lúc mà tôi cảm thấy như nước mắt (người bạn thân thiết và dễ thương nhất của tôi) từ đâu đó chạy tới. Nước mắt, cái lợi khí lớn nhất mà tôi có được trong những năm tháng niên thiếu vừa qua đi (những năm tháng trước khi nhắm mắt ngủ phải có hơi mẹ). Nhưng bây giờ đã khác. Làm sao không khác cho được khi tôi mới nói rằng: Tôi đã lớn. Tôi nghiêm chỉnh. Tôi ra dáng… Và do đấy tôi không thể triệt để khai thác cái khả năng thiên phú kia. Dù những ngày vừa chớm hai mươi, tôi đã hiểu thế nào là những giọt nước mắt thầm vụng của một kẻ xa gia đình. Thế nào là buổi chiều cuối năm, khi ngày cúng ông Công tới, tôi còn lầm lũi với những con đường chỉ có gió, bóng cây và sương núi. Tôi khóc một mình, lần đầu tiên vào những ngày cuối năm ấy. Cảnh tượng líu tíu của chị Quyến và mấy đứa con sửa soạn cho buổi cúng tiễn đưa ông Công, cảnh anh Quyến bảo: “Cô Phiến mặc áo dài vào lạy bàn thờ”, tuy có thân mật đấy, nhưng tôi vẫn không làm sao hòa nhập được. Trái lại, lời nói kia, vẻ lăng xăng nọ của chị Quyến có thương yêu tôi cách nào thì chị cũng đã có một đời sống riêng để sống. Chị cũng đã có những bổn phận, những công việc, những thú vui và những hân hoan riêng để hưởng thụ hay để đau khổ. Tất cả những thứ đó, dù có muốn, chị Quyến cũng chẳng thể chia xớt cho tôi. Và một vấn đề khác được đặt ra: Liệu tôi có nhận?
Những ngày chớm hai mươi, với phấn trắng, với bầy học trò xinh ngoan như những con búp bê, đã cho tôi hiểu thế nào là nước mắt của những kẻ cô đơn. Chỉ những ai từng xa gia đình mới hiểu được thế nào là những giọt nước mắt những chiều cuối năm. Chỉ ai lìa bỏ cha mẹ đi phương xa cầu thực khi tuổi chớm hai mươi (như tôi) mới hiểu được thế nào là sự cần thiết của một ngôi nhà quen thuộc, một cái bàn, một cái ghế, một cái giường, nơi những năm tháng ấu thơ được ấp ủ, ấm những giấc mơ thần tiên cùng những kỷ niệm không thể có nữa. Rồi những ngày cuối hai mươi, một lần nữa, tôi chợt hiểu thế nào là nước mắt của xúc động khi Hãn tới.Những ngày cuối hai mươi, những ngày mở ra và khép lại ngay sau đấy là dấu giày Hãn bước lên chậm chạp và hung bạo. Những ngày cuối hai mươi, ở thị trấn, được đánh dấu bằng đôi mắt chàng lầm lì trên cao ngó xuống, hay buốt lạnh từ dưới thấp trông lên. Tôi đã khóc trong đêm cuối cùng của những ngày hai mươi. Những giọt nước mắt không còn mang ý nghĩa một trôi đi, một xóa nhòa, khuây lãng. Những giọt nước mắt, lần đầu tiên mang ý nghĩa của một giữ lại, một dấu yêu, một định mệnh khai lối. Nước mắt đã là nước mắt cho người một đời. Trái tim đã là trái tim dành cho kẻ một kiếp, thực sự lớn lên và khác đi sau những giọt nước mắt ấy. Rồi những ngày đầu tiên của tuổi hai mươi mốt, những ngày tôi thẳng thắn ngửa mặt bước ra khỏi bóng tối, tách khỏi hàng ngũ, đứng lên từ lẫn chìm trong hàng ghế đám đông để tiến đến tiền trường của một sân khấu lớn. Thứ sân khấu chỉ dựng lên một lần, cho một người. Ánh sáng đã chói lòa trong từng bước chân đi. Nhục hờn cũng mướt trơn trên sàn gỗ nhẵn. Nhưng mà tôi muốn. Nhưng mà tôi bằng lòng, hân hoan đón nhận. Chỉ vì tôi muốn sống. Tôi thèm lắm, được sống.
Cũng như buổi trưa nay, hai giờ, ra khỏi rạp ciné, thấy nắng vàng hanh trên những thước cỏ xanh non, tôi vịn tay Ngọc, lao chao như vừa trông thấy, một lần thèm cái giây phút của một đời, cái cánh cửa bởi những bước chân dẫn lên của một kiếp. Và sau đó, trong ngôi quán hoắm sâu, trên một chiếc ghế mỏng, tựa bên bức tường đen, tôi đã mặc cho tâm trí mình quay quắt với cái so sánh tương phản bật nhanh trong óc. Tôi không run sợ tháng ngày đang tới. Những tháng ngày không chấm dứt theo mùa mưa. Những tháng ngày sẽ mãi mãi là gió lớn. Tôi nhìn trở lại ánh sáng nơi tiền trường để đi sâu hơn, vững mạnh hơn, vào bóng tối chờn vờn ở đàng sau cánh gà. Có gì mà phải ân hận nhỉ? Khi giữa sân khấu, tôi được mọi người hoan hô (và một số người phỉ nhổ) và phía sau ở hậu trường, đã có cánh tay, đã có ánh mắt để nương theo đó mà bước đến. Tôi bảo Ngọc khi ngồi vào chỗ: “Người ta sống hình như để chờ đợi những cơn mưa nhiều hơn là những ngày nắng”. Ngọc ngơ ngác, im lặng. Hãn lờ mờ hiểu được ý tôi. Hãn nói: “Mưa hay nắng trong trường hợp đó cũng chỉ là ý niệm”. Ý niệm không nhất thiết phải là trắng hay đen”. Anh Các cười rung cái bụng bự góp vào câu chuyện mù mù: “Điều giản dị là hiện tại trước mắt sao không hưởng, nói chuyện vòng vo đâu đâu cho mệt?” Anh Các nói nhưng nhìn Ngọc. Ngọc yên lặng. Hiên thật thà: “Các anh nói chuyện em chả hiểu gì hết”. Hãn cười lớn. Chàng đáp: “Làm sao Hiên hiểu khi mà chính những người nói cũng chẳng hiểu họ đã nói gì?”. Cả bọn cười ồn ào. Lát sau anh Các nhìn Hiên hỏi giọng nghiêm trang: “Vấn đề của Hiên là đọc thư Lãng chưa? Có thế thôi”. Anh ngập ngừng trước khi tiếp… “và như thế cũng đã là mệt lắm rồi đấy”. Hiên cười bằng cánh mũi nhỏ và đôi môi chúm.
Những người vắng mặt lần lượt hiện ra. Đó là những người bạn của cả bọn.
Hãn lần tìm tay tôi dưới gầm bàn. Chàng xiết mạnh. Tôi không đọc được ý nghĩ của Hãn lúc đó, nhưng tôi hiểu mỗi lần Hãn xiết chặt như thế: Hãn muốn hôn tôi. Tôi tựa đầu vào tường, nó nhỏ đủ Hãn nghe: “Coi chừng. Giữa phố xá mà. Anh”. Hãn cười cúi thấp mặt xuống. Hãn đem bàn tay tôi lên khỏi gầm bàn. Rồi bất ngờ, thản nhiên Hãn đưa lên môi. Tôi chín nhừ cả người vì ngượng. Hãn bình tĩnh rút thuốc hâm lửa hút. Mấy ngườk kia quay đi hướng khác. Chắc họ muốn tránh cho tôi những ngượng ngập, xấu hổ. Nhưng họ làm thế, tôi còn ngượng hơn là họ nhìn thẳng vào hai đứa. Tôi cấu tay Hãn: “Anh làm em sợ”. Hãn cười gượng: “Anh thích”.
Tới hết bữa ăn, chúng tôi không nói chuyện với nhau một lời nào, mặc dù thỉnh thoảng lại thò tay xuống gầm bàn và tôi lại chìa tay mình cho Hãn nắm lấy. Nếu không đưa tay cho Hãn, lỡ Hẵn nắm bừa ngay ở trên mặt bàn còn khổ nữa, báo hại anh Các phải “độc diễn” và nhận được những phụ họa rời rạc của chúng tôi.

Cơn mưa lại xăm xăm trở về với những đám mây mới. Những đám mây xám và dày đặc ở khắp bầu trời. Tôi dựng xe trước cửa. Hiên gom sách vở trong chiếc giá xe, ôm vào ngực và đứng chờ. Màu xanh của chiếc áo dài lướt thướt lụng thụng trên người. Hiên bị gió hất tung. Hiênn nhỏ như thêm. Có lẽ con bé đang nín thở không chừng, vì lúc đó ở trong nhà tôi vẳng ra những lời nói lớn. Có ai ngờ được rằng kẻ đi cầu viện phải quay lại trấn an cho chính kẻ mà mình nhờ cậy giúp đỡ. Tôi nói: “Không sao đâu Hiên. Chắc ở nhà chị có khách. Mà có khách là yên trí, sẽ không bị mắng”. Hiên cười nụ cười ngơ ngác, vô tội. Lấy dáng điệu tự nhiên như không có chuyện gì quan trọng, tôi bước vào nhà, chỉ Hiên ngồi salon, quơ cho Hiên một cuốn báo mới:”Hiên đọc đi. Chờ chị đi thay quần áo. Đọc xong em nên về nhà ngay, không muộn”.
Những tiếng ồn ào trong nhà chợt khựng lại. Vừa để sách lên bàn học tôi đã nghe tiếng hét ở đằng sau:
- A. Con Phiến đây hả?
Tôi nhìn lại. Chị Hồ. Tôi chưa hết kinh ngạc, chị đã liếng thoáng:
-Trời ơi. Sao mới có vài năm mà đã trông già dặn thế này? Đi học về phải không? Ai kia? Bạn hả? Sao đang đi dạy lại bỏ về nửa chừng vậy cô?
Tôi choáng váng với những câu hỏi dồn dập của chị Hồ, đồng thời lòng cũng ngập mừng rỡ. Tôi chạy ra tới chị. Hai chị em lâu lắm mới được gặp nhau. Chị Hồ là chị của anh Long. Mẹ tôi có tất cả bốn người con gái. Trừ chị Quyến, những người còn lại đều nói nhiều và nói nhanh. Tôi không nghĩ mình cũng nằm trong số còn lại đó. Nhưng có lần Hãn đã bảo tôi nói nhiều và nói nhanh như khiếu. Chàng nói riết một lúc nào đó, tôi cũng dám tin như lời của Hãn lắm. Bây giờ, tôi mới chỉ nói nhanh và nhiều khi ở bên cạnh Hãn mà thôi.
Tôi hỏi:
- Có chuyện gì mà chị về bất ngờ vậy?
Chị Hồ không trả lời và lại nhìn sang Hiên. Hiên đứng dậy, có lẽ Hiên mới chào chị Hồ. Chị Hồ nói:
- Ngồi xuống chơi đi Hiên. Và quay sang tôi mắng liền:
- Bạn cô mời về nhà, chưa nói chuyện gì với người ta đã dúi cho người ta cuốn báo bảo đọc xong rồi về.
Tôi nháy mắt Hiên, Hiên lúng túng lí nhí:
- Chị mặc em. Em với chị Phiến mà…
- Xa lạ gì cũng vậy. Thế đâu có được. Vào nhà rót nước đi. Hỏi cô ấy có uống nước đá không, lấy cho cô ấy.
Nói thêm một hơi, chừng cho rằng như thế đã tạm đủ thành một bài học về phép lịch sự dành cho tôi sau bao năm xa cách, chị Hồ mới trở lại với tôi:
- Anh bị đổi đi em ạ. Chị về báo cho bố mẹ hay. Với lại xem có thể chạy chọt gì được không.
Và thế là tôi bị túm lấy, để phải nghe chuyện anh Hồ bị đổi đi xa làm sao, bất ngờ như thế nào. Chị nghi ngờ ai là người ám hại anh Hồ. Rồi những khó khăn rắc rối biết cơ man nào mà kể, nếu anh Hồ phải đi nơi khác. Các cháu còn nhỏ. Học hành, trường lớp dở dang v.v… Tôi chỉ biết cười trừ và chịu trận.
Đợi cho nguồn cơn trong chị tạm lắng xuống, tôi nói:
- Chị phải từ từ. Chị bảo em lấy nước cho Hiên mà chị bắt em đứng thế này làm sao em đi được.
Chừng đó, như chợt nhớ, chị Hồ cười, phát liên tiếp mấy cái lên vai tôi, bảo Hiên chữa ngượng:
- Tại hai chị em lâu quá mới gặp nhau, Hiên à.
Hiên tròn xoe mắt, chẳng hiểu đầu đuôi sao, cũng toe miệng cười.
- Thôi đi lấy nước mau đi. Hiên uống nước đá cho mát.
Hiên lại lúng túng. Con bé thật buồn cười. Hình như nó không dám có ý kiến riêng một khi người lớn đã có ý kiến.
Chị Hồ tiếp tục câu chuyện còn dở dang với mẹ. Thay đồ thật mau, tôi ra bảo Hiên:
- Đọc được gì không? Hiên lắc đầu. Tôi làm dấu bảo. Thôi Hiên về được rồi đấy.
- Chị bảo em về hả? Hiên hỏi lại. Tôi khoèo chân con nhỏ. Như vậy là êm xuôi hết rồi, không sao cả. Hiên cười:
- Thế em về nha.
- Ừ. Mau đi kẻo ở nhà trông.
Hiên tỏ ý muốn chào mọi người, tôi lắc đầu bảo không sao hết, cứ việc về rồi tôi sẽ nói lại. Tiễn Hiên ra cửa, đứng nhìn theo bỗng lòng tôi quặn thắt nỗi xót xa lạ lẫm. Có phải Hiên đã là hình ảnh của tôi, những ngày trước khi bước chân vài đời sống? Tôi không nghĩ đã tìm thấy mình những ngày niên thiếu nơi Hiên, nhưng rõ ràng ở Hiên có một cái gì tôi đã mất. Một cái gì phảng phất hình bóng tôi những ngày xưa cũ. Tôi nhớ Hãn. Chắc Hãn đã trở về nhà với anh Các hoặc hai người lại kéo nhau đi ngồi quán tiếp.
Hiên chưa ra khỏi ngõ thì anh Hữu tới. Anh Hữu bước vội vã. Có lẽ anh hay tin chị Hồ về. Tôi sợ gặp anh Hữu dù đó là điều không thể tránh. Anh Hữu biết phong phanh chuyện tôi và Hãn. Hơn lúc nào hết, tôi mong trời mưa. Hãy mưa. Hỡi người bạn thân thiết nhất của bao nhiêu mùa đời tôi, quạnh quẽ.
Chương 7.
Trời mây đen ở phía cuối thành phố, hai ngọn tháp chuông cao lên thành một vạch đậm. Tôi thả những bước chân mệt mỏi, rã rời xuống tam cấp. Người gác dan chỉ chờ đợi tôi đứng dậy để khóa cửa. Tôi là người cuối cùng trong buổi chiều nay rời khỏi thư viện. Hãn vẫn chưa tới. Sự chờ đợi với những giờ hẹn kéo dài như cao su của chàng, đã khiến tôi quen thuộc và không còn thấy nôn nao, sốt ruột nữa. Bao giờ cũng thế, đúng hơn, trừ những buổi hẹn đầu tiên, Hãn luôn có những công việc bất thường, với những bất thường ở ngoài công việc, những bất thường mà tôi nghĩ có liên quan tới gia đình, tới đời sống riêng của Hãn. Đời sống riêng, mấy chữ này chỉ cần vang âm yếu ớt trong lòng, cũng đã đủ cho tôi cảm giác bùi ngùi. Đó là cái phần duy nhất mà chẳng bao giờ tôi muốn đụng tới. Chúng tôi yêu nhau bao lâu, trong sự tôn trọng niềm im lặng bí mật (có thể chẳng bí mật chút nào) những đời sống mà Hãn không muốn hé mở. Hẳn là tôi cũng có quyền được biết tới những phần đời riêng kia. Những phần đời gắn liền với Hãn như một cơ quan nào đó, trên thân thể Hãn. Nhưng tôi đã tự tạo cho mình cái thái độ lạnh lùng và thản nhiên trước những thứ đó. Có cần thiết lắm chăng? Có quan trọng lắm chăng? Sự đòi hỏi biết rõ? Riêng tôi thì không. Rất thật tình, tôi chưa hề cảm thấy đó là một cần thiết, phải có trong tình yêu hai đứa. Mặc dù với những người con gái khác, thì đó lại là cái gì khá hấp dẫn và khó có thể nằm bên ngoài trí tò mò của họ.
Có tiếng gọi và bước chân mau phía sau lưng. Tôi ngừng bước giữa tam cấp. Hiên hiện ra. Nụ cười cũng bé nhỏ như khuôn mặt và vóc dáng. Với tấm phông phía sau lưng là khoảng tối của tòa nhà, Hiên nổi lên trong màu áo xanh nhạt, như một con chim sâu rụt rè. Tôi nói:
- Gì thế Hiên?
- Chị chờ em về với.
- Tưởng Hiên về rồi?
- Không em học ở giảng đường hai.
- Có giờ sao?
- Chỉ có hai giờ đầu thôi. Hiên vừa nói vừa bước xuống ngang tôi. Cô nhỏ tiếp: Hai giờ sau chẳng biết làm gì, giảng đường lại trống, em ngồi lại.
Tôi hỏi sao không vào thư viện. Hiên đáp, thư viện không còn chỗ và thêm:
- Chiều này anh Hãn không đến đón chị à?
Tôi nhìn bầu trời đang xuống thấp. Không khí nặng đặc, mây đen sững im cùng cây cỏ đã bắt đầu nhá nhem:
- Anh Hãn có hẹn, nhưng chưa thấy. Chắc anh Hãn bận.
Tôi vừa nói dứt câu thì Hãn tới. Chàng có vẻ một học trò ngoan với áo trắng và quần xẫm.
Hiên reo:
- Hên quá.
- Gì vậy? Hãn nói. Hiên và cái nụ cười tít của Hiên khiến tôi đoán được điều đang nẩy mầm trong óc cô bé. Tôi nói đỡ:
- Bò viên?
Hiên gật đầu. Tôi bồi thêm:
- Trời này không ăn bò viên cũng uổng!
Hãn nhìn chúng tôi gật gật. Tôi trao chìa khóa xe cho chàng.
Cơn mưa mỗi lúc một tới gần. Hãn ngoái cổ nói nhỏ với tôi ở sau xe, Hãn không có đủ tiền. Sợ thiếu. Tôi gật đầu. Em có. Một thoáng, chúng tôi đã ra khỏi trường, trôi lẫn vào giòng người. Ngồi sau xe, tôi hát nhỏ những lời mà chíng tôi cũng không biết rõ. Trong lúc đợi Hãn, tôi thấy có nhiều điều cần phải nói ngay, nhưng rồi sao tôi không nói được. Hình như tất cả những điều định kể kia đã lắng chìm và khuất đi ở một góc nào đó, trong tâm trí. Lúc này tôi chỉ còn thấy bầu trời đang vướng vất một cơn mưa và chàng đang ở trong tầm tay tôi. Tôi áp má vào lưng Hãn. Mùi hơi quen thuộc. Mùi hơi quyến rũ, và buồn. Luôn luôn cùng lúc với cảm giác ngây ngất ở bên cạnh Hãn, với một ngực thở chứa chan “mùi của Hãn” là một cám giác gì đó, khang khác. Cái cảm giác giống như buồn buồn, mà chưa hẳn là buồn. Cái cảm giác như dấy lên từ một tiềm thức mơ hồ về sự mong manh của một gần gũi ngắn, mà sự chia tay thì đã thấp thoáng ở phía trước.
Hiên chạy xe song song, nhìn tôi và luôn miệng cười. Hiên không học cùng ban với tôi. Cô bé học ban Anh văn, năm thứ nhất Hiên nhỏ quá. Hãn ưa nói với tôi như vậy, mỗi khi muốn mở đầu một câu chuyện gì về cô bé, hay để khỏi trả lời, hoặc thay cho câu trả lời một mẩu chuyện của Hiên, do tôi kể lại. Quả thực Hiên còn quá nhỏ. Người Hiên thẳng băng từ trên xuống dưới, người mỏng dính và khô đét. Trông Hiên chỉ chừng mười lăm mười sáu là cùng. Ấy thế, Hãn cứ muốn bầu tôi là người xứng đáng nhất đại diện cho hãng tăm tre. Có lần chàng còn ví tôi với cây chanh cớm. Những ý nghĩ này khiến tôi quay nhìn Hiên và cười với cô bé. Hiên cười lại. Nụ cười thật thơ ngây. Chắc Hiên không thể đoán được câu nói trong óc tôi: chị thích Hiên lắm. Vì có Hiên ở bên cạnh, chị thấy ít ra chị cũng còn có da thịt. Hãn vụt phóng xe chạy nhanh. Tôi nhận ra buổi chiều nay, ở Hãn có điều gì không bình thường. Hình như Hãn đang có những lo nghĩ hoặc bứt rứt về một điều gì đó. Tôi miết những ngón tay trên lưng Hãn và ngước mắt chờ đợi Hãn quay lại (như chàng thường làm).
Hiên cũng ráng phóng xe theo. Hiên bảo:
- Anh Hãn hôm nay tính làm “cua rơ” sao đây?
Hãn quay sang Hiên:
- Thử xem tài chạy xe của Hiên tới đâu. Xem có bằng cô nhỏ của tôi không?
Hãn vòng tay ra sau, vỗ vỗ lên đầu tôi:
- Anh này chạy xe là khiếp lắm đấy.
Hiên le lưỡi. Tôi cấu chàng. Hiên vọt lên trước. Tôi bảo Hãn:
- Hôm nay anh không vui?
Hãn bớt ga:
- Sao em nói vậy?
- Thấy chạy xe thì biết.
Tôi không nhìn được nét mặt Hãn. Nhưng những giây phút im lặng kéo theo sau câu hỏi cho tôi cảm tưởng đã đoán đúng.
- Không. Có chuyện gì đâu. Hãn ngập ngừng. Có thể tại trong người anh hôm nay không được khỏe.
Chúng tôi tránh nhắc chuyện ấy cho tới khi đến địa điểm. Đây là một khu vực tập trung khá đầy đủ hàng quán. Hãn đề nghị đổi chương trình, thay vì ăn bò viên, đi uống cà phê. Tôi hỏi Hiên có đói bụng không? Hiên lắc đầu. Tôi nói lớn cho cả hai người nghe:
- Đồng ý. Cà phê.
Quán vắng. Chúng tôi được ngồi chiếc bàn cũ, vừa lúc băng nhạc quay tới bài Trương Chi của Văn Cao. Tôi tựa lưng vào tường, ngửa mặt lên và khép hờ đôi mắt mỏi. Tôi nghe loáng thoáng bên tai, chàng gọi nước ngọt cho tôi và hỏi Hiên uống gì. Lúc bản nhạc dứt tôi mở mắt và chợt thấy những miếng mây xanh hiện ra phía trên của vòm lá vú sữa. Hãn nắm tay tôi:
- Em mệt?
Tôi lắc đầu, nhìn sâu vào mắt Hãn. Hãn cúi xuống và bất thần xiết chặt mấy ngón tay tôi. Tôi mím môi chịu. Hãn mấp máy: Anh yêu em.
Tôi thở hắt và nhìn Hiên đang nghịch ly nước với chiếc ống hút. Tôi tìm lại được niềm vui bất ngờ như thể trong lòng tôi một bình minh bỗng hực sáng. Tôi nói chuyện với Hiên về Bình và Lãng. Cũng như Hãn, tôi biết Hiên thích Lãng hơn Bình. Nhưng Lãng thì lại chẳng một chút chú ý nào dành cho Hiên. Lãng đang có người yêu. Đó là điều mà cả hai đều muốn dấu, không cho Hiên biết. Trong khi Bình lại ra mặt thích Hiên và săn đón Hiên một cách quá đáng. Tôi muốn nói với Hiên cái ý nghĩ thực của tôi về Bình. Bình quá già so với Hiên (mặc dù tuổi tác không giữ một yếu tố quan trọng nào trong tình yêu). Nhất là Bình nhà quê quá đi. Bình có nét mặt của một ông già mới ra tỉnh lần đầu, và những dáng điệu bắt chước kịch cợm của mấy anh hề, chuyên chọc cười khán giả dễ tính. Nhưng biết đâu… Phải biết đâu đấy. Bởi Hiên còn nhỏ. Một lần Hiên tâm sự với tôi: Sao em nói chuyện với ai một hồi rồi em cũng có cảm tưởng như muốn thương người đó chị ạ. Và đó chính là điểm mà tôi hy vọng rằng cuối cùng rồi Bình sẽ đạt tới điều anh ta muốn. Tôi bịa chuyện Bình gởi lời thăm Hiên, để thấy nét mặt Hiên lúng túng, mắc cỡ và sung sướng. Hãn nhìn tôi nghiêm khắc. Có lẽ Hãn không muốn tôi đùa cợt như thế. Tôi đặt tay lên đùi Hãn thay cho lời xin lỗi. Hãn hất hàm:
-Em uống nước đi.
Tôi nhấp môi nhưng không uống, Hãn hỏi thăm gia đình tôi. Nhất là anh Hữu. Tôi có hai người anh, Hãn chưa gặp mặt cả hai người một lần nào nhưng chúng tôi thường nói chuyện về những người vắng mặt ấy rất thường, tôi yên trí họ có quen biết và hiểu khá rõ về nhau. Hãn có vẻ chú trọng tới anh Hữu, người anh lớn nhất của tôi. Anh Hữu đã trên bốn mươi. Anh có một đời sống tình cảm khá lôi thôi. Phải chăng vì thế mà Hãn ưa tra hỏi về anh. Những câu hỏi liên tiếp của Hãn khiến tôi nhớ lại những điều tôi đã định bụng nói với chàng lúc còn ngồi trong thư viện. Bây giờ nhớ lại. Nhớ lại tất cả, đầy đủ. Tôi nhớ lại vẻ mặt cùng những lời nói xẵng của mẹ tôi tối hôm trước, khi hai mẹ con ngồi vào bàn ăn. Trước đấy, mẹ tôi đã nói bóng nói gió xa xôi, như để cho tôi hiểu bà đã biết hết chuyện tôi và Hãn rồi. Tôi hiểu mẹ tôi chỉ chờ đợi tôi lên tiếng về việc đó, để có cơ hội nói thẳng với tôi những ý nghĩ thực của bà. Những ý nghĩ hay những lời cảnh giác đoán trước không sáng sủa hay thiện cảm là bao. Trong khi tôi lại không muốn nói một điều gì, một lời nào về chuyện đó. Tôi không thể chấp nhận hay không thể thông cảm một chút nhỏ nhoi nào với những gì tôi nghĩ về chuyện yêu Hãn. Tôi cho là rất hiếm có được sự tương đồng ý kiến giữa một đứa con gái khi mà đứa con gái tự chọn cho nó một người yêu. Sự hoan hỉ của một người mẹ trong trường hợp này, tôi thấy nó cũng hiếm hoi như nụ cười trên môi một ông thầy khó tính dành cho một đứa học trò ngỗ nghịch. Tôi muốn nói với Hãn rằng, mẹ đã biết phong phanh chuyện của chúng mình. Tôi muốn nói với Hãn những gì chúng ta dự trù trong những ngày tháng trước đây, đang trên đường đi tới. Tôi chỉ muốn nói để Hãn biết trước và không ngạc nhiêu nếu có chuyện gì, bất cứ, xảy đến với Hãn từ phía gia đình tôi. Nhưng tôi lại ngần ngại. Tôi sợ chàng sẽ lo lắng và áy náy. Cho tôi. Phải, cho tôi chứ không phải Hãn. Bình thường Hãn rất điềm đạm và từ tốn, nhưng nếu có một chuyện gì xảy đến cho tôi, Hãn lại tỏ vẻ hốt hoảng và băn khoăn đến dộ tôi phải đóng vai người trấn tĩnh Hãn. Tuy nhiên loay hoay rồi cuối cùng cũng nói. Làm như những điều đã định nói với Hãn thì không có cách nào tôi giữ mãi lấy trong đầu được, có điều, tôi nói rằng mẹ tôi buồn chuyện gì đó. Một chuyện gì khác, chứ không phải của hai đứa. Nhưng Hãn vẫn nói dồn và bắt tôi phải trả lời những tia nhìn soi mói dữ tợn. Tôi giữ lấy tay Hãn trong hai bàn tay tôi lạnh ngắt. Tôi bảo:
- Anh yên tâm, không có chuyện gì hết đối với em.
Gió thốc tới, xát những chiếc lá khô lên nền xi măng, nghe ê ê da thịt. Bụi tung cao tuy rằng không thể nhìn rõ vì trời đã muốn tối. Ngọn đèn vuông ngoài cửa quán bật sáng. Chúng tôi đứng dậy. Hãn bảo:
- Em nên về sớm. Có lẽ chúng ta phải bớt gặp nhau cho mẹ đừng nghi ngờ.
Tôi cười buồn và nghe thân thể mình nhớp nháp mồ hôi. Vuốt lại mái tóc, bảo Hiên:
- Về nghe. Hiên gật đầu hỏi tôi mai có đi học không? Tôi đáp không có giờ nhưng tôi sẽ đến thư viện. Hiên trả lời rằng em sẽ tìm chị ở đấy. Hãn nhìn Hiên cười. Nụ cười chàng như ngầm nhắc lại câu nói cũ: Hiên nhỏ quá. Người đâu mà bé đến thế. Hiên gật dầu lí nhí chào. Tôi nói lớn:
- Thôi về mau kẻo mẹ mong. Hiên cười ròn rã. Tiếng cười tỏa ra chung quanh trộn vào bóng tối và khoảng không gian chứa đầy hơi nước ấm ức, một chút gì thơ ngây và thanh khiết. Hãn nói: Hiên nhỏ quá. Tôi nhìn theo Hiên mất hút với chiếc PC lao chao, xong quay lại:
- Còn em thì lớn quá?
Hãn lắc đầu:
- Em cũng vậy. Bé như cái kẹo.
Tôi leo lên yên xe phía sau và áp mặt vào lưng chàng. Hãn gồ xe. Tiếng máy nổ nghe quen và vang xa, như điệp khúc của một bài hát cũ được hát ở một “tông” cao nhất. Tôi không muốn nghĩ gì tới ngày mai. Tôi cũng không muốn Hãn tới cái tương lai gần, thật gần đó.Từ ngày yêu Hãn, tôi chỉ còn biết một điều: Hiện tại, hiện tại, thật ý nghĩa, thật đáng sống với chàng bên cạnh. Gió từ đâu lại thốc tới. Vài hạt mưa bất chợt hắt vào mặt tôi bụi bặm. Tôi nói như reo:
- Mưa đó. Anh.
Hãn trả lời bằng một giọng xa ngái, một giọng nào khác, như không phải của Hãn:
- Ừ. Phải chạy mau mới được.
Tôi mím môi, và ở sau lưng, chắc chắn Hãn không thể nghĩ, tôi đang muốn khóc.
Chương 8.
Cơn mưa đánh thức tôi dậy vào lúc năm giờ sáng. Đầu óc tôi chĩu nặng và thân thể nhừ mỏi. Tôi mở mắt, lắng nghe những tiếng động chung quanh. Tất cả mọi người còn ngủ say. Bên cạnh, mẹ tôi vẫn thở những hơi thở điều hòa. Trong giấc ngủ, trông mặt bà đỡ già hơn, tuy những nếp nhăn xô lệch cả về một phía. Bây giờ tôi mới bắt gặp tiếng mưa trên mái ngói và tiếng nước chảy rầm rì trong không khí. Tôi lắng nghe hết tâm hồn nhưng không nhận được đích xác. Có thể đó là mùi mưa.
Mùi mưa. Tôi cười một mình trong bóng tối. Mưa làm sao có mùi. Nhưng rõ ràng, thật nghiêm chỉnh, quả tôi có cảm thấy một mùi gì đó, lạ lắm, trong lượng không khí hít vào phổi. Có thể cơn mưa đã kéo xuống đất những xác lá trên mái nhà, những rêu bám và xác chết khô của những con vật không chịu đựng nổi mùa nắng gắt vừa qua. Những ngày đợi mưa, như đợi một cái gì thật âm thầm và mãnh liệt. Những ngày đợi mưa, như kẻ giang hồ tù túng bao năm chờ đợi một tiếng gọi bí mật. Một tiếng gọi lên đường. Một tiếng gọi huyền hoặc từ trời cao phả xuống. Những ngày đợi mhư thân thể và cả tâm hồn tôi khô rang. Tới độ tôi nghĩ chỉ cần một que diiêm nhỏ dí vào cũng có thể bùng lên, phựt cháy dữ dội và tàn bạo. Ôi, một que diêm, một ngọn lửa. Những ngày đợi mưa, là những ngày mà cái ý tưởng mình sẽ cháy rụi, sẽ thành than tro cứ luẩn quẩn hoài trong đầu óc. Tôi biết, chỉ cần một que diêm, tất cả sẽ xong. Tất cả sẽ không còn gì để phải lo nghĩ, phải dằn vặt đau đớn nữa. Tôi muốn cháy nhanh đời sống mình trong phút giây, cũng như ngọn lửa đã sáng bừng đời tôi, những ngày đầu tiên của tình yêu Hãn rực rỡ, mù lòa.
Bây giờ tôi đã qua khỏi. Cơm mưa đã tưới tôi thoát ngoài cái chết lởn vởn, cận kề. Cơn mưa như đã đem tôi đi, tới một miền thân yêu nào đó. Một nơi chốn thật quen thuộc. Nơi chốn của yêu thương. Nơi chốn của hò hẹn, của hy vọng, của thời gian, xanh, của ngày tháng, hồng, của không gian, trắng.
Và phải chăng, giữa sự sống khắc khoải trong những ngày tháng qua, và cơn mưa đã có một liên hệ sinh tử nào đó, cho nên ngay khi giọt mưa đầu tiên rớt xuống, tôi đã tỉnh lại. Tôi đã hồi sinh. Thật quá đáng nếu nói những hạt mưa kia đã mang theo nó một phép thuật nhiệm mầu cứu sống tôi.

Nhưng đó là sự thật. Một sự thực, như đêm qua, khi chia tay Hãn, tôi đã chỉ còn có một điều để đem về nhà: Chết. Sự thực như đêm qua, tại bàn học, tôi đã ngước mặt nhìn mẹ tôi khi bà đem đến cho tôi một ly chè, và nước mắt tôi đã giòng giòng chảy xuống. Lạ lùng thay lúc sát kề với cái chết lại là lúc đầu óc tôi rất tỉnh táo. Tất cả dĩ vãng lần lượt trở lại từng bước, từng bước chậm chạp, rõ ràng. Tôi nhớ lại ngôi nhà tôi đã được sinh ra. Tôi nhớ lại con đê vắt ngang làng. Con đê ngăn nước sông Hồng vào những ngày lũ lớn. Tôi nhớ lại vườn cây, và đặc biệt vườn cây nhà tôi không có lấy một cây nhãn. Mặc dù quê hương tôi là nơi nổi tiếng với nhãn lồng. Tôi nhớ lại ngày di cư, khi mẹ tôi ẵm tôi trên tay, lên máy bay vào Nam. Tôi nhớ lại những ngày mới lớn ở giữa rừng cao su Phú Thọ. Những trưa leo lên bờ tường hoang phế, theo Ích đi bắn chim, bắn thằn lằn, bắt rắn mối. Những con rắn có gai ở trên sống lưng và có thể chuyển màu da thành những màu tiệp với cỏ cây hay gỗ mục.
Tôi nhớ lại ngôi trường tôi đã học. Những ngày trên bậc thềm trung học là những ngày anh Hữu bắt đầu tỏ dấu không kham nổi đời sống gia đình, và đó cũng là những ngày mẹ tôi nghi ngờ nhưng không dám nói ra: Anh Hữu đã ăn nằm với chị Liên, con nuôi của mẹ từ nhỏ. Đó là những ngày chị Liên lặng lẽ rời khỏi gia đình để bắt đầu một đời sống khác. Một đời sống mà tất cả mọi người trong gia đình đều mù tịt. Nó cũng mù tịt như cái thai trong bụng chị mỗi lúc một to… Một hôm tình cờ mẹ tôi gặp chị trên đường, chị đã khóc, ôm lấy người mà năn nỉ bà đừng bắt chị phải nói tên cha cái bào thai. Đó cũng là những ngày mà cô giáo Trí gieo vào đầu óc tôi cái quan niệm không nên có chồng, cùng với một tình yêu nồng nàn, lãng mạn dành cho Chinh Phụ Ngâm Khúc. Ôi, người nữ trong tác phẩm này mới đẹp biết bao. Tôi nhớ lại cả những điều mà suốt bao năm qua tôi đã khuấy quên. Lần lượt những gương mặt của những người ruột thịt hiện ra, đầy đủ. Từ chị Kim ở Ban Mê Thuột, tới anh Bằng và chị Xuân ở Qui Nhơn. Cuối cùng là hình ảnh Ích. Ích mới mười bảy tuổi ở một xó xỉnh nào đó, trong một trung tâm huấn luyện mà tôi không hề biết tới. Ích có tấm thân lẻo khẻo như một cây lép. Ích với lá thư để lại cho mẹ tôi, nói về quyết định tình nguyện đi lính, không lý do, khi chưa đến tuổi.
Có lẽ Ích luôn luôn là cái hình ảnh ở với tôi nhiều nhất, vì Ích là đứa em sát tôi. Hai chị em gần gũi nhau nhiều hơn bất cứ ai khác. Bởi kịp khi chúng tôi lớn lên thì các anh các chị tôi đã sớm tự chọn lấy cho họ một lối thoát, một ngách chui khỏi ngôi nhà. Gia đình có phải là một nhà tù? Không, tôi không thấy thế, dù tôi không thường xuyên thấy yêu mến. Và mỗi kẻ hoặc xấu hổ hoặc kiêu hãnh với chọn lựa của mình, họ đã sống trong cái vỏ bao kín mít. Những che đậy, những dấu kín lâu dần đẩy chúng tôi xa nhau thêm, Tình anh em càng nhạt và điều đáng nói là hình như chẳng một ai mong nó đậm đà hơn, ngay cả tôi. Bây giờ chỉ còn một mình tôi trong ngôi nhà này. Người bạn nhỏ thân nhất của một thời ấu thơ lang thang, đen cháy cũng đã rời khỏi gia đình. Người bạn nhỏ, nghĩ tới nó, sao tôi buồn quá. Tôi cho những anh lớn chị lớn trong gia đình phải chịu trách nhiệm về sự ra đi của Ích. Tôi muốn nói nó cô đơn. Tôi muốn nói dời sống gia đình tôi, những rời rạc kia, những xa lạ nọ đã khiến cho nó thấy nó cô quạnh, nó không nơi bám víu. Như thể tới lúc nào đó, nó phải lên đường. Mọi lên đường đều mang ý nghĩa tích cực nhất, của hy vọng và biểu lộ cụ thể những khát khao kiếm tìm sự sống gần với mơ ước.
Mưa mạnh hơn. Gió quạt khe cửa thốc tới cuối ngõ rồi như ngược trở lại với những tiếng dội đập dữ dội. Gió chạy qua người tôi, hơi lạnh làm nóng bừng thân thể.
Tôi tung người dậy, chạy ào ra phía cửa. Hình như tiềm thức hay mệnh lệnh nào đó ở trong tôi đã sai khiến tôi đuổi chạy theo cơn gió. Tôi mỉm cười. Cười mãi một mình. Mưa. Mưa. Mưa. Tôi kêu nhỏ trong miệng. Mưa. Mưa. Mưa. Tôi nhói như gọi tên chàng giữa cơn yêu dấu, giữa cái khoảng chân không với thời gian, đứng, không gian, nghiêng và tôi thì như bị mất hút không chút dấu vết ở trong chàng…
Trời chưa sáng hẳn. Cơn mưa đã dịu lại nhưng bầu trời còn bị trùm bởi màn mưa mờ đục. Tôi vừa chạy xe vừa hát, Em đến thăm anh một chiều mưa. Nếu có ai nhìn thấy tôi trong cơn mưa sớm này, chắc họ sẽ phải thầm nói: con điên!
- Điên. Tôi nói thành tiếng và cười vang dọc khu phố.
Em sung sướng. Em hân hoan. Em yêu đời. Anh biết không? Anh đang ở đâu, làm gì giờ này. Hình như những lúc phải xa nhau mới chính là những lúc chúng ta được sống nhiều nhất và thực nhất cho tình yêu của mình. Anh cười phải không. Anh sẽ nói: điều này lạ quá! Phải xét lại… Nhưng mà thực, thực đấy anh. Em cảm thấy vậy. Cảm thấy mà là thực. Đúng là lý luận của đàn bà. Phải không anh, mà anh, đừng cười em chứ. Kéo nỗi hân hoan không mặt mũi, tôi chạy vòng vòng khắp thành phố. Mưa đưa tôi đi, gió gọi tôi ở phía trước, khắp các ngã đường. Cây ở lại sau. Tôi chạy, chạy mãi cho tới lúc cơn mưa chỉ còn là những hạt bụi phấn li ti mỏng.
Thành phố với những con đường ngày càng mất đi bóng cây. Người ta nhân danh tiện nghi để hủy diệt bóng mát. Cái nhân danh nghe… tiến bộ. Nhưng mà thôi, biết làm sao hơn. Nhớ một lần nói chuyện với chàng về những thân cây bị đốn, tôi có bảo: Mai kia nếu có quyền, em sẽ trồng lại. Khắp nơi. Mọi ngã đường. Và Hãn đùa: Có cho trồng lại anh? Tôi lắc đầu đáp nhanh: Không. Trồng lại anh làm gì? Tại sao? Bởi có muốn dựng lại anh cũng chẳng được, hơn nữa, khi ấy anh đã tan rồi.
- Tan đi đâu?
- Ở trong em. Anh tin không? Tin, một phần nào thôi. Tại sao lại chỉ một phần. Hãn cười: Vì một phần anh còn phải hỏi lại anh khi ấy xem đã tan hết chưa, hay vẫn còn một phần? Ở đâu? Nơi những ngọn cây mà em sẽ trồng đó.
Chúng tôi thường có những lúc nói chuyện “cù cưa” như vậy. Chúng tôi có vẻ hợp nhau trong lối nói chuyện này. Như một lần khi không tôi hỏi Hãn: Lúc chết anh muốn điều gì? Hãn đáp: Muốn em còn sống và khi đưa anh đến nghĩa trang em không được khóc. Em phải cười. Tôi ngạc nhiên hỏi tại sao? Tại như vậy mới đúng với lòng em, vì anh chết em là người mừng hơn ai hết, không còn ai hành em nữa. Tôi bảo tôi thì khác. Lúc em chết, anh mà còn sống em bắt anh phải cúng em hàng ngày. Hãn hỏi để làm chi vậy? Tôi đáp: để anh không thể nào quên được em. Hãn nói nếu vậy sẽ có ngày tôi sống lại. Tôi ngạc nhiên. Hãn nói để anh chết thay cho em.
Chương 9.
Tôi vào trường khi cơn mưa tạnh hẳn. Trường vắng hoe. Hai xe nước đá ở hai bên góc mới bắt đầu bày ra. Trong sân lác đác một vài sinh viên.
Tôi chạy xe vòng sau lưng tòa nhà chính. Lúc lên bậc cấp, tôi tự cho phép mình ngồi xuống bệ gạch. Từ chỗ ngồi này tôi có thể nhìn qua hàng rào sắt, thấy thật rõ con đường nằm ngoài hàng rào. Những thân me với tàn lá oằn xuống. Những hạt mưa trĩu trên những bụng lá lăn tăn, màu xanh non như cốm và những hạt mưa thì như những hạt lựu, hay hạt thủy tinh. Mỗi cơn gió tới, lại giật xuống một loạt. Tạo thành tiếng rào rào, cùng với những phiến lá non rơi lả tả. Buổi sáng, mặt đường trong và sạch bóng, như mặt người vừa mới được rửa sạch bằng sà phòng. Bất giác tôi đưa tay lên xoa mặt mình. Bàn tay hay da mặt tôi? Lạnh buốt. Cánh tay ngừng lại ngang mũi, ngang mặt. Mùi thịt da tôi lạ. Tôi không còn nhận ra mùi thịt da tôi nữa. Hình như mùi hơi chàng đã phảng phất hay đã trộn lẫn vào tôi. Tôi hít mạnh một hơi, và vươn vai đứng dậy. Tôi thả bộ ra ngoài cổng trường. Hiên trên chiếc PC như một niềm vui lóe lên. Tôi túm lấy Hiên mà không biết để làm gì. Hiên bảo:
- Cho em gửi xe đã.
Tôi lững thững trở vào. Bâu trời dần dần cao lên. Nắng làm tan những đám mây cuối cùng mang hơi nước.
Tôi rủ Hiên vào hội quán. Hiên nép vào tôi. Hai thân hình quá mỏng, như một cành khô được chẻ làm đôi và có chung một nỗi phiền muộn. Tôi nói:
- Đêm mưa em biết không?
Hiên lắc đầu, và sau đấy, tôi thấy như mình có một vẻ gì khác thường khiến Hiên lo sợ. Qua ánh mắt Hiên ngơ ngác, tôi đoán đọc được những ý nghĩ bất ngờ đó nơi Hiên.
Chuông reo vào lớp. Những bước chân chạy rộn khắp các ngã hành lang và trên các cầu thang dẫn lên lầu cao. Chuông reo lần thứ hai. Hãn hút theo cơn mưa đã tan đi ở cuối đường. Hãn không tới.
Chương 10.
Tôi không còn đủ kiên nhẫn đợi chờ. Và đồng jeton đã rơi xuống đáy hộp. Tiếng động khô, lạnh vang lên. Đầu giây có tiếng Hãn thốt kêu “Nhỏ”. Tôi lặng người tận hưởng cảm giác do tiếng kêu kia lan chạy đi khắp thân thể. Tôi nghe nóng dần, nhất là hai bên má và ở ngực. Tôi thều thào như kẻ sắp trút hết hơi thở “Anh, em yêu anh” và chợt thấy quả đó là câu nói cuối cùng của đời tôi nếu đến phút lìa đời tôi còn được phép chọn lựa để nói một lời cuối. Tôi tựa lưng vào vách phòng điện thoại cũng có vài giây trước khi ra khỏi bưu điện. Công viên cũng mang một vẻ mặt mới. Sạch sẽ, sáng láng. Quả thật mưa là một cái gì tuyệt vời và thú vị. Tôi nói với pho tượng chênh vênh trên một trụ cao, nằm ngay giữa đám cỏ xanh mới nhú. Chẳng bao giờ tôi nghĩ hẹn nhau ở nhà thờ là một điều tội lỗi, nhất là đối với Chúa. Nhưng sáng nay, tôi chợt thấy như có một cái gì không ổn. Những ngọn nến cháy trong từng góc giáo đường. Những chiếc bóng quỳ lặng lẽ. Trời còn quá sớm cho những ăn năn và hối lỗi. Tôi vội trở ra, bởi tự cho lòng mình không thể tinh khiết hơn. Cơn mưa đã đem đi khỏi tâm hồn tôi những vẩn đục, những u tối của ngày tháng. Hôm nay, bây giờ, quả thực tôi mới sống. Tôi hồi sinh. Tôi bắt đầu lại. Tình yêu đã làm mới chúng ta, luôn luôn. Phải thế không anh? Nếu không, có lẽ tình yêu đã chẳng còn lý do tồn tại. Anh không thể yêu em, như anh đã yêu những người con gái khác. Chắc chắn em phải là một cái gì hơn, những gì anh đã có. Ngay cả cái mơ hồ nhất là tình yêu nơi anh.
Hãn đến sau đấy k hoảng hai mươi phút,. Chúng tôi tới ngôi quán có cửa kính mở ra hai ba mặt phố. Những thân cây sót lại trên đoạn đường như còn giữ được cơn mưa và buổi sáng cái ướt át tinh khôi. Chúng tôi hôn nhau thật vội ở góc cột, truớc khi người bồi tới hỏi uống gì. Nụ hôn của Hãn cho tôi cảm tưởng cơn mưa đêm qua, một lần nữa, bắt đầu lại, ở riêng, trong tôi. Mưa xót xa, không hiểu sao, bỗng dưng tôi liên tưởng tới Thiện. Thiện và những đứa con nàng có với Hãn. Những giây phút hình ảnh Thiện chợt đến là những giây phút tôi chết lặng. Chết lặng dù chỉ trong thoáng chốc thật nhanh. Sự lặng người của tôi, chẳng phải vì tôi nghĩ tới tội lỗi. Không. Tôi không hề nghĩ mình có tội khi đi yêu một người đàn ông có vợ. Điều giản dị và thành thật nhất của tôi, và có lẽ chỉ tôi mới biết với chính mình, rằng tôi không hề, hay chưa từng nghĩ tới việc chiếm đoạt Hãn cho riêng mình. Chẳng phải tôi cao thượng gì. Vâng, tôi không nghĩ tôi cao thượng hơn những người con gái khác, trong vấn đề này. Có điều tôi vẫn tự hỏi, có cần không, khi yêu một người và phải lấy người đó cho bằng được? Tôi không tin, khi người ta sống hẳn với nhau, ngày này qua tháng khác, người ta sẽ hạnh phúc hơn khi người ta chỉ được gặp nhau thoáng chốc. Với tôi, tất cả vấn đề là ở chỗ đó. Có cần thiết không? Phải lấy nhau và có phải chỉ có cách đó để chứng tỏ sự có mặt của mình? Tôi muốn làm khác. Có thể tôi là đứa con gái bướng bỉnh và tự tin đến kiêu ngạo! Mẹ tôi khuyên tôi đừng trèo cao kẻo rồi sẽ ngã đau. Tôi có trèo cao đâu để mà ngã đau. Tôi muốn sống, theo như ý mình. Tôi chỉ muốn sống lặng lẽ và bình thản với những cương dưỡng cá biệt của tâm hồn mình. Hơn nữa, đã đôi lần tôi nói với Hãn tôi yêu (nếu có thể nói được như thế), những người đàn bà đã đi qua đời Hãn. Tôi nghĩ không thể phủ nhận họ. Không thể xóa bỏ họ, chỉ vì lòng ích kỷ và hẹp hòi. Bởi những người đó muốn hay không, cũng đã đóng góp, đã tạo dựng nên Hãn ngày nay. Thử tưởng tượng, nếu không có những người đó, cho tới khi gặp tôi, Hãn như thế nào, và liệu tôi có yêu được Hãn như tôi đang yêu Hãn đến xót xa đau đớn?
Trời xẫm tối. Quán có thêm vài người khách. Chúng tôi cùng nhìn ra. Gió hất tung những chiếc lá ướt nước. Một cơn mưa khác đã đến? Tôi nói với chàng. Hãn im lặng. Chàng hút thuốc và như đang bận với những lo nghĩ xa xôi. Không mưa đâu, em đừng mong, vô ích.
Sao anh biết? Hãn nhìn tôi cười. Nụ cười cùng tia nhìn thẳng, dữ dội bao giờ cũng đi đôi với nhau mỗi khi chàng chưa tìm được câu trả lời. Tuy nhiên tôi vẫn tin trời sẽ mưa. Sẽ còn một cơn mưa trong sáng này. Ít ra nó cũng phải mưa riêng trong lòng tôi. Tôi rùng mình nổi gai ốc với những tưởng tượng tiếp theo, ùa tới. Ai đó vừa bỏ đĩa nhạc: em đến thăm anh một chiều mưa. Và quả như tôi nghĩ, mưa đã ngậm ngùi từng giọt thánh thót trên đôi vai nhô xương của tôi khi chàng ghé môi hôn lên đó.
Chương 11.
Tôi hát. Trương Chi. Tiếng hát buột ra, xuôi xuống và thoát đi ở ngoài dự kiểm soát của ý thức. Có lẽ bóng đêm và khoảng không gian ẩm lạnh đó gợi thức ở tôi nỗi ngậm ngùi xa vắng, không mặt mũi. Vòm lá tôi những đốm đèn yếu ớt từ phía xa, những chiếc xe lặng lẽ trườn trôi trong im ắng rạc rời, lả tả, khiến tôi thấy cô đơn, hiu quạnh. Làm như những vòm lá tối, những đốm đèn chới với trên những trụ điện cao đã thả xuống trước mặt tôi, đã bỏ lại trong từng bước chân tôi đi tới, những nhắc nhở buồn bã, những ám ảnh của một cái chết thật gần gũi, một chia lìa thật tan nát. Dĩ vãng, hiện ra trong trí tưởng như một nhắc nhở của những mũi dao nhọn thọc sâu vào phần u khuất nhất của hồn tôi nín lặng. Tuyệt vọng ở đó chảy tuôn, như máu. Ê chề ở đó thoát đi như suối, chan hòa. Hãn bảo: Em có nghe, mưa trên những ngọn cây? Tôi đáp: Không. Em chỉ thấy rừng thông xào xạc trên đồi Quần Ngựa. Con đường dốc xuống. Sương núi như khói dâng lên mỗi lúc một cao. Hãn choàng tay qua vai tôi Em lạnh. Tôi lắc đầu, im lặng dầm mình vào khoảng tối xẫm của một bóng cây in đậm lề phố. Hồ nước hiện ra như đáy một thung lũng xanh đen. Bên kia hồ dưới chân đồi Quần Ngựa, những đốm lửa bò sát mặt đường. Đó là những chiếc xe đang vòng quanh Sân Cù.
Tôi bỏ tay mình vào túi áo veste của Hãn. Trong túi áo Hãn tôi thấy bàn tay mình ấm hơn lúc được dấu trong túi áo manteau.
Xuống hết con dốc, chúng tôi đi ngang qua những luống cúc ở hai bên đường. Và phố mở ra nhiều ngõ với ánh đèn mờ yếu. Tôi thấy cây cầu nhỏ dẫn lối tới trại hầm, và tưởng tượng bên tay phải, phía sau tôi, là nhà thờ Chánh Tòa. Tôi không muốn nhớ những điều đó vì nó chỉ làm tôi thêm chùng thấp xuống mà thôi. Nhưng muốn là một chuyện, tôi luôn tự nhủ tôi vậy…
Hãn đã nói với tôi về những chuyến xe hàng cũ kỹ chất đầy người đi Trại Hầm. Hãn đã kể tôi nghe về ngôi nhà thờ có con gà ở trên chóp nóc. Đó là tất cả những gì chàng khó quên được trong thành phố này. Và, bây giờ tôi đang sống trong nó.
Chuyến xe đem chúng tôi ra khỏi bến vào lúc bảy giờ sáng. Khi Saigon còn ngái ngủ và ngơ ngác như những ngọn điện chưa kịp tắt nơi những hàng quán bao quanh khu bến xe.
Những cánh rừng đã bỏ lại, đèo tiếp đèo đi lên. Núi chập chùng ẩn hiện. Chuyến đó là một mơ ước được nói tới nhiều nhất từ phía tôi trong nhiều tháng liên tiếp và những tưởng đã không thể thực hiện. Ngay lúc Hãn chỉ tấm bảng chào mừng quí khách tôi vẫn còn ngỡ mình đang trong mơ. Ngay lúc đêm đã xuống quá sâu trong lòng phố, sương đã lên quá cao trên đầu những sợi tóc đã ướt, nhưng bước chân đã lạnh, những ngón chân đã cóng, tôi vẫn còn tự hỏi nhiều lần: Có thực chăng giấc mộng được sống với nhau, ở một thành phố khác. Có thực chăng khao khát được đi với nhau, trên những con đường không thấp thoáng rình rập, âu lo. Có thực không - đêm đầu tiên tôi được có Hãn ở bên cạnh - trọn vẹn - hoàn toàn. Có lẽ Hãn không thể hiểu rõ niềm khao khát điên cuồng của tôi, đến mức nào, về một đêm như đêm nay. Về một không gian như không gian này. Tôi nói: “Em không còn gì để ân hận. Nếu ngày mai chúng ta chia tay. Nếu ngày mai em chết”.
Hãn khựng bước, nhìn. Tôi dướn người ôm lấy Hãn, và hôn. Thật vội. Tôi không để Hãn kịp nói lời quen thuộc: “Anh yêu em”. Dù điệp khúc được lập lại đã cả nghìn lần và lần nào, tôi cũng chới với trong xúc động.
Đã quá đủ cho tôi - đã quá đầy cho cái tuổi hai mươi của một đời con gái. Đã quá thừa cho một cảnh đời mở ra, cho một ước mơ tận kiếp. Tôi không đòi hỏi gì hơn: chạy tối. Những vòm lá đen bóng. Những ánh đèn mù. Những còn đường dẫn tới những nơi chốn xa lạ. Bước chân, mùi hơi, da thịt, như những cửa ngõ dẫn vào hư vô, đưa về biệt tâm, bằn bặt. Với tôi đó là những gì sẽ mang theo một ngày nào, về cõi khác. Với tôi, đó là vốn liếng của một thời. Đó là vết tích của một kiếp. Hương thơm cho một đời.
Càng bước gần tới hồ, càng lạnh buốt. Sương sa dày đặc. Tôi như muốn gắn liền vào Hãn. Chàng xiết chặt hơn, tôi bước nương theo chân Hãn. Cơn ho tới. Tôi ôm ngực. Chàng nói:
- Em muốn đau rồi đó.
Tôi gắng gượng:
- Không sao đâu anh.
Nói vậy, nhưng tôi cũng cảm thấy choáng váng xây xẩm. Sương lạnh làm mạch máu trong tôi muốn đông đặc. Hơi thở trở nên khó khăn, mặt tôi đang dần trở thành một tảng băng khi môi chàng nóng hổi áp tới. Tuy nhiên, tôi không muốn trở về phòng lúc này. Nếu tiếp tục đi để sẽ phải vào nhà thương trong ngày mai, hay trở về phòng ngay để tiếp tục sống thêm nhiều chục năm nữa, tôi vẫn chọn cách thứ nhất.
Dang xa Hãn một chút, lấy dáng điệu vững chãi, thẳng người đi một mình cho chàng thấy tôi không sao hết. Tôi khỏe lắm. Mà quả thực, tâm trí tôi sáng láng như mặt gương. Các giác quan lần lượt bật mở hết mọi cánh cửa của những ngõ ngách để đón nhận cái đời sống ẩn hiện trong tiềm thức đã hai mươi năm làm người.
Nhưng tội không rời xa chàng được lâu., Gió tạt, tôi lao chao. Sương cuốn tôi nghiêng ngả. Tôi dấu mặt vào ngực chàng. Hãn chỉ tay về một góc đường, ngôi nhà mái ngói đỏ, nằm giữa một vườn hoa. Tôi gật đầu. Lại húng hắng ho. Hãn lộ dấu lo ngại. Chàng muốn choàng phủ hết tôi. Bàn tay Hãn lần trên mặt tôi buốt cứng. Những ngón tay Hãn cuối cùng dừng lại nơi vết chàm giữa trán. Khi không, tôi nhói buốt bàng hoàng, như thể kẻ nào vừa khuấy động cái mặt nước ao tù che dấu niềm bí mật sinh tử của đời tôi. Cùng lúc hình như tôi lại thấy thương Hãn đến đau thắt cả các bắp thịt. Tôi nói qua tiếng rì rào của gió chạy trên những vòm thông trong thung lũng tối thẳm phía bên kia hồ xám. “Anh. Thương em”. Hãn gật đầu miết cả bàn tay qua hai khóe mắt tôi. Tay Hãn cho tôi biết, mặt tôi có một vài giọt nước. Tôi khóc? Chắc.
Hãn đẩy cửa nhường tôi vào trước. Chiếc bàn góc sát cửa ra vào vừa được bỏ trống. Hãn dí tôi lọt thỏm xuống chiếc ghế trong tối. Tôi thu người và bỏ vào miệng ít sợi tóc ướt. Sương trên tóc tôi có vị lạ. Hãn gọi trà nóng và cà phê. Ở chỗ ngồi này, tôi không thể nhìn thấy mặt hồ, nhưng bù lại được nhìn đủ xe cộ, người ngợm từ nhiều phía. Vườn hoa phía cửa ngoài chìm trong lớp sương màu tro. Tôi nhận ra những bông cúc vạn thọ cánh lớn, vàng ối. Những thân mảnh cao vượt hẳn lên bàn những bông hoa, tôi phỏng đoán là thược dược nhưng không chắc lắm vì không nhận được màu sắc. Hãn đốt thuốc liền tay. Chàng xa vắng, cách biệt với những tia nhìn đăm đăm dành cho chung quanh và cuối cùng là hướng của cây cầu xi măng dẫn về trại Hầm. Phần, tôi muốn Hãn kể tiếp cho tôi nghe về người con gái đã tự chọn lấy cho mình những ngày quắt héo tại thành phố sương mù và giá buốt này. Phần, cử chỉ của chàng khiến tôi thấy nghẹn tức. Tôi nói: “Em muốn bỏ Saigon. Em muốn đến sống hẳn một thành phố khác. Nhưng đừng là thành phố này. Người ta không thể sống, một mình, giữa sương mù, gió buốt, và rừng thông”. Hãn cười. Nụ cười thoạt tưởng vu vơ, nhưng thật ra, sau đó tôi mới nghiệm thấy Hãn đã dùng nụ cười để thay cho câu nói. “Vậy mà có người đã sống đấy”. Tôi bỗng thấy như không còn bình tĩnh nữa. Cái bản chất phụ nữ, cái lòng tỵ hiềm, nhỏ nhen, ganh ghét trong tôi, thức dậy. Tôi im lặng, cúi mặt và nắm chặt chính bàn tay mình. Tôi thường có hành động tự nắm tay mình để dằn xuống hay để biểu lộ kín đáo một điều gì đau đớn. Hãn vẫn trầm ngâm. Chàng ngã người vào thành ghế. Ánh mờ từ ngọn đèn trên vách cắt ngang chóp mũi biến Hãn thành một người khác. Hung ác. Kỳ quặc. Tôi nghiêng người sang và đành phải đặt tay mình vào lòng Hãn. Có lẽ Hãn sực nhớ giật mình. Chàng cúi xuống, nâng tay tôi lên., Cử chỉ chậm rãi, thánh thiện và tôn kính. Tôi chợt hối hận với những ý nghĩ vừa thoáng quan trong óc. Lẽ ra tôi không nên vậy. Tôi muốn trong mắt Hãn, trong ý nghĩ của Hãn, tôi là một người con gái khác hơn những người đã đến với Hãn. Tôi muốn chứng tỏ ngoài tư cách một người yêu, tôi còn là một người bạn. Một tri kỷ hay ít ra, một đứa em mà Hãn có thể tin cậy.
Nhớ lại, bắt đầu của cuộc tình, bắt đầu từ một đêm trên mặt sông, tôi đã làm được việc đó. Tôi đã để cho Hãn thấy tôi vững vàng và dễ mến như một người bạn hay một đứa em. Tôi thành công. Và điều đáng nói hơn hết ở chỗ, tôi rất thành thật (với chính tôi) lúc đó. Tôi đã mong Hãn nói nhiều hơn nữa với tôi về những người đã đi qua cuộc đời Hãn. Vậy mà tôi, giây phút này, thật bậy. Không được. Tôi nói với mình.
Hãn vắt những lát chanh mọng nước và tách trà, bỏ đường và bảo tôi uống thử xem vừa chưa. Tôi ngoan ngoãn làm theo. Mùi chanh nồng cay lẫn với mùi cúc thoang thoảng, rồi thở một hơi dài trước khi nhấp một ngụm nhỏ. Trong tách trà, tôi thấy gương mặt Hãn sóng sánh. Để tách trà xuống tôi nói đủ Hãn nghe “Em thương anh”. Hãn cười, im lặng trong chờ đợi và tưởng tượng với đôi mắt khép hờ. Hãn biết tôi không thể hôn chàng trong quán nước. Những ngày vào sâu trong tình yêu, không hiểu có phải bị ám ảnh bởi một chia lìa tan nát, hay vì tình yêu tới một độ nào, sẽ không còn dè dặt, sẽ chẳng còn biên giới che đậy, hay bản chất tôi - cái bản chất liều lĩnh, với quan niệm sống như một đường gươm, để rồi được chết, như một chiếc lá, khiến tôi dạn dĩ hơn bao giờ. Đôi lúc tôi cũng phải kinh hoàng cho sự dạn dĩ của mình. Chẳng hạn như đi với nhau giữa đường, khi cơn yêu dấu như lửa nghiệt cháy run thân thể, tôi đã hôn chàng không suy nghĩ. Ngồi sau xe, tôi đã dám luồn tay vào ngực áo Hãn để nghe những ngón tay mình run nhảy theo nhịp đập của trái tim và mùi thịt da nồng khét.
Chưa một lần tôi dành thì giờ để suy nghĩ cặn kẽ nguyên nhân thúc đẩy tôi tiến đến mức liều lĩnh đó. Nhưng giờ đây, ngay phút này, nhớ lại tôi thấy ở xa, thật xa, lối của những nẻo đường dẫn tới hư vô, phía của những cánh rừng tiếp núi, núi tiếp chân mây, có lẽ, ám ảnh về những tháng ngày còn lại quá ngắn ngủi trong đời mình khiến tôi tự cho phép, từ tiềm thức, có những hành động ấy, mặc dù tôi còn quá trẻ để nói tới sự chết, sớm sủa gì để bây giờ đề cập tới lẽ sống. Có thể đó cũng là phản ứng vô thức của tôi, trả lời cho những tháng năm ấu thơ, cho những chuỗi dài niên thiếu rụt rè, co rút, ngu ngơ. Những tháng năm đã ở lại bên kia một phần đời là những tháng năm mù lòa, những tháng năm cây củi. Những tháng năm tôi sống nẻ khô như vỏ chàm, cheo leo như đá dựng. Tôi không được trải qua cái thời sách vở và mọi người thường gọi là thời dậy thì. Tuổi thiếu nữ. Tôi như một người nào vụt biến mất, để một người khác vụt hiện. Tôi không có được trong tâm hồn khởi lớn của mình những mơ mộng về một người khác phái. Tôi không có được trong trí óc hoa niên của mình những tơ tưởng đem tới những rung động thẹn thùng, xấu hổ (nhưng quyến rũ) về những tưởng tượng đụng chạm, cọ xát. Những ngày đầu bước chân vào thế giới bảng đen phấn trắng. Nghi một học trò gần ngang bằng tuổi tôi đã phê bình một câu mà tới nay tôi vẫn còn nhớ. Nghi học trường tôi dạy, lớp cuối bậc trung học, Nghi không phải là học trò tôi. Nhưng không hiểu lý do nào. Nghi đã đón tôi nhiều lần ngoài cổng trường, chỉ để bảo: “Nếu em là cô, em sẽ khác. Cô có cái bề ngoài của một đam mê sinh tử, nhưng bên trong lại là một mặt ao phẳng lặng, và lãnh cảm. Nếu em là cô. Nếu em được là cô…” Thật tình, tôi không hiểu Nghi muốn nói gì và tại sao, tôi lại là người được Nghi chọn để nói ra những lời khó hiểu đó. Tôi cũng muốn hỏi lại dù có nhiều cơ hội thuận tiện. Nếu Nghi không là học trò của trường tôi dạy, chắc tôi sẽ thân quí Nghi lắm. Âu đó cũng là một điều đáng tiếc (hay không nên tiếc). Nhưng rồi tôi cũng hiểu. Tôi hiểu trong bàng hoàng choáng váng của sự bật vỡ ý nghĩa một cách bất ngờ. Nghiệm ra mới thấy, đó là thời manh nha của tình yêu chúng tôi. Đó là khoảng thời gian Hãn đến thị trấn lần đầu. Và lần đầu, đến với tôi một ánh mắt nhìn buồn, từ dưới thấp trông lên hay nghiêm nghị trách móc, từ trên cao ngó xuống. Đó là những lần Hãn đến đón tôi ở cổng trường và Nghi, có thể đã rơi vào con trốt xoáy của những lần đăm đăm, Hãn đứng.
Tôi cười một mình khi hình dung Nghi trong trí nhớ. Hãn nói: “Em có gì vui”. Tôi đáp: “Nghi”, chàng hỏi: “Nghi là gì?” Tôi kể chuyện Nghi. Hãn chăm chú và suốt câu chuyện vẻ mặt Hãn không biến đổi. Cuối cùng, Hãn bảo: “Nếu anh gặp được cô ta…” Tôi không buộc Hãn phải nói ra hết câu vì thấy không cần thiết. Bởi trong óc tôi đã có ngay cái phần tiếp cho ba chấm kia đó. Tôi nói: “Anh”. Hãn nắm tóc tôi kéo lại gần. Thoáng lo sợ viển vông như một đám bụi đỏ, tan nhanh.
Chúng tôi ra về vào lúc quán đông nhất. Khói thuốc bưng bít khoảng không gian nhỏ hẹp. Tôi cay mắt và tức thở. Những rời rã mỏi mệt của gần sáu tiếng liên tiếp ngồi xe, giờ mới thực sự tác động trong thân thể tôi.
Đêm rét ngọt. Những bước chân dẫn ngược lên cao. Phố chợ chìm trong yên lặng. Chỉ còn những chùm đèn sáng, thật sáng và rạng rỡ. Sức sống mãnh liệt dẻo dai như tụ tập lại chung quanh vùng ánh sáng đó. Hãn hỏi tôi có muốn đi ăn khuya. Tôi đáp: “Em không đói, nhưng nếu khoan về phòng lúc này thì vẫn hơn”.
Ngược dốc, thêm gió tạt, tôi muốn bật ngã về phía sau. Hãn đỡ lấy lưng tôi. Tôi phân biệt được thật rõ ràng tiếng giầy của hai đứa. Lên tới lưng đồi, Hãn quay lại, nhìn vào lòng hồ nước. Chàng thở ra trước khi bảo tôi: “Em hát đi”. Trên lưng chừng đồi, tôi như rơi vào khoảng chân không mất hút theo lời Hãn. Tôi nói: “Hát gì?”. “Gì cũng được”. Hãn đáp. Và tiếp: “Tại sao không trở lại với Trương Chi”. Tôi nói: “Anh không thích bài này mà”. Hãn bấu những ngón tay cứng trên lưng tôi. “Ai bảo em?” Tôi đáp: “Em nghĩ thế”. Và tôi hát. Một mình, Trương chi. Tiếng hát yếu và nhỏ. Gió tạt ngược, vừa hát, tôi vừa lo gìn giữ cơn ho đang lùng bùng trong ngực.
Tôi đứt ngang bài hát trước khi vào điệp khúc lên đến đỉnh dốc. Hãn chỉ phía những chiếc xe bên lề đường với mấy ngọn đèn đốt bằng khí đá. Tôi bước theo hướng tay Hãn. “Xôi nghe”. Hãn hỏi cho có lệ. Tôi cũng đáp cho phải phép “gì cũng được, anh”. Tôi không thấy đói. Thực vậy, dù dĩa cơm chiều trong nhà hàng Singhai phải bỏ lại quá nửa. Tôi không biết lúc này tôi muốn gì. Sự quá đầy đủ trên (phương diện tinh thần) phải chăng đã làm sai lạc mọi cảm giác sinh lý. Tuy nhiên dĩa xôi được bày ra với khói bốc nóng hổi và những lát hành xanh thơm, bóng mỡ đã quyến rũ tôi như một trái mơ xanh. Tôi ăn ngon lành, hết dĩa. Hãn tỏ dấu hoan hỉ. Bây giờ đến lượt tôi đề nghị Hãn đi uống sữa đậu nành. Hãn vui với những bước chân nhảy nhót như chim và cánh tay choàng qua cổ tôi, như kéo lôi một người bạn trai.
Chúng tôi về phòng trước giờ giới nghiêm mười lăm phút, căn phòng trên lầu chót. Chiếc cầu thang cao, những hành lang mở ra thăm thẳm. Tôi yêu những dãy hành lang này, như yêu tội lỗi mà thêm một lần với chàng, tôi tái phạm.
Chương 12.
Đêm, bóng tối, đối với tôi là một điều thật tuyệt diệu. Từ ngày yêu chàng luôn luôn tôi khao khát được đi chơi với chàng dưới những ngọn điện trong những hàng cây rũ bóng, khi bầu trời tím thẫm ở trên cao. Tôi ước ao được nghe tiếng giầy của hai đứa rớt trên những hè đường đẫm ướt sương đêm. Tôi ước ao được đi nép bên chàng ngang qua những công viên mà ở đó, những cặp tình nhân chụm đầu nhau, che khuất nhau cả thế giới bên ngoài, ngay cả những vì sao long lanh nhất, cũng không còn chỗ để lọt vào đôi mắt kín. Tôi mơ được ngồi thu mình trong những ngôi quán có những chùm đèn như hoa thả xuống. Những chiếc bàn sạch bóng. Những lưng ghế kê ngay ngắn, thành lối. Đêm tối với hơi mát của gió, với hương thoảng của cỏ cây mục nát hay cựa mình lớn dạy. Đêm tối, với những bóng người lầm lũi bước chậm trên những đường lộ thênh thang, gót giầy nện mạnh, cổ áo kéo cao, bàn tay dấu cắt, và chỉ có thể thấy đóm lửa lập lòe là điếu thuốc cháy trên môi họ. Đó là hình ảnh không thể nhìn thấy ở ban ngày, ở giờ tan đường phố nghẹt xe. Trăm ngàn thứ còi cùng nổi lên một lúc. Hàng chục thứ mùi tỏa bay vào khoảng không gian hâm hấp những cơn sốt vội vã, âu lo, thảng thốt.
Và tôi chỉ có một cách để trở về sau khi thành phố đã lên đèn, khi xóm giềng đã chìm vào giấc ngủ sớm. Đó là sự nhân danh, mượn cớ sinh nhật Mậu. Đám giỗ ở nhà Tứ. Tang chế của ngoại cô giáo Trí. Hiếu hỉ nơi gia đình Ngọc.
Tôi không thể diễn tả trọn vẹn cái cảm giác lâng lâng, như hồn đầy gió lớn, như lòng ngập nước sông, như tay chân tháp cánh lúc được phép ra khỏi nhà trước bữa cơm tối. Đó là sự trộn lẫn của nhiều thứ cảm giác như hoa bướm, như thành chim của tôi. Và chúng tôi đã quấn lấy nhau với những xiết tay đau đến chảy nước mắt. Và chúng tôi đã hôn nhau những cái hôn muốn bật máu môi tham. Chúng tôi rời xa, thật xa ngôi nhà tôi vừa thoát như sợ nếu quanh quẩn, lập tức sẽ bị tóm lại. Nhưng nếu không đi xa khuất, sẽ bị phát giác mưu gian. Đó là những buổi tối hiếm hoi và quí báu. Đó là những buổi tối như những ngọn nến không bao giờ bắt được trong hồi tưởng, trong ký ức, trong cơn mê, mỗi khi tôi một mình, một mình trước những trang sách nặng chịch chữ nghĩa.
Những cuộc đi chơi kia, sự thực không hẳn gồm toàn những rung động, những cảm xúc chất ngất đến thế, nếu cả hai đều không thấy rõ một điều: hạnh phúc có được phải tính bằng phút giây. Sự sống có được chỉ là thoáng chốc. Những đam mây đe dọa, những thước đường đi tới trong từng lượng khí thở vào. Nhớ tới nó, tôi lại ngậm ngùi. Nghĩ tới nó, tôi lại muốn khóc. Nhưng cách nào, tôi cũng chẳng thể đòi hỏi hơn. Không. Tôi biết lắm giới hạn của mình. Tôi hiểu lắm ranh mức đòi hỏi và quyền được hưởng. Có thể, chính Hãn, Hãn cũng tự biết chàng không thể dành lấy cho chàng nhiều quá. Chàng còn có bổn phận đối với Thiện. Chàng còn có trách nhiệm với các con, và với cả những người đàn bà trong rừng khói sương dĩ vãng chàng nữa.
Hãn. Em hiểu. Em không ghen tuông, không tỵ hiềm với những ràng buộc và liên hệ quanh đời sống anh. Chính những thứ đó (có thể) để khiến em yêu anh hơn. Anh tin không? Em đang cố gắng đây. Cố gắng nhiều để xứng đáng với tình yêu (và với chính em), đồng thời, để chờ đợi nhục nhã, để chào đón tang thương mà cả hai đứa đã cùng nhìn thấy. Và hơn thế, Hãn vẫn hoài nhắc nhở em, như nhắc em nhớ những tháng ngày còn lại của đời em ngắn ngủi.
Đêm mưa luôn là đêm tối của tôi, thức trắng. Đêm của tôi sáng láng trong nỗi tuyệt vọng êm đềm. Tôi như đếm ngược từng mũi kim thời gian khâu trên thân thể. Mỗi vết kim là một tháng năm đó sống. Mỗi dấu kim là một vết thương chỉ cần chạm nhẹ cũng nhói buốt cay chua. Thuốc ngủ Valium. Có chứ? Nhiều lắm. Tôi luôn nghĩ đến thuốc ngủ trong những đêm mưa như vậy. Tôi có nguyên một hộp dấu giữa những quyển sách trên giá. Nhưng “cũng như anh, thuốc ngủ quyến rũ em. Cũng như anh, em không thể cưỡng chống được, nếu em sờ tới một viên thuốc. Một viên là một vỉ, một vỉ là trọn hộp…” Không. Tôi còn muốn sống. Tôi còn khao khát lắm. Đây là lần thứ bao nhiêu rồi, tôi van nài đời cho tôi được sống!
Mưa, buổi sáng muộn. Nhưng muộn mấy thì tôi cũng phải đến trường dù không có giờ. Ở thư viện, có lẽ tôi học được nhiều hơn, hay ít ra thì đó cũng là điều tôi tưởng thế. Mưa, ngồi trong thư viện, nhìn ra khoảng sân cát ngổn ngang gạch đá, tôi thấy gần gũi và như cũng từ chỗ ngồi quen thuộc này, sao sớm nay, mưa chỉ khiến tôi nghe bồn chồn trong ruột. Lòng cồn cào một nỗi âu lo mờ mịt. Trang sách mở ra, nguyên vẹn. Tôi không thể nhét vào óc lấy một chữ. Tôi không thể giữ im mắt mình được một giây. Trực giác không muốn loan báo cùng tôi một điều gì không thường. Một điều mà dẫu cố gắng mấy, tôi cũng không thể mường tượng được.
Mưa vẫn đều đặn ném xuống những hạt nước bạc, sáng. Thỉnh thoảng gió lại vật vã những cành phượng. Và cứ mỗi lần như vậy, những chiếc lá lăn tăn lại có dịp trút xuống hàng loạt những hạt nước xanh, lớn. Nhắm mắt lại, tưởng như biển đang động, ở phía nào, thật mạnh.
Hiến chưa đến. Một ông thầy tu trẻ đã ngồi vào của cô nhỏ. Không biết ông ta học gì nhưng chốc chốc, ông lại lấm lét nhìn trộm tôi. Hành vi này làm tôi bực dọc thêm. Đã có lúc tôi muốn xô ghế đứng dậy, hỏi ông có thấy trên mặt tôi vết nhọ bẩn nào chăng? Nhưng tôi dằn được mình. Không thể lỗ mãng thế. Tôi nghĩ. Bề gì, ông ta cũng mặc áo tu hành. Tôi chọn một thế ngồi khác. Từ lúc nào, tập giấy nháp trắng tinh đã đầy tên Hãn cùng với một đoạn nhạc trong bài Trương Chi. Tôi lắc đầu chán ngán. Chẳng biết có khi nào Hãn chán tôi không. Sao thỉnh thoảng tôi lại thấy chán mình, như chán một vật gì đã trở nên ù lì, thừa thãi và vướng mắt.
Cố gắng lắm tôi mới ngồi được cho tới lúc chuông reo báo giờ học thứ ba chấm dứt.
Tôi xếp sách vở, ôm áo mưa đi ra. Ngang qua bàn ông thầy tu, tự dưng tôi gật đầu chào. Mặt nhà tu bừng đỏ. Chắc ông lúng túng hay vì sung sướng. Bất giác tôi cười vu vơ. Lòng nhẹ như vừa trút được một mối hận.

Dọc theo hành lang, gió tạt với những lớp mưa mỏng đan kín một khoảng sân nước sũng. Vừa hát nhỏ tôi vừa chợt thấy mình sao quá tàn nhẫn. Lần này, tôi bật cười thành tiếng. Tuy nhiên, chút vui thoáng nhẹ vẫn lập lờ trong tôi, như chút vàng hanh của nắng đã thoáng thấy trên bờ tường hàng rào.
Chân sáo, tôi ngang qua và liếc mắt vào một lớp học còn tụ lại từng nhóm các bà, các cô. Những “đại sinh viên” đi học để làm cảnh và chờ… chồng. Thật tôi không thể nào gia nhập cái tập đoàn… tổng trừ bị đó. Sự cách biệt không tránh được đã khiến tôi trở thành cái gai đối với họ.
Bỗng tôi run lạnh toàn thân. Đôi chân muốn khụyu xuống. Tim thắt nghẹn. Máu dồn căng ngực thở. Loáng thoáng đâu đó, tiếng xì xầm, từ những đám người này. Tiếng lào xào đuổi theo như cố ý bắt tôi phải nghe. Một giọng kim nhọn hoắt: Đó. Phiến đó. Con nhỏ đó đó. Một giọng thở ồ ề: cái mặt làm bộ thấy rõ. Đôi ba tiếng cười khúc khích. Mồ hôi vã ra trong thoáng chốc, tôi hiểu họ nói gì. Ôi thật tồi tệ. Họ muốn gì nơi tôi nữa. Hận thù gì? Tranh chấp nào đã có giữa chúng tôi khiến các người phải dành cho tôi những mai mỉa, những dè bỉu kia? Tôi có phải được sinh ra để làm tấm bia cho những mũi tên tẩm độc? Họ muốn gì nơi tôi? Họ muốn gì khi bắt tôi phải nhìn những tấm ảnh chụp từ phía khác của tình yêu tôi cay đắng? Không lý họ ghen với cả những nhục nhã tôi chịu? Hay họ cho rằng tôi đang quá hạnh phúc?
Đây chẳng phải là lần đầu tiên tôi nhận được những lời mai mỉa dèm xiểm của chung quanh. Lâu rồi, ngay trong lớp học, tôi đã được nghe nhiều lần những lời tương tự. Thoạt, tôi không để ý, sau họ cố tình nói rõ hơn với những chi tiết khiến tôi không thể nghĩ lầm sang chuyện khác. Điều phiền nhất cho tôi ở chỗ có khá nhiều người biết Hãn. Biết Hãn, nhưng họ lại chẳng hiểu một chút gì về đời sống riêng của chàng. Chính vì thế những lời đồn đãi của Hãn ngày càng nhiều hơn. Chẳng hạn người ta nói Hãn là một tay sở khanh có hạng. Trong suốt cuộc đời Hãn chưa hề yêu ai thành thật. Đàn bà con gái với Hãn chỉ có ý nghĩa như một cái cớ để chàng đạt tới một mục đích riêng. Có người lại bảo Hãn bị bệnh. Một thứ bệnh thuộc về tâm lý. Có người cho Hãn tán tỉnh ai đó chỉ để thỏa mãn tự ái và để dài thêm cái danh sách thành tích của Hãn mà thôi. Dư luận còn xầm xì nhiều nữa, tuy trong số cũng có đôi ba nhận xét rất tốt dành cho chàng. Tựu trung chẳng ai có được một cái nhìn bao quát về Hãn. Kẻ thương Hãn, bảo Hãn là một loài cây hiếm quý. Kẻ ghét Hãn, bảo đây là một thứ ma dơi hút máu…
Có dự bị tinh thần nên tôi chỉ lặng lẽ mỉm cười trong mọi trường hợp đã xảy ra như thế. Tôi sẽ chẳng chút quan tâm nào, nếu Hiên, nếu Ngọ không thỉnh thoảng tìm tôi để lập lại những điều tiếng kia và muốn tôi phải lên tiếng. Thái độ hốt hoảng, bàng hoàng đến tức giận của những người bạn, nhất là Hiên làm tôi cảm động. Một lần tôi đành phải trả lời Hiên “Em đừng kể những chuyện đó nữa. Chị không có gì để cải chính hết. Bởi quá nửa những điều họ xì xầm và đến tai em là sự thật. Chỉ có một điều duy nhất không thực, đó là sự họ chẳng hiểu chút gì về anh ấy và hơn nữa, họ chẳng bao giờ hiểu được chị. Chị cũng không mong họ hiểu gì khác hơn những điều họ đã nói”. Hiên tròn xoe đôi mắt dại, đôi cánh mũi rung động và mồ hôi lấm tấm ở chóp mũi. Hiên thường bị như vậy mỗi lần ngơ ngác hay kinh ngạc. Vẻ mặt Hiên lúc đó thật đáng yêu và cũng thật tôäi nghiệp. Tôi khỏa lấp bằng cách vuốt tóc Hiên “Thôi hai chị em mình đi kiếm ô mai ăn đi. Chẳng có gì đáng phải bận tâm đâu ngoài viên ô mai của mình”. Hiên cười được ngay. Những lúc ấy, tôi chỉ muốn ôm Hiên vào lòng mà nói: Ôi bé bỏng của chị Phiến.
Nhưng lúc Hiên quên được chuyện ấy, lại là lúc tôi nghĩ ngợi về nó nhiều hơn bao giờ. Tôi thấy rõ bước chân mình lao chao trên những bậc cấp dẫn xuống sân. Tôi thấy rõ cảnh vật đang từ từ lộn ngược và quay những vòng thật chậm. Tôi lấy xe, quyết định đi tìm Hãn. Tôi không biết tôi muốn gặp chàng lúc này để làm gì? Tôi sẽ nói gì với chàng? Chúng tôi có giải quyết được gì cho nhau không? Câu trả lời: không biết. Và tôi cứ chạy.
Mưa đẫm ướt. Bắt đầu là tóc, mặt mũi rồi tới cổ, ngực và quần áo bên trong áo mưa, tôi nghe gây lạnh như đang bắt đầu một cơn sốt. Người ta trả lời Hãn mới đi khỏi. Tôi lên xe, và tiếp tục dầm mưa. Những giây phút chìm lắng trong mưa giúp tôi bình tĩnh và tỉnh táo trở lại. Tôi không cần thiết phải gặp Hãn. Nhưng đầu óc thì lại rơi vào tình trạng rỗng không. Trắng xóa. Như mưa, từng lớp, trước mặt. Như bị ép buộc bởi một mãnh lực nào đó từ vô thức, tôi cất tiếng hát. Tiếng hát chìm lẫn vào cơn mưa. Tiếng hát như cũng trôi tuột đi, để lại cho riêng tôi một nỗi hoang lạnh “ngoài song mưa rơi trên bao cung đàn - còn nghe như đâu đây ai kia oán trách gào than. Hòa với tiếng gió… chìm xuống đáy nước lấp lánh in bóng đò xưa…”
Giọng tôi yếu dần, nhỏ đi, cho đến khi tôi không còn nhận ra tiếng hát hay hơi thở tôi hào hển. Về đến nhà, mẹ tôi cho biết đôi mắt tôi hoe đỏ. Tôi không muốn nghĩ vì mưa, mà muốn nói thật là tôi đã khóc. Phải, tôi đã khóc suốt, trên những con đường chạy qua.
Tôi im lặng đẩy xe vào, cởi áo mưa, vũ nước ngoài hiên.
Tôi nghe tiếng cuốn truyện rơi khỏi tay bố xuống mặt đi văng và tiếng nói bâng quơ của ông cụ “mưa hoài”.
Tôi bước vội xuống nhà bếp, mặc mẹ tôi ngơ ngác nhìn theo với ánh mắt đầy nghi ngại.
Trong bữa cơm, bố nói anh Hữu bảo gặp tôi đi chơi nhiều lần với một người đàn ông có râu.
Tôi đáP.
- Con đi với Hãn.
- Cái thằng thỉnh thoảng lại đây đó phải không? Mẹ tôi hỏi.
Tôi vẫn trên đà phóng theo mũi lao đã lỡ.
- Vâng.
- Nó thế nào? Sao tao và mẹ mày không nghe mày nói gì hết vậy?
Vẻ nghiêm trọng với nhiều khó chịu được báo trước trong giọng nói của bố.
Tôi nuốt chửng miếng cơm khô và nhạt thếch.
- Tại chưa đến lúc.
Đến lúc đó bố tôi bắt đầu mất bình tĩnh, ông cụ buông đũa và đặt bát xuống đàn.
- Thế nào mới là đúng lúc? À, con này lúc sau này giỏi gớm há.
Mẹ tôi cắt ngang:
- Ông, thật hay. Muốn hỏi gì con thỉ hỏi cho nó từ từ tốn tốn. Chưa gì ông đã quát như vậy nó sợ, nó cuống làm sao trả lời được.
Bà quay sang tôi, định nói. Nhưng tôi đứng lên.
- Vô phép cơm bố mẹ. Con no rồi.
Tôi rời bàn ăn. Đâu thể nào tha cho tôi một cách dễ dàng vậy được, ông cụ gằn giọng hơn:
- Con kia. Ngồi lại đây tao hỏi đã.
Tôi ngập ngừng giây lát trước khi quyết liệt:
- Con đã thưa với bố, chuyện đó chưa tới lúc. Nếu thấy cần con đã thưa chuyện với bố mẹ, đâu cần chi bố mẹ phải nhắc. Con lớn rồi. Con có thể lo lấy một mình.
Tôi nói câu sau với những bước chân nhanh trên lầu. Tôi biết sự giùng giằng sẽ làm câu chuyện bị xé to ra và mẹ tôi lại có thêm một trận khóc giữa bữa.
Tôi cố không nghe những lùời mắng tiếp theo của ông cụ và lời can gián dịu dàng của mẹ tôi.
Tôi khổ quá rồi. Tôi chỉ muốn yên thân thôi. Tại sao ai cũng chỉ chực nhắm tôi để dày vò, để dằn vặt. Tôi chẳng còn sống được bao lâu nữa. Hãy thương xót và đoái hoài tới tôi một chút. Ôi, có ai thương con nhỏ này không? Đứa con gái hai mươi mốt tuổi với vết chàm trên mặt, như dấu vết của lầm than tủi nhục một đời.
Tôi gọi tên Hãn rất khẽ lúc ngồi vào bàn học.
Chương 13.
Trời oi, lặng gió. Mây trì xuống kín cả bầu trời. Tôi mang chiếc ghế xếp lên sân thượng. Đêm mới buông. Phố xá ở dưới thấp rộ lên. Sinh hoạt ồn ào. Cái sinh hoạt đặc biệt chỉ bắt đầu khi bóng tối đã bôi đen mọi vật và những hàng đèn màu bật lên nhảy múa.
Tôi nghĩ không thể mưa được. Kinh nghiệm của bao nhiêu năm đợi chờ những cơn mưa tưới ướt như đợi chờ một tình yêu, chào đón một hạnh phúc đã cho những phỏng đoán khá chính xác về thời tiết. Kinh nghiệm này ở tôi đã đến mức chỉ cần nghe gió có thể đoán biết có mưa không, và nếu có thì bao lâu nữa. Cũng như chỉ cần nhìn những đám mây hay những vì sao, tôi cũng đã có thể nói ít khi sai và những ngọn gió mang hơi nước, những vì sao lu, những tầng mây thấp đã thiết lập được với nhau một giao ước nào đó. Tôi mong mưa để đêm nay dễ ngủ hơn nhưng tôi biết chắc sẽ không có một đám mưa nào đến trước bình minh ngày mai. Cũng như tôi không hy vọng gì được gặp Hãn trong tối nay. Sự biết chắc khiến tôi không còn chút tinh thần dành cho bài vở? Sự biết chắc khiến tôi phải tự nhủ “mày hư quá, hư quá lắm rồài đó Phiến. Có đời thuở nào mới một ngày không gặp nhau mà mày đã điên cuồng, đã quắt quay như vậy. Rồi lỡ phải xa nhau một tuần một tháng, hay một năm, một đời, thì làm sao mày sống? Không một đứa con gái nào hư hỏng đến thế đâu Phiến. Nhất là một khi mới đó, mới hôm kia, những giờ vàng hưởng trọn. Những phút ngọc của riêng, những đêm bên Hãn, mày đã tận cùng nghĩa sống. Mày đã bay bổng đến chín tầng quên lãng. Đừng đòi hỏi hơn, đừng ham muốn nhiều hỡi Phiến, mày đã quên trước sau, mày chỉ là một con nhỏ mang trên mặt cái định mệnh thảm khốc. Mày đừng quên, mày trước sau, mày chỉ là con sâu, cái kiến giữa một rừng đời lay tạt…”
Mấy ngày sống với Hãn qua nhanh như một cơn mưa bụi bất ngờ, và tan biến như một mùi hương. Lẽ ra chúng tôi còn có thể ở lâu hơn với số tiền hai đứa dành dụm được, nếu không vì ngày thi của tôi đã cận kề. Đúng hơn tôi chỉ còn chín ngày nữa để sửa soạn cho kỳ thi. Tôi thi nhưng Hãn lại là người lo lắng và hơn ai hết, áy náy. Sự áy náy của Hãn cũng dễ hiểu. Hãn muốn tôi phải thi đậu, trước là để mẹ tôi vui lòng, thứ để tôi khỏi phí một năm học và sự bỏ dạy trở về của tôi có được một ý nghĩa nào đó đối với chung quanh. Thật sự đấy chỉ là những lớp sơn bóng phía ngoài, đậy che cho một chuỗi những mặc cảm và những toan tính khác.
Cả hai đều hiểu rằng, chẳng đời nào bố mẹ tôi cho phép tôi lấy Hãn, dù sự thể đó diễn ra như thế nào. Làm sao có được cái chuyện có vẻ phản luân lý như vậy, khi Hãn đã có gia đình. Vợ Hãn còn đó. Con Hãn còn đó. Nhất là gia đình tôi không phải là thứ gia đình dễ dãi. Cốt cách nho gia, mô phạm của bố tôi đã thấm nhập gia đình tôi như một truyền thống trải qua nhiều đời. Đó cũng chính là lý do buộc mẹ tôi phải đau đớn đứt ruột tuyên bố không nhìn anh Hữu, vì anh Hữu đã tự quyền trong việc lấy vợ.
Hãn bảo ngày nào còn ở trong gia đình, tôi phải làm cho được bằng mọi cách, những gì mà mẹ tôi mong muốn thấy ở tôi (dĩ nhiên, trừ chuyện tình yêu của hai đứa). Chẳng hạn như chuyện học hành thi cử, chuyện đi dạy thêm kiếm tiền biếu mẹ. Hãn bảo đấy là một trong những cách bày tỏ lòng hiếu để, sự tôn kính và yêu thương người sinh thành. Hãn hạn định cho tôi phải duy trì nỗ lực đó, trong vòng năm năm, và sau hạn kỳ kia, tôi sẽ chính thức bước chân ra đi. Tôi sẽ sống cái đời sống phải sống. Đó là lúc tôi sẽ đứng một mình như núi - sẽ chịu một mình như cây. Đó là lúc tôi sẽ tạo riêng cho tôi, một nơi chốn để đi về - một mái hiên cho mưa - một ngọn đèn cho những đợi chờ thăm thẳm. Đó là lúc tôi sẽ có với Hãn một đứa con (một thôi. Hãn nói thế). Ôi, đứa con, niềm khát khao lẫm liệt và chua xót nhất thắp lên lần đầu trong tôi, từ ngày yêu Hãn.
Có muốn sớm hơn cũng chẳng được. Hãn bảo vậy, chàng nói tôi còn quá non nớt để có thể chịu đựng nổi những lát rìu thâm hiểm của dư luận. Chàng nói tôi còn quá mỏng manh trước những độc dược của đời sống. Người đàn bà sinh ra không để sống một mình. Nhưng đời sống thực tế, đã cho thấy những người đàn bà được sinh ra để sống một mình, có phần còn nhiều hơn những người đủ đôi lứa., Tôi đã đôi lần nói thẳng với Hãn quan niệm của tôi chung quanh những vấn đề như hôn nhân, như hạnh phúc. Tôi không cố tình làm khác hay sống khác cái đời sống đã thành nếp từ bao đời. Tôi muốn được sống một đời sống của người bình thường. Nhưng mới khó làm sao! Cách nào để tôi hưởng được bình thường như kẻ khác? Tôi muốn nói đến vết chàm giữa trán. Vết chàm. Đó là cái gì mà tôi không thể tự giải thích. Nhưng tôi nghĩ nó đã là một dấu hiệu, báo trước tôi sẽ phải nhận lấy cái phận đời oan nghiệt nhất của phận số. Vết chàm, phải chăng, nó chính là sứ giả mang đến tôi cái thông điệp không lời của định mệnh nghiệt ngã ấy? Với sự trưởng thành dần dần của cảm quan, của ý thức và vào những lúc vô hồn nhất, tôi đã nghe được ở đâu đó thấp thoáng trong những hạt mưa, dưới những bước chân đi, trên những cành lá động, hay trong cái im vắng lạnh lùng bí mật của bóng đêm, những đe dọa, những cảnh giác nghiêm khắc và nặng nề về một tai họa sẽ đến với tôi trong những ngày tháng tới.
Lần đầu tôi không còn hốt hoảng khiếp ngất với những tiếng thì thầm gợi lên những hình ảnh hãi hùng. Tôi đã quen. Tôi đã cam đành phận chịu. Tôi đã tìm được cho mình cái thảnh thơi trong tuyệt vọng. Nhưng mỗi khi vô tình chạm tay tới vết chàm, hoặc ngắm nhìn nó trong gương, người tôi lại nổi gai ốc. Lúc đó, tôi chợt thấy như mình vừa chạm tới, vừa giáp mặt với định mệnh, với cái phần ưu uất, với cái ám ảnh đe dọa của một tai họa vẫn âm thầm đeo dẳng. Những lúc đó, tôi thường lặng người. Mặt mũi tôi nhợt nhạt, mồi hôi tươm ra, ngực tôi nghẹn lại. Gia đình đã đôi lần bắt gặp tôi trong trạng thái này, mọi người đồng ý với nhau là tôi có gốc động kinh. Bố tôi còn nói rõ hơn, với dẫn chứng cụ thể là ông nội tôi, ngày xưa cũng đã bị chứng đó.
Tôi im lặng trước quả quyết của mọi người. Vì có nói ra, tôi nghĩ, mọi người cũng không thể hiểu được. Hơn nữa, dễ gì tôi có thể diễn tả mạch lạc cảm giác mơ hồ nhiễm nhiều huyễn hoặc kia.
Vết chàm mỗi ngày một ăn lan trên mặt tôi. Nó đã vượt quá đường ranh lông mày đi xuống sống mũi. Nó ăn lanh nhanh hơn bắt đầu từ ngày tôi yêu Hãn. Theo lời một bài thầy ở núi gió, khi vết chàm ăn xuống quá đôi mắt, tôi sẽ chết. Một ông thầy khác lại quả quyết tôi sẽ thọ đến tám mươi tuổi, nhưng vết chàm sẽ ăn kín mặt như đeo chết một cái mặt nạ xám và tôi sẽ giàu có khi vết chàm ăn không còn phân vuông da mặt nào. Tôi biết được chuyện này nhờ nghe lóm chuyện giữa bố mẹ tôi. Tôi không nghĩ Hãn đến với tôi để rút đi mau chóng cái thời gian hạn định vắn vỏi của sự sống. Chẳng lẽ Hãn chính là hiện thân của định mệnh thảm khốc ấy? Nhưng thâm tâm tôi vẫn mơ hồ nghĩ mình sẽ chẳng còn sống được bao lâu. Tôi không tiếc sự sống, thật tình thế. Nhưng tôi sợ không kịp có một ngày vui, khi hạn kỳ năm năm chấm dứt. Tôi sợ tôi sẽ không được nhìn mặt “chú Hãn nhỏ”, niềm khao khát lẫm liệt và chua xót ra đời. Nếu có một sự gì không toại nguyện trong phút lâm chung, thì đứa con, là điều duy nhất đó.
Trời chuyển gió lớn. Những đám mây dữ tan đi. Da trời sáng hơn nhưng gió lại mang theo quá nhiều bụi phố. Tôi nghe lạnh ớn xương sống. Cảm giác đẫm ngất đứng trên những đỉnh đồi gió lộng, những ngày qua, trở về. Tôi nhắm mắt, ném thả mình sâu xuống nữa trong hồi tưởng cùng cảm xúc vỡ bờ, xô dạt.
Tôi ngóc đầu dậy khi nghe một tiếng động vang đội mạnh ở phía cầu thang, mẹ tôi xuất hiện với mớ tóc bạc đốm. Bà ló nửa người trên mặt sân thượng, giọng nói bà không biểu lộ một tình cảm nào rõ rệt:
- Có Hãn tới đấy.
Tôi bật dậy như vừa được hất lên từ một chiếc cầu nhảy. Mẹ tôi nghiêm khắc nhìn. Tôi bối rối nói bâng quơ:
- Mỏi người quá. Gió nhiều. Con cũng đang định xuống.
Từ ngày Hãn đến nhà, tôi biết mẹ tôi chỉ chờ cơ hội để bắt phải trả lời những hạch hỏi liên quan tới chuyện của hai đứa. Nhất là về đời sống riêng của Hãn. Và đó lại chính là điều tôi muốn né tránh. Không biết tôi lẩn thoát được những câu hỏi của mẹ tôi như: Hãn làm gì, ở đâu? Con cái nhà ai? Chuyện gia đình sao? Tới bao giờ. Đến lúc nào, tôi không thể tự trả lời, nhưng tôi mong sẽ kéo dài được chừng nào hay chừng đó.
Mẹ tôi nói:
- Xếp ghế lại, đem xuống chứ.
Tôi cố gắng kềm hãm náo nức bằng cách chú ý tới… cái ghế.
Vừa xuống, Hãn đưa một miếng giấy nháp mà tôi viết lăng nhăng đủ thứ trong đó. Chàng nói, thế này làm sao học? Tôi đón tờ giấy và ngước nhìn. Hãn thường tỏ ra nghiêm khắc với công việc học hành của tôi. Hãn tiếp dồn dập: học được nhiều không? Hết chưa? Tôi nói dối:
-Gần hết rồi anh. Chỉ còn một coura nữa.
Hãn ngồi xuống. Tôi chọn chiếc ghế sát tường khuất góc trời với tấm bình phong ngăn giường nằm của bố.
Tôi muốn nói với Hãn tôi đang mong và thèm được gặp chàng đến nôn nao cả người.
Tôi đặt tay lên đùi mình chờ đợi. Hãn ngắm tôi lặng lẽ như ngắm nhìn một đứa em nhỏ. Tôi giữ nụ cười trên môi che ngượng ngập và dấu luôn nỗi hân hoan. Tôi nghe tiếng lách cách của ly tách chạm nhau. Tiếng mẹ tôi gọi khẽ “Phiến”. Chân trần, tôi đi như chạy lướt vào nhà trong. Chắc chắn là tôi đã không thể dấu hết được nỗi vui mừng của mình trong mắt nhìn đầy kinh nghiệm của mẹ. Tôi nói cho có chuyện.
- Khỏi nước đi mẹ, Hãn chứ ai đâu.
Mẹ tôi hừ một tiếng:
- Bưng ra.
Toi liếc nhìn bà âu yếm. Những lúc có Hãn đến, hình như tôi thấy yêu mẹ nhiều hơn bình thường.
Hãn hỏi:
- Lúc này, em ở đâu mà lâu vậy?
Tôi chỉ trên trần nhà:
- Sân thượng, anh.
- Làm gì trên dó?
Tôi đùa:
-Ụ…
Hãn cười:
- Thi đến nơi rồi mà mới giờ này đã ngủ sao? Phải ráng lên chứ. Chuyện đậu rớt không quan trọng. Vấn đề là có cố gắng và cố gắng hết sức mình cho tới lúc vào phòng thi.
Tôi vẫn giữ giọng đùa cợt để đáp lại cái vẻ nghiêm trang của Hãn:
- Thì em ngủ là để lấy sức mà cố gắng đấy chứ. Ngủ để rồi thức là tích cực triệt để đấy.
- Giỡn hoài.
- Thật mà. Tôi đáp và cười cười, Mái tóc Hãn dài thậm thượt.
Hãn luôn sửa soạn sẵn cho mình một dáng điệu nghiêm chỉnh với những vấn đề thật người lớn để có thể nói to gữa nhà. Điều này chẳng đúng một chút nào với những lúc hai đứa dong dong ngoài phố. Chính thế tôi lại càng khó giữ được nghiêm trang. Tôi thích nhìn Hãn lúng túng ngơ ngác bên ngoài tiếng cười của tôi.
Cuối cùng, Hãn hỏi:
- Em cười chi vậy?
Tôi đưa một lọn tóc lên môi. Lắc đầu. Hãn tiếp:
- Tình hình sao.
Tôi ngơ ngác:
- Gì cơ ạ?
Hãn nhắm mắt:
- Chuyến đi.
- À. Không sao hết. Ngọc đưa em về. Mẹ yên trí em về quê Ngọc. Mẹ còn hỏi Ngọc sao đi ít ngày vậy. Ngọc đóng kịch khéo lắm.
Hãn ra dấu cho tôi nói nhỏ và chỉ tay vào phía nhà trong. Tôi nói:
- Mẹ không nghe đâu.
Tôi nhắc cái gạt tàn thuốc bằng sắt ở góc nhà ra gần ghế của Hãn. Chàng liều lĩnh nắm lấy bàn tay tôi. Tiếng quạt trần quay trên đầu buồn, lạnh. Tôi thì thào:
- Em nhớ anh. Hãn gật đầu: anh cũng vậy. Đôi mắt Hãn tối hơn. Tôi muốn được chàng ôm giữ trong tay. Tôi sống lại (chẳng biết lần thứ bao nhiêu) những ngày hai đứa ra khỏi thành phố.
Lúc mở mắt, tôi thấy Hãn đã ngồi ngay ngắn và chiếc gạt tàn được kéo hẳn về phía chàng. Lát sau, Hãn đứng dậy, Chàng xốc lại quần áo. Tôi nói như thốt kêu:
- Anh về sao?
Hãn gật đầu:
- Để em học!
Tôi năn nỉ bằng mắt nhìn của mình:
- Ở với em chút nữa.
- Anh sợ mẹ nói.
Hãn vẫn lo lắng một ngày nào không thể đoán trước, mẹ tôi sẽ nói thẳng với chàng những điều bà muốn nói. Và sau đó, có thể là không bao giờ Hãn còn đến đây được. Hãn nhiều tự ái lắm. Đôi khi chàng có những ngay thẳng không cần thiết và không đúng lúc. Tôi hiểu tính Hãn như vậy. Chíunh thế mà tôi thường xuyên áy náy, tuy biết chẳng cách nào khác hơn khi mùa hè đã tới. Lớp học đã nghỉ. Tôi đâu còn có lý do để ra khỏi nhà. Nhưng mặc kệ. Tới đâu thì tới. Miễn là thỉnh thoảng tôi còn được nhìn Hãn. Còn có lúc được đi bên nhau - được sống trong vòng ôm, trong hơi thở chìm lẫn…
Hãn ngập ngừng. Tôi cũng đứng lên. Chàng ngỏ ý muốn chào mẹ. Tôi lắc đầu và theo chàng ra hiên.
Đêm bị những ngọn đèn cắt nát thành từng miếng thẫm ẩm trong lòng ngõ và trên vách tường đối diện. Những trận mưa liên tiếp, trong nhiều ngày qua, để lại những vũng nước bùn. Đục sệt. Tôi dưa lưng vào thành hàng rào. Hãn lại sát gần. Tiếng radio của nhà bên cạnh nghe thật rõ một bài vọng cổ. Tôi nhắm mắt lại. Hãn như được khuyến khích. Chàng chụp lấy mặt tôi. Hôn vùi. Hãn thường có những trận mưa hôn tào bạo thế. Và bây giờ đến lúc tôi phải đẩy chàng dang ra. Dưới mái thấp tôi thấy đôi mắt chàng long lanh. Hơi thở trong ngực tôi cũng dồn dập. Một ngón tay nào đó của tôi còn nằm gọn trong bàn tay chàng. Hãn kéo tôi từ từ. Tôi nép vào chàng. Một lần nữa, tôi thở đầy ngực hơi hướm Hãn. Sương mù, những con dốc, những chòm lá, những ngọn đèn lu, bước chân, và tiếng hát trở về cùng lúc. Tôi lập lại lời chàng “hình như mưa trên những vòm lá tối…” Hãn cuối xuống nhìn. Cái nhìn đăm đăm với nhiều vẻ thương yêu lẫn tội nghiệp. Chàng nói: “rồi có ngày chúng ta sẽ trở lại nơi chốn đó”.
Lúc trên xe trở về, Hãn cũng đã nói với tôi như vậy. Tôi không dám mơ tưởng trở lại kia. Với tôi, tình cảm này, chỉ có thể cho tôi những ngày gần, những phút ngắn. Tương lai, tôi e ngại lắm. Đành từ nay: tương lai là ánh sáng của kẻ khác, và bóng tối mới chính là tương lai của đời tôi. Gió đập tấm màn cửa. Chuông đồng hồ thánh thót từng tiếng trong suốt. Chiếc radio phụt tắt. Cậu nhỏ ở gian bên cạnh vào nhà, khép cửa và tắt đèn. Bóng tối chiếm nguyên một khoảng hẹp sâu của ngõ. Tôi đứng lặng nghe vọng tiếng xe ngoài lộ xa.
Hãn cúi mặt men theo bờ tường trở ra phía đường cái. Tôi nhìn theo cho tới khi Hãn bước vào và tan nhòa trong vùng ánh sáng.
Chương 14.
Tôi rút lên gác, trước khi anh Hữu nhìn thấy. Bao nhiêu năm sống quanh quất trong ngôi nhà này, tôi đã quá quen thuộc với độ nhàm chán và lợm giọng trước những sự việc xảy ra. Tất cả, chỉ chừng đó. Chỉ chừng đó. Không gì mới lạ. Anh Hữu trở về. Mẹ hỏi thăm năm ba câu về những đứa cháu mà lâu lắm rồi bà không được gặp. Rồi mẹ nhắc tới chị Liên. Tới chị Hạnh, người con dâu trưởng và đầu tiên của gia đình do chính tay bà chọn lựa. Sau rốt tới chị Thiếu. Bao giờ bà cũng ngừng câu chuyện ở chị Thiếu và những đứa con của hai người.
Tôi không muốn nhìn thấy những giọt nước mắt nhọc nhằn vắt ra và chảy xuống từ đôi mắt đã mờ đục của bà. Tôi càng không thể chịu đựng được những giọt nước mắt nơi anh Hữu. Buổi họp mặt này lại có chị Hồ. Ôi, đó là ban hợp ca đồng điệu của những người mau nước mắt nhất trong ngôi nhà này? Mỗi lần gặp nhau như vậy họ không thể khâông cùng khóc với nhau! Làm như nếu không có những giọt nước mắt được chảy xuống thì đó là một thiếu xót không thể chấp nhận được.
Tôi không thể phân tích tỉ mỉ trạng thái tâm hồn tôi mỗi lúc phải chứng kiến cảnh đó.Có lẽ một mặt tôi thấy thương mẹ nhưng mặt khác lại khó chịu và bực dọc với anh Hữu. Tại sao anh Hữu lại phải khóc khi chính anh là nguyên nhân của tất cả mọi sự. Chính anh làm bà cụ đau buồn tới già đi. Chính anh bỏ chị Hạnh để lấy chị Thiếu. Chính anh với thời mới lớn của mình gạ gẫm chị Liên để rồi xô đẩy chị vào con đường trôi dạt với mặc cảm tội lỗi, xấu hổ và u uất một đời.
Tôi không chịu được những người đàn ông vô trách nhiệm. Và càng không thể chấp nhận một người đàn ông dùng nước mắt như tẩy rửa thanh thỏa, một hình thức phủi tay. Nước mắt đã cho anh Hữu những tháng ngày an ổn sau đấy. Có lẽ anh nghĩ với những giòng nước mắt mau mắn của mình, anh đã tròn bổn phận, một cách nào đó, đối với chị Liên, đối với bé Ly.
Trên căn gác này, trong cái giang sơn tối tăm với một tấm nệm mỏng trải trên sàn gỗ, một bàn gỗ mộc, một kệ sách, một chiếc ghế ọp ẹp và một miếng trời vuông vứt trên đầu, được nhìn thấy qua khoảng kính mờ, tôi đã sống những ngày bề bộn sách vở. Những ngày ngổn ngang trăm ngàn ý nghĩa mâu thuẫn dằn vặt. Và thật gần gũi, những viên tranquanil, những vỉ varium. Cái chết lởn vởn, chập chờn trong từng thước không khí ẩm mốc. Đã có những lần tôi nằm thiêm thiếp nhiều ngày với tấm chăn mỏng, với cơn sốt vật vờ cùng ý nghĩ tự tử nung nấu từng chập. Đó là khoảng thời gian của mùa mưa năm nào. Những ngày mùa hè, trước khi tôi quyết định ra đi. Đó là khoảng thời gian của những trống trải tiếp tiếp, của những thất vọng trùng trùng. Đó là khoảng thời gian tôi vừa mới vật lộn xong cái bằng tú tài hai. Tôi hăm hở ghi tên bất cứ đâu, với hy vọng sẽ tìm được cho mình một tương lai. Một lối thoát. Nhưng không một cánh cửa nào mở ra cho tôi, trong khi chút ánh sáng mù mờ lần lần ngúm tắt ở chung quanh. Bố tôi nghỉ việc và chỉ còn trông vào đồng lương hưu trí. Anh Hữu tuyên bố không về nhà nữa, vì mẹ không muốn nhìn nhận chị Thiếu. Anh Long đem chị Thắm về với hai đứa con, giao cho mẹ để theo một khóa học tại ngoại quốc kéo dài hai năm với hy vọng trở về sẽ có đồng lương cao hơn, khả dĩ đủ nuôi vợ con. Đó là khoảng thời gian tôi ra khỏi nhà khi mọi người còn say ngủ và chỉ trở về vào lúc thành phố đã lên đèn.
Tôi không thể ở trong ngôi nhà sặc mùi hơi người, với những bữa cơm tẻ ngắt. Những con mắt lặng lờ, nín câm như những chiếc bóng. Ngay cả mấy đứa cháu, hình như cũng bị cái không khí âm u của chốn ở làm thui chột bớt tiếng cười. Đó là khoảng thời gian rất nhiều lần tôi đã ứa nước mắt khi dắt xe ra khỏi một ngôi trường, một công sở với kết quả não nề: không có tên. Hết chỗ. Rất tiếc. Hay cảm phiền chờ dịp khác. Và xe thì hoặc hết xăng hoặc hỏng. Tôi thất thểu đẩy chiếc xe như vần lăn một tảng đá khổng lồ đi dưới những hạt mưa tơi tả và thấy những đứa con gái cùng tuổi, áo quần, son phấn, cợt nhã với những thằng con trai phóng xe qua lại vun vút. Bùn nước tóe bắn lên mặt, tôi không ghen tỵ với những đứa con gái kia. Tôi không ước mơ một chỗ ngồi nơi yên sau của những chiếc xe bóng nhoáng đó. Nhưng tôi cũng vẫn cứ buồn, vẫn cứ tủi thân. Đó là những lúc tôi tự hỏi, tại sao mình được sinh ra? Tôi có đây để làm gì? Để được gì? Trước sau, tuổi thơ tôi chỉ có những ngày cháy nám trong rừng cao su và trên những bờ thành rêu xám của trường đua Phú Thọ. Đó là những lúc tôi khát khao một chỗ ngồi khuất kín,êm ái, trong một ngôi quán có cửa kính đế nhìn ngắm những hạt mưa gieo xuống một mặt phố. Đó là lúc tôi thèm thuồng một chỗ nằm với ngọn đèn đủ sáng, soi vào một trang sách mở rộng. Đó là lúc tôi mơ ước có được một chiếc áo mưa tử tế, hai túi nhóc đầy những hạt lạc rang nóng hổi., những mơ ước, những thèm khát nghĩ thật nhỏ, tầm thường và vô nghĩa đốivới những người con gái khác…
Rồi những ngày mùa hè qua đi, với những trận mưa mỗi ngày một thêm tầm tã. Ngọc thi đậu chân thư ký trong một cơ quan nghiên cứu của chính phủ. Từ làm hướng dẫn viên cho một hãng du lịch tư, Mậu chính thức gia nhập ban hợp ca của nhà thờ Đức Bà. Những con bạn thân nhất lần lượt có việc làm. Cuộc sống mới làm chúng xa tôi. Thỉnh thoảng gặp nhau, tôi cũng chỉ còn nghe được ở nơi Ngọc những than phiền về cảnh đời công chứùc… Từ khổ sở nhục nhã kể chuyện bao lần nếu không khéo léo chắc đã rơi vào tay ông giám đốc, ông chủ sự. Và, bà giám đốc này, chị giám đốc kia thỉnh thoảng lại đến chỗ Tứ lườm nguýt và đe dọa. Mậu say sưa với những bài thánh ca, muốn bỏ học đi tu luôn để đỡ phải lo cơm áo.
Rút lại, cuối cùng chỉ còn có mình tôi châng lâng. Mình tôi chao qua chao lại trên những con đường mưa mù mịt. Những con đường lạnh lùng ném trả cho tôi chiếc bóng còm cõi và những bước chân rời rã, cô quạnh.
Những trận mưa cuối mùa đến với những ngày khai giảng niên học mới. Tôi không còn cách nào khác: làm quen với giảng đường với cours, với bài. Những ngày đầu của đời sống sinh viên bất đắc dĩ, tôi ném thả tôi vào các sinh hoạt nhào nháo của một đám thanh niên mới lớn, cùng tuổi. Tôi theo chúng nhảy cửa sổ. Tôi theo chúng lê lết từ hội quán qua câu lạc bộ. Tôi tiêu phí thời gian vô vị trống rỗng của mình trong một nhịp sống mới, nhịp sống của con trai. Tôi như một đứa con trai. Khô trân. Cứng trơ và nhâng nháo. Bách, Cự, Kim, Sang, Tuấn, Thạnh… Tôi sống không suy nghĩ, chẳng lựa chọn. Tôi sống với ảo tưởng đã quên được mình, quên được ngày tháng. Quên quá khứ, quên tương lai và cũng chẳng chút ý niệm về hiện tại. Đây là khoảng thời gian tôi tưởng mình đã tạo được một thứ tình bạn mới. Thứ tình bạn không có những thắc mắc, dè dặt, ràng buộc. Chúng tôi như một đám bèo trôi lêu bêu trên một giòng nước đục,. Tôi sống mù lòa như vậy đến hết niên học. Tôi cũng đi thi và thật không thể ngờ, tôi cũng đậu. Tôi cũng chen lấn giữa đám sinh viên lâu nhâu, đi coi bảng, đi lãnh chứng chỉ. Và chỉ khi rời Saigon lên ở với chị Quyến trên phố núi, sự tách mình ra khỏi giòng cuốn trôi vô nghĩa kia, tôi mới có dịp nhìn lại và nhận ra trong suốt khoảng thời gian đó, bắt nguồn từ vô thức, tôi đã muốn chống lại cái đời sống con gái của mình. Tôi muốn thoát khỏi nhữngràng buộc của một kiếp con gái. Chỉ khi đó, nhìn lại, tôi mới thấy tôi thật chẳng thành người. Tôi chỉ là một con múa rối, quay cuồng. Tôi chỉ là một con vụ quay quanh chính mình mà cứ ngỡ mình đang được sống một đời sống khác. Những ngày ở với chị Quyến như tôi đã nói, cũng chẳng hơn gì. Khung cảnh có khác đi, đời sống có khác đi, nhưng tôi, tôi vẫn không chạy thoát khỏi tôi. Tôi vẫn lùng bùng trong một lưới vô hình. Cái màng lưới của định mệnh tồi tệ, nhơ bẩn và tuyệt vọng. Ở đây, có phải chăng, tôi bắt đầu nhận được từ chung quanh, từ đám đông tối tăm những ngắm nhìn, tán tỉnh của những anh giáo (đồng nghiệp đấy) từ những con mắt tráo trâng của những “ông sĩ quan” tuổi còn non choẹt mà mắt mũi, dáng điệu, cử chỉ và cả cách ăn nói lại già chát, ngố nghế, nhăn nheo, hôi hám. Nhưng không hiểu có phải vì cảnh tượng tù túng, nhạt chán của thị trấn khiến tôi không còn chút hy vọng tương lai nào hay vì sự trống rỗng và cô quạnh như núi, mịt mùng như rừng, khiến tôi một mặt vẫn khinh bỉ, một mặt lại hoan hỉ đón nhận những tán tỉnh săn đón kia như một trờ chơi giải khuây, một thứ tiêu khiển đôi khi cũng làm cho thời gian bớt đằng đẵng.
Ở đấy, đều đặn một tháng hai lần, viết thư trả lời cho mẹ luôn luôn tôi phải dối gạt và bằng những câu không thể quên như: “Con thấy con thích hợp với không khí ở đây lắm. Con ăn ngủ được hơn hồi ở nhà. Con lên cân. Con vui vẻ. Con hoan hỉ….” Tương ứng với cái điệp khúc hoài hoài giống như cái kim mòn trên một rãnh đĩa nhựa cũ của bà. “Con thấy thế nào? Ở được không? Hay con về với mẹ? Nhà ta giờ cũng chẳng còn ai! Các anh các chị và cả em con nữa, cũng đã đi rồi! Thôi thì có gì ăn nấy, hơn là để con gái mẹ mới chút xíu tuổi đầu đã phải lo kiếm ăn…”. Quả thực, đôi lúc tôi cũng thấy khó lòng kham nổi cái đời sống bon chen đó.Tôi chưa đủ già dặn để tham dự vào trò chơi giành giựt miếng cơm manh áo. Lần đầu tiên, khi ông hiệu trưởng của ngôi trường tôi dạy gọi tôi xuống văn phòng, đưa cho một phong bì mỏng dính với mắt nhìn gia ơn ban phước: lương tháng của tôi,. Thiếu điều tôi ném trả ông để bưng lấy mặt xấu hổ với những giọt lê tủi nhục. Nhưng rồi tôi cũng qua được. Tôi đã cầm lấy và lủi thủi ra về. Tôi đã cúi gầm trên suốt đoạn đường về nhà chị Quyến. Tôi đưa nguyên phong bì cho chị mà không thể nói được một lời. Và tôi vào phòng mình trước khi chị Quyến kịp thấy những giọt lệ long lanh trong khóe mắt.
Chiều hôm đó, thác mệt, tôi không ăn cơm. Chị Quyến nấu một bát cháo trắng đem vào phòng lúc tôi đang viết ít giòng cho mẹ: “Mẹ cứ yên tâm. Ở đây, con sung sướng lắm. Con ăn được và ngủ được hơn hồi ở Saigon. Chắc là con sẽ lại lên cân nữa cho mẹ coi. Mai mốt con về, có khi mẹ không nhận ra con đâu. Áo dài của con bắt đầu chật hết rồi đấy mẹ”. Chẳng hiểu mẹ tôi có nhận ra đó là điệp khúc mà chẳng lá thư nào thiếu vắng? Tôi nhớ có lần đã nói với Hãn “Mọi người có chung một niềm tự hào, đó là khả năng tự gạt mình và gạt những người chung quanh. Có lẽ đó là điều duy nhất được lập lại nhiều lần trong suốt một kiếp sống”.
Hãn lừ mắt nhìn tôi.Tia nhìn đăm đăm nghiêm trang có ý cảnh cáo, hay khiển trách. Lát sau, chàng nói: “Anh hy vọng tình yêu sẽ cho em thấy, đời sống còn nhiều ý nghĩa khác hơn. Và người ta sống vì thế”.
Khi ấy, chúng tôi đang nằm bên nhau. Tôi dấu mặt mình trong cạnh sườn chàng. Giọng tôi chùng lại: “Em già rồi phải thế không anh?” Hãn lúc lắc cái đầu làm rung động đôi vai: “Những người như em chẳng bao giờ già hết”. “Tại sao?”. “Tại em thiết tha với đời sống. Chính những kẻ chán đời là những kẻ yêu đời hơn cả. Do đó, một ngày nào, tìm thấy ý nghĩa đời sống, họ sẽ hưởng được hạnh phúc, những hạnh phúc mà kẻ bình thường không hưởng được”.
Tôi nghĩ Hãn nói để an ủi, cũng như để dập tắt ngọn lửa hoang mang dao động thường xuyên bùng cháy trong tôi nhiều hơn là một lời nói thật.
Tôi không dám nói ra ý nghĩ của mình, tôi im lặng chìm rơi trong bàn tay vỗ về êm đềm của chàng, như những cơn sóng nhỏ lăn vờn đều đặn một dãi cát ấm. Những lúc đó, tôi thực sự cảm thấy mình được nương tựa, được che chở, được trú ẩn. Anh, liệu anh có mãi là một mái nhà cho sự trú đụt của trái tim, của đời sống em?
Tiếng mẹ tôi nói lớn từ dưới nhà:
- Phiến ơi? Làm gì trên đó vậy, có anh Hữu đến này.
Tôi giả tảng không nghe, tắt ngọn đèn bàn, lăn mình trên tấm nệm tắm đẫm mùi mốc ẩm.
Mưa trên mái ngói. Tôi nhìn thấy những giòng nước ngoằn ngèo trên miếng kính mờ. Trong bóng tối, với hơi nước phà qua hai vách tường, tôi nghe lạnh ở chung quanh chỗ nằm. Xương cốt được dịp dãn ra sau một ngày dồn cứng. Đưa tay vuốt dọc thân thể mình, một nỗi buồn pha lẫn chua chát mọc lên trên từng tấc da thịt khi bàn tay đi qua, tôi bỗng thấy nhớ Hãn như nhớ tới một phần thân thể vừa mất đi. Một quãng đời rực rỡ vừa rơi, khuất. Nỗi nhớ đớn đau và nghẹn xát. Nỗi nhớ quặn thắt xen lẫn cảm giác ngậm ngùi, tủi tủi, như thể cuộc chia tay buổi chiều mới đây là một vĩnh quyết. Quả thực tôi không dám nghĩ đến một lần gặp khác. Dù có thể ngay ngày hôm sau, chúng tôi sẽ gặp nhau chưa chừng. Tôi thường có những phút giây dao động như vậy, mỗi khi xa Hãn. Có lẽ tại tình yêu của chúng tôi mong manh quá. Có lẽ đôi khi tự thâm tâm, tôi tự thấy mình không xứng đáng với tình yêu đẫm ngất của chàng, Và cũng có thể vì ám ảnh tội lỗi, mặc cảm của một đứa con gái mới lớn, yêu người đàn ông đã có gia đình, đã đem đến cho tôi những đe dọa thường trực, những thao thức ngày đêm. Nhưng phải chăng cũng chính vì sự mong manh, cái non yếu rớm máu của cuộc tình mà những giây phút ở bên nhau, bao giờ cũng là giây phút chúng tôi sẵn sàng để làm tất cả mọi việc, bất chấp đám đông. Bất chấp hoàn cảnh. Ngồi giữa quán, tôi vẫn có thể luồn tay vào ngực chàng. Đứng giữa nhà tôi vẫn dám nói với chàng “hôn em đi”. Tôi biết như vậy là quá quắt. Như vậy là không được. Không được một chút nào hết nhất là chúng tôi đang sống giữa xã hội đông phương, xã hội Việt Nam. Một xã hội đã bị chiến tranh đục ruỗng…
Tôi biết, nhưng tôi cứ làm. Tôi không cần. Bởi tôi thấy tôi, rõ hơn ai hết. Với hai mươi năm làm người, tôi đã được sống bao ngày? Với hai mươi năm làm người tôi đã được hưởng những gì? Không. Không gì hết. Kể cả cái mà người ta thường ngợi ca: tuổi thơ. Tôi không có tuổi thơ. Dĩ vãng tôi chỉ còn là những ngày ầm vang tiếng súng, những ngày chạy loạn, những ngày tản cư. Tôi không phải là người dễ bị đánh lừa với những thêu dệt hoa bướm về tuổi thơ. Nhưng khi cần, tôi lại có khả năng tự đánh lừa mình, đánh lừa chung quanh. Chẳng hạn như tôi đã đánh lừa mẹ tôi: những ngày sung sướng ở phố núi. Tôi đã tự đánh lừa mình khi mặc khoác cho việc vào đời kiếm sống quá sớm bằng những viện dẫn ý nghĩa cao cả, thiêng liêng.
Nhưng bây giờ, tôi đã mất cái khả năng đó. Tình yêu đã tước bỏ ở tôi những chiếc áo ảo tưởng. Tình yêu đã cuốn trôi và phủ sạch tất cả mọi lớp son phấn mà tôi tự thoa sát trên mặt nổi của đời sống mình.
Đã đến lúc tôi muốn và tôi phải, bằng mọi cách sống với ước muốn, với khao khát tự nhiên của trái tim. Dù đời sống tôi chọn lựa, có là một đời sống nhìn thấy trước, khốn quẫn, nói được ngay, oan nghiệt. Con đường trước mặt là con đường dẫn sâu xuống một đường hầm tăm tối. Đó là điều tôi đã nhìn thấy trước. Trực giác đã gióng hồi chuông báo hiệu ngay từ gặp mặt đầu tiên, khi chúng tôi chưa có dịp để nói với nhau một lời gì. Tôi nhớ, khi chàng rời thị trấn, tôi viết thư về cho Ngọc, rằng tôi linh cảm định mệnh đã chính thức bủa lưới xuống đời tôi. Người một đời đã đến, giông bão một đời đã chờn vờn trên đường bay oan nghiệt. Tôi cũng nói với Ngọc đó chỉ là linh cảm. Nhưng thường thì ít khi tôi linh cảm sai. Dù trước khi chàng đến, tôi như một tảng băng - trơn tuột, lạnh lùng và vô giác. Rồi cũng chính tôi đã tự tay mở lấy cho mình cánh cửa định mệnh, cánh cửa mở xuống đầu đường hầm tăm tối. Đó là lá thư được viết trong một buổi chiều cuối cùng của tuổi hai mươi. Đó là thời gian cho những hạt mưa cuối cùng của một mùa rơi nốt. Đó là lúc tôi chợt nhìn thấy mình, như một người xa lạ, hay đúng hơn một người thân yêu thất lạc trở về.
Tôi đã sống những ngày đầu của chọn lựa như tự tay ném đi những gói chất nổ, những quả mìn bộc phá, tôi ngang nhhiên đi chơi với chàng giữa thị trấn, Thị trấn của tiếng đồn, của dị nghị, nhỏi nhen, hẹp hòi và ác độc. Nọc rắn đã lần lượt được phun ra phía sau, những nơi chốn chúng tôi đi qua. Thị trấn như lên cơn sốt. Phụ huynh học sinh bàn tán. Đồng nghiệp lao xao. Chỉ có học sinh, những em bé với tâm hồn và trái tim chưa bị tẩm dịch, còn nhìn tôi, nhìn sự kiện xảy ra như một cái gì vừa hoang đường, vừa uy nghiêm rực rỡ. Những ngày chàng trở lên, một lần thêm với phố núi, cùng với những đám mây mù chứa đầy hơi nước ẩm bốc lên từ những thung lũng đen, phả xuống từ những chóp núi xám, là những ngày tôi liên tiếp bỏ lớp, bỏ trường. Những giờ học được dạy vội. Những bảng đen, phấn trắng trở thành tượng trưng của một ràng buộc, giam nhốt giết lần mòn sinh lực, tuổi trẻ. Tôi bứt phá mọi hàng rào câu thúc. Tôi bước qua, và bước đi trên tất cả những thứ đó bằng những bước chân sóc, nhẹ nhàng, vui tươi và không vướng bận. Chàng đến ở cửa trường, tôi chạy ào ra, như một đứa trẻ nhỏ. Chàng đợi tôi ở một đầu dốc, tôi phóng tới như một chiếc lá. Chàng đợi tôi ở đầu ngõ, tôi trốn thoát khỏi nhà, như bay bổng và được dắt đi bởi bàn tay của một bà tiên có quyền phép nhiệm mầu. Chàng đưa tôi tới những nơi tôi chưa hề đặt chân. Chàng đem tôi đến những chốn tôi đã quen thuộc. Nhưng ở đâu cũng cùng có chung một xúc động nồng nàn, đẫm ngất. Thị trấn càng mở to những đôi mắt cảnh cáo nghiêm khắc, tôi càng nhởn nhơ bay múa. Thị trấn càng muốn chụp xuống những móng vuốt cắn xé, tôi càng ngông nghênh ngửa mặt mỉm cười. Tôi hiểu đó là những hành động nguy hiểm ngông cuồng. Tôi hiểu từ phút đó, tôi đã thách thức đám đông, tôi đã bỡn cợt dư luận. Và tôi cũng hiểu đám đông, dư luận chẳng bao giờ buông tha cho một kẻ dám khinh thường, dám ngạo nghễ đứng trên chúng. Nhất là kẻ đó lại là tôi. Một con nhỏ đến với thị trấn như một cái gai, cần phải nhổ. Một cô giáo đến với lớp học như một luồng gió, hay một con sóng lớn cần phải để mắt, dè chừng hay lánh xa nơi ý nghĩ của đồng nghiệp, của ban giám đốc.
Nhưng làm sao họ hiểu, nếu tôi có sống đến ngày đó, cũng chỉ là để chờ đợi cơn giông định mệnh ập xuống đời mình. Làm sao họ hiểu nếu không vì chờ đợi đớn đau và cay nghiệp kia, tôi đã giã từ tất cả, giã từ cơm áo, giã từ bổn phận, giã từ chữ nghĩa…. Và đám mây khổng lồ của cơn giông đã tới. Những trận cuồng phong đầu tiên đã nổi. Tôi lao đao, tôi quay đảo. Nhưng đó là cái chới với lao đảo mà tôi mơ ước. Nhưng đó là cái quay đảo tối tăm mà tôi chờ đợi. Hạnh phúc và ngay cả sự đau khổ, chỉ dành riêng cho những kẻ nào có đủ kiên nhẫn đợi chờ, có đủ thẳng thắn và cam đảm bước tới.
Tôi là kẻ đã chờ đợi nó - những đớn đau nhìn thấy trước - bằng hình ảnh mơ hồ cùa vô thức u mê. Và có lý gì, tôi quay đi. Không. Tôi sống, chỉ để chờ đợi chừng đó. Hãn, Ôi anh. Người mà đám đông lên án. Hãn. Ôi anh, người của một mái nhà. Người chính thức của một người đàn bà và những đứa con. Nhưng, anh lại chính là người một đời của em.
Du Tử Lê
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đi tìm một vì sao: Quê nhà, đất nước, tình người! – Kỳ 1 Suốt hành trình tham gia kháng chiến, mỗi nơi từng sống và chiến đấu đều lưu lạ...