Thứ Ba, 15 tháng 10, 2024

Tan theo ngày nắng vội

Tan theo ngày nắng vội

Góc nắng
Nhự dõi theo những bóng đá in trên vách tường phía trái. Nắng sáng mới vượt khỏi nóc trường học và chiếu xiên từng vạt vào miếng vườn nhỏ của nàng. Miếng vườn có hình chữ nhật méo. Lý do Khuất muốn làm thêm một phòng nữa, nên chàng đã kéo thẳng tường ra tới hàng rào. Khuất định dùng căn phòng ấy làm chỗ chơi cho các con sau này. Căn phòng thêm thênh thang chưa có mái, trở thành giang sơn riêng của mấy con vịt còi và, những sợi kẽm phơi quần áo của Nhự.
Mái chưa có, nhưng ở bờ tường làm thêm lại có sẵn một cửa sổ. Thường chiếc cửa sổ được đóng chặt. Nhưng nếu mở ra, thì đó là nơi gió sông lùa vào mát nhất. Cũng như nắng chiếu vào chan hòa nhất. Nhự không thích mở chiếc cửa sổ đó. Lý do thẩm mỹ nhiều hơn cả. Nếu mở thường xuyên, ngồi ở miếng vườn, dưới hiên trước, mọi người sẽ thấy thông thốc quá nhiều cờ quạt, treo móc ngang dọc. Đó là quần áo, tả lót, của Duẫn và Bím. Chưa kể quần áo của nàng và Khuất. Ngày nào Nhự cũng có ít nhất hai thau quần áo phải chia với nhỏ Tư. Nếu Nhự không thể xả giúp nó thì nàng cũng phải ngâm, hay vò tiếp với Tư một tay. Những ngày nghỉ, nếu Khuất lại bày trò đi câu, dẫn Duẫn theo, thì chiều hôm đó kể như “xong”. Nghĩa là sẽ có thêm một thau quần áo riêng của hai cha con, toàn bùn, cỏ, lẫn với mùi cá, mùi hà, một thứ giun tanh nồng. Chưa kể một vài con bống dừa, một vài con lòng tong đựng trong những lon sữa bò, bỏ quên xó xỉnh nào đấy. Chừng Nhự phát giác được, cá đã chết trương, hay cong oằn, phếch nhợt.
Gió giựt giây cho đám bóng lá nhảy múa trên tường và đem theo tiếng rì rào của những khóm dừa nước mọc kín hai bờ lạch. Buổi sáng muộn, Duẫn và Bím còn ngủ. Buổi sáng cho Nhự cảm giác thanh thản, biếng nhác, uể oải giống như thể đó là một sáng Chủ Nhật bình thường. (Mặc dù kể từ ngày không có Khuất, ngày nào của Nhự cũng là ngày Chủ Nhật).
Làng đã vắng, còn vắng thêm. Trung học đóng cửa. Chợ nhỏ trong làng cũng dẹp. Tiếng Honda nổ dòn, tiếng xe hơi ì ạch đã im bặt. Những chiếc xuồng máy, thuyền đuôi tôm cũng không còn khua vỡ bầu không khí yên lặng của xóm Dừa. Dẻo đất bồi của một nhánh sông Sài Gòn toàn bần và đước, được đổ đất một cách vội vàng, lấy chỗ cho anh em nhà văn, nhà báo có nơi đùm chứa vợ con. Ngay tiếng rao hàng của mấy cô bán rau, mấy bà bán cá, cũng nín căm sau ngày Sài Gòn đổi chủ.
Có nhiều lý giải thích cho sự thay đổi đột ngột này. Một số đã bỏ đi trước ngày đó. Số khác, tự thấy không thể ở, cũng lặng lẽ ra đi, để lại cả chìa khóa cho những người đến sau khỏi phải phá cửa. Những cô bán rau, những chị bán cá, những bà bán hàng bao lâu quen thuộc với Nhự, họ đến trên những con thuyền nhỏ từ những xóm bên kia con lạch, nay bận rộn vô cùng, với những buổi họp, với diễn văn, với cao trào “cách mạng”. Họ đang là những nhân vật quan trọng. Những vai trò... lịch sử! Cả một khu gia cư với trên dưới hai trăm nóc gia, mới đây, giờ chỉ còn một vài gia đình. Hầu hết ở trường hợp của Nhự. Một thứ dở ở, dở đi. Ở thì không được, mà đi cũng chẳng biết đi đâu!
“Cách Mạng” đã đẩy họ ra bên lề cuộc sống.
Họ là những thành phần bị xếp loại liên hệ chế độ cũ. Họ bị liệt vào hạng làm chậm bước tiến của “cách mạng” hay phản “cách mạng”. Tình trạng của họ là chờ đó. Án khổ sai? Án tử hình? Án tù năm, ba năm?... Lơ lửng trước mặt. Nhự không thể biết nàng và hai con nàng đã phạm pháp những tội gì? Nhưng mặt khác, nàng biết, biết thật chắc chắn rằng, nàng đã kết tội. Và sẽ phải đền tội. Đó là tội có chồng và tội sống dưới một chế độ mà nàng không chọn lựa... Tội là công dân của một nước có quá nhiều chế độ, có quá nhiều danh từ!
Đôi khi nghĩ lẩm cẩm, Nhự cho rằng nếu cần phải đi tìm một định nghĩa cho người Việt Nam, thì đó là những người được sinh ra không phải để sống như một con người mà, để sống với danh từ. Những “chùm” danh từ như: Cộng Hòa-Tự Do-Dân Chủ... hay Cách Mạng-Giải Phóng-Dân Tộc...
Là nhũng khẩu hiệu chính trị nên tiếng nào nghe cũng kêu, cũng nổ như... súng. Tùy từng giai đoạn mà người dân được gắn cho cái bảng hiệu nào đó. Hôm qua được gắn bảng “Tự Do”. Hôm nay đã bị coi là phá hoại “Cách Mạng”. Hôm kia cho nhãn hiệu “Giải Phóng”. Nhưng ngay sau đó vẫn có thể bị nhốt, vô chừng!
Càng văn minh tiến bộ bao nhiêu, người ta càng đi đến chỗ giản lược đời sống vào những danh từ bấy nhiêu!
Nhự rùng mình khi nàng chợt thấy cái đầu chỉ còn sọ, đã mất hết lông của một con chó ghẻ đang dí mũi vào khe cửa sắt...
Nhự thấy như không thực, tất cả mọi sự. Mới đó, chỉ chớp mắt, mọi sự đã xáo trộn, đã đổi đời. Mới đó, ngày nào Khuất còn vào ra căn nhà này. Khuất còn ngồi chỗ này, bây giờ Nhự phải coi như Khuất đã chết. Tất cả mọi thứ, mọi vật, còn nguyên đấy. Mọi chốn, mọi nơi, còn đẫm mùi hơi chàng. Chiếc ghế nhỏ kê ngoài hiên, nơi Khuất vẫn ngồi mỗi buổi sáng... Trái mướp “rú” lủng lẳng trên dàn. Những con cá quẫy đớp trong chiếc hồ nhỏ... Ngay đến những mẩu thuốc lá cũng còn nguyên dưới thảm cỏ xanh non trong vườn... Vậy mà Nhự biết chắc, vĩnh viễn, đời đời, không bao giờ Khuất còn một lần trở lại. Một lần ngồi, một lần đứng thêm, giữa ngôi nhà này.
Gối chăn vẫn còn vương vãi những sợi tóc chàng. Trên bàn làm việc, lá thư Khuất viết dở cho bạn, bên cạnh tập báo mở... Tất cả vẫn nguyên vẹn đấy. Chàng qua nhà bạn? Chàng ra quán ông Tư Quắn? Chàng đi mua thuốc lá? Không! Không thể là Khuất đã không còn ở nơi đây! Không thể chàng đã đi khỏi! Chàng đã vượt xa quê hương này, mảnh đất này. Không, Chàng vẫn còn quẩn quanh đâu đó. Không. Không thể là chàng đã chết!
Không biết bao giây, bao phút Nhự đã hét to, đã gào lớn trong chính nàng như vậy. Không biết bao đêm, bao ngày, Nhự bàng hoàng, nhói buốt. Khi một giây phút mơ hồ thấy chồng đi lại. Nhự chập chờn thấy chồng ngồi viết đâu đó. Bất cứ đứng ngồi đâu, Nhự cũng bị những giây phút nửa mê, nửa tỉnh. Những giây phút hồn xác chia ly, thấy lại rất rõ, chồng mình. Để rồi ngay sau đó, nàng lại hốt hoảng thấy mình đã là kẻ khác. Một hồn ma, sống được với thế giới bên kia?
Cảm tưởng chập chờn, phút sống lẫn lộn giữa thực và ảo, đã hành hạ Nhự suốt đêm qua. Suốt một đêm Nhự không hề chợp mắt. Suốt một đêm trí óc Nhự trắng xóa. Thần kinh nàng căng thẳng. Nhự rùng mình, nổi gai ốc với những tiếng động trong nhà. Tiếng bước chân ngoài cửa. Những bóng hình lạ lẫm, đe dọa, thấp thoáng đầu giường, ngoài lá màn, trong phòng khách. Đôi khi Nhự nghĩ quẩn, hay quả thật Khuất đã chết? Và hồn chàng trở về. Đăm đăm đôi mắt buồn bã theo dõi không sót một cử chỉ nào của nàng.
Nhự quyết định sáng nay sẽ đem con về bên ngoại. Nàng không thể sống lâu hơn trong ngôi nhà mênh mông này. Nàng không thể sống lâu hơn giữa ngôi làng hoang vắng này.
Cùng với “cách mạng” mọi vật đã chết. Cùng với “cách mạng” nàng đã không còn gì. Ngay bản thân và hai đứa con nàng. “Thành phần liên hệ với Ngụy”. Mấy chữ vắn tắt đó, đã xác định rõ ràng, hiển nhiên, sự sống của mẹ con nàng đang được tính từng ngày. Được đếm từng phút.
Nhự biết thế. Gia đình nàng biết thế. Chung quanh nàng biết thế. Nhưng Duẫn không biết vậy. Con Bím không biết vậy. Duẫn mỗi sáng tỉnh dậy vẫn hỏi: “Sao bố không về mẹ?” Con Bím mỗi đêm còn lập lại: “Mai mẹ tìm bố về cho con nha!”
“Tìm bố về cho con...” Con Bím đâu biết mẹ nó còn muốn điều đó trăm ngàn lần hơn nó.
“Sao bố không về hả mẹ?” Thằng Duẫn đâu biết mẹ nó phát điên vì câu hỏi ấy.
Chúng đâu biết rằng không những mẹ chúng không thể đi tìm bố về cho chúng, mà ngay cả mạng sống của chúng, của chính mẹ chúng, cũng không còn nằm trong tay bố mẹ chúng nữa.
Nghĩ tới một hai tiếng nữa, anh Phước đem xe đến, đón Nhự ra khỏi ngôi nhà, Nhự ứa nước mắt. Tự dưng Nhự muốn quỳ xuống hôn từng viên gạch, ôm từng cái bàn, ghì từng cái ghế. Tim Nhự như ngừng đập. Máu ứ trào lên cổ. Mỗi viên gạch trong ngôi nhà này, là tất cả kỷ niệm, mồ hôi và nước mắt hai vợ chồng Nhự đổ xuống. Mỗi chiếc ghế, mỗi mặt bàn là bao đêm Khuất thức. Là bao nhiêu giờ Khuất bán phổi trong lớp học. Bao bữa cơm chỉ gồm đậu phụ và rau hái từ bờ lạch. Nay phút chốc, ra đi. Phút chốc, để lại. Phút chốc chỉ còn như một làn khói. Một giải mây vô hình, bay biến.
Nghĩ tới lát nữa rời bỏ, lát nữa quay lưng ra đi, vĩnh viễn, Nhự run rẩy. Nhự rụng rời tay chân. Nàng cảm tưởng như sắp phải bỏ lại chính thịt xương và tim óc của chồng nàng. Của nàng. Và của cả các con nàng nữa. Nhự không bao giờ tưởng tượng, có lúc nàng sẽ không còn bước vào căn phòng, nhìn thấy gối chăn vợ chồng bao năm đã sống. Nàng không thể tưởng tượng rồi những cụm cây này sẽ héo khô. Bầy cá trong hồ sẽ cong cứng khi nước cạn.
Mỗi gốc cây, mỗi con cá, mỗi cọng cỏ là một biểu tượng cho Khuất. Biểu tượng hạnh phúc, tương lai của nàng cùng chồng, bao năm vun quén!
Những giọt lệ nóng như đem theo máu, trào khỏi đôi mắt Nhự hoắm sâu, lăn ngang đôi má hóp. Chúng lăn tới làn môi héo, đôi tay xương cùng những sợi gân xanh chằng chịt. Nhự nhớ, nàng đã nói với Khuất, nếu mai kia nàng chết, đừng đem nàng ra nghĩa địa. Hãy cho nàng một miếng đất trong chiềc vườn con con này. Nhự sợ lắm, sự lạnh lẽo. Nhự sợ lắm, sự phải xa lìa chồng con.
“Hãy cho em, một chỗ nhỏ trong ngôi vườn. Để em còn thấy con. Để em còn thấy Khuất, vào ra, đi lại. Để em còn nghe được tiếng cười. Để em còn thấy được ánh đèn. Bóng tối. Thấy được Khuất ăn. Thấy được lúc con ngủ... Và nếu Khuất chết trước em, em cũng sẽ thuê người đào cho Khuất một cái huyệt. Cũng ngay trong vườn này. Và một cái huyệt thêm cho em. Em sẽ lo cho Khuất đến nơi đến chốn... Em sẽ dặn dò, chỉ bảo các con (lúc ấy chắc chúng đã lớn) cặn kẽ mọi điều. Sau đó, em sẽ tắm rửa sạch sẽ. Em mặc lại bộ áo quần đầu tiên mà Khuất may cho em ngày đám cưới. Em sẽ lạy bàn thờ Khuất. Em sẽ theo Khuất... Em vẫn được nằm cạnh Khuất. Để chúng ta cùng nhìn ngắm hai con lúc đó đã có gia đình. Có thể chúng đã có con. Thịt xương Khuất, cộng thịt xương em, sẽ giúp cho cây hồng giấy lớn mau hơn. Cây liễu, cây dương mua từ bà Tám Ngân Hàng sẽ mượt xanh hơn cành lá...”
Nhưng mà! Khuất ơi, Khuất đã bỏ em, trước khi con chúng ta kịp lớn. Khuất đã bỏ con! Bỏ Bím, bỏ Duẫn mà đi... khi Bím mới bập bẹ gọi “Bố ơi”. Khuất bỏ mẹ con em lại với... “cách mạng”. Với bản án lơ lửng gươm treo: “Thành phần liên hệ với Ngụy”.
Khuất bỏ em, bỏ con, khi cỏ trong vườn chúng ta vừa mới non xanh. Khi một số cây trong vườn chưa kịp mọc. Khi những luống đất vun lên, chưa kịp gieo xuống những hạt giống mai sau.
Khuất! Làm sao em sống? Khuất! Làm sao em có thể tin mình sẽ kinh qua?
Phải chăng, mọi thứ đã như thơ Khuất:
đêm thì dài, thật dài và đặc
chùm rễ đời chờ bóng tối xuyên qua
tôi nhắm tới với trăm ngàn ham muốn
và lắng nghe
đời thảng thốt chung quanh.
chân không động, dù tay vẫn hoài ve vẩy
mắt mở trừng cũng chẳng thể ngó về sau.
ở mãn cuộc, ai kéo màn cho đời tôi yên lặng
phải em không? chẳng lẽ lại là tôi?
sống là kéo mãi sợi dây đời đã dãn
(mãn cuộc)
Và Khuất. Em muốn hỏi lại Khuất câu hỏi đó. Ai? Khi mãn cuộc đời em. Ai? Kẻ nào sẽ vuốt mắt cho em và con chúng ta? Khi Khuất đã biệt mù. Khuất đã mất tăm, bên kia bờ biệt ly, tan tác.
Khuất! Khuất thử nghĩ coi, còn buồn thảm nào hơn, khi em phải tự vuốt mắt mình lúc chết? Khuất! Khuất thử nghĩ coi, còn đâu đớn nào hơn (nói dại) nếu chính em phải ôm xác con vào lòng và vuốt mắt cho chúng?
Mà kìa. Khuất. Em lảm nhảm mất rồi! Khuất ở đâu? Nói với em một lời gì đi. Khuất. Nói với em, bảo em đi, một điều gì. Thí dụ: Không đâu em. Chúng ta không thể chết dễ thế. Không đâu em, Duẫn vô tội. Bím vô tội. Không ai có quyền đem chúng đi đấu tố. Chúng vô can. Tâm hồn, trí óc chúng trắng tinh. Không thể có một lớp học cải tạo nào dành cho chúng. Khuất, nói với em đi. Bảo “cách mạng” hộ em đi, Khuất. Rằng em sẵn sàng chết thay cho các con em. Hãy cho chúng được làm người. Hãy để cho chúng sống. Cho chúng được thấy lại một lần cha chúng. Cho con Bím được một lần gọi khan: “Bố ơi!” Cho Duẫn còn được chơi những món đồ chơi thải ra từ những đứa trẻ nhà khác. Cho Duẫn, còn được một lần thêm, ngồi sau chiếc xe Honda ọp ẹp của bố, chạy một vòng quanh làng, giữa lúc chiều đang tàn. Lúc gió sông lồng lộng thổi, và mùi bùn tanh của con lạch cũng được trộn lẫn trong hơi thở hít vào của lồng ngực lép.
Khuất. Em biết. Em biết, Khuất sẽ chẳng thể nói được một lời nào. Bởi vì Khuất đã đi. Bởi vì em đã khai: “Chồng tôi đã chết!”
Nắng lớn. Tàn lá in trên vách tường, một góc sân, im phắc. Nhự đăm đăm nhìn. Chùm lá in trên tường, mỗi lúc biến dạng, hóa thân thành nhiều hình thù gớm nhớp.
Mắt Nhự vẫn mở lớn. Tia nhìn vẫn đăm đăm. Cho đến khi chùm lá in trên tường thu gọn lại thành một vòng tròn lớn, màu đỏ. Giữa lúc đó, tiếng xe lam ba bánh nổ phành phạch đầu ngã rẽ vào nhà Nhự.
(24-6-76, Calif)
Tiếng chim tiền kiếp
Trời vẫn còn hứa hẹn một cơn giông sau hai ngày gió lớn. Nắng chỉ kịp vàng ấm trong một khoảng thời gian ngắn ngủi buổi trưa. Đường sá vẫn còn nguyên dấu vết của những trận cuồng phong đêm trước. Chiều ập tới thật nhanh với những đám mây đen làm tối xầm cảnh vật.
Trong tình cảnh đó, ngôi quán vốn tối ẩm, lại càng tối ẩm và lạnh lẽo hơn.
Lúc tôi mở cửa cho Niệm bước vào, lòng ngôi quán như một nhà quàn xác mà, quan tài là những chiếc bàn dài xếp ngay hàng thẳng lối, ở hai bên vách tường xám. Bên phải, qua khung gỗ lớn, người ta thấy lờ mờ những nhạc cụ đủ loại, cái nằm, cái đứng, đổ vịn vào nhau, như một đám người chết đã lâu năm, chỉ còn trơ lại những bộ xương sau một cuộc động đất từ nhiều năm trước, vẫn đợi được chôn cất.
Niệm nói:
“Ta ngồi đâu anh?”
Tôi bảo đâu cũng được, trong lúc tay chỉ chiếc bàn gần sát vách tường nhà bếp.
Tiếng nói bất ngờ của Niệm khua động bầu không khí tịch mịch và làm giật mình những lớp bụi thời gian vô hình phủ đầy ngôi quán.
Sự khua động làm xuất hiện từ hành lang nhà bếp, một cô bé mà tôi chỉ thấy duy nhất đôi mắt linh động, trên khuôn mặt khô héo. Sự hiện diện của cô cũng đột ngột rơi vào im lặng như lũ bàn ghế.
Niệm ngồi day mặt về hướng cửa ra vào. Chút ánh sáng của ngọn đèn trong parking rọi qua miếng kính lớn, soi đến Niệm, làm sáng lên vẻ rạng ngời xa vắng. Vầng trán Niệm vẫn là điều khiến tôi chú ý nhất trên khuôn mặt từ nhiều năm qua, đã không được thấy lại. Ngoại trừ những lá thư viết từ ngôi chùa trên núi cao ở ngoại ô Đài Bắc, với những nét đặc thù của phương đông xa khuất.
Đời sống của Niệm thời gian đó, là những buổi sáng sương xuống ướt một bờ giếng. Những bữa trưa xanh trong một lối trúc. Những chiều vàng trong một phòng trai được kết bằng những lóng tre già vân vàng óng, lên nước thời gian... khiến tôi không hình dung được Niệm. Tôi không thể hình dung người-ni-cô-của-tôi đi lại, sống, thở, ăn uống, suy nghĩ, nhớ nhung, buồn bã... trong một khung cảnh xa lạ và mơ hồ như thế.
Chỉ biết thư của Niệm đã như một giòng sông êm đềm đẩy trôi tôi về với một Việt Nam lãng mạn quá xa, tựa như cổ tích!
Chỉ biết thư của Niệm như những lời thì thầm vọng lại từ một gác chuông nào. Và khi những tiếng chuông đã tan hẳn trong không gian tưởng tượng. Điều cuối cùng, còn lại, vẫn là một xót xa, một đau đớn, một ghen tuông, giận hờn, nghi hoặc.
Những ngày gió ở California, những trưa mưa ở Seattle, những chiều tuyết ở Portland, Vancouver, ở Alberta, tôi đã viễn vông nghĩ tới ngày đóng vai một Thiền sư, từ miền núi cao bước xuống. Gậy trúc trong tay, áo đà phất phất. Chân trần dẫm nát mặt đất phương đông - - Đứng lại bên một bờ giếng, bắt gặp người-ni-cô-luân-lạc, đang cúi mặt soi bóng mình trong một mặt gương biếc xanh, với chiếc khăn nâu che đi mái tóc ngắn, hở chiếc cổ nõn cùng những sợi lông măng dẫn xuống một giải lưng thon, hứa hẹn một vòng ôm đắm đuối...
Những ngày gió lớn trên đỉnh đồi Newport Beach, những đêm mưa San Francisco, những chiều thảm thiết kéo lê từng phút trong một vuông sân rất nhỏ ở Costa Mesa, ở Huntington Beach, ở Anaheim, ở Garden Grove, ở Fullerton, ở Santa Ana... hay những sáng như gương trong một quán càphê ở San Jose bên cạnh bằng hữu, tôi đã viển vông nghĩ tối lúc người ni cô luân lạc ngẩng mặt, nhìn lên và, trong đôi mắt thơ ngây đã chín nẫu những mùa trái đau thương quá khứ; hình ảnh mẹ già, thấp thoáng.
Đâu đó, trong mắt lạc loài kia, những câu thơ nói về một tình bạn, nói về một ngọn núi, nói về một nghĩa trang, hay hốt hoảng chìm sâu một tình yêu ủ quá ngày và, chất men trở thành chua, loét... Tôi viển vông nghĩ tới hình ảnh một thiền sư ném gậy trúc, trút đạo y, thả buông tất cả: Tuổi tên, hình tích, sự sống, để chỉ còn biết đôi tay mở rộng và người ni cô ngã vào - Như ngã xuống một vực thẳm êm ái. Một chiếc nôi đã mục rã khát khao.
Tôi đã viển vông nghĩ tới những giọt lệ ứa ra từ đôi mắt chất đầy Sài Gòn. Chất đầy Đà Lạt của Niệm, khi tôi cúi xuống. Hôn nàng.
Niệm nói:
“Em đem về cho anh một ngọn lửa”.
Tôi lắc đầu:
“Anh thích vầng trán em”.
“Nhưng đừng nói với em... giống như một người nào đã ở cùng anh từ quá khứ”.
Tôi gật đầu:
“Ừ. Không. Ta sẽ có một buổi chiều trên ngọn đồi nghĩa trang. Nơi mà Biếc trong ‘Kiếp khác’ đã sống, cùng ông Mậu”.
Tôi châm điếu thuốc đầu tiên bằng ngọn lửa được Niệm đem về, như một kỷ niệm từ phương đông huyền hoặc đó.
Tôi đăm đăm nhìn ngọn lửa, chợt nhận ra câu nói mình chẳng ăn nhập gì đến điều Niệm muốn cảnh giác.
Tôi mỉm cười trong khi bên kia ngọn lửa, chiếc mũi nhọn của Niệm hếch lên, như đôi cánh mỏng của một búp hoa muôn đời không nở hết.
Tôi muốn bảo Niệm: Cho anh cắn lên chiếc mũi đó, mỗi lần trước khi anh hôn em. Đôi môi với những đường cong vẽ thật rõ hình của một phần trái tim. Nhưng tôi im lặng. Tôi không muốn Niệm thấy tôi đang choáng váng, hay thảng thốt trong gặp lại này.
Có dễ tôi đã phá được thói quen nói thật và nói thẳng, những ý nghĩ của mình trước mặt một người con gái. Kinh nghiệm cho thấy sự không thành thật khi phát biểu về một nhan sắc của một phụ nữ, sẽ làm đẹp lòng họ lúc đó, nhưng sau đấy sẽ đầy vất vả!
Chẳng cần ai khen, người phụ nữ nào, thâm tâm cũng đã tự thấy mình đẹp. Luôn cả người vốn không được coi là đẹp.
“Niệm nhớ mẹ ghê nơi. Niệm nhớ Đài Bắc, Niệm nhớ chùa. Niệm nhớ... nhớ cuốn nhật ký của Niệm”.
Bỗng không Niệm nói một hơi những nhớ nhung của nàng, Tôi chờ đợi trong xâu chuỗi nhớ nhung kia, sẽ có phần tôi ở đó. Nhưng tôi nhầm. Niệm chỉ nói tới việc Niệm nhớ cuốn nhật ký của nàng mà thôi. Rồi cũng bất ngờ niệm nói:
“Niệm mập quá phải không anh?”
Tôi buột miệng:
“Niệm xinh hơn trong chờ đợi của anh”.
Niệm cười. Cô bé trong bếp đem ra hai ly nước. Cũng như lúc xuất hiện, cô lặng lẽ như chiếc bóng, khuất vào phía trong.
Tôi thắp ngọn-lửa-Niệm cho tôi.
Bên ngoài, buổi chiều xám ngoét và mệt lả như một người bệnh đã kiệt sức, mặc dù cơn giông chờ đợi vẫn chưa kéo tới.
Niệm nói những ngày ở Đài Bắc thấy gần làm sao quê hương! Muốn về ngay, Saigon. Tôi bảo đừng viển vông nữa. Ở đâu cũng gần quê hương hết. Nếu nghĩ được quê hương vốn sẵn trong máu của mình và người khác.
Niệm nói vừa về tới đây, Niệm đã nghe khá nhiều tin về kháng chiến. Nàng hỏi:
“Liệu có hy vọng gì không anh?”
Tôi đáp:
“Mọi người đã hỏi lẫn nhau câu hỏi đó”.
“Tại ai cũng mong mỏi?”
Tôi nói:
“Sao không hỏi nhau: Mình đã làm được gì cho kháng chiến mà chỉ chờ đợi những gì mình muốn”.
Niệm cười ròn:
“Anh định tuyên truyền Niệm đấy hả?”
Tôi cười theo:
“Ừ. Tại anh biết không thể tuyên truyền được ai, ngoài Niệm”.
“Vậy thì anh sẽ thất vọng”.
Tôi gật:
“Cũng đành”.
Chợt Niệm nghiêm nét mặt:
“Có phải đó là tất cả ý nghĩa của buổi gặp mặt này, giữa chúng ta?”
Tôi hỏi lại:
“Bộ anh chỉ cho Niệm một ý nghĩ đó thôi sao?”
Niệm lắc đầu:
“Không. Nhưng gặp lại, thấy anh gầy và xanh quá. Anh liệu... đấy”.
“Điều quan trọng là Niệm có cảm được điều gì hơn thế?”
Niệm lắc đầu.
Tôi tiếp:
“Vậy thì không phải chúng ta gặp lại nhau sau bao năm, chỉ để nói một chuyện ấy. Nhưng tỷ như đời sống ở đầu dốc, em có đủ sức leo lên?”
“Niệm nghĩ phía trước là vực thẳm”.
“Cho nên...?”
Niệm im lặng. Tôi hiểu điều khó diễn tả nơi Niệm. Tôi có thể đoán được câu trả lời. Nhưng tôi vẫn muốn Niệm nói ra. (Ai cũng vậy, chẳng riêng gì tôi?)
Chưa muốn câu chuyện phải sớm rẽ qua lối khác, tôi hỏi tới:
“Liệu Niệm có dám bước?”
Niệm cười bằng đôi mắt đẹp mà tôi không muốn khen:
“Thí dụ Niệm không?”
“Anh sẽ xô Niệm ngã xuống”.
“Còn anh?”
“Vẫn đứng trên bờ vực”.
Niệm thở ra:
“Niệm đã ở đáy vực một mình từ lâu, dù anh chưa xô Niệm xuống”.
Giọng Niệm nặng, như mang theo cả một cơn mưa. Dường đó không phải là điều mới mẻ, mà chỉ là tiếng vọng từ nhiều năm trước, nay mới dội vang về tới tôi, trong chỗ ngồi giữa buổi chiều này.
Tôi đặt tay lên tay Niệm trên mặt bàn. Rất thành khẩn, tôi nói:
“Anh muốn hôn Niệm”.
Niệm nhắm mắt. Chúng tôi cách nhau một mặt bàn. Và những ly nước hai đứa chỉ mới nhấp môi.
Tôi đưa Niệm đến nghĩa trang trong lúc cổng vào đã bị chặn bởi một dây xích dài móc từ cột sắt này qua tới cột sắt kia. Bảng “stop” treo lủng lẳng giữa đoạn xích võng xuống. Miếng bảng bị gió liếc qua liếc lại mặt đường tráng xi măng, tạo thành những tiếng kêu ê răng.
Chỉ còn cách duy nhất: Đậu xe vào bãi dành riêng cho nhà nguyện.
Không gian im vắng. Không một vẻ gì cho thấy có hoạt động. Có thể nhân viên, ngay đến những chậu hoa, những bức tranh cũng đang thiếp chìm trong một bài thánh ca cầu nguyện sớm, cho những người sẽ đến vào sáng mai, lúc bình minh vừa ló lên tự mặt biển.
Tôi chỉ Niệm thấy ngôi nhà mái nhọn, ngói đỏ, nằm vắt ngang hai ngọn đồi, trên một doi đất nhô cao chặn ánh mặt trời đã xuống phía bên kia sườn đồi thấp.
Niệm hỏi người ta làm gì trong dãy nhà kính đục đó? Tôi nói họ đốt thành tro những người chết không muốn chôn vì ngại tốn kém, gây phiền cho người ở lại.
Niệm cười bảo nếu chết, nàng muốn được chôn hơn là bị đốt thành tro. Tôi hỏi:
“Như vậy, Niệm chưa xứng đáng là một công dân Mỹ”.
Niệm vẫn cười:
“Niệm là loại người thích bắt chước theo Mỹ lúc sống và muốn chết theo kiểu Việt Nam”.
Tôi bảo:
“Chết rồi, Niệm đâu còn biết gì nữa”.
Niệm lắc đầu, lý luận rất con nít:
“Nhưng mà Niệm vẫn sợ. Người ta có thể không sợ phải chết nhưng lại sợ cách chết...”
“Anh đang lần bước đến với cả hai”.
Niệm nghiêm giọng:
“Anh tầm bậy”.
Theo lối đi bên hông dành cho người đi bộ, tôi dẫn Niệm ngang qua một vườn hoa hình tròn, trước khi con dốc dẫn dần lên tới đỉnh một ngọn đồi có khá nhiều những cây cổ thụ lùn xủn. Vỏ cây màu trắng như vỏ đa, nhưng lại có những bông hoa to, đỏ rực như hoa gạo.
Chúng tôi đi giữa những mộ bia nằm sát mặt đất với đầy đủ tên tuổi, ngày sinh và ngày chết. Hình như thói quen trật tự cũng được áp dụng nghiêm chỉnh tại đây. Trẻ thơ một khu. Người lớn một khu. Chỉ không biết rõ một điều, người ta có phân biệt kẻ đã hay chưa có gia đình mà thôi.
Cuối cùng chúng tôi leo lên đến đỉnh đồi, nơi có một vòi nước lúc nào cũng chảy rỉ rả, giúp cỏ mọc rất cao chung quanh.
Tôi bảo Niệm:
“Ngồi xuống đây với anh”.
Niệm ngập ngừng. Nàng quay nhìn con lộ vắt ngang hông khu nghĩa trang.
“Anh đã nằm ở đây rất nhiều buổi trưa. Đừng ngại...”
Tôi nói, Niệm lắc đầu. Nàng bảo không phải thế và khép nép ngồi xuống.
Biển dưới tầm mắt chúng tôi. Buổi chiều cũng mang màu xanh thẫm của thủy triều.
Tôi ngả lưng, dùng hai khuỷu tay chống ra sau làm cái giá đỡ cho chiếc lưng khỏi ngã hẳn xuống mặt cỏ. Gió chạy trên đầu, ngang qua hai ống chân.
Không như trước đây, lần này trở lại nghĩa trang, tôi chỉ thấy tâm hồn trĩu nặng.
Một điều gì giống như mất mát hiện ra rất rõ. Một sự gì giống như điều tôi muốn quên, muốn chôn vùi (ít ra trong lúc này) đã trở về ngầy ngật, lảo đảo, choáng váng thần trí tôi. Tôi muốn hát thầm một câu, hay một đoạn nhạc quen thuộc nào đó. Nhưng đầu óc tôi cũng giống như buổi chiều, đã đen xanh thủy triều.
Niệm dường cũng đang bứt rứt. Nàng muốn xóa đi (hay tìm kiếm) một điều mới mẻ?
Niệm lơ đãng nhổ những lá cỏ quanh mình; bỗng lên tiếng:
“Niệm hiểu tại sao anh đến đây”.
“Phải Niệm muốn cho anh biết, Niệm biết nhiều điều hơn anh tưởng?”
Niệm lắc đầu:
“Không, Niệm chỉ muốn nói, Niệm hiểu mối liên hệ giữa anh và nơi chốn này”.
“Và Niệm đã...”
Niệm cướp lời:
“Không!”
Có thể Niệm đoán sai điều tôi muốn nói. Tuy nhiên tôi không chắc lắm. Tôi thăm dò:
“Không gian hay nơi chốn chẳng mang một ý nghĩa gì đó, nếu nó được ràng buộc bởi kỷ niệm. Nên kẻ nào lạnh nhạt được với nơi chốn, kẻ đó sẽ vô cùng hạnh phúc”.
Niệm đổi thế ngồi. Nàng bó gối. Nhìn từ phía sau, những đường cong lưng Niệm khiến tôi không thể cầm lòng.
“Hạnh phúc chỉ có từ kỷ niệm. Như bông hoa chỉ có thể có từ một giây, cành nào đó”.
Niệm nói. Tôi nhớ lại một đoạn trong lá thư sau cùng, Niệm viết về một buổi chiều hình dung sẽ có trong nghĩa trang. Buổi chiều mang tên Biếc. Buổi chiều mang tên ông Mậu.
Niệm tiếp giọng mạnh dạn, cương quyết:
“Niệm muốn sống hôm nay, để ngày mai sẽ là kỷ niệm”.
“Dù cho nó có là một sâu chuỗi buồn rầu?”
Niệm gật đầu:
“Vâng. Dù cho nó có là một sâu chuỗi những buồn rầu. Tại sao người khác có thể, mà Niệm lại không thể?”
“Ai?”
“Cô Biếc. Thí dụ”.
Niệm trả lời nhanh. Tôi bật cười, kéo vai Niệm.
Niệm ngã xuống. Nàng buông lỏng đôi tay bó gối; rơi nghiêng vào lòng tôi.
Tôi nói:
“Có lẽ cuối cùng, anh là người ngu xuẩn nhất”.
Niệm hỏi tại sao. Tôi đáp, vì tôi không tin tình yêu có một ngày sẽ hết. Tất cả những người đi đến đời tôi, rốt cuộc ai cũng ra khỏi cái tình yêu đó, để đổi lấy một số tiện nghi vật chất, hay cái vỏ ốc tinh thần.
“Niệm rồi cũng thế mà thôi”.
Không hiểu tại sao tôi lại chọn Niệm để bày tỏ điều đó. Tôi nghĩ Niệm không thể hiểu điều tôi muốn nói. Khi nhận ra sự vô lý của mình, bỗng không lòng tôi thắt lại.
Tôi nhớ Tước. Nhớ những ngày mưa sũng nước Saigon. Nhớ đêm xa lộ. Nhớ chiều Hàng Xanh. Nhớ tối Thị Nghè. Nhớ trưa Hồng Thập Tự. Nhớ người thảng thốt cơn mê, tiếng chim tiền kiếp ngõ về hư vô.
Niệm nói:
“Niệm có thể làm được gì cho anh?”
Tôi nhìn Niệm biết ơn:
“Niệm cho anh buổi chiều nay, thế này đã là quá đủ. Anh thường tìm đến đây một mình. Một mình với những mộ bia. Với một phần thịt xương anh đã tan rã dưới cỏ. Và không còn ai nhớ nữa...”
Tôi muốn bảo Niệm, cho tôi khắc lên vầng trán của Niệm con-dấu-đời-tôi chỉ còn một mặt. Không phải là mặt thiên đàng mà, là mặt địa ngục, rực rỡ. Nhưng khi bàn tay Niệm chạm lên mặt tôi... Tôi rùng mình. Lòng nhũn lại.
Tôi tự nhủ:
- Quê lắm. Đừng khóc nhé.
6-82
Cánh cửa
Thỉnh thoảng, những tiếng động bất thường từ con đường nhỏ chạy vắt ngang khu apartment vang động làm người thiếu phụ giật mình, ngừng tay nghe ngóng.
Đêm xuống sâu trong khu phố tồi tàn với những dãy apartment tiếp nhau và những mái nhà có cùng một màu xám đục, như những chiếc móng chân để dài, gọt nhọn, châu vào nhau. Nhưng trong một vài căn nhà, đâu đó, người ta vẫn còn nghe được tiếng TV mở lớn; hay tiếng nhạc vội vã, hối thúc hoặc thều thào...
Trước mặt người thiếu phụ, bừa bãi trên mặt thảm loang lổ vết dầu mỡ, cà phê, kẹo cao su dính bết thành từng vệt dài, như những con đỉa khô dẹp lép; là những món hàng còn nguyên giấy dán giá, hoặc những cuống ghi giá tiền, xỏ qua những sợi giây nylon, nằm tênh hênh, như một khoe khoang lộ liễu.
Những tấm khăn mặt nằm cạnh chai thuốc Aspirine. Những vỉ kim khâu nằm đè lên mấy gói kẹo. Những hộp Alka Seltzer thập thò dưới những cuộn giấy đi cầu còn trong bao bọc có in hình hoa sặc sỡ.
Vương vãi ở góc nhà, một ít vật dụng lộn xộn khác. Hầu hết là đồ nhật dụng.
Cái bàn chải đánh răng. Bịch viết Bic. Dăm ba thỏi kẹo chewing gum. Ít cuộn len. Vài lưỡi dao cạo râu. Dăm hộp súp bò. Ít gói mì gói...
Thiếu phụ thọc sâu vào cái bị xách, lôi ra (có lẽ tự đáy giỏ) một vỉ thịt bò còn tươi. Nàng vứt trước mặt, tay kia, quăng mạnh chiếc giỏ vào một góc nhà.
Chiếc giỏ xách chạm vào cửa closet bật tiếng kêu ọ ọe trên chiếc giường nhỏ phía sau lưng bên tay phải nàng. Lúc này, thiếu phụ mới quay lại.
Trên giường, trong tấm chăn dày, một đứa nhỏ vừa trở mình. Đứa nhỏ chừng trên dưới một tuổi. Da trắng xanh. Mắt nhắm nghiền. Vẫn ngủ. Bên cạnh nó, bầu sữa cạn, xẹp. Thấy rõ những vết ố bám dọc mặt trong của chiếc bình.
Thiếu phụ chăm chú nhìn con. Đứa nhỏ bỗng giẫy giụa như thể trong giấc mơ, nó thấy đang bị đánh đập. Nó thét. Tiếng thét thất thanh, khiến người thiếu phụ cũng giật mình. Nàng đưa tay đập nhẹ nhẹ trên đống chăn mền. Đứa nhỏ khóc nức nở. Người đàn bà vỗ nhanh tay hơn. Nàng ru:
Ầu ơ... con tôi khát sữa bú tay
Ai cho bú thép ngày rày mang ơn
Ầu ơ... gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ... ầu ơ...
Trong đêm, giữa tiếng TV và tiếng nhạc giật, tiếng ru của người đàn bà, cất lên, lọt ra, nghe lạc lõng, trơ trọi, thê lương một cách thảm hại, bất nhẫn.
Càng ru giọng thiếu phụ càng trở nên xa vắng, rời rã hơn. Giả thử đám người dị chủng chung quanh nếu nghe lọt vài tiếng, có thể họ dám nghĩ đó là tiếng vọng, từ một cõi âm u nào, của những oan hồn không thể thoát khỏi dương gian.
Thiếu phụ càng ru bao nhiêu, đứa nhỏ càng khóc lớn hơn bấy nhiêu. Như thể, đứa nhỏ không quen với những cung cách vỗ về, dỗ dành thân ái ấy. Tiếng khóc của nó, mỗi lúc mỗi thêm gay gắt, đôi khi tới chỗ bằn bặt. Giống như có một bàn tay vô hình nào đang xiết chặt thêm chiếc cổ gầy héo của nó.
Giữa những cơn khóc ngất, là tiếng kêu thảng thốt của đứa nhỏ - tiếng kêu tựa cũng phát ra, tự trong cơn mơ: “Mẹ... mẹ... mẹ...” Đó là những tiếng kêu yếu ớt của một con mèo con mới đẻ, nhiều hơn là tiếng kêu của một con người.
Những lúc ấy, thiếu phụ phải ngừng ru để trả lời con bắng một giọng hết sức âu yếm, thiết tha. Cái thiết tha không thể dối trá và, chỉ có thể phát xuất tự đáy lòng của những người mẹ đứt ruột thương con. Nàng đáp:
“Mẹ đây. Mẹ đây con!”
Tuy người mẹ kiên nhẫn và cố gắng, đứa nhỏ, như vẫn không thấu hiểu lòng thương yêu bao la của mẹ. Nó vẫn không tỏ dấu đã nghe lọt tai một câu trả lời nào. Nó vẫn khóc từng chập và, toàn thân rung động dưới lớp chăn dày.
Người đàn bà chừng như không chịu đựng được nữa, nàng bồng nó. Ôm sát ngực.
Hơi hướm của người mẹ có thể đã giúp cho đứa nhỏ cảm thấy yên tâm phần nào. Tiếng khóc của nó, bắt đầu dịu xuống.
Thiếu phụ lại ru con. Lần này nàng ru nó bằng những bài hát ru của miền Bắc.
À... ơi... con ơi con ngủ cho ngoan
Cha con đi chảy nước non Cao Bằng...
À... ơi... cái cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
Làm như người đàn bà cho rằng khi nàng đổi những bài hát ru như vậy, đứa nhỏ sẽ hài lòng hơn và sẽ thôi khóc.
Nhưng dù cho thiếu phụ có ru bằng điệu ru nào và, giọng có ngọt ngào đến đâu, thì đứa nhỏ cũng vẫn khóc tỉ tê.
Chốc chốc nó lại nghẹn ngào, thảng thốt “Mẹ... mẹ... mẹ” Có thể là những lời hát ru của người đàn bà chỉ khiến nó thêm tủi thân, đau đớn?
Cứ mỗi lần đứa nhỏ nấc lên, gọi mẹ như vậy, thiếu phụ lại đổi giọng, đập đập vào lưng con, và trả lời:
“Mẹ đây... mẹ đây con...”
Dưới ngọn đèn treo lơ lửng trên trái bếp, bóng người đàn bà ôm đứa con trên chiếc giường sắt hắt nghiêng xuống mặt thảm, bị những món hàng bừa bộn, cắt xén thành một hình thù sứt mẻ, quái dị.
Một giây bất ngờ, người đàn bà chợt nhìn thấy chiếc bóng của mình trên mặt thảm. Cái hình thù xa lạ, cổ quái khiến nàng bặt tiếng ru...
Giữa lúc đó, ngoài đường hẻm có những tiếng động lớn và, tiếng những bước chân đi thình thịch. Thiếu phụ ôm chặt đứa con vào ngực. Đứa nhỏ, như cũng bị giật mạnh ra khỏi giấc ngủ. Nó cũng thình lình, bặt im tiếng khóc. Có thể đứa nhỏ đã quen với những giờ phút bị bỏ ở nhà một mình, cho nên, nó có những phản xạ tinh nhanh và khôn ngoan hơn những đứa nhỏ khác?
Thiếu phụ liếc nhìn những món hàng đang còn bày bừa trên mặt thảm. Nàng hấp tấp nhoài người ra quơ vội những thứ đó dúi vào gầm giường.
Khi bàn tay thiếu phụ chạm vào vỉ thịt bò, hơi lạnh từ vỉ thịt làm nàng rùng mình. Và người đàn bà khựng lại. Trên khuôn mặt nàng vẻ tuyệt vọng lộ rõ. Nàng ngồi bệt xuống. Khi không, những giọt lệ lăn trên đôi má nàng hóp sâu, giữa lúc đứa nhỏ mở lớn mắt ngây ngô nhìn nàng. Nó nhoẻn miệng cười. Nụ cười bình an, hoan hỉ.
Người đàn bà rụt rè hé mở cửa nhưng ngập ngừng, không dám bước vào.
Người đàn ông đeo kính trắng, ngồi sau chiếc bàn lớn đầy hồ sơ, sách báo, tài liệu, ngước mặt, thân mật:
-Mời chị, chị cứ vào.
Người đàn ông đứng lên, dợm bước. Người đàn bà lách vào. Cánh cửa khép lại phía sau với những tiếng động của tấm mành plastic.
Thiếu phụ khép nép ngồi xuống chiếc ghế da lớn đặt trước bàn người đàn ông. Một tay đặt trên bàn, một tay đặt trên đùi. Thiếu phụ im sững như tượng,
Người đàn ông mở lời trước, trong lúc tay lục tìm đống hồ sơ:
- Chị nên khai thật. Phải khai thật tôi mới giúp chị được... Đây rồi. Hồ sơ của chị đây rồi.
Người đàn ông mở tấm bìa màu đỏ, trong đó kẹp nhiều giấy tờ, hầu hết là những bản photocopy.
Thiếu phụ vẫn im sững. Vẻ mệt mỏi và tuyệt vọng như đã giết chết mọi khí sắc trên mặt nàng. Toàn thể khuôn mặt thiếu phụ lúc này, nhìn từ phía nào, cũng chỉ có thể nghĩ đó là một xác chết mới được đem ra từ nhà xác.
Lật nhanh một số trang, đọc lướt những hàng chữ có gạch xanh, đỏ, người đàn ông tiếp:
- Bên cảnh sát cho tôi biết họ bắt được chị lần này là lần thứ ba. Hai lần trước họ đã tha. Lần này, họ nói họ không thể bỏ qua được. Tội ăn cắp ở đây, bị kết án nặng lắm. Tôi không hiểu tại sao chị cứ tiếp tục?
Thiếu phụ vẫn không trả lời. Nét mặt nàng không biến đổi. Vẫn là khuôn mặt nhợt nhạt không khí sắc của một xác chết.
Người đàn ông kiên nhẫn tiếp:
- Tôi muốn giúp chị lắm. Dù sao chúng ta cũng là người đồng hương. Tôi tin, tôi hiểu phần nào hoàn cảnh của chị. Hoàn cảnh chung, của nhiều người! Nhưng chị phải cho tôi biết lý do thực. Thực sự, tại sao chị cứ tiếp tục... Ai cũng có lúc túng quẫn. Nhưng cũng có lúc phải thôi. Đằng này, tôi có cảm tưởng ở chị là một sự thường xuyên... Thường xuyên... Tại sao vậy?
Người đàn ông ngừng nói. Anh chợt cảm giác tiếng nói của anh đang rơi vào khoảng không.
Sự im lặng ngột ngạt chen giữa hai người. Cuối cùng, thiếu phụ mở miệng. Giọng nàng khô khan, không che giấu vẻ bất cần, liều lĩnh của một kẻ đã cùng đường:
- Tôi cần những thứ đó.
Người đàn ông tỏ dấu hài lòng về sự mở miệng của thiếu phụ:
- Để gửi về Việt Nam?
- Phải.
- Chị còn nhiều thân nhân kẹt lại không?
- Nhiều
- Là bao nhiêu?
- Tất cả. Trừ tôi.
Người đàn ông ngả ra, dựa vào lưng ghế, ngước mặt lên trần nhà:
- Tôi cũng vậy. Kẹt hết. Trừ tôi và vợ con.
Một thoáng im lặng lại đi qua. Lần này sự im lặng diễn ra trong ngậm ngùi, trong tưởng niệm. Như phút tưởng niệm những người đã chết.
Thiếu phụ nhìn xuống bàn tay trơ vơ trên đùi mình. Nàng nói. Giọng nàng không còn đeo cái mặt nạ nghìn cân của phản ứng bướng bỉnh, cùng đường nữa. Lúc này, nàng có lại cái giọng tội nghiệp, thê lương như những lúc phải dỗ dành con trong đêm khuya.

- Chẳng giấu gì ông, tôi qua đây đến hôm nay là đúng hai năm một tháng. Tôi nguyên là một giáo sư trung học. Ông cũng hiểu... thành phần của tôi cũng không đến nỗi nào. Chồng tôi là một sĩ quan bị đi học tập cải tạo. Ông ấy trốn về được... Ông cũng hiểu... chúng tôi không có chọn lựa nào khác ngoài việc vượt biên. Ít năm sau, chúng tôi ra đi. Hoặc sống sót. Hoặc vùi thân đáy biển. Còn hơn để cho chúng tìm ra, đến tận nhà và lại tù ngục. Hiềm nỗi chúng tôi không có tiền! Ông cũng hiểu... (Dường như thiếu phụ thích dùng mấy chữ này để mở đầu cho một câu nói mới?) chúng tôi không còn gì. Không còn bất cứ một thứ gì sau bốn năm sống với Cộng sản. Nhà tôi không còn cha mẹ. Riêng cha tôi, tệ hại hơn, ông bị đưa ra Bắc rất sớm. Tôi còn mẹ và sáu đứa em. Vì tương lai của tôi, vì thương con rể, là nhà tôi, mẹ tôi bán tất cả đồ đạc. Luôn cả ngôi nhà của bà, để lo cho chúng tôi đi. Chúng tôi đi thoát. Và... và (thiếu phụ bỗng nghẹn ngào) chúng tôi có con. Nhưng nhà tôi không muốn sống với tôi, khi con tôi chưa được ba tháng!
Người đàn bà nghiến răng, như cố dằn lại hoặc, kiềm chế xúc động của mình. Nàng nói tiếp:
- Ông cũng hiểu tôi không có chọn lựa nào khác! Tôi phải nuôi bảy miệng ăn ở Việt Nam. Tôi không thể để cho mẹ già và, bầy em dại của tôi biết rằng, ở đây, tôi đang sống những ngày như thế này... Như thế này. Ở đây... Tôi có trách nhiệm... Tôi có trách nhiệm... Ông cũng hiểu...
Người đàn bà ôm ngực. nàng không nói được nữa.
Người đàn ông cúi mặt, lộ vẻ lắng nghe, chia sẻ. Ông hỏi:
- Giờ anh ấy ở đâu thưa chị?
Thiếu phụ lắc đầu:
- Xin ông đừng hỏi.
- Tại sao vậy? Tôi hỏi theo nghề nghiệp. Không hề có ý tò mò hay xúc phạm gì đến...
- Không. Tôi hiểu. Tôi không nghĩ gì hết. Chỉ xin ông đừng hỏi. Vậy thôi.
Người đàn ông vẫn chưa buông tha:
- Chính cảnh sát cũng muốn có câu trả lời ấy.
Mặt thiếu phụ đanh lại:
- Tôi cũng đã nói với cảnh sát là tôi không biết cha đứa con tôi là ai. Ông cũng hiểu... (Thiếu phụ dùng lại ba chữ này. Chưa nói tiếp thì nàng đã đưa tay bưng lấy ngực. Vẻ mặt mặt nàng không lộ đau đớn mà ương quyết.) Vẻ cương quyết của người đàn bà khiến người đàn ông rùng mình, lắc đầu:
- Thôi. Chị không muốn nói thì thôi...
Thiếu phụ sửa lại thế ngồi:
-Tôi đến đây để xin ông một ân huệ. Vậy tốt hơn hết, ông nên trả lời cho tôi biết, ông có giúp tôi hay không? Có hay không? Tôi chỉ cần điều đó.
Giọng người đàn bà trở lại vẻ đanh chắc, lạnh lẽo, bất cần ban đầu.
-Tất nhiên. Tôi nhận lời giúp chị. Tôi đã nhận lời. Tôi chỉ yêu cầu chị trước hết là phải tin tôi và nghe theo những lời tôi hướng dẫn. Vậy thôi.
- Ông bảo tôi phải làm gì?
- Nhận tội.
- Nhận tội?
Thiếu phụ hỏi lại người đàn ông, cùng lúc với những bắp thịt trên mặt nàng co thắt lại, như những miếng cao su hơ trên lửa. Hình ảnh đứa con trong căn phòng ẩm mốc chờn vờn trước mặt nàng. Nàng thấy nó khóc bần bật như có một bàn tay vô hình nào đang xiết chặt chiếc cổ gầy héo của nó.
Tuồng người đàn ông đoán được phần nào ý nghĩ của thiếu phụ. Anh nói:
- Tuy tôi chưa trở thành luật sư thực thụ, những tôi biết, ở trường hợp bị bắt quả tang như trường hợp này, chỉ có cách kêu gọi sự khoan hồng của ông tòa. Nếu chị tiếp tục chối, tòa sẽ triệu tập một bồi thẩm đoàn nhân dân. Tù hay tha ở xứ này, đôi khi cũng tùy thuộc vào sự tốn kém mà tòa án phải trả cho mỗi vụ xử. Chị hãy nghe và tin tôi. Nên nghe tôi... (Người đàn ông nói, như năn nỉ). Dẫu sao, tôi với chị cũng là đồng hương. Thứ đồng hương ê chề, khốn khổ của cảnh đời tỵ nạn...
Trước mắt thiếu phụ lúc này, dường như còn rõ ràng hơn nữa, hình ảnh đứa con trong căn phòng ẩm mốc, và những món hàng ăn cắp được từ các cửa hàng bách hóa hay siêu thị. Ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế da lớn mà người đàn bà có cảm tưởng như chiếc ghế đang lắc lư thay nhịp đong đưa của chiếc võng ru con. Nàng nghe được lần đầu tiên, giọng ru con của một kể nào khác:
À... ơi... con cò đậu cọc cầu ao
Ăn sung sung chát, ăn đào đào chua...
Không phải giọng của nàng. Đúng rồi. Không phải giọng nàng. Nhưng, người đàn bà ứa lệ.
Đứng trước vành móng ngựa, thiếu phụ nói:
- Thưa ông Tòa, tôi nhận có ăn cắp một ít món hàng của siêu thị X., ngày... Ở đường...
Quan Tòa:
- Tại sao chị làm vậy? Chị có biết như vậy là phạm tội không?
- Thưa Tòa, tôi biết. Nhưng tôi phải làm. Tôi phải nuôi mẹ già và 6 đứa em ở Việt Nam.
- Đó không phải là bổn phận của chị. Những người đó có tay chân không? Họ có mắt mũi, đầu óc không?
- Thưa Tòa, không.
Có tiếng cười bật vang cuối phòng xử.
Ông Tòa giận dữ gõ búa:
- Im lặng. Chị kia. Chị định kể chuyện cười trước Tòa hay sao đây?
Thiếu phụ mặt xám ngoét, run rẩy:
- Thưa Tòa không.
- Thế nghĩa là gì?
- Thưa ông Tòa, tôi chỉ muốn nói, người dân, nhất là người dân của một nước thua trận... thì dù cho họ còn đủ tay chân, mắt mũi, đầu óc, thì họ cũng vẫn bị người Cộng sản biến họ thành phế nhân. Phế nhân ở cả hai phương diện thể chất và tinh thần.
-Cách gì Tòa có thể tin được chuyện kỳ quái như chị kể?
-Thưa... tôi chịu. Tôi có chứng minh cụ thể với ông Tòa. Hoặc ông Tòa tin tôi, hoặc không mà thôi. (Thiếu phụ bậm môi, suy nghĩ?) Tuy nhiên thưa ông Tòa, sự kiện tôi liều lĩnh chấp nhận ở tù, bỏ con cho chính phủ nuôi... chỉ vì ít món hàng không quá năm chục bạc, để cứu mạng cả gia đình tôi... thì tôi xin ông Tòa hiểu cho phần nào những gì tôi đã nói với ông Tòa...
Phòng xử im phắc. Hình như mọi người bị choáng váng bởi những điều người đàn bà mới trình bày. Một điều không thể tưởng tượng mà, có thật. Sự choáng váng ặp tới chính ông Tòa.
Lát sau, ông nói:
- Phần chị, chị có thấy còn điều gì cần nói thêm không?
Thiếu phụ vịn cả hai tay vào vành móng ngựa. Dường như chị cảm được hơi lạnh từ mảnh gỗ cong hình móng ngựa, xuyên buốt thân thể mình. Nàng như một tàu lá héo, rũ xuống. Nàng lắc đầu. Nhắm mắt. Buông xuôi.
-Không thưa Tòa. Tôi chỉ có chừng đó điều để nói.
Trước mắt nàng, lúc này, hình ảnh con nàng chao qua, chao lại, cùng tiếng khóc bần bật (như có bàn tay vô hình nào đang xiết chặt chiếc cổ khô héo của nó).
Thư gửi người đàn bà trong truyện.
Thưa chị,
Tôi đã bàng hoàng và xúc động, một buổi tối khi đến thăm anh Sơn ở văn phòng luật sư của anh ấy. Chính Sơn là người kể tôi nghe chuyện của chị.
Trong chúng ta, có biết bao nhiêu bà mẹ, bao nhiêu đứa em, bao nhiêu đứa con từng giờ, từng phút chờ chết giữa quê nhà. Tôi cũng còn kẹt lại một mẹ già. Tôi cũng còn kẹt lại một đàn con. Một bày cháu... Mẹ tôi, con tôi, từ sáu năm qua, cũng đã sống lay lắt bằng những tấm khăn mặt, những thỏi chewing gum, những vỉ alka aeltzer... Chị tôi, bày cháu tôi, từ sáu năm qua, cũng đã phải sống thoi thóp nhờ vào những cuộn chỉ, những vỉ kim khâu, những bánh xà phòng, những cây bút bíc...
Thưa chị, tôi nghĩ tôi hiểu và chia xẻ được với chị ít nhiều. Tôi cũng biết, người Mỹ không thể nào hiểu nổi tại sao người cộng sản lại đồng nghĩa với việc chặt tay, bẻ chân, đâm mù mắt... người dân, những đồng bào, ruột thịt của họ...
Cũng như có một số người Mỹ cho rằng chúng ta bỏ xứ ra đi vì lý do kinh tế! Trong khi họ quên, không một ai có thể chỉ vì lý do kinh tế mà chọn con đường thập tử nhất sinh trên biển cả! Chọn cái chết! Trong lịch sử nhân loại, chưa có một dân tộc nào điêu linh như dân tộc Việt.
Người Mỹ đã lên tới cung trăng, nhưng mặt nào khác, họ lại là những kẻ sống giữa thời tiền sử, khi họ không thể quan niệm rằng, có những người con, những người vợ, những người mẹ sẵn sàng vào tù vì thân nhân của họ, như chúng ta.
Kính thưa chị, tôi cũng muốn nhân đây, bày tỏ lòng kính trọng chị, khi mà một số phụ nữ khác của chúng ta, đã, đang muốn bỏ chồng con, lấy ngoại nhân, chỉ vì cái bề ngoài to lớn và vật chất dồi dào, tưởng chừng như có thể bảo đảm cho họ cả đời...
Riêng chị, chị lại chọn đứng một mình như cây... Ôi! Những ngọn cây cao thấu trời xanh, rễ sâu về tận nguồn cội...
Thưa chị, một lần nữa, nếu tình cờ chị có đọc được những dòng chữ này, xin chị hiểu cho, tôi viết với tất cả lòng ngưỡng mộ và hổ thẹn của cá nhân tôi: Du Tử Lê, đã sáu năm mà vẫn còn sống một cách vô nghĩa nơi quê người!
8-1981
Có không một mùa xanh như ngọc?
Chị Nhã,
Dường như, người ta chỉ nghĩ nhiều đến nhau, muốn nói nhiều điều với nhau, khi người ta đã gần như vĩnh viễn xa nhau, gần như tuyệt vọng trong mơ ước gặp lại mặt nhau. Điều đó, có thể sai với nhiều người, nhưng với tôi thì quả thật là như thế.
Như thế đó, chị Nhã. Năm năm trời xa nhau. Năm năm trời chị em không thấy mặt nhau. Chị biết không, tôi nghĩ, tôi đã nghĩ rất nhiều về chị. Nghĩ về chị, như nghĩ, nhớ về mẹ già. Về những đứa con mồ côi mẹ của tôi còn ở lại. Nghĩ và nhớ về chị Uyển, về anh Dương, về bác Trưởng, về dì Giám, dì Khiêm, chị Công, thằng Chương, cái Gái...
Năm năm trời, ở bên này đại dương, như ở một tinh cầu khác. Một đời sống khác. Tôi chỉ còn là tôi, ở những phút nhớ về. Ở những giây tưởng lại đó.
Năm năm trời, chị Nhã, tôi nhớ mọi thứ. Tôi nhớ đủ điều. Ở tất cả mọi nơi. Trong tất cả mọi thời tiết. Nhớ và nghĩ đến những điều cỏn con, những thứ vụn vặt. Nhớ, nghĩ và thương yêu cả những người mà trước đây tôi vốn ghét. Nhưng sau hết, nhiều hơn cả, vẫn là nhớ và nghĩ đến chị. Có lẽ tại chị có cùng tôi, bên tôi trong suốt tuổi thơ lủi thủi của chúng ta. Cái tuổi thơ đầy nắng cháy, vàng ứa trên hai chiếc sân phơi thóc mênh mông... Cái tuổi thơ rét ngọt ủ những nắm ngô hay lạc rang nóng hổi trong túi, chơi trò trốn tìm quanh những vựa lúa, vựa ô mai ở dãy nhà ngang.
Tôi nhớ và nghĩ đến chị nhiều, nhiều nữa, trong những trò chơi, mà tôi sung sướng được tham dự - Những trò chơi con gái - Những sợi dây vút qua, vút lại, dưới những bàn chân trần da non, đỏ ửng - Hay những viên sỏi tung lên - trong khi những ngón tay nhỏ xíu chụp vội những viên khác. Chúng ta luôn vội vàng, hấp tấp như thế. Chúng ta chụp lấy những viên sỏi óng trong, trên nền gạch đỏ, như chụp vội những hạt hạnh phúc, những hạt ước mơ thơ dại - Và vì chúng ta vội quá hay chúng ta tham quá, cho nên chúng ta đã chụp hụt, chúng ta đã chạm, đã làm rơi, rơi khỏi kẽ tay chúng ta, những hạt mơ ước ấy...
Nhưng chị Nhã, tôi nghĩ còn nhớ nhiều đến chị, nhiều nhất, nhiều hơn cả (mà chắc chị chẳng tài nào đoán được) - đó là những ngày giáp tết. Những ngày giáp tết của Sài Gòn cũ, của thành phố xưa. Những giáp tết của Sài Gòn, Sài Gòn chứ không Hà Nội - Vì Sài Gòn, Sài Gòn mới thật sự ắp đầy trong ghi nhận của chúng ta. Hà Nội, cái tên quen thuộc nhưng mơ hồ đó, đã nhạt nhòa, thực sự đã nhạt nhòa, nếu không muốn kể như đã chết - thực sự đã chết. Kể từ ngày chúng ta đặt những bước chân đầu tiên lên thang của chiếc máy bay khổng lồ, rời Hà Nội.
Thực sự, thực sự, chính Sài Gòn, đường phố Sài Gòn, thời tiết Sài Gòn, mới là chiếc nôi lớn, mảnh vườn xanh nuôi dưỡng chúng ta lớn. Lớn lên, như ngày nay, như tết này, chị bước vào tuổi bốn hai và tôi vừa hay bốn mươi. Sài Gòn với mấy chục mùa xuân đi qua. Những mùa xuân đi qua trên Sài Gòn, đi qua trên chúng ta. Những mùa xuân đi qua từ những tuổi mười một, mười hai. Đi qua từ những tuổi mười ba, mười bốn, thì chị Nhã, thử hỏi làm sao quên. Làm sao xóa - Làm sao nhòa nhạt - Càng không thể nhòa nhạt trong tuổi già đang đến. Càng không thể nhòa nhạt trong trí nhớ đóng khung - kỷ niệm thu gọn (bởi đời còn đã hết).
Chị Nhã, dường như tôi đã không nói được điều tôi muốn nói. Dường như nãy giờ, tôi chỉ nói quanh. Nói quanh một điều nào lẽ ra phải nói. Dường như tôi sửa soạn để nói đến điều đó. Nhưng như đã bảo với chị là tôi có quá nhiều điều để nói, nên càng sửa soạn, càng rào đón, tôi càng đi xa hơn ý định. Điều buồn cười, điều đáng tội nghiệp cho những kẻ không có khả năng diễn tả ý mình ở chỗ đó. Đã lúng túng, y càng lúng túng hơn. Đã khó nói, càng nói nhiều, y càng khó quay lại - Tôi là kẻ suốt đời cứ lúng túng loanh quanh như vậy đó, chị Nhã ạ. Cũng như mấy chục năm, sống gần nhau, tuy cùng một thành phố, chỉ cách vài con đường mà cả năm chị em chỉ gặp nhau dăm ba lần, trong những dịp giỗ chạp hoặc tết nhất. Ngay ở những lần hiếm hoi kia, hình như chúng ta cũng chẳng bao giờ có được một lời dịu dàng dành cho nhau. Dù không thể chối cãi rằng giòng máu trong người chúng ta đã khiến nỗi đau đớn của tôi cũng như là của chị. Niềm lo lắng của chị không nói ra, cũng là của tôi. Chúng ta chia xẻ cho nhau tất cả mọi điều. Nhưng hoàn toàn trong âm thầm, trong kín lặng, trong xó góc riêng tư của chị - trong chốn ở, ăn, kín bưng của tôi.
Dường như, chị Nhã, tuổi tác đã đẩy anh chị em chúng ta xa nhau hơn. Xa tới lạnh lẽo. Xa tới quên lãng - Mặc dù sự thực anh Dương, chị Quý chiếm ngự và chĩu nặng trong đời sống của chị và tôi - cũng ngược lại, tôi và chị đã khuấy động thường xuyên, lòng họ. Tôi vẫn cho, cái không hay, cái không tốt lớn lao nhất trong gia đình chúng ta là sự im lặng. Sự giấu đi, sự dè xuống cảm tình của người này trước mặt người kia.
Cung cách đó, thời gian đã thành thói quen, tập quán. Đến đỗi, chúng ta chỉ còn gặp nhau, đủ mặt vào ngày mồng một Tết, hoặc ngày mồng ba (ngày giỗ anh Uyển, và cũng là ngày hóa vàng.) Ở ngày đó, chúng ta cũng chỉ có thể nói với nhau, một đôi câu bâng quơ. Hỏi thăm nhau dăm chuyện lạt lẽo. Lạt lẽo và dửng dưng, như thể chúng ta chỉ mới vừa biết nhau tức thì, chứ không phải chúng ta đã có chung với nhau một cội rễ.
Chị Nhã, cứ lần họp mặt anh chị em đông đủ, vui vẻ đó, chị không để ý đâu, câu đầu tiên bao giờ cũng là câu chị hỏi tôi - “Này cậu, chậu cúc kia tôi mua đấy. Cậu thấy có đẹp không?” - Chị nói và chỉ vào góc nhà, mặc dù những chậu hoa ở phòng khách năm nào cũng chỉ có một mình chị mua. Và tết năm nào, thì hai chậu cúc vàng cũng chiếm chỗ tốt nhất cạnh hai chiếc ghế sa-lông, sát tường, bên tay trái, khi đẩy cửa bước vào. Trong khi đối diện với nó là hai chậu quất, trái đỏ chi chít, nhiều đến tưởng như đó chỉ là những chùm trái giả, làm bằng plastic. Và bao giờ thì chị cũng không kịp đợi tôi trả lời (dù câu trả lời của tôi mấy chục năm, cũng chưa bao giờ đổi khác) chị đã tiếp ngay:
“Mà này, cậu biết không, gớm, tôi mua được giá rẻ lắm. Tôi phải trả giá, phải đi tới, đi lui, làm bộ chê bai lắm, mới được giá đó đấy. Chứ mà gặp tay... mơ (chị cứ làm như chị là tay... nhà nghề không bằng) là nó nói thách rồi, mua hớ cả trăm bạc, chứ không chơi đâu...”
Anh Dương ngồi quanh quẩn đâu đó, mặc đồ lính (quanh năm đồ lính - kể cả ngày tết), đang đùa với mấy đứa nhỏ, con anh Quí, hoặc đang lơ mơ đôi mắt đục lờ sau cặp kính trắng, lại khựng lại, hay bật người lên, nói trỏng một câu:
“Khéo vẽ... gặp mấy con mẹ chợ hoa, nó tán cho vài câu, nở mũi, nhắm mắt vào mua, chứ...”
Có thể anh muốn nói “chứ hay hớm gì mà khoe”, hoặc “chứ quí báu gì” - Nhưng tôi luôn kịp thời khỏa lấp quả trùy cuối cùng nặng cả ngàn cân đó của anh Dương bằng cách nói theo chị rằng:
“Vâng! Hoa thế kia mà mua được giá đó là giỏi lắm đấy!”
Hoặc để chị vui lòng hơn:
“Ôi giời ơi, hoa cỏ ở giữa cái rừng hoa đường Nguyễn Huệ như vậy, mà chị nhặt đúng cái chậu đẹp như vậy là cả một kỳ công rồi. Không dễ gì ai cũng làm được đâu!”
Và sau câu trả lời của tôi, chúng ta thường rơi hẫng vào im lặng. Cái im lặng khó hiểu. Cái im lặng kỳ cục không hiểu vì câu nói đâm ngang bửa củi của anh Dương, hay vì sau đó, mỗi chúng ta, đã có ngay trong đầu một hình ảnh, một ý tưởng để theo đuổi, để gậm nhấm với riêng mình.
Chị Nhã, chẳng bao giờ chị biết đâu, riêng lòng tôi, những lúc ấy, là một cõi mênh mông tẻ lạnh.
Riêng lòng tôi lúc ấy, là nỗi chua xót, ngậm ngùi. Cái chua xót, ngậm ngùi của một kẻ bất lực, nhìn thấy tận mắt sự suy sụp, vẻ tàn phai của một hình tượng gần gũi nhất, êm đềm nhất. Tôi muốn nói bóng tối trong mắt chị. Tôi muốn nói những nếp nhăn nhiều hơn trên mặt chị. Tôi muốn nói những sợi tóc cằn khô hơn, ròn vụn hơn trên đầu chị. (Dù cho đó là một mái tóc mới uốn chải để ăn tết!)
Chị Nhã, chị không biết đâu, tôi thấy rõ sự tương phản của những bông cúc vàng trong chậu, và tuổi già trên đôi vai chị nhô cao. Mỗi năm những chậu cúc chị mua về một đẹp hơn. Hoa to hơn, rực rỡ hơn vì sự tiến bộ của phân bón, của ngành trồng tỉa. Nhưng mỗi năm, chúng ta một già hơn. Tàn tạ hơn. Xa cách nhau hơn. Vì chúng ta không phải là cây cỏ. Chúng ta là người. Chúng ta cần nhiều thứ. Những thứ khác hơn phân bón. Và nhất là với chị, với một người phụ nữ, đã đi qua tuổi ba mươi, đã bước quá sâu vào cảnh đời héo khô con gái.
Và sau hết, mỗi năm, mỗi lần tết đến, tôi lại nhớ một chuyện đã cũ, một chuyện nhỏ nhặt, cực kỳ nhỏ nhặt - Nhỏ nhặt đến độ chẳng còn ai nhớ tới, kể cả chị - Đó là giữa cái tết thứ hai của chúng ta ở Sài Gòn - Khi chị làm đổ chậu cúc đặt trên chiếc ghế đẩu, rơi xuống sàn đá hoa, vỡ tan nát, anh Quí tát chị một cái, giữa ngày mồng một. Mẹ lui cui đi dọn và cằn nhằn anh. Lời qua tiếng lại - trở thành to tiếng. Mẹ vào buồng trong, ngồi trên đi-văng, bưng mặt khóc. Chị xuống bếp. tôi không nhớ chị có khóc không. Chỉ biết chị không ăn bữa trưa, hôm mồng một tết đó. Lúc chuyện xảy ra, tôi mới mặc xong chiếc quần tây bằng vải ka ki mới (chiếc quần mới duy nhất mỗi năm) và một chiếc áo sơ mi cũ, đi ra giữa cửa. Cảnh tượng diễn ra rất nhanh. Thật nhanh, như tôi nhớ thì chỉ trong nháy mắt mà thôi. Và tôi đứng sững giữa ngưỡng cửa của hai căn phòng. Thấy sự giận dữ cực điểm nơi mặt anh Quí. Thấy mẹ già ngồi dựa lưng vào tường, hai đầu gối co sát ngực - và thấp thoáng, qua chiếc cửa sổ lớn, qua sân sau thấy mái tóc thề của chị, rung trên chiếc áo cánh trắng tay phồng... Tôi đã tự hứa. Tôi đã thề với chính tôi - lớn lên - đi làm, có tiền mỗi lần tết đến - Tôi sẽ mua, mua rất nhiều hoa cúc. Tôi sẽ bày cúc la liệt từ ngoài cửa vào tận trong bếp. Tôi sẽ để ngang dọc - cho ai muốn đá, muốn đụng sao cũng được - và một chậu lớn nhất, đẹp nhất sẽ dành riêng cho chị để nhớ những ngày chúng ta còn bé.
Nhưng rồi năm năm, mười năm, hai mười năm... mấy chục cái tết đi qua, tôi đã vào đời. Tôi đã kiếm ra tiền (đôi khi tôi cũng kiếm được rất nhiều tiền), nhưng chưa một lần nào, tôi đem được về nhà, dù chỉ một chậu cúc nhỏ - cho riêng chị!
Bây giờ, sau năm năm, và một cái tết nữa sắp đến, chị đang bước vào tuổi bốn mươi, với một đời chồng nửa đường đứt gánh (một đời chồng mà lửa hương chưa quá một năm!) - Và một mẹ già, mẹ đã quá già, như ngọn đèn dầu trước gió - một bầy cháu côi cút, không mẹ, không cha - Tôi nghĩ chắc bóng tối ở bất cứ xó xỉnh nào, trong ngôi nhà cũ kia, cũng không thể tối bằng bóng tối trong mắt chị - Bóng tối trong một đôi mắt còn đời, nhưng kể như đã hết!
Bây giờ, sau năm năm, và một cái tết nữa, sắp đến, tôi biết rằng không một bông cúc nào, còn có thể nở được dù chỉ le lói, riêng trong tâm hồn chị.
Trong khi đó, bây giờ, ở đây, sau năm năm, mỗi khi mùa lạnh tới, cúc nở đầy đường - cúc ngập vàng mọi lối. Không cần mua, không có tiền tôi cũng có thể hái trộm cho chị, không phải chỉ một bông, mà cả bó, cả bị - Nhưng cách nào, làm cách nào? Chị Nhã - để tôi có thể gửi về chị! Gửi về giữa lòng Sài Gòn đã bị chôn sống. Cách nào? Chúng ta còn có thể có được, dù chỉ một chậu cúc vỡ hay một cành cúc gẫy, khi chúng ta cũng đã quá già, và mỗi kẻ đã cải danh, đổi lốt ở một đầu trái đất.
Chẳng cách nào - chẳng có mùa xuân nào đâu, dành cho chúng ta, một khi chính cõi lòng chúng ta cũng đã héo úa.
Cách nào? Chẳng còn cách nào đâu - một khi chính ta, cũng đã phải tự thú nhận rằng ta đã không còn là ta của những ngày trước nữa.
Mỗi chúng ta chỉ sót lại, cái tên gọi - như một danh từ chỉ đồ vật, đất đá. Những cái tên gọi trơn tru, không một âm vang vọng lên, ngoài tiếng động khô khan, vụn tan của chính tên gọi đó. Như Nhã - Nhã - như Tưởng, Nam, Như Mai - Tú, như Du-Tử-Lê, còn nhạt hơn cỏ, còn nhầy hơn giun, còn ngu ngơ hơn dế chũi...
California, 1979
Ra mắt tôi
Côi cố gắng lấn tới khi trên sân khấu Lãng đang nói gì đó. Hình như chàng đang giới thiệu một ca sĩ. Không phải. Chàng đang nói gì giống như bắt đầu chương trình, ra mắt tờ báo...
Ở bậc cửa ra vào, nghĩa là ở phía ngoài cùng, điểm đứng xa nhất giữa khán giả và người trình diễn, tôi không tài nào nhìn thấy chàng. Đầu người nhấp nhô, như sóng. Tiếng ồn ào như bị dội ngược ra, hắt về phía sau, khiến tôi chỉ nghe được tiếng còn tiếng mất.
Tôi xấn tới. Mặc kệ. Ta phải bước tới. Tôi nghĩ và lợi dụng ưu điểm nhỏ thó của mình. Tôi nghiêng bên tả, nhích bên hữu. Khối người không chuyển động. Tôi biết có những cặp mắt nhìn xuống tôi. Nhìn xuống con bé mặc áo dài đỏ. Mầu đỏ... không biết tại sao tôi đã chọn chiếc áo dài này, cho buổi sáng nay. Cho cuộc tìm kiếm chàng, hay tìm kiếm chính phần đời của mình?
Ba chiếc áo dài đem theo, khi vượt biên, là cả gia tài, vốn liếng quý báu, thiêng liêng nhất của một đời con gái. Ba chiếc áo dài, như thể một gia tài, đúng hơn là tất cả những gì tôi còn giữ được sau năm năm, từ khi chàng bỏ nước ra đi. Đó là tất cả những gì, còn giữ được sau khi bán hết, bán đến cả những chiếc kẹp tóc đắt tiền mà Lãng đã mua cho tôi, thời yêu nhau. Thời Sài Gòn còn, thời quê hương còn, thời tổ quốc chưa vụn nát thành từng mảnh bè trôi vô định trên biển cả.
Ba chiếc áo dài, tôi xếp dưới đáy một ngăn tủ đựng sách học. Của đáng tội, phải nói rõ, nếu tôi không giấu như thế, có lẽ, nó cũng chả còn đến ngày nay. Không phải chỉ vì mẹ tôi không cho giữ nó, mà chính tôi, những ngày đó là những ngày cả gia đình, năm miệng ăn, chỉ có duy nhất nồi cháo loãng, cho một ngày.
Tới ngày vượt biên, nửa đêm, tôi thu dọn hành lý đem theo, may sao, tình cờ xốc lên đống sách vở cũ, lại tìm thấy mấy chiếc áo dài. Mỗi chiếc đánh dấu cho một sinh nhật tôi từ những năm yêu Lãng.
Mỗi sinh nhật, Lãng có thói quen dù túng đến đâu, cũng ráng chạy tiền mua cho tôi một xấp hàng áo dài, và cho tôi đi ăn. Hoặc bò bía bưu điện. Hoặc bò viên hẻm Cao Thắng. Cuối cùng là một ly cà phê ở Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Du, hay một phim ciné nào đó, nếu chàng còn rủng rỉnh. Cùng với sự khuất bóng của Lãng, “tục lệ” tốt đẹp kia, chấm dứt.
Năm năm ở lại, tôi trở thành kẻ lạ mặt với những nơi chốn quen thuộc đó. Năm năm ở lại, với chiếc xe đạp cọc cạch, mỗi sinh nhật, tôi tự cho phép mình ra khỏi cái thực tế phủ phàng của những bữa “cơm cháo”, của những ngày sốt nóng, nằm vùi không có ngay cả một vài viên aspirine. Tôi đạp xe một mình qua tất cả mọi đường phố. Tôi đạp xe một mình, chạy qua những nơi chốn mới ngày nào, tôi có mặt ở đó với Lãng. Tôi có mặt với tất cả rạng rỡ của tình yêu, hạnh phúc ngắn ngủi nhưng ngời sáng như ngọc. Chói lóa như kim cương. Tôi cúi đầu, lặng lẽ đạp xe, ngang qua. Ở mỗi nơi của quá khứ, mỗi chốn của kỷ niệm, tôi đều nói thầm:
“Đây, nơi này, sinh nhật nào, ta đã có với chàng. Ta đã ngồi với Lãng. Ta cũng có và hơn thế, hơn hết những khuôn mặt kia, hạnh phúc. Ta cũng có và hơn thế nữa, hơn hết những khuôn mặt kia, một tình yêu. Nơi này, phải rồi chính nơi này, trước mắt đám đông, có khi chàng hôn ta. Có khi chàng ôm ta. Chàng đã vít đầu ta xuống và nói vào tai ta: Ồ! Yêu dấu. Yêu dấu, Anh yêu em...”
Năm năm ở lại, với năm sinh nhật kế tiếp, tôi mừng sinh nhật mình, như thế. Tôi đi như thế và tưởng tượng. Tưởng tượng đang đi với Lãng. Tưởng tượng nghe được những lời thủ thỉ của Lãng. Tưởng tượng thở được hơi hướm chàng.
Và hôm nay, ở đây, giữa sinh nhật lần thứ sáu, tôi mặc lại chiếc áo xưa, tôi khoác lấy cho mình tâm hồn cũ. Tôi nhen lại, trong tôi ngọn lửa ngất ngây của những xiết ghì lần đầu thời con gái. Khác chăng, tôi đã phải đi trên những con đường mới. Khung cảnh mới. Nhà cửa mới. Cây cỏ, lá hoa không còn là cây cỏ, lá hoa của ngày tháng cũ. Nơi chốn này, với tôi, cũng là nơi chốn không quen. Tuy nhiên, không vì thế mà tôi giảm đi nỗi háo hức, bồn chồn...
Tôi biết hôm nay, chàng “ra mắt” tờ báo. Thật tình cờ như định mệnh, ngày chàng ra mắt tờ báo, cũng là ngày sinh nhật của tôi. Tôi biết Lãng chẳng còn nhớ đâu, ngày sinh nhật của tôi, Làm sao chàng còn nhớ, khi đã năm năm qua. Năm năm, không còn ai nhắc nhở bên tai chàng, sinh nhật đó.
Ngay giữa Sài Gòn cũ, trong giữa biển lớn của tình yêu, bao giờ tôi cũng phải nhắc Lãng.Tôi luôn phải nhắc chàng “Này nhé. Ngày mai, sinh nhật em” - hay - “Đừng quên đó nha, thứ bảy này”. Nhắc như thế, đôi khi Lãng vẫn còn hỏi lại tôi “Thứ bảy, sao cơ!” - “Trời đất, thì sinh nhật em chứ còn gì nữa” - “Ủa. Vậy hả. Sinh nhật? Sao lẹ quá vậy. Mới đây mà...”
Lãng vậy đó. Chàng chẳng nhớ gì hết. Chàng cũng chẳng hề tỏ ra ý tứ. Săn đón hay giả bộ gì cả. Chàng còn hỏi như thể mỗi năm tôi có tới... hai, ba cái sinh nhật không bằng.
Lãng vậy đó. Nhưng chẳng bao giờ tôi có thể giận chàng. Bên cạnh những vô ý vô tứ, Lãng cũng có nhiều điểm rất dễ thương (tất nhiên, bởi vì nếu không thì tôi đã chẳng yêu chàng).
Hình như sự hồi tưởng quá khứ, rất vô thức, xô đẩy tôi len lách hung hăng hơn. Đầu nghĩ, chân bước. Tôi bất kể chung quanh. Tôi bất cần lịch sự. Chen tới. Lấn tới. Bất ngờ, một giọng nói nào nặng chịch ném xuống giữa đầu tôi:
- Làm cái gì mà chen lấn dữ vậy.
Một giọng khác:
- Á á... vừa thôi chứ!
Tôi biết họ đang nói mình, nhưng không ngẩng lên. Tôi dừng bước. Một giọng khác già hơn, chế giễu:
- Ca sĩ hả? Muốn lên sân khấu hả?
Một ít giọng cười hề hề phụ họa.
Tôi không cảm thấy bực tức. Cũng chẳng nghe ngượng ngùng. Trái lại, tôi muốn đáp “ừ hớ” để mọi người tránh chỗ cho tôi đi. Tôi muốn nói: “Xê ra cho tôi gặp Lãng. Cho tôi gặp chàng. Tôi không phải là ca sĩ. Tôi cũng chẳng là gì, trong ban tổ chức. Nhưng tôi muốn... tôi muốn ra mắt chàng. Tôi muốn bay, tôi muốn chạy tới. Muốn một mình, một mình giữa một khoảng không gian không bị chật vướn, để chàng sẽ tức thì nhìn thấy tôi. Để chàng sẽ tức thì nhận ra, màu áo đỏ này, hình vóc ốm o này”.
Tôi ngừng giây lát, rồi chen tới. Bên tai tôi, vẫn ồn ào, từ loa phóng thanh, tiếng Lãng nói, xen vào, như giữa giọng gào thét của biển đâu đó. Tiếng rì rào của những rặng phi lao, những hàng dương của một Vũng Táu, Bãi Sau. Những gốc bàng già cỗi, Bãi Trước.
Qua những lưng, những cổ, những đầu, tôi đã loáng thoáng thấy trên bục gỗ thấp, hình ảnh Lãng.
Chàng vẫn nói. Nói. Giọng chàng như xưa. Ngôn ngữ chàng dùng vẫn vậy. Dường như đã không có thay đổi nào trong việc chàng phải đứng trước một đám đông, hay đứng trước những học sinh của chàng. Lãng kia. Đúng Lãng rồi. Tôi thì thầm, một mình. Lãng kia. Ồ, anh có biết, em đã có mặt ở đây. Giấc mơ gặp lại anh, đã thành sự thực. Khao khát được nhìn lại nhau, giờ đã có thể cầm nắm...
Em không thể biết anh nghĩ gì, ra sao, khi nhìn thấy em. Ý tưởng Lãng sẽ hân hoan, Lãng sẽ mừng rỡ, sung sướng có thể chảy nước mắt, khi Lãng nhìn thấy mình, khiến tôi càng cố gắng hơn, lách tới. Cố gắng tìm lấy cho mình một chỗ đứng, không phải ở “tiền trường”, như văn chương của ông Mai Thảo. Nhưng là một chỗ đứng quang đãng, một chỗ đứng hàng đầu, của lớp khán giả. Để nhờ thế, chàng sẽ dễ dàng hơn, nhận ra tôi. Và nhờ thế, dĩ nhiên, cũng có vẻ tự nhiên, bất ngờ hơn cho sự “ra mắt” này.
Cuối cùng, khi tôi vượt lên hàng đầu của đám khán giả đứng chật giữa hành lang, thì Lãng đã nhường bục gỗ cho một nữ ca sĩ. Tôi đảo mắt tìm chàng. Không thấy. Có lẽ chàng đã lui vào sau cánh gà? Người nữ ca sĩ bắt đầu hát. Một bài hát quen thuộc. Bài hát một thời mà cả tôi lẫn chàng đều thích. Bài “Hoài Cảm”. Tuy nhiên, tôi không chú ý lắm. Tôi đến đây, không để nghe hát.
Tôi tìm Lãng. Tôi tìm lại đời tôi, những tưởng vĩnh viễn mất. Tôi tìm lại tôi, những tưởng đã vĩnh viễn chôn vùi. Bài hát dứt. Tiếng vỗ tay ào ào, như biển cuộn.
Cảm tưởng giống như sóng biển bất giác khiến tôi nổi gai ốc. Tôi nghe hơi lạnh chạy ngược từ đôi chân lên đến bụng, đến ngực và sau chót là gáy. Hình như tất cả tóc trên đầu tôi đều dựng thẳng, đều xóc ngược. Đâm ra...
Tôi nghe nhức buốt ở một nơi nào đó trên thân thể. Tôi nghe máu rỉ... Thoạt tiên hơi âm ấm, rồi lạnh dần ở đâu đấy, in là nó đang chảy dọc theo hai ống chân...
Người nữ ca sĩ nói tên bản nhạc kế tiếp cô ta sẽ trình bày. Tiếng vỗ tay lại ào ào dấy lên. Lần này dữ dội hơn, gấp gáp hơn. Tiếng vỗ tay như tiếng sóng biển dội đập vào đôi màng tang tôi, âm ngân không dứt. Không dứt. Nó kéo dài. Dài mãi. Mỗi lúc một nháng động, chát chúa hơn. Những cơn đau xé rách thịt da trong tôi, cũng nhồi theo tiếng dội vang ấy mà gia tăng. Những giòng máu đâu đó nơi thân thể tôi, cũng ồ ạt tuôn ra, xối xả... Tôi kịp nhận biết mình bắt đầu bị xây xẩm. Tôi kịp nhận ra mình sắp xỉu ngã, sắp hôn mê, như liên tiếp những ngày chưa xa, trên hoang đảo... Tôi biết... Tôi biết...
Nhưng... Không... Không. Mày không được phép xỉu... Mày không được phép ngã... Như mày đã không được phép cắn lưỡi. Không được phép treo cổ... Không được phép gieo mình vào giữa lòng biển cả. Chẳng có gì, chẳng cách nào rửa sạch được mày. Vết ô uế trên thân thể mày ăn vào tận máu. Đã thấm tận xương. Những ô nhục kia, dù cho mày có chết ngay hôm qua, hay giữa hôm nay, thì cũng chẳng vì thế mà tàn phai. Có xóa được đâu, quê hương cũ! Có xóa được đâu Việt Nam xưa! Có giết được đâu, tình yêu lớn. Mày phải sống. Sống với vết nhơ nhuốc thường trực trên thân thể, trong thịt da, trong máu óc của mày. Mày phải sống, sống để “ra mắt” chàng - ra mắt Lãng - ra mắt Lãng với tất cả nhơ nhớp của thể xác.Nhơ nhớp biển đông. Nhơ nhớp của bày thú người reo hò, nhảy múa trên thân thể mày lõa lồ giữa hoang đảo. Giữa trời đất. Giữa mắt nhắm đau thương, bất lực đồng bào, ruột thịt... chính là cái nhơ nhớp cụ thể nhất, tượng trưng cho Việt Nam mày hôm nay. Mày phải sống, phải đem cái nhơ nhớp đó, đi khắp nơi. Phải nói với toàn nhân loại, phải kể với cùng thế giới mày là ai? Biển là gì? Đảo ra sao? Và vì đâu? Vì ai? Mày mang vết ơ uế kia. Không. Mày không có gì để nhục. Trước sau, mày chỉ là một đứa con gái. Một đứa con gái Việt Nam, sau 75. Và Việt Nam sau 75, có thể tượng trưng bằng mày; một đống thịt xương bầy nhầy, trong tiệc liên hoan của thú. Bầy thú người lên cơn bạo dâm. Bày thú bạo dâm liên hoan trong những bữa tiệc thịt người như thế, đã bao năm trên ở ngay trên quê hương, trên đất nước mày. Vì thế, mày phải ra đi. Vì thế, mày trở thành đứa con gái Việt Nam sau 75.
Tôi lảo đảo? Thật sự lảo đảo. In là tôi không còn bảo được tôi. Tôi không thể đứng vững chờ tới lúc chàng trở lại bục gỗ, để nhìn thấy tôi, áo đỏ, đứng hàng đầu đám khán giả. Tôi nghe lạnh? Đúng vậy. Lạnh đều khắp châu thân. Hình như tôi đã la lên. Tôi đã thét. Thất thanh. Tôi đã gọi Lãng, Lãng. Và tiếng vỗ tay, tiếng sóng gào... chấm dứt cùng lúc thân xác tôi đổ xuống mặt thảm. Rồi đèn bật sáng. Tiếng chân chạy. Mọi người ù té chạy? Mọi người xô nhau chạy? Hình như mọi cánh cửa đều được mở ra, cho tất cả người chạy thoát? Luôn cả chàng, luôn cả Lãng.
Trong ánh đèn rực sáng, tôi nằm lõa lồ trên mặt thảm. Hệt như bao ngày, trước đây, tôi cũng đã nằm như thế ở hoang đảo. Và sóng biển và, nhơ nhuốc đã hết đợt này lại tiếp đợt kia, vầy vọc thân xác tôi. Vầy vọc vết thương tôi. Vầy vọc cả mủ và, máu tôi tanh tưởi.
1980
Hạnh phúc tôi riêng

Chỉ cần nhìn vào mảnh vườn trước, người ta cũng đã có thể biết ngay rằng ngôi nhà không được trông nom hay nó thiếu một bàn tay chăm sóc, nói một cách khác.
Buổi sáng, nắng chan hòa trên cỏ, với những khoảng úa vàng vì thiếu nước. Tự nơi khe hở của những miếng gạch tàu lát trên lối đi dẫn lên bậc tam cấp, những viên đá trắng bị che lấp bởi cỏ dại, và rêu bám trên mặt những miếng gạch khiến màu đỏ tươi biến thành màu nâu đất. Cây trúc đào ngang tầm người ngã vào lòng lối đi. Những cành chĩu hoa, như cố gắng vươn dài cánh tay hoa để chạm tới khóm tre già chen chúc xum xuê cũng loe ra, che rợp một phần lối đi. Trên bậc tam cấp, sương đêm còn ướt một khoảng xi măng. Trên đó rải rác những bông hoa giấy bị gió bứt khỏi cành từ nhiều ngày trước. Xác hoa như xác pháo làm nổi bậc màu xanh của cây trầu bà bám vào bức vách mầu đen và làm sáng thêm những bông hoa nhỏ tí nở ra trên đầu những cọng cây nhền nhện. Cánh cửa lớn bằng gỗ dầy im ỉm như đã được niêm chết. Nắm khóa đồng hoen ố chứng tỏ tuổi già của căn nhà, cũng phụ họa hay về hùa với vẻ cổ độ này.
Hàng xóm, những người bản tính nhiều chuyện, tò mò ghi nhận rằng, thản hoặc, vào ban đêm căn nhà có có lúc rộn rã tiếng người. Những ngày khác, nó lạnh lẽo như một nấm mồ. Tuy nhiên, theo ghi nhận của người đàn bà sống trong căn nhà đối diện thì thỉnh thoảng, vào những giờ khắc không nhất định, có một người đàn ông xuất hiện, nhặt những tờ nhật bào vứt trên “drive way”, hoặc thu gom thư từ, giấy tờ nhét căng chiếc thùng thư trước cửa. Ông ta thường ngắm nghía khu vườn bằng một dáng điệu lơ đãng, trước khi vào nhà bằng ngõ garage.
Nhưng kể từ nhiều ngày qua. Không hiểu do biến cố nào, cánh cửa lớn bằng gỗ dày của căn nhà đã được mở rộng. Nếu cần phải nói một cách chính xác, thì dường như nó đã được mở ra vào một buổi sáng thứ hai; ngày xe đổ rác đi qua mỗi tuần; lúc nắng đã chan hòa mảnh vườn trước, và những cành trúc đào ngã vào lối đi đã nắm tay những cành tre ngà, suốt một mùa qua không ngừng xào xạt tiếng lá.
Cô bé rón rén ngồi xuống chiếc ghế bành lớn kê sát cửa ra vào. Chiếc áo đầm đồng phục màu xanh nước biển với những nếp gấp song song chảy xuống lưng chừng đôi chân thon mỏng mảnh. Vớ trắng một phần được giấu trong đôi giày bít màu đen, phần trên là chiếc chemise trắng, vai bồng, cổ khoét lá sen.
Người đàn ông ngồi nơi chiếc ghế cao hơn so với bộ salon kê sát tường. Họ đối diện trong một khoảng cách đủ gọi là xa. Người đàn ông gỡ cặp kính cận khỏi mắt. Ông không giấu được nỗi xúc động.
Trạng thái tình cảm ứa tràn này dường như đã làm căng trở lại những nếp nhăn trên vầng trán ông. Những tế bào già nua cằn cỗi trên gương mặt ông như trẻ lại. Những lượng máu náo nức chảy ngầm nhưng rần rộ, đi vào từng tế bào.
Người con gái ngồi đó. Cô vẫn bất động như tĩnh vật. Như bình hoa hay bông hoa? Không. Trong mắt nhìn của người đàn ông, cô gái không phải là một bông hoa. Nàng là cả một khóm hoa. Một khóm hoa mười giờ, đã nở rộ, đâu đó, trong quá khứ chàng.
Một chùm hoa móng tay đã sống lại trong trí nhớ mịt mù, của những ngày con dốc Hồng Thập Tự đổ xuôi về chân cầu Thị Nghè. Người con gái ngồi đó. Cô không một cánh hoa. Cô là cả một chùm hoa. Những chùm hoa úp xuống như những cái chuông nhỏ tí, thánh thót, ngân nga một điệu nhạc êm đềm đã vắng.
Trái tim cỗi già của người đàn ông sống lại. Những giác quan tưởng đã khép kín vĩnh viễn, bỗng tình cờ, một giây, hồi sinh. Trẻ thơ. Nồng nàn. Như... nắng.
Có những đời người tưởng chừng vĩnh viễn chết đi, bỗng sống lại do một nhắc nhở, hay một trùng hợp tình cờ nào đó của quá khứ.
Ý nghĩ trên tuồng đã thoáng qua trong đầu người đàn ông, khi hình ảnh chiếc P.C. buổi sáng doanh trại hay buổi trưa bên ngoài bức tường thành con đường rợp là Saint Paul. Những ảnh tượng xưa cũ nhập nhòa. Nhảy múa. Tuyệt vọng như đồng tiền bất ngờ được lật qua mặt khác. Mặt của đời sống rực rỡ cháy lại lửa ngọn si mê. Cuồng nhiệt.
Người đàn ông nhắm nghiền đôi mắt. Ông muốn giấu những hạt sương sớm mai long lanh sau bao năm cằn cỗi?
Lúc người đàn ông mở mắt, ông bắt gặp hình ảnh người con gái ngồi bất động với tia nhìn hiền từ, chứa chan tội nghiệp. Những ánh nhìn của một người mẹ dịu dàng, dành cho đứa con ngu dại?
Người đàn ông dang tay. Cô gái a lại. Nàng a vào lòng người đàn ông, như một thiếu nữ a vào lòng người cha mới gặp lại... sau nhiều năm thất lạc.
Lúc này, những đôi mắt cùng khép. Những giọt lệ cùng ứa ra. Cùng ngậm ngùi, chảy xuống. Tuy nhiên, có thể mỗi giòng lệ đã mang theo nó một nỗi đớn đau riêng mà, chẳng ai hiểu rõ.
Mặt trời đứng ngay trên đỉnh đầu cây bơ, nên tàn lá hắt xuống bãi cỏ giống như một cái dù có những chiếc gọng lớn.
Người con gái với đôi chân chim chạy nhảy chung quanh chiếc ghế xếp có người đàn ông ngồi duỗi chân, thư thả.
Người con gái ngắt một bông hoa dại nhú lên giữa đám cỏ xanh mượt. Cô chạy lại phía người đàn ông. Cô hỏi:
- Có đóa hoa nào chẳng bao giờ tàn không ông?
Người đàn ông gật đầu:
- Có đóa hoa trinh tiết
- Tại sao?
- Vì trinh tiết hay lòng thủy chung được truyền người đàn bà này qua người đàn bà khác.
Người con gái lại hỏi:
- Như vậy phải thời gian là đơn vị dài nhất?
Người đàn ông lắc đầu:
- Không. Thời gian là đơn vị ngắn nhất?
- Vậy đơn vị nào dài nhất?
- Tình yêu.
- Ông giảng nghĩa cho Bé đi.
- Vì tình yêu ở ngoài không chỉ thời gian mà ngay cả không gian nữa.
Người con gái lại tiếp tục hỏi thêm:
- Còn nhan sắc? Có khi nào chẳng nhạt phai?
Người đàn ông gật đầu:
- Có. Nhan sắc của kỷ niệm. Nếu người ta có thể nghĩ, kỷ niệm cũng có nhan sắc.
Người con gái đưa một ngón tay vào giữa đôi hàm răng trắng bóng, như ngọc. Đôi mắt cô tròn xoe. Người đàn ông nhìn thấy bóng những chiếc lá bơ lớn lay động trong đó. Người đàn ông mỉm cười. Nụ cười thoáng qua rất nhanh. Nhưng người con gái kịp thời bắt được. Cô vẫn giữ ngón tay út cong trên miệng.
- Thế nào là nhan sắc của kỷ niệm?
Người đàn ông lần nầy thành tiếng. Ông lắc đầu:
-Rất khó để giảng cho bé hiểu thế nào là nhan sắc của một kỷ niệm.
Người con gái bỏ tay xuống, đứng thõng:
- Cái gì ông cũng biết hết cơ mà. Bé tưởng... Hay ông muốn nói với Bé?
Người đàn ông ngồi dậy, sau khi đã điều chỉnh lưng ghế phía sau.
Ông xếp hai chân về một phía, ra dấu cho người con gái ngồi xuống. Ông nói trong lúc bàn tay sần sùi khô cứng lùa vào mái tóc óng như những sợi tơ non. Ông bắt đầu với giọng khó khăn, lúng túng:
- Kỷ niệm... kỷ niệm là phần rớt lại phía sau của những bước chân của đường đời sống mà ta đã đi qua... Tất cả đều biến dạng. Tất cả đều mất hút. Trừ cái phần rớt lại kia. Người a gọi đó là kỷ niệm. Có người nói, kỷ niệm có thể làm sống lại hay chết đi đời sống một lần nữa. Kỷ niệm... (người đàn ông phát tay làm một cử chỉ như để phụ diễn thêm cho điều khó diễn tả trong đầu). Như mười năm nữa, Bé sẽ nhớ lại kỷ niệm của buổi trưa nay. Và như vậy có phải kỷ niệm đã là một nhan sắc chẳng bao giờ tàn phai không?
Người con gái hóm hỉnh quay đầu nhìn sâu vào đôi mắt buồn rầu trở lại của người đàn ông:
- Như hiện tại, ông đang sống lại với kỷ niệm nào? Bé muốn nói kỷ niệm của chín năm, hay mười một, mười hai năm?
Người đàn ông bị lôi tuột ra khỏi giòng sông hồi tưởng mà ông đang dầm mình trong đó.
Với ngỡ ngàng, người đàn ông nói:
- Bé hỏi gì?
Người con gái vẫn tinh nghịch:
- Điều ông đang nghĩ.
Người đàn ông gật đầu:
- Tôi đang sống lại.
- Từ nơi đâu.
- Từ nơi... Bé.
- Bé không tin.
- Người ta chẳng bao giờ muốn tin sự thật. Kể cả Bé. Cũng như người ta không biết rằng nỗi đau đớn khủng khiếp nhất của một cuộc đổ vỡ, không phải là sự chia lìa mà chính là dư âm của chia lìa ấy.
Người đàn ông vừa nói vừa kéo người con gái ngã đầu vào ngực mình. Cô bé ngoan ngoãn nép mặt vào ngực ông. Cô phân biệt được nhịp đập không đều hòa của trái tim cô và nhịp chậm đều của người đàn ông. Cô nói:
- Ông bảo Bé phải tin một sự thật Bé chưa được biết. Phải chăng càng lớn người ta càng trở nên độc đoán và vô lý?
Người đàn ông gọi khẽ:
- Bé.
Người con gái ngước đôi mắt trong veo sát mặt người đàn ông. Ông hôn như cắn nuốt đôi môi cô.
Cô trân người chịu đựng. Có dễ cũng nhiều giây sau, cô mới bật khóc. Người đàn ông vỗ về. Ông nghe lòng mình trùng lại. Hơn ai hết, lúc này, ông hiểu, ông chẳng thể chạy thoát cái nhan sắc của kỷ niệm. Quá khứ. Những vô hình ở phía sau mái tóc bắt đầu bạc. Những đốt tay nhăn từng nếp xếp. Những chiếc sẹo có thêm trên thân thể của người đàn bà đã từng cho ông kỷ niệm.
Riêng người đàn bà đó, có thể đã không nhìn thấy sự vĩnh cửu của kỷ niệm. Cũng như nàng quên - từ bao lâu - vết chàm trên vầng trán nàng, dù cho nó vẫn ở đó. Vĩnh viễn ở đó.
Sau buổi trưa ở vườn sau, cánh cửa lớn bằng gỗ dày lại khép kín. Như cũ.
Những người hàng xóm nhiều chuyện và tò mò nói rằng họ không thấy người đàn ông nhặt báo và lơ đãng nhìn khu vườn phái trước nữa.
Ông ta đã ra đi, sau khi cái nơi hộp thư, một lá thứ không con tem và mở ngỏ. Lá thư có nội dung như sau:
Yêu dấu,
Những tưởng bố có thể sống được với một đời sống khác. Những tưởng bố có thể hồi sinh với những thay thế tinh khôi và trinh trắng. Những tưởng sự chứng minh cho bản chất tự hào, kiêu căng giống đực của bố, có thể quật ngã được những gì yêu dấu đã để lại trong đời sống bố trên mười năm qua... Những tưởng... Những tưởng...
Yêu dấu,
Giờ bố mới biết bố không thể dập tắt được ánh nắng sớm mai, sân trại một ngày cuối năm. Lúc những bông hoa móng tay nở rực một bờ hè. Chiếc P.C., màu jupe lycée. Nụ cười và mái tóc...
Yêu dấu, Giờ bố mới biết bố không thể xé nát buổi chiều trên một cao ốc - nước mắt yêu dấu, giọng hát bố - với Trương Chi. Giấc ngủ ngắn với đớn đau xé thịt.
Cũng bây giờ bố mới biết bố không thể đốt thành tro bụi con đường Đinh Tiên Hoàng. Căn gác xếp Hàng Xanh. Cây cầu Thị Nghè. Đêm Đà Lạt. Sáng Vũng Tàu. Hàng dương bãi sau... Có thịt xương nào đã nát...
Yêu dấu,
Cũng giờ bố mới biết, yêu dấu cũng chẳng tài giỏi gì hơn bố đâu. Một khi chiếc bóng vẫn còn quẩn dưới chân ta. Một khi yêu dấu có nạo đến xương, thì vết chàm vẫn đó.
Yêu dấu,
Mọi cố gắng trốn chạy hay chối bỏ, chỉ cho thấy rõ hơn sự bất lực của ta, ở mặt bên kia mà thôi. Cũng như ở một xó xỉnh nào đó của tiềm thức, bố hiểu yêu dấu vẫn còn thường cầu: “Xin Chúa hãy quay lưng khi chúng tôi yêu nhau, bởi vì chúng tôi không cần ngài chứng giám”.
8.83
Phục sinh chàng
Khi tôi đến tìm Bảng tại nhà riêng của chàng thì Bảng đang mắc bận với mấy người khách. Tôi lặng lẽ vào phòng riêng của chàng, xếp tấm chăn nhăn nhúm với những chiếc gối bề bộn trên giường. Tôi tự hỏi chỉ có một mình Bảng thôi mà sao nhiều gối thế. Có tới bốn chiếc gối trên giường. Một chiếc gối lớn hình vuông, một chiếc nhỏ xíu rất xinh xắn. Tôi liên tưởng đến hai đứa con của chàng mà tôi mới chỉ được nhìn thấy chúng trong ảnh, một gái một trai. Đứa con gái theo chàng thì nó giống mẹ nó như đúc. (Nhưng trong mắt nhìn của tôi, nó vẫn mang nhiều nét của chàng. Nhất là đôi mắt lặng lẽ, đăm đăm và vầng trán rộng, bướng). Đứa con trai nhỏ hơn khỏi cần bàn cãi, nó tạc khuôn chàng từ nét mặt, chân mày tới tướng đứng.
Bảng nói hai đứa con chàng đang sống với mẹ nó ở một thành phố khác, cách nơi chàng ở không xa lắm. Bảng kể tôi nghe khá nhiều về người đàn bà nầy. Nhiều nhất là những ưu điểm của nàng. Mới đầu tôi nghe với tinh thần tò mò, sau với lòng ghen tức. Cuối cùng tôi hiểu, sự ghen tuông của tôi hoàn toàn vô ích. Nếu không muốn nói, chỉ có hại cho tình yêu của chúng tôi mà thôi. Từ đó, tôi hiểu vấn đề của tôi là phải thay thế cho bằng được chỗ của người đàn bà kia, trong tâm hồn chàng. Tôi hiểu, tôi phải chứng tỏ tôi hơn hẳn người đàn bà đã có với chàng trên mười năm sống. Mặc dù có người lại nói với tôi nhiều điều trái ngược, về nàng. Người nói không ai khác hơn, một cô bạn thân của nàng. Tôi không muốn tin những gì mà người ta nói xấu nàng, bởi vì tôi tin Bảng. Tôi tin chàng, dĩ nhiên, hơn bất cứ một người nào khác. Dù cho người đó có là mẹ tôi. Nếu tình yêu chỉ là những mù quáng thì đó lại là những mù quáng cần thiết, để sống. Hạnh phúc cũng chỉ là kết quả của mù quáng. Vậy mà hạnh phúc vẫn luôn có thật.
Lúc chồng hai chiếc gối nhỏ xíu lên trên chiếc gối lớn, tự dưng óc tôi nẩy nở một hình ảnh, khiến tôi không thể nhịn cười. Đó là hình ảnh Bảng công kênh trên vai cùng một lúc hai đứa con của chàng.
Ý nghĩ tinh nghịch kia chưa kịp tắt trong đầu thì Bảng bước vào. Tôi đứng yên hớn hở nhìn chàng chờ đợi. Thay vì Bảng phải chạy tới ôm ghì lấy tôi (như mỗi lần Bảng chợt thấy tôi vừa đặt chân ngưỡng cửa). Bảng cũng khựng lại. Bảng bỡ ngỡ khi thấy tôi lần đầu tiên bước vào phòng riêng của chàng? Từ ngày yêu nhau, chưa bao giờ tôi vào căn phòng vừa là phòng làm việc, vừa là chỗ ngủ của Bảng. Tôi nghĩ Bảng muốn giữ riêng cho chàng cái thế giới nho nhỏ nhoi đó. Bổn phận tôi phải hiểu thế dù chàng không căn dặn.
Sự khựng lại của Bảng khiến tôi chưng hửng. Như con bé chưa kịp cắn cây kem mơ ước của nó thì đã bị người lớn giật lấy. Tôi chợt nghe tủi thân, đau đớn.
Tôi cúi xuống nhìn tấm chăn xếp ngăn nắp. Nhìn những chiếc gối đủ cỡ chồng chất thẳng hàng trên nhau. Tôi muốn hất tung chúng đi. Cho chúng trở lại tình trạng cũ. Tôi muốn vùng chạy ra khỏi căn phòng. Ra khỏi nhà. Nhưng chân tôi chết cứng trên thảm. Thần kinh tôi cũng tê điếng, nhức buốt.
Bảng bước lại. Chàng dịu dàng quàng cả hai tay qua cổ tôi. Khi cánh tay chàng chạm vào da thịt tôi, lúc đó, tôi mới òa khóc được. Bảng xoay tôi quay lại. Tôi nép vào ngực chàng. Nước mắt tôi mặc sức tuôn. Tưởng chừng chẳng tài nào cạn nổi.
Bảng mở cửa cho tôi lên xe. Đêm vang động tiếng nhạc lẻ loi của chiếc radio mở lớn bên kia con lộ hẹp. Tiếng nhạc dân ca với nhịp tay đập trên cây guitar không xao động nổi bóng tối như biển lớn mênh mông trải ra. Trăng khuyết. Hàng cây im. Tiếng động xa. Mùi thơm của loại thuốc lá quen thuộc vẫn đầy trong lòng xe. Tôi ngồi với nỗi tấm tức còn nguyên trong lòng, cùng khá nhiều hân hoan và mãn nguyện. Tôi hiểu Bảng yêu tôi. Tôi hiểu Bảng muốn xin lỗi tôi về thái độ không tế nhị của chàng, trong phòng trước đó. Tôi hiểu Bảng biết tôi đau đớn. Chàng biết tôi tủi thân. Chàng đã nâng cầm tôi lên. Hôn đôi mắt tôi, chàng nói: “Tội nghiệp. Tội nghiệp... con gấu nhỏ của anh”. Bảng chưa bao giờ gọi tôi như thế. Đó là lần đầu tiên. Lần đầu tiên Bảng gọi tôi là con gấu nhỏ. Tôi muốn bật cười nhưng đã ghìm lại được. Tôi nghĩ nếu tôi phì cười lúc đó, chàng sẽ không còn “sợ” tôi nữa.
Bảng nói:
- Em muốn đi đâu?
Trong tôi nỗi hờn giận đã hết. Đoạn phim ngắn quay chậm lại trong đầu cho tôi tận hưởng chất men nồng của ly rượu hạnh phúc nhỏ. Hồi tưởng là cách duy nhất để tận hưởng hạnh phúc hạnh phúc một lần nữa. Tôi nghĩ thế. Trong hơi men còn ngây ngất, choáng váng, tôi đáp:
- Anh biết mà. Chỗ em muốn đến.
Bảng vừa ra dấu cho xe ra khỏi lề, đã ngừng tay quay ngang nhìn tôi.
Dường như Bảng hiểu điều tôi muốn không phải là nơi chốn, mà là một điều gì khác hơn... Tuy nhiên có thể chàng không chắc lắm.
- Có phải em muốn nói đến một điều gì khác hơn một nơi đến?
Tôi gật đầu:
- Chúng ta có nhiều chỗ để đến, nhưng chỉ có một nơi để... về.
Bảng có vẻ hài lòng với cách trả lời của tôi.
Chàng mỉm cười. Đôi mắt chàng dịu xuống, xa vắng. Tôi rất sợ mỗi khi bắt gặp tia nhìn xa vắng nhuộm vẻ quạnh hiu này. Mỗi lần như vậy, không hiểu sao, tôi lại có cảm giác như có một giòng sông nào đang chảy trở lại trong tâm hồn chàng. Hay một cánh rừng xưa nào lại bắt đầu rung những cành lá cũ.
Bảng nói:
- Quả thực ta chỉ có một nơi về. Nhưng đã mấy ai nhìn thấy cõi ta về đó!
Tôi muốn cầm tay chàng, nhưng không dám
- Anh Bảng. Ở tận cùng hoang tàn và đổ nát, vẫn có những bông hoa nở ra, dù muộn.
Chàng đanh nét mặt. Trong ánh sáng nhờ nhờ của trăng và đèn đường. Tôi tưởng như có thể sờ mó được những đường gân cuồn cuộn kéo lên như những sợi thừng trên hai cánh tay chàng bấu chặt nơi chiếc vô lăng. Bảng thở ra:
- Trái tim với sự phối hợp của lý trí sẽ trở thành tên phỉnh gạt tuyệt hảo nhất mà người ta không biết.
Tôi nói:
- Anh muốn nói gì về sự tinh khôn của người con gái?
Giữa lúc không ngờ, Bảng phủ bàn tay chàng lên bàn tay tôi. Chiếc nhẫn to bằng đồng chạm trổ hình ông Phật, đeo nơi ngón giữa của chàng cho tôi cảm giác gai lạnh.
Bảng nói:
- Người đàn bà khôn ngoan nhất là người đàn bà giấu được sự khôn ngoan trong lớp vỏ yếu đuối đẽ tin và tội nghiệp.
Tôi nín thở trong cố gắng nắm lấy những ngón tay chàng. Bảng đang đau đớn? Chàng nhắm mắt. Tôi nói:
- Anh Bảng. Hãy tin rằng em có thể làm được một điều gì đó cho anh... Sự mất hết, đôi khi cũng có nghĩa là có lại tất cả. Một có lại đầy đủ và toàn hảo hơn...
Ý nghĩ này đã nung nấu tôi từ nhiều ngày qua, nhưng tôi không nghĩ là có lúc sẽ nói với Bảng. Tôi biết tôi phải làm gì. Và tôi muốn làm những gì cho chàng. Tôi đến với chàng bằng trái tim vô nhiễm. Tôi đến với chàng không vì gì cả. Nó tự nhiên như gió thổi. Như mưa đã rơi trọn đêm qua. Như đôi mắt chàng đã đăm đăm nhìn khắp thân thể tôi, qua lớp vải trải giường phủ hờ thân thể. Tôi tự nhiên. Như thế. Tôi tự nhiên như sự tụ nhiên CỦA trái tim tôi rung động. nỗi thương xót cồn cào dấy lên. Tự nhiên. Như định mệnh. Tôi biết lẽ ra tôi không nên nói ra. Nhưng đã lỡ, tôi tiếp:
- Anh có nghĩ em tự tin quá chăng?
Bảng ra khỏi xúc động. Chàng khinh bạc:
- Tội nghiệp cho những kẻ ngây thơ nghĩ rằng anh mất cả. Mất hết. Họ không nhìn thấy sự thật là anh muốn mất... anh đã phải cố gắng để đừng có nữa. Để đừng được mất...
Bảng bật cười khan:
- Mọi người đều nhầm lẫn khi nghĩ kẻ ở lại là kẻ thua cuộc!
Tôi ân hận (dù vô tình) đã gợi lại mối thương tâm trong tâm hồn Bảng. Chẳng bao giờ tôi muốn một diều gì tương tự. Tôi chỉ muốn đem đến cho chàng những phút riêng. Tôi chỉ muốn đem đến cho chàng một đời khác. Tôi tin nơi ngọn lửa thương yêu, thắp trong trái tim tôi, đủ xua đuổi lớp bóng tối đã hàng chục năm dầy đặc trong đời sống chàng. Tôi gọi:
- Anh Bảng.
Chàng dịu lại:
- Anh xin lỗi.
Tôi lay bàn tay chàng:
- Em muốn đi nghe nhạc.
- Ở đâu?
- Bất cứ chỗ nào.
Chiếc xe rời lề đường. Bảng đan ngón tay của chàng vào giữa những kẽ tay tôi. Tôi nghe được nỗi cô đơn và sự yếu đuối của tâm hồn chàng qua những ngón tay mềm và ướt đó.
Tối chủ nhật, đã ngoài mười giờ nhưng những nhà hàng vẫn vắng. Trên sàn nhảy một cặp duy nhất lơ đảng dìu nhau theo tiếng nhạc. Những ngọn nến bập bùng cháy trong những bình thủy tinh trên những mặt bàn trải khăn đỏ. Những chiếc bàn ở sâu trong mỗi góc không được thắp nến. Bóng tối như bị dồn cục lại những nơi này. Bảng chọn một trong những chiếc bàn ấy.
Người nữ ca sĩ vừa dứt bản nhạc. Cô cũng chẳng buồn giới thiệu bài kế tiếp. Cô cất tiếng hát ngay. Đó là một bản nhạc mà Bảng rất thích. Đã nhiều lần Bảng lầm bầm hát cho tôi nghe trên những đoạn đường ngắn. Tôi biết tất cả những bài hát ở lại trong Bảng, đều mang ý nghĩa của một vết chém đau thương hay hạnh phúc chói gắt. Tôi nghiệm thấy như vậy, mặc dù chưa bao giờ Bảng nói về tương quan giữa những bản nhạc và đời sống riêng của chàng. Tôi cũng chưa bao giờ hỏi, dù rất muốn.
Cô ca sĩ hát: “Đường em có đi hằng đêm bước qua nở những đóa hoa, ôi dị kỳ - đường em có khi chờ em bước qua, là nghiêng giấc mơ ước thề...”
Mỗi lời hát thốt ra từ nơi cô ca sĩ, vang đến chỗ Bảng ngồi là một mũi tên ghim sâu vào thân thể Bảng. Mỗi giây qua, Bảng một nhăn nhúm, quằn quại như một con thú còn sống bị nướng trên dàn lửa đỏ. Đôi mắt Bảng muốn bật ra khỏi tròng. Những nếp nhăn chạy ngang vầng trán. Thớ thịt ở hai bên má chàng nổi lên. Những hạt mồ hôi rịn từ hai thái dương, cùng những sợi gân ngoằn ngoèo chạy xuống...
Cô ca sĩ vẫn hát, say sưa. Mỗi lúc cô một chìm đắm hơn trong tiếng hát của mình: “Đường dìu ngang bao ngõ đắng cay, dừng chân phút giây, xong chia lìa... Đường dài thêm bao nỗi éo le, dài thêm gió mưa, thêm ê chề... Đường em cứ đi tình ta cứ xây chờ em thoát thai quay đường về...”
Chàng thực sự bị đốn ngã một cách khác. Tôi bị đốn ngã vì tự ái của một người con gái.- Vì ghen tuông như những con sóng bạc đầu ào ào đổ xuống. Tôi đã cầm chiếc ví trên tay. Tôi muốn bỏ ra ngoài. Tôi muốn tức thì chấm dứt buổi tối. Chấm dứt mọi liên hệ giữa hai đứa. Cầm chiếc ví trên tay nước mắt tôi đoanh tròng. Tôi cố giữ tôi khỏi khóc. Tôi cố giữ chân tôi đừng run rẩy lúc tôi bấm những ngón chân xuống để chuẩn bị đứng dậy. Để thình lình bỏ chạy.
Cuối cùng - tôi đã thực sự bị đốn ngã. Tôi không thể đứng lên. Tôi không thể bỏ về. Và nước mắt tôi đã chảy xuống, khi đột ngột chàng bưng lấy mặt. Phản xạ, vô thức hay bản năng nào khiến tôi nhoài người tới. Nắm chặt tay chàng. Những ngón tay móng nhọn của tôi bấu xuống da thịt Bảng. Tôi kéo bật hai bàn tay Bảng ra khỏi mặt chàng. Khuôn mặt Bảng nhợt nhạt hiện nguyên vẹn... Bảng thảng thốt nhìn tôi. Và nước mắt tôi, tiếp tục chảy. Tôi nới lỏng hai bàn tay điên rồ của mình. Bảng lúng túng đặt hai bàn tay lên bàn. Đôi bàn tay chàng khi ấy cũng bẽ bàng, trơ buốt như khuôn mặt.
- Anh xin lỗi em.
Bảng nói. Tôi bật khóc. Cô hầu bàn đem tới hai ly nước. Một tay Bảng nâng ly nước đưa cho tôi, một tay Bảng vụng về chùi những giọt nước mắt trên mặt tôi, luôn miệng:
- Anh xin lỗi. Anh xin lỗi...
Bảng ép tôi phải ngả đầu vào vai chàng. Lúc này tôi thật sự cảm thấy rất rõ tủi hận. Người đàn bà nào đó, cái bóng ma nào đó, luôn luôn lẩn khuất trong tình yêu của chúng tôi. Tôi chống dứt khoát chống lại mọi biểu lộ sự thương yêu và hối hận của Bảng.
Cuối cùng, tôi thua. Tôi đã thua. Như từ lâu, tôi đã bao lần thua như thế, trong cánh tay kìm cứng của chàng. Cuối cùng, tôi lại nép trong ngực chàng như một con gà con ướt nhẹp, nép vào đôi cánh lớn của mẹ. Chàng không ngớt vỗ đều lên lưng tôi. Chàng nói:
- Tội nghiệp. Tội nghiệp con gấu nhỏ của anh. Tội nghiệp... Tội nghiệp...
Những tiếng “tội nghiệp” cứ nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi tôi thiếp đi.
Lúc choàng mắt tỉnh lại, tôi nghe nặng một bên đầu và xương cổ như không còn ngay nữa.
Tôi ngồi thẳng lại. Chàng nhìn sát mặt tôi, nụ cười chế riễu:
- Em uống nước.
Tôi gạt tay chàng ra.
- Em muốn về.
Bảng gật đầu:
- Ta về.
Tôi lập lại và nhấn mạnh chữ cuối cùng trong câu nói của mình:
- Anh Bảng, em muốn một nơi để... về.
Bảng vẫn gật đầu. Đôi mắt chàng lại trở nên đìu hiu, vắng lặng:
- Anh hiểu. Chính anh cũng cần một nơi để... về. Dù cõi đó..
- Có thế nào. - Tôi nói.

Dường như trong giọng nói của tôi đã rền vang mối bi quẫn, cũng như niềm tự tin quyết liệt. Tôi điên trong tự hào: Tôi mới chính là kẻ phục sinh chàng.
Bảng đưa tôi trở về căn phòng của chàng. Chàng cất vào closet những chiếc gối hồi chập tối tôi đã xếp lại ngay ngắn. Chàng gieo mình và kéo tôi ngã xuống, sau đấy.
Tôi khóc một lần nữa, khi Bảng chạm tới da thịt tôi. Tôi nhắm mắt khóc suốt thời gian chàng hồi sinh trên thân thể tôi.
Lúc buông tôi ra, Bảng nói, nghẹn ngào “anh yêu em”. Khi ấy tôi biết dù có bao nhiêu bóng ma vây quanh đời sống chàng thì đó cũng chỉ là những xác chết. Tất cả chỉ là những xác chết, sau khi tự họ đã từ chối đời sống.
Bảng xoay người nằm nghiêng. Chàng chống tay, tỳ cầm, tay kia đặt lên ngực tôi:
- Em ân hận?
Tôi lắc đầu:
- Em muốn anh phải sống. Anh phải được quyền sống.
Lát sau, mặc lại quần áo, đứng trước gương chải sơ mái tóc, tôi thấy rất rõ tôi đã trở thành lượng sống của chàng. Chỉ xin trời đất cho tôi mãi còn được là lượng sống của chàng. Mà thôi.
8-83
Cõi mưa tan
Con mưa được nhìn thấy qua khe hở của những miếng lá sách treo trên khung cửa lớn, nay đã được đóng chết để không thể mở vào chiếc hành lang cắt dọc theo chiều ngang của khu chung cư với nhiều cao ốc chụm lại. Gần cuối hành lang có một ngọn đèn gắn trên trần, nhưng chỉ đủ soi sáng một diện tích nhỏ. Đi tiếp, xa hơn ngọn đèn là khoảng tối mênh mông mà, thỉnh thoảng vệt sáng của những chiếc xe hơi chạy ngang, cho thấy đó là con đường không biết dẫn đến đâu, nơi chốn nào của cái thành phố cũ kỹ này.
Đây là lần thứ ba Hãn bị cầm chân trong một căn phòng ẩm thấp và, đầy giá rét của những trận mưa Cựu Kim Sơn một ngày cuối năm.
Lần thứ nhất, từ năm 1969, trên tầng lầu thứ bảy của một khách sạn nằm gần trạm Greyhoune chính của thành phố, những đêm mưa cuối năm của Cựu Kim Sơn cũng đã khiến Hãn bần thần, bồn chồn với đợi chờ không rõ mặt. Đó là thời mới lớn của chàng. Đó là chuyến xuất ngoại đầu tiên của một thanh niên, đúng hơn của một sĩ quan thuộc một quân lực đã không còn nữa. Khi ấy, Hãn mới hoàn tất một khoa học chuyên môn ở Indianapolis. Chàng lấy Greyhound đi dọc hết chiều ngang nước Mỹ. Từ miền Đông trở về miền Tây, mười lăm ngày trước khi chuyến bay đã định sẵn cho chàng, sẽ cất cánh ở phi trường quân sự Travis.
Mưa ở Cựu Kim Sơn, những ngày cuối năm, khiến Hãn nhớ quê nhà. Chàng nhớ những ngày mưa ở Huế, những tháng sũng nước ở Đà Lạt, Sài Gòn. Ở khắp nơi. Những nơi chốn chàng đã sống, đã hít thở và, nhất là đã để lại những kỷ niệm (chính những kỷ niệm đã làm thành quá khứ đời ta, có phải thế?)
Ở đâu, cuối cùng, bên cạnh Hãn, đến với hãn, mãi mãi, thủy chung vẫn chỉ là những cơn mưa. Những ngày nước-sũng. Những vòng quay cuối cùng của một năm không chờ đợi.
Đã tưởng không bao giờ còn phải hứng chịu những ngày mưa mịt mờ trời đất. Những ngày mưa đem theo tiếng sóng biển vỗ vào chân các bờ đá, gầm cầu và, đỉnh nhọn chọc trời của các cao ốc. Đã tưởng vĩnh biệt Cựu Kim Sơn, từ mười mấy năm cũ, như thơ của chàng ở đâu đó, đã nói ra, đã viết xuống.
Thế nhưng, rồi cũng không đợi chờ, không dự bị, một ngày kia, Hãn đã lại thả những bước chân vô định trên đại lộ Market, trên đường Union. Va hè lớn. Vòng sắt của những tòa nhà sừng sững đá và, tường xám. Chim và những lồng đèn treo.
Cùng với Nguyễn, Hãn đã trở lại thành phố này, một ngày cuối năm và, mưa đã lướt thướt bay qua những cao ốc, rớt xuống những lòng đường hẹp. Ở đấy, những đêm mưa như đem theo trong nó cả tiếng sóng biển vỗ vào chân các bờ đá, vọng lên tự các gầm cầu.
Mưa Cựu Kim Sơn đã giống như một bản nhạc cũ. Trời đất đã giống như một bức tranh chỉ còn toàn màu xám và, những đường nét rất mờ không gợi lên một điều gì khác hơn một nỗi buồn ngổn ngang và, lỏng chỏng.
Lần này, Hãn cũng đang ở giữa một đêm mưa. Như những đêm mưa cũ kỹ kia.
Hãn dự tính trong đầu, khi Quyến trở lại, chàng sẽ cứ đứng im. Như thế. Cho đến lúc Quyến sát sau lưng. Chàng sẽ quay lại. Hôn nàng như thể chàng đã từng hôn nàng nhiều lần trước đó (Sự thực Hãn chưa từng hôn Quyến một lần nào kể từ ngày hai người quen nhau). Hãn hình dung Quyến giống như một khối đá lạnh buốt và đẫm nước trong tay chàng. Lúc buông Quyến ra, Hãn sẽ nói: “Thôi ta đi ăn. Cho anh đến tiệm ăn Việt Nam gần bờ biển. Nơi đó, anh không thấy biển. Nhưng vẫn có biển trong mắt em. Và mưa nữa. Cũng trong mắt em. Mưa trên một mặt biển đầy bão tố.”
Rồi trên đường đến tiệm ăn, Hãn sẽ hát cho Quyến nghe một đoạn ngắn trong một bài hát quen thuộc... Em đến thăm anh một chiều đông giá... em đến thăm anh một chiều mưa gió... đường xa ngại ngần.
Hãn còn dự tính trong đầu, từ tiệm ăn, Hãn sẽ rủ Quyến đến tiệm cà phê quay trên tầng lầu thứ chín. Từ đó chàng có thể nhìn toàn cảnh thành phố Cựu Kim Sơn. Từ cây cầu Golden Gate, đến cây cầu mới bắc qua thành phố Oakland. Mưa sẽ nhận chìm hình ảnh của những cây cầu này và, thấp thoáng trong mưa, chỉ còn những vai cầu trải qua nhiều trăm năm chịu đựng, chứng kiến những đổi thay của thời gian và, lịch sử? Những vai cầu sẽ gợi nhớ đến Huế của cầu Tràng Tiền bắc ngang qua sông Hương. Sài Gòn của những cây cầu Quay, cầu Kiệu, cầu Tân Thuận, Khánh Hội v.v... Và đến một Hà Nội với cây cầu Long Biên bắc qua sông Nhị Hà. (Cái hình ảnh cuối cùng ghi nhớ được trong trí nhớ Hãn lần di cư đầu tiên, khi chàng còn rất nhỏ). Ở đâu, những cây cầu cũng có chung một chịu đựng như nhau: Chứng kiến những đổi thay của thời gian và lịch sử! Hãn sẽ hẹn với Quyến một ngày về thăm quê hương. Hãn bảo Quyến:
“Những giòng sông dù có khác nhau ở ngọn nguồn, cuối cùng rồi cũng chảy về biển. Như những cơn mưa. Dù Sài Gòn, Hà Nội, Nha Trang hay, Đà Lạt, Cựu Kim Sơn hay mưa Huế xưa, cuối cùng cũng chỉ là nỗi niềm. Nỗi niềm của một vòng quay. Bước trở về của một quá khứ. Cũng như ta yêu nhau, ở đâu đó, dưới vòm trời này. Cũng chỉ là những kẻ thất lạc hồn phách, tìm nhau, trên bước đường lưu lạc. Hãy thắp dùm cho anh một ngọn nến nhỏ, trong một ngày tàn năm tàn. Giữa một đêm tháng lụn. Hãy thắp thêm nữa, ngọn lửa trên đôi môi em. Đôi môi mỏng, như những cánh phượng ối, những mùa hè không còn. Không bao giờ còn nữa cho đời ta.
Cùng với mưa, trí nhớ Hãn trôi theo những giòng nước rạt rào đáp xuống vuông sân. Cùng với mưa, trí tưởng Hãn bị lùa thốc theo những cơn gió hút qua chiếc hành lang hẹp mà, tận cùng là bóng tối (đẫm mưa) cùng con đường chỉ nhận ra nhờ những chiếc xe pha đèn... Hãn đứng như thế - Mưa như thế - và căn phòng như thế - cho đến lúc cánh cửa bật mở. Quyến trở lại đem theo gió, mưa và, những hạt nước đính khắp đầu tóc, thân thể, mắt, môi, chiếc áo dài xanh nhạt và, tấm áo len khoác hờ, màu hạt dẻ.
Hãn quay lại. Chàng quên bẵng dự tính đầu trước đấy. Chàng nói:
-Quyến ướt hết.
Quyến cười rạng rỡ mưa trong mắt
- Anh đợi em có lâu?
Hãn lắc đầu:
- Vừa đủ.
Quyến tiến lại gần, tự nhiên, trong khi Hãn trở thành rụt rè, lúng túng. Quyến nói với hai bàn tay xoa nhau:
- Mưa lớn lằm, ở ngoài.
- Anh biết.
- ta đi đâu tìm chỗ ăn chăng?
- Anh không thấy cần thiết nữa. - Hãn đáp và ngồi xuống chiếc sofa kê sát ở vách tường.
- Ngồi xuống đây với anh.
- Em ướt quá - cho em thay quần áo đã. Quyến nói. Hãn ngước nhìn sâu đôi mắt Quyến. Có khi nào chàng muốn tìm một mặt biển bão bùng trong đôi mắt và, một cơn mưa cuối năm, đang rơi trong đó? Chàng hỏi:
- Có cần lắm không?
Quyến bước tới, đứng trước mặt Hãn. Nàng chìa đôi bàn tay đẫm nước. Hãn nắm lấy, kéo nàng ngã vào lòng chàng. Hơi giá từ tay Quyến truyền qua làm Hãn rùng mình.
- Tùy anh. Có điều em sợ.
Hãn gỡ cặp kính cận thị khỏi gương mặt Quyến, trong lúc Quyến nói tiếp:
- Sợ anh bị nhiễm lạnh.
- Chứ không phải em đau?
Không có kính đôi mắt, cả khuôn mặt Quyến nhu ngu ngơ, dại dại. Hãn thấy lòng xót buốt.
... Tụi nhỏ biết thư anh gửi cho Kim. Chúng giấu mất kính của Kim. Kim muốn khóc anh à. Làm sao Kim có lại kính để đọc được thư anh bây giờ. Anh. Cửa sổ và ánh sáng của em... Je t’aime. Et vous, où la mon coeur, pourquoi?
Hãn nhắm mắt lại. Chàng quờ quạng những ngón tay trên khuôn mặt ngu ngơ, dại dại rất tội nghiệp của Quyến. Chàng muốn kể cho Quyến nghe, thay vì chuyện những cây cầu ở quê hương, là chuyện Kim. Kim của bốn, năm năm trước. Kim của vườn Lục Xâm Bảo. Kim của mùa thu Paris - “em bỏ hết để qua bên đây. Qua để gặp anh. Em bỏ học - bỏ tương lai - bỏ bè bạn - bỏ mộng mơ - bỏ tất cả và lập lại từ đầu - ngay tới một ngôn ngữ. Anh có cho em một hy vọng”. và bây giờ Kim vẫn còn ở đâu đó, một căn nhà nào, trong thành phố Đá-Rơi. Nhưng nàng đã không còn là Kim - Nàng sắp có một cái tên khác. Những lãng mạn xưa cũng hết. Những cuống quít xưa, cũng lạnh tuyệt tro than.
- Quyến.
- Dạ.
Quyến nheo đôi mắt không kính ngước nhìn Hãn ngơ ngác. Tiếng gọi đột nhiên, âm vang thất thần, khiến Quyến cũng bàng hoàng, lo lắng. Lát sau, thấy Hãn vẫn im lặng, Quyến phải lên tiếng:
- Anh bảo gì em?
Hãn lắc đầu:
- Hình như trời còn mưa?
Quyến vẫn dịu dàng, ngoan ngoãn:
- Vâng. Vẫn mưa đều anh ạ.
Mai anh đi đến Thành Phố Đá-Rơi.
Quyến ngơ ngác:
- Sao vậy anh?
- Chẳng sao cả. Anh muốn đến đó một lần.
- Anh có điều gì bất thường phải không, Hãn?
Hãn không trả lời câu hỏi, chàng hỏi:
- Ở đó có mưa vào mùa này?
Quyến lắc đầu:
- Làm sao em biết được anh.
Hãn như trong cơn mơ:
- Chắc cũng phải mưa chứ? Ở đây mưa mà.
Quyến kiên nhẫn, chịu đựng:
- Vâng. Chắc có mưa ở đó.
12-81
Pho tượng
Cô bé hỏi người lính:
- Tết năm nay nữa, ông bao nhiêu tuổi?
Hình như người đàn ông không chờ đợi câu hỏi bất ngờ đó nơi cô gái. Ông gỡ điếu thuốc khỏi môi. Điếu thuốc bị ngậm chết ở một vị trí khá lâu/có lẽ thế/cho nên khi được gỡ ra, một lớp giấy mỏng còn dính lại nơi môi. Người đàn ông gỡ bỏ lớp giấy mỏng trước khi trả lời cô gái:
- Tôi già rồi.
- Bao nhiêu và thế nào mà ông cho là già?
Người đàn ông nâng tách cà phê lên nhưng không uống ngay, trong lúc cô gái nghịch cái thìa trong tay và mắt chờ đợi:
Nghĩ một lát, mỉm cười, đặt tách cà phê xuống, ông nói:
- Như cô và tôi, chúng ta đã ở hai đầu dây ngăn cách. Chúng ta như hai cực của một ngày. Tôi đã xế chiều và cô mới bình minh. Khi cô thực sự bình minh, thì đó là lúc tôi vào sâu bóng tối.
Người lính nhìn qua khung kính lớn, dãy thung lũng trải dài với thảm cỏ mướt xanh uốn lượn như con sóng lớn. Một vài cây phong đổi mầu lá ối đỏ, trang điểm nó. Dáng chiều từ chân đồi hắt ngược lên càng khiến những chiếc lá phong bầm đỏ và tối hơn. Người lính chỉ tay vào thung lũng:
- Cô thấy gì ngoài khung kính này?
- Buổi chiều vàng, một buổi chiều vàng trong nhạc của Nguyễn văn Khánh. Ông biết bài đó? Người con gái đáp như trúng tủ trong một cuộc thi vấn đáp?
- Phải... “trên đồi thông chiều đã xuống dần mặt trời lấp ló sau đồi, chiều vàng...”
- Ông có biết là tôi yêu bản nhạc đó, như yêu một cảnh đời mình đã... khuất.
- Cô nói như một bà già năm mươi!
- Vâng! Khi tôi chửa được một nửa của tuổi đó.
Người con gái không che giấu tự tin và chút gì giống như hãnh diện trong câu trả lời của mình.
Người lính lắng tâm hồn và cảm xúc ông vào đôi mắt mở lớn, trong veo, không một gợn đục. Từ đôi mắt thơ ngây ấy, những lời nhạc như tiếp tục vẳng lên: “Chiều nay viếng thăm hồn cố nhân, ta nên đau thương gắng bước hoài, đời chỉ có riêng em mà thôi”.
Những hình ảnh xưa cũ, như một trận bão bất ngờ trút xuống trong thần trí ông.
- Tôi bốn mươi rồi. Tết này nữa, tôi đúng bốn mươi.
Người con gái như không hề ngạc nhiên về tuổi tác của người lính. Làm như cô đã biết trước tuổi ông. Cô nói:
- Vì thế, ông cho rằng ông đã già, quá già rồi.
Người lính gật đầu. Ông di di mẩu thuốc lá trong chiếc gạt tàn;
- Đúng thế. Nếu cô biết rằng các cụ mình có câu: “Tam thập nhi lập, từ thập nhi bất hoặc...” Tôi đã mười năm bước qua tuổi ba mươi mà chưa “lập”, thì nói gì... Người lính ngập ngừng trước khi tiếp:
- Tôi không còn tuổi trẻ nữa.
- Ông nói thế nghĩa là sao?
Người lính nén tiếng thở dài:
- Nghĩa là tôi không còn cơ hội. Tôi không còn những yếu tố căn bản là tuổi trẻ, lòng hăng say, để bắt đầu hay để làm lại.
Cô gái múc một thìa kem. Nàng hé môi hàm răng trắng đều và cặp môi đỏ tự nhiên. Cô ngậm như cắn thìa kem. Cô khép đôi mắt, như để tận hưởng cảm giác mát lạnh và hương vị ngọt ngào của thìa kem chảy tan trong cơ thể?
Bất ngờ, cô hỏi:
- Ông biết tôi bao nhiêu không?
- Tôi không hề để ý tới tuổi cô. Chỉ biết cô còn bé lắm.
Người con gái hin hin mũi, tinh nghịch:
- Bé cỡ nào, ông?
Người lính lúng túng:
- À... À... Bé lắm. Bé như là bé... tý hon.
Cô gái đưa tay che miệng cười. Tiếng cười cô ròn rã, vang ấm một góc quán.
- Tôi mười tám. Tết này, tính theo tuổi ta, tôi mười chín. Cô đăm đăm nhìn những giọt nước đang tạo hình trên ly kem khi nói. Như một tiếng thở dài lúc cô thêm:
- Mười chín mà tôi thấy mình như đã ngoài ba mươi!
- Tại sao?
- Không phải tại tôi cảm thấy tôi già trước tuổi. Rất thường, tôi tự thấy, tôi còn nhỏ lắm. Còn trẻ con lắm trong cả ý nghĩ, tư tưởng của mình. Nhưng đôi khi, đôi khi thôi, ông biết không, tôi tự hỏi, rồi tôi sẽ ra sao? như thế nào? làm được những gì ở năm hăm chín, bốn mươi? Tôi luôn thấy tôi lạc lõng trong tất cả mọi “pạc ty” của bạn bè. Tôi cũng không một chút ham muốn trước phấn son, không một chút rạo rực trước quần áo hôm nay, quần áo mà người ta gọi là quần áo “disco” đó ông. Không phải tôi làm bộ. Không phải tôi giả cách. Ba mẹ tôi tuy không khuyến khích nhưng cũng chẳng cấm cản tôi. Tôi biết rõ điều đó. Vấn đề là tự thâm tâm, tự một chỗ nào đó trong tâm hồn tôi, tôi không thấy thích, tôi không thấy ham muốn những thứ đó. Bạn tôi có đứa bảo tôi bị bệnh. Bệnh lãng cảm. Tôi không hiểu rõ lắm bệnh này và, thực sự cũng chẳng mấy quan tâm...
Có thể người lính không chờ đợi những lời đối thoại như vậy. Ông lúng túng:
- Cô không sợ bạn chê là nhà quê sao?
Cô gái lắc đầu: tự tin:
- Không. Cho đến hôm nay, tôi không hề có một mặc cảm nào khi đứng trước mặt bạn bè. Tôi có lố bịch không ông /?/ Nếu tôi nói với ông rằng tôi biết những gì tôi hơn bạn bè tôi.
- Cô làm tôi nhớ em gái tôi. Nó cũng bướng, cũng “lý sự” như vậy!
Cô gái mỉm cười. Nụ cười nhiều phần miễn cưỡng:
- Tôi có nói nhiều quá không ông?
Người lính lắc đầu:
- Có bao giờ cả một ngày cô không được nghe một tiếng nói nào chưa? Tiếng mẹ đẻ! Tôi đã nhiều lần trải qua cảm giác đó. Cảm giác thèm khát muốn phát điên vì thiếu tiếng nói. Nhưng lúc ấy, thì ngay cả tiếng lảm nhảm, vô nghĩa với tôi cũng cần thiết. Chưa kể, càng nói cô càng cho tôi cảm tưởng khoảng cách giữa cô và tôi được ngắn lại phần nào.
Người con gái không giấu hân hoan.
- Ông nói thật? Thật phải không ông?
- Tôi có thể nói dối với tất cả mọi người, trừ... cô.
Người con gái dướn gương mặt hạnh phúc, rực rỡ về phía người đàn ông. Tuy nhiên, như chưa tin hẳn, cô gái hỏi thêm:
- Tại sao lại trừ tôi?
- Tại cô là cô bé. Bé tý hon.
Cô gái như không còn kìm giữ được lòng sung sướng, rất nhanh và rất tự nhiên, cô đặt tay cô lên bàn tay người lính.
Ông xoay ngược bàn tay, nắm lấy bàn tay nhỏ, mềm như được làm bằng bột của cô gái. Từ từ, những ngón tay xạm nắng bóp xiết những ngón tay chỉ còn là một màu trắng sữa. Cô bé thốt kêu:
- Ông... ông Lãm.
Người lính như đang bơi trong cơn mơ sảng:
- Học...
Ông buông tay cô. Bàn tay người con gái trơ vơ trên mặt bàn nhung màu huyết dụ, rung động như phần cánh bị thương của một con chim sâu.
Vài giây sau, người con gái mới rút tay về...
Bóng tối như từ đáy thung lũng dâng lên mỗi lúc một cao, cùng lúc với sương mù bám vào cửa kính, làm thành một lớp vải voan mỏng.
Tự lòng quán nhìn ra, người ta chỉ còn thấy được những cây phong gần nhất. Lúc này, chúng giống những ông già mặc áo bành to, đang rộng đôi tay, ngửa mặt, lặng im khấn nguyện một điều gì đó với trời đất.
Người kính châm điếu thuốc mới. Cô bé đã trả hai bàn tay xuống gầm bàn như lúc ban đầu. Cô day mặt về phía cửa kính.
Người đàn ông cố gắng (sự cố gắng thấy rõ trong giọng nói ngượng ngùng của anh):
- Tôi thật đáng trách... Tôi không định thế...
Cô bé quay lại. Đôi mắt đỏ, nhưng miệng nàng cười:
- Đâu có. Ông.
Giọng nói của người con gái lúc đầu còn đượm nhiều xúc động, trước khi bớt dần:
- Học... ồ tôi không hiểu... ừ mà tôi cũng không hiểu tại sao nữa? Là người lớn, ông...
Người lính lắc đầu!
- Học tưởng người lớn biết tất cả mọi thứ.
Người lính cười, thở ra như vừa trút đi khỏi lồng ngực một sức nén ép khủng khiếp:
- Không phải người lớn thì cái gì cũng biết. Có khi còn ngược lại, như tôi.
- Ngược lại? Ông Lãm? Học không hiểu!
- Tôi muốn nói có nhiều điều trẻ con biết mà, người lớn thì không...
Cô buột miệng:
- Xì! Ông Lãm “xạo”. Học không tin.
Người lính nghiêm mặt:
- Thật đó.
Cô bé cong môi:
- Chẳng hạn?
- Chẳng hạn trẻ con biết làm cho người già trẻ lại. Trong khi người già bất lực. Họ không không biết cách nào để làm cho trẻ con trở nên trẻ con hơn nữa.
- Nhưng người già biết cách làm cho trẻ con già thêm phải không?
Người lính mỉm cười:
- Chính thế. Sự nguy hại của trẻ con chơi với người lớn ở chỗ đó.
- Học không còn là bé nữa. Học đã bước vào tuổi mười tám. Học lớn rồi. Phải không ông Lãm?
Người lính dùng một câu hỏi thay cho câu trả lời:
- Cô định làm gì ở những ngày tháng đầu tiên của tuổi mười tám?
Cô gái ngẫm nghĩ:
- Học không biết nữa. Ơ mà Học thấy có nhiều điều trước đây, Học không thể làm được, nhưng bây giờ thì đã...
- Thí dụ một vài điều?
Cô gái mím môi để khỏi cười. Đôi má nàng au đỏ. Nàng lắc đầu:
- Không. Học chẳng thể nói ra với ông.
- Sao vậy?
- Học mắc cở. Với lại...
- Với lại?
- Kỳ lắm. Mà thôi, Học không nói đâu. Học sẽ không bao giờ nói ra đâu. Ông Lãm đừng bao giờ hỏi nữa...
Càng nói, người con gái càng rơi sâu trong sự mắc cỡ của chính nàng. Hình như người lính cảm biết được một điều gì đấy. Ông dọa:
- Lỡ...
Người con gái cướp lời:
- Không. Không nha. Ông Lãm.
Cô bé ngước mắt nhìn người lính vẻ khẩn khoản. Người lính cười. Nụ cười khoan hòa, như nụ cười của một người cha chiều lòng một đứa con gái nũng nịu.
- Ừ! Tôi sẽ chẳng bao giờ tôi hỏi Học điều đó.
Làm như hai người cùng ngầm hiểu điều họ có thể... không hiểu hay hiểu sai!
Tuy nhiên, phần cô gái vẫn là nụ cười. Nụ cười mang theo hương thơm ngọt ngào của thìa kem chảy tan một lần nữa trong cô..
Người lính trả tiền và đưa cô gái ra khỏi ngôi quán. Đêm thẳm sâu và lạnh. Cô giấu đôi bàn tay vào túi áo vest, trong khi người lính thọc hai tay vào túi quần sau khi cài nốt những khuy áo còn lại của chiếc bành tô.
Họ sóng bước. Trong lúc người lính trở nên trầm ngâm thì cô gái ngược lại, liến thoắng hơn. Cô nói:
- Ở đây không có chợ Tết!
- Ừ không có chợ Tết.
- Cũng không có cả ciné giống như ở quê nhà nữa.
- Cũng không cả ciné...
- Ông Lãm...
- Gì Học?
- Tết ông Lãm làm gì?
- Ngủ. Tôi ngủ cho qua Tết.
- Tết ai lại ngủ?
- Nhưng tôi ngủ. Và uống rượu...
- Thế ông không định đi thăm Học sao?
- Ừ nhỉ! Phải đi thăm Học.
Cô gái không thể biết người lính nói sẽ đi thăm Học hay đó là câu hỏi? Cô dám ngước mặt lên nhìn mặt người đàn ông. Cô sợ ông phật ý. Nàng chợt nhận thấy từ lúc bước ra khỏi quán, người đàn ông như rơi vào một thế giới khác! Nhưng cô không quan tâm.
Niềm vui, hay hạnh phúc nếu có thể nói được như vậy, khiến cô chỉ muốn nói bất cứ điều gì chợt đến. Đây là lần đầu tiên, cô được đi chơi khuya với người lính. Cũng lần đầu tiên, cô cho rằng người đàn ông không còn nhìn cô như một đứa con nít.
Ta đã lớn. Ta đã mười tám. Ta đã... Ta đã... Cô muốn thét to, muốn la lớn cho vỡ trong lồng ngực, cho tất cả thành phố đều phải biết rằng cô đã mười tám. Cô đã bắt đầu một tình yêu!
Họ chậm bước rồi dừng lại ở một ngã tư có đèn. Người lính đưa tay ấn nút. Họ chờ băng ngang đường.
Người con gái nói:
- Ông Lãm.
- Gì Học?
- Sắp Giao Thừa chưa?
Người lính vén tay áo, nhìn đồng hồ.
- Còn hai tiếng nữa.
Dấu hiệu cho phép băng ngang đường chuyển từ màu đỏ sang xanh.
Người con gái không có vẻ gì muốn bước đi:
- Ông Lãm.
- Sao Học?
Người con gái im lặng giây lát, rồi nói giọng thật nhỏ:
- Học chưa muốn về.
Những nếp nhăn xếp hàng trên trán người lính. Ông đặt tay lên vai cô:
- Phải về chứ. Muộn rồi.
Cô gái cúi mặt như che giấu thất vọng và xấu hổ của mình.
Người đàn ông lại đưa tay bấm nút đèn. Người con gái lại nói:
- Ông Lãm.
- Gì Học?
- Sao ông không nói gì với Học?
Lần này cô bạo dạn ngước nhìn người lính. Ông hỏi:
- Học muốn điều gì?
- Gì cũng được.
Dấu hiệu băng ngang đường lại chuyển từ đỏ sang xanh. Ánh sáng xanh của ngọn đèn đường, không làm mất đi màu đỏ gấc trên gương mặt cô gái. Đôi cánh mũi của cô phập phồng như nhịp theo hơi thở gấp rút trong cô.
Người lính nắm chặt bàn tay. Bất giác, như không kìm giữ được nữa, ông vòng tay qua vai cô:
- Học
- Dạ.
Người lính im lặng. Ông không biết nên hay phải nói điều gì trong? Sự im lặng kéo dài cho đến lúc người con gái lên phải cất tiếng:
- Ông Lãm.
- Gì Học?
- Sáng mai mồng một, Học đến nhà ông Lãm.
Vừa nói dứt câu, người con gái không để người lính kịp trả lời, đã vùng thoát khỏi vòng tay người lính. Cô chạy băng qua bên kia đường, giữa lúc đèn xanh đã trở lại màu đỏ.
Người lính trở về nhà đúng giao thừa. Ông đặt tay lên đùi. Nhắm mắt. Mơ hồ thấy mình trong dáng ngồi của pho tượng “tiếc thương”, ở nghĩa trang quân đội ở Biên Hòa. Nhưng cùng lúc, ông cũng nhớ lại rằng, pho tượng ấy không còn nữa. Nó đã bị giật đổ.
1980
Còn ai lắng tai nghe
Hai người đi bộ dưới làn mưa thật mỏng như những sợi thủy tinh thả xuống từ một bầu trời xám thấp. Họ tránh để không dẫm chân lên mấy tấm bia nằm dưới cỏ. Người con gái nói:
- Thật lạ.
Người đàn ông bỏ tay khỏi vai người con gái, rút thuốc lá. Chàng nói:
- Mưa đủ để chúng ta đi chơi, em không thích sao?
Những hạt mưa nhỏ đã bắt đầu lấm tấm trên tấm áo khoác màu đỏ và trên cặp kính trắng. Những hạt nước cho cảm giác ấm áp hơn khí trời. Người con gái nói:
- Lẽ ra mưa phải hết lâu rồi.
- Trời đất mừng em trở về.
- Anh thì không?
Người đàn ông ngừng lại, châm thuốc hút. Đôi mắt người con gái tinh nghịch. Gió reo vui trong đôi mắt nàng. Người đàn ông thở ra hơi thuốc đầu, nói:
- Ta qua bên kia ngọn đồi. Ở đó có một gốc cây mà nhiều buổi trưa, anh đã nằm đó.
Người con gái nói:
- Em không muốn là cái cớ để anh sống lại kỷ niệm cũ.
Người đàn ông bước tới vòng tay vòng qua eo người con gái, tuy có vẻ hờ hững nhưng cũng đủ để không cho người con gái đứng lại.
Chàng nói:
- Đồ vật có thể thay thế - nhưng người này không bao giờ có thể thế chỗ người kia. Tất cả mọi ra đi của một người mang ý nghĩa để lại...
- Em không hiểu.
- Một khoảng trống.
- Anh đã có bao nhiêu khoảng trống như thế?
Tiếng nói của nàng dịu dàng và suốt trong hơn như những hạt mưa ở xa.
- Khá nhiều.
Người đàn ông đáp, giọng khôi hài.
- Vậy còn khe hở nào cho em.
Người đàn ông không trả lời. Người con gái cười ròn rã. Đôi môi nàng phớt hồng. Hơi lạnh làm máu dồn căng dưới làn da. Cô càng giống hơn nữa, miếng bánh bông lan. Cô bảo:
- Khi có quá nhiều người ra đi thì ở trong anh giờ này chỉ còn là những khoảng trống.
Người đàn ông thản nhiên:
- Anh vẫn còn một chỗ cho em: đầu gối anh.
Người con gái khựng lại. Nàng xoay người nhìn người đàn ông. Nét tinh nghịch biến mất trên khuôn mặt bầu bĩnh của nàng. Người đàn ông cũng cúi nhìn. Đôi mắt chàng phẳng lặng.
Người con gái nói:
- Không. Em không đi. Em muốn là tất cả những khoảng trống đó hợp lại.
Người đàn ông gật đầu, nhưng cái gật đầu của anh lại không ăn nhằm gì tới câu anh nói:
- Đôi khi anh tự hỏi không biết anh sống, để làm gì?
Người con gái lắc đầu:
- Nhiều người đã tự hỏi thế và cuối cùng vẫn sống. Người ta có thể sống chỉ vì sự cần thiết của một người nào đó. Một người thôi cũng đã là quá đủ.
- Nếu không có một người nào cần đến anh?
Người con gái nép vào người đàn ông, giọng khẳng quyết:
-Thì em chính là người ấy.
Người đàn ông ôm người con gái. Anh bỗng thấy mình nhẹ tênh, trôi trong nỗi buồn chưa rõ mặt. Anh hôn tóc nàng.
Nắng liếm con đường ngăn chia ngọn đồi và đập nước.Mưa cũng theo nắng ăn tới chân đồi.
Cho đến lúc lên đến đỉnh đồi, nơi có một gốc cây cổ thụ mà người đàn ông đã nói với người con gái, họ không nói với nhau một lời nào, mặc dù cả hai như cùng có khá điều riêng, để nói.
Người đàn ông ngồi xuống gốc cây trong khi người con gái vẫn đứng nhìn về phía đập nước. Mưa trong nắng dưới chân đồi vàng óng như những giọt rượu được phun lên cao và rớt xuống một đài hoa lớn là khoảng trời được bao bọc bởi những ngọn đồi chụm đầu vào nhau theo hình tròn.
Người con gái có dáng kiêu căng của một loài chim tự biết mình thuộc loại hiếm quí.
Nàng mặc chiếc áo khoác màu đỏ trơn, sau lưng có thêu chìm một bông cúc đại đóa. Người đàn ông nói:
- Kim.
Suốt từ lúc rời xe, đây là lần đầu tiên người đàn ông gọi tên người con gái
Hiểu ý người đàn ông, người con gái khép nép ngồi xuống. Người đàn ông lần lần ngón tay theo đường thêu của bông hoa phía sau lưng người con gái. Nàng nói:
- Em mua chiếc áo này ở Nhật.
- Ăn mặc đối với người con gái là cả một nghệ thuật. Ở chỗ mặc sao cho người khác nhìn ngắm trong một khoảng cách nào đó, chứ không phải là tiến đến ngang hàng nhòm vào hay ngó xuống. Ít có người phụ nữ nhìn thấy và làm được điều đó.
- Anh không thích cách ăn mặc của em?
Người đàn ông lắc đầu:
- Anh thích. Nếu chiếc áo này đừng quá dày.
- Anh muốn em cởi ra?
Người đàn ông lắc đầu:
- Không. Em sẽ lạnh.
Người con gái ngồi xích gần hơn người đàn ông. Nàng ngập ngừng:
- Chắc anh không nhớ hôm nay là ngày...
Người đàn ông không đáp. Người con gái tiếp:
- Anh không có một món quà nào cho em?
Người đàn ông cười buồn:
- Anh không có thói quen mua quà sinh nhật. Dù cho ai.
Người con gái xụ mặt. Đôi mắt nàng long lanh, muốn khóc. Người đàn ông đưa tay lùa dưới lớp tóc ngắn của nàng. Chiếc cổ nõn trắng và đôi vành tai xinh như đôi cánh bướm.
Người con gái rùng mình vì sự mơn trớn của người đàn ông. Nàng kêu nhỏ:
- Anh. Tạo.
Người đàn ông vẫn im lặng, như thể chàng đang theo đuổi một ý tưởng hay một hình ảnh nào, ở một không gian khác.
Bất thần người đàn ông kéo cổ người con gái xuống. Người con gái bất động. Nhắm mắt. Nàng gối đầu trên đôi chân người đàn ông duỗi thẳng. Đôi môi. Đôi môi. Đôi môi. Những tiếng nói đột ngột reo vang, va đập bốn bức vách tường căn phòng tâm trí trống trải của người đàn ông. Chàng cúi xuống. Ghì xiết. Người con gái muốn giẫy giụa. Nhưng nàng không thể thoát khỏi cánh tay mỗi lúc một xiết chặt hơn.
Khi buông người con gái ra, Chàng gọi:
- Kim.
Ánh sáng chói lòa làm nàng nhíu mày.
- Anh có một món quà cho sinh nhật Kim. Người con gái sung sướng. Nét rạng rỡ rất trẻ thơ nở trên đôi môi còn ướt.
- Đó là một câu truyện. Người đàn ông nói tiếp.
- Và em là người duy nhất được nghe?
Người đàn ông gật đầu.
Nắng và mưa đã ăn lên tới lưng chứng đồi. Khoảng cách giữa mưa và chỗ của hai người chỉ còn độ dăm bước.
Người con gái nhắm mắt với đôi môi còn ướt.
Tôi ngồi vào chiếc ghế chàng vừa bỏ đi. Hơi lạnh của đêm chưa kịp làm tan hơi ấm trên mặt nệm mặc dù hai tay ghế bằng sắt đã lạnh buốt. Tôi đếm từng đêm. Tôi đếm từng ngày. Tôi đếm kiên nhẫn, như con Đốm mỗi sáng mở mắt với câu hỏi đầu tiên, “Mẹ, bố đâu mẹ?” - Và cũng như con Đốm trước khi vào giường, vẫn một điệp khúc “Mẹ, bố đâu mẹ?” Tôi sống như thế. Lạnh lùng, trơ trốc, xương xẩu như những cây xương rồng khẳng khiu trồng trong chiếc chậu nhỏ, đã nhiều ngày không có một hạt nước. Tôi sông như thế, tật nguyền, què quặt, mù lòa, với từng sáng mở mắt trên chiếc giường mênh mông không một nếp chăn xô lệch, không hơi ấm, ngay cả chỗ tôi nằm.
Ánh nắng lên từ khung cửa sổ. Chiếc gạt tàn vẫn chừng đó, mẩu thuốc. Bàn phấn phía tay trái vẫn chừng đó vật dụng, không suy suyển, không xáo trộn và tấm gương lớn dính vào bàn phấn kê sát tường, đã kiên nhẫn phóng lớn hình dung tôi. Hình dung tôi, mỗi sáng với đôi mắt một sâu thêm. Với mái tóc bớt đi những sợi đen. Với thân xác, cạn vơi dần hơi nước. Như thể sự hư hao không chỉ diễn ra trong mỗi thời kỳ mà nó đã xẩy ra từng giây phút.
Tôi sống như vậy - và hiểu rằng không ai sống như vậy. Hiển nhiên không ai sống được như vậy.
Tôi sống như vậy, rực rỡ trong nỗi đau thương tôi niềm kiêu hãnh nhọn hoắt. Mỗi đêm, những tiếng xe chạy qua và bỏ xa ngôi nhà. Tôi sống như vậy, tỉnh táo, tự tin đến mức tàn nhẫn với quá khứ tôi - và nỗi chờ đợi kế tiếp. Chàng đã xa. Chàng đã khuất. Không bao giờ. Chẳng một lần nào nữa. Ngôi nhà này. Đứa con tôi. Tiếng nói nọ. Tôi như thế. Chọn đứng trên những cọc nhọn. Và mỗi đêm, kinh nhật tụng của tôi là một đoạn thơ của ai đó dội đập, qua lại không dứt giữa hai bờ tường kỷ niệm và quá khứ.
Mỗi tối đêm ta nghe rung dậy một hồi chuông
Thổi run rẩy những lệ sáp héo hon nhỏ xuống
Trên ngọn cây ta tàn tạ
Chút bông nõn mất dấu bao năm
Bỗng trở về bay ra một sợi tơ vàng ánh
Biết tay người hứng kịp
Cuộn lấy một guồng mơ?
Trăng đợi chờ nghiêng vạt
Khúc gửi người, riêng
Khúc gửi người, riêng. Khúc gửi người, riêng. Trí nhớ tôi cũng mù lòa như đôi mắt chỉ còn một hình bóng. Tương lai tôi cũng mù lòa, như trước mặt chỉ còn một quá khứ. Tôi lớn lên dưới vầng trăng óng ả đầu tiên của một đầu dốc cao nguyên tháng tám. Tôi có mặt. Tôi được khai sinh từ một đêm gió thổi buốt lồng ngực. Chàng-quê-nhà. Tôi-suối-cũ.
Mưa như không thật bỗng dưng rơi ròn mái gạch. Những chiếc lá giấu đầu trong lòng nhau, tránh mưa trên những cành thấp. Tôi thở lại sau ba tháng lặng chết. Mưa như không thật bỗng rơi ròn từng tiếng hát khao khát trong tôi.
Mở mắt ra thấy đời sống
Không phải chỉ thuần dối trá
Bóng rợp người che một nắng mưa ta.
- Bố
- Ừ
- Em khổ quá.
- Ừ. Đừng khóc.
Bàn tay sần chai vuốt dọc hai khóe mắt. Bàn tay sần chai vuốt dọc thân thể tôi, vuốt dọc sống lưng tôi, vuốt ngược mặt mũi tôi. Tóc tai tôi. Bàn tay chàng. Bàn tay chàng khổ ải. Bàn tay chàng sát nhân. Tôi khóc. Ngất. Trong bóng đêm tôi cởi bỏ oan cừu - tôi khóc. Ngất. Tôi khóc nức nở giữa lúc chàng yêu thương tôi - chàng yêu thương tôi. Như mười năm xưa cũ.
- Bố.
- Ừ.
- Em khổ quá.
- Ừ. Đừng khóc.
- Bố bảo em phải làm gì?
- Đừng khóc.
Tôi vẫn khóc. Ngất. Mười năm trước, trên một lầu cao, tôi biết, tôi đã không - không bao giờ còn có thể thay đổi. Tôi biết bây giờ hơn lúc nào - Tôi phải - là-giòng-suối-xưa, dù cho chàng có không còn là chàng-quê-cũ.
Tôi tin không một người đàn bà nào có thể nghĩ hay tưởng tượng được rằng, mơ ước lớn lao nhất trong những năm tháng còn lại của đời tôi, chỉ là một buổi sáng thức dậy, được vội vã xuống giường pha cho chàng một ly cà phê. Đem vào giường cho chàng một chiếc khăn mặt ấm. Tôi không còn đủ trí nhớ để ghi nhận đã bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng tôi mất đi, tôi không còn có được làm cái công việc nhỏ mọn, như điên khùng trong ý nghĩ của những người phụ nữ Việt Nam sau vài năm ở cái xứ sở văn minh này.
Tôi tin không một người đàn bà nào có thể nghĩ hay tưởng tượng được rằng, mơ ước lớn lao nhất của tôi trong những năm tháng còn lại của đời mình, chỉ là một buổi tối, ngồi vào bàn. Xới cho chàng những chén cơm đầy. Ép chàng ăn thêm một miếng đậu phụ rán. Ép chàng ăn thêm một thìa canh cải bẹ xanh. Tôi không đủ sáng suốt nhớ lại buổi tối nào là buổi tối cuối cùng? Sau đấy, tôi đã mất. Mất hết - dù chỉ là một buổi tối ngồi chờ để xới cho chàng những chén cơm.
Tôi tin không một người đàn bà nào có thể nghĩ hay tưởng tượng, tôi sẵn sàng đánh đổi hết - Từ chối tất cả để cho con tôi, con Đốm, một lần ngủ trong lòng bố nó. Nhưng mà - dường như đã lâu lắm - con Đốm không được một lần thêm, thở hít hơi hướm của Bố.
Tôi biết tôi là một người đàn bà điên khùng. Tôi là một người phụ nữ mất trí. Nhưng mặt khác tôi cũng biết từ mười năm trước, tôi không thể đổi khác, một buổi chiều khi chàng khai sinh, cùng lúc giết chết đời tôi. Tôi bằng lòng, tôi hãnh diện với sự mất trí của tôi. Tôi muốn như tôi đã là, giòng-suối-xưa, như một tấm gương cho con Đốm. Bởi vì tôi sẽ chẳng thể nói được với con tôi điều gì khác hơn: “Đốm là con của bố”.
Bởi vì tôi chẳng thể chối trước mặt con Đốm: “Mẹ yêu bố”. Dù cho chàng đã chẳng con là chàng-quê-cũ.
Khu vườn nhỏ còn thoảng mùi thuốc hút của chàng. Đã bao tháng khu vườn không một lần thoảng mùi thuốc của chàng. Tôi ngồi như thế. Chỗ ngồi chàng bỏ lại. Tôi ngồi như thế, khuya xuống cùng sương lạnh. Và mưa tưởng đã không còn chạy trên mái gạch. Trong tay tôi ly cà phê còn ấm. Màu cà phê còn sánh. Nhưng tôi cũng biết, chẳng cách nào tôi có thể giữ mãi chút hơi ấm còn sót nơi ly cà phê cũng như chẳng cách nào tôi có thể ngăn cản hừng đông đừng bước tới. Mặt khác, tôi lại biết rõ ràng rực rỡ tôi, chính là quạnh quẽ này. Đớn đau tôi, chính là ngọc chân thiết muôn đời không tỳ vết.
Chàng không còn là mây
Thôi em đừng gió nữa...
Bố. Em chẳng bao giờ còn gió nữa đâu. Bố biết mà. Có còn chăng chỉ là khối ngọc chân thiết không tỳ vết ngày nào, gửi cho Bố, như là tặng phẩm cuối cùng của em dành nốt cho Bố. Cho cạn vắt một giòng khô. Tuyệt trọn một đời người. Rất riêng.
Người đàn ông ngừng nói, vừa hay lúc nắng và mưa cũng đã bén gần đỉnh đồi. Người con gái thoáng thấy trong mắt chàng những hạt lệ long lanh.
Lúc ngồi vào xe, người con gái nói:
- Cám ơn anh.
- Cái gì?
- Câu chuyện.
- Sẽ không có một người thứ hai kể cho ai khác một câu chuyên tương tự.
Người con gái lắc đầu:
- Dù có triệu đống bùn nhưng không phải vì thế mà trần gian chỉ có một giòng suối.
Người con gái nói, hồn nhiên đưa tay quệt những giọt lệ còn sót lại trong đôi mắt người đàn ông.
- Nhiều lúc anh tự hỏi, không hiểu anh sống để làm gì?
Người con gái giấu mặt trong vai người đàn ông.
- Tạo
- Anh đây.
- Hôm nay sinh nhật em
Và nàng ngước khuôn mặt tinh khôi, chờ đón. Người đàn ông không cầm giữ được. Chàng hôn lên khuôn mặt nàng.
Lát sau, người đàn ông lên tiếng:
- Anh chẳng biết nói gì với Kim trong sinh nhật này của em.
Người con gái lại giấu mặt, lần này trong ngực người đàn ông, nói:
- Em muốn là giòng-suối-cũ.
Người đàn ông thở dài:
- Cám ơn em. Đã cho anh ngọn lửa. Anh không ngờ. Ở tuổi bốn mươi, trần gian còn cho anh một tặng phẩm.
Người con gái bạo dạn víu cổ chàng xuống:
- Và anh sẽ cho em, một điều gì khác hơn câu chuyện?
Người đàn ông rúng động. Câu chuyện chàng vừa kể, chợt vang dội bên tai chàng bằng giọng của một người khác. Một người con gái. Phải đó là giọng của giòng-suối-cũ?
22-6-82
Tan theo ngày nắng vội
Quán ăn nằm bên lề lộ lớn nhưng cửa lại mở vào một ngõ hẻm mà, bên kia là mặt sau của một quán rượu. Con ngõ ngắn uốn khúc về phía trái. Một chiếc thùng rác lớn màu xanh nằm chình ình ngay khúc cong của con ngõ, cho cảm tưởng đó là ngã ba bị bít. Vào sâu chút xíu là khu parking với những chữ màu trắng kẻ đều đặn trên tường. Nội dung nói đấy là chỗ đậu dành riêng cho thực khách của nhà hàng. Xe nào đậu ẩu sẽ bị kéo.
Suốt bảy năm kể từ ngày rời khỏi Pendleton, đây là lần thứ năm tôi trở lại thành phố này. Một nơi chốn tự nó không gợi lên ở tôi một điều gì. Một nơi chốn hoàn toàn vô hồn, vô cảm. Chàng viết đâu đó, trong một cuốn truyện tự những năm quê nhà khi tôi mới lớn, rằng: “Nơi chốn là nơi ủ giữ hương tình đầu”. Nếu nơi chốn phải hiểu theo nghĩa đó, thì quả thật tôi chẳng có lý do gì để trở lại đây, dù chỉ một lần thêm chứ đừng nói là ba, bốn. Kỷ niệm tôi ở nơi khác. Tuổi thơ tôi ở nơi khác. Sự sống chết của tôi đã bị xóa sạch, không còn một vết tích nhỏ nhoi nào. Những người lính TQLC/HK đã san bằng và, chôn kín một cách dửng dưng, ít nhất cũng một phần đời của một người. Một phần đời người đó là tôi - đứa con gái mười lăm tuổi trên chiếc xe buýt từ Processing center về đến trại Một, tháng Bẩy. Mà khoan đã. Không nên. Tôi sao vậy kìa? Dường như con nhỏ nhí nhảnh, con nhỏ đùa rỡn, con nhỏ toe toét, con nhỏ có cái áo pull trắng, quần jean xẫm được những người con trai ngắm nhìn - được những cái liếc mắt kín đáo hay sỗ sàng từ chung quanh... đã không còn nữa. Một kẻ khác đã hoán đổi vị trí. Một kẻ nào đó đã bước vào và ở lại trong tôi. Tôi chợt nhận ra điều này khi những người bạn ngồi chung bàn nhắc nhở tôi ăn. Nhắc nhở tôi “trở lại”.
“Trở lại? Nhắc nhở gì kỳ vậy? Tôi có đi đâu mà trở lại?” Tôi vẫn ngồi đây kia mà. Tôi vẫn thấy rõ, vẫn nghe đủ, bốn phía. Tôi vẫn nhận biết mùi hơi người, mùi thuốc lá, mùi thức ăn trộn lẫn ngột ngạt. Rồi những tiếng nói như như búa nện vào thẳng tai tôi. Tiếp theo là một dây chuỗi, những tiếng cười. Những giọng cười cao thấp. Những câu nói như những viên đá ném liên tiếp xuống một mặt nước mênh mông, phẳng lặng. Những câu nói dậm thêm không cần thiết cho câu chuyện, nếu không muốn nói là đã phá hỏng cái không khí tự nhiên của câu chuyện đó. Có những câu nói dí dỏm lúc này mà, lại cực kỳ vô duyên lúc khác. Và tôi đang phải chịu đựng những câu nói vô duyên ấy. Trong đó, có lẽ chỉ Thược hiểu tôi mà thôi. Tôi nhìn Thược cầu cứu. Thược ngó lại tôi, kinh ngạc. Phải rồi. Tôi quên. Tôi quên rằng chuyến trở về để tìm... một người. Tôi trở về vì cái thôi thúc âm thầm nhưng mãnh liệt trong tôi từ tháng trước, khi tình cờ tôi nhìn thấy người đó giữa thành phố nơi tôi ở. Tôi trở về đây để tìm người ấy.
Tìm lại quá khứ tôi. Tuổi thơ tôi. Đời sống tôi. Đúng hơn, tìm lại đau đớn cũ. Tìm lại hình ảnh mà ba mẹ tôi, gia đình tôi đã gán cho tôi, khi họ phát giác mối liên hệ giữa tôi và chú Lãng. Tìm lại cái hình ảnh của bảy năm trước. Những hình ảnh mà mọi người đã khắc bằng những lưỡi dao ác độc nhất trên vách tường ký ức tôi... “con mất dạy” - “Con... con... con...” Ôi, có lẽ không một hình ảnh, một danh từ tồi tệ nào người ta có thể nghĩ ra, mà tôi không bị gán cho. Tôi mười lăm tuổi, thế đó.
Tôi mười lăm tuổi. Cái tuổi mà văn chương mà âm nhạc ngợi ca không tiếc lời, không thiếu chữ. Tôi biết tôi không thuộc thành phần được nói đến trong những ngợi ca kia. Tôi không có một tốt đẹp nào cho mình. Dù bây giờ, bảy năm nhìn lại, tôi tự thấy tôi chưa hề làm một điều gì đáng để phải bị nhìn như một con thú ghẻ lở ngay giữa gia đình mình.
Tôi đã là con thú ghẻ lở. Tôi đã là con bé đáng chôn sống, đáng đem thây cho voi đầy, cho ngựa xé! Tôi, cũng chính cái con nhỏ làm điếm nhục gia phong kia, chỉ vài tháng sau khi rời trại, khi tôi mới bước vào tuổi mười sáu, thì những người từng muốn chôn sống tôi, lại muốn tôi lấy người đàn ông góa vợ. Người đàn ông đã thi ân, bảo bọc gia đình tôi ra khỏi trại. Một người Mỹ bảo trợ. Tôi vẫn nhớ, như nhớ đến một vết thương chưa lành, một vết thương muôn đời không kéo nổi da non. Tôi nhớ, tôi đã điện thoại cho chú Lãng - điện thoại viễn liên - từ nhà sponsor - nhiều lần. Lần cuối, tôi nói:
- Lãng chiều cháu một lần được không.
- Điều gì?
- Chép lại, một bài thơ.
- Thơ chỉ là lời nói... dối. Quỳ tin làm gì?
Tôi đáp:
- Trong đời sống, có khi người ta phải bám vào lời nói dối để... sống. Để ngỡ mình cũng... có... Mình cũng được... Như mọi người. Chiều cháu đi. Mai kia Lãng có muốn chiều cháu thì cháu cũng không còn đâu để mà chú chiều...
Tôi nói với nước mắt lặng lẽ chảy. Ở ở đầu dây bên kia, chú Lãng không thể biết tôi đang khóc. Ở đầu dây chú Lãng im lặng. Tôi biết tôi đã không che giấu được xúc động của mình như toan tính ban đầu.
Một lát, chú Lãng nói:
- Chú sẽ làm. Bất cứ điều gì cho Quỳ.
Suốt đời tôi, nếu có điều gì đáng ân hận nhất, thì đó là sự tôi đã lỡ gọi chú Lãng là... chú. Bản chất tôi không phải là con nhỏ dễ dàng gọi bất cứ ai bằng chú, bác, trừ những người bạn thân của cha tôi. Vậy mà, không hiểu sao, khi nhận ra chú Lãng - tôi đã buộc miệng gọi chú Lãng bằng chú. Phải chăng sự nghiêm nghị? Phải chăng nỗi mừng rỡ “bắt gặp”, niềm mơ ước thầm kín, bất ngờ “tìm thấy”, đã khiến tôi không tự chủ? Khiến tôi cảm thấy mình quá bé nhỏ trước chú? Hay khi ấy có thể tôi đã nghĩ, nên cách xưng hô đó, để có thể đến được với người ông ta?
- Quỳ có xin điều gì lớn lao đâu? Chỉ là một bài thơ đã cũ. Chỉ một miếng bánh vụn. Chỉ là chút hương... dư.
Chú Lãng chặn ngang:
- Quỳ. Không nói thế. Chú bảo, không nói nữa.
- Cháu chẳng bao giờ còn có được cơ hội nói nữa sau lần này đâu chú ạ.
Tôi thực sự bị những con sóng tủi thân, nghẹn ngào xé tan từng mảnh nhỏ.
- Chuyện gì thế, Quỳ?

Chú lãng hỏi. Tôi muốn nói “chú chẳng thể tưởng tượng được đâu, điều đang xẩy đến cho cháu”. Không ai có thể tưởng tượng được điều ấy. Cùng lắm chú Lãng chỉ có thể đoán rằng cha tôi đã cấm tôi liên lạc với chú vì vài hôm trước, sau khi bắt tôi đưa số điện thoại của chú cho ông, ông đã gọi chú.
Tôi nói:
- Chú đừng hỏi. Rồi chú sẽ biết. Điều đáng nói ngay lúc này là chú có nhận lời không?
Tôi nghe được tiếng thở ra trong điện thoại của chú Lãng.
- Quỳ nói đi.
- Bài Sinh nhật, mười hai.
- Bài ấy... Tại sao? Tại sao bài thơ ấy? Quỳ?
- Chỉ vì một câu thôi.
- Câu nào?
- “Nến đau đớn thắp lên đầy cuộc vui”.
Chú Lãng như la lên trong điện thoại:
- Ồ. Quỳ. Quỳ còn quá nhỏ.
Tôi chua chát:
- Chú nghĩ rằng đau đớn biết buông tha tuổi trẻ hay sao?
Chú Lãng ngập ngừng, chống chế một cách yếu ớt:
- Dù sao thì Quỳ cũng còn quá nhỏ để nhớ một bài thơ như vậy.
- Nếu chú nhớ lại Tháng Bảy, ở Pendleton... Lần này ở đầu dây là một sự im lặng hoàn toàn. Tôi nghe được tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường.
Từ máy bay nhìn xuống, Camp Pendleton giống như chiếc chảo lớn với những dẫy lều vải san sát, ngay hàng, đâu mặt vào nhau như những chiếc xuồng lật úp, xếp bằng bìa cứng. Những tòa nhà xây một tầng vuông vứt hoặc hình chữ nhật trắng toát, thấp lè tè dưới những tàng cây cổ thụ, như những miếng đậu phụ chìm dưới đáy chảo mỡ đang sôi.
Trừ trại Một, Hai, Ba và Năm, được cất trên gò cao, những trại còn lại nằm sâu dưới thấp.
Tháng Bẩy nhưng khí hậu Pendleton là khí hậu của miền núi với những buổi sáng sương mù. Những đêm buốt lạnh, điểm xuyết những cơn mưa bất chợt, tầm tã.
Chỉ có mỗi con đường tráng nhựa duy nhất nối liền từ trại Một đến trại Năm. Chỗ làm thủ tục xuất trại. Đó cũng là nơi có các trailer, “văn phòng” của những cơ quan thiện nguyện ở đoạn gần cuối con đường.
Ra khỏi văn phòng của cơ quan Church World Services, tôi hỏi Văn:
- Uống gì không?
Văn gật đầu:
- Tôi có năm đồng đây.
Tôi cười, đứng bên đường nhìn con dốc đổ xuống trại tám. Đêm qua, tôi với Nguyễn mới đi với nhau trên con đường đất đỏ đó. Tôi quàng tay, kẹp cổ Nguyễn. Nguyễn đọc cho tôi nghe một bài Đường Thi với hai bản dịch, một của bạn nàng, Hy Quyến, và một của chính nàng. Nguyễn cũng đọc lại hai câu thơ:
Chiếu chăn không ấm người nằm một
Thương bạn chiều hôm sầu gối tay.
Hai câu thơ được nhớ bởi hai kẻ mới bắt đầu cuộc sống vô định giữa một xó rừng mà, sự xa lạ không chỉ là cỏ cây! Ngay đến tiếng nói cũng như tập quán khiến không thể dự liệu điều gì, sau đấy.
Trước khi rẽ vào khu lều có mấy đứa cháu của Nguyễn đang ở, tôi nói tôi muốn trở về. Tôi bảo Nguyễn là một người trong nhóm những người đã ghi tên trở về, ở khu riêng, đã liên lạc với tôi. Anh ta bảo đảm tôi không sao hết nếu chịu trở về. Nguyễn hiểu tôi xót xa vì Thụy và những đứa con. Nhưng nỗi đau đớn và dằn vặt ghê gớm hơn cả, trên hết những thứ đó, vẫn là mẹ tôi. Tôi không kịp thấy mặt bà trước khi đi. Tôi không nhớ lần thứ mấy tôi đã nói với Nguyễn ý nghĩ kia. Mấy lần đầu nghe xong Nguyễn khóc. Những lần kế tiếp Nguyễn yên lặng, chịu đựng.
Dường như Nguyễn cố gắng chiều tôi nhiều hơn nữa, cho tôi vui, cho tôi quên. Cho tôi đừng có những lúc thình lình nổi cơn!
Văn nói khi chuyến xe buýt đầy nhóc người đổ dốc về trại tám:
- Anh định sao?
Tôi đáp:
- Có gì đâu mà định.
- Ít ra thì cũng phải nhận một người bảo trợ chứ?
Tôi lắc đầu:
- Tôi mới từ chối, để còn được ở lại đây.
Văn lúc lắc cái đầu, không ra gật cũng chẳng ra lắc:
- Sớm muộn gì trại này cũng đóng cửa.Tôi nghe nói chậm lắm là cuối năm nay.
Tôi biết điều đó. Tôi hiểu tôi không thể làm gì hơn. Tất cả đám người lúc nhúc như chuột này được gom lại để rồi sẽ vẩy tung tóe đi khắp nơi... Tuy nhiên, còn ngày nào hay ngày nấy. Một thân một mình, cũng dễ.
- Phần anh sao? Tôi hỏi Văn.
- Tôi đã chọn đi Washington. Thứ hai tới tôi đi.
- Trong toán năm trăm người phải không?
Văn gật đầu:
- Tôi có gia đình, vợ và ba con. Tôi không thể ì ra như anh. Tôi cũng không cho phép mình chọn lựa. Mà chọn lựa cái khỉ gì... anh. Lết cho hết phần đời còn lại. Thế thôi, đâu chẳng là quê người. Bày đặt chọn với lựa!
Lúc đi ngang qua đám người xúm quanh một trụ xi măng, nghe nói, là nơi dựng tượng. Người lãnh phần nặn tượng dơ cao máy xì, chào chúng tôi một cách hãnh diện, vồn vã.
Tôi gật đầu với anh ta và bảo Văn:
- Đêm qua tôi mới ngủ lại ở trại Tám.
Văn nói:
- Tôi biết. Anh có qua thăm vợ con tôi ở lều 17. Anh quên rồi sao?
Tôi cười:
- Ừ nhỉ. Chắc tôi đang mất dần trí nhớ.
- Anh nên để nó mất nhiều hơn, nếu anh còn muốn sống.
- Chắc thế. Tôi sẽ cố.
Câu lạc bộ không còn bàn trống. Văn bảo tôi ngồi chờ để y đi tìm một chỗ ngồi ké. Cuối cùng Văn từ góc phòng đưa tay ngoắc ngoắc. Tôi được xếp ngồi cạnh một thanh niên đeo kính cận. Anh ta nhận ra tôi ngay. Riêng tôi mất vài phút, mới ngờ ngờ như đã gặp anh ta ở đâu, cũng đôi lần. Theo lời anh, thì tôi đã gặp anh ta ở cà phê La Pagode. Rõ ràng là anh ta muốn nói nhiều chuyện... Tôi thì không. Sự nhắc nhở của anh chỉ khiến tôi thêm mỏi mệt, rời rã.
Tôi hỏi:
- Anh có thuốc lá?
Người thanh niên rút cho tôi một điếu Pall Mall và, rất kiểu cách bật lửa cho tôi bằng cái hộp quẹt ga mạ vàng. Tôi nghĩ chắc anh muốn chứng tỏ tuy đi tỵ nạn nhưng vẫn là thứ ngon lành, tay chơi... Tôi muốn dí đóm lửa đã cháy đều, đỏ tươi ở đầu điếu thuốc, vào hai con mắt trắng nhờ sau cặp kính của anh.
Ý tưởng này làm tôi cười khoái trá, như thể tôi vừa trả xong một mối thù ôm ấp bao năm. Văn gọi:
- Two coffees, xong quay qua hỏi tôi cười gì vậy?
Tôi đáp:
- Không. À. Tôi nhớ vợ con.
Đến lượt Văn và, mấy người ngồi cùng bàn từ trước, bật cười. Văn nói:
- Nhớ vợ con mà anh cười được. Cũng lạ!
Lúc ấy người thanh niên mang kính cận vẫn còn nguyên nụ cười trên nét mặt, nhìn tôi vẻ chớt nhả. Tôi nói trong đầu: “Tao sẽ giết mày. Tao sẽ giết mày. Cứ cười đi. Thằng lỏi”.
- Nhớ thương đến độ nào, người ta chỉ có một trong hai cách để chọn. Cười hoặc khóc.
Người con gái ngồi đối diện tôi, có lẽ là bạn hay bồ của anh thanh niên nói:
- Nên ông cười?
Tôi đáp:
- Vì đó là cách tôi chọn.
Tôi lại cười nữa. Lần này tôi cười vì sự ngây ngô của mọi người trước lời phỉnh gạt của tôi. Tôi đã phỉnh gạt cả Văn. Sự thực trong đầu óc tôi lúc đó, chẳng có Thụy, chẳng có ai, ngoài hình ảnh “thằng lỏi đeo kính cận” mà tôi muốn châm mù mắt nó.
Tôi bắt gặp tia nhìn tội nghiệp của người con gái lộ liễu gửi đến.Tôi rất dễ mủi lòng khi nhận được sự tội nghiệp từ những người đàn bà. Có lẽ một trong những tập quán mà mẹ tôi đã cho tôi là thói quen ấy. Thói quen này tôi có vào năm lên bảy, khi mẹ tôi bắt tôi ra tỉnh, ở trọ nhà người dì, em ruột của mẹ tôi. Bà muốn tôi đi học thêm vào mùa hè.
Tôi nhớ hành trang duy nhất tôi mang theo cho chuyến đi đầu tiên (đúng ra là những ngày đầu tiên rời khỏi vú mẹ) là tấm áo cánh không giặt của mẹ tôi lót trong cái gối quen thuộc. Có lẽ tôi là một đứa trẻ kỳ cục. Suốt tuổi thơ cho đến năm mười một, mười hai tuổi, hình như tôi không sống bằng thực phẩm, bằng cơm gạo mà sống bằng mùi hơi của mẹ. Cho đến năm mười một tuổi tôi vẫn còn ngủ chung với bà. Và tôi chỉ có thể ngủ được sau khi đã vân vê hàng giờ cái đầu ti nhăn nheo của mẹ tôi. Bởi thế ba tháng hè ở Phủ Lý là ba tháng kinh hoàng nhất trong suốt ấu thơ tôi.
Không phải mọi người không thương tôi. Chú dì tôi có rất nhiều con - và đa số là con gái. Theo vai vế họ là em, nhưng tuổi tác thì họ hơn tôi. Họ thương yêu tôi như thương yêu một đứa em út. Có thể hồi đó tại tôi mập tròn, trắng như một củ khoai. Hai má đồng tiền không cần cười cũng thấy. Mang tiếng là ra tỉnh, nhưng tôi biết tôi ăn mặc đẹp, sạch sẽ, chí ít cũng hơn hết tất cả những đứa nhỏ cùng dãy phố, hoặc những đứa học cùng lớp.
Tôi nhớ tôi có hai chiếc quần yếm một mầu xanh nước biển, một mầu nâu đất, với hai sợi giây bắt chéo sau lưng. Nguyên ngực tôi là cái túi bự. Bên trong cái túi khổng lồ này, chả bao giờ có một cái gì khác hơn những cây tăm mẹ tôi đã dùng sau mỗi bữa cơm. (Sau mỗi bữa cơm khi người làm dọn dẹp, tôi thường được ngồi trong lòng bà. Bà hay kể chuyện đời xưa khi thì cho các anh và các chị tôi nghe. Cũng có khi bà kể chuyện ngày xưa của bà, với cả bà con, khách khứa). Chuyện đời xưa đây là những mẩu chuyện về cha tôi khi ông còn sống.
Những buổi chiều ở nhà chú dì Giám, tôi thường đứng trước cửa thọc hai tay vào hai túi quần, nhìn qua bến xe đò, về phía rặng núi xa; tưởng tượng nhà tôi, nó ở phía sau rặng núi đó. Sau này tình cờ trong câu chuyện của anh Quảng nòi với ai đó, tôi mới biết quê tôi ở phía sau lưng căn nhà, nghĩa là ngược với hướng của rặng núi.
Khi thấy tôi đứng một mình như vậy, mấy người con gái của dì tôi lại gần tôi, gợi chuyện. Họ thích nghịch tóc tôi cũng như hay sờ cái giải quần tây của tôi. Có khi họ bỏ những viên kẹo vừng hay những miếng chè lam vào cái túi yếm trước ngực. Họ cũng thường rủ tôi chơi nhảy giây, chơi ô ăn quan, rải banh, đánh đũa... Tôi rất thạo những trò chơi con gái này vì suốt bao nhiêu năm, tôi chỉ có một người bạn duy nhất để chơi với là chị Băng.
Nhưng tất nhiên tôi không chơi những trò chơi... con gái như thế với mấy người con gái của dì tôi. Họ đã chẳng từng kháo nhau rằng, tôi giống con gái đó sao. Tôi muốn chứng tỏ ngược lại. Tôi muốn nhắc nhở họ, tôi là con giai. Con giai chứ không phải con gái. Nhưng càng muốn chứng tỏ bao nhiêu, tôi càng thất bại bấy nhiêu! Bởi vì trước sự hỏi han săn sóc của họ, tôi luôn thấy tủi thân! Lúc nào tôi cũng chỉ muốn khóc. Dì Giám bảo:
“Thằng Lãng thế mà mau nước mắt gớm. Chắc là dì cũng chả dám giữ mày ở đây lâu đâu. Hết hè dì trả mày về cho mẹ mày”.
Đêm đó tôi cầu xin trời phật bắt dì phải giữ lời...
Người con gái ngượng nghịu đưa cho tôi mấy bịch đường và nói:
- Đường này, ông.
Tôi cám ơn. Chập ba bịch đường lại xé một lần. Dốc hết vào ly cà phê. Tôi muốn bảo cô ta “đừng nhìn tôi nữa!” Tôi sợ những tia nhìn ân cần, thăm hỏi. Tôi sợ chỉ vì tôi thiếu thốn. Chỉ vì, lúc nào tôi cũng thèm khát những điều đó.
Văn hỏi:
- Anh hút thuốc gì?
Tôi đáp “gì cũng được” và đưa ly cà phê lên miệng.
Những ngày ở Guam, những ngày lênh đênh trên tầu biển của Mỹ tôi đã quen với vị lạt lẽo của cà phê bột. Nhưng bao giờ thì ngụm cà phê đầu tiên cũng làm tôi nhăn mặt. Văn đi mua thuốc lá, lúc này tôi mới nhìn rõ mặt người con gái. Nàng có một cái thẹo nhỏ nằm dưới khóe mắt một bên trái.
- Nãy giờ hình như ông không nói tên ông?
Câu nói đột ngột của người con gái làm tôi và, cả cùng bàn, ngỡ ngàng.
Tôi hỏi lại:
- Bộ cô chưa biết thiệt sao?
Người thanh niên cận thị chen vào, vẫn rất kiểu cách, chỉ tay người con gái:
- Đây là Vân. Em của nhà tôi.
Tôi gật đầu với những tiếng “à... à...” lí nhí trong miệng.
- Có thể tôi đã biết nhưng vẫn muốn được hỏi để nghe ông tự giới thiệu.
Tôi thực sự sượng sùng. Trong đời tôi chưa một người đàn bà nào hỏi tôi như vậy. Cũng chưa một người đàn bà nào đẩy tôi vào tình cảnh tiến thối lưỡng nan như thế.
Tôi nói với người anh rể của cô ta rằng, tôi muốn xin thêm một điếu thuốc nữa. Trước khi cúi xuống châm điếu thuốc mới bằng que diêm tự bật, tôi nói:
- Tôi là Lãng. Cô cứ gọi tôi là Lãng. Lãng là đủ rồi.
Người con gái mỉm cười với ánh mắt ranh mãnh. Hình như từ lúc tôi ngồi xuống bàn, đây là lần đầu tiên cô ta cười (hay lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô ta cười, thì cũng vậy). Nụ cười của cô ta rất lạ. Tôi không diễn tả được. Nó cũng kỳ quặc như lối nói chuyện của cô. Còn một điều nên nói nữa theo tôi, là từ nụ cười kia, tôi có một cảm nhận, nếu ta gặp lại người này, không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra? Tuy nhiên mặt khác, bỗng không tôi lại muốn ăn miếng trả miếng với cô. Chắc vì tôi vẫn còn sượng sùng với câu hỏi trước đấy. Tôi nói không đắn đo:
- Nụ cười của cô làm tôi nhớ vợ tôi.
Cô gái thản nhiên:
- Thiệt hả ông... Lãng. Bà ấy đâu?
Văn trở lại, ném bao thuốc Lucky trước mặt tôi.
- Nhà tôi ở trại một. Bà ấy đang chờ tôi về đi ăn trưa.
- Muộn rồi. Ăn trưa gì nữa.
Văn không hiểu ất giáp gì, nhanh nhẩu đáp. Cô gái nhìn bằng cái nhìn cho thấy, với cô, lời nói của tôi chẳng có một giá trị gì!
- Theo tôi thì ông nên chờ thêm vài tiếng... Đi ăn lúc này sẽ dở dang đấy.
Cô nói. Tôi gật đầu. Chợt thấy mình trơ trẽn trước người con gái. Tôi nói:
- Cô đừng quan tâm đến lời nói của tôi.
Cô gái mỉm cười. Vẫn nụ cười kỳ quặc. Nhưng ánh mắt dịu dàng, chia xớt:
- Vân được trời ban cho nhiều khả năng. Trong đó có khả năng đọc được ý nghĩa thực, giả của từng câu chuyện.
Tôi nghe lòng mình nhẹ nhõm hơn. Cô tiếp:
- Tối nay ông có xuống trại Tám?
Tôi nhìn cô bằng đôi mắt dọ hỏi. Tôi chưa kịp ngạc nhiên. Cô gái đã cho biết, gia đình cô ở khu cuối căn lều đêm qua tôi đã ngủ.
Tôi bảo “à ra thế”, và đáp, có thể tôi sẽ xuống trại Tám vào đêm trước ngày Văn đi.
Câu chuyện xoay qua những người mới đến. Những người đã về và sẽ rời trại. Những địa danh mù mịt. Những phỏng đoán, hứa hẹn vô căn cứ...
Lúc chia tay bên ngoài câu lạc bộ, người anh rể của Vân nói, anh ta thích cái quần Jean tôi đang mặc.
Văn nói bán đi. Văn sẽ cho tôi hai cái quần khác. Đó là chiếc quần jean Thành Hiện Đại bán cho tôi từ nhiều năm trước. Chiếc quần jean nhiều túi màu máu bò. Chiếc quần jean và chiếc áo chemise xám là gia tài còn lại trên người tôi. Tôi trở nên chợ búa một cách khác thường, khi hất hàm hỏi:
- Liệu anh trả được bao nhiêu?
Anh ta nói:
- Ba chục
Văn gật gật bảo được. Tôi trả lời:
- Mai anh lấy.
Tôi quay qua Văn, nói, tôi sẽ chia cho anh hai phần ba.
“Anh dùng tiền đó mà đi Washington...”
- Anh còn muốn mua gì nữa chăng?
Tôi trở lại với người thanh niên. Nhiều phần anh không thấy trong câu hỏi của tôi có điều bất ổn. Anh thật thà.
- Anh còn gì?
Tôi nói:
- Cái đồng hồ mất nắp, nhưng vẫn còn chạy tốt.
- Ngoài ra?
Tôi hất mặt:
- Chỉ còn... tôi.
Mọi người cười ồ. Họ nghĩ tôi nói giễu. Chỉ Vân và Văn, hiểu tôi không giễu.
Tôi nghĩ đến chuyện đêm nay phải khai thật với Nguyễn là tôi đã nhận lời bán chiếc quần jean duy nhất còn lại. Tôi lại nghĩ, hay sẽ nói dối? Nói đã cho Văn làm kỷ niệm? Chắc Nguyễn tin. Tôi chờ đợi tên kia nói thêm một câu gì đó. Tôi thực sự muốn gây chuyện. Văn đập đập vai tôi. Rất may người thanh niên bỏ đi.
Tôi bảo Văn:
- Thôi anh về.
Văn gật đầu. Tôi đứng lại bên này đường đón chiếc xe buýt chạy ngược lên. Văn băng ngang đường nhập bọn với đám người chờ xe về trại tám.
Trước khi tôi không còn nhìn thấy Vân vì khoảng cách và nắng chói, tôi nói vói theo:
- Tối nay tôi có thể xuống trại tám. Vân gật đầu. Mái tóc nàng cắt ngắn. Chiếc áo vét mặc ngoài dày cộm khiến trông từ sau, Vân giống như một người thiếu nữ Tàu làm việc ở công trường Tân Cương vào mùa có tuyết.
Nắng lên nhưng gió núi vẫn thổi từng cơn buốt nhức. Tôi nghe tiếng u u như thể gió từ tai này thổi lọt tai kia.
Chiếc xe buýt đến, tôi leo lên, thẫn thờ như người mất trí. Chiếc xe chạy chậm qua nhiều dẫy lều. Ở đó quần áo đủ mầu được phơi trên những sợi thừng, như hàng trăm lá cờ của các quốc gia hội viên cơ quan Liên Hiệp Quốc. Tiếng loa phóng thanh chát chúa từ các trại ra rả phát đi những lời nhắn tin. Thỉnh thoảng họ lại đọc danh sách những người được gọi lên processing center làm thủ tục xuất trại.
Tôi hãi hùng nghĩ tới lúc ra khỏi vòng rào kẽm nầy. Những gì sẽ đợi tôi ở cõi ngoài đó? Ý nghĩ trở về lại lởn vởn trong đầu. Những ngày đầu ở Guam, tôi cũng đã có ý tưởng đó. Những buổi chiều ngồi trên chiếc ghế bố nhìn mặt trời xuống dần ở chân trời xa thẳm, chờ bữa cơm tối nhiều lần tôi đã ôm mặt khóc ngất. Bỗng dưng lòng thương xót mẹ già, bỗng dưng lòng thương xót Thụy, thương xót Nguyễn, thương xót Phan... không biết trôi dạt về đâu, khiến tôi không còn muốn sống. Nếu không có sự can ngăn quyết liệt của chị Quảng, chắc tôi đã ở lại Guam chờ trở về. Những ngày đó, tôi sống nhờ chị Quảng và nhờ Th. Nguyễn không hiểu thế. Nguyễn không chịu hiểu như vậy. Lúc gặp lại Nguyễn ở Pendleton, nàng đã vứt đi (có thể là nàng đã đập nát) chiếc vòng ngọc mà Th. lén nhờ người cậu trao lại cho tôi khi gia đình Th. được tập trung vào một khu riêng để đáp chuyến bay thẳng Pennsylvania. Tập nhật ký của tôi, dường cũng bị Nguyễn xé nát. Tôi không còn muốn nhớ bây giờ Th. bao nhiêu tuổi. Nhưng lúc đó Th, mới mười sáu, tôi gấp đôi tuổi nàng. Những ngày lênh đênh trên mặt biển, những ngày dưới hầm tầu, những ngày trên đảo, những đêm ở Guam, Th. hẹn tại một mô đất cao. Tự nơi ấy, hai đứa nhìn về thành phố, với những giải đèn nhấp nhô như những đợt sóng màu lóng lánh. Th. đã lãng mạn, ngây thơ nói về ngày mai. Tôi hổ thẹn không dám nói thật với Th. rằng, tôi không còn một ngày mai nào dành cho Th. Cứ mỗi lần như thế, tôi lại hôn vùi lên mặt Th. Tôi ghì xiết Th. để nàng khỏi nói thêm gì nữa. Khi Th. cởi chiếc vòng ngọc trao người cậu đem về cho tôi, ông ta nói “Đây là chiếc vòng ngọc của mẹ Th. cho nó, chiếc vòng không ai có quyền giữ ngoài nó hoặc người chồng tương lai của nó. Nó bảo nó gửi cho anh, anh cố mà gìn giữ”.
Đêm chia tay, tôi đứng ngoài vòng rào, Th. ở bên trong. Đôi mắt Th. thảng thốt như đôi mắt tử tù. Th. làm như chẳng bao giờ chúng tôi còn gặp lại nhau! Và Th. đã đúng. Tám năm rồi, tôi không nghe được một tin nào từ Th.
Lúc biết tin gia đình Th. rời khỏi Guam, anh chị Quảng như trút được một gánh nặng.
Chiếc xe ngừng lại ngang trại ba, một số người xuống và có đam ba người lên. Tôi đứng đậy chuẩn bị vì xe sắp đến bến. Trạm cuối cùng là sân ban điều hành trại Một.
Chợt có tiếng người từ phía sau lưng vói tới:
- Chú là chú Lãng?
Tôi gật đầu:
- Vâng tôi. Cô cần gì?
Cô bé ngập ngừng trước khi tiếp một cách bạo dạo hơn trong sự ngỡ ngàng của tôi:
- Cháu là Quỳ. Cháu muốn nói chuyện với chú được không?
- Được chứ. Có gì đâu. Tôi đáp với ngỡ ngàng còn nguyên vẹn.
Chiếc xe chạy chậm thêm trước khi dừng hẳn. Nhiều câu hỏi bật lên trong đầu, tôi nhường Quỳ xuống trước.
Quỳ có đôi mắt của Th. Đôi mắt thảng thốt nhìn tôi trong vòng rào và, nụ cười của Vân. Nụ cời kỳ quặc. Không định, chúng tôi cùng thả bộ ngang qua cửa sau khu nhà ăn. Lúc đó cái đuôi còn ngắn.
Quý nói:
- Cháu thích một bài thơ của chú.
Tôi đáp:
- Thỉnh thoảng tôi cũng có làm thơ, giống như mọi người. Trong một đời người, ai chẳng có đôi lần làm thơ.
Nư không chú ý câu nói của tôi, Quỳ tiếp:
- Cháu nhớ một bài, không hiểu sao cháu lại nhớ bài đó.
Lối nói chuyện và cung cách của Quỳ thực sự kích thích tôi.
Một vài bài thơ nhỏ thoáng về trong trí nhớ. Tôi không có thói quen nhớ thơ của mình. Nhưng tôi biết, tôi cũng có một vài bài thơ có thể thích hợp với Quỳ. Tôi nhắc tên một vài bài. Quỳ lắc đầu. Quỳ hỏi tôi có muốn Quỳ đọc một đoạn trong bài thơ Quỳ thích? Tôi gật đầu:
- Hẳn nhiên là tôi thích.
Quỳ đọc:
Tặng em sinh nhật mới này
Nến đau đớn thắp cho đầy cuộc vui.
Tôi choáng váng. Tôi bàng hoàng. Tôi lúng túng. Tại sao câu thơ đó lại có thể bám chết trong trí nhớ của một cô gái còn quá nhỏ?
Quỳ đọc dứt đoạn thơ vừa lúc chúng tôi băng ngang đường, dừng trước một triền dốc thoải. Cuối dốc là thung lũng với những cành xồi gẫy và, những bông hoa đỏ như đinh tử hương. Đến gần tôi thấy nó giống mẫu đơn hơn.
Tôi nói:
- Ta xuống kia nha.

Quỳ gật đầu. Dốc thoải nhưng không có lối đi sẵn. Có lẽ những người lính ở đây không có thì giờ để mơ mộng với cái thung lũng nhỏ đầy cành xồi gẫy và, những gốc trắc bách diệp già cỗi này.
Tôi bảo Quỳ:
- Đưa tay cho tôi.
Quỳ chìa bàn tay nhỏ xíu trắng muốt, lốm đốm những bông sữa ửng hồng dưới làn da xanh. Tôi rùng mình. Nhắm mắt. Quỳ rón rén bước theo từng bước. Mặt ửng đỏ. Nhịp máu Quỳ đập nhanh. Cô bé chỉ cứng cõi trong ý nghĩ và, lời nói mà thôi, tôi nghĩ.Trước khi chọn một gốc cây to để cùng ngồi xuống, Quỳ hỏi:
- Chú đi một mình?
Tôi gật đầu, nhìn đồng hồ. Một giờ, giờ tôi hẹn Nguyễn xếp hàng ăn trưa.
Quỳ hỏi tôi có hẹn với ai chăng? Tôi nói dối:
“Không. Tuy nhiên lát nữa chú phải gặp một người bạn”, rồi thêm, “chú sẽ trở lại, nếu Quỳ có thì giờ”.
Quỳ gật đầu:
- Cháu muốn được nói chuyện với chú. Cháu không ngờ gặp chú ở... đây
Tôi dựa lưng vào một gốc xồi lớn. Bầu trời trên cao mở ra như một cái nắp đậy hình tròn, có màu xanh của mây. Quỳ ngồi bên cạnh, luôn tay bứt cỏ. Giữa chúng tôi có một khoảng cách. Khoảng cách đó là sự ngỡ ngàng mà, cả hai cùng như cảm thấy... Loa phóng thanh phát đi những lời nhắn tin tìm thân nhân; cùng tiếng người ồn ào ở trên miệng thung lũng. Chúng trộn lẫn, thả từng đợt xuống thung lũng. Tôi không biết làm cách nào để phá tan sự ngỡ ngàng kia. Tôi lấy thuốc ra hút. Hơi thuốc đầu tiên cho tôi cảm giác muốn nôn.
Ta ốm mất! Tôi nhớ hai hôm trước, lúc ăn cơm xong bữa cơm chiều, tôi dẫn Nguyễn đi bách bộ, tình cờ khám phá được cánh rừng với một con suối nhỏ phía sau lưng trại Ba.
Chúng tôi không phải là người đầu tiên khám phá ra cái “thế giới” thiên nhiên đó. Tôi gặp rất nhiều người đi trở ra, cũng như nghe được tiếng nói từ các bụi cây đâu đó. Tôi bẻ một thân cây nhỏ là gậy, đi sâu thêm nữa, cho đến khi không còn một tiếng ồn nào vọng tới. Đường đi mỗi lúc một dốc lên và khó. Cuối cùng tôi tìm được một cái hang. Gọi là hang vì nó được những cành cây và dây leo bao kín mọi mặt, chỉ chừa một cửa tò vò để chui vào. Những lớp lá khô rụng xuống từ nhiều năm tháng trước tạo thành một lớp thảm dày, như nệm. Tôi sống lại với Nguyễn ở đó, sau gần hai năm cầm bằng vĩnh biệt. Nguyễn nồng nàn, cuồng nhiệt hơn xưa. Nàng khóc. Lập lại ước mơ cũ:
“Em muốn có một đứa con với bố”.
Tôi gật đầu, thở ra. Chúng tôi nằm với nhau như thế cho đến lúc có tiếng bước chân nặng nề và, ánh đèn pin quét qua quét lại phía con đường mòn bên trái. Nguyễn hồi hộp ôm tôi. Nàng thu người nhỏ lại như một con sâu kèn, trong khi tôi cố gắng làm cái kén trùm phủ che Nguyễn. Tôi nói:
- Đừng sợ. Đừng sợ. Mấy người lính đi tuần. Họ đi tuần ấy mà.
Lúc toán lính tuần tiểu ban đêm đã đi xa, tôi sống lại với Nguyễn một lần nữa. Nguyễn mệt lả rũ ra như một tàu lá héo. Tôi mặc lại quần áo cho Nguyễn, đắp thêm cho nàng cái jacket nhà binh trại phát cho tôi hôm mới tới để chống lạnh. Tôi hút thuốc liên miên, canh cho Nguyễn ngủ tới lúc nàng giựt mình tỉnh dậy. Qua vòng lá, đêm trên cao đầy sao. Tôi luồn tay dưới cổ Nguyễn, nâng đầu nàng lên. Tôi hôn lên trán nàng:
“Chúng ta bắt đầu lại từ đầu. Em hãy giúp bố”.
Nguyễn gật đầu. Trong bóng tối, tôi nhìn thấy những giọt lệ lăn nhanh trên khuôn mặt gầy, xanh mét. Tôi muốn tin đó là những giọt hạnh phúc, chẳng biết có phải?
Có thể tôi đã bị nhiễm lạnh từ đêm đó. Bất giác tôi buột miệng:
- Chỉ có cái chết mới thực sự là kết cuộc.
Quỳ giật mình quay ngang. Ánh mắt hắt chiếc bóng Quỳ phủ ngang qua mặt tôi, gần, sát. Lúc này tôi mới thấy hàng lông măng trên môi Quỳ, và những chấm mụn li ti ở hai cánh mũi. Đôi mắt Quỳ thảng thốt hơn nữa. Đôi mắt trong vòng rào. Đôi mắt người tử tù. Đôi mắt như không có trong trần gian. Trong giây phút mơ hồ giữa thực và ảo giác. Tôi kéo Quỳ ngả xuống. Quỳ đè nửa người lên ngực tôi. Tôi vòng tay qua giữ lấy giữ lấy nửa phần thân thể đó. Quỳ run rẩy, không rên, dù chỉ một tiếng nhỏ. Quỳ run rẩy nhưng mặt khác tôi lại có cảm tưởng như nàng đang vận dụng sức mạnh của tất cả các bắp thịt. Tôi xoay mặt Quỳ lại. Sau phút giây điên rồ tôi nghe như có một điều gì đã biến tan cùng chiếc hôn. Tôi nghe trống trải, mất mát. Tôi nghĩ, có thể tôi đã để lại cho Quỳ một vết thương. Loại vết thương khó phai mờ.
Tôi nói:
- Có những lúc người ta như một con thú. Và tôi đã là một con thú ở những ngày vừa qua; cũng như sẽ còn ở ngày kế tiếp.
Quỳ ngồi nhích sát thêm, ngã đầu vào vai tôi yên lặng. Hành động của Quỳ cho tôi cảm tưởng Quỳ đã chuẩn bị trước, giây phút này. Chí ít, Quỳ cũng đang trên đường đi tìm giây phút đó.
Quỳ hỏi:
- Ở tuổi nào người ta mới được phép yêu hở chú Lãng?
Câu hỏi cũng ngột ngạt như sự việc vừa xảy ra. Tôi châm một điếu thuốc mới để có đủ thì giờ đem tâm trí mình trở lại như cũ. Qua làn khói, khi nhìn xuống mặt Quỳ, tôi thấy một vết đỏ có thể là kết quả cái hôn điên dại của tôi.
Tôi nói:
- Không thể dứt khoát là tuổi nào. Nhưng cũng không nên khi còn quá nhỏ.
- Thế nào là quá nhỏ?
- Như Quỳ hiện tại
- Quỳ sắp mười sáu.
Quỳ nói với tất cả hài lòng. Tôi muốn ra khỏi câu hỏi mà tôi không thể trả lời một cách thỏa đáng cho Quỳ; cũng như tôi không thể trơ trẽn đóng vai một nhà đạo đức khi mới vài phút trước đó là những gì có thể coi là thiếu... đạo đức. Tôi lảng qua chuyện khác:
- Quỳ đọc được bài thơ đó ở đâu?
- Trên báo.
- Quỳ thích vì thích, hay vì Quỳ đã sống trong cảnh ngộ ấy.
- Cả hai. Chú Lãng.
Lúc này dường như ký ức tôi đã làm việc tốt trở lại. Tôi nhớ bài thơ đó làm cho Nguyễn, khi Nguyễn quyết định xa tôi. Tôi nhớ những sinh nhật của Thụy rất buồn. Tôi không có một món quà nào cho nàng.Tôi nhớ cá nhân tôi chưa từng có sinh nhật. Một lần nào đó, đón Nguyễn ở trường, lúc đã ngồi yên sau chiếc xe honda của tôi, Nguyễn nói:
“Hôm nay, sinh nhật bố”. Nguyễn là người đầu tiên và duy nhất, nhắc nhở tôi, cho tôi thấy, tôi cũng có ngày để gọi là sinh nhật. Gió tạt ngược lời nói của Nguyễn về phía sau. Nhưng tôi vẫn cảm được trong Nguyễn niềm hân hoan và, hạnh phúc có phần cay đắng. Tôi nhớ tôi nói:
“Bố sốt sang đến ngày thứ năm”.
Nguyễn bấu những ngón tay móng nhọn xuống đùi tôi. Lát sau nàng bảo:
“Em muốn Bố cho em vào Chợ Lớn”.
Nguyễn mở miệng nói về một điều bấy lâu tôi ngỡ chỉ một mình tôi muốn.
Chiều đó mưa. Chúng tôi nằm với nhau trên một cao ốc. Giữa một không khí xa lạ, chỉ phải nghe những ngôn ngữ xa lạ. Khi bài thơ được phổ biến, Nguyễn đã rời thành phố.
Tôi tin Quỳ nói thật. Tôi biết có những người con gái sống với một ảo tưởng bi thảm do chính họ vẽ nên. Lâu dần, họ tưởng họ đã thực sự, nhiệt tình ở trong thảm kịch ấy. Nhưng Quỳ có thực sự ở trường hợp này? Một đứa con gái mới mười lăm tuổi mà đã phải sống với cái cảnh tượng “Nến đau đớn thắp lên đầy cuộc vui”, quả thật, tôi không thể hiểu nổi. Tôi muốn bửa óc Quỳ, tôi muốn moi tim Quỳ ra để được thấy tận mắt đó là nỗi đau đớn nào? Đó là niềm bi thảm nào? Và tại sao, những giọt nến kia đã chảy?
Tuy vậy, tôi bảo:
- Đừng quá bi thảm một sự kiện. Chẳng có điều gì đáng gọi là tận cùng, trừ cái chết. Chỉ có sự chết mới thật sự tận cùng thôi.
Quỳ ngồi thẳng người lại lúc có vài bóng người băng qua thung lũng trên con đường mòn phía xa.
- Vâng, Quỳ sẽ nghe lời chú. Nhưng có những thảm kịch tự nó đã đủ đến độ người ta không cần phải bi thảm hóa nữa. Căn bản nó đã như không thực rồi. Quỳ nói bằng một giọng lạnh lùng, thản nhiên như một người đàn bà năm mươi nói về một giai đoạn quá khứ đã hút xa của mình.
Tôi lay mạnh đôi vai Quỳ. Mắt Quỳ trừng trừng nhìn về phía trước. Lúc tôi chồm tới nhìn sâu vào mắt Quỳ, mới biết Quỳ đang khóc!
Tôi thấy rõ tôi bất lực và đớn hèn như đêm nào cúi đầu, quay lưng để Nguyễn ra đi.
Quỳ quay lại nhắc nhở tôi:
- Chú Lãng đừng quên cái hẹn.
Tôi gật đầu nhưng không thể cử động.
Quỳ tiếp:
- Quỳ chờ chú ở đây.
Tôi vớt vát một cách giả dối:
- Hay Quỳ đi ăn với chú?
Quỳ lắc đầu:
- Quỳ đã no từ lúc... gặp chú.
Tôi đứng lên. Buổi trưa nghiêng theo độ dốc của triền đồi. Những cành xồi khô gẫy vụn dưới chân tôi.
Tôi tìm ra Nguyễn không phải trong cái đuôi mà ở một gốc cây. Nàng đang tựa lưng, mệt mỏi nhìn về bến xe buýt. Tôi nói trong hổ thẹn:
- Bố đi bộ nên về trễ.
Nguyễn ôm ngang bụng tôi. Nàng không chút nghi ngờ:
- Có xe buýt sao bố không đi?
- Bố ngại đợi. Bố có đợi, mà lâu quá.
Nguyễn thọc cả hai tay vào túi áo khoác. Tôi quàng tay qua cổ nàng. Tôi nghe ấm ở phần cánh tay được phủ che bởi mái tóc dài. Chúng tôi là người sau chót của cái đuôi xếp hàng đi ăn trưa hôm đó.
Tôi bỏ gần hết phần ăn của mình. Ngay cả quả táo tôi cũng không nuốt nổi. Hình ảnh, những lời nói của Quỳ nhịp mãi trong đầu tôi, mỗi lúc một mạnh và nhanh hơn. Nguyễn nhận ra sự bất thường này. Nàng hỏi:
- Bố sao thế?
Tôi đáp:
- Chắc bố muốn đau.
Nguyễn lo lắng:
- Ăn xong bố về barrack ngủ một chút.
- Em có ngủ với bố không?
Tôi hỏi. Nguyễn cười. Nụ cười tinh quái. Nguyễn đoán sai ý nghĩa câu nói của tôi. Nàng đáp:
- Em mới ngủ cả sáng hôm qua. Thôi để bố ngủ. Em đi thăm chị Quảng và chơi với mấy đứa nhỏ.
Tôi đáp:
- Ừ. Cũng được.
Tôi chạy băng băng từ barrack xuống thung lũng. Với khoảng cách ấy, nếu tôi đi một cách thong thả cũng chỉ mười phút hơn mà thôi. Dọc đường tôi nghĩ “chắc Quỳ đã bỏ đi”, “Quỳ không thể một mình dưới thung lũng lâu thế”. Ý nghĩ thoáng qua này làm tôi chậm lại. Nhưng sau đấy tôi lại chạy nhanh hơn.
Quỳ vẫn còn đó. Quỳ ngồi vào chỗ ngồi cũ của tôi. Quỳ đang bưng mặt. Tiếng chân làm Quỳ mở ra đôi bàn tay. Tôi ngồi xuống, đưa cho Quỳ trái táo. Quỳ vuốt ve trái táo, không ăn.
Tôi nhích sát Quỳ hơn, bảo:
- Quỳ ăn một chút đi.
Tôi có cảm tưởng như giữa tôi và Quỳ đã có một thứ tình cảm sâu đậm từ nhiều năm trước. Quỳ lắc đầu:
- Quỳ nói rồi mà.
Có lẽ đấy là lần đầu tiên Quỳ ra khỏi cái vỏ mà Quỳ cố tạo cho mình. Giọng Quỳ trẻ thơ, có âm vang của những chiếc khánh treo trước cửa nhà vào dịp trung thu hay những ngày Tết. Tôi đùa:
- Bé con mà bướng gớm!
Quỳ nhăn mũi:
- Chưa đâu. Rồi chú sẽ biết. Chú sẽ phải sợ nhỏ cho mà coi.
Tôi gật đầu:
- Chú sợ Quỳ ngay từ câu nói đầu tiên.
Mặt Quỳ đang tươi bỗng trùng lại:
- Quỳ vẫn muốn chú trả lời câu hỏi lúc nãy.
Tôi cảm thấy tự nhiên và thoải mái hơn:
- Sự thực thì ở tuổi nào người ta cũng có được quyền yêu hoặc có tình yêu.
- Vậy thì vấn đề là ở chỗ nào?
Quỳ hỏi tới. Tôi ngập ngừng vì chưa bao giờ tự đặt cho mình câu hỏi ấy. Thêm nữa trong mắt tôi, Quỳ vẫn còn quá nhỏ. Tôi nói lập lờ:
- Tùy từng qua niệm.
- Thế quan niệm nào là quan niệm của chú?
Cô bé thông minh hơn mình tưởng. Tôi nghĩ, thấy tốt hơn phải thận trọng. Tôi đáp:
- Đời sống không có tuyệt đối. Chân lý cũng chưa hẳn đã là một. Duy chỉ có tình yêu là tuyệt đối, là duy nhất.
- Chú nói như với một người bạn.
Tôi hỏi ngạc nhiên:
- Thì chú chẳng đang nói chuyện với một người bạn sao?
Quỳ hóm hỉnh:
- Một người bạn nhỏ. Rất nhỏ, chú đừng quên.
Tôi cầm lên bàn tay chưa có một vết nhăn, bàn tay đầy những bông hoa sữa ửng hồng dưới làn da trắng xanh:
- Chú muốn nói trong thế giới tình yêu chỉ có A hoặc B. Chỉ có sống hoặc chết. Tình yêu không có chỗ cho bất cứ một dung hòa, một thỏa hiệp nào tỷ như nửa sống, nửa chết.
Quỳ tỏ dấu nhận hiểu có thể nhiều hơn những điều tôi nói.
- Còn nhỏ mà sớm có những rung động có phải là một điều tội lỗi hay đáng xấu hổ không?
Quỳ hỏi. Tôi nhìn thẳng vào mắt Quỳ:
- Rung động đầu tiên nào cũng thánh thiện và quý báu như nhau.
Trời bỗng xầm tối. Những cây đinh tử hương, những cọng cỏ lau như đoán biết một cơn mưa sẽ đến.
Quỳ nói:
- Chú Lãng cho Quỳ hỏi thêm một câu nữa.
Tôi gật đầu, Quỳ tiếp:
- Chú có kết án những người như cháu, yêu người lớn tuổi không?
Gió lớn như muốn bẻ gãy những cành xồi nhỏ dòn trên cao, trong khi những thân cổ thụ răng rắc chuyển mình để chống lại sự đe dọa của tai họa. Tôi nói:
- Mưa sắp tới rồi, ta đi thôi.
Quỳ đứng lên. Tôi hỏi:
- Quỳ ở đâu?
- Quỳ sẽ tìm chú.
Giọng nói của Quỳ bị gió thổi, đứt quãng, Tôi đứng lại nhìn Quỳ băng qua thung lũng, theo đường mòn dẫn về trại Ba. Lúc tôi trở lại barrack thì Nguyễn đã nằm trên giường với tấm chăn dạ chùm kín.
Tôi mở tấm chăn ra. Nguyễn quay ngoắt mặt, không nói. Tôi tần ngần ngồi xuống mép giường sắt. Giữa lúc đó chiếc loa đặt trên nóc phòng ăn, lập đi lập lại tên tôi nhiều lần đi làm thủ tục xuất trại. Ý nghĩ trở về lại lởn vởn trong đầu. Hình ảnh mẹ già, hình ảnh Thụy, hình ảnh những đứa con, bằng hữu, những thói quen và những nơi chốn... Những câu hỏi cũ. Những câu hỏi không có câu trả lời: Tôi là ai? Như thế nào? Ra sao ở những ngày tháng trước mặt? Tại sao chỉ mình ta có mặt nơi đây? Ta có đáng sống hơn những người khác? Ta chẳng là gì cả. Ta chỉ là một điếm nhục. Ta chỉ là bọt bèo. Là rác rến đã bị giòng sông lịch sử dạt lùa về một xó góc lãng quên.
Tôi ngồi như thế trân trân, trối trối. Tôi ngồi như thế và, chợt thấy mình đã bị đồng hóa tự lúc nào với đống vải lùng bùng bẩn thỉu. Tôi và đống áo quần quấn quanh thân thể, chỉ còn là một. Nguyễn nhất định không còn muốn nhìn tôi nữa.
Đến chiều, trời vẫn không mưa. Lúc đưa Nguyễn đi xếp hàng ăn cơm tối, tôi thoáng thấy Quỳ đứng một mình ở đoạn giữa của cái đuôi dài. Khi tôi đi ngang, Quỳ quay đi với một bàn tay che mặt. Tôi thấy xấu hổ không chỉ với Quỳ mà, cả với Nguyễn. Trong phòng ăn tôi không dám nhìn ai.
Giữa bữa ăn. Nguyễn nói:
- Có thể em có thai, bố ạ.
Chúng tôi ra khỏi nhà ăn, trời đổ mưa tầm tã.
BIS
Dứt câu chuyện, người đàn ông với tay về phía sau tắt nốt ngọn đèn còn sót lại trong căn nhà. Người đàn ông đeo kính cận, ngồi ở chiếc ghế xéo góc, có mái tóc dài như người rừng cầm cây đàn guitar bật lên mấy tiếng khô bong, xong ngưng bặt. Căn phòng nhỏ trở nên buốt lạnh.
Trong đêm chỉ còn thấy hai đốm lửa. Họ yên lặng như thể trước mặt người này, người kia chỉ là chiếc bóng hoặc, hình nộm.
Họ ngồi như thế, thời gian chỉ được ý niệm qua những tiếng rít của bánh xe nghiến trên mặt lộ. Tiếng rú liên hồi của những chiếc xe cấp cứu, từ xa vọng lại.
Cuối cùng, người kể chuyện nói:
- Mai tôi đi.
Người ôm đàn guitar hỏi:
- Đi đâu?
- Tìm lại tôi. Tìm lại tháng Bảy.
- Pendleton đã đóng. Bảy năm rồi. Thung lũng đã không còn. Lối mòn đã cỏ dại. Anh quên sao?
Người ôm đàn nói với dáng hơi chồm về phía trước. Người kể chuyện khoa khoa đốm lửa trong bóng đêm mỗi lúc một thêm quánh đặc.
- Tôi nhớ chứ. Cổng Pendleton đã khép. Cơn mưa cũ đã xa. Nỗi niềm xưa cũng nhạt. Nhưng...
- Gì nữa?
- Tháng Bảy vẫn còn. Vẫn còn đó, tháng Bảy. Vẫn còn đó, thung lũng tôi. Buổi trưa tôi. Vạt nắng tôi. Ngọn nến tôi. Ngọn nến. Ngọn nến. Ngọn nến... Anh không thể hiểu được. Tôi cần một ngọn nến.
- Nếu lại là những “nến-đau-đớn-thắp”...?
- Thà thế. Bảy năm rồi. Anh biết, tôi chết như vậy chưa đủ sao?
- Không. Tôi chỉ muốn anh nên nghĩ. Nghĩ cho kỹ.
- Giả tỷ tôi không quen nghĩ?
- Tôi hiểu. Anh quen sống bằng trực giác và thụ cảm.
- Bao giờ anh đi?
- Ngày mai. Nhưng thực ra tôi đã đi. Đã đi rồi. Từ bảy năm trước.
- Mà anh không biết?
- Câu hỏi của tôi vẫn là đi đâu? Nơi chốn nào? Liệu có còn nơi chốn nào cho ta? - Cho riêng anh?
- Tôi không cần biết. Chỉ biết là tôi đi. Khắp nơi. Bất cứ nơi nào có tháng Bảy.
Như đoán biết được sự quyết liệt của bạn mình, người ôm đàn làm nỗ lực chót:
- Anh mong đợi những gì nơi tháng Bảy tìm thấy? Nàng không còn mười lăm. Nàng đã hăm ba...
Người kể chuyện kéo một hơi thuốc lá, thở ra đâu đấy, chậm rãi từng tiếng:
- Mong đợi gì ư? Khó nói quá. Một cơn mưa, thí dụ. Một bàn tay, một sợi tóc, một ánh mắt, một vạt nắng, một làn môi... Tại sao không? Tôi cũng được phép chứ?
- Hẳn nhiên rồi. Anh được phép. Tôi xác nhận anh được phép. Nhưng... người ôm đàn ngập ngừng, nếu cuối cùng vẫn chỉ là những cành xồi gãy?
Người kể chuyện lập lại gần như nguyên văn câu nói của người ôm đàn:
- Dù cho cuối cùng cũng vẫn chỉ là những cành xồi gẫy...
Người đàn ông thở hắt:
- Thế thì thôi.
Người kể chuyện ngậm ngùi:
- Cám ơn anh. Tôi hiểu lắm, lòng anh.
Người ôm đàn húng hắng ho. Lát sau, người này nói:
- Không phải tôi. Anh nên cảm ơn Quỳ.
- Anh không tin tôi tìm nàng để nói một điều gì khác hơn thế sao?
- Đã đành. Nhưng nếu không có nàng, anh có chuyến đi này không?
Người kể chuyện hơi đắn đo, rồi dứt khoát:
- Không có Quỳ, tôi vẫn đi, anh à.
- Thế thì tốt. Anh nên đi. Trước khi quá muộn. Mà... anh đã định chưa phương hướng?
- Tôi định rồi.
- Con đường nào vậy?
- Quá khứ.
Người ôm đàn im lặng. Người kể chuyện cũng không nói nữa. Một lúc lâu sau, có tiếng két két của những sợi dây đàn kéo căng trên phím. Rồi tiếng đàn nổi lên. Lúc đầu vắng xa. Sau về gần, rõ hơn. Rồi như có hơi mưa. Rồi như có mưa. Rồi mưa ầm ầm đổ xuống. Giữa lúc mưa như thác, tiếng đàn bỗng im bặt.
Trong đêm tối, người kể chuyện hỏi:
- Anh có chuyện gì thế?
Người ôm đàn nói:
- Không. Một sợi dây đàn của tôi, đã đứt.
1983
Ông Mèo Rừng
Tình cờ người đàn ông nhìn vào tấm kính chiếu hậu, giữa lúc gió lồng lộng thổi tung mái tóc của người con gái, trông thoáng như cái bờm của một con sư tử hống. Gió chẻ tơi tựa muốn bứt từng sợi tóc của nàng để cuốn vào cái nắng trưa đang hừng hực cháy đỏ.
Những nét nhọn, gẫy giao nhau trên khuôn mặt nàng khiến người ta liên tưởng tới gương mặt của một thiếu nữ da đỏ, khi nhìn nghiêng.
Người con gái nhắm mắt. Những sợi tóc mai vò đập tả tơi trên mặt nàng. Đôi tay khoanh trước ngực, cho cảm tưởng đó là tấm lá chắn kiên cố, vững vàng nhất trước mọi biến động. Ngoài tiếng gió còn có tiếng xe, tiếng nở giãn của những miếng sắt hay thép ở đầu máy. Giữa ba người, sự yên lặng một tấm màn ngăn cách mà không người nào trong bọn họ, đủ can đảm cầm lên dù là một lưỡi lam rất bén, để xé rách.
Chiếc xe tiếp tục lồng tới trong cái nóng cùng hơi thở hồng hộc của buổi trưa gắt.
Người đàn ông ngồi bên cạnh người tài xế có đôi mắt đỏ ngầu, thần trí dường như đã lạc ở một cõi khác. Anh có dáng của một con gấu kềnh càng quen sống miền Bắc cực.
Những dãy phố vun vút bị bỏ lại. Những chiếc xe đồng hành thoát chốc, chỉ còn là những chấm đen di động cùng chiều, dội tới những tia sáng chói.
Người con gái vẫn nhắm mắt. Người tài xế bỗng buộc miệng:
- Bờm sư tử.
Người đàn ông ngồi cạnh giật mình. Anh như kẻ mới về sau một chuyến viễn du không tưởng.
- Cái gì?
- Tôi mới thấy cái bờm của một con sư tử.
Người tài xế nói. Người ngồi bên hỏi:
- Ở đâu?
Người tài xế đăm đăm nhìn vào tấm kính chiếu hậu. Lần này không do tình cờ, anh nhíu lông mày (không hiểu vì nắng hay vì điều gì?) Anh nói:
- Thôi quên đi.
Người con gái vẫn nhắm mắt. Nhưng nàng nghe đủ mẩu đối thoại nhát gừng của hai người đàn ông. Nàng mỉm cười. nụ cười rực rỡ ở mặt khác hơn cái gay gắt của buổi trưa.
Lát sau người con gái mởi mắt cất tiếng dịu dàng:
- Quay hộ Kim cái cửa kính. Anh ạ.
Giò bão dịu dần rồi tắt hẳn ở băng ghế sau. Hình ảnh thiếu phụ da đỏ với mái tóc gó thổi tung như một cái bờm sư tử, cũng không còn.
Đến lượt người tài xế khép lại đôi mắt, cũ.
2.
Nếu trí nhớ tôi không quá tồi tệ thì dường như Quyên đã gọi tôi là “Ông Mèo Rừng” mỗi khi nàng nói chuyện hay viết thư cho Thược. Thuở ấy Quyên là bạn thân nhất của Thược. Quyên về ở chung với chúng tôi trên một căn gác làm thêm, phía sau nhà bếp, vùng xa cảng.
Những buổi trưa Thược có giờ ở trường không về được, Quyên lo cho tôi những bữa cơm, duy nhất một hột vịt luộc dầm trong chén nước tương mang nhãn hiệu Lá Bồ Đề và, một nhúm bắp cải héo mua từ người bán rong đầu ngõ.
Tôi gọi đó là những buổi trưa quê nhà tháng mười một. Tôi nhớ như vậy vì tôi sinh vào tháng đó. Thược và Quyên, ở tháng kế tiếp. Tôi nhớ những buổi trưa quê nhà, tháng mười một, giữa cái nóng hầm hập của ngoại ô Sài Gòn, bất cứ lúc nào, một trận mưa ồ ạt cũng có thể bất thần đổ xuống và, bao nhiêu buổi trưa không có Thược, tôi và Quyên chỉ mong một cơn mưa, như thế.
Dường như chúng tôi đã ngầm thỏa thuận với nhau, nếu một cơn mưa xập xuống, điều đó có nghĩa, chúng tôi sẽ không chạy trốn điều cả hai cùng cố giữ vì Thược.
Rất may cho chúng tôi, suốt thời gian này, xa cảng đã không có một cơn mưa nào. Chỉ có những cơn mưa khi tôi về đó, buổi trưa một mình, đọc những mẫu giấy nhắn tôi trên vách. Hoặc khi ấy, bên tôi là Th. mà thôi.
Tôi nhớ những lần điện thoại cho Quyên ở Nha Khảo Thí, bảo Quyên mượn tiền đi uống cà phê. Đó là những ngày Thược đã rời thành phố. Nàng về một ngôi nhà ven biển. Nơi Thược dự tính cắt đi một mái tóc, khoác lên người một màu áo khác. Cuối cùng dự tính không thành, sau khi Thược viết cho tôi một lá thư, báo rằng nàng đã tự tay chôn cất đứa con giữa hai hàng dương. Đứa con trai đầu tiên của chúng tôi. Đứa con trai mang tật nguyền trên bàn tay từ bố nó.
Quyên kể tôi nghe mấy anh công chức nhà quê mê nàng, rất hoan hỉ, sung sướng mỗi khi được Quyên hỏi mượn tiền. Chúng tôi cười ngặt nghẽo khi Quyên đạp chiếc xe mi ni đến chờ tôi ở cuối dốc của trại lính. Một ly cà phê sữa cho tôi lúc đó giá trăm hai. Gói thuốc Bastos xanh, khi ấy một trăm đúng, và ly cà phê đen của Quyến (dù nàng chỉ nhấp một thìa, nhưng phải có) giá tám chục. Tôi cũng không còn nhớ dạo ấy, tại sao tôi lại có thể túng quẫn đến thế. Từ ngày Thược bỏ đi, tôi vẫn tiếp tục đi dạy thêm. Nhưng sự ra đi của Thược dường như đã đem theo cùng với nàng tất cả. Thược chỉ để lại cho tôi, những con đường, chỗ ngồi, và một Quyên tội nghiệp. Có lẽ Quyên cũng hiểu tôi muốn tìm gặp nàng chỉ để hỏi chuyện Thược. Chỉ để nhắc nhau về Thược. Cho riêng tôi cảm tưởng Thược vẫn đâu đó. Nàng chưa ra khỏi thành phố này.
Mỗi lần gặp nhau, câu chuyện bao giờ cũng xoay quanh “bà Thược”, căn gác và, cuối cùng là tin chiến sự với con số cập nhật trong danh sách của chúng tôi, những người bạn, “đền nợ nước!”
Suốt thời gian này, điều tôi nhớ rõ, chính xác nhất là chẳng bao giờ Quyên còn dùng ba chữ “Ông Mèo Rừng” để gọi tôi. Những lần Quyên tìm tôi ở trại, không gặp, để lại thư, Quyên cũng chỉ dùng cái tên thường nhật của tôi là “ông Nam” mà thôi.
Thâm tâm tôi định thế nào cũng phải có một lần tôi hỏi Quyến cho ra lẽ: Tại sao Quyến lại cho tôi cái hình ảnh kia? Cái hình ảnh mà tôi biết Thược rất thích. Nàng rất thú vị với ví von này. Chẳng thế mà trong thư từ đôi khi ngay cả lúc nói chuyện với Quyên, Th. cũng đã dùng ba chữ “Ông Mèo Rừng” để nói về tôi.
Một buổi chiều cuối năm, sau khi lãnh tiền dạy học, tôi đi tìm Quyên. Tôi nói:
“Hôm nay tôi có tiền...”
Quyên cười. Nụ cười luôn ứa ra một nỗi buồn rất lạ! (Dù chỉ cần hơi cười, người ta cũng có thể thấy cái xoáy đồng tiền nhỏ bên má trái của Quyên. Không lẽ khi Quyên cười, đôi mắt của nàng đã buồn hơn bất cứ lúc nào khác?) Quyến bảo:
“Ta đi ăn đi!”
Tôi gật đầu, “Chính thế”, và nhắc Quyên cất chiếc xe đạp của nàng ở sở. Rất tự nhiên, Quyến quàng tay ôm ngang bụng tôi. Tôi chở Quyến đến đền thờ Tây Hồ. Không phải vì bánh cuốn Tây Hồ nổi tiếng mà, còn vì đó cũng là một trong những chỗ tôi và Thược thường ngồi nhất. Dọc đường tôi nói, bàn tay của Quyến khiến tôi nhớ đến Thược. Chỉ khác, Th. thường mở một nút áo chemise tôi ra và, nàng nghịch chơi cái bụng hoặc ngực tôi.
Không biết Quyên có nghe được câu chuyện tôi kể? Nhưng tôi nhớ, Quyên đã im lặng. Nặng im lặng gần như suốt buổi tối, cho đến lúc rời quán cà phê, hai đứa đứng cạnh nhau khá lâu, bên cây nhãn mới trông trên lề đường Đinh Tiên Hoàng. Khi tôi tra chiếc khóa vào ổ máy, ngước lên thấy mặt Quyên sát gần. Ánh mắt Quyên thảm đạm, đêm cuối năm! Tôi bỗng nhớ Thược. Nhớ thắt nghẹn. Nhớ điên cuồng. Nhớ cào xé... Tôi hôn Quyên.
Tôi biết mọi người trong quán đang lõ mắt nhìn tôi. Tôi biết con bé bán thuốc lá lẻ, ngồi sau cái xạp bán thuốc cũng chết trân trước sự kiện đột ngột này. Tôi cũng biết có thể nó nghĩ về tôi không ra gì bởi vì suốt một thời gian dài, nó rất “bồ” với Thược. Chỉ Thược mới có thể mua chịu những gói Philip Morris cho tôi, trị giá cả năm trăm đồng, thời ấy.
Trên đường chở Quyên về Nha Khảo Thí sở làm lấy xe, tôi định hỏi Quyên về ba chữ “Ông Mèo Rừng”. Nhưng ở phía sau, Quyến đã như cây nước đá đông cứng!
Năm tháng sau, tôi ra đi. Quyên ở lại.
Tôi nghĩ vĩnh viễn đến ngày chết, sẽ chẳng còn cơ hội hỏi Quyên về xước danh “Ông Mèo Rừng” Quyến đặt cho tôi, khi vì lá thư cuối cùng Thược nhận được từ quê nhà, Quyên viết:
“Tôi sẽ ra đi một lần nữa. Lần thứ ba. Nếu lần này không thoát, bà và ông Mèo Rừng hãy coi như tôi đã chết. Tôi vắt kiệt chút sức tàn cho lần cuối cùng này. Hai người hãy cầu nguyện cho tôi! Một người bạn cũ”.
Theo Thược thì đó là lần Quyên chấp nhận điều Quyến khinh bỉ nhất, lấy một cán bộ Cộng sản, để có được bảy lượng vàng, ra đi.
3.
Qua điện thoại, người đàn ông nói giọng hốt hoảng:
- Hãy đến ngay với Anh.
- Chuyện gì thế? Có chuyện gì thế, anh? Người con gái hỏi lại.
- Không. Không có gì. Kim đừng bắt anh phải giải thích.
- Vâng. Kim đến ngay, Anh ạ. Chữ “ạ” sau cùng người con gái nói bằng một giọng rất dễ thương.
Người đàn ông nghe được tiếng ống điện thoại đặt xuống ở đầu giây bên kia.
Buổi chiều đã xẫm mầu bên ngoài khung cửa. Người đàn ông nhớ lại một buổi chiều, khi chiếc xe của hai người đừng lại ở một ngã tư, người con gái đột ngột nói:
“Buổi chiều, muốn khóc. Anh ạ”.
Người đàn ông hỏi:
“Chiều vàng”.
Người con gái đáp:
“Không, chiều tà!”
“Ừ, chiều tà!”
Và trong đầu người đàn ông, khi ấy không phải chỉ có một phím dương cầm, mà cả triệu phím dương cầm cùng thánh thót một số nốt nhạc trong bản nhạc không phải là “Chiều tà” như đã trả lời mà là “Dạ khúc” - là Serenade của Schubert. Là “... Dù một ngày đời sẽ vỡ tan, rồi người về khuất chân trời - nhớ môi hương cho một chiều xanh cõi đời còn như tiếng cười. Buồn mãi mãi rồi... cuộc tình vĩnh viễn xa vời - chỉ còn thương nhớ mà thôi. Bóng tối buồn không... màu...”
Buổi chiều. Buổi chiều. Buổi chiều... Người đàn ông như một con thú bị thương lồng lộn trong cũi lớn. Anh muốn gầm lên giữa lúc buổi chiều, buổi chiều, buổi chiều còn vang trong đầu anh một điệu nhạc dĩ vãng.
Khi người con gái tới thì người đàn ông đã như một bầu trời chứa nặng một cơn mưa, hay một trái bóng bị bơm hơi quá căng, chỉ còn chờ để... vỡ.
Người con gái dịu dàng ngồi lọt thỏm nơi chiếc ghế bành. Nàng như thủy tinh, trong vắt. Nàng như một cây cà lem xanh mướt và, mát lạnh. Mái tóc người con gái từng sợi như tơ chảy xuống, chấm ngang hai cục xương nhô lên trên đôi vai ốm. Ở nàng, không còn một dấu vết nhỏ nào để người ta có thể liên tưởng tới một cái bờm sư tử. Người con gái lúc đó, chính là một bình minh. Nàng là một sớm mai hồng trong khu vườn riêng thiếu máu của người đàn ông.
Điều kỳ diệu nhất nơi một người đàn bà ở chỗ họ có thể là buổi chiều, sớm mai, hay bóng đêm giữa những khoảnh khắc ngắn.
Lần đầu tiên người đàn ông đặt tay lên vai người con gái. Anh ngửi được mùi thơm từ những sợi tóc mới gội.
Người đàn ông bảo:
- Nói với anh một điều gì đi, Kim.
Người con gái lắc đầu. Có dễ nàng còn bàng hoàng từ cú điện thoại trước đấy. Có dễ người con gái đã không chuẩn bị để chờ đợi một cơn mưa, như thế, rơi xuống, mặc dù thực tế thì cơn mưa đã rơi, và giòng sông đã cuộn chảy.
Người đàn ông lắc đầu trong lúc tay anh cời từng lọn tóc của người con gái.
- Anh điên mất. Kim.
Người con gái gật đầu. (Nàng không quay lại nhưng vẫn gật đầu. Cái gật đầu thay cho câu trả lời quen thuộc: “Kim hiểu”)
Căn nhà tối lạnh. Những tiếng động lạ phát ra từ căn phòng đóng kín tựa những tia chớp lóe lên từ một mặt biển chết, tiếp theo niềm im lặng ngột ngạt.
Người đàn ông quờ quạng trong sự mù lòa của những bồng bột thơ ấu. Người con gái cũng quờ quạng trong sự mùa lòa của điều mà trái tim nàng muốn trốn chạy. Họ mù lòa trong họ và trong nhau. Họ quờ quạng trong rung động bản năng và, trong tiếng kêu cứu tuyệt vọng của ý thức. Những ngón tay người đàn ông run rẩy trên từng phần thịt da để trần của người con gái. Buổi chiều quằn quại, rẫy dụa trước khi tắt thở vĩnh viễn bởi những sợi giây xiết vô hình của bóng đêm. Giữa lúc đó, người đàn ông hôn nơi gáy nàng.
Lúc dang khỏi người con gái, người đàn ông thấy tội nghiệp mình. Anh nói:
“Anh xin lỗi Kim”.
Tiếng nói dội lại anh. Anh bỗng thấy trong anh, tuồng một kẻ nào đã khóc. Người đàn ông nắm tay người con gái đứng dậy. Nàng nói:
- Kim thật không phải.
Người đàn ông lắc đầu, anh muốn nói: “Kẻ khác mới chính là nỗi tuyệt vọng của ta”. Nhưng anh biết không nên thắp thêm một ngọn nến nào nữa trong lúc này. Đôi khi con người cũng mắc phải cái lầm lẫn khá to lớn, đó là sự đinh ninh, ánh sáng tiểu trừ được bóng tối. Sự thực, ánh sáng hay bóng tối chỉ là một. Như ngày hay đêm cũng chẳng mang một ý nghĩa nào khác hơn một tên gọi. Cuối cùng, người đàn ông nói một câu chính anh không dự trù;
- Ta ra vườn đi!
Khởi từ đó, đêm thực sự mở ra, ngày thực sự bắt đầu. Thiên đường của họ là một bàn tay đưa ra cho một bàn tay khác nắm lấy. Địa ngục của họ là những đôi mắt cúi nhìn nỗi bi thương thảm đạm của những ngày tháng cũ. Trong đó có biển đông. Bờ bãi. Trại đảo. Sống chết. Có hạt gạo là hạnh phúc. Có ái ân là những phút giải sầu. Có những tưởng là... vô cùng ngây độn. Có những mơ ước thấp hèn ngang bản năng...
Khởi từ đó, những nụ cười mới. Những tế bào mới sinh sôi nẩy mở từ những tế bào nhầy nhụa. Hạnh phúc của họ là những sợi tóc. Đau đớn của họ là những môi hôn. Họ như rừng sâu cho người kia bước tới. Họ như núi cao, cho kẻ nọ là người thứ nhất đi lên.
Khởi từ đó, ánh sáng và bóng tối chỉ còn là một. Ngày hay đêm, không bao giờ nữa chia hai. Họ không hề nói với nhau về tương lai. Họ tinh khôi, họ thanh thoát, suốt trong, bước ra từ một quá khứ bầm dập. Người này gọi đó là thiên đường. Kẻ kia mỉm cười bảo, địa ngục mới đúng. Thiên đường và địa ngục cuối cùng đã nhập một. Họ cũng không còn là hai.
Những móng vuốt, những máu xương, những thịt da thu lại, qui về đôi bàn tay có ngón khổ ải. Có ngón bao dung. Có dễ không cần thiết nữa một cơn mưa, dù trước đó người con gái thảng thốt: “Đừng. Không mưa đâu, anh ạ...”
Lúc chia tay, để trả lời câu hỏi của người đàn ông, người con gái nói:
- Điều Kim muốn cho anh đêm nay là uống một ly sữa thật đầy và di ngủ... sớm.
4
Quyên,
Nếu không kể những mẩu giấy viết vội, nhắn gửi Quyên, thì đây là lá thư đầu tiên tôi viết cho Quyên.
Tôi không tin Quyên đã chết. Tôi không tin biển đông đã khép lại đôi mắt Quyên buồn bã. Thái Bình Dương đã rửa sạch những ô uế cùng những thảm thiết của một ấu thơ Quyên tối tăm với người cha nghiệm rượu và người mẹ ghẻ hung ác.
Tôi không tin nên mới viết lá thư này. Cũng như tôi tin sớm muộn gì những điều tôi viết ở đây sẽ về đến quê nhà. Về đến hay bay ngang qua những con đường chúng ta đã đi, căn gác chúng ta đã ở với Thược, quán cà phê chúng ta đã ngồi và cây nhãn (có lẽ chỉ còn cây nhãn) người chứng cuối cùng buổi tối tôi hôn Quyên. Những năm quê nhà đã bao lần tôi phải dỗ dành Quyên: “Cố mà sống, gắng mà sống, Quyên à!”. Niềm tin, đến một mức độ nào sẽ thành chiếc khóa mở được cánh cửa mơ ước. Khi ấy chính là lúc ta sống được cái đời sống lẽ ra ta phải có.
Quyên biết không, tám năm quê người, hôm nay tôi đã dùng chính lời khuyên, lời dỗ dành, dành cho Quyến để dỗ dành tôi: “Cố mà sống, gắng mà sống. Niềm tin đến một độ nào sẽ trở thành chiếc chìa khóa mở được cánh cửa mơ ước...” Tôi đã tự dỗ dành tôi, mỗi đêm xuống. Quyên không thể hiểu được đâu “Ông Mèo Rừng” lúc này chỉ còn những ước mơ tầm thường, nhỏ mọn. Tỷ như mỗi buổi sáng mở mắt ra, tôi mong được thấy một dáng người! Dù chỉ là một dáng người mà thôi.
Tôi muốn lập lại ở đây đoạn cuối cùng trong lá thư sau cùng của Quyên, gửi cho Thược và tôi:
“Hãy cầu nguyện cho tôi. Một người bạn cũ. Và hãy quên, hãy cố quên đi cái hình ảnh, cái tên gọi ngày nào: “Ông Mèo Rừng”. Bởi vì “Ông Mèo Rừng” đã chết. Thực sự ổng đã chết, có chăng chỉ còn lại một người tầm thường tên Nam. Và có thể, chính cũng không còn là y nữa!”.
9-1983
Phải em, rồi như sương
Tan theo ngày nắng vội.
Du Tử Lê
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đi tìm một vì sao: Quê nhà, đất nước, tình người! – Kỳ 1 Suốt hành trình tham gia kháng chiến, mỗi nơi từng sống và chiến đấu đều lưu lạ...