Đọc lại thơ thiếu nhi của Vi Thùy Linh
Việc sử dụng đắc địa thủ pháp nhân hóa cũng góp phần
quan trọng để tạo ra được cho thơ thiếu nhi của tác giả loạt biểu tượng nghệ
thuật rất mới. Nhờ chúng mà những vật vô tri vô giác bỗng trở nên lung linh huyền
ảo, tạo cảm giác: thế giới nghệ thuật trong thơ thiếu nhi của Vi Thùy Linh được
dệt bằng những sợi tơ mong manh của thứ tình cảm tinh túy, nguyên khôi.
Tài năng của Vi Thùy Linh phát lộ khá sớm. Năm 19 tuổi
(1999), cô sinh viên của Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã có trong tay tập
“Khát”, thi phẩm ngay lập tức đã tạo được dư luận rộng rãi và trái chiều trong
công chúng. Còn những truyện ngắn có vẻ già dặn, trên báo Văn Nghệ của Linh
ngày ấy đã khiến nhiều người cứ ngỡ đó là văn phẩm của một người đàn bà từng trải.
Hầu hết những bài thơ trong “Chu du cùng ông nội” – (NXB Kim
Đồng, 7.2011) đều đã đăng rải rác trong các tập trước, nhưng khi đứng cạnh nhau
một cách hệ thống, chúng đã bất ngờ mang đến cho độc giả góc nhìn mới về chân
dung tâm hồn của nhà thơ Vi Thùy Linh. Nó góp phần lý giải tại sao Linh lại tổ
chức được những đêm thơ thành công, với sự hội tụ của rất nhiều người nổi tiếng
ở những lĩnh vực khác nhau đến thế. Họ trân trọng yêu quý, bao dung, sẵn sàng ủng
hộ bởi Linh làm việc với mục đích trong sáng; làm việc rất hiệu quả với niềm
nhiệt huyết đam mê – lúc nào cũng như cháy lên để sáng. Và đằng sau vẻ cực
đoan, có chân cảm và chân tài, sống trung thực và thẳng thắn.
Tập thơ gồm 22 bài, được chia làm 3 phần mạch lạc. Phần I:
Giao cảm, 7 bài; Phần II: Giáng sinh con, 7 bài; Phần III: Đi đến ngày xưa, 8
bài. Một tập thơ thiếu nhi xinh xắn, thú vị bởi lối viết thơ rất chuyên nghiệp
và còn bởi giữa lúc lối sống vô cảm đang có nguy cơ tràn lan, tác phẩm đã được
ra đời với niềm khao khát mãnh liệt, róng riết vì trẻ thơ và cũng rất róng riết
vì thơ: Tất cả người lớn/ Sống vì trẻ con – (Như là đồng dao)
Mặt khác, nhờ tài vẽ bìa và minh họa của Nguyễn Thị Hiền mà tập
thơ càng thêm hấp dẫn: bắt mắt và dễ thương. Nữ họa sĩ đã gửi gắm vào đây rất
nhiều tình cảm mến yêu, trân trọng. Chẳng thế mà trong một dịp triển lãm đặc biệt,
nhân Đại lễ ngàn năm Thăng Long, tại Việt phủ Thành Chương, bên cạnh những câu
văn, câu thơ đắt giá của các tác giả lớn: Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân
Hương… và các bậc lão làng: Nguyễn Tuân, Kim Lân, Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận,
Chế Lan Viên,… bà đã ưu ái chọn câu thơ: Môi ngậm lời yêu để hóa thành bất tử của
Vi Thùy Linh trang trọng đưa vào một bức tranh sơn dầu của mình.
