Tản mạn nhân vật lịch sử
Trần Trọng Kim qua những trang hồi
ký
I. Trần Trọng Kim học giả
Thuộc thế hệ tuổi trên dưới 60 như chúng tôi, ở miền Nam, hễ
có quan tâm ít nhiều tới chuyện sách vở thì hầu như không ai không biết đến
nhân vật Trần Trọng Kim (1883-1953), một học giả tên tuổi, có thời gian ngắn
tham gia chính trị với tư cách Thủ tướng của Đế quốc Việt Nam (1945), và là người
tiên phong cho một số công trình biên khảo có giá trị lâu dài thuộc nhiều lĩnh
vực học thuật khác nhau, như Việt Nam sử lược, Nho giáo, Truyện
Thúy Kiều…
Khởi đầu sự nghiệp trứ tác từ năm 1914 khi phụ trách mục “Học
khoa” trên Đông Dương Tạp Chí, với loạt bài viết có tính giáo khoa về luân
lý và về khoa sư phạm học, nếu tính đúng và đủ, Trần Trọng Kim là tác giả của tất
cả những công trình đã in thành sách, liệt kê theo thứ tự thời gian như
sau: Sơ học luân lý (Nhà in Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội, 1914), Sư
phạm khoa yếu lược (Trung Bắc Tân Văn, 1916), Việt Nam sử lược (2
quyển Thượng và Hạ, Trung Bắc Tân Văn, 1919), Truyện Thúy Kiều chú giải (1925,
soạn chung với Bùi Kỷ), Quốc văn giáo khoa thư (3 tập: lớp Đồng ấu, lớp
Dự bị, và lớp Sơ đẳng), Luân lý giáo khoa thư, Sử ký giáo khoa thư (cả
ba loại giáo khoa thư này xuất bản năm 1926, và đều soạn chung với Nguyễn Văn
Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận, do Nam Sơn Nguyễn
Văn Thọ vẽ minh họa), 47 điều giáo hóa của nhà Lê (Trung Bắc Tân Văn,
1928, dịch “Lê triều giáo hóa điều luật tứ thập thất điều” ra tiếng Pháp: Les
47 articles du Catéchisme moral de l’Annam d’autrefois), Nho giáo (Trung Bắc Tân
Văn, 1930, ba quyển; sau in gộp lại thành hai quyển, 1932-1033), Việt thi (sao
lục và chú giải) Phật lục (NXB Lê Thăng, Hà Nội,1940), Phật giáo (Tân
Việt xuất bản), Vương Dương Minh (1940), Việt Nam văn phạm (Lê
Thăng, Hà Nội, 1941, soạn chung với Phạm Duy Khiêm, Bùi Kỷ), Tiểu học Việt
Nam văn phạm (Tân Việt xuất bản), Phật giáo thủa xưa và Phật giáo
ngày nay (Tân Việt, 1953; “Lời mở đầu” của tác giả đề tháng
10.1952), Hạnh thục ca (Tân Việt xuất bản), Đường thi (Tân
Việt xuất bản), Lăng ca kinh (Tân Việt, 1964), Một cơn gió bụi (Hồi
ký, viết từ năm 1949, xuất bản năm 1969 tại Sài Gòn do NXB Vĩnh Sơn).
Ngoài những sách đã in chính thức trên đây, Trần Trọng Kim
còn có loạt bài biên khảo dài về Đạo giáo (Đạo Lão Tử) đăng nhiều kỳ trên Nam
Phong Tạp Chí (từ số 67 năm 1923), chưa xuất bản thành sách. Vũ trụ đại
quan và Thiên văn học là 2 công trình biên khảo khác nữa nhưng
dường như chỉ ở dạng bản thảo đã bị thất lạc trong thời kỳ chiến tranh Việt-Pháp
(1946-1954). Quyển đầu thấy tác giả có nhắc qua trong một bức thư gởi Hoàng
Xuân Hãn mới được công bố gần đây; còn quyển sau, chỉ được biết qua sự ghi nhận
của nhà văn-nhà báo Lãng Nhân Phùng Tất Đắc trong tập hồi ký Nhớ nơi kỳ ngộ (do
Ziên Hồng xuất bản ở Hoa Kỳ năm 1997). Riêng cuốnPháp bảo đàn kinh nói là
do ông dịch, chúng tôi chỉ thấy giới thiệu sau bìa lưng một quyển sách khác do
NXB Tân Việt in năm 1964, nên chưa thể xác định.
Nếu xét trên phương diện đề tài thì tác phẩm của Trần Trong
Kim bao quát một phạm vi rất rộng, từ giáo khoa nhiều môn học sang các lĩnh vực
Văn, Triết, Sử, Tôn, và đều có tính cách tiên phong đi đầu trên mỗi lĩnh vực học
thuật trong giai đoạn chuyển giao từ nền cựu học sang tân học, trong số đó
riêng Việt Nam sử lược từ khi ra đời đã được đánh giá là một trong những
quyển sử quy mô đầu tiên của Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ, vừa có phong cách
ngắn gọn, súc tích, vừa đầy đủ dễ hiểu,đọc rất hấp dẫn, và được tái bản cho đến
nay có đến chục lần.
Điều khá đặc biệt là những cuốn giáo khoa tiểu học nêu trên
do ông chủ trì biên soạn đều là những sách viết rất hay, mà một số bài trong đó
đến nay lớp người từng học tiểu học khoảng nửa trước thế kỷ XX vẫn còn thuộc nằm
lòng. Một số câu, đề bài đã trở thành nhưng câu khẩu ngữ rất quen thuộc: Ai
bảo chăn trâu là khổ… Xuân đi học coi người hớn hở…. Cách biên soạn đơn giản,
dễ nhớ như thế của nhóm soạn giả Trần Trọng Kim rất có giá trị thuyết phục, mà
ngày nay có lẽ còn phải phấn đấu học hỏi nhiều nữa giới sư phạm mới có thể vượt
lên hơn được.
Trong Việt Nam văn học sử yếu, GS Dương Quảng Hàm xếp Trần
Trọng Kim vào chương “Các văn gia hiện đại” cuối sách, ở tiểu mục “Khuynh hướng
về học thuật”, chỉ với 3 dòng nhận xét rất ngắn gọn nhưng đủ khái quát hết sự
nghiệp học thuật của ông: “Trần Trọng Kim (hiệu Lệ Thần) là một nhà sư phạm đã
soạn nhiều sách giáo khoa có giá trị và một học giả đã có công khảo cứu về Nam
sử và các học thuyết cổ của Á Đông” (Bộ Giáo dục-Trung tâm học liệu, Sài Gòn,
1968, tr. 450).
Đến Nhà văn hiện đại (4 tập, Tân Dân, Hà Nội,
1942-1945), nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan (1902-1987) xếp Trần Trọng Kim
vào “Các nhà văn lớp đầu”, nhóm biên khảo (cùng với Bùi Kỷ, Lê Dư, Phan Khôi,
Nguyễn Quang Oánh, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn Tố, Đào Duy Anh), đã giới thiệu
khá tỉ mỉ văn nghiệp của ông (chiếm đến 30 trang giấy). Đặc biệt giới thiệu,
phân tích, phê bình một cách tập trung, chi tiết vào 3 quyển Việt Nam sử
lược, Nho giáo và Việt Nam văn phạm. Riêng Việt Nam sử lược,
Vũ Ngọc Phan cho rằng “tuy gọi là ‘lược’ nhưng cũng đủ được mọi việc trong thời
kỳ đã qua của nước nhà và đáng coi là một bộ sách giá trị” (NXB Văn Học-Hội
Nghiên Cứu Và Giảng Dạy Văn Học TP. HCM, 1994, tập I, tr. 181). Rồi đi tới một
kết luận chung cho toàn bộ sự nghiệp biên khảo của Trần Trọng Kim: “Đọc tất cả
các văn phẩm của Trần Trọng Kim, người ta thấy tuy không nhiều, nhưng quyển nào
cũng vững vàng chắc chắn, không bao giờ có sự cẩu thả.
“Ông có cái khuynh hướng rõ rệt về loại biên khảo; chỉ đọc
qua nhan đề các sách của ông, người ta cũng có thể thấy ngay: hết lịch sử, đến
đạo Nho, đến đạo Phật, rồi lại đến mẹo luật tiếng Việt Nam. Ông là một nhà giáo
dục, nên những sách của ông toàn là sách học cả.
“Văn ông là một thứ văn rất hay, tuy rất giản dị mà không bao
giờ xuống cái mực tầm thường; lời lời sáng suốt, giọng lại thiết tha như người
đang giảng dạy. Lối văn ấy là lối văn của một nhà văn có nhiệt tâm, có lòng
thành thật” (sđd, tr. 208-209).
Lại đến Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của
Phạm Thế Ngũ, tập III, phần Văn học hiện đại 1862-1945 (Quốc Học Tùng Thư, Sài
Gòn, 1965), nhà nghiên cứu văn học rất tài hoa uy tín này tiếp tục xếp Trần Trọng
Kim vào hàng ngũ các nhà biên khảo tiêu biểu của giai đoạn 1907-1932, chung với
Phan Kế Bính (1875-1921), Nguyễn Hữu Tiến (1874-1941) (hai tác giả đã được Vũ
Ngọc Phan xếp vào nhóm Đông Dương Tạp Chí và nhóm Nam Phong Tạp Chí) và Phan
Khôi (1887-1959). Phạm Thế Ngũ gọi Trần Trọng Kim là nhà giáo dục mới, lần lượt
điểm qua các tác phẩm tiêu biểu, trước khi đi đến nhận định tổng quát có thể bổ
sung được cho sự đánh giá của hai nhà vừa nêu trên: “Ở Trần Trọng Kim ta thấy một
đặc điểm là mặc dù sớm theo Tây học, lại sang cả Pháp du học, song ông đã có với
văn hóa Đông phương một mối kính cẩn sâu xa. Có thể nói ông chủ trương bảo tồn,
thủ cựu hơn cả Phạm Quỳnh. Về đường trước tác thì có thể nói ông đã thực hiện
đúng cái đường lối… là đem tất cả cái gia tài văn hóa của ông cha mà bàn giao lại
cho thế hệ mới… Tuy có Tây học song ông tự đặt mình vào phái cũ, đem cái phương
pháp mới học được của Tây học mà làm những công trình bàn giao ấy cho được rõ
ràng hơn hoàn bị hơn. Sự phối hợp giữa một phương pháp biên khảo mới mẻ và một
kho kiến thức phong phú cộng thêm vào một thiện chí theo đuổi “cúc cung tận tụy”
đã khiến cho những công trình của ông có một giá trị vững bền và đặt ông vào
hàng đầu các nhà biên khảo ở giai đoạn này.
“Về hành văn thì ông có một lối văn đặc biệt bình dị… Không
ưa những hình ảnh cao kỳ, lối sắp đặt đối ngẫu, sự bay bổng hay hào hoa, chỉ muốn
dùng cách thông thường nhất dễ hiểu nhất, để dẫn giải ôn tồn cho người ta hiểu.
Văn bình đạm song có khí có lực, cũng như con người vậy” (tr. 301-302).
Trần Trọng Kim, còn có bút hiệu Lệ Thần, sinh năm 1883 (Quý
Mùi) tại làng Kiều Lĩnh, xã Đan Phổ (nay là Xuân Phổ, trước thuộc tổng Đan Hải),
huyện Nghi Xuân,
tỉnh Hà Tĩnh.
Theo Vũ Ngọc Khánh, họ Trần của Trần Trọng Kim là một họ lớn ở
Đan Phổ (lúc đầu gọi Đan Phố, sau theo cách phát âm mới đọc Phổ), cụ thân sinh
ra Trần Trọng Kim là Trần Bá Huân, có tham gia phong trào Cần Vương. Em gái ông
tên Trần Thị Liên là một cán bộ Xô Viết, hoạt động năm 1930 (mất năm 1964).
Ngoài ra, ông còn có người con gái hiện đang ở Pháp (xem “Bàn thêm về Trần Trọng
Kim”, Tạp chí Văn Hóa Nghệ An, 26.11. 2009). Riêng vợ ông là em gái
nhà nghiên cứu văn học Bùi Kỷ.
Xuất thân trong một gia đình Nho giáo, ông học chữ Hán từ nhỏ.
Năm 1897, học chương trình Pháp ở Trường Pháp-Việt Nam Định. Năm 1900, thi đỗ
vào Trường thông
ngôn, tốt nghiệp năm 1903. Năm 1904, làm Thông sự ở Ninh Bình.
Ít ai biết rõ thuở hàn vi của Trần Trọng Kim ra sao, vì ngay
trong tập hồi ký viết cuối đời, cuốn Một cơn gió bụi (tên phụ “Kiến
văn lục”, NXB Vĩnh Sơn, Sài Gòn, 1969), cũng không thấy kể. Chỉ biết ông nhà
nghèo, nên năm 1906 mới nhờ bạn học cũ là Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) giúp, khi
ông Vĩnh được nhà nước bảo hộ Pháp giao trách nhiệm tổ chức đi dự cuộc Hội chợ
Marseille ở Pháp (hồi đó gọi là “đấu xảo”), sắp xếp cho ông đi theo với tư cách
thợ khảm, mà thật ra mục đích chính chỉ để tranh thủ ở lại Pháp học thêm: “Thì
mục đích mình là kiếm đường du học, chứ tôi có biết khảm khiếc gì đâu!” (Lãng
Nhân, sđd., tr. 84).
Từ đó ông trải qua học trường Thương mại ở Lyon, rồi được học
bổng vào trường Thuộc địa Pháp. Năm 1909, vào học trường Sư phạm Melun, tốt
nghiệp ngày 31 tháng 7 năm 1911 rồi về nước, do học bổng của mọi sinh viên lúc
đó đột nhiên bị bãi. Sau đó, lần lượt dạy ở Trường trung học Bảo hộ (Trường Bưởi),
Trường Hậu Bổ và Trường nam Sư phạm.
Ông là nhà giáo mẫu mực, có uy tín trong xã hội, từng giữ nhiều
chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như: Thanh tra các trường tiểu học
Pháp-Việt (1921), Trưởng ban Soạn thảo Sách giáo khoa Tiểu học (1924), giáo
viên Trường Sư phạm thực hành (1931), Giám đốc các trường nam tiểu học tại Hà Nội
(1933). Ngoài ra ông còn là Phó trưởng ban Ban Văn học của Hội Khai trí Tiến Đức
và Nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ. Bắt đầu về hưu năm 1942 khi vừa tròn 60 tuổi.
Theo sự kể lại của Lãng Nhân, một người được Trần Trọng Kim
coi là bạn trẻ khá thân thiết, thì ông người vóc đậm nên trông hơi thấp, nước
da ngăm ngăm, đi đứng khoan thai vững vàng, tuy gốc Nghệ Tĩnh nhưng ở Bắc lâu
nên giọng nói nhẹ nhàng. Thấy ông là nhà giáo đạo mạo, lại chuyên viết những
công trình nghiêm túc gần như giảng đạo, ít ai nghĩ Trần Trọng Kim là người có
óc trào lộng, thích kể chuyện tiếu lâm, và cũng theo Lãng Nhân cho biết, cuốn
sách nhỏ do nhà Ích Ký phố Hàng Giấy xuất bản năm 1910, có những chuyện “xứ Nghệ”
xem vỡ bụng cười, đều do ông Trần kể lại với tác giả Thọ An, tức Phạm Duy Tốn
(1883-1924), một nhân vật trọng yếu của nhóm Nam Phong.
Tính ông vui vẻ, cởi mở, xuềnh xoàng dễ gần và không quan
cách, kể cả khi sau này ở địa vị đứng đầu chính phủ, như có lần chào tạm biệt một
nhà báo vừa làm xong cuộc phỏng vấn: “Ta cũng là anh em, trước ông biết tôi là
Kim nay cứ gọi Kim, xin đừng xưng hô kiểu cách” (xem Nguyễn Duy Phương, Lịch
sử độc lập và nội các đầu tiên Việt Nam, Hà Nội, 1945, tr. 33).
Có những chi tiết rất lý thú về nền nếp sinh hoạt hằng ngày của
ông. Cũng theo Lãng Nhân, “Sở dĩ ông thực hiện được những tác phẩm có giá trị cả
về phẩm lẫn lượng, là nhờ sự kê cứu tỉ mỉ công phu cùng đức tính cần cù, nhẫn nại
và cương quyết ít thấy ở ai khác. Thật vậy, nhà ông, trên lầu, riêng một căn
làm thư phòng, giữa kê một bàn giấy lớn, sách vở bày trên từng chồng xếp đặt
ngay ngắn, bên đèn bên quạt điện, trước bàn là một ghế bành gỗ gụ không có nệm.
Điều khác thường là bao nhiêu đó được vây kín trong một khung hình lớn lúc nào
cũng buông xùm xụp để tránh muỗi. Mỗi ngày cơm chiều xong là ông tản bộ đi
chơi, đi thăm hỏi bạn bè, khi chuyện trò trong hội Khai Trí, nhưng nghiêm luật
bất di bất dịch là đúng 10 giờ đêm, dù mưa gió bão bùng, thế nào ông cũng có mặt
nơi ‘bàn mùng’ để căm cụi dùi mài cho đến 2 giờ sáng” (sđd., tr. 84-85).
II. Trần Trọng Kim, chính khách bất đắc dĩ?
Chỉ một năm sau khi về hưu (1943), thời cuộc bắt đầu đưa đẩy
chuyển ông sang một hướng rẽ đầy phong ba bão táp mà bình sinh có lẽ ông chưa
bao giờ kịp nghĩ tới. “Một cơn gió bụi” nổi lên bao trùm hoàn hải trong bối cảnh
cuộc Chiến tranh thế giới thứ II đến hồi quyết liệt đã làm cho cuộc đời nhà
giáo-nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim không còn được êm ả cách tương đối như trước.
Người Nhật, kéo vào Đông Dương từ những năm 40, với nhiều ý đồ có sẵn trong mối
quan hệ tranh quyền với Pháp, đã bắt đầu cho người ve vãn, tìm cách lui tới làm
quen, lấy cớ để hỏi han ông những kiến thức liên quan các vấn đề văn hóa, lịch
sử. Việc này Trần Trọng Kim đã thuật lại khá rõ trong tập hồi ký cuối đời, mà gần
đây đã được đưa lên mạng Internet nên rất dễ tìm đọc. Ngay từ chương đầu, thái
độ sống và lập trường chính trị của ông đã được bộc lộ khá rõ:
“Sau 31 năm làm việc trong giáo giới…, đến năm 1942 mới được
về hưu. Tưởng thế là được nghỉ ngơi cho trọn tuổi già. Bởi vì trong một đời có
nhiều nỗi uất ức sầu khổ về tình thế nước nhà, về lòng hèn hạ đê mạt của người
đời, thành ra không có gì là vui thú. Một mình chỉ cặm cụi ở mấy quyển sách để
tiêu khiển…
“Năm Quý Mùi (1943) là năm trăng mờ gió thảm, tiếng chiến
tranh inh ỏi khắp hoàn cầu, toàn xứ Ðông Dương bị quân Nhật Bản tràn vào, họa
chiến tranh mỗi ngày một lan rộng. Dân Việt Nam bị đói kém đau khổ đủ mọi đường,
lại căm tức về nỗi nước nhà suy nhược phải bị đè nén dưới cuộc bảo hộ trong sáu
bẩy mươi năm, cho nên ai cũng muốn nhân cơ hội ấy mà gây lại nền độc lập đã
mong mỏi từ bao lâu.
“Tôi là một người nước Việt Nam, lẽ nào lòng tôi lại không
rung động theo với dịp rung động của những người ái quốc trong nước? Nhưng vì
hoàn cảnh khó khăn, lòng người ly tán, nhiều người lại muốn lợi dụng cái tiếng
ái quốc để làm cái mối tư lợi cho mình, vì vậy mà tôi chán nản không dự vào đảng
phái nào cả, mà cũng không hành động về phương diện chính trị…
“Trong khi nước Pháp đang bị cái nạn chiến tranh, người Pháp
đối với người Việt Nam không đổi thái độ chút nào, mà người Nhật thì lại muốn lợi
dụng lòng ái quốc của người Việt Nam để quyến dụ người ta theo mình….
“Nước Nhật Bản trước vốn là một nước đồng văn đồng hóa ở Á
Ðông, nhưng về sau đã theo Âu hóa, dùng những phương pháp quỷ quyệt để mở rộng
chủ nghĩa đế quốc của họ… Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu “đồng minh cộng nhục”
và lấy danh nghĩa “giải phóng các dân tộc bị hà hiếp”, nhưng thâm ý là muốn thu
hết quyền lợi về mình. Bởi vậy chính sách của họ thấy đầy những sự trái ngược,
nói một đàng làm một nẻo. Cái chính sách ấy là chính sách bá đạo rất thịnh hành
ở thế giới ngày nay. Dùng lời nhân nghĩa để nhử người ta vào tròng của mình mà
thống trị cho dễ, chứ sự thực thì chỉ vì lợi mà thôi, không có gì là danh nghĩa
cả.
“Trong hoàn cảnh khó khăn ấy tôi phải nén mình ngồi yên. Song
mình muốn ngồi yên mà người ta không để cho yên. Hết người này đến nói chuyện lập
hội này, người khác đến nói chuyện lập đảng nọ. Ðảng với hội gì mà tinh thần
không có, sự tổ chức chẳng đâu ra đâu thì càng nhiều đảng và hội bao nhiêu lại
càng thêm rối việc bấy nhiêu, chứ có ích gì? Bởi vậy đối với ai, tôi cũng lấy
lòng ngay thẳng mà đáp lại, nhưng không đồng ý với ai cả” (Một cơn gió bụi, NXB
Vĩnh Sơn, Sài Gòn, 1969, tr. 9-12).
Về lập trường chính trị như vừa nêu trên, nhất là đối với sự
can thiệp ngày càng thô bạo của Nhật ở Đông Dương, chúng ta còn được biết rõ
thêm qua vài đoạn nêu trong tập hồi ký của Bùi Diễm (sinh năm 1923, con trai
Bùi Kỷ), một người cháu gọi vợ ông bằng cô ruột (gọi ông bằng chú, nói theo miền
Nam là dượng rể): “Lúc này tôi thường xuyên trú ngụ ở nhà ông chú tôi (tức Trần
Trọng Kim-TVC), nơi ông cụ tôi (tức cụ Bùi Kỷ- TVC) và ông chú tôi đang hợp sức
viết sử. Tôi thường ăn cơm cùng cả ông cụ lẫn ông chú. Trong bữa cơm tối cả ba
chúng tôi thường bàn luận về hành động của Nhật. Theo ông cụ và ông chú tôi thì
người Nhật không hề thật tâm muốn giúp đỡ người Việt. Hành vi tàn ác của Nhật
đã được các báo chí Pháp đăng tải thật chi tiết. Hơn nữa mật vụ Kempeitai của
Nhật (tức hiến binh Nhật-TVC) đã khét tiếng là tàn ác. Người Nhật vốn có tinh
thần kỷ luật cao. Khi họ đã bước chân vào việc gì thì rất ít khi chịu làm việc
nửa vời. Ông cụ và ông chú tôi cho rằng hợp tác với Nhật lúc này hãy còn sớm
quá” (Gọng kềm lịch sử, Cơ sở Phạm Quang Khai, Paris, 2000).
Việc dàn cảnh bắt Trần Trọng Kim đưa đi giấu sẵn ở Chiêu Nam
Đảo (tức Singapour do Nhật chiếm đóng) để chuẩn bị cho một mưu đồ tương lai, lấy
cớ là để bảo vệ ông thoát khỏi sự rình rập bắt bớ của mật thám Pháp, cũng đã được
kể rõ trong chương tiếp theo của tập hồi ký Một cơn gió bụi, nhưng để tóm
tắt hơn và có phần khách quan hơn, xin trích dẫn thêm vài đoạn kể tiếp sau của
Bùi Diễm:
“Vào một buổi sáng tự dưng có một sinh viên đứng tuổi người
Nhật tên Yamaguchi đến nhà xin được phép nói chuyện với ông chú tôi. Yamaguchi
diễn tả rất lưu loát bằng tiếng Pháp rằng ông đang nghiên cứu sử Việt Nam và đến
tìm ông chú tôi để thỉnh cầu giúp đỡ. Yamaguchi cho biết ông đang tìm hiểu về một
giai đoạn đặc biệt trong triều đại Nhà Nguyễn.
“Từ đó Yamaguchi thường xuyên lui tới (…). Tuy chẳng làm cách
nào rõ được ý đồ của Yamaguchi, chúng tôi biết rõ là ông đến với ý định khác
(…), chắc chắn chẳng liên quan gì đến các triều đại Nhà Nguyễn. Trong khi đó
Yamaguchi cũng xuất hiện tại nhiều nơi khác….Ông liên lạc với các giáo sư, nói
về tình huynh đệ giữa những người Á, về việc giúp đỡ lẫn nhau dành lại chủ quyền.
Ông cũng nhắc nhở, hô hào “Người Á, đất Á” và cố đề cao vai trò của Nhật trong
các phong trào giúp đỡ, giao hảo với người Việt. (…)
“Mặc dầu ông chú tôi vẫn chăm chỉ viết sách, cuộc sống của
ông thực sự đã thay đổi rất nhiều vào năm vừa qua. Những biến chuyển chính trị
dồn dập đã đẩy ông phần nào ra khỏi tư thế khách quan trong vấn đề tranh đấu
cho độc lập. Lúc này ông khách sinh viên Yamaguchi đến thăm viếng ông chú tôi
thường xuyên hơn bao giờ hết. Hơn nữa, cả mật thám Pháp cũng đã giám sát cẩn mật
nơi cư ngụ và các hành động của ông chú tôi.
“Tuy đã biết rành rọt mọi chuyện mà vào một hôm đến chơi tôi
vẫn bàng hoàng khi được bà mợ cho biết tin chú tôi không còn ở nhà nữa. “Chú phải
lên đường đi xa,” mợ tôi tiếp tục cho thêm tin “vì mật vụ Pháp rình rập và đã
lên đường đi Singapore cùng ông Yamaguchi rồi” (Gọng kềm lịch sử, sđd.).
Chuyến đi đó, khởi đầu từ ngày 27.10. 1943 và chính thức xuống
tàu thủy ngày 1.1.1944, cùng với một người bạn nữa cũng cảnh ngộ bị “bắt cóc”
vào chung chỗ hiến binh Nhật như ông là cụ Dương Bá Trạc (1884-1944), nằm trong
dự mưu do người Nhật khéo tác động và dẫn dắt, đối với Trần Trọng Kim được coi
là một chuyến đi định mệnh, hướng cuộc đời ông vào một ngả rẽ hoàn toàn không
chủ động, nếu không muốn nói gần như trái hẳn với lập trường chính trị ban đầu
của ông. Tuy nhiên, có nhiều khả năng trong quá trình tiếp xúc sau này với các
đại diện Nhật Bản ở Chiêu Nam Đảo và những nơi khác, Trần Trọng Kim đã được người
Nhật tìm cách rỉ tai vận động để gieo cho ông mầm mống hi vọng về tương lai độc
lập-canh tân xứ sở dưới sự bảo trợ của họ, nhưng điều này thì Trần Trọng Kim vẫn
kín miệng không thấy kể ra trong hồi ký. Dù sao, mưu đồ của Nhật cũng đã quá
rõ, không mấy cần phải có thêm tài liệu để chứng minh.
Sau khoảng một năm trải qua cuộc sống chờ đợi buồn tẻ ở Chiêu
Nam Đảo, Dương Bá Trạc đã mất tại đây vào ngày 11 tháng 12 năm 1944 (nhằm 26
tháng 10 năm Giáp Thân) vì
bệnh ung thư phổi, thi hài được Nhật tổ chức hỏa táng đem về nước. Lúc này chỉ
còn một mình Trần Trọng Kim ở lại với vài người khác do Nhật đã đưa qua sẵn trước
đó, để đến ngày 16.1.1945 thì được bố trí đi Băng Cốc (Thái Lan) cùng với Đặng
Văn Ký, một thành viên chủ chốt của đảng Phục Quốc thân Nhật.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, vào lúc 21 giờ, sau khi bị Toàn quyền
Pháp Decoux tìm cách trì hoãn yêu sách do đại sứ Nhật tại Đông Dương Shunichi
Matsumoto đưa ra trong một tối hậu thư đã trao chỉ trước đó 2 giờ, đòi Pháp phải
đặt toàn bộ quân đội và bộ máy cai trị thuộc địa dưới quyền điều khiển của
mình, Tổng tư lịnh Nhật Yuichi Tsuchihashi đã ra lệnh mở màn cuộc đảo chánh lật
đổ chế độ thực dân Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Bị tấn công bất ngờ vì chưa hề
hay biết trước, quân pháp thất thế trên khắp cả ba kỳ Nam, Trung, Bắc và chỉ chống
trả một cách yếu ớt rồi đầu hàng ngay trong ngày hôm sau. Toàn thể quan chức đầu
não của Pháp đều bị bắt giam, kể cả Toàn quyền Decoux, một số khác cùng quân
lính phải bỏ chạy thoát thân sang Lào hoặc Trung Quốc.
Việc đảo chánh, Nhật đã chuẩn bị kỹ sẵn trước, nên chỉ từ 9
giờ tối hôm trước đến 8 giờ sáng hôm sau, toàn cõi Việt Nam rơi vào tay Nhật, cả
thực dân Pháp và thường dân, công chức đều bất ngờ. Tình cảnh của họ lúc đó lao
đao, nhưng nhờ tính rộng lượng cố hữu của người dân Việt, nên cũng không đến đỗi
quá bi thảm: “…Các nhà chuyên môn Pháp được tiếp tục làm việc… Một vài kĩ sư
Pháp mon men tới sở, bị đánh… Sau tôi nghe nói một số người Pháp ở miền Tây trốn
vào bưng, không bị dân chúng đánh đập, giam giữ, tố cáo; có người còn giúp đỡ
lương thực, che chở cho họ nữa. Ở Nam này như vậy, mà có lẽ ở Bắc, Trung cũng
không khác mấy…. Có người bảo người Việt nào cũng có một ông Phật ở trong lòng,
câu ấy đúng” (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn Học, 1993, tr. 233-234).
Ngày 10.3.1945, lúc 11 giờ, Đại sứ Nhật ở Huế là Masayuki
Yokoyama vào gặp vua Bảo Đại giải thích tình hình, tuyên bố “trao trả độc lập
cho Việt Nam để cùng nhau xây dựng khối Đại Đông Á thịnh vượng”, đề nghị vua ra
tuyên bố độc lập và chuẩn bị thành lập chính phủ mới trên cơ sở hợp tác dưới sự
bảo trợ của Nhật.
Ngay hôm sau, ngày 11. 3.1945, triều đình Huế tuyên bố bãi bỏ
Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, nước Việt Nam được quyền thu hồi độc lập
(dưới bản tuyên bố ký tên vua Bảo Đại cùng toàn thể Cơ mật viện, đứng đầu là
Thượng thư Bộ Lại Phạm Quỳnh).
Tờ chiếu tuyên bố độc lập có đoạn viết: “Theo tình hình thế
giới nói chung và hiện tình Á châu, chính phủ Việt Nam long trọng công bố rằng:
Kể từ ngày hôm nay, Hòa ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp được hủy bỏ và vô hiệu
hóa. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một Quốc gia độc lập!”
Ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và một vài thành phố lớn, do sự sách động
của các nhóm thân Nhật, một số người xuống đường rầm rộ để tri ân quân đội Nhật
hoàng, nhưng quảng đại quần chúng thì đều tỏ vẻ thờ ơ lạnh nhạt với phong trào
“độc lập” do Kempeitai (Hiến binh) và quân đội Nhật dựng nên. Ngày 17.3.1945, ở
các hương thôn, lý trưởng được lệnh tổ chức dân chúng mừng ngày độc lập tại các
đình làng: “Cửa đình mở rộng, trước sân đình có cờ, chuông, trống, như ngày
cúng Thần. Hội đồng xã chỉ lưa thưa có mấy ông. Dân chúng chẳng ai đến cả, trừ
một số chức việc có phận sự trong làng. Đến giờ, chuông trống nổi dậy, hương xã
làm lễ tế Thần. Lý trưởng đọc lời ‘tuyên cáo độc lập’. Y như một bài văn tế.
Xong, chiêng trống tiếp tục và buổi lễ chấm dứt không đầy 30 phút. Không một tiếng
vỗ tay. Không một lời hoan hô. Các ông làng xã, khăn đen áo dài khệ nệ như
trong các đám cúng Thần theo nghi lễ cổ truyền, lặng lẽ đóng cửa đình sau khi dọn
dẹp” (Nguyễn Vỹ, Tuấn chàng trai nước Việt, Quyển II, Sài Gòn, 1970, tr.
513).
Cũng trong ngày 17.3.1945, Bảo Đại ban bố Đạo dụ số 1 theo đó
nhà vua sẽ đích thân cầm quyền và chế độ chính trị mới sẽ quản lý đất nước theo
khẩu hiệu “Dân vi quý” (dân trên hết), chỉnh đốn lại quốc gia, đồng thời kêu gọi
các bậc hiền tài ra giúp nước.
Ngày 18.3.1945, biểu tình lớn tại Sài Gòn để mừng độc lập, cảm
ơn Nhật, và đón rước di hài nhà cách mạng Dương Bá Trạc đưa từ Chiêu Nam
(Singapour) về (theo Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua 1945-1964-Việc từng ngày,
Nam Chi Tùng Thư, Sài Gòn, 1966, tr. 5).
Một ngày sau, giải tán Cơ mật viện gồm 6 quan chức tối cao của
triều đình nhà Nguyễn do Phạm Quỳnh đứng đầu.
Để chuẩn bị nội các mới, Bảo Đại hai lần gởi điện vào Sài Gòn
mời Ngô Đình Diệm ra Huế, nhưng cả hai bức điện đều bị tình báo Nhật cố ý ngăn
chặn, nêu giả lý do Ngô Đình Diệm cáo bệnh không ra Huế được, vì thật ra phương
án sắp đặt cho hoàng thân Cường Để (1882-1951) lên ngôi vua và Ngô Đình Diệm
(1901-1963) giữ chức thủ tướng trước đó không lâu đã bị giới lãnh đạo quân sự
Nhật hủy bỏ, do không muốn gây nhiều xáo trộn, để thay vào bằng kế hoạch Bảo Đại-Trần
Trọng Kim cũng được chuẩn bị sẵn từ hơn một năm trước.
Ngày 30.3.1945, Nhật cho người bố trí đưa Trần Trọng Kim từ
Băng Cốc về Sài Gòn, lấy cớ Tư lệnh bộ ở Sài Gòn mời về để “hỏi việc gì về lịch
sử” (Trần Trọng Kim, sđd., tr. 42). Đến nơi viên trung tướng tham mưu trưởng
thuộc Bộ tư lệnh Nhật mới cho hay Phạm Quỳnh và các thượng thư cũ đã từ chức,
vua Bảo Đại mời ông cùng với các ông Hoàng Trọng Phu, Vũ Ngọc Oánh, Trịnh Bá
Bích, Hoàng Xuân Hãn, Cao Xuân Cẩm về Huế hỏi ý kiến.
Thấy tên mình mà không có tên Ngô Đình Diệm, Trần Trọng Kim hỏi
viên trung tướng: “Tôi không có hoạt động gì, và không có phe đảng nào cả. Gọi
tôi về Huế không có ích lợi gì. Xin cho tôi ra Hà Nội thăm nhà và uống thuốc”.
Viên trung tướng trả lời: “Đó là ý của vua Bảo Đại muốn hỏi ông về việc lập
chính phủ mới, ông cứ ra Huế rồi sẽ biết” (sđd., tr. 43).
Ngày 2.4.1945, Nhật bố trí cho Trần Trọng Kim đáp xe lửa ra
Huế. 19 giờ rưỡi ngày 5.4 xe lửa đến Huế, lát sau ông đã được gặp lại vợ con có
sẵn ở đó, nói là đang trên đường ra Hà Nội định xin phép qua Xiêm tìm ông,
nhưng sự tình cờ kỳ lạ này đã khiến có người suy diễn nhiều khả năng chính người
Nhật đã sắp đặt sẵn sao đó.
Những thay đổi giai đoạn cuối trong sự sắp xếp nhân sự cho bộ
máy cai trị mới này, cả Bảo Đại, Cường Để, Ngô Đình Diệm đều không hay biết.
Duy Trần Trọng Kim có được người Nhật rỉ tai riêng cho biết hay không thì đây vẫn
còn là một điểm nghi vấn, vì không thấy ông hé môi kể ra trong tập hồi ký,
nhưng khả năng này là rất lớn, vì từ hôm ở Băng Cốc về Sài Gòn, chiều nào viên
đại úy ở Bộ tư lệnh Nhật cũng mời ông đến ăn cơm và nói chuyện, có khi nói chuyện
đến một hai giờ khuya. “Mấy ngày như thế, đến chiều hôm mùng hai tháng tư, đại
úy đưa tôi ra xe lửa còn ngồi nói chuyện đến lúc xe chạy” (Trần Trọng Kim,
sđd., tr. 46).
Ngày 7.4.1945, Trần Trọng Kim vào yết kiến Bảo Đại. Theo như
lời kể của ông trong tập hồi ký thì ông tìm cớ thoái thác việc đứng ra lập
chính phủ, lấy lý do già yếu, không có đảng phái và không hoạt động chính trị,
rồi đề nghị dùng “người đã dự định từ trước, như Ngô Đình Diệm chẳng hạn”
(sđd., tr. 49) nhưng Bảo Đại cho hay đã gọi mà không thấy Ngô Đình Diệm về. Nhà
vua không ép, chỉ yêu cầu ông ở lại Huế nghỉ ít lâu, xem thế nào rồi hãy ra Bắc.
Có lẽ lúc này vua vẫn còn tiếp tục ngóng tin Ngô Đình Diệm, đâu có dè rằng kịch
bản Cường Để-Diệm đã bị cánh tướng lãnh Nhật bác bỏ, nên tìm cách ngăn chặn hai
bức điện liên lạc của Bảo Đại, giữa lúc ông Diệm đang ở Sài Gòn trong một tâm
trạng đợi chờ thấp thỏm!
Đợi tin Ngô Đình Diệm lâu không được, Bảo Đại sốt ruột quyết
định mời Trần Trọng Kim vào làm việc lần thứ hai, thuyết phục thành lập nội
các. Xin trích tiếp đoạn hồi ký, qua đó vừa thấy được nội dung cuộc trao đổi giữa
hai người, vừa luôn thể biết qua thành phần nội các do ông Trần đề nghị và được
Bảo Đại chuẩn y ngay:
“Vua Bảo Ðại thấy tình thế kéo dài mãi cũng sốt ruột, triệu
tôi vào bảo tôi chịu khó lập chính phủ mới.
“Ngài nói:
“Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa
phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu
không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị
theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành
một chính phủ để lo việc nước”.
Tôi thấy vua Bảo Ðại thông minh và am hiểu tình thế, liền tâu
rằng:
“Nếu vì quyền lợi riêng tôi không dám nhận chức gì cả, xong
ngài nói vì nghĩa vụ đối với nước, thì dù sao tôi cũng cố hết sức. Vậy xin ngài
cho tôi vài ngày để tôi tìm người, hễ có thể được tôi xin tâu lại.
“Tôi ra bàn với ông Hoàng Xuân Hãn để tìm người xứng đáng làm
bộ trưởng. Nguyên tắc của tôi định trước là lựa chọn những người có đủ hai điều
kiện. Một: phải có đủ học thức và tư tưởng về mặt chính trị, hai: phải có đức hạnh
chắc chắn để dân chúng kính phục…
“Có một điều nên nói cho rõ, là trong khi tôi chọn người lập
chính phủ lúc ấy, người Nhật Bản không bao giờ hỏi tôi chọn người này người
kia. Tôi được hoàn toàn tự chủ tìm lấy người mà làm việc. Và tôi đã định từ trước
rằng nếu người Nhật can thiệp vào việc trong nước thì tôi thôi ngay, không làm
nữa.
Ðến ngày cuối cùng tôi chọn được đủ người rồi kê rõ danh sách
các bộ trưởng như sau:
– Trần Trọng Kim, giáo sư, Nội các Tổng trưởng
– Trần Ðình Nam, y sĩ, Nội vụ Bộ trưởng
– Trần Văn Chương, luật sư, Ngoại giao Bộ trưởng
– Trịnh Ðình Thảo, luật sư, Tư pháp Bộ trưởng
– Hoàng Xuân Hãn, toán học thạc sĩ, Giáo dục và Mỹ nghệ Bộ
trưởng
– Vũ Văn Hiền, luật sư, Tài chánh Bộ trưởng
– Phan Anh, luật sư, Thanh niên Bộ trưởng
– Lưu Văn Lang, kỹ sư, Công chính Bộ trưởng
– Vũ Ngọc Anh, y khoa bác sĩ, Y tế Bộ trưởng
– Hồ Bá Khanh, y khoa bác sĩ, Kinh tế Bộ trưởng
– Nguyễn Hữu Thí, cựu y sĩ, Tiếp tế Bộ trưởng.
“Chừng mười giờ sáng ngày 17 tháng tư năm 1945, tôi đem danh
sách ấy vào trình vua Bảo Ðại. Vào đến nơi, tôi thấy ông Yokohama, tối cao cố vấn
Nhật, đã ngồi đó rồi. Ông thấy tôi vào liền hỏi: “Cụ đã lập thành chính phủ rồi
à?”. Tôi nói: “Vâng, hôm nay tôi đem danh sách các bộ trưởng vào tâu trình
hoàng thượng để ngài chuẩn y”.
“Tôi đệ trình vua Bảo Ðại, ngài xem xong phán rằng: “Ðược”.
Khi ấy ông Yokohama nói: “Xin cho tôi xem là những ai”. Ông xem rồi, trả lại
tôi và nói: “Tôi chúc mừng cụ đã chọn được người rất đứng đắn”. Sự thực là thế,
chứ không như người ta đã tưởng tượng là người Nhật Bản bắt tôi phải dùng những
người của họ đã định trước” (sđd., tr. 50-53).
Ngoài các bộ trưởng đã nêu trong danh sách, bộ máy chính phủ
Trần Trọng Kim còn lần được bổ sung, gồm có:
– Phan Kế Toại (1892-1992), Tổng đốc, Khâm sai Bắc Bộ (sau giữ
chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Nội vụ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa)
– Nguyễn Văn Sâm, Nhà báo, Khâm sai Nam Bộ (được cử theo Đạo
dụ 108 ngày 14.8.1945, sau bị ám sát ngày 10.10. 1947)
– Trần Văn Lai, Bác sĩ, Đốc lý Hà Nội (sau giữ chức Phó Chủ tịch
Ủy ban hành chính TP Hà Nội)
– Đặng Văn Hướng (1887-1954), Phó bảng, Tổng đốc Nghệ An (sau
giữ chức Quốc vụ khanh đặc trách công tác ở 3 tỉnh Thanh-Tĩnh của Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa)
– Vũ Trọng Khánh (1912-1996), Luật sư, Đốc lý Hải Phòng (sau
giữ chức Bộ trưởng Tư pháp đầu tiên của Chính phủ Lâm thời)
– Kha Vạng Cân (1908-1982), Kỹ sư, Đô trưởng Sài Gòn (sau giữ
chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)
Qua sự trình bày ở trên, có thể thấy ngày càng rõ hơn việc
đưa Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các cho Bảo Đại trước sau đều do người Nhật
đạo diễn một cách khéo léo để dẫn dụ Trần Trọng Kim vào “tròng”. Được cái, cả họ
và vua Bảo Đại đều không can thiệp sâu theo kiểu cơ cấu sẵn các thành phần nhân
sự cấp bộ trưởng, như lối quy hoạch, cơ cấu nhân sự chặt chẽ bây giờ. Nhờ vậy
Trần Trọng Kim đã có được sự chủ động trong việc tìm chọn nhân tài thích hợp
theo quan niệm của mình.
Tuy nhiên, theo luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1986), một
thành viên chủ chốt của Nội các, Trần Trọng Kim “không tin ở sự thành thật của
nhà cầm quyền người Nhật và lo ngại bị lôi cuốn vào những biến cố có hại cho
tương lai xứ sở”, nhưng ông Trịnh đã thuyết phục được ông Kim nhận lời yêu cầu
của Bảo Đại với lý do “phải gấp rút thành lập chính phủ Việt Nam độc lập để đặt
các lực lượng Đồng minh, nhất là Pháp, trước một tình trạng pháp lý không thể đảo
ngược bằng lời tuyên cáo hủy bỏ các hiệp ước bảo hộ…, tuyên cáo Việt Nam độc lập
và thống nhất”. Ngoài ra ông Thảo còn cho biết Trần Trọng Kim đã được một chính
khách Thái Lan là cựu Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan Pridi Banomyong chia sẻ
kinh nghiệm “bắt cá hai tay” (jouer sur les deux tableaux) để có thể tồn tại
như Thái Lan, đại khái bằng cách song song với phe thân Nhật, Thái Lan cần dự bị
sẵn một lực lượng chính trị khác hợp tác với Đồng minh để tránh cho Thái Lan bị
liệt vào phe thua trận khi Thế chiến II kết thúc. Vị chính khách này còn khuyên
Trần Trọng Kim “hãy nắm lấy độc lập mà không theo Nhật” (Trịnh Đình Khải, Décolonisation
du Vietnam: Un Avocat Témoigne, Paris, 1994, tr.62, dẫn lại theo Lê Xuân
Khoa, Việt Nam 1945-1995, Tiên Rồng, USA, 2004, tr. 52-53).
Nói gì thì nói, về mặt lịch sử, vẫn phải công nhận Nội các vừa
thành lập ngày 17.4.1945 là chính phủ đầu tiên của Việt Nam theo nghĩa hiện đại,
và Trần Trọng Kimđã trở thành vị Thủ tướng đầu tiên của nước Việt Nam độc lập,
dù chỉ mới độc lập trên danh nghĩa. Tham gia Nội các của ông đều là các nhà trí
thức tên tuổi, có trình độ học vấn cao, nhiệt tâm, trong sạch và yêu nước,
nhưng tất cả đều thiếu hẳn kinh nghiệm quản lý và nhất là sự lọc lõi chính trị
trong thời loạn.
“Trừ Thủ tướng Trần Trọng Kim, chỉ có bằng cấp Trung học, chư
quý vị bộ trưởng toàn có những bằng cấp to lớn: nào thạc sĩ bác sĩ, tiến sĩ luật
khoa v.v. cả. Người dân Việt mừng thầm khi đọc danh sách nội các… Nhưng…” (Bùi
Nhung, Thối nát, Sài Gòn, 1965, tr. 50).
Về thái độ của quần chúng trước việc thành lập nội các mới,
nhìn chung các thành phần trí thức (gồm cả sinh viên học sinh) đều nao nức phấn
khởi đón luồng gió mới, một số khác dè dặt chờ đợi, vì thấy vẫn còn lệ thuộc Nhật.
Nhóm Thanh Nghị đứng đầu là Vũ Đình Hòe thậm chí từ ngày 20.4.1945
còn có hẳn một chương trình riêng gọi là TÂN VIỆT NAM HỘI để ủng hộ Chính phủ
(xem Hồi ký Vũ Đình Hòe, NXB Hội Nhà Văn, 2004, tr. 166-167).
Phấn khởi tiếp đón nền độc lập bán phần vừa vớ được, ông Nguyễn
Duy Phương còn cho ra hẳn một tập sách mỏng chuyên đề lấy tên Lịch sử độc
lập và Nội các đầu tiên Việt Nam, do Việt Đông Xuất Bản Cục xuất bản tại Hà Nội
khoảng nửa tháng sau khi Nội các thành lập, để bày tỏ sự ủng hộ tích cực, bằng
cách trích đăng khá đầy đủ và hệ thống những tin tức, bài phỏng vấn các vị bộ
trưởng liên quan các mặt hoạt động cùng chủ trương mới của Nội các, với lời hô
hào nêu rõ: “Chỉ hợp quần mới gây nên sức mạnh… Chúng ta hãy đem hết tài năng
sĩ, nông, công, thương ra thực dụng. Để giải quyết những vấn đề quan trọng, để
tiếp tế, cứu tế cho đỡ nỗi thống khổ đồng bào nghèo đói! Và để giữ vững đất đai
thế nào là độc lập của Việt Nam một cách bất diệt”*.
Một số đảng phái quốc gia như Đại Việt (ở Hà Nội), Phục Quốc,
Việt Nam Quốc Gia Độc Lập (ở Sài Gòn), Tân Việt Nam (ở Huế) đều ủng hộ Nội các
Trần Trọng Kim và được Nhật khuyến khích.
Riêng dân chúng ở các vùng nông thôn thì vẫn thờ ơ với chính
trị.
Thế rồi đến ngày 8.5.1945, Nội các Trần Trọng Kim mới chính
thức tổ chức lễ ra mắt quốc dân tại Dinh Tổng trưởng (tòa Khâm sứ Trung Kỳ cũ).
Đầu tiên đọc bản Tuyên chiếu của Hoàng đế Bảo Đại về việc thành lập Nội các: “Trẫm
đã lựa chọn khắp nhân tài trong nước, kén lấy những người có học thức, có kinh
nghiệm để đương việc nước trong buổi bây giờ. Trẫm chắc rằng chư khanh sẽ làm
chức vụ không phụ lòng trẫm ủy thác và lòng dân kỳ vọng. Điều cần nhất là phải
gây sự đồng tâm hiệp lực trong toàn thể quốc dân. Phải đoàn kết chặt chẽ các
giai từng xã hội và luôn luôn giữ một mối liên lạc giữa chính phủ và nhân dân
(…)” (Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam máu lửa, NXB Mai Lĩnh, Sài Gòn, 1954, tr.
24).
Sau đó, Nội các đưa ra bản tuyên cáo khẳng định nền độc lập mới
có được sau 80 năm bị Pháp áp chế, cám ơn Nhật Bản đã ra tay “giải phóng”, kêu
gọi quốc dân ra sức đoàn kết, gây mạnh tinh thần yêu nước trong mọi giai tầng
xã hội, “tìm mọi cách để các chính khách còn phiêu lưu được trở về tổ quốc, xóa
bỏ những hình án bất công, để những người ái quốc còn bị giam cầm trong lao ngục
có thể tùy tài sức mà tham dự vào công cuộc kiến thiết quốc gia”; chăm lo việc
cứu đói, định lại thuế khóa cho công bằng; đặt những cơ quan để liên lạc mật
thiết giữa chánh phủ với dân chúng; thống nhất pháp luật trong toàn quốc và
tránh sự lạm quyền, tiệt trừ nạn tham nhũng; rèn luyện lớp thanh niên mới có
khí khái có nghề nghiệp; chú trọng nâng cao trình độ sinh hoạt của dân chúng. “Chúng
tôi xin tuyên thệ với quốc dân đem hết tâm trí để theo đuổi mục đích duy nhất
là xây đắp nền độc lập nước nhà, không tư vị cá nhân hay đảng phái. Chúng tôi
chắc rằng mọi người trong quốc dân cũng một lòng vì nước, giữ thái độ bình tĩnh
và tuân theo kỷ luật, để làm hết phận sự. Mong nền móng xây đắp được vững vàng
để cơ đồ nước Việt Nam ta muôn đời trường cửu” (nguyên văn bản tuyên cáo này có
in trong phần phụ lục Một cơn gió bụi, sđd., tr. 192-195).
Kế hoạch đặt ra đầy hứa hẹn. Tuy nhiên, Chính phủ Trần Trọng
Kim tiếp quản bộ máy cai trị của Pháp, thông qua sự thu xếp bàn giao lại của Nhật,
đã hoạt động trong những điều kiện vô cùng khó khăn. Theo nhà sử học Pháp
Philippe Devillers, có hai điểm trở lực căn bản nhất, đó là sự thiếu chín muồi
về chính trị của dân chúng và quyền ngăn cấm của người Nhật: “Quyền cấm cố của
Nhật là rất nặng nề, cả về kế hoạch chính trị lẫn kế hoạch kinh tế và quân sự”
(Histoire du Viêt Nam de 1940 à 1952, Éditions du Seuil,1952, tr. 128). Ngoài
ra, còn nhiều nỗi khó khăn cụ thể và trực tiếp khác: bộ máy quan lại thực dân nửa
phong kiến đã thối nát quá lâu; nạn đói khủng khiếp ở miền Bắc từ tháng 3.1945
vì mất mùa và một phần quan trọng vì chính sách nông nghiệp thời chiến do
Pháp-Nhật gây ra làm cả triệu người chết, thây phơi đầy đường; bom đạn do quân
Đồng minh Anh, Mỹ đổ xuống phá nát các cơ sở hạ tầng làm cho công tác cứu đói của
Bộ Tiếp tế càng trở nên khó khăn trầy trật; Nhật ngày càng thua đậm trong trận
Thế chiến (nhất là sau hai lần bị ném bom nguyên tử trong các ngày 6 và
8.8.1945); Pháp lăm le tái chiếm Đông Dương bằng mọi giá; thiếu sự hậu thuẫn
tinh thần của quảng đại quần chúng, trong khi đó, hoạt động của Việt Minh, được
chuẩn bị từ lâu và một cách khéo léo, có sách lược hẳn hoi, đang ngày càng tăng
mạnh với chủ trương đánh đổ cả Pháp-Nhật lẫn chính quyền phong kiến giành độc lập,
được nhân dân nhiều nơi trên khắp cả ba miền đất nước hưởng ứng. Nội các Trần
Trọng Kim lâm vào thế bị động và ngày càng lúng túng, phải chấp nhận từ chức,
tiếp theo là việc thoái vị của cả vua Bảo Đại vì áp lực của cao trào cách mạng.
Theo Những ngày chưa quên của Đoàn Thêm (Nam Chi
Tùng Thư, Sài Gòn, 1967, tr. 42): “Chánh phủ Trần Trọng Kim lập xong chưa được
bao lâu, thì niềm hi vọng của nhiều người, chứa chan sau ngày 9.3.1945, đã nhường
chỗ cho sự hoang mang và lo ngại. Vì thời cuộc biến chuyển dồn dập ở khắp nơi,
và những tin tức gây xúc động mạnh, dù bị quân đội Nhật kiểm duyệt, cũng vẫn
lan tràn mau lẹ”.
Liên quan việc Nội các Trần Trọng Kim từ chức, cả hai tài liệu Một
cơn gió bụi của Trần Trọng Kim và Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt
Bắc của Phạm Khắc Hòe (NXB Hà Nội, 1983) đều phản ảnh những thông tin cơ bản
giống nhau, chỉ khác nhau về một số chi tiết và ngày tháng. Đại khái, trước những
diễn biến phức tạp của thời cuộc và xu hướng quần chúng-trí thức ngã theo Việt
Minh, nội bộ Chính phủ Trần Trọng Kim đã bắt đầu có những dấu hiệu phân hóa về
sự lựa chọn chủ trương, đường lối.
Được biết, trong khoảng thời gian này, Vũ Đình Hòe
(1912-2011), người đứng đầu nhóm Thanh Nghị, cùng chí hướng với hai bộ trưởng
Vũ Văn Hiền và Phan Anh(1912-1990), ban đầu rất tích cực ủng hộ Chính phủ Bảo Đại-Trần
Trọng Kim, nay thấy không ổn, bắt đầu có những cuộc tiếp xúc với người của Việt
Minh, thậm chí còn được đại diện của Việt Minh là Dương Đức Hiền (1916-1963) kết
nạp vào Đảng Dân chủ. Trong tập Hồi ký Vũ Đình Hòe (NXB Hội Nhà Văn,
2004), ông cho biết: “Trước ngày 17 [tháng 6.1945] tôi đã gặp hai anh Phan Anh
và Vũ Văn Hiền, trao đổi nhận định về tình hình. Tôi cho hai anh biết tâm trạng
của anh em trí thức ngoài Bắc giảm sút lòng tin đối với Chính phủ [Trần Trọng
Kim], một số coi như Chính phủ bất lực rồi, còn dân chúng thì số đông ở thành
phố trước sau vẫn thờ ơ, một số dân quê ngày càng đông ngưỡng mộ Việt Minh. Tôi
thành thực thổ lộ với hai anh có lẽ nên dự bị ‘một hướng suy nghĩ khác’ cho kịp
thời chuyển” (tr. 183).
Trong một cuộc họp Nội các (Phạm Khắc Hòe nói ngày 3.8.1945) ở
Dinh Tổng trưởng, cả ba bộ trưởng Hồ Tá Khanh (1908-1996), Trần Đình Nam
(1896-1974), Nguyễn Hữu Thí đều đề nghị Nội các nên rút lui để nhường quyền
lãnh đạo cho Mặt trận Việt Minh càng sớm càng tốt, may ra mới cứu được đất nước.
Nội dung đề nghị này, cả ông Hòe lẫn ông Kim đều trình bày giống nhau trong tập
hồi ký của mỗi người. Nhưng về phản ứng của Nội các Tổng trưởng trước đề nghị
rút lui, mỗi người lại kể khác nhau.
Theo sự mô tả của Phạm Khắc Hòe thì ông Kim tỏ vẻ gay gắt,
trách các bộ trưởng thiếu trách nhiệm, không khí buổi họp trở nên căng thẳng
(Phạm Khắc Hòe, sđd., tr. 45), còn Trần Trọng Kim trong tập hồi ký của mình chỉ
nói: “Sự tôi thôi, thì tôi đã dự định rồi nhưng để lấy lại đất Nam Bộ cho trọn
công việc của mình, tôi thôi ngay” (sđd., tr. 89).
Cuộc họp phải tạm dừng. Hai ngày sau, 5.8.1945, toàn thể Nội
các dâng lên vua tờ phiến xin từ chức. Ngày 6.8.1945, Bảo Đại chấp nhận đơn từ
chức, nhưng yêu cầu tạm ở lại làm việc, chờ tìm người lập nội các mới. Trần Trọng
Kim tìm cách liên lạc với những người có đảng phái như Ngô Đình Diệm, Nguyễn
Xuân Chữ, Lê Toàn, Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường, Đặng Thai Mai… mời ra Huế lập nội
các mới nhưng sau một tuần lễ không thấy ai hưởng ứng, mà theo ông Kim tâu lại
với Bảo Đại là do những người ông mời đều rất cách mạng, rất tả, và vì điều này
không làm vừa lòng người Nhật nên họ đã chặn điện lại. Trong khi chờ đợi, ngày
12.8.1945, Bảo Đại ra đạo dụ đổi nội các từ chức thành nội các lâm thời, làm việc
chỉ được mấy ngày thì Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện (14.8.1945). Tình thế
bức bách, thế lực của Nhật coi như tan rã, Đồng minh mạnh lên, chủ trương vận động
vua Bảo Đại thoái vị của Việt Minh thông qua đầu mối liên lạc của Tôn Quang Phiệt
(1900-1973) được Đổng lý Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hòe tích cực ủng hộ, và theo
đề xuất của Trần Đình Nam, một cuộc họp khẩn cấp nội các đã được triệu tập sáng
ngày 17.8.1945 do vua đích thân chủ tọa.
Nhóm Trần Đình Nam, Hồ Tá Khanh đề nghị Nội các rút lui, vua
Bảo Đại thoái vị, toàn dân đoàn kết chặt chẽ chung quanh tổ chức mạnh nhất,
hăng hái nhất là Việt Minh để bảo vệ nền độc lập. Theo Phạm Khắc Hòe kể trong hồi
ký thì Trần Trọng Kim phản ứng, một cuộc tranh luận sôi nổi dấy lên, cuối cùng
thống nhất ý kiến với bộ trưởng Vũ Văn Hiền (1911-1963), đề nghị tạm thời vẫn
giữ chính thể quân chủ với vua Bảo Đại nhưng giao cho Việt Minh tổ chức nội
các, thể hiện trong Đạo dụ số 105 được Phạm Khắc Hòe soạn thảo ngay sau đó,
trong giờ giải lao 15 phút.
Trước cuộc họp, Phạm Khắc Hòe được sự ủng hộ của Trần Đình
Nam đã chuẩn bị sẵn một bản dự thảo theo đó khẳng định tư cách và ý chí độc lập
của dân tộc, kêu gọi mọi người ái quốc ra phò vua giúp nước, và động viên tinh
thần hi sinh của Hoàng đế. Khi bản dự thảo được vua Bảo Đại cho phép đọc lên,
Trần Trọng Kim phản ứng về việc hi sinh của Hoàng đế, cho là ép vua quá, trong
khi đó Phan Anh phát biểu dung hòa, nói để cho vua tự suy nghĩ quyết định. Bảo
Đại yêu cầu đọc lại đoạn “hi sinh của Hoàng đế” nêu trong bản dự thảo để nghe
cho rõ hơn, nghe xong vua đồng ý, giao cho Văn phòng (tức cho Phạm Khắc Hòe)
làm văn bản để chiều ký. Văn bản này tạm gọi là “Chiếu động viên quốc dân” mà Bảo
Đại đã ký ngay vào 4 giờ chiều hôm đó (17.8.1945) sau vài phút do dự và “một
cái nhún vai nhè nhẹ”, trong có đoạn: “Cuộc chiến tranh thế giới đã kết liễu…
Trước tình thế quốc tế hiện thời, trẫm muốn mau có nội các mới… Muốn củng cố nền
độc lập của nước nhà và bảo vệ quyền lợi của dân tộc, trẫm sẵn sàn hi sinh về tất
cả các phương diện. Trẫm để hạnh phúc của nhân dân Việt Nam lên trên ngai vàng
của trẫm. Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ. Trẫm chắc
rằng toàn thể quốc dân cùng một lòng hi sinh như trẫm” (Trần Trọng Kim, sđd.,
tr. 195-196; Phạm Khắc Hòe có dẫn lại trong Từ triều đình Huế…, tr.
58-59).
Trong một diễn biến khác, ngày 19.8.1945 khi thấy tình thế đã
nguy ngập đến nơi, “chỉ còn cách lui đi là phải hơn cả”, đến lượt Trần Trọng
Kim cũng vào gặp vua, dẫn gương của vua Louis bên Pháp và vua Nicolas II bên
Nga, đốc thúc Bảo Đại phải thoái vị ngay không nên chần chừ (Trần Trọng Kim,
sđd., tr. 92).
Đến giờ phút này, cả Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Phạm Khắc Hòe
và phần lớn thành viên trong Nội các vẫn còn mơ hồ, chưa biết rõ lãnh tụ Việt
Minh là ai.
Với vai trò đã bí mật nhận với Việt Minh (thông qua Tôn Quang
Phiệt), Phạm Khắc Hòe tiếp tục tìm mọi phương tiện khéo léo vận động Bảo Đại
thoái vị, bằng cách luôn báo cáo với vua về những cuộc biểu tình của quần chúng
đả đảo phát-xít, ủng hộ Việt Minh, về huyền thoại dân gian “thánh Nguyễn Ái Quốc”
ra đời ở đất Nam Đàn… để khuyên nhà vua nên rút lui. Cuối cùng Hoàng đế đồng ý
nói: “Nếu quả người cầm đầu Việt Minh là ‘Thánh Nguyễn Ái Quốc’ thì tôi sẵn
sàng thoái vị ngay” (Phạm Khắc Hòe, sđd., tr. 62). Nghe xong Phạm Khắc Hòe khấp
khởi vội vã lo soạn chiếu thoái vị, và hoàn tất ngay trong đêm 20.8.1945.
Gần trưa ngày 23.8.1945, Bảo Đại nhận được tối hậu thư của Việt
Minh, dưới đóng dấu “Thành bộ Việt Minh tỉnh Nguyễn Tri Phương” nhưng không có
ai ký tên, đòi nhà vua phải trả chính quyền cho nhân dân và hứa sẽ bảo đảm tính
mạng, tài sản cho hoàng gia, hạn cho nhà vua phải trả lời trước 13 giờ 30 phút
ngày 23.8.1945 và cử ông Phạm Khắc Hòe làm người liên lạc giữa nhà vua và Chính
quyền cách mạng.
Theo đề nghị của Phạm Khắc Hòe, một cuộc họp nội các đã được
triệu tập ngay lập tức vào đúng 12 giờ 25 phút cùng ngày để kịp trả lời Việt
Minh đồng thời góp ý kiến cho dự thảo Chiếu thoái vị do chính ông Hòe khởi thảo.
Cuộc họp do vua chủ tọa, có mặt Trần Trọng Kim, Trần Văn Chương (1898-1986), Trần
Đình Nam, Trịnh Đình Thảo, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Hữu Thí, Phạm Khắc Hòe. Mọi người
đồng ý chấp nhận các điều kiện do Việt Minh đưa ra trong tối hậu thư, còn Chiếu
thoái vị thì chỉ sửa có mấy chữ “nồi da xáo thịt” thành “Nam Bắc phân tranh”.
Tờ chiếu lịch sử đó của Hoàng đế Bảo Đại, vua cuối cùng triều
Nguyễn sau 143 năm trị vì đất nước phong kiến mà hơn một nửa thời gian bị lệ
thuộc Pháp, chính thức đề ngày 25.8.1945. Ông chấp nhận từ bỏ ngôi báu một cách
khá mau lẹ một phần vì muốn đặt lợi ích của quốc dân lên trên, phần khác cũng
do bị áp lực từ nhiều phía và cũng chẳng còn cách nào khác.
Chiều ngày 26.8.1945, trong không khí buồn tẻ chỉ hiện diện
vài người thân cận, vua làm lễ cáo yết Liệt thánh về việc thoái vị ở Thế miếu
là nơi thờ Gia Long và các vua nối tiếp. Các quan văn võ được thông báo trước
nhưng đều không đến dự.
Chiều 30.8.1945, tại cuộc lễ thoái vị được cử hành long trọng
trước Ngọ Môn, Bảo Đại mặc triều phục tuyên độc chính thức Chiếu thoái vị, lời
lẽ chân thực cảm động, với sự có mặt của đại diện Việt Minh gồm các ông Trần
Huy Liệu (Trưởng đoàn), Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận cùng sự chứng kiến của
đám đông hàng vạn dân chúng:
“Vì hạnh phúc của dân tộc Việt Nam,
Vì nền độc lập của Việt Nam,
Để đạt hai mục đích ấy, Trẫm tuyên bố sẵn sàng hi sinh tất cả,
và ước mong rằng sự hi sinh của Trẫm đem lại lợi ích cho Tổ quốc…
Chiếu đà tiến dân chủ đang đẩy mạnh ở miền Bắc nước ta, Trẫm
e ngại rằng một sự tranh chấp giữa miền Bắc với miền Nam khó tránh được, nếu Trẫm
đợi sau cuộc trưng cầu dân ý, để quyết định thoái vị. Trẫm hiểu rằng, nếu có cuộc
tranh chấp đó, đưa cả nước vào sau hỗn loạn đau thương, thì chỉ có lợi cho kẻ
xâm lăng.
Trẫm không thể không ngậm ngùi khi nghĩ đến các tiên đế đã
chiến đấu trên bốn trăm năm để mở mang bờ cõi từ Thuận Hóa đến Hà Tiên. Trẫm không
khỏi tiếc hận là trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm không thể làm gì đem lại lợi
ích đáng kể cho đất nước.
Mặc dù vậy, và vững mạnh trong sự tin tưởng của mình, Trẫm đã
quyết định thoái vị, và Trẫm trao quyền cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa…
Trẫm yêu cầu tân chính phủ lấy tình huynh đệ đối xử với các đảng
phái, các phe nhóm, các đoàn thể đã chiến đấu cho nền độc lập của đất nước, mặc
dù không theo cùng đường hướng dân chủ của mặt trận, như vậy có thể giúp cho họ
được tham gia vào sự kiến thiết đất nước, và chứng tỏ rằng tân chế độ đã được
xây dựng trên tình đoàn kết dứt khoát của toàn thể nhân dân.
Trẫm yêu cầu tất cả các đảng phái, các phe nhóm, tất cả các tầng
lớp xã hội cũng như toàn thể hoàng gia phải đoàn kết chặt chẽ để hậu thuẫn vô
điều kiện cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa, hầu củng cố nền độc lập quốc gia.
Riêng về phần Trẫm, trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm đã trải
qua bao nhiêu cay đắng. Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một
nước bị trị. Từ nay Trẫm lấy làm sung sướng được là dân tự do, trong một nước độc
lập. Trẫm không để cho bất cứ ai được lợi dụng danh nghĩa Trẫm, hay danh nghĩa
hoàng gia để gieo rắc sự chia rẽ trong đồng bào của chúng ta… (chép
theo Con rồng Việt Nam của Bảo Đại, tr. 187-188, có một số câu chữ
khác hơn so với văn bản chép trong Phụ lục hồi ký Một cơn gió bụi của
Trần Trọng Kim).
Đọc xong, vua Bảo Đại trao kiếm vàng và ấn ngọc cho đại diện
Việt Minh là Trần Huy Liệu, biểu thị chấm dứt triều đại phong kiến cuối cùng ở
Việt Nam. Nội các Trần Trọng Kim, mà ba tuần lễ sau cùng đổi gọi Nội các Lâm thời,
coi như cũng chấm dứt nhiệm vụ lịch sử.
Trong hồi ký Con rồng Việt Nam (Hồi ký chính trị
1913-1987, Nguyễn Phước Tộc xuất bản, 1990), cựu hoàng Bảo Đại sau này nhớ lại:
“Bản tuyên ngôn được đọc trong sự yên lặng hoàn toàn. Tôi quan sát các khán giả
đứng hàng đầu. Tất cả các vẻ mặt đều tỏ vẻ ngạc nhiên cùng cực. Nam và nữ đều
ngẩn ngơ. Bản tuyên ngôn thoái vị của tôi như tiếng sét đánh xuống ngang đầu họ.
Họ lặng người đi. Trong một bầu không khí bực dọc, tôi trao nhanh ấn tín, quốc
bảo của hoàng triều cho Trần
Huy Liệu, mà chính ông ta cũng có cảm tưởng như tự trên mây mà lại. Trong khi
tôi hồi cung, đám đông tan rã, không một tiếng kêu” (tr. 188).
Ngày 2.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập,
chấm dứt chế độ phong kiến, khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Về phần Nội các Trần Trọng Kim, mặc dù chỉ tồn tại trong thời
gian chưa đầy 4 tháng (từ 17.4 đến 7.8.1945, nếu tính đến 23.8.1945 khi quyết định
xong Chiếu thoái vị thì được 4 tháng 6 ngày, tổng cộng 126 ngày, tương đương
1/3 năm) và làm việc trong những điều kiện vô cùng khó khăn, nhất là khi vẫn bị
quân đội Nhật kiềm chế mọi mặt, Nội các đã tỏ ra năng nổ, nhiều thiện chí và
cũng đã làm được một số việc đầy ý nghĩa, đáng ghi nhận:
– Tháng 6 năm 1945, đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam (bỏ tên
Đại Nam, Annam); tạm duy trì bài quốc thiều “Đăng đàn cung“; đổi mới quốc kỳ,
thay cờ Long tinh bằng cờ quẻ Ly có nền vàng hình chữ nhật, giữa có hình quẻ Ly
màu đỏ thẫm.
– Bộ Tiếp tế tập trung cao độ lo việc cứu đói nhưng kết quả rất
hạn chế vì phương tiện, nhân lực đều do quân Nhật nắm giữ và nhất là giao thông
đường bộ, đường sắt, đường biển từ Nam ra Bắc đều bị quân Đồng minh cắt đứt.
– Thanh trừng quan tham lại nhũng với kết quả hạn chế, vì thời
gian ít và điều kiện khó khăn trước mắt về nhân sự chưa cho phép làm mạnh.
– Tha thuế thân cho người dân và cho những công chức có thu
nhập thấp. Thực hiện sự công bằng về thuế khóa.
– Chủ trương tăng lương cho tiểu công chức, bỏ các món chi
tiêu huy hoàng vô ích.
– Can thiệp với Nhật để từ ngày 9.8.1945 tổng ân xá các tù
chính trị, kể cả những người cộng sản đã bị Pháp bắt giam tại các nhà lao và
nhà ngục khổ sai. Chủ trương trừng thanh quan lại và bài trừ tệ hối lộ.
– Đấu tranh với Nhật đòi lại các công sở và lấy lại được ba
thành phố nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng và Ðà Nẵng kể từ ngày 20.7.1945.
– Ngày 1.8.1945, Đốc lý Hà Nội Trần Văn Lai cho phá các tượng
Pháp ở Hà Nội vốn biểu trưng cho nền thống trị ngoại bang, như tượng Paul Bert,
Jean Dupuis, Đầm Xòe ở Cửa Nam, Đài kỷ niệm Lính Khố xanh, Khố đỏ.
– Ngày 14.8.1945, tranh thủ lấy lại Nam Kỳ cho triều đình Huế,
thống nhất (về mặt danh nghĩa) đất Nam Kỳ vào đất nước
Việt Nam.
– Chủ trương cho phép thành lập các đảng phái chính trị.
– Về tư pháp, thành lập Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp trên cơ sở
thống nhất xứ sở, các quyền tự do chính trị, tôn giáo và nghiệp đoàn. Đạo luật
tổ chức nghiệp đoàn đầu tiên ở Việt Nam là do chính phủ Trần Trọng Kím soạn thảo
và ban hành ngày 5.7.1945.
– Đổi chương trình học tiếng Pháp ở bậc Tiểu học và Trung học
sang chương trình tiếng Việt, do Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật Hoàng Xuân Hãn
chủ trì biên soạn.
– Hành chánh được cải tổ với việc dùng chữ Việt trong tất cả
các giao dịch của chính phủ ngoại trừ lãnh vực y tế và các văn thư liên lạc với
Pháp hoặc với các công ty người Hoa.
– Bộ trưởng Bộ Thanh niên Phan Anh đã thành lập đoàn Thanh
niên Tiền tuyến, Thanh niên Xã hội. Trường Thanh niên Tiền tuyến đã đào tạo ra
nhiều tướng lĩnh, sĩ quan của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau này.
– Trong giai đoạn tồn tại cuối, nhận thức được trào lưu, tham
gia dàn xếp êm và nhanh chóng việc thoái vị của Bảo Đại để trao quyền lãnh đạo
cho chính quyền cách mạng, tránh một cuộc xung đột đổ máu rất có thể xảy ra nếu
có sự kháng cự.
Nhìn chung, xét trên những điều kiện lịch sử cụ thể, trong vô
vàn khó khăn các mặt, Nội các Trần Trọng Kim dưới sự lãnh đạo đầy thiện chí của
vua Bảo Đại đã đạt được một số thành công nhất định, nhưng tất cả đều dang dở.
Một số việc quan trọng về nội trị, ngoại giao đều rất sáng suốt nhưng chỉ vừa kịp
đưa ra chủ trương thì thời cuộc đã chuyển sang hướng khác.
Trong số những thành tích kể trên, thành tích chói lọi nhất
tiếp tục ảnh hưởng tốt đến các giai đoạn chuyển tiếp và thậm chí đến bây giờ là
chương trình cải cách giáo dục tiếng Việt do Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật
Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) chủ trì biên soạn (quen gọi tắt Chương trình Hoàng
Xuân Hãn), hoàn thành chỉ trong vòng vài tuần lễ, và được đem ra áp dụng ngay ở
miền Trung và miền Bắc (miền Nam vì có sự trở lại của người Pháp nên chương
trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950). Nếu không đủ nhiệt
tâm yêu nước và trình độ vững vàng, trên không có “minh quân” một lòng ủng hộ,
quyết định nhanh, làm sao một chương trình giáo dục quan trọng như vậy có thể
được hoàn thành mau chóng với tốc độ kỷ lục, mà nếu đem so sánh với cách làm việc
luộm thuộm ngày nay, với suốt mấy chục năm chương trình học vẫn chưa ổn định,
chúng ta sẽ thấy có sự khác biệt một trời một vực!
Theo GS Dương Thiệu Tống (1925-2008), so với các chương trình
trung học Việt Nam về sau đó, chương trình Hoàng Xuân Hãn là một chương trình cải
tổ nền trung học Việt Nam sâu rộng nhất, từ việc thay đổi cấu trúc nền trung học
cho đến việc đặt ra những môn học mới, thay đổi nội dung các môn học cũ, nhưng
nó đã được thực hiện trong thời gian ngắn nhất và với số giáo sư tham gia ít ỏi
nhất. Mỗi môn học chỉ có một hoặc hai người soạn thảo cho tất cả các lớp của bậc
trung học từ lớp đệ nhất niên cho đến lớp đệ tam chuyên khoa.
“Từ khi ra đời cho đến khi giải tán để nhường vai trò lịch sử
cho Mặt trận Việt Minh…, nội các Trần Trọng Kim chỉ đứng được 4 tháng, nếu
không làm được nhiều việc vĩ đại nhưng ít nhất phải nhận nội các này đã tỏ ra
có nhiều thiện chí. Tuy nhiên xét về năng lực, ta thấy Nội các này chỉ có thể
thích hợp cho thời bình, do đó ta không lấy làm lạ khi thấy nó lùi bước nhanh
chóng trước sự tiến triển mau lẹ của cao trào Cách mạng năm 1945” (Phạm Văn
Sơn, Việt sử toàn thư, Sài Gòn, 1960, tr. 706).
Nội các Trần Trọng Kim thực tế vẫn nằm dưới sự bảo hộ của
quân đội Nhật chiếm đóng Đông Dương. Chính sách Đại Đông Á, “xây dựng khu vực
thịnh vượng chung” của Nhật trước sau vẫn chỉ là một tên gọi khác cho ách thống
trị mới của quân phiệt Nhật, và Trần Trọng Kim với tính cách một học giả chưa lọc
lõi chính trị đã có lúc nhẹ dạ đặt niềm tin không đúng chỗ.
Về phần cá nhân Trần Trọng Kim, sau khi hoàn toàn rời khỏi chức
vụ cùng với vua Bảo Đại (23.8.1945), ông tạm ở lại Huế khoảng hơn ba tháng
trong cảnh sinh hoạt buồn tẻ chờ thu xếp điều kiện trở ra Hà Nội cuối tháng
11.1945. Trong lương tâm thanh thản vì tự cho mình đã làm hết trách nhiệm, ông
luôn tỏ ra ngậm ngùi thân thế, chán bỏ công danh, và như lời ông nói, “thế là
xong một giấc mộng Nam Kha” (sđd., tr. 98), định bụng già yếu rồi “Không có làm
gì nữa và cũng chẳng đi đâu cả, chỉ vui với mấy quyển sách cổ và mấy người bạn
cũ, trò chuyện tiêu khiển. Tưởng thế là yên, ngờ đâu tình thế phải phiêu lưu lần
nữa” (sđd., tr. 100). Tình thế “phiêu lưu” đó trước nhất là vì cảm thấy “không ở
yên”, như lời ông tâm sự với một bạn vong niên (xem Lãng Nhân, sđd., tr. 87),
và phần khác muốn tránh trước cuộc binh lửa Việt-Pháp dự đoán sắp xảy ra, kết hợp
với mục đích phụ “xem công việc của các nhà cách mạng xưa nay tuyên truyền rầm
rĩ, nếu có thật mà làm được việc gì càng hay, nếu không cũng là một dịp cho ta
ra khỏi cái hoàn cảnh nguy hiểm này” (sđd., tr. 132). Những chi tiết này cho thấy,
Trần Trọng Kim tuy có xu hướng chính cầu an, đã biết ngán ngẫm công danh nhưng
vẫn chưa thật sự “tắt lửa lòng”, mà vẫn còn có ít nhiều dự định chính trị nhưng
chỉ với thái độ cầu âu tiêu cực, được chăng hay chớ.
Thế rồi cuối tháng 5.1946, từ Hà Nội ông đã tìm đường lưu
vong sang Trung Quốc, theo đường bộ Lạng Sơn, có ý muốn liên lạc lại với Bảo Đại
và các nhóm “tòng vong” vì Bảo Đại đã được cử sang đó từ trước hồi tháng 3.1946
dưới danh nghĩa cố vấn cho Chính phủ Lâm thời giao hảo với chính quyền Tưởng Giới
Thạch, nhưng sau đó đi Hồng Kông rồi không về nước.
Theo nhận định của Lãng Nhân, “Tôi biết ông không có ý ‘tòng
vong’ để mưu trở lại chính quyền mà chỉ cốt cho trọn tình nghĩa, và cố vấn cho
những người tâm phúc trong Đại Việt như Đặng Văn Sung, Phan Huy Quát, Nguyễn Hữu
Trí… để thực hiện chính nghĩa quốc gia mà Bảo Đại tượng trưng” (sđd.,tr. 87)
Sau nhiều năm tháng sống thiếu thốn ở Quảng Châu và Hồng
Kông, ngày 6.2.1947, ông trở về Sài Gòn ở tạm nhà luật sư Trịnh Đình Thảo. Người
Pháp cùng cựu hoàng Bảo Đại thu xếp cho ông trở về Sài Gòn lần này là để thăm
dò, vận động thành lập chính phủ mới, nhưng khi về đến, ông nhận ra những lời hứa
hẹn của Pháp đềugiả dối nên quyết định không làm gì.
Về giai đoạn ở Pháp về, ông có kể trong tập hồi ký, và ở một
chỗ khác, kể rõ hơn cho người em trai vợ mình là Bùi Nhung nghe: “Tôi trở về nước
có nhiệm vụ dọ dẫm xem Pháp có thật tình không, nghĩa là có cho Việt Nam tự do,
độc lập thật sự như trong khối thịnh vượng chung của Anh không? (Commonwealth),
Tôi gặp ông Cao ủy ở Sài Gòn. Sau 1 giờ chuyện trò, tôi biết rõ cái dã tâm của
thực dân! Liên hiệp Pháp chỉ là một thứ cũi chó mạ vàng! Ông Cao ủy, lúc tiễn
tôi ra cửa, có nhã ý muốn nhân danh chánh phủ Pháp giúp tôi một số tiền mở nhà
in, để theo đuổi con đường văn hóa. Tôi cám ơn, không nhận. Cũng tiền của dân
Việt Nam chứ tiền đâu của Pháp! Hồi Nhật đầu hàng Đồng minh, các cố vấn Nhật biếu
tôi một lúc cả 5 chục triệu để làm vốn mở mang văn hóa tôi cũng kiếu, huống hồ
của thực dân. Các ông chánh khách tưởng tôi về nắm ghế Thủ tướng, kéo đến chật
căn nhà… Khổ quá, có ông bám sát suốt ngày đêm… Có một ông, ông Luật sư cậu biết
đó, đêm đến kê ghế bố nằm cạnh giường, nói chuyện cả đêm! Mình mất ngủ, mệt phờ.
Tôi đã thú thật với các ông ấy tôi không làm gì cả, các ông không tin!…” (sđd.,
tr. 99-100).
Qua một bức thư mới được phát hiện và công bố gần đây, gởi
cho Hoàng Xuân Hãn, được ông viết từ Sài Gòn đề ngày 8.5. 1947, chúng ta còn biết
chắc thêm nhiều sự thật về những hoạt động và quan điểm chính trị của ông liên
quan đến người Pháp, cựu hoàng Bảo Đại và một số đảng phái quốc gia, vì đây là
bức thư ông viết riêng cho người tâm phúc, không che giấu sự thật: “Tôi xem thư
của ông, nhất là đoạn viết bằng chữ nôm, tôi biết rõ sự tình và tôi đã phiên dịch
ra quốc ngữ, gửi sang để Ngài [tức Bảo Đại] xem…. Cái tình thế nước ta bây giờ,
tôi cũng hiểu đại khái như ông… Tôi sở dĩ về đây là vì Ngài và tôi ở bên ấy,
hoang mang chẳng biết rõ gì cả, nhân có ông Cousseau do ông D’Argenlieu sai
sang gặp Ngài và tôi, nói Pháp sẵn lòng đổi thái độ để cầu hoà bình. Ngài thấy
thế bảo tôi về tận nơi xem thái độ người Pháp có thật không, và nhân tiện xem ý
tứ người Việt ta thế nào. Nếu làm được việc gì ích lợi cho nước và để cho dân đỡ
khổ, thì ta cố làm cho trọn nghĩa vụ của mình, nếu không thì lương tâm ta cũng
yên, vì đã cố hết sức mà không làm được. Tôi về đây hôm 6 tháng hai tây, không
gặp ông D’Argenlieu, vì ông ấy sắp về Pháp. Ông ấy cho người bảo tôi chờ ông ấy
sang sẽ nói chuyện. Tôi có gặp mấy người có chủ nhiệm về việc chính trị, nói
chuyện thì tử tế lắm và đồng ý hết cả. Nhưng xét ra họ nói một đường, làm một nẻo,
toàn là những việc mưu mô lừa dối cả….Tôi xem việc người Pháp làm, không thấy
gì là chân thực. Họ thấy tôi giữ cái thái độ khảng khái không chịu để họ lợi dụng,
họ phao ra rằng tôi nhu nhược và đa nghi không làm được việc. Họ cho những người
Nam thân tín của họ đến nói muốn gặp tôi, tôi từ chối không gặp ai cả….Dù sao,
tôi cũng không ân hận vì việc tôi về đây. Có về đây mới biết rõ sự thực. Biết
rõ sự thực thì cái bụng tôi yên không áy náy như khi ở ngoài kia. Bây giờ tôi
nhất định không làm gì cả. Nếu thời cục yên ổn thì tôi về ngoài Bắc, nếu không
thì xoay xở ở tạm trong này, chờ khi khác sẽ liệu. Còn về phương diện người
mình, thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng nhăng chẳng đâu
vào đâu cả. Ai cũng nói vì lòng ái quốc, nhưng cái lòng ái quốc của họ chỉ ở cửa
miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa vị và quyền lợi, thành ra tranh giành
nhau, nghi kỵ nhau rồi lăng mạ lẫn nhau…. Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó
khăn quá, mà minh thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái địa
vị bàng quan mà thôi… Tôi vẫn biết việc chống với Pháp chỉ có V.M. mới làm nổi…
Nay V.M. đứng vào cái địa vị chống Pháp, tất là có cái thanh thế rất mạnh…. Đó
là ý kiến riêng của tôi, còn các ông nghĩ thế nào tôi không biết…” (theo Nguyễn
Đức Toàn, Viện nghiên cứu Hán Nôm).
Đầu tháng 3.1948, ở tuổi 65, vừa túng thiếu vừa mệt mỏi và bất
lực trước thời cuộc, lại bị đám chính khách cơ hội tối ngày bao vây trong căn
nhà ở đậu chật hẹp của người anh vợ, ông quyết định bỏ Sài Gòn qua Nam Vang
(Phnom Penh, Campuchia) sống với người con gái, cũng trong cảnh nghèo túng.
Trong thời gian này, ông đã tập hợp các bản thảo nhật ký của mình viết thành cuốn
hồi ký Một cơn gió bụi, mà phần kết thúc là nêu lên một số nhận xét về những
chỗ hay dở của phong trào Việt Minh và khẳng định tấm lòng chân thành của ông đối
với dân tộc. Đây là quyển sách chứa được nhiều sử liệu quý hiếm mà ta không thể
tìm thấy bất kỳ ở đâu trong số những tập “chính sử” hiện đại, rất cần được giới
nghiên cứu sử học quan tâm khảo định kỹ vì có thể còn một số chi tiết chưa
chính xác, để viết lại bộ thông sử sau này, nhất là về những sự kiện lịch sử Việt
Nam liên quan giai đoạn 1945-1949.
Tâm trạng ông vào khoảng thời gian tạm trú Nam Vang được ghi
lại ngay trong đầu sách qua hai câu thơ trích dẫn của Đái Thúc Luân (732-789)
thời Đường: Liêu lạc bi tiền sự/ Chi li tiếu thử thân (Quạnh hiu
buồn nỗi trước kia/ Vẩn vơ chuyện vặt, cười khì tấm thân). Và trong đoạn tâm sự
gần cuối tập hồi ký: “Tôi nay già rồi, không còn hăng hái làm được việc gì nữa.
Tôi chỉ mong được yên ổn, để về nghỉ ngơi cho trọn tuổi già, ấy là cái sở nguyện
chân thực của tôi. Vả trong quãng đường tôi vừa đi qua, trải bao những cảnh huống
đau buồn khổ sở, may như Trời Phật cứu giúp, tôi duy trì được đến bây giờ, mà
không trụy lạc vào đâu cả, thật là cái phúc lớn vậy” (sđd. tr. 185).
Lãng Nhân kể: “Vốn là người nho nhã phác thực và chân thành,
khi không bị lôi cuốn vào trường chính trị, phải đối phó với một canh bạc thò
lò sáu mặt, không thích ứng với lòng mình, nên mỗi khi nhàn thoại ông hay mân
mê điếu thuốc lá vấn tay, chặc lưỡi một đường triết lý: Nghĩ cho cùng, ở đời chẳng
cái đếch gì ra cái đếch gì…” (sđd., tr. 67).
Ít lâu sau ông trở về Việt Nam, rồi thuê nhà định cư tại Hà Nội.
Sau khi do lời mời của Quốc trưởng Bảo Đại về Sài Gòn dự Đại
hội đồng Quốc gia (còn gọi “Quốc dân đại hội”) từ ngày 6.9.1953, được bầu làm
Chủ tịch Chủ tịch đoàn nhưng chỉ hư vị và không thực tế làm gì, ông lên Đà Lạt
định sống an dưỡng cùng với gia đình nhưng chưa được bao lâu thì mất đột ngột tại
đây vì bị đứt mạch máungày 2 tháng 12 năm 1953, thọ 71 tuổi, thi thể được đưa
máy bay về Hà Nội an táng, cạnh chùa Láng,.
Theo cách kể có phần hơi úp mở trong tập hồi ký của Bùi
Nhung, em trai vợ ông, cũng là người rất yêu quý gần gũi ông, thì cái chết đột
ngột của Trần Trọng Kim có khả năng do bàn tay của thực dân cùng bọn a tòng hãm
hại, sau một mũi thuốc chích của ông bác sĩ quen tên Phiếm, Thị trưởng Đà Lạt
(sđd., tr. 103-104).
III. “Một cơn gió bụi”
Trần Trọng Kim được đánh giá là một học giả uyên thâm cả tân
học lẫn cựu học, là người tận tụy cho ngành giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ 20.
Tuy nhiên, ông là người có tư tưởng bảo thủ và dân tộc-bảo hoàng. Chính Phan
Anh, Bộ trưởng Thanh niên trong Nội các trước đây của ông đã từng nhận xét: “Trần
Trọng Kim là một người yêu nước nhưng không phải là một nhà chính trị”. Điều
này không chỉ đúng với ông mà còn đúng cả với bộ sậu của ông và với vua Bảo Đại
nữa.
Không ai phủ nhận Nội các Trần Trọng Kim là do Nhật lập ra để
lèo lái theo ý đồ chính trị của Nhật (chuyện này chính Trần Trọng Kim và những
người xung quanh ông cũng đã biết trước và sau khi chấp chính), nhưng nội các
đó có “tay sai bù nhìn” hay không thì lại là vấn đề đã gây nên nhiều tranh cãi.
Bùi Diễm cháu gọi ông bằng chú (miền Nam gọi dượng) có lẽ là
một trong những người có điều kiện tiếp xúc gần gũi và rành rẽ hơn hết về tính
cách ngây thơ chính trị của ông cũng như của cả nhóm bộ trưởng dưới quyền ông,
đã từng đánh giá: “Cụ Kim vẫn còn bị những khuynh hướng tổ chức theo lối cổ
ngày xưa ảnh hưởng rất nhiều. Khi tìm người ra phục vụ, cụ đã mời những người vừa
xuất sắc về học vấn, vừa chánh trực thanh liêm về cùng làm việc. Cụ coi đây là
những đức tính tiên quyết, bắt buộc phải có ở những người phục vụ đất nước. Khi
nhìn lại bằng con mắt hiện thời thì quả thật lúc loạn ly bấy giờ chưa chắc đã
phải là lúc của những đức tính như vậy….Tuy thế, hầu hết các nhân viên trong cả
chánh phủ đều thiếu kinh nghiệm chính trị thực tiễn. Khi giải quyết các vấn đề
chính trị, họ thường giải quyết dựa vào các quan niệm lý thuyết. Họ sẵn sàng
tán thành các giải pháp được đề ra, miễn là những giải pháp đó có vẻ hợp luận
lý….Tuy không hề nghe lệnh [người Nhật], họ cũng chẳng hề biết rõ thấu đáo tình
hình chính trị và quân sự đang gây sóng gió chung quanh…. Họ chẳng biết tí gì về
người Mỹ…. Theo tôi nhớ thì hình như các bộ trưởng chưa bao giờ nói gì đến chuyện
ông Hồ Chí Minh hoặc Việt Minh…. Ngay cả đến người Nhật, mà tôi nghĩ là họ phải
hiểu hơn cả, họ cũng chẳng biết rõ ý định của người Nhật. Dường như họ cũng chẳng
lo lắng mấy về vấn đề người Nhật sắp sửa thất bại…. Theo tôi thấy thì có lẽ ông
[ông chú tôi] không màng gì đến chuyện tranh chấp quyền lực trong tương lai.
Ngược lại, ông đã nghe về Việt Minh và đang tự hỏi xem thật sự họ có phải là
nhóm người lãnh đạo hữu hiệu nhất cho quốc gia vào những ngày khó khăn sắp tới
hay không? Ông bảo tôi rằng hình như đảng Việt Minh đã được Hoa Kỳ ủng hộ.
“Nếu đúng như vậy thật”, ông nói tiếp “thì ta vui lòng nhượng quyền cho họ”… Một
tuần sau thì có tin Nhật đầu hàng Đồng minh, ở Huế tình hình chẳng những đã cực
kỳ sôi sục, mà còn rối ren mù mịt. Vì chưa sửa soạn kỹ lưỡng để nắm quyền, khi
định mệnh xô ngã Nhật, chánh quyền của ông chú tôi hoàn toàn bỡ ngỡ, không biết
phải hành động ra sao….Tuy thế sau khi cụ Kim đã quyết định [từ chức] thì tất cả
những cảm giác vui buồn lẫn lộn đều hoàn toàn biến mất. Cụ đã nói với tôi rằng:
‘Giờ chú hoàn toàn vui mừng như xưa, sẽ có người khác phải gánh trách nhiệm. Thật
là nhẹ nhàng vô cùng’”.
Do cái ngả rẽ sang con đường chính trị mà không thành công
như niềm tin có thể ngây thơ và chí hướng tốt đẹp, sau khi Cách mạng tháng
8.1945 thành công, và nhất là sau năm 1954, cũng vì cái lý lịch chính trị đó,
nên tương tự như trường hợp Phạm Quỳnh, ở miền Bắc người ta không nhắc gì đến
ông nữa, cả về phương diện học thuật. Cá nhân Trần Trọng Kim cùng với quyển Việt
Nam sử lược nổi tiếng một thời đã bị một số nhà sử học mác-xít đầu đàn như Trần
Huy Liệu, Trần Văn Giàu… phê phán nặng nề bằng một số cụm từ như bù nhìn, phản
dân tộc…., cho dù lịch sử đã sang trang, Nội các Trần Trọng Kim đã chết đi từ
lâu và thực tế không còn có bất kỳ cơ hội nào ngóc đầu dậy được để gây lo lắng
cho họ nữa! Các sách giáo khoa môn sử cũng theo đó mà đưa ra các nhận định, hoặc
mạt sát nặng nề, hoặc chỉ nhắc lướt qua như một chi tiết phụ không đáng kể…,
khiến cho học sinh và thậm chí một số trí thức tương đối trẻ ngày nay không còn
biết Trần Trọng Kim là ai và nội các do ông lãnh đạo có vai trò lịch sử như thế
nào nữa.
Riêng cuốn Việt Nam sử lược đã từng bị coi là sách
cấm, khiến cả những giáo sư dạy sử trong trường đại học (như GS Trần Quốc Vượng…)
cũng chỉ dám cất giấu đọc lén, bởi vì theo quan điểm chính thống, “những người
làm công tác sử học Việt Nam đã bóc trần các quan điểm sử học thực dân phong kiến
trong một số sách lịch sử do bọn bồi bút thực dân biên soạn, mà tiêu biểu là cuốn
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim” (xem Văn Tạo, “Khoa học lịch sử Việt Nam
trong mấy chục năm qua”, Sử học Việt Nam trên đường phát triển, Viện Sử học,
NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1981, tr. 9).
Khoảng hơn chục năm gần đây, qua lớp bụi thời gian, “tội lỗi”
của Trần Trọng Kim đã dịu bớt, người ta bắt đầu biết đến rồi nhận ra giá trị,
cho in đi in lại nhiều lần những Việt Nam sử lược, rồi Nho giáo, Phật
giáo, Phật lục…, nhất là bộ sách Quốc văn giáo khoa thư và Luân
lý giáo khoa thư do ông chủ trì nhóm biên soạn. Từ năm 2000, tức 47 năm
sau khi Trần Trọng Kim qua đời, mới thấy mục từ TRẦN TRỌNG KIM bắt đầu xuất hiện
trong cuốn Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam do Đinh Xuân Lâm-Trương
Hữu Quýnh chủ biên (NXB Giáo Dục). Năm 2004, khi bộ sách quy mô Từ điển
Văn học bộ mới ra đời (NXB Thế Giới), mục từ TRẦN TRỌNG KIM lại được đưa
vào một cách trân trọng hơn, do nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Huệ Chi trình
bày, với gần đầy 3 trang giấy khổ lớn, bỏ hết mọi lời công kích.
Trong số những nhà sử học trụ cột thế hệ tiếp sau Trần Huy Liệu-Trần
Văn Giàu, mặc dù vẫn ở trong phái “chính thống” hay “dòng chính”, mọi người nhận
thấy dường như chỉ có GS Đinh Xuân Lâm đi trước một bước với những quan niệm,
nhận định cởi mở và chính xác hơn về nhân vật lịch sử Trần Trọng Kim, khi ông
nói: “Chúng tôi cho rằng Chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật là chính xác vì thực
tế nó ra đời là do bàn tay Nhật tạo dựng và theo ý định của Nhật, nhưng bảo rằng
nó là bù nhìn e rằng chưa thật sự đúng, vì trong thực tế nó vẫn có những chủ
trương và việc làm ngoài ý muốn của Nhật và có lợi cho dân, cho nước” (Trường
Thanh niên tiền tuyến Huế-1945: Một hiện tượng lịch sử, NXB Công An Nhân Dân,
2008).
Cho đến nay, biên khảo về Trần Trọng Kim nói chung và về Nội
các Trần Trọng Kim nói riêng, theo sự hiểu biết của chúng tôi, có lẽ chưa có
công trình nghiên cứu nào tập hợp đầy đủ tư liệu và viết có phương pháp, hệ thống
bằng cuốn Nội các Trần Trọng Kim: Bản chất, vai trò và vị trí lịch sử của Phạm
Hồng Tung (NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2009; tái bản năm 2010).
Cuốn sách nêu trên, dày 380 trang, đoạt Giải thưởng ĐHQG
Hà Nội 2010, nghiên cứu một cách toàn diện và cụ thể hoàn cảnh, nguyên nhân ra
đời, các chủ trương, chính sách và hoạt động của Nội các Trần Trọng Kim, để đi
tới cách đánh giá có phần tiến bộ hơn so với các thế hệ đi trước về bản chất,
vai trò và vị trí lịch sử của nó. Tuy nhiên nếu đứng trên phương diện quan điểm
đánh giá lịch sử mà xét thì dường như tác giả cũng chỉ dựa chủ yếu theo quan điểm
“chính thống” để giải thích mọi hiện tượng lịch sử, theo hướng minh họa cho nổi
bật thêm những nét thành công của Cách mạng tháng Tám và ít nhiều có thái độ ác
cảm với nhân vật họ Trần (biểu hiện qua lời lẽ diễn đạt, thể cách xưng hô, gọi
Trần Trọng Kim là “ông ta”…). Từ đó, Phạm Hồng Tung đã chỉ tổng hợp các cách
đánh giá, chỉnh sửa đôi chút để đi đến những kết luận ít cực đoan hơn so với
phái “chính thống” cũ, khi cho rằng: (1) Nội các Trần Trọng Kim vẫn là một
chính quyền bù nhìn của người Nhật, nhưng đó chỉ là một chính quyền bù
nhìn thụ động, không phải là chính quyền tay sai đắc lực của người Nhật; (2)
Trong thời gian tồn tại ngắn ngủi của nó, đối với việc phụng sự chủ quyền quốc
gia và lợi ích dân tộc, Nội các Trần Trọng Kim đã có một số đóng góp quan trọng,
đáng được ghi nhận; (3) Việc luận chứng đầy đủ về bản chất, vai trò và vị trí lịch
sử của Nội các Trần Trọng Kim và hệ thống chính quyền bù nhìn thân Nhật đã góp
phần quan trọng để khẳng định rằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 của nhân
dân Việt Nam là cuộc cách mạng thực sự mang tính chất dân tộc và tính chất dân
chủ sâu sắc (xem Phạm Hồng Tung, tr. 343-367).
Với cách đánh giá của Phạm Hồng Tung, tuy có bị ảnh hưởng nhiều
bởi những nguồn thông tin “ác cảm” từ tập hồi ký Phạm Khắc Hòe, Nội các Trần Trọng
Kim đã được “giảm án” đi đôi chút. Tuy nhiên, trong quá trình phân tích đánh
giá, một vài nhận xét của tác giả chỉ dựa trên những suy luận gán ghép đơn thuần
chứ không căn cứ vào lẽ công bằng và kinh nghiệm thực tế, như nói “Trong suốt
hơn ba tháng cầm quyền, nội các này không hề biếm phạt nghiêm khắc một viên
quan nào…” để phê bình sự biện bạch của Trần Trọng Kim trong việc chỉnh đốn
quan trường (tr. 210-211); hoặc “một chính phủ bù nhìn, bất lực trước những nhiệm
vụ do tự nó đặt ra” (tr. 196)…, là những vấn đề mà chỉ trong vòng 4 tháng thì
không một nhà chính trị thần thánh nào có thể làm khác nổi. Trong khi, chỉ cần
chút lương tri và lẽ công bằng, chúng ta thừa thấy biết rằng ngay trong một số
quốc gia Châu Á hiện tại, đã được “độc lập” hẳn hoi, thế mà người ta vẫn cứ luẩn
quẩn mãi trong suốt vài chục năm cầm quyền vẫn chẳng thể chống được thành công
nạn tham nhũng, thậm chí cũng không cách chức được một quan lớn nào!
Do mãi đến năm 1962 mới được thầy Trần Quốc Vượng lén chỉ và
khuyên tìm đọc Việt Nam sử lược, thì xin lỗi, giống như “đại kinh tiểu
quái”, Mai Khắc Ứng lấy làm kinh ngạc hào hứng khi khám phá được tác phẩm, từ
đó hết sức trân trọng Trần Trọng Kim cùng tác phẩm sử học của ông, và mãi đến gần
đây mới viết ra được một số ý kiến, tâm tư của mình trong bài “Trần Trọng Kim với Việt
Nam sử lược”, đăng trên Tạp chí Xưa & Nay (số 346, tháng
12.2009), mà sự ca ngợi không tiếc lời của tác giả đã bị ông An Chi phê bình
khá gay gắt trong bài “Sự thật về Trần Trọng Kim và Việt Nam sử lược” (báo
điện tử Nhà Văn TP. HCM ngày 22.10.2012), lấy lẽ rằng Trần Trọng Kim
đã tìm mọi cách biện minh cho sự xâm lược của thực dân Pháp, với một số câu
trích dẫn rõ ràng để làm bằng chứng phản bác.
Thật ra trong cuộc tranh luận này, mỗi người đã đứng trên một
góc độ khác nhau. Về phần Mai Khắc Ứng, dường như tác giả chỉ muốn dựa
trên Việt Nam sử lược để phát biểu quan điểm riêng của mình về việc
viết sử, từ đó tập trung phê phán lối viết sử giáo điều thiếu tôn trọng sự thật,
vì thế mà chưa đi sâu chi tiết trước khi đưa ra những nhận định này khác nên dễ
bị người đọc coi là quá đà để bắt bẻ: “Theo chỉ bảo của thầy Vượng, tôi nghiền
ngẫm cuốn sách này và mãi cho đến nay, mỗi lần cần viện đến chứng cứ lịch sử,
tôi vẫn phải nhờ Trần Trọng Kim. Lời khuyên thật lòng đó với tôi hơn vạn bài giảng
văn hoa cao xa dông dài. Viết như vậy mới đích thực là nhà sử học. Có nói có.
Không nói không. Sai nói sai. Đúng nói đúng….Minh bạch, mạch lạc, rõ ràng trình
ra trên từng dòng, từng trang sách… Quan điểm riêng của người viết là ở phần nhận
xét đánh giá kết luận. Công bằng và khách quan đấy chứ. Điều đó khác với mọi cuốn
sử, sách giáo khoa văn sử về sau. Đương nhiên tác giả cũng là một con người. Đã
là con người thì mấy ai tránh khỏi lệ “nhân vô thập toàn”. Về lịch sử, ông viết
hoàn toàn dựa trên cứ liệu lịch sử. Về quan điểm khen hay chê thuộc quyền riêng
của mỗi người. Điều bất bình thường hiện nay là hễ ai không phụ hoạ mình là xấu,
là sai, là thù. Cái lẽ nhất thời này không nằm trong phương pháp luận sử học….
Đã đến lúc phải nói với nhau rằng không phải hễ khác mình đều là kẻ thù. Trăm nẻo
đường có thể đến cùng một đích. Xin hãy trọng nhau sự chung lòng đó”.
Để biện hộ cho tính chính đáng trong lựa chọn-hành động chính
trị của Trần Trọng Kim, tác giả bài báo còn đưa thêm nhiều lý lẽ khác như: Trần
Trọng Kim là một học giả không có thủ đoạn chính trị và tham vọng quyền lực, thực
sự chưa hề chuẩn bị làm chính khách đứng ra thành lập Chính phủ. Nhân tình thế
chủ quan, khách quan của đất nước nửa đầu năm 1945, ông nhận ra con đường thực
thi phận sự công dân trước vận mệnh Tổ quốc…. Chính phủ Trần Trọng Kim thành lập
đơn giản bao nhiêu thì cáo chung cũng nhẹ nhàng, thanh thản bấy nhiêu, không có
ai trong hàng các bộ trưởng tỏ ra cay cú bực dọc phản ứng thù hận…. Nếu họ là
bù nhìn tay sai Nhật thực sự thì ngay thời điểm đó và cả sau này nữa, tại sao
nhiều người đã trở thành cán bộ cao cấp của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà?… Tạm thời bắt tay với Nhật để yên thân thành lập một Chính phủ hợp hiến
tìm sự ủng hộ của công luận trong và ngoài nước, trước khi Pháp gây hấn là toan
tính khôn khéo của Trần Trọng Kim và Chính phủ. Pháp lo sợ điều này và săn đuổi
Trần Trọng Kim là lẽ đương nhiên…. Một điều không nói ra nhưng ai cũng biết là
Pháp quay lại Việt Nam lần này với hai sứ mạng. Một là giành Đông Dương từ tay
Nhật bại trận. Hai là ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa Cộng sản. Chính phủ
Trần Trọng Kim là trở lực của hai sứ mạng đó… Còn nếu cho rằng mọi sự bắt tay
trong quan hệ bang giao là tay sai thì tội cho những người trước và sau Trần Trọng
Kim lắm lắm….Có một chi tiết đáng được lưu ý là Trần Trọng Kim đã yêu cầu Nhật
mở cửa các nhà tù của Pháp, ân xá toàn bộ chính trị phạm, kể cả người tù cộng sản….
Rồi đi đến kết luận dứt khoát:
“Với tôi, Trần Trọng Kim qua Việt Nam sử lược là một người
yêu nước thành tâm, một nhà sử học chân chính, trung thực, một người cầm bút có
nhân cách, một học giả xuất sắc đã cống hiến phần trí tuệ, chí ít cho các thế hệ
nửa đầu thế kỷ XX và Chính phủ Trần Trọng Kim là sản phẩm của tình thế với hoài
bão bước đầu thực thi thể chế Quân chủ lập hiến đặt nền móng cho mô hình “Dân
chủ Đại nghị” cổ điển về sau, của lớp nhân sĩ tri thức cũ biết lường trước họa
binh đao nên tha thiết nhân nhượng, dung hoà”.
Hơn nửa năm sau, Phạm Hồng Tung đã viết bài “Nội các Trần Trọng
Kim và Cách mạng tháng Tám” (Xưa & Nay, số 361, tháng 8.2010) để bác bỏ những
lý lẽ cho là chưa vững của Mai Khắc Ứng. Tác giả còn nhắc lại một lập luận quan
trọng từng nêu ra trong cuốn sách đã xuất bản trước đó, về tính chính đáng
chính trị (political legimitation) của Nội các Trần Trọng Kim thân Nhật: khi Nhật
(phe Trục) bại trận thì Nội các này cũng mất luôn tính chính đáng chính trị và
cơ sở quốc tế để giao thiệp với Đồng minh.
Theo tôi, vấn đề ông Tung nêu lên thật ra không dễ phán xét,
vì thực tế sau đó cho thấy, khi kết thúc Thế chiến II, Chính phủ Lâm thời của
Việt Minh thay cho triều đình Huế giai đoạn đầu vẫn bị các nước Đồng minh (Anh,
Mỹ, Nga, Tàu Tưởng) ghẻ lạnh và không công nhận vì mang màu sắc cộng sản. Cho
nên cái gọi là tính chính đáng chính trị ở đây cũng còn một điểm tế nhị rất khó
luận bàn. Giả định chính quyền không phải Việt Minh mà Bảo Đại thì tình hình
còn có thể diễn biến theo một chiều hướng khác nào đó mà người ta chỉ có thể phỏng
đoán thôi chứ không thể khẳng định chắc nịch, vì với mỗi giả định khác nhau sẽ
có thể dẫn đến những kịch bản lịch sử khác nhau, với mỗi kịch bản, mô hình diễn
tiến đều có cái giá cay đắng phải trả tùy theo những hướng lựa chọn có thể rất
khác nhau, nhưng hướng nào ít phải hi sinh xương máu nhất thì được coi là có lợi
nhiều hơn cho dân tộc. Chẳng hạn, Bảo Đại không thoái vị, không từ chối cho
quân đội Nhật can thiệp giờ chót (theo đề nghị của Nhật, xem Trần Trọng Kim,
sđd., tr. 93), đồng thời xuống chiếu “cần vương” kêu gọi toàn dân “phò vua cứu
nước” thì Việt Minh rốt cuộc vẫn có thể thắng lợi nhưng chắc chắn ngoài cuộc
chiến tranh Việt-Pháp còn phải đối phó gay go thêm với một cuộc nồi da xáo thịt
nữa chưa biết kéo dài bao lâu trước khi đạt tới một nền độc lập thật sự…
Trong công trình đã dẫn trên về Nội các Trần Trọng Kim, trước
khi đưa ra kết luận đánh giá của riêng mình, tác giả Phạm Hồng Tung đã có công
phu sưu tầm-ghi chép khá đầy đủ những tài liệu đánh giá của người khác, trước hết
là tiếng nói của người trong cuộc (ý nói như của Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân
Hãn, Phan Anh…), tiếp đến ý kiến của một số sử gia phương Tây và Nhật Bản, rồi
đến cách đánh giá của sử gia Việt Nam, mà dưới đây chỉ xin trích dẫn lại 3 đoạn
tiêu biểu phân biệt cho 3 loại đánh giá (xem Phạm Hồng Tung, sđd., tr.
300-342):
– Khi một người ngoại quốc là Stein Tonnesson hỏi ông Phan
Anh (nguyên Bộ trưởng Nội các Trần Trong Kim) Chính phủ Trần Trọng Kim có phải
là một chính phủ bù nhìn không, thì Phan Anh khẳng định: “Lấy tư cách là thành
viên của Chính phủ Trần Trọng Kim, tôi nói với ông rằng chúng tôi tuyệt đối
không có ảo vọng gì về người Nhật. Tình thế đã dứt khoát rồi. Phải là kẻ điên mới
đi hợp tác với Nhật. Có những người điên, nhưng chúng tôi là trí thức, chúng
tôi tham gia chính phủ là để phụng sự. Chính với chính sách ấy mà chúng tôi đã
thành lập chính phủ với khẩu hiệu như vừa nói là: Đuổi cổ bọn Pháp và nắm lấy độc
lập”.
– Ý kiến của chính Stein Tonnesson (tác giả cuốn The
Vietnamese Revolution of 1945, xuất bản năm 1991): “Nói chung, Chính phủ Trần
Trọng Kim không thể bị coi là thân Nhật”.
– Ý kiến của Trần huy Liệu và Trần Văn Giàu. (1) Của Trần Huy
Liệu: “Chính phủ bù nhìn gắn liền vận mạng của nó với phát xít Nhật, đặc biệt
là phát xít Nhật trong lúc giẫy chết. Vì vậy nó ra đời cũng chỉ có chiều hướng
đi xuống, chết yểu và sống nhục”.- (2) Của Trần Văn Giàu: “Nói tóm lại, Chính
phủ Trần Trọng Kim dù là gồm những nhà trí thức tư sản nổi tiếng, vẫn là một
chính phủ bù nhìn của Nhật. Nó biểu lộ không phải tính chất dân tộc và dân chủ
mà biểu lộ tính chất phản dân tộc, phản dân chủ. Vẫn biết có một ít nhân vật
trong đó có ý muốn làm cho nước nhà được giải phóng thực sự, nhưng không thể phủ
nhận rằng sự tổ chức, sự hoạt động của Chính phủ Trần Trọng Kim nhằm cản trở
phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhằm tranh thủ quần chúng với Mặt
trận Việt Minh; sở dĩ họ không đạt mục đích của họ, không phải vì họ thiếu ý thức
giai cấp và thiếu hoạt động, mà trước hết vì thời gian không ủng hộ họ, vì tình
hình quốc tế bất lợi cho họ, vì hoạt động giỏi của Đảng Cộng sản và Mặt trận Việt
Minh không cho phép họ”.
Năm 1983, Phạm Khắc Hòe (1901-1995), từng giữ chức Đổng lý Ngự
tiền văn phòng thời Bảo Đại 1945
(sau đó theo Việt Minh kháng chiến chống Pháp), cho xuất bản tập hồi ký Từ
triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, đã mô tả từng hành động, quyết định của
Trần Trọng Kim như một kẻ vụng về, cơ hội, tham quyền cố vị, bất tài và bất lực
với những lời lẽ biếm nhẽ, đôi khi còn rất nặng nề: “Bộ mặt Việt gian phản quốc
của Trần Trọng Kim, ngày nay chúng tôi mới thấy thật rõ, nhưng đã được người Cộng
sản vạch ra một năm trước khi Nội các Trần Trọng Kim ra đời” (tr. 47).
Ý ông Hòe muốn nhắc đến lời đánh giá còn gay gắt hơn nữa của
lãnh tụ cách mạng Trường Chinh đăng trên báo Cờ giải phóng (18.4.1944)
mà ông trích dẫn liền tiếp dưới đoạn văn trên: “Bọn Việt gian thân Nhật bảo:
thì đồng bào ta cứ hi sinh cho Nhật miễn sao cho cuộc chiến tranh Đại Á của Nhật
được toàn thắng thì nước ta sẽ được độc lập tự do. Xảo quyệt thay giọng lưỡi ấy.
Có đời thuở nào hi sinh cho bọn đế quốc đang cướp nước mình lại được độc lập tự
do bao giờ? Giá bọn Việt gian thân Nhật nói trắng ngay rằng đồng bào hãy chịu
khó hi sinh tính mạng, tài sản để cho một nhóm Việt gian thân Nhật được mũ cao,
áo dài thì đúng hơn” (tr. 47-48).
Có lẽ vì chịu ảnh hưởng cách giá đánh của các vị tiền bối sử
học-chính trị học cách mạng nêu trên, nên sách giáo khoa môn Lịch sử lớp 12
(NXB Giáo Dục, ấn bản năm 2001) khi nhắc đến giai đoạn lịch sử trước Cách mạng
Tháng 8 đã mạnh tay viết về Trần Trọng Kim với những lời lẽ không kém phần gay
gắt, nếu không muốn nói còn có phần “lướt” hơn: “Bọn thân Nhật Trần Trọng Kim đứng
ra lập Chính phủ mới, bù nhìn Bảo Đại được khoác danh hiệu “Quốc trưởng” (phải
nói “Hoàng đế” mới đúng-TVC). Bọn thân Nhật muốn dựa vào quan thầy mới để
hoạt động, làm ra vẻ “ái quốc, ái quần” (yêu nước, yêu dân); nhưng chúng nhanh
chóng tỏ ra bất lực (…). Chúng trở thành những tên tay sai ngoan ngoãn để cho
chủ mới là Nhật càng thêm dễ dàng lừa bịp và vơ vét, bóc lột nhân dân ta thậm tệ
hơn (…). Vì vậy, chỉ sau một thời gian rất ngắn, bộ mặt giả nhân giả nghĩa của
phát xít Nhật cũng như bộ mặt tay sai bỉ ổi của bọn bù nhìn thân Nhật đã bị bóc
trần. Nhân dân ta ngày càng thêm căm thù Nhật và chán ghét bọn bù nhìn tay sai
của chúng” (dẫn lại theo Phạm Hồng Tung, tr. 340-341).
Cũng Lịch sử lớp 12, nhưng ở ấn bản năm 2010 (NXB Giáo Dục,
tái bản lần thứ 2), chỉ có một dòng ngắn ngủi về chính phủ Trần Trọng Kim: “Quân
Nhật ở Đông Dương rệu rã. Chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim hoang mang. Điều
kiện khách quan thuận lợi cho tổng khởi nghĩa đã đến” (tr. 115)
Đến ấn bản mới nhất, Lịch sử Lớp 12 (NXB Giáo Dục, tái bản lần
thứ 5, tháng 3.2013), đoạn viết về Trần Trọng Kim chỉ giảm lại còn: “Chúng [Nhật]
dựng lên Chính phủ Trần Trọng Kim và đưa Bảo Đại lên làm ‘Quốc trưởng’” (tr.
112).
Tôi có thói quen khi thấy có vấn đề gì liên quan lịch sử thì
lấy sách giáo khoa xem trước để nắm chắc một số sự kiện căn bản hoặc ý niệm tổng
quát, vì nghĩ rằng đã sách giáo khoa do Bộ Giáo dục-Đào tạo xuất bản thì tất phải
chính xác, đàng hoàng hơn hẳn những loại sách biên khảo lịch sử của tác giả
khác, do nó phải khách quan khoa học, lời lẽ lịch sự, đáng tin cậy, với lượng
kiến thức cần thiết cung cấp cho học sinh được chắt lọc lại từ rất nhiều nguồn
sử liệu khác nhau, trên cơ sở có sự đối chiếu thẩm định, nghiên cứu nghiêm túc.
Nào ngờ, như 3 đoạn vừa dẫn trên cho thấy, tùy theo lần và năm xuất bản,
sách Lịch sử lớp 12 lại lúc vầy lúc khác: có lúc mạt sát Trần Trọng
Kim và Nội các của ông thậm tệ, với lời lẽ hằn học, lúc khác không công kích nữa
(chỉ gọi Nhật là “chúng”) nhưng lại chỉ nói phớt qua một hai dòng. Sách biên soạn
như vậy có lẽ không nghiêm túc? Sinh nghi, tôi giở thử đến chỗ viết về trận Điện
Biên Phủ năm 1954 kết thúc cuộc chiến tranh Việt-Pháp 9 năm xem viết có nghiêm
túc không, thì lại phát hiện ra điều bất bình thường là chẳng thấy có nhắc đến
tên Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người chỉ huy chính của mặt trận lừng danh này mà
cả thế giới đều biết. Giở thử sách Lịch sử lớp 9 ra kiểm tra lại, chỗ
viết về trận Điện Biên Phủ, thấy cũng không có gì khác (xem Lịch sử lớp 9,
NXB Giáo Dục, tái bản lần thứ 8, tháng 5.2013, tr. 123-124). Trong khi, chỉ mới
vài tuần trước, khi tướng Giáp qua đời ngày 4.10.2013, cả nước làm quốc tang,
báo chí tập trung ca ngợi công lao của vị lão tướng 103 tuổi, thậm chí có người
còn viết bài lấy tiêu đề “Bác Đại tướng, một con người vĩ đại, một thánh nhân”
để hết lời xưng tụng (xem tuần báoVăn Nghệ của Liên hiệp các hội Văn học-Nghệ
thuật TP. HCM, số 276 ngày 17.10.2013). Liền sau đó nhiều địa phương còn đề nghị
đặt tên đường, tên thành phố lấy tên ông, và đưa tên ông trở lại vào sách giáo
khoa!
Vậy là có lúc tôi đã hiểu nhầm về độ tin cậy và tính nghiêm
túc của sách giáo khoa, không dè nó đã được biên soạn một cách rất tùy tiện, thậm
chí sai kiến thức (như chi tiết gọi Bảo Đại năm 1945 là “Quốc trưởng”), bèn tìm
đọc qua nhiều loại tài liệu khác thì thấy, nếu trong hệ “chính thống”, bản thân
nhân vật lịch sử Trần Trọng Kim cũng như nội các của ông đều bị chỉ trích bằng
những lời lẽ nặng nề. Như thế, chẳng khác nào dạy cho học sinh gọi ông Trần Trọng
Kim bằng bọn này, bọn nọ…, trong khi người ta vẫn đang học hỏi, nghiên cứu rất
nhiều từ những sách giá trị do ông biên soạn…
Trở lại câu chuyện, mặc dù đã có kết luận đánh giá trông có vẻ
dung hòa tiến bộ hơn của Phạm Hồng Tung, vấn đề xem chừng vẫn chưa hết hồi phức
tạp, vì vậy mà trong bài “Bàn thêm về Trần Trọng Kim” (Tạp chí Văn Hóa Nghệ
An, 26.11. 2009), GS Vũ Ngọc Khánh đã đặt vấn đề nên có một cuộc hội thảo khoa
học về Trần Trọng Kim vì đã có nhiều ý kiến trao đổi, nhưng nhận định chung
hình như chưa thật thoả đáng. Theo tác giả, từ những năm 1940 trở về trước, Trần
Trọng Kim đã được dư luận đánh giá cao, nhưng từ 1945, ông bị vướng vào hoạt động
chính trị để mang cái tiếng không hay. Sau cách mạng tháng 8 thành công, người
ta không nhắc đến ông nữa. Cả về mặt học thuật, ông cũng bị đánh giá thấp. Trần
Huy Liệu trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử đã phê phán cuốn Việt
Nam sử lược, cho là nặng quan điểm thực dân. Rồi đến năm 2001, trên báo Tiền
Phong (số 17), Bùi Thiết xem Trần Trọng Kim là người quay lưng lại với dân
tộc. Gần đây nhất, cũng nói về Trần Trọng Kim trong “góc khuất” của lịch sử, Hà
Vinh cho việc Trần Trọng Kim ra lập nội các là điều bất đắc dĩ, nên đã nằng nặc
xin thôi, còn Đặng Minh Phương (Tạp chí Hồn Việt, số 35, tháng 5.2010) thì
đồng ý với Nguyễn Khắc Viện cho rằng Trần Trọng Kim đơn giản chỉ là tay sai của
người Nhật v.v.
“Tôi nghĩ rằng vấn đề có thể suy nghĩ và cân nhắc thêm (…).
Nói sang chuyện hoạt động chính trị. Hình như đây là vấn đề được nhiều người
quan tâm hơn và sự nhận định nói chung là khe khắt hơn. Song những điều đắc thất
của Trần Trọng Kim ở chặng cuối đời này nên được làm rõ”.
Đại khái theo GS Vũ Ngọc Khánh, về việc ra làm thủ tướng,
trong bối cảnh lịch sử cụ thể lúc bấy giờ, nếu không phải Trần Trọng Kim thì phải
có con người khác, nhưng lại phải do người của Nhật đưa ra (như Huỳnh Thúc
Kháng, Ngô Đình Diệm đều được Nhật và Bảo Đại nhắc đến), nhưng cuối cùng họ chỉ
dùng Trần Trọng Kim. Còn về việc liên hệ với Nhật Bản, cho đến nay vẫn chưa
phát hiện được tài liệu gì, do ông và cả Nhật cố tình giữ kín nên không ai biết,
chỉ thấy ông được Nhật đưa đi trốn rồi đưa về để đẩy ra làm thủ tướng…. Điều hiển
nhiên ông đã là một con bài do Nhật chuẩn bị.
Nhận định về vai trò của chính phủ Trần Trọng Kim, ông Khánh
cho rằng mặc dù dư luận vẫn gọi đây là chính phủ bù nhìn, nhưng nên hiểu cái
danh hiệu này cho có mức độ. Nói bù nhìn là nói theo cách vạch trần chân tướng
để hạ uy thế, có phần không thoả đáng với nhiều thành viên chính phủ đều là người
tốt, có uy tín. Không rõ có ai kín đáo thi hành lệnh của Nhật không, chứ là tay
sai thực thụ thì không rõ mặt (kể cả Trần Văn Chương sau này phục vụ chính quyền
Ngô Đình Diệm).
Về việc làm và luận điệu của Chính phủ, ông Khánh viết: “…tất
nhiên, khi ra đời cũng như khi tuyên bố nọ kia, chính phủ Trần Trọng Kim phải
có những câu như: cảm tạ công ơn Nhật, v..v.. Tôi nghĩ đó chỉ là cách nói khách
sáo …, không nên căn cứ vào những điều đó để đánh giá. Còn việc tha các tù phạm,
nghe nói là những tù cộng sản không được tha [ý chỉ thả những tù nhân
không cộng sản, Phạm Hồng Tung dẫn lại của Trần Văn Giàu từ sách gốc của
Devillers xuất bản năm 1952, nhưng đoạn tha tù phạm, sau này Devillers đã điều
chỉnh trong cuốn Paris-Saigon-Hanoi, sđd, tr. 106-TVC]…, nhưng lúc đó
(tháng 5, 6.1945) tôi ở Vinh thì đây là chuyện có thực. Khi ông bộ trưởng tư
pháp Trịnh Đình Thảo ra lệnh này, nhiều đồng chí bị bắt giam đã được giải
phóng. Các ông Nguyễn Duy Trinh, Lê Tính từ trong Nam về Vinh, có đến trọ ở nhà
tôi. Nhiều đồng chí khác được “sổ lồng” vào dịp này. Tôi còn nhớ là vào lúc đó,
chính phủ Trần Trọng Kim có ra lệnh hoãn nợ để đỡ phần cho nông dân nghèo tại
các xã (không biết việc thực thi có chu đáo không). Ngoài ra có một chương
trình giáo dục mới (chương trình Hoàng Xuân Hãn). Có phong trào ngay lúc đó được
gọi là Thanh niên Phan Anh, thực tế nhiều nơi đã thành tổ chức do Việt Minh
lãnh đạo. Nếu là một chính phủ thân Nhật khác, dễ gì đã có được những hành động
tạo điều kiện thuận lợi như vậy”.
Về cá nhân Trần Trọng Kim, tác giả có mấy ý kiến, xin tóm tắt
lại như sau: (a) Ông là người có lòng yêu nước, vẫn giữ được tư cách người trí
thức của dân tộc; (b) Ông bị lôi cuốn vào hoạt động chính trị, vì sự hiểu biết
chính trị của ông không sâu sắc, nên bị người ta dùng làm con bài, mà vẫn tưởng
là họ cho ra đóng góp với dân tộc; (c) Tư tưởng của ông là tư tưởng luân lý
phong kiến, cho đến khi gặp bế tắc, ông vẫn cứ phải loay hoay với lý thuyết của
Khổng Tử (qua câu cuối cùng của ông nói với Phạm Khắc Hoè về việc hành tàng),
do đó bế tắc lại càng bế tắc.
Rồi bài viết đi đến kết thúc bằng một nhận xét có phần xác
đáng: “Còn có một điều khiến chúng ta phải phàn nàn, mà khó lòng thông cảm với
ông. Đó là vào khoảng cuối đời, ông đã tiếp tục gieo mình vào những biến cố
không cần thiết, hoàn toàn bất lợi. Ông không chịu “tàng” như cách nói với Phạm
Khắc Hoè mà lại cố “hành” khi đã thành vô dụng. Không rõ ông hiểu Bảo Đại thế
nào mà còn đi sang Trung Quốc gặp lại Bảo Đại rồi quay lại Sài Gòn, được mời
đóng vai trò chủ đạo cho cuộc vận động của Chính phủ do Bảo Đại làm quốc trưởng,
mặc dầu ông không hoạt động được gì cũng không chỉ đạo ai. Ông vẫn bị lợi dụng
mà không hay. Tôi nghĩ rằng khi ông được đẩy ra làm thủ tướng, rồi lại làm chủ
tịch gì gì đó, thì ông hoàn toàn là một nạn nhân chứ không có vai trò chủ động
gì nữa”.
Quả thật ở giai đoạn cuối đời, tuy luôn miệng than vắn thở
dài, ngán ngẫm thời cuộc và chỉ muốn được an nhàn, nhưng thực tế Trần Trọng Kim
vẫn có vẻ tất bật, chạy vạy vất vả, nhất là từ thời kỳ “tòng vong” theo Bảo Đại
ở Hương Cảng cho đến lúc về Sài gòn dự Quốc dân đại hội năm 1953! Vì hoàn cảnh
phải ra đi, vì bạn bè lôi kéo thúc đẩy (cái này cũng thường dễ mắc phải lắm),
vì còn tham chút danh vọng, hay vì trong tâm khảm ông vẫn còn vương vấn bận rộn
việc đời?
Thậm chí, ngay khi còn đương chức Nội các Tổng trưởng, đi đâu
gặp bạn bè Trần Trọng Kim cũng tâm sự do mình chẳng đặng đừng phải đứng ra nhận
thành lập Nội các, như có lần đã chia sẻ với nhà báo Lãng Nhân khi gặp nhau tại
dinh Thống sứ cũ, trong chuyến ông đi công cán ở Hà Nội để thuyết phục Tổng tư
lịnh Nhật cho lấy lại các thành phố đang nằm trong tay Nhật: “ ‘Ngô bất đắc
dĩ’ mà! Chỉ khi vì gặp vua, thấy là người thông tuệ có thể hợp tác nên tôi nghĩ
trong lúc rối ren, không đành từ chối, nhưng thật tình không biết có làm nên việc
hay không” (sđd., tr. 86). Còn thật bụng ra sao, có lẽ chỉ mình ông hoặc vợ con
ông mới biết.
Cũng có thể ban đầu ông “bất đắc dĩ” thật, hoặc muốn thử tài
kinh bang tế thế theo lý tưởng nhà nho mà không cuồng vọng, nhưng phàm tâm lý
con người, đã ở trong chức vụ cao được tiền hô hậu ủng quen rồi thì khi mất đi
cũng tiếc. Chỉ có khác ít nhiều là với tư tưởng-phong cách sống nhà nho, lại mộ
đạo Phật, ông chắc chắn có phần thanh thản hơn nhiều so với những người khác có
hoàn cảnh tương tự. Ông thông kim bác cổ, nhưng rất tiếc lại không thấu hiểu
cái lẽ thông thường rằng từ cổ chí kim chưa hề thấy có một thư sinh học giả thứ
thiệt nào mà cầm quyền lâu dài được, đơn giản chỉ vì họ không thể thi triển những
thủ đoạn chính trị lắm lúc buộc phải lưu manh gian ác!
Dù sao chăng nữa, về mặt nhân cách đạo đức, chưa phát hiện có
chuyện gì bê bối trong đời tư của ông. Trước sau ông cũng chỉ là một hạng nho
Tây thanh bạch, cuộc sống suốt đời chỉ từ đủ ăn cho đến thiếu thốn, và phần nhiều
thời gian phải ở đậu ở nhờ nhà cửa của bạn bè, thân thuộc. Cả Trần Trọng Kim lẫn
các thành viên trong nội các của ông không có người học kém, đặc biệt chưa bị
mang tiếng gì về chuyện tham ô móc ngoặc, tự tư tự lợi (cũng có thể là vì chưa
tới lúc bị tha hóa quyền lực?). Tất cả họ đều là một đám thư sinh trói gà không
chặt, chỉ có tấm lòng mà thiếu mưu mẹo chính trị, nên không thể đảm đương việc
nước trong khúc quanh lịch sử đoạn trường này của dân tộc.
Nói đến Trần Trọng Kim rồi thì cũng không thể không nhắc đến
Bảo Đại (1913-1997), vì sau khi Nội các thành lập, Bảo Đại là người đứng sau
lưng xem xét quyết định mọi việc, ban bố tất cả các mệnh lệnh. Ông vua trẻ cuối
cùng triều Nguyễn này từ lâu vẫn bị hiểu là một người không có ý chí hoài bão,
chỉ ham vui, thích săn bắn, cờ bạc và gần gũi đàn bà…. Khi quân đội Nhật đảo
chánh Pháp ngày 9.3.1945 thì buổi chiều tối hôm đó ông còn đang trên đường đi
săn từ Quảng Trị về tới, Nhật phải cung kính tạm giữ một lát để bảo vệ “long thể”
rồi đưa về Đại nội.
Tuy nhiên, khi nghe Nhật trao trả độc lập, ông trở nên hào hứng
với công việc, bớt đi chơi, làm cho hoàng thân và nhiều người bên ngoài có vẻ
kinh ngạc, sau đó đã ra được liên tiếp hàng loạt chiếu, dụ… đọc lên nghe rất cảm
động. Khi Cách mạng tháng 8 sắp thành công, ông nhanh chóng thức thời vụ đồng ý
thoái vị trở thành công dân Vĩnh Thụy (tên thật của ông), rồi nhận giữ chức cố
vấn tối cao cho Chính phủ Lâm thời do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Giai đoạn đầu mới mẻ,
đi đâu cụ Hồ cũng để ông theo bên cạnh nhằm tiện việc tiếp xúc vận động quần
chúng và cho những giao dịch thương lượng khác với người Pháp, vì lúc đó, sau cả
ngàn năm sống dưới chế độ vua quan phong kiến, người dân vẫn còn “tôn quân” ở mức
độ nhất định và nhất là chưa biết rõ Hồ Chí Minh là ai, cũng như chưa quen nhiều
với chế độ mới.
Từ tháng 3.1946, với tư cách cố vấn tối cao, Bảo Đại được cử
sang Trùng Khánh thực hiện chính sách giao hảo với chính quyền Tưởng Giới Thạch,
nhưng sau đó đi Hồng Kông rồi qua Pháp, không về nước. Từ đó trở đi, ông đã có
những hoạt động bắt tay trở lại với người Pháp trong âm mưu “bảo hoàng” chống lại
chính phủ kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng kết quả chẳng đi đến đâu.
Dựa theo mấy bức thư mới được phát hiện gần đây do một số người
thân gởi cho Bảo Đại, chúng ta có thể biết ông không hẳn là con người “chỉ chú
tâm đến du hí”, mà ít nhất ở giai đoạn từ tháng 9.1946 đến tháng 3.1949, cựu
hoàng Bảo Đại không tỏ ra nông cạn, nhu nhược, trái lại thích quyền lực, và bắt
đầu chứng tỏ dáng dấp của một chính khách tự nhận là “Hoàng đế Quốc trưởng”
(xem Phạm Hy Tùng, “Vài tư liệu mới về cựu hoàng Bảo Đại thời kỳ ở Hồng Kông
(1946-1947)”, Tạp chí Nghiên Cứu Và Phát Triển, số 6 (83).2010)).
Năm 1949, ông được Pháp đưa về Việt Nam làm Quốc trưởng nhưng
chỉ hư vị.
Tâm trạng thầm kín của cựu hoàng Bảo Đại thật ra còn có những
biểu hiện bộc lộ thêm sau khi đã trở về Việt Nam với tư cách Quốc trưởng. Theo
lời kể của Bùi Nhung, một người có nhiều dịp gần gũi: “Ông Bảo Đại có lúc như
phát khùng… Nếu đem những việc khùng ấy phối hợp với những lời than thở của ông
cùng những người ông chắc chắn là thân tín, như bác sĩ Phan Huy Đán và cụ Trần
Trọng Kim thì chúng ta có thể đặt một nghi vấn: Phải chăng ông Bảo Đại bầy ra cảnh
sa đọa để đánh lạc hướng bọn thực dân và tay sai thực dân ở quanh mình?… Lịch sử
sau này chắc chắn sẽ giải được nghi vấn mà tôi vừa nêu ở trên” (sđd., tr. 160).
Tháng 10.1955, Bảo Đại bị Mỹ truất phế, đưa Ngô Đình Diệm
(1901-1963) lên thay. Từ đó ông sống lưu vong thầm lặng ở Pháp rồi mất tại đây
năm 1997.
Cuối đời, Bảo Đại có để lại tập hồi ký chính trị giai đoạn
1913-1987 bằng tiếng Pháp, được dịch sang tiếng Việt dưới nhan đề Con rồng
Việt Nam, do những người thân trong hoàng tộc Nguyễn triều đưa ra xuất bản năm
1990 tại Mỹ. Tập sách nếu được thẩm định kỹ, lọc bỏ những chi tiết chưa sát sự
thật, có thể cung cấp thêm nhiều sử liệu mới lạ, qua đó cũng cho thấy ông không
phải là một nhân vật quá ngu ngơ tầm thường và thiếu ý chí hoài bão như một số
người có thể tưởng.
Dù sao, trước giai đoạn 1945, ông thường bị mang tiếng có
thói ham chơi liều mạng và ít nhiều vô trách nhiệm với đại cuộc đất nước, nếu
quả thật vậy, thì chính mấy cái đặc tính tiêu cực này lại có khía cạnh khả ái,
đi kèm theo một số mặt tích cực: người như vậy thường dễ dãi (bởi tự biết khuyết
điểm của mình), ít tham vọng chính trị và ham hố quyền lực, nên luôn yêu chuộng
cuộc sống hòa bình cho mình và cho người khác, không muốn sinh linh bị tàn sát
vì những mưu đồ quyền lực. Nếu cố bám lấy ngôi vị bất cứ giá nào, Bảo Đại không
chịu thoái vị trước cao trào cách mạng đang lên thì Việt Minh tuy trước sau vẫn
có thể giành được chính quyền nhưng chắc chắn không dễ dàng và êm đẹp như thực
tế đã xảy ra trong Cách mạng tháng Tám … Cái nhún vai nhẹ của ông khi quyết định
thoái vị, cũng như câu nói gọn hơ “Như thế thì thật đáng thoái vị” (Phạm khắc
Hòe, sđd. tr. 69), khi vừa được nghe biết Hồ Chí Minh (1890-1969) chính là Nguyễn
Ái Quốc, có thể chứng tỏ Bảo Đại đôi khi coi ngôi báu chỉ đáng là một mảng phù
vân.
Cũng như Nội các Trần Trọng Kim, Bảo Đại bị mang tiếng là một
ông vua bù nhìn, theo nghĩa vô dụng chẳng làm được gì. Nhưng Nội các Trần Trọng
Kim dưới quyền Bảo Đại trên thực tế đã bắt tay thực hiện thần tốc hàng loạt
công việc, mà riêng về mặt tốc độ tiến triển, có thể gọi là vô tiền khoáng hậu
trong lịch sử, với một chính quyền chỉ tồn tại thực tế khoảng 4 tháng.
Đến như việc Nội các dưới quyền ông can thiệp với Nhật để thả
cả tù nhân cộng sản, thì tinh thần đoàn kết hòa giải hòa hợp dân tộc đã được thực
hiện đúng lời hứa, và đến thế là cùng!
Về phong cách làm việc, Bảo Đại ít khi can dự sâu vào công việc
của Nội các, phần vì biết tin tưởng người dưới, phần khác cũng không muốn can
thiệp nhiều chi cho mệt. Ông chỉ đứng sau lưng ủng hộ, mỗi việc quan trọng đều
chỉ bàn thảo nhau rất nhanh trong vài giờ rồi đưa ra quyết định thi hành, thông
qua sự chuẩn y cũng chỉ trong vài phút, điều mà ngày nay, nếu so sánh, chúng ta
sẽ thấy vô cùng khác biệt, vì có những việc người ta bàn bạc tập thể mãi đến
20-30 năm cũng chẳng đi đến đâu, như việc cải cách tiền lương hay sửa đổi những
sai lầm trong công tác giáo dục, y tế chẳng hạn! Đặc biệt, với chương trình
giáo dục Hoàng Xuân Hãn, hoàn tất chỉ trong vòng một tháng (so với chương trình
giáo dục ngày nay gần 40 năm rồi vẫn chưa hoàn tất!), nhất định nó phải được tiến
hành một cách nhanh gọn nhờ vào trình độ học vấn vững chắc cộng với nhiệt tâm
và lòng yêu nước thiết tha của một tập thể trí thức chân chính tự nhận lấy
trách nhiệm rất cao đối với tiền đồ dân tộc…
Đến đây, tôi đã cố gắng trình bày tương đối đầy đủ về nhân vật
lịch sử Trần Trọng Kim cùng Nội các của ông, bằng việc chắp vá, tổng hợp lại từ
một số tài liệu chủ yếu bao gồm những tập hồi ký có được trong tay mà các tác
giả đều là chứng nhân của thời cuộc, với một phần dè dặt thận trọng về tính chủ
quan cũng như về độ chính xác của thể loại hồi ký. Những tài liệu này kể ra
cũng chẳng quý hiếm gì. Nó chỉ hơi khó kiếm đối với một số bạn trẻ, vì có thời
gian, từ nhiều lý do ngoắt ngoéo của lịch sử, chúng đã ít được phổ biến hoặc được
nhắc tới, nhất là đối với khu vực phía Bắc từ sau Cách mạng tháng Tám. Đó là một
trong những lý do khiến tôi nảy ra ý định trình bày lại các sự kiện lịch sử
liên quan một cách tản mạn, trong khi chưa đủ khả năng trình độ viết thành một
chuyên luận có hệ thống, nhằm mục đích để các bạn trẻ ngày nay được biết thêm về
một khúc quanh lịch sử đặc thù đầy đau thương buồn bã của dân tộc, điều mà họ
không thể tìm đọc được trong các sách giáo khoa hiện tại.
Bài viết có thể cũng chẳng đưa ra thêm được nhiều điều gì mới
mẻ liên quan nhân vật lịch sử Trần Trọng Kim, tuy có cố gắng dùng thêm một số
tư liệu còn ít được người biết tới. Trong lúc trình bày, đôi khi tôi cũng có lạm
dụng trích dẫn hơi nhiều từ một số tập hồi ký hoặc loại tài liệu khác, nên mong
những tác giả hữu quan thông cảm, vì dường như đó cũng là cách tốt nhất cho
phép tái hiện diễn biến lịch sử một cách sinh động và bớt tẻ nhạt, nhờ ghi lại
được lời nói của chính các nhân chứng lịch sử. Riêng phần đánh giá nhân vật lịch
sử Trần Trọng Kim, khá phức tạp, tôi đã cố gắng kiềm chế sở kiến riêng của mình
ở mức hợp lý, và chỉ nhận cái nhiệm vụ chủ yếu ghi chép lại ý kiến của nhiều
người khác để rộng đường tham khảo.
Nhắc lại chuyện cũ, tôi hoàn toàn không có ý định đề cao ai
hoặc phê phán ai, chỉ cốt tuần tự trình bày các sự kiện thu thập được qua tài
liệu sách vở. Song vì điều tôi quan tâm hơn cả là muốn qua những câu chuyện quá
khứ, chúng ta ngày nay có thể suy nghiệm được những bài học lịch sử hữu ích gì
để áp dụng cho hiện tại và tương lai, nên trong khi “tản mạn”, tôi cũng có tùy
hứng thỉnh thoảng đưa vào một vài nhận định riêng có tính chủ quan của người viết,
chỉ nhằm gợi ý tham khảo, chứ không có ý muốn người khác phải đồng tình hết với
mình.
Tôi cũng muốn nhân câu chuyện Trần Trọng Kim mà trình bày một
số vấn đề liên quan khoa học lịch sử và việc giảng dạy môn học này trong các
trường học hiện tại. Theo quan niệm đơn giản của tôi, về môn lịch sử, trước nhất
phải tôn trọng sự thật chứ không nên vo tròn bóp méo vì bất cứ lý do gì, và phải
được biên soạn theo đúng phương pháp chuyên ngành, rồi trình bày nó ra bằng một
thứ ngôn ngữ khoa học vừa lịch sự, nhã nhặn vừa chuẩn xác và có tính trung hòa.
Trong các công trình sử học cũng như trong sách giáo khoa về môn lịch sử, nhất
định phải không chứa sự sân hận đối với những gì đã xảy ra trong quá khứ.
Trước đây, nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng cực đoan thiếu
khách quan trong khi trình bày lịch sử cũng như phê phán các nhân vật lịch sử,
trong đó có nguyên tắc bất di bất dịch về tính Đảng, tính khoa học, vốn một thời
được coi là “vấn đề trung tâm của phương pháp luận sử học mác-xít” (xem Phạm
Xuân Nam, “Về những vấn đề phương pháp luận trong công tác sử học của chúng ta
mấy chục năm qua”, Sử học Việt Nam trên đường phát triển, sđd., tr. 246),
mà hai năm trước Viện Sử học cùng Hội Sử học đã kịp nghĩ lại khi họ đề xuất kế
hoạch sẽ tổ chức biên soạn một bộ thông sử Việt Nam mới với nội dung vượt qua
được những giới hạn ràng buộc của vấn đề ý thức hệ. Cách triển khai hay là
nghệ thuật chủ yếu của cái phương pháp luận sử học cũ kỹ vừa nói trên là “tự
viên kỳ thuyết”, tức trong khi giải thích các sự kiện-hiện tượng lịch sử, tìm mọi
cách vo tròn bóp méo sao cho phù hợp với hệ quy chiếu lý luận đã định sẵn một
cách xơ cứng, kết quả là cho ra những bài viết hoặc công trình nghiên cứu của
những tác giả khác nhau nhưng đều có luận điệu, cách diễn đạt và thậm chí cả
câu chữ cũng gần gần giống nhau. Đây cũng là một trong những lý do quan trọng
khiến cho môn học Lịch sử trở nên nhàm chán đối với học sinh các cấp suốt mấy
chục năm nay, mà nếu không giải quyết từ căn bản, sẽ chẳng bao giờ tìm thấy lối
ra, cho dù có tổ chức thêm hàng trăm cuộc hội thảo cũng vậy!
Xem bài “Về những vấn đề phương pháp luận…” của Phạm Xuân Nam
trong cuốn Sử học Việt Nam trên đường phát triển, thấy tác giả có nêu mấy
vấn đề “cần tiếp tục soi sáng” thêm, như “Mối quan hệ giữa nghiên cứu và trình
bày lịch sử”, “Ngôn ngữ sử học”… (sđd., tr. 268). Hiện tôi chưa tìm được tài liệu
nào của nhà sử học Việt Nam viết về ngôn ngữ sử học nên mãi đến nay vẫn còn
chưa hiểu sâu về phong cách của ngôn ngữ sử học. Nhưng dù nó có phải là thứ
ngôn ngữ khoa học đòi hỏi tính chuẩn xác và tính trung lập hay không, tôi vẫn
dám chắc đó tuyệt đối không phải là thứ ngôn ngữ văn chương mạt sát kiểu “đào mồ
cuốc mả” kẻ thù, hoặc giống những bài hịch văn kêu gọi quần chúng nổi loạn, mỗi
khi cần đề cập những nhân vật lịch sử quen gọi “phản diện”, hoặc sự kiện lịch sử
đã đi hẳn vào quá khứ!
Đối với kẻ thù đã ngã ngựa, khi viết sử, không nên dùng những
lời lẽ hằn học khó chịu, hoặc mang tính chiến đấu quá cao, vì việc đánh giết
nhau chỉ bất đắc dĩ và xét cho cùng, nếu đứng trên lập trường nhân bản, cũng chẳng
hay ho ích lợi gì. Vì vậy, tôi rất thích lối nói công tâm nhũn nhặn của nhà sử
học Pháp Philippe Devillers chuyên khảo cứu về lịch sử Việt Nam giai đoạn chiến
tranh Việt-Pháp 1945-1954 mà ông thuộc “bên thua cuộc”: “Băn khoăn giữa một bên
là ý thức tôn trọng sự thật và một bên là những tình cảm yêu nước thúc đẩy mình
phải đồng tâm với đồng bào [Pháp], một nhà sử học Pháp làm sao có thể phân tích
được một cách khách quan và sâu sắc một cuộc chiến tranh đã đối lập, từ 1945 đến
1954, hai đất nước mà với mình đều rất thân yêu, là nước Pháp và nước Việt Nam,
nhất là khi ông ta [tức tác giả Devillers] biết rằng nếu chia phần lầm lỗi ra
hai bên thì phần lớn lầm lỗi lại thuộc về phía chính đồng bào [Pháp] mình” (“Lời
tựa”, sđd., tr. 5).
Đối với bên “chính diện”, hay “bên thắng cuộc”, nếu đã chấp
nhận nguyên tắc ngôn ngữ sử học là loại ngôn ngữ khoa học trung tính/ trung lập
thì thiết tưởng cũng không nên tự ca ngợi mình quá đáng. Câu chữ diễn đạt càng
phải chính xác, trung tính, chẳng hạn, thậm chí danh xưng “Bác” để gọi Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong các sách giáo khoa lịch sử tiểu học lâu nay cũng sẽ không còn
phù hợp.
Đã có thời gian khá dài, khi khảo cứu văn-sử, người ta đã mạnh
miệng gọi vua Gia Long là “y”, là “hắn”…, thì chưa cần biết vua là người thế
nào, cái lối trình bày lịch sử đưa vào sách vở như vậy chẳng khác nào vô tình
giáo dục cho con người lòng thù hận, và thói trịch thượng đối với tiền nhân,
hoàn toàn không phù hợp với đức tính chung nho nhã, lễ phép, khiêm cung của dân
tộc Việt Nam, và cũng chắc chắn không có lợi cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ.
Chú thích:
* Tài liệu này đã được hai anh Nguyễn Bá Dũng và Nguyễn
Văn Tiến (Huế) cung cấp, nhân đây chúng tôi xin ghi nhận thiện ý của hai anh.
Ngoài ra, chúng tôi cũng xin gởi lời cám ơn đến một số bạn đã giúp nhiều tài liệu
quý hiếm khác trong quá trình hoàn thành bản thảo, gồm các anh: Bùi Thanh Hải,
Phạm Minh Đăng, Trần Nhật Vy, Trần Văn Duy, Nguyễn Đức Thành, Thích Không Hạnh…
25/11/2013
Trần Văn Chánh
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét