Thứ Hai, 14 tháng 10, 2024

Mùa hoa móng tay

Mùa hoa móng tay

1. Dì Lăng
Chốc chốc dì Lăng lại ngừng tay đan và kín đáo nhìn ra ngoài ngõ. Vẻ mặt dì thẫn thờ, xanh nhợt. Tôi ngả người vào băng ghế nệm, xéo góc với dì, lâu lâu lật một trang sách. Sự thực, tôi chẳng đọc được một chữ, hay đúng hơn có cố gắng đọc mà, không hiểu những dòng chữ dưới mắt. Tôi biết dì Lăng có ý trông đợi một người. Chính sự biết được này làm tôi khó chịu. Hai dì cháu ngồi như thế cũng cả nửa tiếng. Tôi không sợ cái im lặng nặng nề khó thở đó. Tôi muốn nó kéo dài để dì Lăng thấy rằng sự im lặng của tôi là dấu hiệu báo cho dì biết, tôi đã hiểu, đã đọc được những ý nghĩ của dì. Tôi muốn thử xem cuối cùng, rồi kẻ nào thua cuộc? Kẻ nào sẽ phải lên tiếng trước?
Buổi sáng muộn nhưng trời chưa có nắng. Thời tiết những năm gần đây thường trở lạnh vào cuối năm. Cái lạnh vừa đủ để da thịt cảm thấy gai gai, ớn ớn, trong cái quạnh hiu, xa vắng không tên của những ước mơ, những thất vọng, và những chán nản. Cái rét lạnh cuối năm thường bắt người ta bâng khuâng lập lại công việc khó tránh, cộng sổ đời mình. Tôi không muốn nghĩ gì hết. Có thể, vì nghĩ mấy thì đời mình cũng chẳng khá hơn. Nghĩ mấy thì cuối năm, hai dì cháu cũng ngồi với nhau trong cái im lặng của một bỏ quên tủi thân và chua xót. Tôi đã bước qua tuổi ba mươi và, dì Lăng, với mùa xuân này nữa, đã ba mươi bảy.
Tôi bỏ nhà để đến ở với dì Lăng, thoáng chốc thế đã năm năm. Tôi chọn dì để đến ở bởi lòng thương dì quá đỗi. Tôi luôn mắc phải lỗi lầm, hay cái bệnh là tình cảm ướt sũng. Tôi dễ xúc động một cách rất thiệt thà, trước tình cảnh éo le buồn thảm của một người nào đấy. Tất nhiên không chỉ có bấy nhiêu lý do khiến tôi bỏ nhà ra đi. Lý do gần của việc này là ông Doãn. Người mà mẹ tôi đã chọn để chắp nối cuộc đời bà, sau cái chết của cha tôi. Chẳng hiểu có phải vì bản chất ích kỷ hay không, mà tôi không thể nào chấp nhận được sự có mặt của ông Doãn trong ngôi nhà, trong khung cảnh mà, trên hai mươi năm, tôi đã quen, với ba tôi. Khi mẹ tôi loan báo ý định chắp nối với ông, tôi nói đại ý, con không thể chịu được sự có mặt của ai khác. Không ai thay thế được sự vắng mặt của người khác. Mẹ nên sống riêng với ông ta ở một nơi nào đó. Nếu mẹ đem ông ta về đây, trước sau gì rồi con cũng đi. Hơn nữa, mẹ già rồi! Còn hàng xóm láng giếng… “Làm sao con sống nổi!”
Mẹ tôi im lặng. Người không khóc, cũng không lộ một trạng thái tình cảm nào bên ngoài lớp phấn dầy và, màu son môi hung đỏ. Tôi hiểu, việc loan báo của mẹ, tôi chỉ như để điều chỉnh cho một tình trạng đã được quyết định. Đã xong xuôi hết từ lâu. Trước ngày mẹ tôi thông báo với tôi điều đó, ông Doãn đã về ở trong nhà. Có chăng, thỉnh thoảng ông mới ở lại ban đêm. Mẹ tôi nói:
- Mẹ hiểu những nỗi đau đớn của con. Nhưng mẹ không thể làm khác hơn, dù rất muốn. Hơn nữa, con thấy đó, ông Doãn rất tốt. Ông ấy không chỉ tốt với mẹ mà còn tốt với tất cả các con. Ông lo lắng cho gia đình mình từng ly từng tí…
Tôi ngắt lời bà bằng câu nói chua chát:
- Thôi! Con nghĩ mẹ chẳng cần phải biện minh làm gì. Mẹ còn quá trẻ. Mẹ mới ngoài bốn mươi. Mẹ còn những sáu mươi năm dài trước mặt. Mẹ lấy ông Doãn là đúng. Mẹ phải sống đời mẹ. Chỉ khổ cho lũ em con. Chúng còn quá nhỏ. Con thì dễ rồi…
Tôi không thể nói dứt câu vì nước mắt ứa chảy. Tôi đứng lên đi về phòng mình. Ý nghĩ bỏ nhà ra đi, nhen nhúm trong tôi từ đó.
Dì lăng là địa chỉ đầu tiên trong những địa chỉ mà tôi nghĩ tới. Cuối cùng, tôi chọn dì Lăng, bởi dù sao dì cũng là em ruột mẹ tôi. Ở với dì, ít ra còn có chút tình máu mủ. Có liên hệ, có ràng buộc hơn là đến nhà bạn. Vả lại dì Lăng, vốn một thân, một mình. Trước đây, dì sống với ngoại tôi.
Nhưng khi ngoại tôi qua đời, dì một mình giữa căn nhà hai tầng mênh mông, cuối một con ngõ yên tĩnh, trung tâm thành phố.
Dì ở đó với cơn bệnh không giảm, không tăng. Cứ “nhì nhằng” (chữ của dì,) là bệnh lao. Chính căn bệnh này khiến dì không thể có một cuộc sống bình thường. Tôi vẫn mang trong lòng niềm thương mến dì dạt dào, tự những ngày tấm bé. Tình cảm kia, lớn dần theo ngày tháng. Đó là tình cảm ngậm ngùi của một phụ nữ, hiểu nỗi đau đớn, éo le của một phụ nữ khác.
Khi chưa xẩy ra chuyện ông Doãn, ba tôi chưa qua đời, dì Lăng từng nhiều lần ngỏ ý, xin cho tôi về ở với dì. Ba tôi không đồng ý. Người sợ tôi quấy rầy dì. Riêng với mẹ tôi, thì người bảo, sợ tôi bị lây bệnh của dì Lăng.
Tôi chẳng có một ý niệm gì về việc lây bệnh; cũng như chẳng thấy chuyện dì Lăng bị ho lao là điều gì ghê gớm. Ngày xưa, có thể, nếu bị bệnh đó, người ta sẽ xa lánh… Nhưng ngày nay thì khác. Thuốc men với những phương pháp trị liệu tiến bộ, bệnh đó đã trở thành bình thường. Tôi chỉ hơi thắc mắc, tại sao dì không chịu chữa cho tuyệt hẳn? Mà, cứ để lằng nhằng hoài!
Khi dì Lăng hay được ý định của tôi, dì mừng lắm. Chính dì đã đến nhà và cho mẹ tôi biết ý định ấy. Mẹ tôi cũng không khỏi mừng rỡ. Ở với ai, chứ ở với dì Lăng, chắc bà yên tâm. Ít ra, lương tâm bà, cũng nhờ thế mà yên ổn, đỡ ray rứt. Từ khi có quyết định cho tới lúc thực sự xách va li tới nhà dì Lăng, tôi cũng loay hoay mất một tháng.
Tôi được sống những ngày đầu tiên trong ngôi nhà thờ ngoại, thật êm ả, hạnh phúc.
Từ nhà dì Lăng, buổi sáng, tôi có thể dậy muộn, đi bộ thong thả tới sở làm. Trưa đến, tôi không còn phải ăn cơm trong sở. Tôi có thể về nhà, nghỉ lưng một lát, trước khi bắt đầu công việc buổi chiều. Buổi tối, cũng là những giờ khắc thú vị. Cơm nước xong, hai dì cháu ra phòng khách ngồi uống nước; trò chuyện. Tôi kể dì nghe những chuyện vặt vãnh xẩy ra trong sở, ngoài đường phố. Dì Lăng nói về những ngày xa xưa, bên ngoại, cùng họ hàng thân thích… Thích nhất là dì kể tôi nghe, những ngày đầu tiên ba tôi làm quen với gia đình bên vợ, ông đã bị dì chọc ghẹo, bắt nạt như thế nào. Những chuyện ấy, tôi nghe cả chục lần, vẫn không chán.
Nhưng rồi một năm, hai năm qua, làm như buổi tối đã bị thời gian kéo dài ra. Chúng tôi mệt mỏi dần. Những buổi tối đã không còn là thời gian cho lũ kỷ niệm cũ, mới sống lại. Chúng tôi vẫn giữ lệ buổi tối uống trà. Những ly trà đậm hơn. Nhưng trong im lặng. Trong ngậm ngùi. Trong im lặng xót thương mà, kẻ này dành cho người kia. Dì Lăng già héo thêm với những nếp nhăn xép lớp hai bên mép, và đuôi mắt. Tôi cũng thế! Phấn son như đã không còn muốn ăn vào cái da mặt ngày một thêm khô nẻ. Tôi bắt đầu phải tô lên mặt mình những lớp phấn dày hơn để che lấp phần nào cái làn da sần sùi, xác xơ với những vẩy da dòn bong, những ngày trở lạnh. Những chấm da mốc trắng đã thấy hiện nhiều hơn trên má. Thời gian quả thật đã làm chúng tôi mòn mỏi, chán chường.
Tôi lần lượt đi ăn cưới những đứa em gái, em trai của mình. Ngay đứa em gái út, tôi cũng mới đi ăn đám cưới nó tháng trước. Trong những dịp này, tôi thường tránh né những chạm mặt ông Doãn và mẹ tôi. Mẹ tôi biết vậy nên bao giờ bà cũng đi tìm tôi, và cố ép tôi phải trả lời bà cho bằng được dăm ba câu hỏi vớ vẩn. Cũng ở trong đám cưới đứa em gái út đó, tôi gặp người đàn ông; sau này là nguyên nhân của sự bồn chồn, trông ngóng của cả hai dì cháu. Ông Nhạ.
Tối hôm đó, ông Nhạ xin phép đưa tôi về. Người bạn ngồi cạnh giới thiệu tôi với ông, một giáo sư tư thục, đứng tuổi. Tôi cảm tưởng ông trạc tuổi ông Doãn. Nếu có kém thì cũng chỉ chút ít. Trong suốt buổi tiệc, ông Nhạ lấy được cảm tình của tôi bằng lối nói chuyện duyên dáng, chững chạc và, điềm đạm. Cách ăn mặc, lối sống qua câu chuyện, tôi hiểu ông còn độc thân. Sáng hôm sau, tôi kể chuyện ông Nhạ cho dì Lăng nghe. Dì cho rằng, những người đã ngoài bốn mươi như ông, mà vẫn còn sống độc thân thì đó là những con… cáo già!
“Phải cẩn thận lắm mới được!” Tôi đã cười trước khuyến cáo của dì.
Một tuần lễ trôi qua sau buổi tiệc, thiệt tình tôi đã khuấy quên chuyện ông Nhạ. Nhưng, một hôm ông Nhạ đột ngột tìm tôi. Ông đem cho tôi một bó hoa, tấm thiếp với đôi lời thăm hỏi. Tôi đi vắng. Dì Lăng nhận hoa giùm. Dì thuật lại, có mời ông vào nhà, ngồi chơi một lát. Ông Nhạ hứa, sẽ trở lại vào buổi chiều hôm sau. Dì Lăng chỉ vắn tắt có thế. Tôi cũng chẳng hỏi thêm câu nào. Hai dì cháu vào bàn ăn. Buổi tối đó, không khí ngôi nhà vui lên được một chút vì có chuyện để nói. Dì Lăng khen ông Nhạ bặt thiệp, nhưng hơi… xạo. Tôi cho, ông là một tay ăn chơi sành sỏi quá, nên chẳng thể lấy vợ được. Dì Lăng nhìn tôi hồi lâu, mỉm cười, bảo, “Kể ra thì ông ta cũng còn đủ phong độ để lấy vợ và, làm cha, nếu gặp được một người đàn bà đàng hoàng.” Tôi nhìn lại dì Lăng. Chợt hiểu cái nhìn đăm đăm và nụ cười trên môi dì. Tôi hơi ngượng. Nghe lòng mình xao xuyến.
Tôi muốn hỏi dì, trường hợp ngày nào đó, nếu tôi đi lấy chồng, dì sẽ sống ra sao? Khi sự có mặt của tôi trong ngôi nhà, đã trở thành một phần đời sống khó thể thiếu vắng của dì. Nó đã thành nếp. Nhưng, rốt cuộc, tôi im lặng. Tôi thấy quá sớm để hỏi dì Lăng câu hỏi ấy. Tôi đứng dậy, giả bộ vươn vai, kêu mệt và lên gác. Đêm đó, tôi không ngủ được. Tôi lên xuống thang gác nhiều lần. Phòng dì Lăng vẫn để đèn. Tôi nghĩ, có thể tại mấy ly nước trà hồi tối quá đặc…
Đúng như lời hẹn, hôm sau, ông Nhạ trở lại. Ông ngỏ lời mời cả hai dì cháu đi ăn cơm ngoài phố. Tôi hỏi ý kiến dì Lăng? Dì nói, tôi nên đi. Một mình thôi. Tôi dứt khoát, có dì tôi mới đi. Cuối cùng, dì Lăng đồng ý. Dì đi thay quần áo.
Lên xe ông Nhạ, dì nói, không biết bao nhiêu năm, dì mới ra khỏi nhà để đi ăn vào buổi tối. Câu nói của dì, nghe như hơi thở hắt. Cũng từ câu nói đó, tôi nhận ra, mình chẳng khác gì hơn. Trừ những vụ quan hôn tang tế…
Buổi tối đó, ông Nhạ mời chúng tôi ăn cơm trên một tầng lầu lộ thiên, ngay giữa trung tâm thành phố.
Không hiểu nguyên do nào, tôi thấy dì Lăng nói nhiều hơn thường lệ. Dì nói suốt dọc đường, kéo qua hết bữa cơm. Tôi im lặng nghe. Đôi khi thấy khó chịu về những lời khen dì dành cho tôi. Tôi bấm tay dì nhiều lần. Nhưng dì thản nhiên, làm như không biết tới.
Dì Lăng cũng nói với ông Nhạ về căn bệnh thâm niên của dì. Tôi không đồng ý cách bày tỏ, tâm sự vội vàng như thế. Cung cách của dì cho tôi ý nghĩ ấy. Sự lặng thinh của tôi, khiến ông Nhạ hiểu lầm. Ông hỏi tôi:
- Cô Nguyên không được khoẻ trong người?
- Ông nghĩ thế?
- Không. Tôi thấy cô im lặng quá lâu.
Tôi cười trước khi trả lời ông rằng, tại tôi không thấy có điều gì cần phải nói. Ông Nhạ cũng cười và thêm, ở trường hợp ngược lại, người ta cũng ít nói như vậy đó. Tôi hỏi tại sao? Ông bảo, tại khi ấy người ta có quá nhiều đều để muốn nói cùng một lúc. Người ta sẽ phân vân, không biết nên nói điều nào trước, điều nào sau.
Chúng tôi cùng cười vì câu nói vẻ khôi hài của ông Nhạ. Như dì Lăng chợt nhận ra một ám chỉ nào đó, trong câu nói kia, nên dì bảo:
- Nãy giờ chỉ có tôi là người nói nhiều nhất. Chắc tôi ở lơ lửng giữa hai trường hợp.
Tôi muốn bảo dì, nếu thế thì cách thích hợp nhất là nên im lặng. Nhưng ông Nhã đã nói:
- Cuộc đi chơi này sẽ tẻ nhạt vô cùng, nếu không có cô. Cô Lăng à.
Tôi hiểu câu nói của ông Nhạ chỉ có nghĩa lấp đầy cái khoảng trống vô duyên mà dì Lăng đã vứt ra sau câu nói của mình. Nhưng đồng thời, tôi cũng biết thêm một điều là ông Nhạ khéo quá. Ông có vẻ chu đáo tới độ không thể chu đáo hơn và, điều ấy khiến tôi e ngại.
Bữa ăn sẽ được kể như hoàn hảo, nếu không có sự nói nhiều và hơi vội của dì Lăng. Cùng với những ly rượu múc ra từ chiếc thố sành màu hung đỏ, với những khoanh táo, cam, lê, dứa… Thau rượu này là món đầu tiên mà ông Nhạ giới thiệu, như một món đặc biệt nhất của nhà hàng. Tôi từ chối lời mời đầu tiên, dù rằng đó chỉ là rượu khai vị. Có uống nhiều cũng khó say, như lời ông Nhạ. Dì Lăng uống tất cả bốn ly. Men rượu đổi thay rất nhanh lớp da tái mét hai bên má dì, thành mầu hồng nhợt nhợt. Từ đó, dì Lăng mất bình tĩnh và, như không còn giữ gìn nữa. Tôi biết, từ bé tới lớn, dì chưa hề uống rượu. Tôi cho ông Nhạ hay và, yêu cầu ông đừng ép dì uống thêm. Ông Nhạ cả cười. Có thể ông cũng đã bị hơi men của thố rượu làm ông chếnh choáng. Ông nói lớn là không sao hết, và nếu chẳng may có say, thì cũng chưa hẳn đó là điều đáng để phàn nàn. Dì lăng nghe ra và, đoán được câu nói nhỏ của tôi. Dì tỏ ý trách mắng tôi, với hàm ý bảo tôi bày đặt, làm bộ…
Tôi im lặng, không thấy giận dì một chút nào. Chỉ thấy thương hại và tội nghiệp dì hơn. Ăn xong, ông Nhạ mời chúng tôi đi ciné. Tôi viện cớ quá mệt và, dì Lăng cũng không khá hơn, để xin về nhà ngay. Khi ông Nhạ hỏi ý kiến dì Lăng, dì cũng gật đầu. Và, dì cho biết dì cảm thấy nhức đầu, choáng váng, như thể, nếu ngồi lâu hơn, dì có thể sụm ngã. Ông Nhạ lái xe đưa hai dì cháu tôi về sau khi tính tiền. Ngồi trong xe, chỉ tôi biết dì đã khóc. Những giọt nước mắt tôi không rõ nguyên nhân đã trào ra khỏi khoé mắt, khi dì nghiêng đầu vào vai tôi. Hơi thở dì nóng hổi. Tôi quay hết kính xe. Đêm đó, dì Lăng lên cơn sốt. Dì nóng vùi mà tôi không hay! Tôi về phòng mình ngay sau khi dìu được dì vào giường của dì. Nửa đêm, khi giật mình tỉnh dậy, tôi nghe được tiếng gọi yếu ớt của dì. Tôi chạy xuống. Dì Lăng vẫn chưa ngủ. Dì kêu khát nước. Khát khô bỏng cả cổ. Tôi rót nước đỡ dì lên, cho dì uống, sờ tay lên trán dì, tôi mới biết dì sốt. Cơn sốt có thể lên tới bốn mươi mốt độ. Tôi ngồi một lát, nhìn dì dần dần mê man trở lại. Tuy thế, tôi không thể cứ ngồi vậy cho tới hết đêm. Hôm sau, tôi còn phải đi làm. Tôi đứng dậy, khép hờ cửa phòng, lên gác. Cơn mơ đến nhanh trong giấc ngủ của tôi, là một cơn mơ lạ lùng. Tôi mơ thấy dì Lăng chết. Đám tang dì chẳng có ai đi đưa ngoài tôi và ông Nhạ. Lúc hạ huyệt, ông Nhạ dành phần ném những viên đất đầu tiên xuống lòng mộ. Tôi nghe ông thú nhận ông đã yêu dì. Tôi nhớ, tôi không có một phản ứng nào hết. Tôi đứng thu người dưới môt tàng cây, nhìn người ta lấp đất, kín ngôi mộ. Chúng tôi chia tay nhau nơi cổng nghĩa trang. Ông Nhạ trước khi đi đã cầm tay tôi và nói, sẽ không có lần thứ hai, ông trở lại thành phố này. Chừng như hành động của ông khiến tôi ngạc nhiên quá đỗi. Tôi năn nỉ ông với lý luận, chết là hết, có chi đâu mà phải buồn bã quá vậy! Xong, tôi hỏi ông định đi đâu? Ông nói, chưa biết rõ, nhưng ông phải đi. Tôi muốn nói, nếu có thể, ông ghé lại tôi, uống ly nước trà. Nhân tiện, tôi trao lại cho ông, những di vật của dì Lăng. Nhưng tôi không nói được. Tôi đã bật khóc lúc nhìn theo chiếc bóng xiêu xiêu của ông chìm dần vào hàng cây bóng râm đen biếc những tàn cổ thụ. Tôi tỉnh dậy giữa lúc còn kịp thấy hai bàn tay mình bưng chính mặt mình.
Tôi nhớ, khi ấy, trời còn sớm. Ngoài cửa sổ, tôi còn thấy những đám sương như khói bông, bay là là chân tường. Tôi cố nhớ lại mọi việc và, chạy vội xuống phòng dì Lăng. Dì Lăng đang ngủ. Cơn sốt cũng dịu bớt. Tôi nghe lòng minh vơi nhẹ hẳn. Tôi vào bếp lui hui đặt ấm nước pha trà. Định bụng sẽ gọi dì Lăng dây, uống với tôi một ly trà, trước khi tôi đi làm. Sau đó, tôi trang điểm, thay quần áo, tôi đi làm lúc thấy dì Lặng vẫn còn ngủ say và, quên luôn ấm nước trên bếp.
Trưa hôm đó, tôi trở về sớm hơn thường lệ. Ông Nhạ đang ngồi trong phòng khách, lật xem một tờ báo cũ. Thấy tôi, ông không lộ một vẻ ngạc nhiên, mừng rỡ nào. Riêng tôi, tôi ngạc nhiên trước sự quay lại quá sớm của ông. Chừng như đọc được những điều đó, ở nơi tôi, ông nói, ông tới để xin lỗi chuyện đêm qua. Tôi cười giả lả đáp, không có chi. Tôi dấu không cho ông biết chuyện dì Lăng sốt. Tôi bảo, để tôi mời dì Lăng ra nói chuyện với ông. Dì Lăng vẫn ngủ vùi, tuy có trở dậy một lần trong khoảng thời gian tôi đi làm; vì tôi thấy trên bàn có ly nước trà chưa uống hết. Tôi trở ra, nói, dì Lăng không có nhà, chắc đi phố mua chi đó. Tôi để nguyên quần áo, tiếp chuyện ông một cách miễn cưỡng. Ông Nhạ coi đồng hồ luôn. Tôi nói dối, chắc dì cũng sắp về. Ông bảo. Không. Ông cũng chẳng thấy cần phải gặp dì Lăng gấp lắm.
-Cô làm ơn chuyển lại lời xin lỗi của tôi là đủ. Giờ tôi có việc phải đi. Lần khác, tôi xin ở lại lâu hơn.
Ông Nhạ cầm mũ bước ra, nói thêm:
-Nếu câu nói vừa rồi của cô chỉ là một câu xã giao thì tôi vẫn coi đó như là một lời mời thành thực.
Tôi cười, không đáp, nhưng trong lòng có gì vui vui.
Thêm một tuần nữa đi qua. Ông Nhạ không trở lại. Ông cho một đứa nhỏ mang hoa đến cho chúng tôi. Và, nếu tôi không nghĩ sai, nghĩ xấu cho dì Lăng thì, chừng như dì Lăng có vẻ nôn nóng, sốt ruột hơn cả tôi.
Dì Lăng ngừng tay đan, nhìn ra ngoài ngõ. Lần này cái nhìn của dì cho thấy không còn muốn che đậy nữa. Tôi lắng nghe tiếng động cơ nổ. Âm thanh cho cảm tưởng quen thuộc. Tôi xếp cuốn sách lại. Đi thẳng lên gác. Tiếng xe đuổi theo những bước chân vội quýnh của tôi trên từng bậc thang. Tôi nghe tim đập mạnh. Lần đầu tiên tôi thấy chiếc cầu thang cao và độc ác. Tôi tưởng như nó muốn hất ngược tôi trở lại. Phải cố gắng lắm, tôi mới leo tới bậc trên cùng; vừa lúc có tiếng gọi khẽ, lạc giọng của dì Lăng. Tôi chạy nhanh vào phòng, thẳng tay đóng cửa. Úp xấp mặt xuống gối.
Buổi trưa vẫn chưa có một tia nắng nhỏ nào, ngoài cửa sổ.
2. Nhìn Xuống
Chiều khuất sau dãy nhà gạch. Những vạt nắng cuối bám vào mấy chân thềm lở loét, cũng bị dập tắt. Gió lao xao trong mấy vòm lá cao. Từng phiến mây bềnh bềnh thấp trên hàng cây gỗ dầu sùi bụng. Nước ì ào vỗ vào chân cầu, phía sau; cho Bái cảm tưởng rượi mát dọc xống lưng.
Tiếng quạt trần xệch xệch quay trong căn phòng ngổn ngang bàn ghế. Những xấp hồ sơ bị hất tung, lả tả trên nền đá hoa ố bẩn. Hai đứa nhỏ con Tư Thọt bán quán, đang đào lỗ bằng chiếc muỗng múc canh bên hông dẫy nhà dùng làm quầy hàng quân tiếp vụ. Con chó ghẻ dí mõm hít hít mấy chiếc lon rỉ treo tòng teng nơi hàng rào kẽm gai, bao quanh mặt tiền doanh trại. Cả không gian hẫng chìm trong cái mênh mông thẳm cùng của một quạnh hiu mệt nhọc. Cái êm ả lừ đừ, vữa nát của một chiều ngày nghỉ. Một ân huệ của những kẻ vướng mắc trong một tập thể nháo nhào. Mọi hoạt động đúc khuôn của những con người máy đã tạm thời đứt đoạn. Họ biến đi như bầy kiến, tan tác sau cơn lốc lớn.
Một mình, ngồi trên những bao cát mục, Bái ngập ngừng dơ cao viên đá. Chàng nheo mắt nhìn, xong lại buông thõng tay xuống. Vốc đá trong tay Bái đã được ném đi, nhưng không viên nào trúng đích. Bái dồn tất cả hy vọng vào viên đá cuối cùng này. Cơ hội chót để thanh toán mục tiêu. Bái không ngờ mình tệ đến thế. Chỗ cao lắm cũng chưa tới năm thước, mà dễ gì đã tới bốn thước. Bái nghĩ. Mẩu thuốc vẫn còn thoi thóp khói. Lửa bén chậm, lan trong từng sợi thuốc vàng đục. Chàng thấy rõ lớp giấy ngoài rộp lên, ngả từ vàng, đỏ sang xám, rồi đen trước khi thành tro. Có một chút thất vọng, chán chường nào đấy, dấy lên đầy tâm hồn Bái. Chàng cố gắng tránh giáp mặt với sự thực thảm hại của đời mình. Chàng muốn kéo dài thêm những giây phút hy vọng, những giây phút tự phỉnh phờ, dối gạt. Chàng muốn phủ nhận, quay mặt với chính mình. Với cái ý tưởng đã đến với chàng, khi mẩu thuốc vừa được búng ra, và những viên đá đầu tiên nhắm tới mục tiêu, với tất cả tự tin, hăm hở; rằng, cuối cùng, dù thế nào, rồi đời mình cũng không khác gì hơn mẩu thuốc thoi thóp kia, và những nỗ lực suốt kiếp, cũng chỉ như vốc đá vô tri, đôi vào khoảng không cùng thẳm.
Chúng ta sống để nhặt nhạnh những mảnh đá vô tri, rồi không ngừng ném vào hư không những nỗ lực vô nghĩa; chất cao thêm ngọn tháp riêng của những đời tuyệt vọng.
Anh, chẳng lẽ anh lại là người giựt mất của em chiếc phao cuối cùng mà, em đang bám đó sao?
Anh, anh nói đi. Anh giải thích đi. Có phải thế? Có phải chúng ta đã lầm? Chúng ta đã dối gạt nhau ngay từ phút đầu tiên của cuộc tình khổ ải này? Không còn một con đường nào khác để dẫn giắt em đi nữa sao? Chỉ một con đường này! Sao lại con đường này mà, không là một lối nào khác?
Anh, anh nhìn xuống thân thể em đi. Anh hãy mở lớn mắt. Mở lớn nữa. Nhìn em. Nhìn em đi. Nào anh! Anh Bái. Anh thấy gì? Những gì của cuộc tình mình? Những gì của anh, cho anh và cho em? Anh có nghe gì không? Anh Bái.
Không. Không. Em không thể mãi sống trong tình cảnh này. Em muốn chết mặc dù em chưa từng sống. (Đã mấy ai tới lúc chết mà dám chắc mình đã có một thời để sống? Chúng ta hơn thượng đế ở chỗ chúng ta có sự chết. Có sự chết, ngay khi sự sống chưa thành hình!)
Em không thể mãi như thế này. Em vẫn nghĩ, hay ít ra vẫn hằng tự cho mình phải khác hơn. Anh thấy không? Bái! Tự căn bản khi em chọn yêu anh… Mà, cũng không phải đâu. Em muốn nói lại. Em muốn anh hiểu, tình yêu không có trong nó một chọn lựa, cân nhắc nào hết. Em yêu anh, tình cờ yêu anh. Tình cờ ngang như định mệnh. Em tự gắn đời em vào anh. Em đã sống. Những ngày trong sự sống của anh. Cho sự sống của đời anh. Nếu có thể nói được một cách nào khác hơn, thì em đã chết. Em giết chết em, khi em yêu anh. Nhưng không lẽ anh, chính anh, anh lại giết em một lần nữa? Anh Bái. Bái ơi. Nói đi. Nhìn em đi. Em. Đây em. Tước đây. Tước của anh đây mà. Này đôi môi em. Này cánh tay em. Này mái tóc em. Này đôi mắt, này thân xác, này tâm hồn em, của anh. Của anh hết đó. Anh hiểu gì? Hiểu gì không anh? Bái. Bái ơi. Đừng. Anh đừng quan tâm tới những giọt nước mắt em. Có xá gì một dòng lệ ứa. Có xá gì đâu anh. Phải thế không anh? Bởi, anh biết rồi mà. Đã bao đêm em khóc thầm, khóc vụng. Đã bao đêm nghĩ tới anh, và nỗi khốn khó của cuộc tình mình. Đấy. Hạnh phúc mà anh mưu cầu đem đến cho em. Đấy. Tương lai mà anh đã vẽ trong trí tưởng em. Đấy, không phải là những giọt lệ buồn tủi đâu. Nó là đời em. Nó là tương lai. Là hạnh phúc. Phải thế chăng, những thứ anh muốn đem đến cho em. Anh. Bái. Bái.
Bái rùng mình. Chàng nhắm nghiền đôi mắt. Cạnh sắc của viên đá dăm lún sâu vào mấy đầu ngón tay Bái, nhói buốt. Những sợi gân lạc lõng, ngoằn ngoèo nổi dưới lớp da nắng sạm. Chàng không muốn nhớ. Không muốn nhớ, nhưng cũng chẳng cách nào để quên, (có lẽ phải định nghĩa lại, con người, chẳng hạn, loài động vật duy nhất, biết, hay phải nhai lại thời gian qua trên đời mình.)
Bây giờ, Bái một mình, trên những bao cát mục. Bây giờ, Bái một mình, trở về, ngồi giữa tiếng ì ào của con nước vỗ đều chân cầu. Tiếng xệch xệch của quạt trần. Tiếng lao xao trên cao của lá. Tiếng tịch mịch của hư không. Bái đã trở về. Chỉ một mình Bái chọn trở về bên trong hàng rào kẽm này. Bái không muốn thấy mặt ai, sau mỗi lần gặp Tước. Bái cũng không muốn trở về căn phòng có bốn bức tường nứt ố. Bái muốn một mình. Một mình tận hưởng những dư âm, những váng vất của khoảnh khắc ngắn ngủi được gần gụi Tước. Chàng muốn một mình ngắm nhìn hạnh phúc, gậm nhấm đau thương, cất dấu nhục nhã. Chàng trở về, ngồi đây, vì không còn một nơi nào khác để đến. Một chốn nào khác, để ngồi. Và chàng đang ngồi trong giọng nói, trong đôi mắt mở lớn của Tước, một giờ qua. Đôi mắt đã nhốt giam hồn Bái. Đã soi sáng từng giây hạnh phúc chàng, hiếm mụôn. Đôi mắt đã vỗ về Bái trong những cơn mơ thảm thiết. Đã phủ dụ Bái trong nhiều lần tay xuôi. Đã đẩy đưa Bái tới những phần đất hoang vu của trí tưởng rực rỡ, nỗi nhớ đầm đìa. Của những cơn yêu đấu thảng thốt.
Giờ, cũng đôi mắt ấy, cũng nguồn suối lung linh đời Bái, cũng căn nhà tù hoan lạc, cũng miếng vườn ơn phúc, nơi Bái khao khát được chung thân trú đụt, vĩnh viễn yên nghỉ, một giờ qua, đã mở. Một giờ qua, đã thắp lên những tia nhìn đèn hương nghĩa địa. Những tia nhìn như những lằn roi vun vút quất bầm thần trí Bái; bật máu ê chề tâm hồn Bái. Bái lảo đảo đứng dậy. Tay chàng như đã lìa khỏi vai. Chân chàng như đã đứt khỏi thân. Óc chàng khô giòn (tưởng như có thể lôi ra khỏi sọ.) Nỗi đớn đau, tự sỉ, kéo gập người chàng xuống.
Bái nghiến răng cất bước. Tước rũ lả như một hình nhân sũng nước. Tóc nàng xổ tung, bết dính trên đôi vai trần, lấm tấm mồ hôi.
Tôi lập lại câu hỏi của Tước, cho chính mình, vì sao? Vì sao? Vì sao? Vì sao? Vì sao? Vì sao?
Vì sao? Tôi không thể giải thích. Như sự có mặt của tôi hôm nay, giữa dòng sống này. Cũng như tôi vẫn tự hỏi: Mày là người ư? Mày có thật là người? Người là gì? Động vật có xương sống? Loài có vú? Sinh vật duy nhất biết hoặc, phải nhai lại thời gian qua trên đời mình? Hay là tất cả? Tất cả? Có nghĩa gì? Cách nào để biện biệt?
Bái không dám ngoái nhìn. Chàng đi về phía cửa sổ. Thành phố dưới thấp. Nắng ối vàng trên những mái ngói đỏ. Những ngã tư, nhìn từ trên cao, cắt khu phố thành nhiều ô vuông nhấp nhô, nóc nhọn.
Có phải anh đứng đây rất lâu? Lâu lắm. Tuồng như lúc em mới chợp mắt chút. Rồi anh nghe được tiếng nước chảy. Anh quay lại. Em đang bụm tay, vả nước vào mặt. Khi em đứng chải tóc trước tấm gương treo góc phòng, anh quàng tay qua vai em. Em xoay người lại, ngả vào anh. Đôi mắt em ướt, nhắm. Hàng mi dài, chúc xuống. Khuôn mặt lạnh trơ như có một khoảng cách đắp ngang, dựng ngược. Tuy thế, anh vẫn cúi xuống. Và chúng mình hôn nhau. Không. Chỉ có anh hôn em mà thôi. Đúng rồi. Chỉ có anh. Em chưa một lần hôn anh mà. Em có biết hôn thế nào đâu. Đúng không? Em chẳng thường nói thế là gì. Rồi anh kê cầm mình lên tóc em. Anh loay hoay muốn nói với em một lời nào đấy. Một lời nào. Bất cứ. Chỉ miễn sao khoả lấp được cái sượng sùng, trơ trẽn còn nguyên trên môi anh. Một lời nào. Thí dụ. Anh yêu em. Một lời thật vô duyên, lúc đó. Nhưng, dẫu sao, cũng còn có một lời nói. Một tiếng kêu gì đó. Khác hơn tiếng quạt rè rè trên chiếc bàn thấp. Vậy mà, anh cũng không tài nào, mở miệng.
Có phải sau đấy, anh đã đưa em xuống phố, trong nắng trưa. Chúng ta tới ngôi quán bên cạnh Chùa Chà. Anh gọi mì và, chúng ta cố nuốt trôi những sợi mì nguội ngắt, tanh nhợn. Như nuốt chính những sợi oan khiên đời mình, tẻ nhạt. Hình như em đã bao lần chực khóc…
Phải chăng, niềm ân hận duy nhất, trong cuộc tình này, là chúng ta, chưa tự tay giết nhau. Hoặc em, hoặc anh, ai trong hai đứa, sẽ là kẻ ra tay trước nhất?
Bái sửa lại thế ngồi. Buổi chiều không còn một dấu tích gì ngoài tiếng sóng vẫn ì ào vỗ đều chân cầu. Gió vẫn lao xao trong những vòm lá cao.
Hai đứa nhỏ đã trở về và, bỏ quên chiếc muỗng múc canh bên cạnh những chiếc hố nhỏ do chúng đào. Chiếc quạt trần không còn xệch xệch quay nữa. Trong phòng, ngọn đèn, kẻ nào đã bật sáng.
Bái chăm chú tìm lại mục tiêu. Mẩu thuốc đã cháy rụi, chỉ còn là nhúm tro nguyên hình thể cũ. Bái dơ cao viên đá. Chàng không thể không đôi nó đi, dù mục tiêu đã tắt lạnh. Đốm lửa hết thoi thóp. Lần này, Bái ném trúng. Tàn tro khẽ bung tới. Bật lên rồi tan ra, lả tả. Không một sợi khói mỏng manh nào bay lên. Đó, nỗ lực cuối của một nhặt nhạnh suốt kiếp.
Có phải lúc về, anh đã đưa em ra tận bến xe lam cùng Nhự? Nhự có ý nhắc tới cuộc tình lỡ dở và, lời nguyền trên số phận. Chúng mình đã lùi bước, khi ngang qua một con phố hẹp. Anh chỉ cho em thấy dáng đi của Nhự.
Nhìn từ sau, Nhự như một nhánh cây non; nhưng đã sớm ra chiều héo muộn.
3. Trong Vòng Rào Thơ Ấu
Những Ngày mưa cùng với sự khuất bóng Cung đã lặng lẽ vào sâu tâm hồn tôi bằng lối đi riêng của âu lo, thảng thốt. Những ngày mưa như tiếp tục nhận chìm thêm ngày về của Cung, trông ngóng của những buổi chiều đời tôi, đằng đẵng, không đi.
Những khóm chuối tiêu lớn vồng như thổi. Mấy gốc chanh cũng bắt đầu đơm những bông hoa trắng, nhỏ xinh như những cánh bướm tí tẹo. Giàn bìm bịp cũng đã leo lên mặt rào kẽm, tạo thành một đường viền tím với những cọng lá xanh muốt, trông xa như một tấm màn lụa mỏng rủ quanh mặt tiền ngôi nhà. Trong sân mấy ngôi mộ cổ, nằm lẻ loi một góc trong dáng của những con kỳ lân mệt mỏi, phủ phục trước sự im lặng thẳm cùng lạnh lẽo của thời gian và hư vô.
Tôi ngồi với những buổi chiều cực hình, trong cảnh tượng đó. Bên cạnh những buổi chiều Cung ở nơi nào, tôi còn có thêm cái cảm giác bị theo dõi bởi một kẻ vô danh, liên tiếp, một tuần qua, vào mỗi sáng đi chợ. (Từ nhiều năm, công việc chợ búa hầu như mẹ tôi đã giao hẳn cho tôi, dù tôi bận học thi hay công việc gì khác cũng vậy. Có lẽ mẹ tôi là một trong số ít oi những bà mẹ còn lại, quan trọng việc chu tòan bếp núc cho con gái.
Người không muốn sau này, lúc tôi đi làm dâu, gia đình nhà chồng phải chê trách tôi về những điều nhỏ nhặt đó.) Cảm giác gai ốc đã xâm chiếm, đã ảnh hưởng thần kinh tôi, trong cả giấc ngủ, bắt đầu từ hôm tôi tình cờ nhận diện được cái bóng đen đã theo dõi tôi từ nhiều ngày trước. Đó là một người thật. Một người bằng xương thịt. Một thiếu phụ, tôi xin nói ngay, trạc ngoài ba mươi, như chị Thúc đã nhìn thấy trong đêm ném giấy vào nhà chúng tôi. Chị ta có khuôn mặt vuông, trán hẹp và lép, con mắt hơi lồi, cằm bạnh, lưỡng quyền cao, đôi môi dày, mái tóc thả không chải; xác xơ từng sợi như một mớ rơm khô. Nói vắn tắt, chị ta có khuôn mặt của một người đàn ông xấu trai và dữ tợn. Hai tay chị luôn buông thong, xuôi theo hai ống chân khẳng khiu, và như nó thường đong đưa, tự nhiên theo gió. Chị đứng khuất sau một chiếc xe bán nước trái cây xay, ở ngã tư đường, chỗ tôi bắt buộc phải đi ngang trước khi tới chợ.

Tôi đã lẩy bẩy ríu ríu chân đi khi nhận ra những tia nhìn đục ngầu thù hận, từ đôi mắt chị, nhắm đích tôi ném thẳng tới. Tôi không biết người đàn bà này có phải là người mà chị Thúc đã thấy trong đêm kia? Nhưng tôi cũng không thể tự dới mình rằng, chị nhắm một người nào đó, khác hơn tôi. Tôi không dám thuật lại chuyện này cho chị Thúc nghe. Vì với chị Thúc, bất cứ chuyện lớn, nhỏ nào, cũng có thể trở thành ầm ĩ một cách không chủ tâm. Những chuyện được yêu cầu chị giữ kín, lại là những chuyện được phổ biến nhanh chóng hơn cả. Chị có tính vô tâm của một người đàn bà không bao giờ xâm hại người khác. Qua chị, tôi sợ ba tôi sẽ biết. Mà tôi lại không muốn người phải nghĩ ngợi thêm. Mặt khác, tôi cũng lo sợ vẩn vơ, nếu gia đình tôi, không hay biết chuyện này, rồi một sáng kia, tôi đi chợ và sẽ không trở về, hay có trở về thì cũng với những nhát dao đâm nhầu khắp thân thể! Làm sao biết trước được một người đàn bà trong cơn điên rồ, họ sẽ làm những gì và, không làm những gì?
Thêm vào đó, báo chí không ngớtr đề cập tới tình trạng lộn xộn, liên tiếp xẩy ra ở vùng cao nguyên. Hôm thành phố này bị pháo kích, hôm thành phố kia bị tấn công. Tôi muốn nổ tung theo những bản tin chi tiết của những vụ lộn xộn này. Đời sống ta hôm nay, có gì vững bền đâu! Chết hay sống chỉ còn là vấn đề của thời khắc. Một phút trước. Một phút sau. Gọn gàng, mau lẹ. cả chục người. Cả trăm mạng.
Ý nghĩ chàng đã không thực tình yêu tôi, chàng đã coi rẻ tình yêu tôi dành cho chàng, làm tôi nghẹn ngào, tức tưởi.
Phải, trong tình yêu, kẻ nào càng đắm đuối, càng đam mê bao nhiêu, kẻ đó chỉ gánh chịu thiệt thòi, và thua lỗ bấy nhiêu mà thôi!
Chung quanh tôi, với cuộc tình của chị Thúc dành cho anh Chấp, của Ngô dành cho Phàng… đã tạo cho tôi những ý nghĩ chua chát ấy. Tất nhiên là tôi không có ý so sánh cuộc tình tôi với những người đó. Không. Chẳng bao giờ có thể có một cuộc so sánh mà sự sai biệt đã có tự căn bản.
Nhưng tôi cũng không khỏi chạnh lòng khi thấy những người chung quanh mình, như Thúc, trút cạn cả tâm hồn, cả ý nghĩa đời sống cho tình yêu thì được bù lại bằng sự thật, bồ hòn. Ngô về với vết thương còn chùng, nhăn da non trên ngực, để rồi chạm mặt với sự cợt nhả, khinh khi ngay từ cung cách nhố nhăng của Phàng trước đám đông, kệch cỡm, ghẻ lở.
Tôi cố tránh mọi phê phán về những người chung quanh. Ngay cả với chị Thúc, chị ruột tôi.
Nhưng chị Thúc không chịu hiểu thế. Cả Chấp nữa. Chấp bắn tin cho tôi về những điều xấu xa của chàng, trong khi chàng đã nói cho tôi nghe hết. Có thể Chấp tưởng chàng đã đem tất cả mọi chuyện riêng của Chấp ra kể với tôi. Sự thực, Cung luôn để tôi thấy Chấp là một người hoàn toàn bởi chàng từng có một thời thân thiết với Chấp. Một lần, Chấp còn bảo với Thúc rằng, chàng bị đổi đi xa và đã phải chạy tiền để được ở lại nhiệm sở. Tôi run người khi nghe tin! Không. Tôi không thể để chàng làm một việc mất tư cách như vậy. Và thâm tâm, tôi cũng không tin Cung có hành động ấy. Ngay lập tức, tôi đi tìm Cung. Nghe xong, Cung giận, tái cả mặt. Tôi lo Cung sẽ đi tìm Chấp và, sẽ có một màn phân trần, chối quanh của Chấp. Nhưng lát sau, Cung cười nhạt, lắc đầu bảo, Chấp có mục đích riêng, khi loan tin ấy.
“Cũng chả nên giận làm gì. Ai cũng có phần tốt, phần xấu. Khi kịp nghĩ quyền lợi của họ bị lung lay thì, ngay cả anh em, họ còn có thể mưu hại, huống hồ chi bạn bè. Thứ tình bạn thời buổi này…” Cung kết luận.
Từ đó, Cung đối xử với Chấp khác đi. Đến bây gờ, tôi nghĩ chắc Chấp vẫn chưa hiểu được nguyên nhân gần xa của sự thay đổi này.
Tất cả những chuyện lặt vặt kia, đã tạo thêm khó khăn cho cuộc tình chúng tôi. Chị Thúc càng ngày càng tỏ ra khó hiểu với những hằn học, vô cớ. Tôi thấy mình bị đẩy đưa tới chỗ xa lạ với tất cả mọi người thân trong gia đình. Tôi như một con ốc thu rút mình trong chiếc vỏ. Và trong chiếc vỏ này, tôi đã tạo cho tôi một thế giới biệt lập, với những tính toán, những mơ ước cho một cảnh đời riêng. Một cảnh đời được ở trên những bẩn chật, nhỏ nhen, đê tiện của đời sống, giữa đám đông.
Buổi chiều đã tắt hẳn ở phi trường. Khu vườn trước mặt cũng chìm trong màn sương nhòe nhoẹt bóng tối. Con đường vắt ngang, chìm trơ trong ánh sáng vàng héo của những cột điện thưa. Tôi nghe lại, thêm một lần nữa, tiếng nói câm, vang âm trong hồn tôi:
Bao giờ Cung mới về? Cung ở đâu? Hay chúng ta đã vĩnh viễn xa lìa nhau? Em sẽ phải làm gì, nếu chẳng may anh chết?
1970.
4. Bước Lên Thềm Đời
Ngoạn bình tĩnh lạ thường, cái bình tĩnh đến độ lạnh lùng trơ trơ như tai nàng chưa hề nghe một lời nào đau đớn, như mắt nàng chưa hề thấy rõ dáng điệu điên cuồng của người cha, vẻ hiu hiu tự đắc khôi hài của người anh, mặc dù óc nàng vẫn con sống động hình ảnh Phổ im chịu trong cơn thịnh nộ của tất cả người thân trong gia đình nàng. Tất cả mọi sự đã xảy ra, Ngoạn nghĩ, một lần trung tóe hết. Bây giờ không còn thời gian để ngắm nhìn, để xét duyệt những sự kiện đó nữa. Ngoạn không còn thì giờ. Quyết định đã là quyết định. Chỉ còn không đầy sáu tiếng đồng hồ nữa, trời sẽ sáng. Mặt trời sẽ lên cao, và một lần thêm, một lần cuối cùng nàng nhìn mọi người trong ngôi nhà bao năm đã sống, để rồi ra đi. Đi và không bao giờ trở lại. Phía trước mặt, con đường mờ mịt đau thươg hay chói lòa hạnh phúc, đã là một réo gọi, một mời mọc âm thầm những quyến rũ. Phía trước mặt, chỉ có những bước chân đi tới, mới hy vọng tìm thấy những mảnh trời, mới hy vọng mở ra những vùng ánh sáng…
Ngoạn xếp cẩn thận những tấm áo của gia đình may cho, thành một chồng riêng. Nàng chỉ lấy ra khỏi tủ, những quần áo do tiền của nàng mà có. Những chồng sách thân yêu của những năm cô đơn. Trằn trọc cũng được di chuyển lần đầu tiên khỏi vị trí cố hữu. Những con vật bằng đất nung cũng được Ngoạn bỏ riêng vào một bao giấy. Đó là những kỷ vật gần gũi duy nhất còn sót lại, mang dấu tích lủi thủi của những ngày trẻ thơ của đời Ngoạn.
Khi thu dẹp xong tất cả những vật dụng định sẽ đem đi, người Ngoạn cũng đã mệt nhoài, rã rượi. Lúc này nhìn những gói áo quần, những chồng sách, những túm giầy dép nằm khuất kín trong một góc nhà kho, Ngoạn mới thấy lòng mình khi không chùng xuống. Những cảm xúc, những ý nghĩ tủi thân đánh võng tâm hồn Ngoạn làm những giọt lệ từ từ rung chảy. Mãi tới giờ phút đó, Ngoạn mới thấy khóc được. Những giọt nước mắt như bị bỏ quên, nay mới có dịp lao xao, xào xạt, hối hả xô nhau.
Ngoạn ngồi bệt trên bệ gạch của mái hiên nhà sau, chân thả xuống nền đất.
Bóng Ngoạn ngả xiên về một phía, rúm co, lùng bùng như một cái bao tải được móc trên một cây gậy nhỏ. Con chó Lu từ sân trước trở vào, ngửi ngửi đôi chân Ngoạn để trần trước khi dịu dàng nằm né cạnh một bên. Ngoạn đưa tay vuốt ve những sợi lông mềm ướt rịn sương đêm trên lưng nó. Ngoạn muốn nói với nó rằng, ngày mai, sáng mai là Ngoạn sẽ không còn ở đây nữa. Lu sẽ không còn một dịp thêm trông thấy Ngoạn. Lu cũng sẽ không bao giờ được ăn những dĩa cơm với thật nhiều thức ăn thừa do Ngoạn đem cho. Ngoạn tưởng tượng những câu hỏi mà con Lu sẽ hỏi Ngoạn. Và Ngoạn trả lời nó. Rằng Ngoạn cũng không biết Ngoạn sẽ đi đâu, sẽ ăn uống, sẽ làm việc, sẽ sống như thế nào. Nhưng dù sao thì Ngoạn cũng không ở đây nữa. Đó là điều duy nhất, chắc chắn. Ngoạn trả lời với con Lu rằng Ngoạn phải ra khỏi nhà, bởi không một ai trong ngôi nhà này còn muốn thấy mặt Ngoạn. Ngoạn là cái gai nằm sâu trong mắt mọi người. Ngoạn là cái nhọt mưng mủ đã tới hồi tấy sưng, gây nhức nhối cho mọi người. Ngoạn cũng không còn trông mong ai, bất kể cả ba Ngoạn, hiểu cho Ngoạn nữa, Ngoạn cũng không phủ nhận cái hữu lý của mọi người, khi bắt Ngoạn phải chấm dứt liên hệ với Phổ.
Có ai không nhân danh lẽ phải, tình thương yêu để chặt đứt sự sống của một người khác đâu. Ngoạn cũng không thể phủ nhận những điều mà mọi người coi như là những phát giác kinh hoàng về Phổ là không đúng. Đúng lắm. Hoàn toàn đúng. Vì Ngoạn đã biết những điều đó trước mọi người. Ngoạn cũng không coi sự còn lui tới giữa Phổ và người đàn bà có con với chàng trước khi gặp Ngoạn là một chuyện tầm thường. Trái lại, đó là một chuyện quan trọng. Nó ảnh hưởng trực tiếp và mãnh liệt tới hạnh phúc của đời sống Ngoạn sau này. Nhưng vấn đề là ở Ngoạn. Là thái độ và trách nhiệm về một chọn lựa tự ý của mình. Mọi người kể cả ba Ngoạn (người duy nhất trong ngôi nhà Ngoạn đang sống, tỏ ra hiểu Ngoạn nhiều hơn cả), cũng đã không thể thấu hiểu tâm trạng của Ngoạn. Cái tâm trạng của một đứa con gái, tuy nhỏ tuổi, nhưng đã sớm hiểu biết, sớm nhận ra mình chỉ là mình, qua những cá biệt đó, mọi người không thể nhìn thấy một cách thấu đáo con người thực của Ngoạn. Một con người sinh ra vốn đã ấp đầy những cao ngạo và tự tin. Không cần đợi lúc va chạm với thực tế ở ngoài đời, Ngoạn cũng đã sớm thiết kế riêng cho mình những quan điểm bất di bất dịch về đời sống, về tình yêu, về hôn nhân, về hạnh phúc. Ngoạn vẫn đinh ninh rằng người phụ nữ không thể có cuộc đời thứ hai, để dành cho tình yêu thứ hai. Mỗi kẻ có thể có nhiều lần chạm mặt với tình yêu, nhưng chắc chắn chỉ một lần sống được tận cùng với nó. Những lần khác, chỉ hư ảo. Ngoạn không thể quan niệm rằng Ngoạn có thể gây dựng lại một cuộc tình nào khác, với một người đàn ông nào khác mà Ngoạn sẽ gặp. Một khi người ta không thể có được một tình yêu thứ hai để ứng dụng cái kinh nghiệm đã gặt hái được ở lần đầu, thì cách hay nhất, là sống thật với cái mà mình đã nhìn nhận đó, như một tình yêu đích thực. Nếu chẳng may đó là một lầm lẫn, thì ít ra cũng là một lầm lẫn rực rỡ, một lầm lẫn đã cháy sáng, đã huy hoàng một trái tim ta, một quảng đời ta, dù chỉ riêng ở phía ta mà thôi. Chỉ có những phản bội chính tự nơi mình mới làm ta cúi mặt. Những lầm lẩn (nếu quả thế) trong đam mê, trong rung động mặc nhiên, chân thực, luôn luôn nâng ta lên, dù cùng với mắt ngước, là những đớn đau, những ê chề nhục nhã.
Làm sao mọi người có thể nghĩ rằng. Ngoạn yêu Phổ chính vì cái dĩ vãng mù lòa của chàng. Ngoạn không thể chịu được những loại người đàn ông không có dĩ vãng. Người đàn ông chưa khốn quẫn ít nhất một lần trong tình trường, dù ở tuổi nào, cũng chỉ là một trẻ vị thành niên. Đó là một nhánh cây chưa đủ sức mang lấy chính nó với những cành lá hoặc xum xuê, hoặc xác xơ, cháy nám. Bởi thế theo Ngoạn, phần quan trọng còn lại là thái độ và trách nhiệm của y đối với quá khứ. Và đó cũng là môi trường, là một thách thức đầu tiên, lẫm liệt thảm khốc (có thể) đặt trước một người con gái, với tình yêu của cô ta. Hoặc cô ta vượt qua được để thấy tình yêu của mình chất ngất thánh thần, hoặc không, vì đó là đất lở, là cát bồi, để cô ta tự đào lấy cho mình một huyệt sâu của đau thương, tăm tối. Nhưng ở trường hợp nào thì người con gái kia cũng vẫn còn được giữ lấy cho mình một niềm kiêu hãnh. Đó là thái độ dứt khoát của một lựa chọn sống chết.
Gió đêm đuổi những tàn lá trứng cá chạy nhảy trong sân cũng như khoảng tối thẩm gây nên bởi tàn lá vú sữa di chuyển trong một khoảng sân đã bắt đầu lạnh ướt sương khuya.
Vượt khỏi hang rào dâm bụt thấp là những khóm tre còng xuống với những chiếc lá dài màu ngà đong đưa tiếng ru kẽo kẹt của căn nhà bên kia. Xa hơn nữa, thành lính với những bức tường thấp xám, cách quãng đều, có những lô-cốt, từ đó những ngọn đèn pha, chốc chốc rực sáng quét đi quét lại trong một vùng nhà cửa im lìm với những mái lụp xụp, lùn như những tháng năm còi cọc.
Con Lu ngếch miệng lên nghe ngóng động tĩnh. Vầng trăng hạ tuần đã lên cao khỏi bức tường thành.
Con Lu dụi dụi chiếc mõm vào ống chân Ngoạn và nhay nhay ống quần nàng như nói: Thôi cô đừng đi. Cô hãy ở lại đây với con. Ngoạn cúi nhìn nó, Nàng vuốt ve cái đầu cứng, thì thào:
-Nhưng dẫu thế nào thì ta cũng phải đi Lu à,
Ngoạn thấy con Lu có vẻ lắc đầu, tỏ dấu không tin:
-Chắc gì ông đã để cô đi. Ừ, cả ông, cả bà, không dễ gì để cho cô đi đâu.
-Nhưng đã nói thì làm, tính ta như vậy.
-Cô không sợ ông làm phiền đến cậu hay sao?
-Có, ta có nghĩ đến chứ. Nhưng ông làm gì thì làm. Cùng quá ta chết chứ gì.
Ngoạn có cảm tưởng như con Lu le lưỡi dài kinh hãi. Nó nói:
-Cô chỉ được cái nói dại. Con là loài thú bốn chân, ăn bẩn mà con còn tha thiết sống, huống hồ chi cô…
Ngoạn ngắt lời nó:
-Con nói đúng. Con là loài thú bốn chân, con ăn bẩn nhưng con còn biết đi bằng bốn chân con nhận con ăn đồ bẩn, trong khi cái giống tên gọi là người dù đi bằng hai chân, dù không ăn đồ dơ bẩn, nhưng sự thực họ đi cả chân lẫn tay, họ ăn uống xác thân đồng loại, họ hèn mạt, họ đê tiện và cái thảm hại là họ đã không biết họ là như thế.
Con Lu rùng mình. Nó ngúc ngoắc cái đầu:
-Nghe cô nói thấy mà ghê.
Ngoạn gật đầu
-Bời thế cho nên bao giờ người ta cũng bọc đường cho mọi sự thật. Và ngay cả tình yêu nữa.
Ngoạn nghĩ tới Phổ… Anh có bọc đường viên kẹo tình yêu anh cho em. Và lớp đường đó, với thời gian bao lâu sẽ tan hết trong miệng em?
Con Lu đang nằm bỗng chồm đứng lên, nó ngơ ngác sủa vu vơ vài tiếng khi thấy vầng trăng quá tỏ soi sáng trước mặt.
Trong khi ấy, ở một gian phòng, trên cao, của một building, một người đàn ông còn thức và đang cặm cụi viết. Viết.
1972
5. Theo bước chân người
Cùng với trận mưa đầu mùa, tôi trở lại nơi đó, sau đúng một năm. Phải. Cũng một năm trước, dưới những hạt mưa nặng và tiếng lộp bộp của những giọt nước gõ trên mái ngói, tôi thường đến đấy cùng với Thụy. Giờ Thụy đã nằm chỗ. Đúng hơn là nàng đang bận rộn với tã lót, gối bông và khăn lông trong chờ đợi với đứa con đầu lòng. Tôi không dám nghĩ là nàng đã bước đến bờ kia của con sông ngăn đôi hạnh phúc và đầy đọa, Bởi nếu có một điều gì tôi biết được chắc chắn về đời sống hiện tại của Thụy, thì đó là nỗi chật vật, thiếu thốn về tiền bạc. Đó là sự dày vò (cũng về tiền bạc) của những người thân quanh nàng.
Có phải nơi chốn nào tự nó cũng phải mặc lấy một vài đổi thay, biến dạng. Làm như chính nó ở mỗi giai đoạn có một lớp phấn son riêng. Và ngườ trở về, trong trường hợp nào, cũng chẳng thể tránh khỏi chút ngỡ ngàng, xa lạ.
Cũng có thể cảnh trí nơi đây đã chẳng thay đổi gì sau một năm, kể từ ngày tôi dời thành phố. Chắc chắn hơn, có lẽ, tại tôi, lúc này, đã không còn là tôi khi xưa. Tôi trở lại với những bước chân nặng nề, với một tâm hồn, qua đôi mắt mệt mỏi, lừ đừ, thiếu máu.
Qua hết bờ tường rêu với những dòng nước ngòng ngoèo chia miếng tường thành nhiều mảnh không đều, gợi ra nhiều hình thù nát đứt, ngôi quán nằm thụt sâu vào trong phía tay phải. Khoảng không gian nhỏ chụp úp lên đầu đám ngườ ngồi dạng chân hay co ro trong một màu tối đặc hơn khoảnh sân lộ thiên phía ngoài. Tôi đứng nhìn. Trong từng góc tối, những gương mặt xa lạ. Còn trẻ. Vêu vao mà lại sẵn đầy hậm hực, phẫn nộ. (Những gương mặt sần sùi như trái lựu đạn lép nhưng có khá nhiều chốt nổ). T. cởi áo mưa, rũ nước xong cầm tay. Chị chủ quán từ sau quày hàng nhô ra đi về phía chúng tôi bằng những bước chân vội như nhảy lò cò. Chúng tôi nhìn nhau. Chắc chị nhận ra sự có mặt đột ngột của tôi. Chị bảo, ông ngồi đỡ ngoài này. Tay chị chỉ xuống nền nhà sát ngay mái hiên. Hai chiếc ghế và một cái bàn nhỏ lè tè được dặt gọn vào chỗ trống như còn sót đó. T. vắt áo mưa lên vai ghế và ý tứ ngồi xuống để khỏi chạm vào vai người ở bàn trong. Tôi gọi hai cái cà-phê không hỏi ý T., T. nói mong mưa cả năm nay, qua suốt một mùa mưa nắng, chừng có mưa, lại chỉ thấy rầu thêm. Tôi rút thuốc hút và lắng nghe những tiếng rì rầm bủa vây chung quanh. Câu chuyện của họ, đủ thứ. Chiến cuộc lan rộng ở Cao Nguyên. Đánh lớn ở ngoài Trung. Trường Đại Học đóng cửa. Tổng động viên.Tổ quốc lâm nguy. Thiết quân luật v.v… Xen giữa những tiếng bàn tán này, là những tiếng ho khan. Những tiếng chưởi thề và cả những hơi thở hắt ra (kín đáo nhưng vẫn đủ để nhận biết).
Mưa như tiếp tục cản ngăn sự cố tình xáp lại gần, đến trở thành gượng gạo giữa tôi và T.. Hình như từ lúc tôi gặp T. cũng trong một quán nước đến giờ, chúng tôi chỉ có dăm ba lời trao đổi nhau:
“ Anh mới về?”
“ Vâng”
“ Em còn đi học?”
“ Nghỉ rồi?”
“ Làm đâu?”
“ Cho Đại Hàn.”
“ Anh có xe không?”
“ Có.”
“ Đi nha.”
“ Mưa mà.”
“ Thế mới đi.”
Và tôi đã đưa T. ra xe. Tôi chở nàng qua gần hết những con đường lềnh bềnh nghiêng ngả trong màn mưa tầm tã. Ngồi bên cạnh tôi, T. thu rút người lại, chỉ thỉnh thoảng mở kính gió, cho những hạt mưa lạc, tạt bám vào mặt. Tôi im lặng, hút thuốc và nghĩ tới một địa chỉ trong Chợ Lớn, để ngủ lại qua đêm, nếu có T. Dọc những con đường, trên những vũng nước, dưới những tàn cây còn sót lại của một thành phố đang héo chết, đôi lúc, tôi muốn nhắc nhở T. một ít kỷ niệm để cùng nhớ lại, khi trong số chúng tôi, chưa có một kẻ ra đi, vĩnh viễn. Nhưng không hiểu sao, cứ mỗi lần sắp sửa mở miệng, tôi lại chợt khựng cứng. Hình như sự có mặt lẩn quất mơ hồ của những kẻ gần xa cũ, hay những ám ảnh của chúng đã làm môi tôi tê, lưỡi tôi dại, đờ. Tôi không nói gì được, và cả T. biết đâu chừng, cũng vậy. Cuối cùng tôi phải hỏi T. một câu hỏi không cần thiết lắm: đi đâu? Và câu trả lời là tùy ý. Từ đó, trong óc tôi, ngôi quán này hiện ra. Tôi muốn trở về với nó, không phải vì T., giữa tôi và T. chẳng có một kỷ niệm nhỏ nào, ở nơi này, và ngay cả những nơi khác. Chúng tôi trở thành quá mới mẻ đối với nhau, (trên bước đường đi tạo kỷ niệm), trong khi ở quá khứ đã xa, lại quá quen thuộc (tới độ biết rõ cả cái phần dĩ vãng cá nhân, mà sự thực, mình không hề tham dự).
Tôi mở banh tờ báo nhẹp nước với hình ảnh cùng tin chiến sự. Ánh sáng chỉ đủ cho tôi đọc được những hàng tít lớn và những chữ nhỏ in đậm. T. hỏi, tình hình có gì mới? tôi cười ngó vu vơ ra ngoài thềm mưa. Gió tạt đập vùi mấy chậu cây dồn cục trong một góc sân. “Tình hình lắng dịu khắp nơi.” T. lơ đãng như không nghe câu trả lời của tôi. Nàng bảo: “Anh vẫn ở lính đó chứ!.” Tôi cúi xuống ly cà phê và tay đập đập vào bắp chân trái của mình. Bị thương, giải ngũ rồi. Sao không thấy gì cả?
Tôi bực bội nhìn dữ dằn vào đôi mi mắt hạ xuống, để trơ lại hai đường bút chì xanh sát với chân mày, trên mặt T.. T. nhìn lại tôi. Cái nhìn thẳng. Cũng dữ dội. Vẻ thiệt tình. Tôi nói, dịu dàng: Anh bị trúng đạn ở đây (tôi nắn nắn bắp chân trái, chỉ còn là một đường rãnh lớn). Khi mổ gắp đạn ra, bị đứt một sợi gân. Em không thấy, anh đi với một bàn chân luôn luôn nhón gót sao? T, cười. Nụ cười độc ác vô duyên: Cũng may. Cũng may? Tôi lập lại.T. gật đầu. Ừ. Tôi thở ra. Tôi vẫn cho rằng tôi có cái bệnh ưa bi thảm hóa. Chút chút gì khác thường đối với tôi, cũng có thể kiến tôi hoang mang, giao động tưởng như đời mình thế là hết. (Mặc dù, rồi, đời tôi cũng vẫn còn, dù vẫn còn một cách lây lất). Bao nhiêu lần tôi đã tự hứa phải sửa sai, phải khắc phục sớm ngày nào hay ngày nấy cái bệnh tưởng kịch cởm này. Nhưng tôi đã chẳng làm được gì khác hơn là bi thảm quá đáng, để rôi khi được nghe một ý tưởng nghịch chiều, lại thấy rằng mình thế vẫn còn lá may mắn chán. Và hạnh phúc, ôi thật dễ dàng, đến ngay sau đấy.
Quán mỗi lúc một đông thêm cùng với sự gia tăng của bóng tối và những hạt mưa nhẹ hơn nhưng hứa hẹn dai dẳng, có thể kéo qua hết đêm.
Tôi trả tiền cà-phê và không ai hỏi, tôi khai với T. rằng trong túi tôi hiện đang có một khoản tiền đủ cho một bữa ăn cùng một chỗ nghỉ tốt. Khi nói dứt câu, với cái im lặng bình thản ném ngược trở lại của T. tôi mới nhận ra cái gian ý hay mưu toan biển lận đã được lồng vào trong câu nói ngay từ tiềm thức.
T. cầm áo mưa đứng lên. Cái đầu nàng hơi nghiêng nghiêng. Làm như luôn luôn có một bên đầu T. nặng hơn bên còn lại. Tôi đứng lên theo và thận trọng bước từng bước nhỏ chậm, để những con mắt nhìn theo (trên những gương mặt thuốc nổ) không nhận ra một gót chân tôi luôn bị giựt lên trên mặt đất vì gân rút co. T. lại thẳng xe, nắm cánh cửa chờ tôi ở đó. Có lẽ lúc này mới là lúc T. chú ý tới những bước chân không bình thường của tôi. Tôi nghe những sợi gân chưa đứt còn lại nơi chiếc chân trái của mình giựt giựt. Tôi buộc miệng bảo T.: “Đừng nhìn anh như thế” T. nói” “Anh mở cửa đi chứ.” Tôi cười thầm trong lúc sắp xếp lại đôi chân mình trong gầm xe, cho đúng vào vị trí và tay với chốt cửa, bẻ quặt lại.
Trời vẫn mưa. Lệnh giới nghiêm sớm đã đem chút ám ảnh vẻ chiến tranh rải mỏng lên hai hàng phố của Chợ Lớn đèn màu.
Tôi quẹo xe vào đường Đồng Khánh và cứ thế chạy thẳng. Có thể là T. đã bắt đầu nghe ngóng hay đánh hơi thấy những gì sẽ xảy ra trong phần giờ khắc đang tới. Tôi nghĩ nàng băn khoăn nhấp nhổm không an lòng với đôi bàn tay bẻ tới lui những ngón tay dài bóng màu lụa nõn. Cả tôi, có lẽ, tôi cũng đã không yên ổn với những toan tính mà chính mình biết rõ, trong lòng mình. Dẫu sao thì cũng… đành. Chẳng lẽ quay về? Tôi chặc lưỡi và hết sức tự nhiên, tôi quàng tay qua vai T., kéo nàng ngã vào ngực. Tôi không nghe được mùi thơm của da thịt T. trừ mùi nước hoa mà nàng đã xức quá tay. T. không có một dấu hiệu phản kháng nào (dù lấy lệ). Sự ưng thuận hờ hững, thiếu nhiệt tình của T. đã dấy lên thật nhanh trong tôi cái cảm giác chán ngán. Nhưng rồi chỉ một thoáng sau, khi tôi cúi xuống và tìm trúng được ngay đôi môi T., tôi thấy rõ, người tôi nóng dần. Ngọn lửa rạo rực hừng hực cháy.
Khi tôi đem được xe vào trong sân, thú thực rằng tôi đã thầm phục mình tìm ra đúng địa chỉ, cái địa chỉ mà hồi nào giờ tôi chỉ nghe một thằng bạn làm nghề bán chữ nói loáng thoáng sau lần nó đưa bồ đến đó. Tôi hoan hỉ nhìn T. xuống xe với cánh cửa được mở sẵn bởi một anh bồi mặt mũi sáng sủa đầy vẻ láu cá. Lúc sánh bước ngang nhau, tôi hỏi nhỏ T. “Em có biết nơi này?”, T. đáp ngay: “B.Đ”. Sự biết rõ của T. làm tôi cụt hứng, nhưng đồng thời cũng cho tôi ít nhiều tò mò, ngạc nhiên. Tuy nhiên T. không thể biết được những ý nghĩ đó của tôi. Chẳng đời nào. Phải rồi. Tôi hỏi anh bồi với giọng thành thạo nghe lỏm của mình: “sân thượng ăn được không”. “Dạ được. Có mái tôn kéo, thầy hai”
Mười lăm phút sau, chúng tôi đã ngồi đối diện nhau trước mấy món ăn bốc khói trên sân thượng của cái nhà hàng và đồng thời cũng là khách sạn đó. Khi tôi cầm đũa bảo T. ăn đi. T. cười bí mật và ngồi im. Tôi hỏi sao cười. T. bỗng chuyển sang bộ mặt rầu rầu, (cái bộ mặt có từ lúc mới vào quán). Một lát sau, T. gõ đũa vào miệng chén, nói nhỏ: “Em thấy có một sự trùng hợp lạ lùng?”. Tôi ngạc nhiên nuốt nhanh hợp bia “Cái gì”. “Anh và P.”. “Như thế nên?” “Cũng B.Đ. cũng những món ăn này.” Nhắc đến P. tôi không muốn ăn nữa. Tôi cũng không còn muốn T. trong mắt nhìn của mình. Đột nhiên lòng tôi ngắt lạnh và buốt nhức. Phải chăng dù cố gắng lẫn tránh, ta cũng không thể thoát khỏi ám ảnh của kẻ thứ ba. Kẻ đã khuất. Phải chăng, đó là điều mà cả hai chúng tôi không cách gì thoát được, ít hay nhiều, đó là điều phải nhắc đến. Muốn hay không, đó là chuyện phải được gợi lên, một lần. Dẫu sao cũng còn may, tôi nghĩ, P. đã được nhắc đến, trong lúc này, giữa bữa ăn. Thà rằng thế. Trước khi vào phòng.
Tự dưng giọng tôi thấp xuống, lạc đi trong hổ thẹn và ngoài vòng kiểm soát của lý trí tôi. Tôi nói: “Bởi nó là em ruột tôi.” T. lắc đầu: “Không. Chỉ là bạn. Một người bạn thường. P. nói thế, khi còn sống.” Tôi cố gắng gượng phát một cử chỉ để T. hiểu rằng lời vừa rồi của tôi là một lời nói thành thực và đứng đắn nhất, (nghĩa là không thể đứng đắn hơn), và rằng chúng ta đang nằm giữa cái phút của sự thật. Nhưng tất nhiên T. đã không dễ dàng tin thế. Nàng bảo, dù gì chúng ta cũng không nên lợi dụng sự không còn lên tiếng được của kẻ đã chết. Tôi bảo, thì tôi cũng không mong gì hơn là giải tỏa luôn cho y những gian dối mà y còn để lại trên trần. Cuối cùng buộc lòng tôi phải kể rõ trường hợp của gia đình tôi và lý do khiến P. không muốn nhận tôi là anh nó. Chẳng qua, chỉ vì tôi là con riêng của ba tôi trước khi người chính thức lấy mẹ P. và tôi đã là một trong những cái vòi hút vô hình, hút đi hạnh phúc của mẹ P.. Tôi nói tất cả chỉ vì sự hẹp hòi của mẹ P. và điều đáng tiếc khi bà nhận ra được điều đó, thì bà đã câm, đã không thể nói, cho tới lúc chết, để P. xóa đi đám mây chở nặng cơn mưa chẳng bao gời mưa được xuống tâm hồn nó nức nẻ.
Hình như, trong lúc nghe tôi nói về gia đình, về P., T. đã khóc. Và tôi cũng không thể ăn những ăn những món ăn mà một thời P. đã thích, đã gọi cho T., sau công việc rút hết ruột mình.
Tôi đứng lên, nói với T. số căn phòng mà tôi đã thuê, cho đêm nay. Và tôi cũng nhấn mạnh rằng không có gì trở ngại cho tôi, nếu T. không muốn ngủ cùng
tôi trong căn phòng đó. T. có thể về dù là trong giới nghiêm.
6. Quy Nhơn, Trở Lại Một lần Nào,
Chị Tiếng, nhận được thư này, tô chắc chị sẽ ngạc nhiên và sửng sốt không ít. Chính tôi, cũng cảm thấy mình quá đường đột khi chọn chị để lá thư này tới. Tôi cũng không thể tự mình tìm lấy một lý do vững chắc nào biện minh cho việc này của mình. Tôi cũng không thể nhân danh tình thân, một thứ nhân danh dễ dàng nhất (kể cả việc để dễ dàng làm phiền nhau), vì giữa tôi và chị chưa có được những sợi dây liên lạc khả dĩ cho phép tôi được biên thư tới chị, đều qua Châu. Một trung gian. Một người  thứ ba.Tuy thế, tôi vẫn tự cho phép mình nghĩ rằng đã hiểu được khá nhiều về chị.
Đúng ra tên chị không phải vậy. Châu nói thế. Tôi nghĩ nhân viên hộ tịch đã ghi tên chị vào sổ bộ đời với một chữ thừa. Chữ “g”. Đúng ra, tên chị là Tiến. Phải. Tiến mới đúng. Nhưng riêng tôi, tôi thích cái tên có thừa mẫu tự hơn. Mặc dù lúc chào đời, chị đã được dư thừa ngay tự cái tên của mình, để rồi lớn lên, tuổi tác và những cảnh đời đã sống, cho chị thấy rõ hơn, chỉ một điều: sự thiếu thốn và lòng u uẩn. Mấy lúc sau này Châu thường nói chuyện với tôi về chị, nhiều hơn những người bạn khác của Châu. Và hình như cũng từ đó, tôi mơ hồ cảm thấy như mình bị ám ảnh bởi những điều tình cờ được biết. Trong những điều tình cờ đến và ở lại trong tôi, có một địa danh, một nơi chốn. Một nơi chị đã đi qua và còn mong trở lại. Tôi muốn nói, quả thực, chị còn may mắn. Xin chị đừng vội mở lớn đôi mắt hoài nghi. Chị cứ cho phép tôi được nói hết những ý nghĩ của tôi. Vâng, chưa bao giờ bằng lúc này, tôi thèm được nói hết ra, những ý nghĩ chợt đến với đầu óc mình. Có lẽ cũng cần phải nói thêm để chị hiểu sự thèm khát của tôi đến mức nào, khi chị biết đã bao tháng nay, tôi không ngồi vào bàn viết. Thời gian, hạnh phúc, đau khổ, túng thiếu…tất cả những thứ đó, như đã rút khô tôi, hay ắp đẩy tôi, đến độ tôi chỉ còn nhận ra mình lười biếng trườn trôi trong đó. Nhưng đột nhiên gần đây, tôi cảm thấy lòng mình quá đỗi dạt dào, tâm hồn mình ứ căng quá nhiều ý nghĩ. Và một trong những ý nghĩ thôi thúc tôi mãnh liệt nhất, đó là một thành phố. Một nơi chốn. Và trớ trêu thay, nó cũng lại là cái thành phố mà chị đã đi qua và còn mong trở lại.
Bây giờ tôi xin nói với chị về cái mà tôi gọi là may mắn. Sự thực, trong đời sống của mỗi người, may mắn hay bất hạnh nó cũng chỉ mang một ý nghĩ giới hạn, bởi vốn dĩ nó cũng chỉ là những ý niệm… Có những điều tôi cho là may mắn, chị lại có thể nhìn như là một bất hạnh. Bởi thế, tôi nghĩ có lẽ tôi phải nói rõ hơn ý mình.
Từ lâu tôi vẫn quan niệm rằng, thực may mắn cho một kẻ nào có được một nơi chốn gửi gấm trọn vẹn tình yêu đắm đuối, tinh khiết dành cho một nơi chốn. Nơi chốn ở đây, có thể là một phố, một con sông, một hè đường. Nơi chốn với một tình yêu hồng nõn đó, thường là nơi ta đã gửi lại một phần đời… Ta đã giấu đi hay trải ra, ở đó, những nồng nàn, những rộn rã của trái tim ta, để khi ra đi, ta tưởng như đã đem theo cùng với bóng mình tất cả nó. Tôi nghĩ thật dễ hiểu, khi người ta yêu mến nơi được sinh ra và lớn lên. Tôi gọi đó là tình đầu. Đó mới chính là tình đầu. Đó là cánh cửa lớn mở ra những vùng trời của những tình yêu kế tiếp… Đó là bậc tam cấp, bắt buộc để ta phải nhón gót bước lên, trước khi đi về phía mặt trời hồng, hay run rẩy bước xuống vũng lầy để bắt đầu cuộc hành trình trầm thân vào bóng tối. Một tâm hồn không có nó, là một tâm hồn đáng tội nghiệp. Một đời người không có nó, là một đời người thiếu rễ cái cắm sâu. Nó cần thiết như quá khứ làm nên tương lai. Nó quan trọng như kỷ niệm làm vốn liếng cho ta và đời. Tôi không nói, nó là tất cả, nhưng tôi muốn hỏi chi, khu vườn ước mơ ta, sẽ ra sao, nếu trong đó thiếu vắng những bông hoa ước mơ một nơi chốn trở về. Những bông hoa rực rỡ hương tình đầu.Những bông hoa, làm não lòng ta trong một phút giây bàng hoàng nhớ lại. Những bông hoa làm não lòng ta, trước một tình cờ đọc được, một tình cờ nghe thấy.
Ôi, nơi chốn, nấm mồ lớn ủ giữ hương tình đầu.
Tôi là kẻ không có được cái may mắn đó. Chắc chị không biết rằng suốt quãng đời đã qua, tôi không có được một nơi để yêu dấu, như người ta nâng niu mối tình đầu của đời mình.
Những người dời bỏ Hà Nội ở tuổi hai mươi trở lên, họ đã đem theo cả một Hà Nội với tất cả những gì tạo nên Hà Nội. Họ có được trong họ mối thiết tha và lòng tương tư mong ngày trở lại. Nhưng tôi thì không. Khi dời bỏ Hà Nội tôi còn quá nhỏ. Tôi cũng muốn yêu Hà Nội như yêu một người tình, như nhớ một dung nhan không thể kiếm tìm thấy ở bất cứ một nơi nào khác dưới vòm trời. Nhưng thành thực, rất thành thực, với mình, nếu so sánh Hà Nội với con đường đá tảng dẫn xuống một bến đò trên dòng sông Đáy, nơi tôi đã được sinh ra và mẹ tôi đã vục lên từ đó những lượng nước đầu tiên tắm xối cho tôi mở mắt vào đời. Nếu so sánh Hà Nội với những tháng ở trong rừng mơ, sau khi chạy tản cư qua Đồng Lạc, trở về ngủ tạm những đêm ầm tiếng bom đạn của máy bay Pháp giữa chùa Đanh, Hà Nội chỉ là bóng lá nhỏ so với những tàn lớn tỏa mát của những nơi chốn trên. Nhưng ngay cả những nơi này, với tôi cũng chưa là hiện thân của tình yêu. Phải chăng thời gian ngắn ngủi cùng ý thức thơ trẻ đã không ghi vạch trong tôi những nét đậm sắc. Rồi di cư. Máy bay thả tôi xuống thành phố cũ. Xứ dân nghèo. Đêm trong Thành Nội, với những gánh bún bò đỏ chát ớt cay, đã khiến tôi chỉ ăn được một thìa mặc dù lòng đã trống sau khúc bánh mì chả gậm tại phi trường Gia Lâm lẫn với những sương mù và những giọt lệ ngậm ngùi che ngang của những người sắp bước chân vào quãng đời sầu cố quận.
Qua một đêm nằm trong Thành Nội, năm giờ sáng hôm sau, khi những cây sầu đông còn trĩu nặng những giọt huyền bí, tôi đã được nhét lên cabine của một chiếc GMC để bắt đầu cuộc hành trình vượt qua đèo Hải Vân trở vào Đà Nẵng. Tôi không thể xác định với chị, tôi đã sống dưới những hàng phượng vĩ đỏ ối của mùa hè bốc lửa Đà Nẵng dọc theo con đường Bạch Đằng và bao lần ngâm mình trong con sông Đà với những đám hào cậy được từ vỏ sắt của chiếc tàu Nhật lật úp gần bờ.
Sau Đà Nẵng là Hội An, cái thành phố nổi tiếng với chùa Cầu, với căn nhà trống lốc bốn phía ở ngoại ô, nơi đặt bàn thờ và bộ xương rã mục của một ông cá Voi. Tôi đã chập chững làm quen với sinh hoạt miền Trung. Tôi đi học lại. Tôi tập nghe tiếng được tiếng mất. Thành phố xưa cũ kia như sắp sửa cho tôi những thân mật, những kỷ niệm thì tôi lại phải ra đi. Lại dời bỏ, Một chuyến tàu, (chuyến tàu thủy đầu tiên trong đời tôi). Chiếc Ville de Hải Phòng, phải chính nó, đem tôi vào Sài Gòn, Với Sài Gòn tôi lại tập tành từ đầu bài học làm quen. Tôi lại tập bước, những bước đi đầu tiên, giữa những hè lộ thênh thang của một thành phố được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Nhưng dẫu sao, Sài Gòn có lẽ là nơi chốn duy nhất mà tôi đã sinh sống, đã hít thở, đã chứng kiến, đã thâu thập được nhiều dưỡng chất tươi thơm cũng như ủng thối của đời sống. Những ngày ở Trần Hưng Đạo, trong cái cư xá Hòa Bình, với hai hàng cây sao thẳng vút, tắp cao. Ở đó, tuổi thiếu niên của tôi đi qua và có thể nói được chăng, bắt đầu thui chột, Ở đó, một căn nhà trong dãy nhà cư xá đó, từ ngạch cửa, trên bậc thềm, tôi đã bước xuống, tôi đã ra đi để trở vào một đời sống khác. Một đời sống của lãng mạn trẻ con: gác trọ. Rổi chiến tranh. Rồi đi lính. Và từ những bước chân đều bước theo nhịp đếm ở quân trường, tôi đã đi khắp nơi. Đã qua nhiều chốn.
Chắ chị không biết, tôi đã về tới Kiến Phong Cao Lãnh. Tôi đã lại nhiều ngày trên con lộ 14, (con lộ mà trong hơn một tháng nay, máu đã chan hòa), con lộ nối liền Pleiku Kontum. Tôi đã trở dậy với những sáng đầy sương muối của cao nguyên. Buổi sáng mở ra cùng sương mù và mùi thơm thoảng ngái của những hàng khuynh diệp. Tôi đã trở lại Huế. Tôi đã xuống đò… Tôi đã về Hội An. Tôi trở lại và đứng trên bến cũ của sông Đà, nhìn lại chiếc tàu Nhật lật úp gần bờ. Tôi đã ra tới Gio Linh, đã về thấu Quảng Trị. Rồi Phan Thiết, Nha Trang, Cam Ranh. Tôi đã sống những ngày lính tráng đầu tiên trong một chiếc ấp hẻo lánh ở sát chân núi Trường Sơn. Tôi đã đeo súng suốt ngày để tới với đồng bào và làm quen với họ, ngay sát mật khu Châu Râu. Tôi đã về Tuy Hòa, đã qua ga Mường Mán. Tôi đã đứng chôn chân trên chiếc cầu cong bắc ngang sông Trà Khúc của một Quảng Ngãi thổ sản đường phổi. Ở mỗi nơi chốn đi qua, tôi đã có ít nhiều kỷ niệm. Ở mỗi nơi đặt chân tôi đã gửi lại ít nhiều vụn vặt. Những phần hồn rớt rơi đến giờ này, còn dằn vặt, còn dày vò tôi vào những khuya, hay những ngày ô tục. Tuổi thanh niên, tôi đã đi, đã qua, còn nhiều nơi nữa. Đêm ở tỉnh Tân An trưa ngồi băng ghế nơi công viên tỉnh Bình Dương ăn bánh mì và ngắm nhìn những người con gái áo trắng của tỉnh lỵ ôm cặp tới trường. Nói tóm lại, hầu như chưa một nơi nào tôi chưa đến. Không một chốn nào, chưa qua. Nhưng, chị Tiếng, tôi đã không thể có được một nơi chốn, như chị đã thiết tha mong mỏi trở về. Giờ này, ở tôi, tuổi thơ đã qua xa, tuổi niên thiếu cũng không còn, và tuổi thanh niên thì hầu như cũng đã đang trên con đường về với tàn tạ. Giờ đây, ở tôi, có còn chăng chỉ là những mệt mỏi, chán chường, uể oải và quay quắt. Trái tim tôi đã khô, tâm hồn tôi đã lắng. Tôi không còn hy vọng để có được những rung động tinh khiết, thánh thiện về một tình yêu dành cho một nơi chốn nữa.
Tôi vẫn nghĩ hoa hy vọng không thể nở trong một hoàng hôn ám khói, lá rung động khó thể đâm chồi giữa một khu vườn dông gió hoài hoài đi ngang. Tôi muốn nói tôi đã già rồi. Phải. Tôi đã già rồi, chị Tiếng. Đúng ra tôi đã nám đen, đã quắt khô ngay tự bước chân đầu tiên khi bước xuống bậc thềm cư xá Hòa Bình, để bước vào dòng đời, lúc tôi vừa tới tuổi mười bốn, Bây giờ, ngay bây giờ, nhịp tim tôi cũng đã thấy khó khăn để có thể hòa điệu (một cách mơ hồ) với những lời kêu rêu của kẻ lãng du trong bài Trở Về Mái Nhà xưa. Có lẽ, tôi muốn nói với chị, tôi đã hết cái khả năng cuối cùng: đánh lừa mình ngay trong mơ ước mù lòa của tiềm thức bâng khuâng xa vắng.
Ấy vậy mà, hôm nay, chị Tiếng, bỗng dưng tôi lại nghe lòng mình rạt rào một ham muốn thiết tha, nói về một thành phố, một nơi chốn, của chị. Phải, của chị. Tôi muốn nhấn mạnh điểm đó. Bởi, hình như sự tha thiết, lòng đăm đuối và tình yêu rực rỡ (buốn thảm?) của chị, đã khích động nơi tôi thoáng men say chếnh choáng. Một chút bùi ngùi rẩy nhẹ trong tâm hồn, như những vạt nắng quái cuối cùng bỗng lóe lên trên một bờ bãi tàn hoang, cổ độ.
Chị Tiếng, tôi muốn nói với chị về Quy Nhơn. Phải, Quy Nhơn, chính đó. Cái thành phố mà tôi cũng như chị, không được sinh ra, được lớn lên cùng với tiếng í ào, vỗ về những bước chân thơ, những mắt nhìn ấu dại, Tôi muốn nói với chị về cái thành phố mà tôi, chỉ là một khách vãng lai. Một kẻ lạ mặt. Một người khi đến cũng như lúc ra đi đã chẳng đem theo được trong tâm hồn mình những vốn liếng làm giàu có thêm tơ tưởng. Cái thành phố mà lúc này, hơn bao giờ hết thường xuyên được nhắc nhở trên mọi cửa miệng người Việt Nam, trên các trang nhất với những cột dài quan trọng của hầu hết các nhật báo. Cái thành phố mà chị đã biết, đầy người tỵ nạn… Viết tới những dòng chữ này, tôi mới chợt nhận ra rằng, có thể những địa danh kia, những đổ nát đó đã khiến tôi nghĩ nhiều về nó. Và có thể, đó mới chính là cái lý do thôi thúc tôi, viết thư này cho chị.
Chị Tiếng, có cần không nhỉ, nói với chị chút ghi nhận nghèo nàn của tôi về thành phố đó? Tôi phân vân, thực tình tôi phân vân, không biết có nên kể lại.
Ở đây, những cảm nghĩ đầu tiên của tôi, khi biết đến cái thành phố, cái nơi chốn cũ giữ hương tình đầu của chị (!).
Tôi đến thành phố này cách đây đã lâu. Lâu lắm rồi. Có thể vào cuối năm 67 hoặc đầu năm 68. Nhưng có một điều tôi nhớ rõ, đó là thời gian mà những người lính Đại Hàn đặt chân lên đất nước chúng ta và chọn Quy Nhơn làm nơi cụ thể hóa sự ủng hộ của họ trước đe dọa xâm lăng của cộng sản. Tôi nhớ kỹ được như vậy, vì chính sự có mặt của họ, mà có chuyến đi của tôi. Số là khi ấy tôi được lệnh đi thăm viếng nơi đóng quân của những người lính Sư Đoàn Mãnh Hổ, để viết về một phóng sự với mục tiêu rõ ràng: Đề cao tình hữu nghị Việt Hàn. Tôi đã đi dọc theo đường số I, để tới Phù Mỹ, Phù Cát. Tôi đã tới, đã ăn cơm, đã ngủ lại nhiều đêm ở bản doanh của sư đoàn nước bạn đồng minh. Tôi đã theo chân những toán Dân Sự Vụ của họ vào sâu những khu làng hoang vắng của một Quy Nhơn, tôi đã ngồi trên những chiếc chõng tre ọp ẹp để nói chuyện với những bà mẹ già mắt lòa, những người thiếu phụ trẻ, góa bụa. Tôi đã đùa chơi với đám trẻ trần truồng, trơ xương ở hai bờ quốc lộ. Và khi trở về, một ông xếp đã phê bình tôi một câu mà sau này, càng ngày tôi càng thấy đúng: “Ông hăng nó vừa vừa chứ.” Phải tôi hăng quá khi ấy, tất nhiên. Có lẽ tôi phải kể thêm với chị một chuyện nhỏ này để chị thấy nó rõ hơn, cái phổi bò, cái tiết vịt của tôi…
Chị Tiếng, không biết hồi đó, chị đã có mặt ở Quy Nhơn? Và nếu có, biết chị còn nhớ (?) mẩu tin đăng trên nhật báo S. đã gây sôi nổi dư luận ở Quy Nhơn. Cái tin nói về một vị trung úy, đêm đêm ăn hàng đồ Mỹ. Cái tin đó, do tôi loan. Phải, chính tôi đã viết tin ấy; sau khi được nghe ông trưởng ty cảnh sát sở tại tường thuật tỉ mỉ chi tiết. Và chị biết sao không? Chỉ trong một đường tơ kẽ tóc, tôi đã gửi xác, tại cái thành phố mà ngày nay chị đang mong trở về. Khi về đến Sài Gòn, tưởng đã thoát được mối đe dọa của một cuộc trả thù thanh toán nhưng vẫn chưa yên. Liên tiếp tòa soạn nhật báo S. nhận được thư hăm dọa và bắt phải đính chính cũng như không tiết lộ chỗ ở và danh tính thực của tôi.
Việc này đã ám ảnh tôi gần một năm trời, ngày cũng như đêm, ở đâu, chỗ nào, tôi cũng bị đe dọa bởi một ám ảnh rùng rợn, Một bóng người, Một mũi súng, Một băng đạn.
Bây giờ, thời gian đã trôi qua. Vị trung úy nào đó, nếu còn sống chắc cũng chẳng còn nghĩ về tôi với một oán hận chất ngất nữa.
Nhưng, chị Tiếng, đấy cái thành phố dấu yêu, Quy Nhơn, nơi chị hoài hoài ước mong trở về, nó như thế đấy, thời gian đầu tiên, tìm đến. Nó như thế đấy, trong hồi tưởng hôm nay của tôi. Vậy mà chị Tiếng, không hiểu sao, tôi lại vẫn muốn nói về nó. Hình như một góc tối nào, tình thương mến đã dậy hương. Có thể chăng, mặt sáng bên kia của lòng kinh tởm, hận thù, là gần gũi xót xa và niềm nhớ thương lén lút.
Quy Nhơn, cái thành phố mà người Mỹ đã rút đi, Đại Hàn cũng còn ít, cái thành phố đã chứa chấp những người con gái Việt Nam làm nghề không vốn, cũng đã đi sau khi từ mười phương đổ lại. Tất cả đã không mong trở về. Quy Nhơn, cái thành phố mà hôm nay, Tam Quan, Bồng Sơn, Hoài Nhơn, Hoài Ân đã hết còn bay nồng mùi phấn hương. Quy Nhơn, cái thành phố mà tôi vẫn cảm thấy mình gần gũi hơn bao giờ hết với những người đàn bà Việt Nam ở hai bên quốc lộ, những người đàn bà hứng chịu cả trăm ngàn oan trái, tai ương. Quy Nhơn, cái thành phố kỳ dị. Cái thành phố như một tấm gương luôn hắt chiếu lại chúng ta cùng lúc hai hình ảnh tương phản. Quy Nhơn, phải Quy Nhơn, cái thành phố còn những người như chị vẫn mong mỏi được trở về một lần. Quy Nhơn, vẫn còn những người như chị, nhắc nhở tới như một mối tình đầu, gọi tới như gọi tên một người đời đời yêu dấu. Quy Nhơn, thành phố mà giữa lòng là bùn nhơ, nhưng chung quanh lại là suối ngọt, Quy Nhơn, thành phố như mang cùng lúc hai mặt sấp ngửa của một đồng tiền quay tít. Quay tít…
Chị Tiếng, phải giờ này chị đã tới nơi, đã trở về?
Trong bóng đêm, dưới thấp, chị có ngước nhìn lên ngọn núi bà Hỏa, con mắt thần rực đỏ, trong đêm nay, chị nghĩ gì? Chị có nói gì không? Và điều nữa, tôi muốn hỏi, trái tim chị có hòa nhập dễ dàng với khúc hát của người lãng du trong Trở Về Mái Nhà Xưa?
Chị Tiếng, cho phép tôi nói với chị một câu cuối cùng; tôi ước ao được là chị. Ít ra, trong bước chân của người trở về, giữa nấm mộ lớn, ủ kín hương tình đầu. Cái tình yêu không thể thánh thiện hơn và đồng thời, cũng không thể buồn bã hơn.
7. Hình Dung Người Khách Lạ
Và những ngọn nến.
Chuyến bay muộn đem theo mưa, những giọt mưa tầm tã của một cơn mưa bất thần vào cuối năm, tới phố núi, khi thành phố này chỉ còn nhận ra được nhờ những chấm đỏ ngầy của những con vật quái dị, lêu khêu. Những dải sáng thấp, từng chùm và cách quãng là những xóm nhà, trên những sườn đồi thoải.
Người đàn ông vừa bước ra khỏi lòng tàu. Sương mù ngốn lấp ngay tới thắt lưng anh. Cái lạnh chạy suốt trên nửa phần thân thể còn lại dầm trong bóng tối nhờ nhợ.
Phòng đợi ở phía tay trái. Ánh đèn từ đó tỏa ra, hiu hắt. Nhiều nhóm người lố nhố, trong những bộ quần áo lạnh. Họ có cùng một màu, màu đen chết. Và cùng một hình dạng, hình dung co rút.
Tiếng động của những chiếc xe nhà binh rộ lên cùng lúc. Mùi xăng bị đốt cháy khét lẹt. Những tấm vỉ sắt ướt, chòng chành dưới bước chân tê cứng của người đàn ông. Âm thanh vỡ vụn túa ra, và tung cao lên thành những đợt sóng vô hình và đánh vào người đàn ông, khiến anh chao qua chao lại như một tấm vải đẫm nước móc trên một cái cọc lay động.
Người bạn chờ sẵn. Họ lên xe. Con dốc đổ xuống một vùng đất trũng với những đám cỏ hoang và những con lạch nhỏ từ những dòng suối trên núi cao nhảy tràn lấn ngòng ngoèo trên mặt cát ẩm dưới ánh sáng của những vì sao thưa, trông lóng lánh như một dải kim tuyến vắt ngang mái tóc mùi gỗ mới của những người con gái vừa lớn. Xe leo đồi. Những hàng cây ngược lên, đột ngột đứng đó. Núi ở chung quanh, đồi dưới vành bánh, cây chập chùng ngọn nâu, là xạc xào mưa nhỏ, phố núi mở ra, xa lạ, cách biệt mà như gần gụi, thân thiết trong một mơ hồ ở một góc kín nào khuất lấp.
Người đàn ông nói với bạn:
-Anh cho tôi về Trịnh Minh Thế.
Người bạn có cái bụng lớn, cái bụng chảy xệ, nhưng gương mặt lại xạm đen, vững vàng, chắc chắn. Người bạn đáp:
-Nhà có vườn cây. Có những bông cúc. Cuối năm rồi, có thể cúc đã bắt đầu nở.
Người đàn ông gật đầu, bật lưng mình vào thành ghế, vươn hai cánh tay, bẻ nại thẳng xương cốt, ngáp:
-Giờ muộn rồi.
Người bạn bụng bự liếc nhìn bạn kín đáo cười.
Người đàn ông vẫn chong mắt nhìn vào đường tối, với những tàn cây ngã xuống, không nghiêng mặt, nhưng đoán thấy nụ cười trên môi bạn mình, người đàn ông thở ra. Hơi sương tạo thành lớp mặt kính phẳng. Chiếc gạt nước quét qua lại, thành dòng chảy xuống:
-Tôi vẫn còn trẻ con quá.
-Nôn nao?
Người bạn hỏi lại. Người đàn ông đáp:
-Còn hơn thế.
-Tại sao lại giờ này. Tại sao không sớm hơn?
-Tôi cố tình. Một cố tình với nhiều cố gắng.
Người bạn đang cuối mặt châm thuốc ngước đôi mắt sáng quắc dưới hàng lông mày dữ nhìn người đàn ông:
-Anh rắc rối.
Người đàn ông im lặng một lát.
-Anh cho tôi điếu thuốc.
-Captan.
-Ừ.
Người bạn đưa cho người đàn ông điếu thuốc châm sẵn.
-Anh ừ cái gì? Điếu thuốc hay…
-Cả hai. Nhiều lúc tôi cũng nhận thấy mình rắc rối. Lôi thôi. Lắm chuyện. Đủ thứ.
-Cách nào thì anh cũng phải dứt khoát rõ ràng chứ?
Người đàn ông kéo một hơi thuốc dài, thở ra khoan khoái. Anh nghiêng mặt mình ra khỏi lòng xe cho gió tạt. Mặt anh tái méc và có những chỗ ửng đỏ vì gió buốt:
-Cô ta còn nhỏ quá. Tôi sợ. Tôi phân vân. Hơn nữa, như Hữu nói đó. Không thể biết rõ, người ta. Không thể đoán được, sự thực tận cùng ở đàng sau đôi mắt sâu, đôi mắt chim và nụ cười suối. Không thể biết gì cả.
-Mấy lúc nầy anh có vẻ mệt mỏi?
-Tôi muốn già rồi. Chúng ta ai cũng đều già trước tuổi. Có phải anh muốn nói tôi đã thiếu mất cái tự tin của thời nào?
Người bạn không đáp. Anh cẩn thận nhìn đường sá, và nói cho người tài xế biết chỗ rẽ.
Ngôi nhà thụt sâu trong khu đất đỏ, với đường đi có hai hàng cây gầy ốm. Người đàn ông nghe lòng mình dào dạt những cảm xúc quen quen. Cái cảm xúc pha lẫn chút e dè, sợ sệt của lần tới trước đây. Buổi sáng. Trời còn sương. Nắng chưa lên. Ngạn mặc áo xanh. Tóc thả. Trẻ con, quá trẻ con. Thơ ngây. Quá thơ ngây. Chỉ có đôi mắt, thông minh và chiếc miệng chúm chúm, cánh môi mỏng: lém lĩnh. Và một buổi chiều tối, khi cũng chiếc xe đò, trở về, người chị của Ngạn như đợi chờ hay đúng hơn nấp sẵn ở trong nhà, chạy ra. Những lời nói nóng bỏng như những gáo nước sôi, tới tấp, ném đi. Cả bọn cứng người. Hữu bước xuống chịu trận. Đêm, buổi ấy, lần đó, cũng đêm, đêm chín ngọt buồn buồn, mệt mỏi. Đêm xa vắng, đêm giận mình, giận người. Đêm không đi. Sương không đi. Chỉ có những hàng cây qua lại, qua lại. Vòng bánh xe trở ngược. Người đàn ông khi đã nằm trên chiếc giường sắt của bạn nhường, anh nhắm mắt. Ngọn đèn một trăm nến chọc những tia nhọn qua lớp mỏng của mi mắt.
Anh im lặng. Anh đau đớn. Anh chán nản, nhưng cũng từ đó, anh hiểu cái gì. Cái gì đã có ở trong anh.
Người tài xế hỏi:
-Chúng ta dừng lại trước cổng hay bên hông nhà?
Người bạn đưa mắt hỏi người đàn ông. Người đàn ông nhìn thấy ngôi nhà, với ánh sáng chói lòa, tiếng cười, tan, reo vui, vút lên, ở trên cao.
Tiếng nhạc nhẹ. Nhẹ quá, mất đi trong những giọng ríu rít.
-Tắt máy đi.
-Chúng ta lội bộ?
Người bạn hỏi. Người đàn ông gật đầu và nhảy xuống. Chiếc xe như đã được gỡ cả bốn bánh. Nó bất động, dưới một tàn cây khuynh diệp lớn. Bóng tối bao phủ nó. Bây giờ tới lượt người tài xế ngồi gác chân hút thuốc. Anh theo dõi bóng hai người đàn ông nhấp nhô bước lên những cái rễ cây nổi trên mặt đất. Tiếng lá nát dưới chân họ như những tiếng báo động nho nhỏ. Tiếng kêu tố cáo một điều gì không ngay thật. Nhưng căn nhà vẫn chìm trong những tiếng cười vui.
Ngôi nhà làm cách mặt đất nửa thước hay nhiều hơn thế. Người đàn ông bước tới trước. Lan can gỗ, oằn xuống dưới bước chân nặng của anh. Người bạn tiếp theo. Họ cũng im lặng. Có lẽ cả hai cùng có một số điều gì đó cần khuyến cáo hay nhắc nhở nhau. Nhưng có lẽ, vì nhau, vì tình bạn, họ cùng im lặng, trong chịu đựng với ý nghĩa chiều ý bạn mình.
Lúc này người đàn ông hiện ra những căng thẳng bất thường. Trái tim anh đập mạnh. Đôi mắt anh mở lớn. Tay chân anh lúng túng, thừa thãi và ngượng ngập. Qua những ô kính trong suốt, ở phần còn lại mà những tấm màn lụa để thừa ra, người đàn ông nhìn thấy những gương mặt xa lạ. Những thanh niên. Những thiếu nữ. Họ cùng trang lứa. Họ hơn kém nhau, ít thôi. Sự chênh lệch không thấy rõ. Vẻ quê mùa thô kệch, thấy ngay, hiển nhiên nơi một số nhân dạng. Có một cái gì đáng thương, một cái gì dễ mến; một cái giả dối ở giữa người đó. Chiếc bánh sinh nhật đặt giữa một cái bàn tròn. Những ngọn nến đã thắp lên. Những ngọn nến trắng. Những ngọn nến xinh xinh, như những búp tay nuột của Ngạn. Sao lại Ngạn? Ngạn ở đâu không thấy. Người đàn ông muốn ngừng thở. Một người nào đó, một khuôn mặt xa lạ, ghé gần chiếc bánh, ngọn nến đầu phụt tắt. Những thân nến còn lại tiếp theo. Bóng tối ùa tới dịu dàng, như khuôn mặt xa vắng theo, của Ngạn, trong trí tưởng của người đàn ông. Bài hát sinh nhật được hát bằng một đôi giọng lạc lõng. Bài hát giữ nguyên tiếng Mỹ. Nghe không ổn. Nghe như có một cái gì lợn cợn. Sắc cạnh, hay lạo xạo như những vụn thủy tinh trong miệng nhai.
Người đàn ông khép hờ đôi mắt mỏi.
Em dấu yêu,
Đã muộn rồi vì những ngày cuối cùng đó đã qua đi. Những ngọn nến đã cháy lên. Đã phụt tắt. Những giọt lệ nến đã chảy. Anh không muốn là một người khách lạ trong mẩu chuyện trên này. Anh muốn là một người nào khác. Hiểu không em, em yêu dấu. Nhưng anh đã chẳng thể làm được gì khác hơn, khác hơn khách lạ, bởi em còn cách xa anh như mặt trời, những ngày cuối đông này, đã bỏ xứ phố núi. Nhưng anh chẳng thể làm gì khác hơn, khi giữa chúng ta em cho anh những bày tỏ đủ, những đam mê cần, để tự đó anh lên đường. Một khởi hành xa xôi bụi bặm. Một khởi hành sóng tiễn chân đi. Anh liều lĩnh, anh đam mê, nhưng em, liệu có hiểu anh, như thế.
Dẫu sao thì anh cũng vẫn cám ơn, cám ơn em. Cám ơn yêu dấu. Bởi đời anh, cho đến phút này vẫn chưa có một lần anh tự tay đổi lấy cho mình một ngọn nến, để một mình ngồi nhìn dòng nến chảy. Em sung sướng và em hạnh phúc.
Thêm một năm nữa, em thiếu nữ, và cũng thêm một năm nữa, anh cỗi cằn, héo úa, bên những lá xanh là những cọng lá vàng. Nó phải vàng, trước sau, không tránh được. Liệu em, em có nhận.
1973
8. Bắt đầu mùa của những bông hoa móng tay
1
Chiếc xe hậm hực chồm lên và rùng mình nhiều lần trước khi ngừng tắt hẳn tiếng máy. Người ta không thể biết nó đến từ đâu, nhưng nhìn vào lòng xe, thấy có cả thẩy năm người. Họ đều còn trẻ. ba người con gái ngồi băng sau. Một người con gái có vẻ nhỏ tuổi nhất ngồi băng trên và sau vô-lăng là một thanh niên. Tính từ trái sang phải, ở băng sau, người thứ nhất mặc chiếc áo pull màu vàng cổ bẻ, doi người, khỏe mạnh. Có thể nói nàng là người có thân hình cân đối đẹp nhất bọn, với đôi chân dài thon được bó gọn trong chiếc quần jean màu đất. Người kế tiếp mặc chiếc áo dài màu tím ngả hồng. Nàng có nước da trắng nhão, đôi vai tròn, ngực tròn, gương mặt tròn, chiếc cằm cũng tròn luôn và có ngấn. Màu trắng của làn da cùng sự tròn trịa của nhân dáng, nàng khiến cho người ta có cảm giác mát mẻ một cách thống khoái (có thể sự thực nàng mát mẻ hơn tưởng tượng của chúng ta). Người thứ ba cắt tóc gọn kiểu con trai, trán cao, nàng cũng mặc áo dài, chiếc áo màu nõn chuối. Nàng có vẻ mập mạp (cái mập mạp đẫy đà một cách rất yếu đuối). Người con gái nhỏ tuổi nhất ngồi băng trước tuy không có được cái thân hình cân đối như người con gái mặc áo pull vàng, nhưng nàng có phong cách đài các quý phái (một cách trẻ con mệt mỏi). Nàng mặc một chiếc áo màu cam, chéo vạt, cổ xẻ sâu (ngừng lại đúng chỗ nên ngừng trên bộ ngực mới nhú) Cô bé thả tóc, những ngọn tóc xanh đen chấm trên đỉnh đôi vai xuôi thon, mắt to khi ngước nhìn và đặc biệt, chiếc miệng nhỏ, đôi môi chúm với cánh dưới trề ra (vẻ nũng nịu trẻ thơ và tinh anh hóm hỉnh). Thanh niên ngồi sau vô-lăng tóc bơ phờ, gầy xanh, gương mặt anh như thường trực một nỗi lo âu, dằn vặt, không vui. Lúc đó trời đã muốn trưa nếu căn cứ vào chiếc bóng của cây bàng đọ xuống, tạo với thân nó một góc nhọn (sự thực đồng hồ khi ấy chỉ mười giờ rưỡi). Nắng gay gắt rang khô từng hạt cát trắng bao quanh ngôi quán có chiều ngang gấp ba chiều dài.
Những cánh cửa bung mở. Họ lần lượt chui ra khỏi xe. Đầu tiên là người con gái mặc áo nõn chuối, tiếp theo cô bé nhỏ tuổi nhất vá ba người còn lại. Những gói đồ được mang ra khỏi xe (đồ đạc chuyển vào quán nhiều hơn số người ta có thể phỏng đoán). Khi đồ đạc được đem đi hết; trong lòng xe trơ trọi lại một cái mũ lính. Chắc của hai người thanh niên. Anh ta là một quân nhân.
Biển mở ra màu xanh tới chân trời. Bãi chia thành hai phần rõ rệt. Phần trong là những đụn cát trắng khô như muối, nửa ngoài tiếp với mặt biển màu xám nâu, ẩm ướt. Cơn mưa còn lảng vảng trên bầu trời thấp ẩm.
Một ông già mình trần mặc chiếc quần sà lỏn tiếp tay với một thiếu phụ đen đủi, mập lùn ngả những chiếc ghế xếp dọc theo hành lang rộng trong ra biển. Vài tiếng xì xào nổi lên ở đám người mới. Không một ý kiến nào rõ rệt.
Người lính sau khi đăm đăm nhìn ra biển, ngó lại bốn thiếu nữ, nói lớn:
- Quý vị uống gì gọi.
Nói xong anh quay bước vào nhà trong: Anh ngó mặt mình ròng ròng nước nơi tấm gươn chữ nhật gắn trên tường sau khi vọc nước bằng tay từ vòi ở cái lavabo bằng sứ. Vầng trán anh thoáng hiện một vài nếp nhăn. Có lẽ anh đang ngắm nhìn sự buồn nản và mệt mỏi của chính mình. Giữa lúc đó, người con gái nhỏ tuổi nhất bước lại gần. Cô bước khoan thai vẻ tự tin và chững chạc. Chiếc dây lưng bằng vải cùng màu trắng to bản, thòng trễ ngang bụng. Cô có vẻ gọn gàng trong cách phục sức thời trang và điệu một cách kín đáo:
Người lính nói:- Rửa mặt đi bé con.
Cô bé liếc nhanh mặt mình, trong gương và lấy tay cời mấy lọn tóc lòa xòa ở một bên má.
- Em muốn đi phố.
- Ngay bây giờ?
Người lính xích qua một bên nhường chỗ cho người con gái. Anh lấy khăn trong túi sau, lau mặt và liếc nhìn về hướng của ba người kia. Tầm mắt anh bị chặn lại bởi chiếc cầu thang xây, dẫn lên sân thượng.
Người con gái nhỏ tuổi nhất chống hai tay lên thành lavabo tráng men sứ trắng. Nàng gật đầu, không nói.
Người lính xếp gọn chiếc khăn tay và đưa cho cô bé.
- Thì đi. Nhưng cũng nên rửa mặt lắm.
- Rửa chứ.
Cô bé đáp và bắt đầu mở nước. Trên miệng cô hiện ra một nụ cười không hết. Người lính nhìn thấy và đôi mắt anh chuyển tới những ngón tay dài mượt, thon xinh như những nhánh huệ. Anh thở ra và đi vòng qua phía cửa chính trước khi rẽ vào hành lang.
Lúc này cô gái mặc áo tím đã thay chiếc áo ca rô cụt tay và cô gái áo nõn chuối cũng thế, nhưng mà là chiếc áo tay dài mầu hồng nhạt bằng lụa.
Người con gái áo lụa nói:
- Thay quần áo tắm đi.
Bạn cô hỏi lại:
- Còn mày?
- Tao không tắm.
Cô áo lụa trả lời xong quay quắt lại phía người lính đứng chếch sau lưng, tiếp:
- Bao giờ ông K. tới?
Người lính gỡ điếu thuốc vừa đốt trên môi xuống chậm chạp đáp:
- Lát nữa. trong vòng nửa giờ.
Vẻ mặt người thiếu nữ đầy vẻ bất mãn. Hình như nàng cố gắng phấn đấu với những phẫn nộ, những giận dữ ứ tràn trong lòng.
Người con gái áo ca-rô đi về phía có những phòng thay áo quần, trong khi cô bé trở lại. Sự có mặt trở lại của nàng kéo theo một im lặng nặng nề. Niềm im lặng như một tấm lưới lớn bất thần chụp xuống quây chia ba người ở ba góc biệt lập.
Nước mắt làm ửng hồng thêm đôi má của cô bé. Những sợi lông măng óng ả có thể nhìn thấy rõ hơn trên da mặt và trên hai chánh tay để trần của cô. Người lính nhìn một vòng qua hai người, giọng không mấy tự nhiên:
- B. ở đây, anh với A. ra phố một lát.
Người con gái áo lụa tên B. không đáp. Cô nhìn ra những ngọn sóng bạc đầu đang ào ào vất vả lăn nhanh vào bờ cát. Khuôn mặt nàng lạnh lẽo. Cánh môi dưới của người con gái nhỏ tuổi tên A. như trễ ra nhiều hơn.
Cuối cùn, cả hai cùng lui bước một lần. Khi ngang qua bậc cửa, người lính nhìn thấy mấy bụi hoa móng tay màu tím hồng ngả ngớn sát mặt đất ở hai bên hông quán. Chàng phác tay định nói gì đó, nhưng A. đã đi vượt quá chàng mấy bước. Chàng thõng tay, cúi đầu và rảo cẳng.
Những bông hoa móng tay, phải em thường nhìn thấy trong những lần đến thăm anh ở bên ngoài bờ tường điếm canh doanh trại. Những bông hoa như những chiếc móng tay xinh xinh, thơm và ngạt ngào như hương thịt da em một buổi sáng, ngày nào, em nhớ chăng?
Một sáng mưa mở mắt cùng với một ngày mới, bắt đầu. Một ngày trong những hạt nước tinh khôi long lanh của những mộng mị ướt xanh dưới những tàng me lá nõn. Em nhớ chăng? Anh hôn em và níu giữ những ngón tay em tội nghiệp trong hai bàn tay anh chai đá. Và em nói... ngày xưa... và anh tiếp anh yêu em... anh yêu em...
2
Chiếc xe cũ lại hục hặc rung lên trước khi lăn bánh vào những con đường phố cũ. Những con đường nằm ép giữa những đụn cát ù lì và những mái nhà rêu bám. Những con đường có thể ứ đầy người nhưng vẫn thênh thang một khi cả hai cùng không còn biết ai ngoài tình yêu của họ. Làm sao họ còn nhìn thấy ai, khi sau lưng, trước mặt, họ vẫn chỉ thấy họ trong mắt, trong môi trong túi quần, trong túi áo...
Người lính lái xe thật chậm bằng một tay, bởi tay kia anh còn mắc bận nắm lấy bàn tay của cô bé hững hờ bỏ ra trên phần ghế nệm còn lại.
Thỉnh thoảng người lính lại bỏ đường sá đem cái nhìn đắm đuối, nài nỉ của anh gửi vào đôi mắt, đậu lại đôi môi người con gái. Và người con gái lắc đầu. trề môi. Nhắc nhở anh: Coi kìa. Có lái xe đàng hoàng không! Cứ như thế, họ cùng nhau lên đỉnh đồi đá cao, xuống tới bờ biển thấp. Họ vào phố đông, họ ra đường vắng.
Họ nói với nhau về những người vắng mặt. Họ cười những tiếng cười giòn tan hân hoan, vỡ vụn hạnh phúc. Họ nói với nhau (in là) những điều đã không thể nói ở dọc đường. Họ gọi tên nhau. Chỉ một tiếng. Một tiếng ngắn ngủi. Hình như họ không biết phải nói gì hơn ngoài một tiếng gọi kêu bập vùng thảng thốt yêu thương ấy.
Chiếc xe cũ vẫn ì ạch cố gắng chở chuyên trên nó đôi tâm hồn, một hạnh phúc ngất cao bằng núi, rộng trải bằng biển. Một hạnh phúc làm bé mọn nhân gian, vô nghĩa kẻ khác. Một hạnh phúc nở ra như những bông hoa móng tay. Những cụm hoa xinh xinh, bắt đầu, cùng với những cơn mưa chạy suốt dọc theo những lòng phố me xanh lá nõn.
Người thanh niên nói một câu tầm thường nhưng khi ấy lại có một ý nghĩa (đôi khi ý nghĩa chỉ có giá trị cho từng hoàn cảnh) với họ:
- Phải chi con đường dài mãi cho chúng ta đi.
Cô bé cười, nụ cười trêu chọc, hóm hỉnh:
- Đến đâu rồi cũng phải hết chứ.
Người thanh niên đáp liền:
- Đến vô cực. Vô cực không là hết.
Cô bé vẫn cười:
- Nhưng em lại sợ khoảng trống hư vô đó. Em muốn ngừng lại ở bên đường. Hãy ngừng lại. Ngay lập tức.
Hỡi em. Em nhỏ bé như một con chim chưa có đủ cho mình dù chỉ một đôi cánh mỏng. Phải đó là ngày cuối cùng mà em muốn chọn, muốn lựa cho kết thúc, cho đứt đoạn của tình yêu ta. Phải khi nhìn vào mặt gương hạnh phúc, em đã thấp thoáng phía bên kia một xót xa, tủi nhục? Địa ngục đang chờ ta ở cuối đường trốn chạy. Không. Không bao giờ hỡi em. Chúng ta không có bắt đầu nên chẳng bao giờ có được kết thúc. Bởi tình yêu không phải là một đoạn đường hay một ý niệm về thời gian, giới hạn. Hoặc nó có, để vĩnh viễn. Hoặc không, để hư vô. Không bao giờ đâu hỡi em. Em nhỏ bé và mỏng manh. Em mới lớn và dại khờ. Em đam mê và yếu đuối. Tình yêu không là chiếc bóng mà chính là xương thịt. Hạnh phúc không là gương soi trong mắt thấy mà chính là máu huyết nuôi ta. Em hiểu gì? Em dấu yêu đời đời những bông hoa móng tay còn bé nở. Và mùa mưa (ôi mùa mưa) còn mãi mãi đi ngang qua đời ta.
3
Ông K. tìm đến chỗ ở của năm ngoái, khi ở đó chỉ còn lại một mình cô áo lụa. Nàng đang nghe một bản nhạc qua giọng hát T.T. với chiếc cassette mang theo.

Đôi mắt nàng mỗi lúc một thêm long lanh, ngấn lệ. Ông K. hiểu tại sao nàng khóc. Ông im lặng để mặc nàng. ông cho rằng nước mắt có thể giữ lại tất cả hoặc sẽ xóa nhòa đi tất cả. Ở trường hợp này, ông tin, nó sẽ chẳng còn gì khi những giọt lệ cuối cùng của một xúc động đã hết. Ông nhìn ra mặt biển. Thanh niên và cô bé cách bờ khá xa. Họ chỉ còn là hai chấm đen nhỏ và như chập vào nhau. Ông giơ thẳng cánh tay như muốn ra dấu chào họ. Một lát sau, không biết hai người kia có nhìn thấy ông, ông hạ tay xuống và đặt nó lên vai người con gái áo lụa.
Ông nói:
- Tới lâu chưa?
Không đợi người con gái trả lời, ông tiếp ngay:
- Giờ đến lượt ta đi phố?
Người con gái áo lụa giật mình quay lại. Nàng muốn giấu nhanh đi những giọt lệ còn ngập ngừng chưa lăn đi khỏi đôi khóe.
Ông K. lại nói giọng bình thản, dịu dàng.
- Tôi đây mà.
9. Sầu người bon bon
Khi tôi kiếm ra được khu vực mà ngôi trường thầy Khâm tọa lạc thì trời về chiều và muốn sụp tối.
Khu vực của thầy Khâm, quả đúng như lời người dân ở đây cho biết, nó chiếm cứ cả một vùng rộng lớn. Ăn từ ngọn đồi này qua thấu ngọn đồi khác. Tuy nhiên ngay từ bước chân đầu tiên lọt vào vòng rào của khu vực thầy Khâm, người ta đã có thể nhìn thấy khu nhà chính lợp tôn, bao quanh một ngôi nhà ngói đỏ ở lưng chừng một sườn đồi. Khu nhà này ngó mặt vào sườn đồi của một ngọn đồi phía bên kia. Ở trên đỉnh nhọn đồi bên, là một dãy chuồng ngựa, với vài căn nhà nhỏ hơn, hình như dành cho gia nhân của thầy Khâm. Trời sẩm tối. Đường đi không có đèn, nhưng đường đất sỏi đỏ cũng dễ đi, không khó khăn lắm. Chỉ có một điều khiến cho những người không quen thuộc như tôi phân vân và có phần nào hơi hoang mang là sao con đường dài quá. Con đường ngòng ngoèo với những ngã rẻ bất ngờ. Những ngã rẽ đều cho cái cảm tưởng như đổi hướng vào dãy nhà chính. Thêm vào đó là bày chó dữ có tiếng của thầy Khâm. Người dân địa phương dặn tôi rằng vào đó, sau sáu giờ tối phải coi chừng những con chó lực lưỡng của ông ta. Đó là bày cọp thì đúng hơn bày chó. Chúng sẵn sàng nhảy lên cổ bất cứ một kẻ lạ mặt lạc vào. Tôi không nghĩ rằng mình sẽ được tiếp đón một cách thảm hại, và lố bịch đến thế. Dù sao, phải, dù sao tôi cũng vẫn chỉ là một người khách lạ. Một người khách tới thăm trường đi kiếm một người quen. Có thế thôi. Tuy đã nhủ lòng như vậy, tôi vẫn không tránh khỏi cái cảm giác rờn rợn khi nghe được chính những bước chân rón rén, những bước chân không mấy tự nhiên của mình, dội lại chính tai mình, những âm thanh nghe rất khác thường, lẫn với tiếng gió rít qua những tàn cây tùng và tiếng suối róc rách ở đâu đó. Có lẽ trong thâm tâm tôi, đã nhen nhúm ít nhiều hối hận. Vâng. Tôi nghĩ phải chi tôi đừng xuống xe. Tôi cứ ngồi lại trên chiếc xe đò đó và quay trở lại thị trấn. Có sao đâu. Nếu chậm một ngày. Ừ. Kể cũng khỉ thật. Quỷ ma nào đã xui khiến tôi háo hức tìm đến khu vực này vào cái giờ mà chỉ cần đi ngang qua, người ta cũng đã có cảm giác rờn rợn như sự có mặt thoáng chốc của mình đang bị hàng trăm cặp mắt xanh lè hay đỏ cạch đang theo dõi một cách bí mật, và đe dọa. Mặc dù lần đầu tiên tìm đến thị trấn này, nhưng người dân ở đây, hầu như ai cũng biết một cách mơ hồ, mơ hồ thôi, về những việc làm khó hiểu của thây Khâm. Dư luận về ông ta kể ra không hết. Nhưng tựu trung thì toàn là những điều tai tiếng, kèm theo không ít bí mật với nghi hoặc cần phải đề cao cảnh giác. Người ta nói rằng thầy Khâm rất ít khi rời khỏi khu vực của ông. Hầu như cả năm ông chỉ rời khỏi nơi chốn đó một đôi lần trong những dịp hết sức đặc biệt. Và mỗi khi có việc phải rời khỏi khu vực riêng, như một lãnh địa đó, bao giờ ông cũng dùng xe riêng để ra khỏi thị trấn hay ra thẳng phi trường về Sàigon. Những ngày vắng mặt tại đây, quyền cai quản khu vực được ông giao cho một người đầy tớ thân tín. Đó là một người đàn ông trạc ngoài bốn mươi. Y có dáng người lùn chắc như một con gấu rừng và cái đáng nói hơn hết là y vừa câm lại vừa điếc. Người ta bảo y trung thành với thầy Khâm còn hơn cả bầy chó trung thành với ông ta nữa. Có lẽ, chính vì thế mà thầy Khâm tin dùng y, và luôn cho y ở bên cạnh ông, như một vệ sĩ. Không một ai biết đích xác thời gian. Kể cả những người dân cư ngụ gần khu vực đó cũng đành chịu, không thể xác định được thời gian nào. Người ta chỉ biết rằng khu vực đó nguyên là khu đồn điền cà phê của một ông cha người Pháp. Sau này ông cha người Pháp về Tây. Đồn điền bỏ không và giữa khi không còn ai thắc mắc về đồn điền này thì người ta bắt đầu thấy có một người đến phát quang, đốn hết những gốc cà phê còn lại. Đám người này, trong suốt những ngày làm việc tại đây, cũng không một ai rời khỏi đồn điền. Và một ngày nào không rõ, họ đột nhiên biến đi hết. Họ biến đi, cũng đột ngột như khi họ tới. Và ít lâu sau, một đôi kẻ tò mò, nhận thấy trong khu đồn điền mênh mông kia có một người đàn ông thỉnh thoảng xuất hiện, đó là gã đàn ông vừa câm vừa điếc. Y thường xuất hiện thấp thoáng trong đồn điền với một bầy chó, và một đàn ngựa ở đỉnh đồi bên kia. Một thời gian yên lặng nữa trôi qua. Khi người dân địa phương đã quen sự có mặt của gã đàn ông kỳ dị đó thì thầy Khâm xuất hiện. Thầy xuất hiện cùng với cái thông cáo dán ngoài cửa đồn điền rằng thầy mở một số lớp học, thày dạy miễn phí cho một số em trong vùng. Với lối ăn mặc và cách sống bí ẩn của thầy Khâm, dăm ba người hiểu chuyện nói rằng đáng lẽ thầy đã ra linh mục từ lâu rồi, nhưng khi lên chức thầy cả, thầy bị chuyện gia đình riêng tư sao đó, thầy bỏ tu viện ra ngoài. Và từ đó thầy sống đời sống của một người nửa trần tục nửa tu sĩ.
Mặc dù hành tung của thầy Khâm có vẻ chứa đựng nhiều điều bí ẩn và khó hiểu, nhưng người dân địa phương, sau một thời gian thấy thày Khâm không những không làm gì phiền phức tới họ mà trái lại còn giúp cho con cái họ khỏi thất học cho nên dần dần họ cũng không còn xì xầm bàn tán nhiều về thầy Khâm. Họ nhìn thầy như một ân nhân, một người cha tinh thần là đàng khác, nếu không có chuyện không hay xẩy ra, đó là sự mất tích của một cô giáo tên Phúc. Cô Phúc không phải là người dân địa phương, thầy Khâm tuyển cô từ đâu đó, in là miệt Sài Gòn hay miệt lục tỉnh, đem lên dạy cho trường của thầy. Cô Phúc dạy cho thầy Khâm đâu mới được hơn nửa năm thì mất tích. Câu chuyện lẽ ra cũng chẳng ai hay biết, nếu không có thân nhân của cô Phúc lên tìm kiếm và làm ồn ào câu chuyện lên. Mọi người đã tưởng thầy Khâm bị phiền phức không ít về chuyện cô Phúc, nếu không muốn nói rằng ông sẽ bị tù. Ấy thế mà rồi ông cũng chẳng sao hết vì trước nhất là không có một văn kiện gì chứng minh có sự hợp tác giữa ông và cô Phúc. Thứ hai nữa là ông chứng minh được rằng cô Phúc đã rời thị trấn về quê quán với tên có trong danh sách những người đáp chuyến bay của hãng hàng không. Cuối cùng, câu chuyện lẳng nhẳng một thời gian rồi cũng êm luôn. Ở một thành phố nhỏ, chuyện gì cũng có thể xé to nhưng ngược lại chuyện gì dù to lớn đến đâu rồi cũng mau được quên đi. Vụ cô Phúc xẩy ra, tuy nhiên cũng khiến cho thầy Khâm mất một số học trò. Những gia đình này tự động đem con về, không dám cho con học nữa, nhất là số gia đình có con gái. Nhưng sau vụ cô Phúc người ta nhận thấy hầu như chẳng bao giờ ông Khâm chường mặt ra ngoài. Ông ít xuất hiện tới tới độ người ta có cái cảm tưởng ông đã không còn ở đó nữa, hay ít ra, ông cũng đi đâu đó, và chưa thấy trở về.
Tôi không nghĩ rằng Đông Nghi cũng rơi vào đúng trường hợp của cô Phúc. Nhưng sự liên lạc giữa chúng tôi đang khi không đột nhiên mất hẳn tin tức. Sự chờ đợi nôn nóng trong hơn một tháng liền đã khiến tôi không còn đủ can đảm chờ đợi. Thêm nữa cùng với mùa đông đã tới ở thị trấn này, đem theo mấy chiếc áo lạnh mà Đông Nghi đã bỏ lại ở nhà. Lẽ ra Nghi phải trở về Sài Gòn từ tháng trước để lấy áo lạnh như Nghi đã viết thư báo trước. Nói tới mấy chiếc áo lạnh tôi mới nhớ rằng chút xíu nữa, tôi đã bỏ quên chúng ở nhà trọ, khi ra xe đến đây. Tôi chỉ nhớ được điều đó, khi đã đi được nửa đường từ nhà tới bến xe. Tôi quay trở lại và có thể chính vì sự lộn lại này đã khiến tôi phải đáp chuyến xe cuối cùng ngang qua khu vực này, trước khi trời tối hẳn.
Trời miền núi, lại thêm vào mùa đông nên bóng đêm bao giờ cũng xuống thật nhanh. Chỉ mới thoáng đó mà tất cả cảnh vật như đã chìm vào trong cái màu đen sánh đặc của bầu trời xám thấp và những hơi sương lạnh phà lên từ những lớp đất đỏ trộn lẫn sỏi đá. Bước chân tôi cũng vì thế mà không nhanh được như lúc đầu nữa. Bây giờ, mỗi bước chân đi là một giây ngập ngừng đắn đo với đôi mắt mở lớn để có thể có được cái chăm chú tối đa hầu tránh những gốc cây khô hai bên đường đi, những bụi cỏ lau, những đám tranh mọc cao ngang thân mình với những khía sắc, bén như dao.
Cuối cùng khi tôi tìm được đường xuống tới khu nhà ở gần cuối sườn đồi thì cả khu vực đã chìm hẫng vào cái im lặng lạnh lẽo của một ngày mùa đông. Lại gần hơn, tôi mới nhận ra rằng ở ngay trước cửa ngôi nhà ngói đỏ, một đống củi lớn đang bốc cháy lách tách. Bóng tối với ánh lửa hắc ra chờn vờn, không cho tôi nhìn rõ số người bao quanh đống lửa đó. Nhưng tôi biết chắc là có một số người và đó là một số người không nhỏ. Hình như còn có cả một số trẻ con. Họ ngồi sát nhau quanh đống lửa và có lẽ họ đang cùng nhau tham dự một trò chơi gì đó. Lại gần hơn chút nữa, tôi mới chợt nhận ra rằng họ đang cùng hát một bài hát đạo. Cái bài hợp ca thường nghe được ở trong thánh đường vào những ngày gần giáng sinh.
Không biết bởi nguyên cớ nào, mà bước chân tôi bỗng khựng lại. Tôi không thể bước được nữa, mặc dù ngay lúc đó, tôi cũng chẳng hiểu tôi đứng lại để làm gì. Có lẽ tại tôi phân vân không biết tiến tới trong trường hợp đó, tôi sẽ phải nói gì, ra làm sao. Gói quần áo của Nghi ôm trước ngực, tôi khoanh tay nhìn trân trối cảnh tượng vừa gần gụi quen thuộc, mà cũng vừa như xa lạ, cổ quái. Cả một đám người chỉ trông thấy những chiếc lưng cong xuống, những bàn tay giơ gần ngọn lửa. Những tiếng hát phát ra cùng lúc, nhịp nhàng, và ngoài tiếng hát, ngoài những âm thanh lúc lên cao vút, lúc thấp xuống ì ì... không cón có một hoạt động nào cho thấy rằng đó là những sinh vật sống động hết.
Đang chăm chú nghe, bỗng có tiếng động thật nhẹ ở sau lưng. Tôi giật mình quay lại. Cảm giác buốt lạnh ở hai tai. Tôi nhìn thấy đám cây mù u ở cách chỗ tôi đứng khoảng chừng ba bước chân. Cái phản ứng tự nhiên của tôi là định lao nhanh về đấy và núp vào bụi cây.
Nhưng ngay khi đầu óc tôi có được ý nghĩ chạy trốn đó thì một bóng người đã chặn ngang mặt tôi. Đó là một thiếu nữ. Cô ta xuất hiện bất thần, nhẹ ngàng khiến tôi tưởng như cô đã bay, đã lướt trên mặt đất hay cô đã theo dõi sát tôi từng bước từ ngay cửa vào khu vực. Không biết tôi có nên nói rằng mặc dù là đàn ông, mặc dù đã có đôi lần sát kề với hiểm nguy, với cái chết, nhưng tôi đã không giữ được sự run rẩy, và những hạt mồ hôi vã ra ở trên trán, rồi thành dòng ở sau lưng. Người con gái nhìn tôi từ đầu đến chân. Tôi cũng nhìn lại cô. Nhưng cái nhìn của tôi là cái nhìn chết cứng. Cái nhìn không ghi nhận gì được ngoại trừ mái tóc cô thả dài và cái áo dài lụng thụng như áo chùng màu tro xám cô mặc trên người.
Cũng có thể là cô gái đã kinh ngạc về sự có mặt bất ngờ của tôi. Tôi nghĩ vậy. Vì sự im lặng đã kéo dài vài giây giữa chúng tôi. Sự im lặng làm gia tăng thêm nỗi kinh hoàng và run rẫy toát ra từng lỗ chân lông, nơi giọng tôi ấp úng định phân trần với cô rằng tôi đi kiếm người em. Em gái tôi. Đông Nghi. Nhưng tôi đã không nói thành tiếng. Tất cả sự cố gắng của tôi chỉ bật thành những tiếng ú ớ nho nhỏ, như cổ họng đã bị ai bóp lại rất nghẹn.
Ngay khi ấy người con gái quắc mắt nhìn tôi và đưa tay lên ngang môi ra dấu cho tôi ngậm miệng lại. Tôi tròn mắt làm theo lệnh cô. Và cùng với cái ngoắt tay ra dấu đi theo. Tôi bước theo cô như cái xác không hồn. Một cái xác toát lạnh, hơn cả nhiệt độ đang xuống thấp ở giữa khu đồi rì rào tiếng rứng và tiếng suối xa xôi dội lại.
Người thiếu nữ như quen thuộc với đường đi ở trong khu vực. Tôi thấy cô bước phăng phăng, qua những khu vực đầy bóng tối, dưới những cây lá đan nhau, che ngang trên đầu như một cái dù lớn. Những bước chân tôi hấp tấp theo sau. Bây giờ niềm kinh hĩa của tôi là không còn là một cái gì mơ hồ nữa. Nó rõ rệt. Trong óc, tôi nghĩ tới một ngục tối, một căn nhà giam ở khuất nẻo dưới một lùm cây nào. Và sẽ không có một ai biết tới số phận của tôi nữa. Có thể tôi sẽ phải chết mục xương ở đó. Có thể tôi sẽ bị tra khảo như một kẻ manh tâm lọt vào lãnh địa để phá hoại hay để phanh phui những bí mật mà chính những kẻ sinh sống ở đây, chưa chắc đã biết rõ tất cả. Có thể có người sẽ cho rằng tôi nói quá đáng. Nhưng phải là tôi, giữa một khu vực, đồi tiếp đồi mênh mông, phải là tôi, giữa một bầy chó dữ cả trăm con rình rập ở đâu đó, quý vị mới hiểu nỗi kinh hoàng ghê rợn kia chẳn phải là một cái gì quá đáng.
Tôi không thể nhớ được người thiếu nữ đã dẫn tôi đi qua những con đường nào, hướng nào. Nhưng cuối cùng, nàng đưa tôi tới trước một căn nhà tôn mà bên trong không có ánh đèn. Nàng loay hoay mở cửa và nhường một bên cho tôi lách vào. Ngườ con gái bước vào liền sau đấy. Nàng bậc một que diêm và soi nó lên vách. Nàng tìm ra mẫu nến còn lại cắm trên vách tường. Ánh sáng vừa lóe cho tôi thấy một căn phòng nhỏ, với mấy chiếc ghế bành cũ kê quanh một chiếc bàn gỗ vuông và một góc phòng là chiếc giường nệm dày. Người con gái chỉ tôi ngồi xuống một trong những chiếc ghế ấy. Tôi ngoan ngoãn và rón rén làm theo. Tới giờ tôi mới nhận thấy là nàng có chít một chiếc khăn lụa và khi nàng cởi mở nó ra, tôi nhìn thấy hai bên má nàng au đỏ. Đôi mắt nàng to, nhưng cái sự mở lớn phảng phất mộ niềm bí mật, xa lạ thường trực.
Người con gái vẫn chưa hỏi tôi một tiếng. Nàng đi lại góc nhà nơi có kê một chiếc bàn nhỏ hơn, rót cho tôi một ly nước trà đầy và nàng một ly khác trên tay. Tôi đón ly nước của nàng với một cái nhìn biết ơn và một chút an ổn bắt đầu dấy lên trong lòng. Không đợi nàng hỏi, tôi nói ngay:
-Tôi đến đây để tìm người em gái tôi. Nó dạy học ở đây. Lâu quá tôi không được tin của nó…
Người thiếu nữ khoát tay, ngắt ngang lời tôi. Bằng một giọng lạnh lùng nhưng trong suốt và rõ từng tiếng một:
-Tôi biết ông tìm kiếm Đông Nghi. Nhưng tôi thành thực khuyên ông, ông nên dời khỏi ngay nơi này. Ông đừng ở thêm một chút nào nữa.
Tôi kinh ngạc:
-Thưa sao vậy?
Tôi không thể nói nhiều hơn. Có điều ông còn may mắn. Nếu ông không gặp tôi, tôi không biết rằng những gì sẽ xảy ra cho ông trong đêm nay.
Đang nói, người con gái chợt khựng lại. Cùng lúc với vẻ lắng nghe của chiếc tai xinh xinh tiếng vó ngựa vẳng đưa trong sương mù, nghe mỗi lúc một gần hơn. Cùng với nhịp gõ dồn dập của những móng ngựa sắt đập vỗ xuống nền đất sỏi tôi cảm thấy như người con gái lộ dần vẻ hoảng hốt lo sợ. Cô đưa tay chặn ngang ngực, đồng thời cô thổi phù ngọn đèn trên vách. Bóng tối hùa tới hung hãn và chớp nhoáng như một cơn lũ, cuốn xóa nhanh mọi vệt chung quanh. Riêng tôi không hiểu bởi đâu, tôi lại bình tĩnh lạ thường, thật trái ngược, khó hiểu. Tôi đặt gói áo lạnh của Đông Nghi lên bàn và rón rén bước lại hướng người con gái. Thiếu nữ như không biết sự có mặt sát bên cạnh của tôi. Nàng ghé sát mắt vào khe hở của vách ván. Tiếng chân ngựa nghe đã rõ và tôi nhận ra ngay rằng nó đang nhắm hướng chúng tôi ẩn núp để tới. Ánh sáng nhợt nhạt ló lẽ của mấy vì sao èo uột nào đó trên bầu trời xám, hắt xuống những khoảng trống vắng. Tiếng suối róc rách lúc này cũng nghe được rõ hơn. Và tiếng thông reo vi vu như một hơi thở dài không dứt của một người bệnh nằm phơi ngoài sương lạnh len qua những khe ván dội thẳng vào ngực tôi, cái cảm giác đe dọa. Rồi bóng ngựa hiện ra, đen thẩm như một khối đá khổng lồ biết chuyển động. Tôi không nhìn thấy, người ngồi trên lưng ngựa. Có lẽ tại cái đầu ngựa ngóc cao hay người ngồi trên nó quá nhỏ, hóa cho nên chỉ thấy cái đầu gật gù với ít khói trắng, từ miệng con vật thở ra phì phò. Đang trên đà phóng tới, tưởng như lao thẳng và chồm lên hay băng qua căn nhà gỗ mỏng manh, thì bỗng nhiên con ngựa bị giật khựng lại. Nó đứng vững trên nền cỏ, nhưng cả thân thì gần như bị chao đi dập dềnh, như một con thuyền bị sóng đánh. Con ngựa chỉ cách chỗ chúng tôi đứng khoảng ba bước ngắn. Tim tôi ngừng đập với cái ý nghĩ hai con mắt to lồi của con ngựa đã chạm phải nhãn tuyến của tôi và vừa lúc đó, nó hí lên những tiếng ngắn cùng hai chân đạp cào trên lên nền đất lấp lánh những hạt sương sáng trắng. Một cánh tay ngắn ngủn đưa ra, vỗ nhè nhẹ vào đầu con vật. Tôi cho đó là một ám hiệu mà chỉ có người cưỡi và chính con vật đó hiểu. Tôi bắt đầu thấy mình không còn đứng vững trên hai chân mình. Máu dồn trở lại ngực, khiến hơi thở nặng nhọc. Cổ như đeo gông xiềng khiến cho đầu phải cúi xuống. Hoa điện bắt dầu tóe nháng những tia lửa xanh vàng. Và tự bao giờ, chúng tôi siết chặt tay nhau. Hai bàn tay cùng lạnh buốt. Hơi thở người con gái dồn dập. Những ngón tay nàng run rẩy trong bàn tay tôi và rịn ra từ đó những lớp mồ hôi lép nhép. Trước tai họa người ta khuynh hướng xáp lại gần nhau hơn. Và trong tình cảnh này, tự dưng, bản chất đàn ông ở tôi nổi lên, như sương mù tràn trên mặt cỏ. Tôi siết chặt tay nàng với cái ý nghĩ dứt khoát trong đầu: Sẵn sàng che chở cho nàng.
Nhưng rồi cuối cùng, con ngựa đập mạnh hai chân xuống đất, đầu hất cao, bờm dựng đứng như một cánh buồm nhỏ bật bật bọc gió và quay gót. Có lẽ tôi là người thở ra nhẹ nhõm hơn cả cô gái nữa. Qua một thoáng, như lúc xuất hiện, người ngựa đã chỉ còn là một chấm đen nhỏ và tan biến ngay vào màn sương.
Người con gái rút tay về, trong khi tôi còn muốn giữ chặt lấy. Nàng kêu nhỏ những tiếng gì đó trong miệng. Tôi kéo nàng về gần sát mình hơn. Nàng lập cập trước khi tựa vào người tôi như một tàu lá héo. Nàng rên nhỏ, bỏ tôi ra. Tôi im lặng và chợt thấy mình trơ trụi, ngơ ngác như con ngựa lúc đang phi bị giựt kìm chân lại. Tôi buông tay nàng ra. Ngọn nến được thắp lên. Chúng tôi nhìn nhau như thể hai con quái vật cùng mới thấy nhau lần đầu.
Người con gái khuyên tôi nên dời khỏi khu vực của thầy Khâm trước khi trời sáng rõ. Tôi nằm thẳng hút thuốc và hỏi lại vì sao nàng lại có ý muốn cứu tôi. Người con gái nằm nghiêng. Nàng gầy mỏng như một thân cây bị xẻ đôi. Những lọn tóc dài được kéo ngang mặt chắc để che cái nửa phần còn đang sượng sần vì cảm xúc mãnh liệt vừa trào qua. Ướt, lạnh. Người con gái trả lời có thể nàng bị cái ân hận, ray rức nào đó mà nàng không gọi thành tên được. Nàng kể cho tôi nghe lai lịch của nàng, khi tôi bắt đầu hút điếu thứ hai.
Nàng nói nàng được lấy ra từ một trại mồ côi. Và nàng trở thành đứa con nuôi chính thức của thầy Khâm nghĩa là có làm giấy tờ tại tòa án. Nàng sống bên cạnh người cha nuôi kỳ dị, khó hiểu từ những năm lên mười. Và chính vì thế mà nàng là người duy nhất biết được khá nhiều những gì mà thầy Khâm nghĩ chẳng thể có một người thứ hai, ngoài ông biết được. Nàng nói nàng không yêu người cha nuôi của mình, nhưng nàng luôn dành cho ông một niềm tôn kính và biết ơn thành thực. Tuy nhiên, từ ngày xảy ra chuyện cô Phúc, nàng bắt đầu thấy không thể sống với người cha nuôi đó nữa. Có lẽ thầy Khâm cũng đoán được những ý thầm kín nơi tâm hồn đứa con gái yêu dấu của mình, cho nên ông đã ngầm ra lệnh cho cận vệ theo sát nàng. Và giữa tình cảnh ngột ngạt đó. Chuyện Đông Nghi xảy ra. Như bị thôi thúc bởi một động lực huyền bí, mãnh liệt, nàng đã giúp Đông Nghi ra khỏi khu vực trước khi tất cả mọi chuyện trở thành quá muộn. Và câu cuối cùng của nàng, thế cho kết luận là nàng không còn cái ý nghĩ vượt ra khỏi nơi này nữa. Nàng phải ở lại, hay muốn ở lại, để nhận chịu hậu quả của những việc nàng đã làm.
Lúc đầu tôi nghe chuyện nàng với đôi tai của một người lớn nghe một đứa trẻ con líu lo về những điều nó ghi nhận được trong giấc mơ. Nhưng sau rồi tôi cảm thấy rõ ràng là mình bị hút cuốn vào câu chuyện với quá nhiều điều mập mờ. Nhưng những nghi vấn của tôi được nàng trả lời bằng một câu giản dị: “Cách hay nhất là anh đừng hỏi.”
Hay: “Đấy chỉ là một câu chuyện tưởng tượng. Như thể là anh mơ một giấc mơ. Cũng chỉ là một giấc mơ mà thôi, việc chúng ta đang nằm đây với nhau.”
Tất nhiên là tôi không quá dễ dàng để chịu ngừng câu chuyện ở chỗ dở dang đó. Tôi cảm thấy có một điều gì bất nhẫn, phải, vô cùng bất nhẫn khi nàng nói rằng đừng bao giờ tôi tìm cách trở lại đây, dù để gặp nàng. Bởi có thể trước khi mặt trời mọc sáng mai, nàng đã không còn nữa. Tôi tin ở cái khả năng nói quanh co, hỏi dò dẫm của mình, với hy vọng nhờ đó, biết đâu tôi chẳng tìm ra được đầu mối của câu chuyện. Nhưng những cố gắng của tôi chỉ là những cố gắng tuyệt vọng. Những cố gắng của một kẻ đứng trên miệng vực thẳm, chốc chốc, lại ném những hòn sỏi nhỏ vào cái vực đó và chờ đợi, nghe ngóng tiếng dội vang mất hút. Tôi chỉ biết thêm được một điều là chuyện Đông Nghi đã bị tên câm của thầy Khâm tình cờ biết được. Tôi nói người ta bảo y là một tên cuồng tín. Một con chó trung thành hơn bất cứ một con chó nào đối với chủ. Nàng đáp đúng thế…
Tôi cười khan vì khâm phục cách dụng người quỷ quyệt của thầy Khâm. Tôi nói, phải chính vì thế mà thầy Khâm đã giao cho y cái công việc theo dõi cô? Người con gái gật dầu. Nàng bảo: Bởi thế, mà đêm nay tôi còn ở đây. Tôi cố gắng khuyến dụ nàng cùng ra khỏi khu vực này với tôi trước khi trời sáng, và tôi hứa với nàng rằng chuyện của thầy Khâm sẽ chẳng một ai hay biết, âu đó cũng là một cách trả ơn công nuôi dưỡng của ông dành cho cô. Người con gái lắc đầu. Nàng bảo vô ích. Nàng bảo không phải đợi tới lúc anh nói tôi mới nghĩ tới. Tôi đã nghĩ tới và đã nói với anh. Nhưng tôi phải dành cái ân huệ cuối cùng đó cho Đông Nghi…
Tôi im lặng vì biết không thể thuyết phục được người con gái kỳ lạ này. Nhưng chính vì thế mà tôi không thể ngủ được…
Gần sáng, có lẽ khoảng ba hay bốn giờ gì đó, lúc người con gái thở những hơi thở đều đặn trong một giấc ngủ thản nhiên, lạnh lùng lúc vầng trăng khuya cũng đã lên cao trên ngọn thông và hắt một thứ ánh sáng như bột phấn vào phòng, thì một bóng người xuất hiện nơi ngoài khung kính. Tôi rùng mình với vành rộng của chiếc mũ đội chụp che khuất mặt. Tôi bấm nhẹ người con gái. Nàng cựa mình rất tự nhiên như vẫn còn đang thức để chờ đợi sự xuất hiện kia. Nàng nhỏm người ngồi dậy. Bóng nàng hắt vào vách tường thành một khối đen méo mó và im lặng. Bóng người, đúng hơn chỉ có cái đầu lờ mờ ngoài khung cửa biến nhanh. Tôi nghe mồ hôi vã ra hai bên thái dương. Lát sau, tiếng ngựa nổi lên mơ hồ và như không có thật.
Người con gái nằm xuống thở dài, tôi buộc miệng:
-Thầy Khâm?
-Sao ông biết? người con gái hỏi lại.
Có lẽ nàng đã lỡ lời. Nhưng tôi nhanh hơn, và không để lỡ cơ hội:
-Cô có nghĩ rằng đã có một cái gì đó, không bình thường giữa thầy Khâm và cô?
Nàng làm bộ không hiểu:
-Trước sau tôi vẫn là nghĩa nữ của ông. Và tôi tin ở ogn6 cũng là cái ý nghĩ bất di bất dịch đó, dù có thể ông cho lệnh thằng khốn kiếp giết trong nay mai.
-Tôi không tin thế.
-Ông muốn nghĩ thế nào?
-Tôi nghĩ, không tôi dự đoán, có lẽ…
Tôi ngần ngừ và cảm thấy chính cái giọng run run của tôi đã khiến cho tôi không chút tin tưởng nào nơi điều mình sẽ nói.
Người con gái lạnh lùng:
-Sao? Ông cứ nói.
-Tôi ngờ rằng, có thể thầy Khâm…
Tôi cũng rơi vào khoảng không mênh mông như thể tôi đang là viên sỏi được ném xuống cái vực thẳm không đáy, mà chính tôi chẳng bao giờ nghe thấy tiếng vọng dội của mình.
Một lúc khá lâu sau, người con gái trở lại giọng bình tĩnh, lạnh lùng:
-Kẻ nào biết điều đó sẽ chẳng bao giờ ra khỏi được nơi này.
-Đó là lý do giải thích cho những trường hợp Phúc và Đông Nghi?
Trong bóng đêm nhòe nhoẹt, choe choét ánh trăng vàng nhão, người con gái cười khan. Lần đầu tiên nàng cười. Tiếng cười như không phải của nàng. Cô nói:
-Ngay cả ông. Và cả tôi.
Đêm bỗng như một miếng thịt để lâu trong tủ lạnh và ai đó đột ngột đặt ngay ngắn lên giữa mặt tôi. Hơi thở tôi như bị chẹn lại. Và tôi thấy rõ hai tay mình đang vùng vẫy, khua khoắng trong khoảng không rỗng, trống.
Tiếng vó ngựa dồn dập nổi lên ở đâu đó. ở chung quanh. Và qua tiếng chân ngựa người ta có cảm tưởng như trên mình nó có một thân hình nào nằm co quắp, tả tơi.
10. Vàng Ủ Khói Mây Trôi
Mùa đông xa vắng vàng ủ khói mây trôi.
H.Q.H.
Hãn trờ mình và thức giấc lúc trời còn mờ mờ. Những luồng gió cắt da những bàn tay nước đá mơn trớn khắp thân thể anh. Anh không thể ngủ lại. Ánh điện vàng héo từ cửa ngoài hắt qua những khe hở của kẽ ván, soi rọi lờ mờ căn phòng hẹp Bân chắc còn ngủ. Nghĩ tới Bân anh lại nghe lòng mình bứt rứt khó chịu. Có một cái gì đó rạn rạn muốn nứt giữa hai người. Hãn không nghĩ rằng nó bắt nguồn từ Thục. Có thể là mỗi thứ một chút.
Hãn nhớ buổi tối với Thục trong ngôi quán chia ô cho bóng tối đọng đầy, và giàn thiên lý thấp xuống ở cổng ra vào. Gương mặt Thục xanh lướt với mái tóc chải ngôi giữa thả đều hai bên, ấp lấy đôi má thơm mùi phấn bụi, mùi bảng đen và cả mùi… gian dối nữa. Phải, không hiểu Thục đã nói với nhà cách nào mà hai đứa có thể đi chơi được với nhau, ngay khi Thục vừa ở lớp ra.
Trước chiều miền rừng, với những dãy núi nằm uốn khúc như trăn, đụng trời, với những đám mây la đà trên những ngọn sao, lác, khuynh diệp, đã như những miếng lụa rách từng mãng lớn mà vẫn cố gắng mà vẫn cố gắng dang ra hết sức mình để trùm ôm lấy những đỉnh cây lầm lì giá rét. Bước vào chỗ, một chỗ của những buổi tối trước, một chỗ của những nụ hôn đầu tiên, làm cho những giọt nước mắt tủi phiền từ đôi mắt chim núi thành dòng chảy xuống. Thục gieo người xuống ghế, như gieo xuống mặt đời, trái tim trĩu nặng mưa dông, và một hồn nước lớn. Thục tựa đầu vào vách tường. Mắt Thục ngước lên. Hàng lông mi tỏa ra đan một vòng bóng tối sậm hơn, như một mái hiên nhỏ, ngoài đôi mắt đứng lặng. Hãn lúng túng. Bao giờ chàng cũng lúng túng khi mới tập làm quen với một khung cảnh, một không khí khác. Anh rút thuốc hút. Và đôi mắt anh như muốn kéo xuống gần hơn gương mặt Thục phẳng phiu, thơ ngây một cách thánh thiện.
Hãn nói nhỏ:
-Em biết Maria?
Thục gật đầu. Những sợi tóc bên má nàng vô tình bay vào giữa đôi môi và nàng ngậm lại.
Hãn tiếp:
-Từ dưới trông lên đôi khi thấy em như phảng phất hình ảnh Maria.
-Lạy Chúa. Thục nói. Sao anh thấy em giống nhiều người quá vậy? Hồi chiều tới giờ em nhớ anh nói em giống tất cả là ba người rồi đó. Người thì trong tranh của ông họa sĩ chi nhỉ… Người thì trong sách. Bìa sách. Phải rồi. Riết rồi, anh nhìn em sẽ không còn là em nữa. Mà là một người khác. Một người mơ hồ. Như ma.
Hãn bật cười nhỏ. Anh bẽn lẽn. Có lẽ nhận xét ngược lại của Thục cũng đúng một phần nào. Nhưng không phải là anh không thực với lòng mình khi anh nói với Thục những ý nghĩ kia. Có mỗi điều mà anh không sao giải thích được là sao anh thấy Thục giống nhiều người quá. Những cái giống thay đổi theo giờ khắc, theo khung cảnh. Và có lẽ cũng theo luôn lòng anh nữa.
Hãn chữa:
-Nhưng chính vì thế, vì em giống nhiều người quá nên rút cuộc lại, em chẳng giống ai cả.
Thục nghiêng đầu. Mái tóc Thục chảy thẳng thành một tấm màn ngăn cách giữa Hãn và nàng như là một tấm màn nồng nàn hương tóc cháy.
-Thế nghĩa là gì?
-Là em giống anh.
Hãn đáp nhanh. Thục ngúng ngẩy:
-Xí.
-Vậy đó. Bởi anh yêu em.
Và Hãn vội vã nắm lấy cánh tay Thục, những ngón tay trên mặt bàn, như những thỏi phấn trắng mịn (những thỏi phấn tưởng chừng như có thể ăn được. Nếu ăn được, chắc Hãn đã ăn. Ngay từ lần đầu tiên khi chàng run run nắm được bàn tay Thục). Thục dịu dàng gửi má mình lên vai Hãn. Tóc Thục lòa xòa. Môi Thục thật gần, và mắt Thục thả xuống…
Hãn tung chăn, đứng dậy. Chàng rón rén mở cửa. Sương mù chảy xuôi theo con đường đất dẫn xuống con lộ chính.
Những trái thông lăn trên mái tôn trước khi rơi trên mặt đất đầy lá. Bên kia lộ chính, thung lũng trải ra tới rặng núi màu màu bùn pha sữa. Gió chạy xào xạc như mang theo nhiều bước chân thú trên đường trở về hang. Hãn nghĩ và tưởng tới gương mặt nhăn nhó sau nhiều đè nén của Bân. Chàng thở dài. Tiếng đại bác từ căn cứ pháo binh ở bên kia khu vực nghĩa địa, nơi mà lúc chiều còn nắng, Hãn đã chạy xe ngang Thục. Những ngôi mộ có quá nhiều màu sặc sỡ, và Thục ví nó như một cái chung cư. Chung cư của những người đã về tới bên kia đời sống. Ví von nghe mới thảm làm sao. Những người ở chung cư chắc sẽ chẳng vui được khi hay Thục ví von như vậy. Hãn bảo Thục thế. Và Thục cười giọng vụn vỡ tan như những hạt đậu phụng rang miệng. Hãn bằng lòng với những ý nghĩ thật bất ngờ như vậy của Thục. Anh yêu em một phần cũng vì những cái cỏn con đó. Em biết không? Cũng như Hãn nhớ, Thục gọi người lính gác cổng nơi doanh trại của chàng là củ khoai di động, chỉ vì anh ta quá mập và lùn, dĩ nhiên.
Hãn cười một mình, chàng quay vào sau khi đã búng mẫu thuốc vào vũng sương đọng gần nơi chỗ anh đứng. Những tiếng động ở phòng bên vang ra. Tiếng dép kéo lê. Chắc là của bà ngoại Bân, Hãn bước nhanh về giường mình. Chàng leo lên giường nhắm mắt trở lại.
Hãn ngủ được thật, lúc mọi người trong gia đình Bân đã dậy cả. Lúc Bân lay chàng, thì nắng đã làm tan những đám sương mù ở ngoài bầu trời cây xanh, và Hướng đã trở lại cùng Kim, Bân nói:
-Mau, đi ăn sáng. Xong anh đi đâu?
Hãn nói thật:
-Tôi đến Thục.
-Sáng nay?
-Chứ anh muốn ngày nào? Mai tôi đã không còn ở đây. Những giờ phút cuối. Anh hiểu?
Bân như có vẻ trề môi, không đáp. Anh trầm ngâm một lát sau cặp kiếng mới lau:
-Anh không muốn ở lại?
Hãn cười buồn:
-Sợ làm anh buồn thêm nữa. Tôi biết mấy ngày hôm nay anh đã bắt đầu ân hận về sự lưu giữ tôi ở đây:
Bân khoa tay:
-Anh đường nói thế, bạn bè. Không có vấn đề gì trên bạn bè.
Hãn cảm thấy lòng mình bắt đầu dấy lên những đợt sương mù, lạnh và buồn:
-Tôi không thể khác. Mong anh hiểu. Chúng tôi yêu nhau. Dù có thế nào. Tình yêu cũng ngang như sự chết. Tôi chẳng thường nói với anh nhiều lần như vậy?
-Cách hay nhất là chúng ta không nên nói với nhau về chuyện đó. Tình yêu ư, lôi thôi lắm. Bân nói.
Tình yêu với tôi thì khác. Tôi không còn gì để tin, ngoài tình yêu. Đời sống hiện tại đã dạy tôi điều chua chát đó. Mặc dù chẳng có cái gì đáng nghi ngờ hơn tình yêu. Nó mong manh hơn cả nghĩa mong manh. Nhưng nó cũng tuyệt vời hơn cả nghĩa chữ tuyệt vời nữa. Chúng ta còn sống được chỉ nhờ có chừng đó. Phải không em.
Hãn định nói với Bân như vậy. Nhưng chắc Bân không đủ thiện cảm nghe lời tâm sự ấy
Rời tiệm phở, Hãn lấy xe đến thẳng nhà Thục với Hướng, Bân và Kim trở về trại.
Nhà Thục ở giữa một khu đất dưới những tàn cây thông thưa lá. Những cành thông theo với những giờ phút cuối cùng của một năm rụng xuống, lót trên những đường đất cứng. Vòng xe phía cổng sau. Thục xuất hiện đột ngột như một con sóc nâu phía bên cạnh nhà. Chắc lại sang hàng xóm chơi. Hai bàn tay Thục khum khum bung một vốc thóc trong tay. Nàng cười. Nụ cười thay cho câu chào hỏi, nhưng nụ cười còn có nghĩa như ánh nắng. Như những tia mặt trời. Như những dòng nước tự nguồn đổ xuống.
Hướng bấm tay Hãn nói nhỏ:
Nhất.
Hãn thấy nóng cả hai bên má. Lòng Hãn rộn rã một niềm vui. Một sung sướng và như có chút gì hãnh diện.
Thục biến nhanh trong nhà. Hai người đi vòng ngã trước. Cánh cửa mở. Căn phòng nhỏ và ấm cúng.
Hãn bảo Hướng ngồi xuống salon.
Thục chân đất, tiếp tục đưa những hạt lúa của bồ câu ăn không hết lên miệng nhằn. Chiếc miệng nhỏ, cánh môi chúm, và nhất là chiếc mũi nhọn, khiến trông Thục vừa trẻ thơ ngộ nghĩnh vừa có một vẻ gì khiếm Hãn muốn… cắn.
Hai người im lặng nhìn nhau. Hướng bắt đầu mở máy nói. Không khí bớt ngỡ ngàng phần nào nhờ Hướng. Cuối cùng, Hãn nói nhỏ:
-Mai anh về. Cùng Hướng luôn.
Thục gật dầu:
-Em biết. Chừng nào chúng ta gặp lại nhau?
-Một ngày nào em muốn.
-Nếu em muốn cả đời.
-Càng tốt. Chỉ sợ không có đủ ô mai cho em mà thôi.
Thục nheo mắt. Một cụm tóc đã cắn ngang môi.
-Ô mai? Cần lắm. Khi không có anh. Nhưng anh không có em cũng được…
-Vì sao?
-Thuốc lá với anh cần hơn.
Hãn cười giòn:
-Anh hút thuốc để rồi yêu em hơn. Em có bằng lòng.
-Hóa ra thuốc lá mới thật là tình yêu?
-Thôi. Anh nói đùa đó. Chính em. Em hiểu không?
Thục dịu đôi mắt sáng:
-Chiều nay em có giờ ở Plei-me.
-Anh sẽ tới đón em, như thường lệ. Buổi cuối cùng của anh ở đây. Em nói với chị Quỳnh như vậy. Nên thương kẻ ở xa.
-Chị Quỳnh nói chị ấy không phải là em.
-Nghĩa là không hy vọng gì?
Thục bí mật:
-Em cũng muốn nghĩ khác hơn thế.
Hãn thấy trùng hẳn người xuống… Anh cố nén tiếng thở ra. Lúc thất vọng trông mặt Hãn tức cười lắm. Anh không đấu được gì trên bộ mặt của anh.
Hướng có vẻ ái ngại:
-Theo tôi chị Thục nên cố gắng. Ngày mai Hãn đã dời khỏi nơi đây.
Thục vẫn vẻ mặt thản nhiên:
-Tôi cần hơn anh nữa chứ. Anh hiểu? Tuy nhiên…
Thục nói và nheo mắt nhìn Hãn. Hãn đứng tim. Một nét rạng rỡ đã hiện trên gương mặt anh. Lúc này, trong mặt Hãn cũng lại tức cười lắm.
Thục nói tiếp, với chàng:
-Anh cứ lại đón em.
Hãn lại như không tin nơi tai nghe của mình.
Thục cười nghịch ngợm:
-Chẳng lẽ chiều mai. Chiều mai sang năm mới rồi còn gì.
-Ừ nhỉ.
Hãn nói và hai bàn tay chàng quấn vào nhau. Như thể một bàn tay nào đó, ở trong tay chàng là tay của Thục.
Nắng như hoa, rụng từng chùm trên những ngọn thông gầy ốm. Như thục. Thục xanh xao. Thục nhẹ tênh, như bướm. Bướm của một đời Hãn.
Du Tử Lê
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đi tìm một vì sao: Quê nhà, đất nước, tình người! – Kỳ 1 Suốt hành trình tham gia kháng chiến, mỗi nơi từng sống và chiến đấu đều lưu lạ...