Giữa cuộc sống ào ạt, gấp gáp, lâu nay như một mặc định, nhiều
người quen nghĩ rằng với lối sống quá hiện đại, Vi Thùy Linh thuộc nhóm nhà thơ
đi đầu của khuynh hướng thơ tình yêu. Với “Chu du cùng Ông nội”, độc giả nhận
ra có một Vi Thùy Linh khác, một Vi Thùy Linh thật đáng yêu của tuổi thơ và
“Chu du cùng Ông nội” chính là món quà chị ấp ủ, nâng niu dành tặng cho trẻ em
thế kỷ XXI, những đứa trẻ không chỉ thông minh kiểu ngây thơ và khôn ngoan, lém
hỉnh, mà mang dấu ấn của thời đại công nghệ thông tin: biết nhiều, già sớm. Còn
tác giả của nó, lòng đầy tiếc nuối, đã quyết định mua một vé để về lại tuổi thơ
huyền diệu, cấp “cho tôi xin một vé đi tuổi thơ” (tên tác phẩm của Nguyễn Nhật
Ánh).
Phần I: Giao cảm là những bài thơ được viết khi Linh ở độ tuổi
trăng tròn. Tâm hồn trong sáng, nhạy cảm, người thiếu nữ 16 ấy đã dâng cho đời
những vần thơ đẹp và dịu dàng, báo hiệu một tài năng hé lộ:
– Em ngắt vài cọng gió/ Thả lên dấu thời gian/ Vừng ơi! Em niệm
chú/ Ước mơ về xênh xang”- (Giao cảm)
– “Lá rơi như thuyền nhỏ/ Chơi vơi giữa dòng đời/ Và mùa
rất thu rồi/ Trời se nỗi nhớ”/ Chuông thả giọt bình yên/ Trăng dịu dàng hôn
tóc/ Thì thầm qua ánh mắt/
Đêm tròn một cõi thiêng...- (Với mùa)
Người đọc đã thấy thấp thoáng cá tính mạnh khi cô bé quyết
không để mẹ cha buộc dây cương mà luôn muốn một mình cùng con bạch mã tung bờm
phi nước đại giữa cuộc đời đầy những phong ba.
Trong một cuộc phỏng vấn của Đài Truyền hình Hà Nội, tôi đã
cho rằng, thanh nữ bây giờ, so với thế hệ chúng tôi, họ có phần kém lãng mạn.
Khá đông người nhận xét: giới trẻ hiện nay lười đọc. Có lẽ những nhận xét ấy cơ
bản là đúng, sau chỉ đúng ở những trường hợp khác.
Phần II: Giáng sinh con là khát vọng muôn thuở của người phụ
nữ về hạnh phúc giản dị mà thiêng liêng. Đó là tổ ấm bình yên mà tâm điểm là những
đứa trẻ đáng yêu hay ăn chóng lớn: Bầy con tôi phúng phính/ Răng sún má
lông tơ/ Ham ăn như heo đói/ Dắt bố mẹ vào mơ…
Thật bất ngờ, ở tuổi 20, Linh đã có quan niệm rất nghiêm túc
trong tình yêu. Đích của tình yêu là hôn nhân và những đứa con mang bức thông
điệp của niềm hạnh phúc bất tận phải là kết quả của một tình yêu duy nhất trong
cuộc hôn nhân lý tưởng và hoàn hảo:
“Mẹ chờ con, hiện thân của tình yêu mẹ với người đàn ông duy
nhất ngự trị trái tim tâm hồn mẹ”.
Thậm chí, khi nhiều người đang có xu hướng sống một mình, hoặc
chỉ muốn làm mẹ đơn thân thì cô lại mong con đàn cháu lũ. Trong cô, vẫn nguyên
vẹn những quan niệm đạo đức kinh điển về sự thiêng liêng quan trọng của tình
yêu và hạnh phúc gia đình: Con ơi…con ơi!/ Không biết bao lần mẹ đặt tay
lên bụng, gọi con/ Mẹ khao khát mang con, mặt trời đang phôi thai trong mẹ/ Mẹ
muốn có thật nhiều mặt trời…/ Con ơi! Con ơi!/ Con đang bay ở đâu? Con đang bay
ở đâu?/ Hãy theo tình yêu của Cha, đậu vào lòng Mẹ – (Những mặt trời đang
phôi thai)
Điều đó đủ thấy, Linh không chỉ giàu tình cảm mà còn sống có
trách nhiệm, trách nhiệm với mọi người, với xã hội, với thiên nhiên – môi trường.
Công dân trẻ ấy lúc nào cũng đau đáu niềm nuối tiếc, xót xa cho những biểu tượng
văn hóa thiêng liêng của kinh thành Thăng Long yêu dấu: dòng sông Hồng “Sông
ngày một cạn, hẹp lại hai bờ/ Còn đâu hướng gió cho thuyền làm thơ” và cây
cầu Long Biên già đang phải “Căng vai nhịp võng, cố gồng mình sáng cho người
thờ ơ”. Cô hiếu thảo với ông bà, cha mẹ và giữ lối sống nề nếp: dù bận thế
nào thì chậm nhất 22g30 cũng có mặt ở nhà. Lúc rảnh rỗi thì giúp mẹ cơm nước, rửa
bát, dọn dẹp, giặt giũ. Không dám nói chuyện điện thoại to sợ làm mất giấc ngủ
của mẹ cha,…
Phần III: Đi đến ngày xưa, được viết khi tác giả ở cuối tuổi
thanh niên. Khi đã đi nhiều, biết nhiều, đã ngộ ra giá trị đích thực của cuộc sống,
khi đã biết cách học thua rồi, con người càng khao khát được trở về năm tháng của
tuổi thơ trong sáng thần tiên, để được sống với những kỷ niệm êm đềm tươi đẹp.
Xưa nay không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông nên tất cả chỉ còn là
hoài niệm. Mọi mơ ước trong cô rồi mãi mãi chỉ là ước mơ. Cuộc trốn chạy về miền
cổ tích dù cố gắng mấy cũng chẳng thành:
“Bây giờ, bây giờ đây con không bao giờ muốn chạy đua với
trăng, với ai nữa, dẫu là chính con
Con chỉ muốn chạy về tuổi nhỏ!
Bố bảo không thể ư, như Bố đã không thể kiệu con lên vai xem
pháo hoa, cho con ngồi chân”cần cẩu, máy bay”trèo lưng “cưỡi ngựa”.
Chiếc“Phượng Hoàng” cũ bán rồi”
(Đi đến ngày xưa)
Sinh ra và lớn lên ở giai đoạn bản lề, sau chiến tranh và trước
thời kỳ đổi mới, khi đất nước rơi vào cơn khủng hoảng trầm trọng, đã trải qua
quãng thời gian đói nghèo, vất vả nên Linh biết quý trọng kỷ niệm, biết trân trọng
tình cảm thiêng liêng. Ở Linh dường như có 2 con người: trong thẳm sâu cô là một
con người tình cảm, mềm yếu rất đàn bà, bề ngoài lại tỏ ra hết sức bản lĩnh, cứng
cỏi; cứ tưởng vội vã nhưng lại rất tận tình, chu đáo; cảm tính đấy mà vô cùng
sâu sắc… Như một quy luật: mỹ học bao giờ chẳng là sự gặp gỡ giữa hai mặt đối cực.
Gặp một cụ già còng lưng đạp xe, hay bước đi liêu xiêu trên đường, Linh lập tức
ứa nước mắt nhớ Ông nội Vi Kiến Minh – người họa sỹ tài hoa, đã mất khi cô bé vừa
một tuổi rưỡi và trong cô dâng tràn một niềm hiếu kính, khát khao được chia sẻ,
bù đắp những ngày thiếu thốn nơi Ông:
Suốt đời con là người thiếu hụt
Hễ thấy ông lão nào đạp xe, bách bộ con đều nhìn rất lâu và
khóc”
Đây món ngon, thuốc bổ mời Ông, con đưa Ông chu du khắp nơi,
toile trắng chất đầy, ông tha hồ vẽ
(Chu du cùng Ông nội)
Rồi bỗng tưởng tượng cảnh mình được nắm tay Ông nội đưa Ông về
quê mình, về lại cội nguồn Cao Bằng, nơi kinh thành Ánh sáng, chốn Thiên đường,
trong cõi mơ trên cánh đồng hoa của tuổi thơ, trong ngan ngát mùi vị quê hương
xứ xở:
“Mùi hoa, mùi rau, mùi xôi bảy màu. Có mùi rừng núi gió cây./
Chim yến, nhạn dệt những đường bay/ Khói lam, áo chàm, rượu bát/ Bánh khảo giấy
hồng nhuộm vân tay”
Và chỉ thoáng chút hương bưởi thôi đã thức dậy trong Linh nỗi
nhớ thương da diết Bà nội kính yêu – suốt đời chỉ biết vì con, vì cháu mà nào
có được hưởng một ngày hạnh phúc:
“Khổ thân bà, vắng Ông, chèo chống đàn con bốn đứa
Những tấm ảnh Bà gầy xanh, bệnh tật mà vẫn dẻo dai chịu đựng,
nỗ lực nuôi các con nên người
Khi còn trẻ ngất đi vì đói
Lúc về già lại phải ăn kiêng
(Trên đường làng đá xanh)
Ý thức cao độ: chữ bầu lên nhà thơ nên ngôn từ trong thơ của
Vi Thùy Linh được chọn lựa rất tinh tế, chứng tỏ cô điều binh khiển tướng rất
tài. Nếu tất cả các danh từ chỉ các bậc cao niên mà cô yêu quý như Ông, Bà, Bố,
Mẹ, (và cả Anh trong những tập khác) đều được thi sỹ trân trọng viết hoa, thì để
tạo ra những bài thơ chất lượng cao cho các bé, Vi Thùy Linh đã tìm được một lối
đi riêng. Biết mình là diễn viên tồi trên sân khấu phi lý của cuộc đời, “bởi
không bao giờ hóa trang để nhập vai người khác (Tôi) nên cô không chọn cách
đóng giả những chú bé ngây thơ, mà chọn lối viết chuyên nghiệp, hiện đại. Từ điểm
nhìn của chính mình, cô thoải mái đối thoại và độc thoại một cách thành thực với
quá khứ, với lũ trẻ em hôm nay và thế giới ngày mai. Thơ thiếu nhi của Vi Thùy
Linh biểu đạt bằng cách cảm, cách nghĩ thông minh và một thứ ngôn ngữ trong
sáng, tươi mới do được kết hợp và chưng cất kỹ càng từ ngôn ngữ dân gian và
ngôn ngữ trẻ thơ, nên khi tất cả đồng loạt phát sáng thì lớp ngôn từ giản dị mà
gần gũi: “ứ thích bơi nữa, lên bờ măm măm”… đã làm nên nhiều câu thơ mà lũ con
trẻ yêu thích.
Đồng thời, việc sử dụng đắc địa thủ pháp nhân hóa cũng góp phần
quan trọng để tạo ra được cho thơ thiếu nhi của tác giả loạt biểu tượng nghệ
thuật rất mới. Nhờ chúng mà những vật vô tri vô giác bỗng trở nên lung linh huyền
ảo, tạo cảm giác: thế giới nghệ thuật trong thơ thiếu nhi của Vi Thùy
Linh được dệt bằng những sợi tơ mong manh của thứ tình cảm tinh túy,
nguyên khôi. Nếu thơ là tiếng nói tình cảm thì sự thành công của “Chu du cùng
Ông nội” trước hết là bởi cả 22 bài thơ tâm đắc của chị đều thấm đẫm “những
tình cảm thân thương nhất với mỗi chúng ta: tình cảm gia đình, mơ ước tuổi thơ,
khát vọng vươn tới những điều tốt đẹp…”(1). Ngoài tình cảm chân thành và
mãnh liệt, để có những bài thơ hay cho thiếu nhi người viết lại phải biết nhìn
đời bằng con mắt xanh non mới lạ của trẻ thơ, sao cho “mắt sông biết thao thức”,
“sóng biết gọi nhau về”, mảnh trăng kia biết “co mình lại”… Những quả mướp trên
giàn cao cũng biết đợi chờ:
Lẳng lơ giàn mướp/ Đợi nấu cua đồng –(Như là đồng dao)
Thành công trong “Chu du cùng Ông nội” một phần còn do tác giả
đưa vào nhiều chất liệu dân gian, nhưng là chất liệu dân gian của một thế giới
phẳng. Nên bên cạnh lối hát đồng dao, trò chơi dung dăng dung dẻ, những chú Cuội
chị Hằng, những đêm Trung thu rộn ràng tiếng trống, cánh diều, cánh én tuổi
thơ… trong nhiều bài thơ của chị còn xuất hiện một cách rất tự nhiên những phi
thuyền đưa bé bay vào vũ trụ, đêm Noel, khúc giao hưởng, bản Sérénade… Bên cơ
man nào tiên nữ là sự có mặt của những thiên thần đang tha thướt gọi mời. Bên cạnh
ngôn ngữ dân dã:
Buôn một bán mười, một vốn bốn lời, phú quý xa hoa, thăng
quan tiến chức dung dị là những câu văn của thời @ trẻ trung vẫn trĩu nặng âu
lo của thời hiện đại:
Người ta đang lý giải El Nino thiên nhiên/ Mà lãng quên một
El nino xoay vần nhân tình thế thái/ Sự tiến hóa làm con người xa nhau hơn/ Thậm
chí có ít thời gian để cười và càng ít khóc– (Đôi mắt lửa Puskin)
Rõ ràng, cái mới chân chính chỉ có thể ra đời khi hội tụ được
toàn bộ những giá trị truyền thống với những tinh hoa của nhân loại.
Và sự hiện đại hóa thơ thiếu nhi của Linh còn nằm ở ý thức về
việc đổi mới ngôn ngữ của chị. Linh thật tinh tế khi phát hiện được một vạt nắng
dùng dằng vỡ đôi, mùa Thu đi bạc tóc và đặc biệt chị cũng có được cách cấu tạo
từ rất mới như “trời rất Thu, trời sẽ Đông” rất giống với cách tạo từ của Lê Đạt
– một trong những nhà thơ tiên phong trong công cuộc đổi mới thi ca dân tộc với
kiểu kết hợp ngôn từ rất lạ: rất hồ, rất ô, rất đường, rất em,…
Đọc tập thơ thiếu nhi của Vi Thùy Linh người ta dễ dàng nhận
thấy không thiếu những bài mang đầy tính triết lý và rất gần với văn xuôi. Những
đứa trẻ em quá thông minh thời nay không chỉ hiểu mà còn thích những câu thơ
sau đây của tác giả:
Tại sao nước mặn chiếm ba phần tư Trái đất/ Tại sao con người
ít cười hơn khóc –(Những đối lập)
Đây chính là mặt mạnh, đồng thời cũng là giới hạn của một người
dám một mình tiến lên phía trước trên con đường độc đạo, sẵn sàng dấn thân cho
nghệ thuật. Qua “Chu du cùng Ông nội”, Linh thật sự là người hạnh phúc. Bởi tác
phẩm của chị chắc chắn sẽ được đông đảo công chúng trân trọng đón nhận, là một
trong không nhiều tập thơ thiếu nhi hôm nay muốn đọc.
Chú thích:
1. Lời giới thiệu tập thơ “Chu du cùng Ông nội”, NXB Kim Đồng,
H., 2011, trang 3.
15/6/2024
Trần Thị Trâm
Theo https://vanvn.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét