Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2024

Tơ lòng còn vương

Tơ lòng còn vương

Kỳ I
Mời mọi người cùng nhau trở về thời hoàng kim hoa mộng
Lời của Đằng lúc 12 tuổi cuối năm đệ thất, tức lớp 6:
Hổng biết sao dạo nầy được nghỉ hè ở nhà tôi lại hay nghĩ tới “con” Trúc Đào hoài hủy.
Kỳ lạ thật, chứ hồi đang trong niên học tôi còn xem “nó” như cái gai rất khó chịu đây mà.
Mỗi lần đi học, sáng nào má cũng vào giường lôi tôi dậy bằng cách nắm hai cánh tay tôi kéo mạnh. Vì tôi có tật ngủ nướng rất say, má kêu chừng 15, 20 phút từ ngọt ngào tới nạt nộ tôi mới chịu ngồi lên, lừ đừ ra khỏi giường mắt nhắm mắt mở lấy bàn chải nặn kem đánh răng. Đến chừng nhìn đồng hồ thấy giờ vô học gần kề, thì quýnh quáng ba chân bốn cẳng vắt giò lên cổ mà chạy không kịp ăn uống.
Chuyện nầy xảy ra thường xuyên đến nổi tựu trường năm nay má vừa soạn bộ đồng phục quần xanh, dây nịt, áo sơ mi trắng cụt tay đưa cho tôi vừa nói:
- Năm nay con lên bậc trung học, tức là người lớn hơn chút rồi. Từ giờ là phải biết tự thức dậy lo sửa soạn chớ không phải lúc nào cũng chờ má vào kêu năm lần bảy lượt mới chịu ngồi lên. Hư là cũng bị ăn roi mây như thường đó.
Tuy bị doạ vì nhiều lần phá phách nhưng thật ra tôi cũng ít ăn đòn lắm. Ba má nghiêm khắc nhưng rất thương yêu con cái, giáo dục bằng những bài luân lý hơn bằng roi vọt.
Mỗi khi phạm lỗi, ba anh em tôi bị bắt cúi nằm dài trên giường (trừ anh hai Tường ra ), má cầm cây roi nhịp nhịp lên mông mỗi đứa và giảng một bài morale y hệt lần nào cũng như lần nào đến nổi tụi tôi thuộc lòng. Sau đó mới cho mỗi đứa 3,4 hoặc 5 roi tuỳ theo lỗi nặng nhẹ. Rồi từ đứa ngồi dậy khoanh tay nói rằng:
- Dạ con biết lỗi rồi xin má tha thứ cho con, lần sau con không dám phạm lỗi nữa.
Ba tôi nói:
- Em phủi bụi cho chúng nó đó hả?
Bị đánh tuy không đau nhưng anh em tôi rất sợ. Có lẽ vì bài giảng đạo đức của má khiến anh em tôi mặc cảm mình là đứa trẻ hư hỏng hoang đàng. Nào là: Cá không ăn muối cá ương
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư
Nào là: Tiên học lễ, hậu học văn. Bây giờ còn nhỏ mà không biết lễ nghĩa, sau này lớn lên có thành ông Cống, ông Nghè cũng chẳng ai coi trọng vì thiếu đức....
Tôi suy nghĩ lại mình đâu có đến nổi thiếu giáo dục, so với lũ bạn trong lớp thì mình thuộc vào hàng ngoan ngoãn đứng đắn mà. Bằng chứng là tôi được bầu làm lớp phó do học giỏi và hạnh kiểm chứ bộ. Đáng lẽ tôi làm lớp trưởng, nhưng vì tuổi nhỏ nên thầy hướng dẫn chỉ định anh Nam lớn nhất lớp làm trưởng. Ở trường tôi được mấy thằng bạn và mấy đứa con gái nể nang, vậy mà về nhà tôi không có gram nào hết trong con mắt của ba má.
Mỗi tháng tôi đem bằng khen dành cho học trò xếp hạng từ 1 đến 5 về nhà trình với ba má đều đặn. Chỉ có hai lần gì đó là rớt hạng hà. Lần đầu là vì tôi ham đi xúc cá lia thia với thằng Mạnh, Phú về nuôi. Gặp trời mưa nên bị cảm nằm nhà cả chục ngày không làm toán nộp bị mất điểm, lọt sổ.“Con”Trúc Đào chiếm hạng nhất của tôi. Lần thứ nhì là do hôm đó có trận đấu bóng bàn liên trường nhằm chiều thứ sáu mà anh hai dự thi, gần như tất cả tụi con trai lớp tôi đều trốn học đi coi nên thầy cho zero. Dovậy mà “con” Trúc Đào lại chiếm hạng của tôi lần nữa.
Đã vậy, tôi còn bị má đánh 5 roi thật đau vì anh hai vô tình kể trong bửa ăn về trận đấu. Đội của ảnh thắng, nên ảnh tía lia cái miệng khoe khoang tùm lum. Tôi cũng xen vô tường thuật tiếp cái pha anh Tường đón trái banh tròn nhanh nhẹn ra sao... Bỗng ba nhìn tôi trân trân, tôi giựt mình tim nhảy thót một cái ngó lại ba, biết giấu đầu lòi đuôi rồi. Ba chưa kịp nói gì thì má tinh ý nhận thấy thái độ hai cha con, má hỏi:
- Ủa, anh Tường thi đấu sao Đằng kể rành quá vậy? Bộ có đi coi hả?
Tôi sợ xanh mặt nín thinh, tim đập bình bịch trong lồng ngực. Anh Tường oang oang:
- Dạ, Đằng có đi xem con đấu mà. Nhóm bạn nó cổ vỏ cho con quá trời luôn. Nó nói lớp được thầy cho nghỉ.
- Có thật không Đằng? Có thật thầy cho nghỉ không?
Má hỏi giọng nhẹ nhàng nhưng chứa đầy đe doạ báo hiệu cơn giông sắp ập xuống. Tôi lí nhí:
- Dạ hổng có. Tụi con trốn học đi coi ạ.
- Vậy à, giỏi quá hén. Ba anh của con chưa đứa nào dám trốn học bao giờ, vậy mà con dám. Thêm vào tội nói dối anh Tường nữa. Ăn cho xong đi, rồi lên giường cúi xuống cho má.
Không khí sôi nổi trong bửa ăn chùng xuống, mấy anh nhìn tôi bằng ánh mắt thương hại. Còn tôi thì cứ nhai mãi mấy hạt cơm mà nuốt không trôi. Nước mắt bắt đầu nhỏ xuống rớt vô chén vài giọt. Má chan canh vào chén cho tôi, nói nhẹ nhàng:
- Con ăn canh vào cho dể nuốt.
Tôi oà lên khóc nức nở, bỏ dở chén cơm leo lên giường chờ sẳn. Nghe loáng thoáng anh Tường xin má tha cho tôi lần nầy, nhưng má cương quyết nói cái tội dám trốn học và nói dối là không tha được. Nếu chìu một lần là tôi sẽ được nước phạm tội tiếp tục.
Tôi tưởng mình cứng rắn lắm, nhưng lâu lâu cũng yếu đuối như vậy đó. Chắc vì là con út nên khá nhõng nhẽo với má.
Sau đó tôi không bao giờ tái phạm nữa, cho dù trận đấu của anh Tường có quyết liệt cở nào cũng hết quyến rủ được tôi.
Chuyện ăn đòn tôi hổng kể cho thằng bạn nào nghe hết. Nếu không tụi nó sẽ chế nhạo um sùm, tới tai tụi con gái nhiều chuyện là quê chết luôn. Giận cá chém thớt, mỗi lần nhớ tới chuyện bị đòn năm roi, bị thầy cho zero, bị sụt hạng là tôi trút giận hết lên đầu Trúc Đào như thể chính nó là nguyên nhân những bất hạnh của tôi vậy.
Con nhỏ nầy kiêu căng phách lối nhất trong đám con gái các lớp đệ thất toàn trường đó. Chắc nó ỷ học giỏi lại đẹp nữa chớ gì.
Kể ra nhờ ba má nghiêm khắc nên anh em tôi ai cũng học giỏi cả. Hể anh Khải, anh Phúc hay tôi hơi lơi là việc học thế là ba hoặc má đem anh Tường ra làm thí dụ:
- Tụi con có thấy anh Tường không? Học giỏi, thi tú tài 1 đậu hạng ưu, chơi thể thao giỏi, hoạt động xã hội cũng tích cực, về nhà còn tiếp má ăn xong rửa chén, quần áo phơi khô đem vô, xách nước tưới cây, đóng lại chân ghế hư v.v... Ba má chỉ cần các con noi gương được phân nửa của anh Tường thôi là ba má mừng rồi.
Má tôi biết dùng thuật tâm lý chiến để dạy ba đứa con nhỏ bằng cách đem anh Tường ra làm gương, tài tình chưa?! Vì vậy mà ba anh em tôi cố gắng học để làm ba má vui lòng và để không quá thua kém anh hai mới được. Tối tối anh Tường thường chỉ bài cho anh Khải, rồi anh Khải chỉ cho anh Phúc, anh Phúc chỉ cho tôi. Những môn toán, lý hoá hể thầy cô cho học tới bài nào thì về nhà các anh bắt tôi làm thử bài tập trước. Anh văn thì được ba dạy từ lúc còn tiểu học nên tôi không gặp khó khăn gì. Nhờ vậy khi thầy cô cho bài tập, các bạn còn phải suy nghĩ tìm câu giải, riêng tôi cứ đủng đỉnh mà viết. Các bạn nể phục tôi lắm.
Một hôm thầy Anh văn thay đổi phương pháp dạy, có lẽ muốn thúc đẩy tinh thần ham học của học sinh nên thay vì cho cùng lúc nhiều câu như thường lệ, thầy chỉ viết lên bảng một câu duy nhất, kêu chúng tôi:
- Ai đem tập nộp đầu tiên và đúng thì sẽ được 20 điểm, ai nhanh thứ nhì và đúng sẽ được 19 điểm, và xuống dần 18, tôi chỉ chọn 5 em thôi.
Nghe thế, từ thái độ nhẩn nha tôi chuyển sang nước rút, vì muốn là đứa đầu tiên. Vừa buông cây bút định mang bài nộp, tôi nghe có tiếng ồ à thán phục của các bạn. Tưởng chúng khen mình nhưng không phải, mọi cặp mắt đều đổ dồn về cái bóng tà áo trắng đang lướt nhanh lại bàn thầy. Ô hay, ai vậy ta? Ai mà làm bài nhanh hơn tôi thế? A là cái con nhỏ trắng trắng cao cao, để tóc xõa ngang lưng, khá nghiêm trang ít nói tên Trúc Đào. Thầy khen:
- Giỏi, em trả lời đúng thầy cho 20 điểm.
Các bạn xuýt xoa thán phục, nó cầm tập trở về chỗ ngồi lúc tôi vừa đi ngang, hình như mặt nó hơi ngẫng lên trời ra chiều dương dương tự đắc lắm. Thầy nói:
- Đằng làm đúng nhưng chậm hơn Trúc Đào, em được 19.
Buổi học Anh văn hôm đó tôi cảm thấy tức tối gì đâu. Nghĩ mình giỏi nhất môn Anh văn, ai dè con nhỏ nầy nhảy vô chiếm hạng. Giờ ra chơi tự nhiên chán không muốn chạy đua với Mạnh, Phú, Thi từ đầu sân tới cuối sân xem ai thắng nữa. Mấy đứa hỏi vì sao, tôi phát cáu trả lời:
- Chả vì sao hết, tao không thích chạy thì không chạy vậy thôi.
Từ đó về sau, thầy H. cứ áp dụng phương pháp “ai nhanh chân” là được 20 điểm. Lần thứ nhì tôi đâu có để Trúc Đào thắng vì tôi đã cảnh giác rồi. Thế là tôi cầm vở đi xuống lúc nó đi lên, ngang mặt nhau, tôi cũng hếch cằm trả đũa lại. Nhưng hình như nó phớt lờ đâu để ý gì đến tôi.
Lần thứ ba thì tôi lại thua nó. Không phải vì chậm chân mà vì tôi làm ẩu không suy nghĩ, cứ sợ Trúc Đào nộp bài trước nên chữ “man” khi đổi ra số nhiều tôi lại viết là “mans” thay vì “men”. Một lỗi mà chưa bao giờ tôi phạm trước đây. Thầy cho tôi 1 điểm, Trúc Đào 20 tuy là người thứ nhì. Đã vậy thầy còn nói nhỏ vào tai tôi để các bạn đừng nghe:
- Thầy cho em 1 điểm để em rút kinh nghiệm đừng dục tốc bất đạt.
Mặt tôi nóng ran, chắc là đỏ như trái ớt chín. Tôi hiểu ý thầy định nói khác là đừng có “ăn thua đủ” với con gái, xấu lắm.
Bửa đó về nhà tôi cứ buồn buồn thế nào ấy. Ăn cơm xong là tôi lấy bài ra xem ngay chứ không chạy ra vườn kiếm cỏ cho dế ăn như thường lệ đến nổi má cũng ngạc nhiên cứ nhìn tôi dò xét mà không nói gì.
Nhưng tối chờ tôi đi ngủ má kêu anh Khải lục cặp tôi ra xem. Tôi biết
vì tối hôm sau anh giả bộ rũ tôi đi lại nhà bạn anh mượn bài, chở tôi trên chiếc xe đạp anh hỏi vì sao mà tôi lại viết sai cái chữ không đáng như vậy. Tôi kể vì tôi sợ thua con Trúc Đào nên vội vã. Anh cười:
- Thua con gái một chút không sao, nhường nhịn phái yếu cũng là một đức tính đáng quí của con trai đó Đằng.
Tôi không chịu:
- Em không hiểu. Em nhớ hồi tiểu học có học bài nói ganh tỵ là một thói xấu nhưng ganh đua học tập là được khích lệ mà?
- Thì đúng ganh đua học tập khác với ganh tỵ. Nhưng Đằng có thấy chỉ vì sợ thua bạn mà rốt cuộc em làm bài ẩu, kết quả còn thảm hại hơn nữa đó sao. Đó là ganh đua học tập hay tranh tài cao thấp nè?
Tôi suy nghĩ lại, anh Khải nói có lý.
Nhưng vẫn ấm ức trong bụng, có nhiều dịp để “trả thù” là tôi sung sướng lắm. Tôi luôn chờ đến môn toán, lý hoá; điểm tôi lúc nào cũng cao nhất nhì còn nó thì có lúc làm được có lúc không, thấy nó ít điểm là tôi hả hê. Vì tôi là lớp phó nên thường thay anh Nam lên văn phòng ban Giám Hiệu mang sổ điểm về lớp mỗi đầu buổi học, tôi hay xem điểm của nó rồi so sánh với của mình. Chà, con nhỏ nầy chỉ thua tôi có môn toán, lý hoá chứ các môn khác nó đều trên trung bình đến giỏi, nhất là môn Việt văn, Anh văn. Thằng Phú nói: Tụi con gái dốt toán lý hoá, bù lại siêng học bài nên mới ăn điểm con trai thôi.
Thật vậy, tôi sợ nhất môn luận văn, toàn nhờ má dạynên được điểm cao, đâu ai biết là tôi dốt. Đến kỳ thi lục cá nguyệt phải làm bài tại lớp, hết nhờ má được nên bài thi luận của tôi chỉ được 11, 12 điểm là tối đa. Cô dạy Việt văn rất ngạc nhiên. Tôi hơi xấu hổ, tự nhủ là về nhà chịu khó đọc nhiều sách như anh Phú. Nhưng chỉ được vài ngày, sau đó tôi ham chơi đá dế, bắn giàn thun, cá lia thia, tắm sông...lại ngưng đọc.
Thời gian trôi qua, tôi càng ghét Trúc Đào hơn. Mỗi lần thầy, cô trả bài kiểm về là tôi chỉ muốn biết nó được bao nhiêu điểm. Hể hơn điểm, tôi khoái trá, còn ngược lại là tôi nổi quạu dù chỉ thua nó có nửa điểm. Cái kim trong bọc lâu ngày lòi ra, tụi thằng Mạnh, Phú,Thi mà còn biết ác cảm tôi dành cho Trúc Đào huống hồ gì nhân vật chánh. Tôi để ý khi nó nói chuyện với các bạn trai gái trong lớp thì nói năng nhẹ nhàng, cười thật tươi. Mà hể tôi lại nhập bọn là mặt nó nghiêm như bà cô già và im lặng luôn, chả nhìn tôi cái nào. Xí, mặc kệ chứ. Làm như ta cần nói chuyện với nhỏ lắm vậy, đừng ỷ mình có nụ cười đẹp mà kiêu ngạo nhé. Phải công nhận nó có nụ cười quá duyên dáng. Như anh Phú có lần kể tôi nghe về bức tranh Mona Lisa, người đẹp với nụ cười bí hiểm. Tôi thấy trong hình thì còn thua xa nụ cười của Trúc Đào nhiều.
Tôi ghét nó, chắc nó cảm nhận được nên ghét lại tôi chứ gì. Giác quan thứ sáu con người ta bén nhậy lắm. Tôi nghe anh Tường nói chuyện với chị Khanh, bạn gái của ảnh như vậy, rồi giải thích cái gì dài dòng lắm tôi hiểu lờ mờ thôi.
Theo ngôn ngữ thể thao thì trong trận đấu thầm lặng ganh đua học tập nầy hai chúng tôi ghi mỗi đứa một bàn thắng, tỷ số 1-1. Có một điều bí mật mà tôi không kể với mấy thằng bạn nhất quỉ nhì ma, ngược lại tôi chắc Trúc Đào cũng không hé môi với mấy đứa con gái nhiều chuyện bạn nó.
Số là tôi chạy xe đạp khá giỏi. Vẫn thường hẹn với mấy đứa đua xem ai nhanh hơn. Hôm đó, má sai tôi ra chợ mua chai nước mắm về ăn bún bò xào, vì nhà hết mà má quên mua. Trên đường về - thời điểm ấy chỉ lác đác vài người đi bộ xa xa - tôi một tay vịn ghi đông xe một tay cầm chai nước mắm giơ thẳng lên cao, bon bon luồn lách qua mấy hòn đá hay ổ gà rồi tưởng tượng mình là vô địch vòng đua Pháp. Vừa chạy zic zắc vừa rống vang trời mấy câu anh Tường anh Khải hay hát:
Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
Lê sau bàn chân gông xiềng của thời xa xăm
Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang
(Việt Nam quê hương ngạo nghễ, Nguyễn Đức Quang)
Bỗng tôi thoáng thấy Trúc Đào đi bên lề đường với một người chắc là chị của nó. Hồi nào giờ tôi chỉ thấy nó trong đồng phục áo dài trắng quần trắng, hôm nay lần đầu tiên tôi thấy nó mặc cái áo đầm màu hồng phấn, tóc rẽ hai bên cột bằng hai cái nơ cùng màu áo. Hai đuôi tóc nhún nhẩy theo nhịp chân đi, giống như nàng công chúa nhỏ. Miệng còn há to chưa kịp ngậm, tôi cứ trố mắt ra nhìn nó nên cán lên cục đá thật bự; chiếc xe ngã ngang, tôi lộn chỏng vó chai nước mắm bể tan tành, mảnh thuỷ tinh cắt tay chảy máu, người đau điếng. Chị của Trúc Đào chạy lại đở tôi lên, hỏi han rối rít còn nó đứng kế bên đưa mắt nhìn tôi chăm chăm không chào hỏi tiếng nào hết. Tôi vừa đau vừa quê nói không ra hơi:
- Dạ cám ơn chị, em hơi đau chút thôi à.
- Nhà em ở gần đây không? Tay em trầy hết rồi, bị cắt chảy máu nữa. Có cần chị kêu xích lô chở em với xe đạp về?
- Dạ nhà em gần đây thôi, em chạy được.
- Ừ, vậy em về băng bó vết thương kẻo nhiễm trùng. Tội nghiệp chai nước mắm bể rồi, dính vào người em cũng tắm liền nha không thì bị dị ứng.
Chà chà, chắc người tôi hôi lắm đây. Mặt tôi nóng bừng vì xấu hổ nhớ cảnh mình giơ tay hò hét vang trời như một tiểu anh hùng rồi bị lật nhào trước sự chứng kiến của cái đứa mà mình ghét nhất như vậy.
Khi về nhà cởi quần áo đi tắm, tôi lại một phen kinh hoàng nhận ra quần có một đường rách dài ngay..mông. Trời, thảo nào mà con Trúc Đào nó giả bộ loay hoay dòm trời ngó đất. Tối đó tôi không tài nào ngủ được vì viễn cảnh sáng mai thấy mấy bộ mặt cười cợt của Trúc Đào và đám bạn nhiều chuyện của nó. Nhưng trái với dự đoán, Trúc Đào lạnh lùng tỉnh bơ như mọi ngày, tức là coi như tôi không hiện diện trên đời ấy. Chả thấy có ánh mắt chế giễu của đứa nào hết. Kể ra con nhỏ nầy cũng..cao thượng, fair play đây. Lòng tôi dấy lên một sự nể phục mơ hồ đối với nó.
Coi như tôi mắc nợ với Trúc Đào, chờ có dịp sẽ trả lại. Yên tâm, tôi lại quay về những trò nghịch ngợm quấy phá vô tư của đứa con trai 12 tuổi.
Dịp trả nợ rồi cũng đến.
Vào một buổi trưa chủ nhật lũ bạn rủ đi vườn ổi ở ngoại ô cách thị xã chừng 2 km. Để tới nơi hẹn, tôi phải chạy ngang nhà Trúc Đào, mà thằng Phú mới khám phágần đây. Nó nói nhà Trúc Đào có cái sân nho nhỏ trồng mấy cây xoài thanh ca, cây lý trái thật nhiều, hàng rào dâm bụt hoa màu đỏ thắm đẹp lắm.Cổng vào có giàn ti gôn hoa màu hồng chi chít. Hai bên hông nhà thêm mái lợp lá để che nắng, nó thấy chị em Trúc Đào hay bắt ghế bố ngồi chơi, đọc sách. Vì vậy trưa đó, tôi đạp xe trên con đường này mà cũng có ý xem để thoả tính tò mò.
Kia rồi, nhà có giàn ti gôn trước cổng, hàng rào dâm bụt đây. Đạp xe chầm chậm, ngóng cổ vào sân thì thoáng thấy có hai bóng người nho nhỏ in như Trúc Đào. Chưa kịp nhìn kỷ thì tôi nghe tiếng con gái cất lên lảnh lót:
- Chị Trúc Đào ơi, con chị khát sữa khóc quá trời nè. Chị lấy chai sữa cho nó bú đi.
Hả? Cái gì? Trúc Đào có con? Nó mới giỏi lắm 12 tuổi bằng tôi chớ gì. Mặc áo dài thân hình phẳng phiu như tấm ván. Tôi nghe tiếng Trúc Đào trả lời:
- Ờ đưa con đây chị dỗ nó. Con nín đi con đừng khóc, mẹ với dì bế đi dạo công viên nha. Rồi nó hát khe khẻ:
Con ơi à ơi, đây là giấc ngủ ban đầu mẹ ru con
Bên ngoài gió thổi Năm non
(Rồi hai mươi năm sau, Trầm Tử Thiêng)
Ôi trời, thật không ngờ. Tôi rụng rời muốn buông tay cầm ghi đông xe luôn. Nhưng còn cố nhìn cho kỹ coi đứa bé ra sao? Ủa, mà đâu nghe tiếng khóc. Lúc ấy hai chị em nó đi lững thững lại gần hàng rào, vừa đi vừa đong đưa nhè nhẹ cái gói gì trong cánh tay được che lại bằng tấm khăn màu hồng. Tôi ngừng xe, rướn người nhìn. Hai chị em (tôi đoán là em vì cô bé này khoảng 10 tuổi gương mặt giống tạc Trúc Đào) thình lình nhìn lên bắt gặp tôi đang ngó trộm, nó giật mình đứng chết trân gương mặt ửng đỏ như gấc chín. Rồi quay lưng chạy tuốt vô nhà, tôi vẫn còn kịp nhìn thấy cái gói nó bế chính là con búp bê bằng nhựa!!!
Thì ra chị em nó đang chơi nhà chòi, giả làm mẹ. Trời ơi, đã là nữ sinh trung học mặc áo dài tha thướt thế mà về nhà còn chơi búp bê!!! Ha ha ha, tôi nhanh chân đạp xe cái vù đi thật xa mới dám dừng lại ôm bụng cười ngặt nghẽo. Lát sau, khi gặp lũ bạn ở chỗ hẹn mà miệng tôi vẫn chưa ngậm lại bình thường được, khiến thằng Thi tò mò:
- Có chuyện gì vui mà mày hí hửng thế?
Tôi định đem chuyện Trúc Đào ra kể, nhưng chợt nhớ lại lần tôi té xe đạp Trúc Đào không hé răng với ai, nếu tôi đem chuyện nầy ra kể hoá ra tôi là kẻ tiểu nhân rồi. Vì vậy tôi đánh trống lãng nói đâu có gì, chẳng qua sắp được ăn ổi nên vui thôi.
Món nợ tôi thiếu Trúc Đào coi như trả xong dù không ai biết, cảm thấy tự hào là mình cũng xử sự fair play như nó vậy.
Hôm sau đi học, lần đầu tiên tôi thấy Trúc Đào nhìn thẳng tôi, bắt gặp ánh mắt tôi mà nó vẫn không ngoảnh đi nơi khác như thường lệ. Giống như có sự giao ước ngầm là chúng tôi sẽ tôn trọng nhau, điều bí mật nầy chỉ hai chúng tôi biết mà thôi.
Lòng tôi bỗng thanh thản lạ. Rồi cái sự tỵ hiềm mỗi khi Trúc Đào được điểm cao hơn tôi dần tan biến đâu mất, ngược lại trong tôi dấy lên sự
thán phục mơ hồ.
Rồi thêm một lần, hôm đó thầy dạy âm nhạc bịnh nghỉ một giờ, nên chúng tôi tự do chờ tiết học kế. Nhưng không dám quậy vì các lớp khác đang học, chúng tôi chỉ tụm năm tụm ba trò chuyện. Bỗng thằng Phi ngoắt tay kêu tụi tôi lại gần nói nhỏ:
- Ê tụi mầy đi với tao lại đây coi nè, thấy cười lắm.
- Gì? Gì? Tụi tôi hỏi lia.
- Thì đi với tao.
Rồi nó dẫn một đám con trai rồng rắn theo nó lại cái lớp nhà trường đang xây thêm còn dang dở, mới lót gạch bao tường mà chưa trát xi măng. Đứng núp một bên, chỉ nghiêng đầu qua khung cửa sổ từng đứa một ra chiều bí ẩn lắm. Đứa nào ghé mắt nhìn xong rồi thụt ra cười hinh hích không ra tiếng, khiến tôi cũng tò mò chen vô xem. Bên trong mấy đứa con gái đang chia làm hai nhóm. Một nhóm nhảy lò cò, nhóm kia nhảy dây thun. Đứa nào cũng cột hai tà áo dài thành một túm quàng bên hông, quần xăn lên khỏi gối, đi chân không. Trong nhóm nhảy lò cò có Trúc Đào nữa. Tôi thụt đầu ra, vừa lúc mấy đứa kia thò đầu vô coi tiếp thì đám con gái phát giác. Con Nhung đanh đá, la oai oải:
- Ai cho phép tụi mầy nhìn lén tụi tao chơi vậy hả mấy cái thằng tò mò?
- Mắc cở quá ê lêu lêu, lớn đầu mà còn chơi nhảy lò cò như con nít.
Thằng Phi trêu. Nhung trả lời:
- Rồi sao? Vậy chớ tụi bây hổng lớn chồng ngồng mà còn chơi bắn bi, đá dế hả đồ con trai cà chớn đi rình con gái.
Bên thì chọc, bên thì mắng loạn xạ lên. Tôi hoảng hồn bỏ chạy vô lớp vì sợ Trúc Đào tưởng là tôi cầm đầu rồi nó coi khinh mình. Ủa, bắt đầu từ bao giờ mà tôi lại sợ Trúc Đào xét đoán vậy ta?
Ở tuổi 12, tuy được gọi là nam sinh nữ sinh trung học nhưng thế hệ của chúng tôi còn quá vô tư hồn nhiên. Ai đời toàn xưng hô mầy tao với nhau hết.
Cuối năm đó tôi lãnh phần thưởng hạng nhất, thằng Quân hạng nhì, Trúc Đào hạng ba.
Ve sầu râm ran nhạ ckhúc đơn điệu, hoa phượng từng chùm nở trước sân trường báo hiệu hè về. Chúng tôi náo nức được tạm gác một bên bài vở tha hồ vui chơi thoả thích.
Vậy mà tôi lại hay nghĩ tới Trúc Đào, tự hỏi không biết nhỏ có còn chơi búp bê đóng vai mẹ, có còn chơi nhảy lò cò? Liên quan gì tới tôi đâu.
Kỳ II
Lời của Trúc Đào 12 tuổi học lớp 6:
Thế là giấc mơ mặc áo dài đi học của tôi đã thành hiện thực.
Từ lúc còn ở lớp tiểu học, thấy má mỗi lần ra đường mặc áo dài màu hoàng yến, thiên thanh, hồng phấn hoặc có hoạ tiết cầu kỳ,mang đôi guốc cao gót hợp với màu áo trông tha thướt thanh lịch, hay chị Anh Đào trong chiếc áo dài trắng quần trắng tung tăng cùng các bạn đến trường, một tay cắp cặp một tay giử vành nón lá nghiêng nghiêng. Thỉnh thoảng cơn gió nhẹ thổi qua làm hai tà áo vờn bay, từ xa nhìn các chị đitrên đường như đàn bướm trắng khiến tôi thèm thuồng vô cùng. Mong cho chóng đến ngày vào trung học để được mặc áo dài như má như chị.
Sáng nay, ngày tựu trường, lần đầu tôi mặc áo dài lụa trắng, quần trắng, mang giầy sandale trắng, đội nón lá quai màu hồng phấn (năm nay má mua cho cái nón lá, chứ mấy năm trước chỉ đội nón rơm vì má nói con nít đội nón rơm cho xinh xắn và phù hợp với tuổi) lòng cứ lâng lâng sao ấy. Thấy mình người lớn hẳn ra. Má ngắm tôi rồi quay sang nói với ba:
- Anh nhìn kìa, con gái thứ ba hôm nay xinh đẹp chưa? Ba nhìn rồi khen:
- Ừ, con gái bửa nay người lớn hẳn ra. Cả ba công chúa đều xinh đẹp giống mẹ.
Ba tôi nịnh đầm dữ a. Anh ba Kiệt nhìn chị em gái cười tủm tỉm không nói gì.
Chị hai Anh Đào, anh ba Kiệt, bé Xuân Đào cũng đều tề chỉnh để đến trường. Chị Anh Đào đã mặc áo dài từ bốn năm nay nên quen rồi. Tuy nhiên mỗi đầu năm được má may cho hai bộ áo mới bằng tơ mịn nên chị ra vẻ thích thú lắm, cứ đứng trước gương chải tóc rồi xoay người ngắm vuốt mãi. Hình như tôi thấy hình dáng chị có cái gì khang khác với mọi năm mà chưa nghĩ ra. Bé Xuân Đào vẩn còn mặc đồng phục quần đen áo sơ mi trắng, bé nhìn hai chị với ánh mắt ngưỡng mộ ao ước, y hệt như tôi cách đây mấy tháng và nói:
- Ước sao thời gian qua thật mau đặng em được mặc áo dài như hai chị, chờ tới hai năm nửa lâu quá.
Đó cũng là tâm trạng của tôi trước đây nên tôi rất hiểu Xuân Đào.
Ngoài ra, năm nay được má đồng ý cho để tóc dài chứ không phải uốn tóc quăn quăn ngắn ngủn nửa. Vì mới nuôi tóc từ đầu năm nên chỉ chấm vai thôi, hy vọng sang năm sẽ dài đến giữa lưng. Nhìn mái tóc chị Anh Đào thấy bắt ham, đen nhánh mượt mà.
Hình như có anh nào hôm tết tặng thiệp xuân cho chị, phần trên là lời chúc, bên dưới kèm thêm mấy câu thơ:
Em đi bước nhẹ như làn gió
Thả tóc dài cho hoa bướm vương.
Đôi tà áo trắng đầy mộng tưởng.
Bao trái tim trai rụng xuống đường
(Dậy thì, Lê Thị Kim)
Buổi tối mấy chị em ngồi học bài, thấy chị mở thiệp ra xem rồi giấu giấu diếm diếm sợ ba má thấy, anh Kiệt hỏi làm gì chị hốt hoảng nên chị kể là anh Long học lớp 11 viết tùm lum. Anh Kiệt nói: Viết sao tùm lum? Chị đưa cho anh xem, tôi cũng tò mò ghé mắt dòm. Anh Kiệt nói:
- Anh nầy trồng cây si chị rồi.
- Ê đừng nói lớn ba má nghe
Trong bốn câu thơ đã đề cập đến hai mơ ước của mình, là chiếc áo dài và mái tóc dài nên tôi càng mong niên học lớp 5 kết thúc sớm để giấc mộng hoá thành hiện thực.
Ba chở Xuân Đào đi riêng trước khi vào ty làm việc. Anh Kiệt chạy xe đạp tìm bạn để cùng đến trường. Còn chị Anh Đào với tôi đi chung, chị nói:
- Từ nay hai chị em cùng đến trường với nhau rồi, thích chưa?
Buổi sáng khai giảng mọi học sinh các trường trong thị xã đều hiện diện, ai trường nấy lớp nấy nên đường phố rợp màu áo trắng vui ơi là vui. Chị Anh Đào gặp lại bạn chào hỏi tíu tít, tôi cũng tụ họp với nhóm bạn của mình đi tìm lớp.
Năm nay ngoài một số bạn cũ từ tiểu học, còn thêm nhiều bạn mới từ trường khác vào. Cả lớp có 60 học sinh, hơn phân nửa là nam. Điều tôi thích nhất là năm nay được học với nhiều thầy cô khác nhau cho mỗi môn, và có những môn mới lạ chưa từng nghe qua lúc ở tiểu học như lý hóa, Việt văn, Anh văn. Thấy mình người lớn hẳn lên.
Lần đầu mặc áo dài nên chúng tôi cảm thấy vừa thơi thới hãnh diện vừa ngượng nghịu vì chưa quen với hai tà áo. Lúc ngồi, có đứa kéo vạt choàng về phía trước, có đứa ngồi luôn trên vạt sau.
Rồi cũng quen dần đến nổi tôi thấy mặc áo dài đi học là chuyện tự nhiên thậm chí có hôm còn thấy vướng víu nữa là khác. Đó là những lần chúng tôi lợi dụng thời gian trông khi thầy cô nghỉ bịnh hay bận việc không đến lớp, trong lúc chờ tiết học tới chúng tôi kéo nhau ra phía sân sau trường chơi nhảy dây, chơi lò cò, lấy giấy xé nhỏ cột túm phần trên lại chơi đá cầu lông nửa chứ.
Lúc đó hai vạt áo cứ bay phất phới nên phải buộc lại bên hông một cục to, để chân trần chơi cho dễ. Về nhà má thấy áo nhăn, đôi giầy sandale trắng giờ dính lem đất vì bàn chân dơ xỏ vào, má không rầy chỉ nói là: con phải cẩn thận chứ mặc quần trắng mà chơi đất dơ hết. Gần cuối năm, trường có xây thêm mấy phòng học. Lợi dụng lúc nào thợ nghỉ, chúng tôi lén kéo vào đó chơi trên nền xi măng cho sạch chút.
Chương trình học năm nay có nhiều môn, khá khó như toán lý hoá nhưng tôi rất thích môn kim văn, cổ văn, luận văn và Anh văn. Còn các môn vạn vật, sử địa, công dân giáo dụcnếu chịu khó nghe thầy cô giảng và siêng thuộc bài thì không đáng lo.
Môn nữ công thì về nhà tôi nhờ chị Anh Đào thêu dùm vì tôi rất vụng về trong việc cầm kim chỉ. Nhớ có một lần lúc chấm điểm mẫu thêu lược chỉ hay gì đó, cô hỏi tôi: bộ em luồn chỉ qua vải rồi rút hả? Tôi ngơ ngác vì có đụng tới miếng vải đâu mà biết, thậm chí còn không hiểu ý cô hỏi về cái gì nửa. Tôi ngồi như trời trồng, cô lập lại câu hỏi lần nữa, tôi vẫn tịnh khẩu như bình nhưng tim đập bình bịch. Cô thấy tôi run nên không hỏi nữa chỉ lắc đầu cười. Hú hồn! Tưởng bị phạt. Cô giáo thật hiền.
Chị Anh Đào rất khéo chuyện thêu thùa, tôi biết là chị dùng kim may từng mủi mà vì quá khéo léo đến nổi cô tưởng là luồn chỉ qua vải để rút thôi (vì cô bị cận nặng mà).Có lần thi lục cá nguyệt làm cái nón cho em bé, thêu hoa trang hoàng tùy ý. Chị Anh Đào cũng trỗ tài nên tôi được hạng nhất. Nhưng từ ngày cô hỏi tôi chuyện ấy, tôi tự thêu chứ không dám nhờ chị nữa vì sợ cô phát giác sự gian lận.
Nhân nhắc chị Anh Đào, nhớ ngày tựu trường tôi thấy chị mặc áo dài mới trông chị có cái gì khang khác mà không tìm ra. Nay thì tôi biết rồi, vì chị có mặc thêm cái soutien-gorge (áo nâng ngực) nên trông chị ra dáng thiếu nữ điệu đà lắm, chỉ thua má tôi thôi. Tôi thấy chị giặt phơi cái áo ngộ nghỉnh ấy kế bên cái của má, hi hi. Ủa?! Mà hình như chị đã... có ngực từ hai, ba năm nay rồi cơ mà, chắc là tôi không để ý đó thôi. Thỉnh thoảng tôi thấy má với chị trao đổi câu chuyện gì có vẻ hơi bí mật, tôi chỉ hiểu loáng thoáng nhưng bản năng bảo tôi là đừng có tò mò, khi lớn lên tôi tự khắc sẽ biết.
Mấy chuyện nầy thuộc về “vấn đề tế nhị“ của người lớn nên sau đó tôi cũng quên ngay.
Đi học về, ăn cơm xong là tôi với Xuân Đào rủ nhau qua bên hông nhà chơi bán hàng, thỉnh thoảng có nhiều đám lục bình trôi tắp vào bến sau, hai chị em kéo lên bờ. Lấy thân cây làm bánh mì, lá xé nhỏ làm bún, còn hoa tím cắm vào cái ly thuỷ tinh chưng cho đẹp.
Có ngày chúng tôi hái bông dâm bụt đỏ kết thành xâu choàng quanh cổ, lấy lá chuối cuốn lại làm micro giả làm ca sĩ hát:
Tình bằng có cái trống cơm
Khen ai khéo vỗ
Ố mấy bông mà nên bông
Ố mấy bông mà nên bông
Một đàn tang tình con xít
Một đàn tang tình con xít
Ố mấy lội, lội, lội sông
Ố mấy đi tìm, em nhớ thương ai
(Trống Cơm, dân ca)
Tôi nghĩ ra nhiều trò chơi rất lý thú với cái tuổi con gái 12 của mình.
Buổi tối bốn chị em quây quần quanh chiếc bàn chữ nhật học bài trong khi ba nằm đu đưa trên võng đọc báo hay kể những chuyện xảy ra chỗ ty ba làm cho má nghe ở góc xa để chị em tôi không bị phân tán tư tưởng. Má sau một ngày bếp núc may vá mệt nhọc, giờ nghỉ ngơi trên chiếc ghế bố kê cạnh võng. Cảnh gia đình đầm ấm làm sao!
Tôi hơi yếu môn hình học nên phải nhờ anh Kiệt giảng. Có lần bài tập của anh nhiều nên không dạy tôi được, hôm sau vào lớp xui thế nào thầy cho đúng vào đề tài đó, tôi chỉ làm được hơn phân nửa. Thế là tôi chỉ có 12 điểm.
Trong lớp có “thằng” Đằng mới vào học chung, lúc trước chả biết “nó” học ở đâu. Nó hầu như môn nào cũng giỏi, nhất là toán và lý hoá. Tôi bị thua điểm nó ở hai môn nầy hoài, nhưng nhờ siêng nên mấy môn khác bù qua nhất là Việt văn. Đó là môn yêu thích nhất của tôi. Đến giờ cổ văn, tôi rất thích được học những câu ca dao tục ngữ như:
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà.
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu.... (Ca dao VN)
Hoặc giải thích ý nghĩa của bài Thằng Bờm:
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi một xâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.
Bờm tuy chỉ là một cậu bé nhà quê chân chất, nhưng đủ sáng suốt để không bị phú ông lừa bịp bằng những cái bánh vẽ ảo tưởng xa vời, chả giúp làm đầy bao tử bằng nắm xôi là điều thực tế trước mắt Bờm đang cần.
Tôi say sưa lắng nghe cô giảng những bài kim văn của các tác giả Thanh Tịnh, Khái Hưng, Nhất Linh... nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Tôi vốn mê đọc sách từ lúc bắt đầu biết chữ rồi.
Cái “thằng” Đằng nầy, lúc trước tôi chẳng quan tâm gì đến “nó”. Hồi đầu niên học mỗi tháng xếp hạng nó luôn đứng nhất. Nhưng từ cái hôm nó bịnh nghỉ khá lâu nên mất điểm toán, thế là tháng đó bị sụt hạng sau tôi và Quân, khi hết bịnh đi học lại nó cứ nhìn tôi gườm gườm. Rồi một lần tụi con trai cả lớp cúp cua đi xem mấy anh đệ nhất (lớp 12) tranh tài đấu bóng chuyền, nghe nói có anh của nó trong số đó. Tụi con trai bị zero điểm, tôi lại chiếm đầu bảng, nó hình như căm thù tôi lắm. Tôi chả thèm tức làm gì, đối với tôi mấy đứa con trai học chung tôi xem như con nít hết. Ai đời vô trung học rồi mà còn chơi bắn bi, đá dế, ôm nhau vật lộn coi ai mạnh hơn ai, sao mà tôi nể phục cho được.
(À, nói vậy chứ chính tôi cũng còn chơi nhà chòi đây thôi. Có điều con gái thì...được quyền chớ bộ)
Anh Kiệt lớn hơn tôi hai tuổi mà tôi còn thấy đôi khi ảnh xử sự giống con nít nửa đây, huống gì mấy đứa học chung. Trong lớp rất nhiều người lớn hơn tôi 3,4 tuổi lận như anh Nam trưởng lớp, chị Lành... Nhưng cái tên Đằng nầy chắc chỉ bằng tuổi tôi, vì nó đâu có cao hơn tôi mà cái mặt cũng non choẹt. Đã vậy còn tánh nhỏ mọn giống con gái, thật là buồn cười.
Như lần tôi nộp bài Anh văn sớm nên được 20 điểm, nó tức xanh mặt. Rồi lần sau nó thắng, khi đi ngang tôi nó vênh mặt đắc chí bị tôi ngó lơ ý cho thấy là tôi chẳng thèm chấp với đứa con nít. Lần thứ ba nó hấp tấp nên làm sai bị tôithắng nửa, quê quá chừng. Giờ ra chơi nó ngồi xụ mặt trong lớp không ra sân đùa giỡn như mọi khi. Cho đáng đời cái tánh háo thắng.
Từ đó về sau tôi với nó có sự cạnh tranh ngầm. Các môn khác chúng tôi tương đương nhau, chỉ toán và lý hóa tôi cố lắm cũng bằng chứ không vượt qua nó được. Công nhận tên nầy học giỏi thật.
Mà lạ thật nha. Trong lớp có Quân cũng học rất giỏi, luôn thay phiên chiếm nhất nhì với Đằng mà sao thằng quỉ nầy không ganh tức với Quân, lại đi cố chấp với tôi nhỉ? Hay tại nó có quan niệm trọng nam khinh nữ, nghĩ con gái kém thông minh nó có thua Quân cũng chả sao, nhưng nếu thua con gái thì nhục nhã?
Suy luận như vậy khiến tôi càng ghét Đằng. Hể chỗ nào bạn bè đang chuyện trò như bắp rang mà thoáng thấy nó sáp lại là tôi mất vui, ngừng nói luôn.Thầm mong có dịp hạ bệ cái tự cao tự đại của nó một lần cho bỏ ghét.
Một chiều nọ tôi cùng chị Anh Đào ra phố mua ít giấy trang trí để chuẩn bị buổi tối mừng sinh nhật 16 tuổi của chị. Trên đường về bỗng nghe từ xa tiếng ai hát như vịt, đạp xe bằng một tay, còn tay kia giơ chai gì lên trời vung vẫy. Chiếc xe lượn qua lượn lại trên đường vắng xe cộ, ngó kỷ thì ra là tên Đằng, tưởng mình là anh hùng trên xa lộ chắc. Thấy tôi, nó trố mắt ra vẻ ngạc nhiên lắm. Chắc lần đầu tiên thấy tôi mặc áo đầm lạ quá nên mãi nhìn bị vấp cục đá to té lăn giữa đường cái rầm thật mạnh.
Chị Anh Đào chạy lại giúp, tôi bất đắc dĩ cũng theo chị, nhưng đứng sớ rớ không chào gì hết. Đến lúc Đằng lồm cồm gượng đứng lên đau đớn vì cả người đập xuống đường nhựa, tay chảy máu bị mảnh chai cắt cố leo lên yên xe, lòng tôi gợn lên một chút tội nghiệp. Dù sao Đằng cũng chỉ là một nhóc con 12 tuổi như tôi thôi mà. Đây là chuyện tai nạn, đáng lẽ tôi phải tỏ ra quan tâm hơn chứ đâu có đứng im thin thít như không quen biết vậy. Về nhà rồi tôi mới cảm thấy ân hận sao mình vô tình thế, tự nhủ mai tôi chờ không có ai sẽ hỏi xem nó có đau không.
Nhưng một phần lòng kiêu hãnh của tôi quá cao, một phần tôi ngượng nghịu không muốn bắt chuyện trước nên hôm sau vào lớp tôi vẫn giử vẻ mặt phớt lờ, dù biết Đằng quan sát tôi. “Ta là người tế nhị, có giáo dục nhé nhà mi”, tôi nghĩ thầm.
Với lại dư hương buổi sinh nhật tối qua của chị Anh Đào vẫn còn chiếm trọn tâm trí tôi, không có chỗ cho những điều tủn mủn nhỏ nhặt đời thường nữa.
Chị mặc áo đầm trắng bằng vải voan mỏng má may hai lớptrông như thiên thần. Có các anh chị bạn của chị đến dự, họ trò chuyện cười đùa tự nhiên nhưng lịch sự không gây ồn ào. Anh Kiệt cũng hòa vào các cuộc đàm thoại, chỉ có tôi và Xuân Đào là gần như im lặng ngắm mọi  người với sự ái mộ cao. Nhủ thầm vài ba năm nữa mình cũng trở thành một thục nữ trang nhã như các chị vậy.
Vài ngày sau chị Anh Đào nhận được bài thơ anh Long viết tặng nữa:
Em rạng ngời đôi mắt thủy tinh
Mười ngón tay dạo nhạc ân tình
Giờ đã đến nến hồng thắp sáng
Mộng ứ tràn xiêm áo lung linh
Đứng trang nghiêm thanh thoát dáng tiên
Mấp máp môi non lời dịu hiền
Giờ cắt bánh nến hồng vụt tắt
Chở đêm về ru giấc hồn nhiên
(Mùa sinh nhật của chim, Th.H)
Anh Kiệt lại trêu, chị Anh Đào miệng chối lia nhưng tôi thấy đôi mắt chị long lanh. Người lớn lạ thật nhỉ.
Tiếc là tôi và chị cách nhau đến bốn tuổi nên chị không thể tâm tình được.
Vả lại, tôi vẩn còn rất ham chơi nhà chòi với Xuân Đào. Mỗi lần chúng tôi bày mỗi trò khác nhau. Sau kỳ thi lục cá nguyệt thứ nhất, buổi trưa chúa nhật nọ hai chị em tôi đang chơi búp bê. Tôi đóng vai làm mẹ em bé mấy tháng tuổi. Đang giả bộ đi dạo công viên, tức là chung quanh sân vừa bế con vừa ầu ơ vì nó khóc đòi sữa. Đang đong đưa ru nó nín khóc tôi có cảm giác bị nhìn trộm lúc đi gần tới hàng rào dâm bụt. Ngẫng lên, thấy tên Đằng đang đậu xe ngoài đường ngóng cổ ngó vô. Quá bất ngờ, tôi đứng chết sững. Trời ơi thật là quê, chắc hắn đã nghe hết những lời chị em tôi trao đổi với nhau rồi. Nào là “con của chị khóc”, nào là “con nín đi mẹ thương“... Xấu hổ quá, tôi vụt chạy nhanh vào nhà. Xuân Đào cũng nối gót theo, hỏi:
- Ai đứng rình mình vậy chị có biết không?
- Biết, tên đó học chung lớp với chị đó. Quê quá rồi, chắc thế nào mai vào lớp hắn cũng kể cho các bạn nghe.
Hai chị em cười nghiêng ngữa vì mắc cở.
Hôm sau vào lớp gặp Đằng, tôi nhìn thẳng vào mắt hắn xem phản ứng thế nào chớ không thèm giả lơ như thường ngày nữa. Muốn để hắn hiểu rằng nếu hắn đem kể chuyện này ra thì tôi sẽ coi khinh hắn như...như gì nhỉ? Ừ, thì như “thằng Đằng“ vậy.
Tối nọ giờ học bài, tôi kể chuyện tụi con trai phá phách ở lớp thì bị chị Anh Đào, anh Kiệt chỉnh:
- Sao Trúc Đào cứ gọi các bạn là “thằng nầy, con nọ” hoài thế? Nghe không hay chút nào. Con gái phải tập nói chuyện thanh tao lịch sự chứ đừng dùng danh từ thô kệch vậy nữa.
Tôi ngượng quá, cố cãi:
- Có sao đâu, tụi em quen gọi nhau mầy tao hồi nào tới giờ. Ai lớn tuổi hơn thì em mới gọi bằng anh chị.
- Từ nay em tập sửa lại đi, đừng gọi vậy nghe xấu lắm, nhất là từ miệng một cô gái xinh xắn như em đó.
Giờ tôi tạm gọi là “hắn” chứ không thể kêu là “anh” được. Trời, là anh hả?Cái người tối ngày lo tranh điểm với con gái mà đòi làm anh tôi sao!
Khi tôi nhìn Đằng thì hắn cũng nhìn sâu vào mắt tôi đáp trả. Lần nầy tôi không thấy nét khiêu khích hung hăng nào. Rất trong sáng, chân thành. Một tiếng chuông tưởng tượng khẽ vang lên trong đầu như báo hiệu trận chiến ngầm của chúng tôi nay kết thúc, sẽ không còn sự tỵ hiềm thù ghét nào nữa, tôi nghĩ thế.
Kể từ ngày đó, thái độ Đằng có thay đổi thật. Hình như hắn tìm cơ hội để trò chuyện với tôi hay sao ấy nhưng thấy tôi thờ ơ nên ngại không dám nói trực tiếp mà chỉ phụ hoạ khi Quân, Mạnh, Phú, Thi khen tôi tháng nầy được mấy cái 20 Anh văn thế nào cũng đứng nhất, hắn nói:
- Chắc chắn Trúc Đào hạng nhất rồi, học giỏi mà.
- Cám ơn đã nghĩ tốt cho “tui”, tôi trả lời.
Một hôm Oanh hái một chùm hoa mầu hồng rất đẹp của nhà ai trên đường đi học mang vào lớp khoe. Mọi người trầm trồ mà không biết hoa gì, thì Đằng từ đâu chen vào nói:
- Tui biết hoa nầy, trong sân nhà tui có trồng đó là trúc đào, hương thơm lắm.
- A vậy trùng tên với Trúc Đào nhà ta rồi.
- Ngoài ra, má tui còn trồng cây tử đằng nữa. Hắn thêm vừa liếc chừng tôi. Bọn con gái nhao nhao:
- Ô thế à, cây như thế nào? Giống tên của Đằng thế. Tui chỉ nghe nói chứ chưa thấy, bửa nào tụi tui lại nhà Đằng xem được không? Hình như có hoa cát đằng nửa, là một hả?
Đằng giải thích:
- Không, là hai loại cũng có hoa màu tím nhưng khác nhau hẳn. Hoa cát đằng hình nón có 5 thuỳ nở thành cụm,không có mùi thơm. Còn tử đằng là loại cây mọc cao phải làm giàn cho nó leo để hoa nở rủ xuống có chùm dài mấy tấc mùi rất thơm. Hoa tượng trưng cho tình yên vĩnh cửu. Nó ra hoa hồi tháng tư tới giờ, nếu ai thích thì chúa nhựt nầy lại nhà tui xem.
Chị Lành chọc:
- Chà Đằng coi bộ rành về hoa quá ta. Tưởng chỉ biết học với chơi chạy đua, bắn bi thôi chứ
- Nghe má em giải thích vậy với khách tới chơi nên em biết, Đằng hơi đỏ mặt biện hộ.
Cả bọn bàn nhau chúa nhật lại nhà Đằng xem hoa rủ tôi cùng đi, nhưng tôi kiếm cớ thoái thoát chả biết vì sao nữa. Thứ hai tụi con gái vô kể chuyện, nói ba má Đằng rất hiếu khách còn đãi bạn của con ăn chè thập cẩm ngon quá trời. Mấy anh của Đằng góp chuyện vui vẻ lắm.
Nhà tôi không trồng tử đằng, trúc đào mà trồng những loại dể thương khác như ti gôn, tơ hồng, huệ trắng, mai vàng tứ quí, hoa dành dành (thủy hoàng chi) màu trắng đẹp và thơm đâu thua gì hoa sứ hoa lài, bông giấy đặc biệt hai màu trắng tím trên cùng một chùm, bông trang v.v... Những loại hoa vì quen nhìn nên không thấy trân trọng nữa, nhưng nó thân thiết gần gũi dính liền với tuổi thơ tôi nên trở thành vô giá.
Ngày bãi trường tới. Kết quả công bố Đằng lãnh thưởng hạng nhất, Quân nhì, tôi ba. Tôi mừng vì có ba tháng tự do chơi đùa không phải lo bài vở. Tôi phải tận hưởng tối đa có thể.
Giã từ các bạn, hẹn ba tháng sau gặp lại
Kỳ III
Xa em đi như trong cổ tích
Gặp nhau rồi sao để mất nhau (thơ Th.H)
Lời của Đằng lúc 19 tuổi
Tôi giờ là người vừa chớm bước qua tuổi trưởng thành, đang chuẩn bị thi cuối năm thứ nhất ngành Chính Trị Kinh Doanh, Viện Đại Học Đà Lạt.
Năm năm trước, gia đình chúng tôi đã chuyển đến một tỉnh thuộc vùng
cao nguyên theo bước đường binh nghiệp của ba.
Ba tôi là dân chính gốc vùng vừa có biển lẫn sông với chi chít những kinh rạch ruộng đồng, nơi anh em tôi được sinh ra và sống hết thời niên thiếu. Còn má tôi gốc Đà Lạt. Thỉnh thoảng ba hay nói đùa gia đình tôi tiêu biểu dòng dõi Con Rồng Cháu Tiên: ba là hậu duệ ông Lạc Long Quân sinh ở biển, còn má là con cháu bà Âu Cơ sinh ở núi nên phải chia thời gian lên non xuống biển mà sống cho đồng đều. Nhưng khi nào tàn chiến tranh rời binh nghiệp ba sẽ về sống ngay quê nhà miền biển.
Mấy hôm trước khi đi, má tôi buồn dàu dàu vì tiếc vườn hoa sợ không ai chăm sóc chúng sẽ lụi tàn. Khoảng sân trước trồng cỏ, vài gốc mai vàng, cây bông sứ, bông trang. Mảnh sân sau mới thực sự là một thiên đường nho nhỏ của má với nhiều kỳ hoa dị thảo, vài cây đại thụ ít ai biết tên. Đa phần là những cây hoa khá hiếm, tên rất thơ mộng tưởng chỉ có trong sách vở. Ai thấy cũng trầm trồ hỏi má sưu tầm đâu ra các loại thực vật nầy. Cũng dể hiểu vì má là con gái Đà Lạt, nhà ông bà ngoại làm nghề trồng hoa nên từ nhỏ má đã được đắm mình trong cái không gian mỹ miều ảo diệu cơ man là hoa, niềm đam mê đó đeo bám má là điều tự nhiên thôi. Thỉnh thoảng má vẫn nói:
- Tiếc là má sinh ra toàn con trai, chả có một tiểu thư nào để má truyền cho cái thú chơi hoa và chăm sóc chúng.
Anh Khải, anh Phúc cãi:
- Có tụi con nè. Nhờ vườn hoa của má mà con lấy cảm hứng sáng tác nhạc, còn Phúc thì làm bao nhiêu bài thơ rồi không thấy sao?
- Thôi các cậu ơi, viết nhạc làm thơ để đi tán gái là giỏi chớ có chịu tiếp má chăm sóc vun trồng gì. Ừ mà tụi con phải lo học chớ không phải chỉ ngồi mơ với mộng nghe, đó mới là mục đích chính à.
- Thì tụi con cũng học giỏi vậy chỉ thua anh Tường chút xíu, làm thơ viết nhạc để giải trí chớ có để tán gái đâu má. Anh Khải chống chế.
Ba phụ hoạ:
- Ba cưới má tụi con cũng nhờ cái vườn hoa của ông bà ngoại nhé. Hồi đó ba theo học trường Võ Bị trên này mỗi dịp cuối tuần ba và vài người bạn hay ra ngoài đi lang thang chơi, tình cờmột hôm đi ngang vườn hoa của ông bà ngoại thấy cô gái tưới cây lạ lạ, sao trước đó ba cũng đi ngang mấy lần mà đâu thấy. Vừa gặp là ba như bị sét đánh trúng ngay tim luôn, hoa đã đẹp mà người tưới còn đẹp hơn. Một đóa hoa nổi trội giữa một rừng hoa đó nghe. Thế là tuần nào cũng giả bộ lân la có chút ít tiền chỉ để dành mua hoa thôi, thời gian sau ông ngoại biết nên hỏi toẹt rằng: mục đích cậu đến mua hoa hay là để thăm con gái tôi vậy. Ba thú thật thế là ông ngoại nói nếu con gái tôi đồng ý thì cậu về thưa cha mẹ cậu lên đây tôi gả.
- Trời, ba là lính mà cũng lãng mạn dữ a.
Các anh chọc, má lắc đầu nhưng cười có vẻ sung sướng:
- Thật cha nào con nấy.
Ba và anh Tường vẫn hay giúp má tưới cây lúc rảnh. Còn anh Khải, Phúc và tôi thì khi nào má sai mới chịu làm. Nhất là tôi, phá thì siêng thôi.
Căn nhà cất trên đất của ông bà nội chia cho mỗi người con nên không bán.Tạm thời giao cô sáu em của ba trông nom, cô ở xa thị xã nên cho mấy người con trai tức em họ của tôi đến ở để đi học trường tỉnh cho tiện. Tuy họ vai em nhưng tuổi bằng anh Khải anh Phúc trở lên nên tôi gọi bằng anh. Cô sáu thuê một bà lớn tuổi đến nấu ăn giặt giủ cho các anh.
Thỉnh thoảng nghỉ hè hay dịp tết chúng tôi về chơi thì thấy quả đúng như sự lo xa của má. Những cây đại thụ, gốc mai, sứ vẫn sống nhưng mấy giàn hoa đã chết hết hoặc khô cằn lơ thơ vài chiếc lá.
Nhưng không trách các anh được. Vì họ cũng chỉ là mấy thiếu niên tuổi chơi và học, làm gì có thời gian và kinh nghiệm mà chăm sóc hoa kiểng.
Ba tôi xuất thân binh nghiệp nên muốn các con trai phải mạnh mẽ, luôn khuyến khích chúng tôi phát huy một môn thể thao nào đó để rèn luyện sức dẻo dai chịu đựng nhiều nhất có thể. Lúc nhỏ mỗi khi tôi đi chơi về quần áo lấm lem ướt nhẹp bùn đất hoặc rách te tua, má cằn nhằn dơ quá giặt không sạch doạ cho tôi mặc đồ vá chứ không tiền mua hoài thì ba binh vực:
- Thôi em chịu khó với cha con anh đi. Trời bắt số em phải khổ nên mới sanh toàn con trai chớ không cho con gái rồi - Nói tới đó ba nháy mắt với anh em chúng tôi - Đã là trai thì phải hùng dũng tập dần từ nhỏ cho quen, thể chất mạnh thì mới kéo theo tinh thần mạnh được. Em cấm nó không được dơ thì nó không dám nhúc nhích, ru rú như con gái suốt ngày trở nên yếu đuối sau này sao trở thành cây tùng cây bách phục vụ đất nước và là chỗ dựa cho vợ con nhờ được. Con trai phải vùng vẫy dọc ngang mới là con trai em à.
Kể cũng lạ, là tôi hay nghe người ta khen ba má tôi có phước sinh toàn con trai. Ngược lại nhà ai chỉ sinh con gái thì họ nhất định phải cố để có con trai nối dõi, có nhiều bà mẹ chồng do nàng dâu không sinh trai nên xúi con bỏ vợ cưới người khác cho khỏi tuyệt tự. Tôi biết là ba không quan trọng chuyện con là trai hay gái, đôi lúc nghe ba ước phải chi nhà có một cô con gái để nũng nịu, làm duyên làm dáng. Ừ nhỉ, nhiều khi chính tôi cũng mong mình có một cô em để được làm anh ra oai bắt nạt, sai biểu nầy kia...
Khi nghĩ về em gái, tôi giả sử Trúc Đào là em để tôi sai khiến mà không ngăn được mĩm cười. Gì chứ chắc không có chuyện Trúc Đào vâng lời tôi đâu, có khi ngược lại nữa là khác căn cứ vào sự bướng bĩnh tự kiêu của nhỏ. Ừ, nếu Trúc Đào là em gái của mình thì tôi sẽ hãnh diện lắm đây.
Có ba ủng hộ nên bốn anh em tôi đều thích thể thao. Bóng bàn, bóng chuyền, bơi lội, đá banh, đánh cờ tướng... Mỗi thứ một ít, riêng anh Tường thì rất giỏi bóng bàn. Cờ tướng cả ba anh đều khá, thường tranh tài cao thấp với ba. Riêng tôi thì tệ nhất. Cái gì tôi cũng thử nhưng không cái nào ra hồn, hoặc là tôi nghĩ thế. Có lẽ vì các anh ai cũng quá giỏi nên tôi bị lu mờ.
Có một lần tôi khóc tức tưởi vì chơi cờ tướng thua thảm hại, lúc đầu các anh để tôi thắng nên hí hửng tưởng mình tài nhất, ai dè cuối cùng bị chiếu tướng. Má tội nghiệp ôm tôi vô lòng và trách các anh không nhường em, anh Tường anh Khải hơi ân hận nên an ủi:
- Đằng chưa kinh nghiệm mà chơi vậy là giỏi rồi. Mai mốt lớn lên em sẽ qua mặt các anh cho xem
Anh Phúc nói:
- Chơi cờ cũng giống như ra trận. Nếu đánh nhau mà không dốc hết tài dụng binh để bị thua quân sĩ chết hết tướng cũng chết theo làm sao.
Bị thua hoài tôi nản không chịu chơi cờ nữa.
Rồi tôi học đánh đàn với anh Khải. Có lẽ hợp nên tôi tiến bộ nhiều, mong một ngày nào đó mình chơi được nhạc cổ điển như anh vậy.
Lại mơ nếu mình đàn giỏi, lớp có tổ chức văn nghệ mình sẽ vừa ôm đàn vừa hát những bản tình ca cho tụi con gái nhất là Trúc Đào lé mắt. Giống như mấy lần tết có văn nghệ toàn trường, anh Tường anh Khải ôm đàn ngồi hát, mấy chị lớp lớn ngồi ngơ ngẩn lắng nghe vậy.
Chưa kịp thực hiện điều ước thì tôi phải vội vã ra đi. Má nói:
- Thôi thì cũng có cái hay là được gần ông bà ngoại, các cậu dì.
Anh Tường đi du học Mỹ được một năm do điểm học bạ từ lớp 6 tới 12 đều giỏi và đậu tú tài hạng ưu, anh Khải chuẩn bị thi tú tài toàn phần nên ở lại trường cho hết năm chứ không chuyển. Chỉ anh Phúc và tôi theo ba má.
Lúc đó tôi đang học lớp 8 tức đệ ngũ được nửa năm.
Tôi vừa buồn vừa náo nức. Buồn vì rời xa trường lớp thầy cô bạn bè thân thuộc từ bao nhiêu năm nay. Náo nức vì sắp được khám phá, được quen biết thêm những thầy cô, bạn bè mới. Dù sao tôi chỉ là một đứa nhóc 14 tuổi hãy còn vô tư mà.
Năm học nầy lũ con trai chúng tôi thôi chơi những trò bắn bi, vật lộn, đá dế... Các cô gái cũng hết còn chơi nhảy dây, lò cò mà bắt đầu làm dáng với những sợi bandeau cài tóc, hoặc thắt hai bím cột nơ đổi màu mỗi ngày...
Tôi “nhổ giò” ốm nhom cao nhòng, má phải xuống lai quần cách ba tháng một lần. Số là anh em tôi được hưởng gien ba má, ngoài ra còn chơi thể thao nhiều nên ai cũng cao hơn trung bình. Nhưng chúng tôi chỉ bắt đầu tăng trưởng ở khoảng tuổi 13,14 chứ trước đó thì cũng lẹt đẹt - hèn gì Trúc Đào mới xem thường tôi là con nít
Má rút kinh nghiệm các anh nên lúc may quần thì trừ hao may dài hơn 5cm rồi lên lai. Chờ khi quần hơi ngắn thì xuống 2,3 cm cho vừa mặc. Như vậy khi lai quần không còn cm nào để xuống nữa thì cũng vừa hết năm học, tiết kiệm được một số tiền không nhỏ cho bốn cậu con khoẻ mạnh “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao“.
Mấy ngày đó chỉ có ba là bình thản, còn má và mấy anh em đều chộn rộn nhất là anh Phúc. Tôi thấy tối anh cứ ngồi ghi ghi chép chép cái gì vào một quyển tập bìa cứng giấy trơn láng trắng tinh mà không phải vở học trò, thức rất khuya. Tôi ngủ một giấc, thức dậyvẫn thấy anh còn ngồi đó với quyển tập. Tôi đùa:
- Sao anh không đi ngủ làm gì thức khuya vậy? Bộ làm thơ tặng chị nào hả?
Tưởng nói chơi ai dè là thật, anh trả lời:
- Ừ anh viết cho chị Loan, định nhờ Đằng mai đi học đưa cho chị dùm anh.
Loan là chị học lớp đệ tứ (lớp 9) sau anh Phúc một năm.
- Sao anh không tự đưa mà kêu em? Rủi người ta tưởng em trồng cây si chị là tiêu đời em.
- Thôi ráng giúp anh đi, anh không có can đãm đâu.
- Gì mà nhát như thỏ vậy trời? Người trông mạnh mẻ tự tin thế mà sợ con gái là sao?
- Ừ nói hay lắm. Để chờ đến phiên em đi rồi sẽ thấy.
Anh năn nỉ quá nên tôi nhận lời với điều kiện anh cho tôi xem ít nhất một bài thơ anh viết trong quyển tập đó
- Trời đất, thơ tình mà đòi xem, phải biết tôn trọng sự riêng tư chứ.
- Em hứa chỉ xem thơ chớ không xem thư tình. Thư tình mới là riêng tư, còn thơ anh viết tặng ai mà không được, mấy ông thi sĩ làm thơ cho cả triệu người đọc đó thì sao.
- Thôi muốn đọc thì đọc, lý sự quá. Mà chỉ một bài thôi nhen. Anh Phúc đồng ý
Tôi mở trang đầu, nét chữ anh Phúc vốn đẹp sẳn nay viết cho bạn gái càng bay bướm hơn.
“Xa em đi như trong cổ tích
“Gặp nhau rồi sao để mất nhau?!
Tôi bình luận lung tung:
- Ôi nghe buồn quá. Vậy thì anh đừng để lạc mất, mai mốt đi xa cứ gởi thơ cho chị đều đặn là chị không quên anh.
Lật sang trang, lại đọc thêm bài thơ khác
Em nép vai gầy
Hiền như cọng cỏ
Tóc mây tung xoã
Dang cánh đời bay
Em nép vai gầy bên lá hoa
Hiền như cọng cỏ dưới chân ta
Tóc mây tung xoã theo chiều gió
Dang cánh đời bay quá ngọc ngà
(Ngọc, thơ Th.H)
- Úi chà chà, nghe dể thương ghê, ‘‘em” trong bài thơ nầy giống y dáng chị Loan nhỉ. Tôi ba hoa.
Thơ anh Phúc viết cho bạn gái – chưa hẳn, vì chỉ có anh đang yêu thầm chị Loan mà chưa dám tỏ, giờ sắp xa thì mới quáng quàng mượn thơ để nói lên nỗi lòng, đã vậy còn không dám tự tay đưa phải nhờ trung gian là tôi chứ chị Loan đã biết đâu. Bình thường anh Phúc có phải kẻ nhút nhát gì cho cam, cuối năm rồi anh đại diện cho khối lớp 9 đứng ra đọc bài cảm tạ ban giám hiệu cùng thầy cô trước toàn trường do chính anh viết lời cơ mà. Bài anh được mọi người khen ngợi vỗ tay quá trời, anh vốn giỏi văn chương.
Ủa, mà hình như với hai câu thơ giản dị đó,anh Phúc cũng nói hộ tâm trạng tôi vậy ta. Xa em? “Em nào” của tôi? Thấp thoáng bóng hình Trúc Đào vụt đến, tôi lắc đầu: không phải đâu. Tôi 14 tuổi, vẫn chỉ là một đứa trẻ mới hôm trước còn khóc nhè vì thua cờ tướng đây. Tôi với Trúc Đào đâu trao đổi chuyện trò gì bao giờ. Mỗi khi có dịp túm tụm cùng nhau, thường nhỏ chỉ im lặng lắng nghe mọi người nói rồi cười phụ hoạ mà thôi. Nhỏ vẫn siêng học, càng lớn càng nghiêm trang và xinh đẹp vô cùng.
Tôi biết có nhiều anh lớp trên đang ngắm nghía nhỏ, ngay trong lớp tôi nữa. Nhưng ở Trúc Đào toát lên dáng vẻ xa cách, kiêu kỳ khiến tụi nó kháo nhau là đừng mơ mộng xa vời cho mất công tụi mình không đạt được đâu. Rồi đứa khác nói ai cấm tụi mình mơ nào, được hay không đâu thành vấn đề, cái chính là mình cứ nuôi dưỡng giấc mơ cho cuộc đời phong phú lên. Tôi nghĩ thầm: Chúng mầy là một lũ ngốc!
Ở ngôi trường mới tôi làm quen với những gương mặt mới, cách sinh hoạt mới cuốn hút tôi vào quỹ đạo của nó nên không còn thời gian nghĩ ngợi nhiều như những tuần đầu tiên. Hơn nữa, tôi chưa hề trải qua cảm giác nhớ nhung sâu sắc kiểu như:
“Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
Tóc em anh sẽ gọi là mây
Ngày sau hai đứa mình xa cách
Anh vẫn được nhìn mây trắng bay
(Paris có gì lạ không em, Nguyên Sa)
Mà chỉ là thoáng xao động mỗi khi ánh mắt Trúc Đào và tôi giao nhau một vài giây ngắn ngủi. Rồi hết. Vì vậy, cùng với khoảng cách không gian hình ảnh các bạn cũ cũng nhạt nhòa dần trong cái thằng tôi ăn chưa no lo chưa tới.
Trong năm năm qua, tôi được ba má cho về quê biển nghỉ hè hai lần. Lần cuối năm lớp 9 và lần sau khi thi xong tú tài phần một. Lúc nầy đã thôi chạy xe đạp, mà mượn chiếc xe Honda 67 của các anh con cô sáu tìm các bạn trai cùng nhau ra phố. Tập tành vào quán uống cà phê, hỏi thăm tin tức mọi người thì hay có người lên xe hoa, người bỏ học giữa chừng vì sinh kế, người đổi đi trường khác, anh Nam trưởng lớp vào lính vì đến tuổi quân dịch v.v.. Còn Trúc Đào? Tôi ngập ngừng chưa kịp hỏi thì Mạnh kể rằng nhỏ cũng thi đậu tú tài, nghe đâu giờ có nhiều cây si lắm kể cả mấy ông sĩ quan lính tráng
- Thế nhỏ có “ bồ” không?
- Làm gì không, hoa khôi của trường mà. Có điều chả thấy đi chung với ai hết.
Nghe nói Trúc Đào không đi chung với ai tự nhiên tôi thấy lòng vui vui. Vì sao thì tôi không giải thích được. Tôi thử chạy xe ngang nhà vài lần nhìn trộm vô xem có thấy bóng dáng nhỏ, mà đều thất vọng.
Đêm cuối trước buổi sáng quay về Đà Lạt lũ bạn hẹn nhau đi ăn chè ở quán nhạc cà phê của gia đình Hồng bạn học cũ, bất ngờ gặp Trúc Đào. Tim tôi nảy lên một nhịp vì vui sướng. Cũng là tình cờ Trúc Đào đi với cô em gái ghé qua thăm Hồng chứ không biết tôi về chơi. Gặp tôi ngoài phạm vi lớp sau mấy năm vắng mặt, Trúc Đào cởi mở vui vẻ chứ không cách biệt ngại ngùng như xưa. Đây là lần đầu tiên chúng tôi ngồi nói chuyện trực diện, dù chỉnhững lời thăm hỏi thông thường mà sao tôi nghe lòng lâng lâng kỳ lạ.
Mới được một lát thì cô em gái Trúc Đào đòi về. Nhỏ quay qua tôi phân trần:
- Thôi chào Đằng chị em Trúc Đào phải về đây, vì đi từ chiều hơi lâu sợ ba má lo. Chúc mai Đằng lên đường bình yên.
Tôi muốn ngăn nhỏ đừng về vội, muốn nói một điều gì khác hơn những câu thăm hỏi thông thường, muốn hỏi Trúc Đào có bằng lòng cho địa chỉ nhà để liên lạc thư, muốn nắm níu thời gian bên cạnh Trúc Đào lâu hơn nhưng có gì chận ngôn ngữ không thoát ra khỏi miệng nổi. Chỉ yếu xìu:
- Ừ Trúc Đào về nhé.
Dõi nhìn theo hai chị em, làm như thể nhờ ánh mắt thôi miên điều khiển Trúc Đào quay trở lại được vậy. Nhưng không, nhỏ đã đi rồi!
Hụt hẫng như để vuột mất một báu vật. Cảm giác ấy càng tăng khi nhận ra sao mình ngốc đến nổi không đề nghị lấy xe hộ tống hai chị em để kéo dài thêm giây phút được gần nhỏ.
Dạo sau nầy tôi đọc sách nhiều hơn, tuy không biết làm thơ như anh Phúc nhưng biết thưởng thức.Thật khuya quán chuẩn bị đóng cửa bọn con trai chúng tôi mới chịu đứng lên. Bước ra đường, nhìn lên cao đáng lẽ có ánh trăng nhưng bị mây đen giăng báo hiệu sắp mưa, chợt nhớ mấy câu thơ của Nguyên Sa:
Mai tôi ra đi chắc trời mưa
Tôi chắc trời mưa mau
Mưa thì mưa chắc tôi không bước vội
Nhưng chậm thế nào thì cũng phải xa nhau (Paris)
Ừ, chậm thế nào thì cũng phải xa nhau thôi Trúc Đào ơi, vậy thì đừng hối tiếc đã không đề nghị đưa nhỏ về nữa.
Trở lại Đà Lạt, năm cuối trung học vùi đầu vào bài vở nên dần dần tôi cũng nguôi ngoai. Ở trường có một cô bé học lớp 10 dáng dấp gương mặt từa tựa Trúc Đào, gợi tôi nhớ nhỏ quá. Mỗi lần thoáng thấy cô bé là tim tôi đập sai nhịp cứ tưởng người xưa. Chỉ nhìn rồi thôi, tôi không làm quen với em vì tôi chắc chắn một ngày nào đó tôi sẽ đi tìm Trúc Đào. Để làm gì chưa biết, nhưng tự sâu trong tiềm thức tôi tin chúng tôi sẽ còn hội ngộ sớm hay muộn.
Tôi thi đậu tú tài toàn phần, biết má buồn vì con cái đi xa hết nên tôi vào ngành Chính Trị Kinh Doanh để được gần má. Anh Tường viết thơ về đều đặn, hình chụp thấy anh cao to càng phong độ chín chắn hơn. Anh được cấp học bổng tiếp lên cao do thành tích xuất sắc. Anh Khải học ba năm ở Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức thì có lệnh tổng động viên nên anh tình nguyện vào quân ngũ. Anh Phúc đang học Sư Phạm Saigon cũng nối gót anh Khải.
Ba tôi nói:
- Ít ra cũng phải vậy mới xứng đáng làm trai chứ.
Má tôi triết lý:
- Nghĩ con người cũng không khác loài chim. Lúc nhỏ thì sống quây quần bên cha mẹ anh chị em, đến khi có đủ lông đủ cánh thì mỗi đứa bay đi một phương trời tít tắp, tạo dựng một tổ ấm mới. Người già thì yếu đuối bịnh hoạn rồi chết.
- Cuộc sống là thế, như chúng mình khi xưa cũng rời bỏ ba má đi triền miên vậy thôi.
Xuân về. Thành phố ngàn hoa đua nhau khoe hương sắc : mai anh đào, mai đỏ, phong lan, mimosa, trà mi, tử đằng, trúc đào... nhưng tôi không thấy lòng xôn xao như bao mùa xuân trước. Trong tôi có những trăn trở, những suy tư. Kiểu như: Tôi là ai? Tôi hiện diện trên đời này để chi? Tôi sẽ làm gì mang hạnh phúc cho bản thân, gia đình và tổ quốc?
Tôi chưa kịp tìm ra lời giải đáp cho những câu hỏi trên, thần chiến tranh đã hung hãn thổi tràn lên vạn vật quét sạch đi mọi ước mơ mọi hoài bảo của cả thế hệ.
Kỳ IV
Em về mắt đẹp ngời như thuở
Tình của trăng non mộng ứ hồn (Th.H)
Lời Trúc Đào lúc 19 tuổi
Hồi tôi 15 sắp bước qua 16 tuổi, tập tành viết truyện và thơ tình mặc dù chưa có “bồ”. Lúc đó tim tôi cảm thấy “biết rung động” rồi dù chưa có ai làm tôi yêu được cả.
Thực ra thì tôi đã bắt đầu viết từ khi lên 9,10 tuổi, về đề tài cổ tích và nhi đồng. Anh Kiệt cắt những tờ giấy trắng trong các quyển vở còn lại của niên học cũ, đóng thành từng tập dày chừng 30 trang, vẻ hình trang trí cho mỗi bài viết vì anh có khiếu hội hoạ bẩm sinh. Xuân Đào viết bài kể chuyện vui cười hoặc chuyện xảy ra ở lớp chỉ khoảng 10,15 dòng là hết. Văn thi sĩ là ba anh em tôi, độc giả cũng là chúng tôi và vài anh chị em họ bạn lối xóm cùng trang lứa. Họ rất bái phục tài, luôn nôn nóng chờ chúng tôi viết xong cuốn nào là đọc hết cuốn ấy. Tất nhiên lời lẽ rất non nớt ngây ngô, nhưng ở vào cái tuổi lên 9 lên 10 mà đã biết viết văn kể ra cũng đáng khen đó chứ.
Chị Anh Đào là con lớn nên đâu có thời giờ cho những trò giải trí vô tư như các em, học về còn phải lo phụ giúp má nấu cơm, may vá giặt giủ. Má hay nhắc nhở chúng tôi về những cực khổ hy sinh của chị ngay từ lúc năm, sáu tuổi biết thay mẹ săn sóc các em, dặn dò anh em tôi phải thương yêu và vâng lời chị như một người mẹ thứ hai vậy.
Từ trường chị Anh Đào, anh Kiệt mang về rất nhiều sách, thơ, nhạc đủ loại: truyện của các tác giả thời tiền chiến và đương thời, truyện dịch Pháp, Anh, Mỹ... lớp thì mua, lớp mượn ở thư viện trường, lớp được bạn tặng. Hay đúng hơn là của mấy anh trồng cây si chị tặng, có một ông sĩ quan tặng cây bút mực Caran d’Ache chế tạo ở Thuỵ Sĩ mắc ơi là mắc. Tất nhiên chị đem giấu biệt không dám dùng vì nếu ba má thấy chắc chị bị phạt vì ở đâu mà chị sở hữu cây viết de luxe đó được. Tôi cầu mong chị đừng nói yêu ai hết, cho họ nuôi hy vọng rồi cứ mua sách tặng để tôi có đọc hoài!
Giờ tôi không chơi bán hàng, chơi nhảy dây với Xuân Đào nữa mà chúi mũi vào kho tàng sách sau khi đã làm việc nhà và học ôn bài xong. Nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn còn trèo lên cây lý trước sân tìm những chùm trái chín để hái. Trái lý có màu ngà hoặc ửng đỏ cùng họ với mận nhưng hương thơm và ngọt ngào hơn, quyến rũ cả đàn dơi tối tối bay về kiếm ăn. Còn nhớ một buổi trưa tôi đang vắt vẻo tuốt gần tới ngọn cố hái cho được chùm lý chín thì tôi nghe tiếng xe ồn ào ngay phía dưới chỗ tôi ngồi. Vì cây trồng gần sát hàng dâm bụt ngăn sân với con đường lưu thông xe cộ mà cái nhánh tôi đang ngồi vươn ra tận hàng rào nên tôi nhìn thấy không sót những gì dưới đất.
Có hai chiếc honda 67 đang chầm chậm đi ngang nhà tôi, trên mỗi xe hai anh con trai độ 18, 20. Cả bốn gương mặt đều quay nhìn vô nhà, chắc chắn họ tìm chị Anh Đào đây. Xe đi qua đoạn ngắn rồi đảo vòng lại, một anh ngồi phía sau đứng hẳn người trên hai thanh kê chân để cố ngóng cho rõ vào trong xem có gặp người đẹp môi đỏ không? Chị Anh Đào đang tuổi dậy thì, đôi môi đỏ mọng tự nhiên mà nhiều người cứ tưởng chị thoa son ấy.
Tôi ngồi chết trân không dám thở mạnh tim đập dồn, sợ lỡ họ ngước mắt nhìn lên bắt gặp tôi ngồi như con khỉ nhìn xuống thì xấu hổ không để đâu cho hết. Lại nhớ cái lần giả làm mẹ bế búp bê đi vòng vòng trong sân bị Đằng bắt gặp, lần nầy thì chỉ mình tôi ngồi đỉnh đạc trên cây chịu trận, Xuân Đào đi học rồi. May phước họ chỉ đảo xe qua lại có hai lần tức bốn vòng, thất vọng vì không thấy chị Anh Đào nên chạy luôn. Tôi hái vội vàng chùm lý rồi tuột xuống đất phóng nhanh vào nhà. Hú vía!
Mỗi khi ra ngoài hay đến lớp tôi có vẻ trang nghiêm khó tánh mà nhiều bạn kết luận tôi kiêu kỳ nhưng không ai biết đó là một hình thức nguỵ trang che giấu bản tính nhút nhát mà thôi. Chỉ ở nhà tôi mới thật sự là tôi: hồn nhiên, nhí nhảnh, nghịch ngợm đúng với cái tuổi của một cô bé bắt đầu lớn.
Có lẽ do đọc quá nhiều sách đã ảnh hưởng rất lớn đến tâm hồn nên tôi ôm mộng sau nầy trở thành ký giả hoặc nhà văn. Vì chỉ cónhà văn mới tạo ra phép lạ biến những người bất hạnh tìm ra hạnh phúc, những người nghèo khổ có cơm ăn áo mặc, những người bệnh tật có phương thuốc thần làm cho khoẻ mạnh, những đứa trẻ nghèo thông minh hiếu học trở thành nhà bác học, tỷ phú hiền lương tiếp tục cống hiến tài năng giúp đời. Còn những ký giả chân chính sẽ vạch trần những bất công oan trái, lấy lại công bằng cho người dân thấp cổ bé miệng..v..v..
Trong lúc chờ đợi để mai sau trở thành người cứu đời, tôi vẫn tiếp tục đến lớp để góp nhặt kiến thức từ thầy cô. Bạn bè người nghỉ học người chuyển trường đến và đi. Gia đình Đằng đã dời đi nơi khác hồi năm đệ ngũ (lớp 8). Nghỉ tết xong, Đằng biến mất. Hỏi ra mới hay ba hắn vì nhiệm vụ phải đổi sang tỉnh khác, nghe tụi con gái kháo nhau là một người anh của Đằng vẫn ở lại vì chỉ còn mấy tháng thi tú tài 2 không muốn xáo trộn việc học. Rồi tụi nó chắt lưỡi xuýt xoa rằng anh em nhà Đằng ai cũng đẹp trai thông minh vóc dáng hiên ngang của con nhà võ lại có tài đàn hát hay. Anh đầu lòng tên Tường giỏi nổi tiếng đang du học bên Mỹ có người yêu là chị Khanh theo ngành Khoa Học. Toàn là mẫu người lý tưởng, ước gì tụi nó được là người yêu của họ...
Vắng Đằng lớp bỗng trống trải thế nào ấy tuy sĩ số học trò không thay đổi là bao. Sao hồi hắn hiện diện mình chả nghĩ ngợi gì, giờ hắn bỏ đi mình lại thấy mất mát nhỉ? Chắc vì không còn ai để hơn thua điểm cao điểm thấp chăng? Vẫn còn Quân, nhưng cậu nầy hiền quá có cái vẻ an nhiên nên tôi không hào hứng so tài chứ gì.
Nghĩ vậy nhưng tôi thấy có cái gì khập khiểng trong cách suy luận. Vì lâu rồi chúng tôi đâu còn tranh giành thứ hạng nữa. Chắc phải là một cái gì khác, thuộc về thói quen. Tôi coi Đằng hay các bạn là một phần trong cuộc đời học trò gắn bó hằng ngày với mình, nay Đằng tách ra nên tôi thấy thiếu đó mà. Ủa, vậy sao những bạn khác chuyển trường bỏ học tôi không có cảm giác hụt hẫng nầy? Hay bóng dáng Đằng đã nhảy vào tiềm thức tôi hồi nào rồi mà chính mình chưa nhận ra?
Gần cuối năm học tôi bắt đầu làm thơ, một trong những bài thơ tình đầu tiênnghe ngây ngô lắm:
Bàn tay ngón dắn ngón dài
Em như cơn nắng nâng ngày lên cao
Tiếng con chim nhỏ kêu chiều
Em ngơ ngác mắt yêu kiều làm sao
Ngày đi qua tình lao đao
Bàn tay gân guốc hết cao gọi mời
(Bàn tay năm ngón, Th. H)
Thời gian nầy chị Anh Đào lên thành phố học Sư Phạm nên tôi tiếp má nấu ăn dọn dẹp nhà cửa. Dịp tết hay hè chị Anh Đào về là mấy chị em cứ quấn quít tíu tít không rời. Anh Kiệt như người bạn thân mà hai anh em có thể trao đổi mọi chuyện riêng tư thầm kín.
Bây giờ tôi được gia nhập vào hội những người lớn của chị và anh Kiệt, được ngồi nghe chuyện tình của hai anh chị với người yêu của họ rất thơ mộng và lãng mạn. Rồi chính tôi cũng có người ái mộ tặng sách, thiệp, thơ chứ không phải lúc nào cũng coi ké của chị Anh Đào.
Quyển đầu tiên do con trai tặng là Nỗi buồn thắp sáng của Cung Tích Biền. Đó là một bạn học ngang cấp nhưng khác lớp. Cậu nhờ chị Lành chuyển chứ không tự đưa nên tôi không biết là ai. Chị Lành nói chờ tan trường chị sẽ chỉ cho xem. Ra là cái cậu đứng thấp nhỏ hơn tôi mà có lần giờ ra chơi tôi tựa cửa ngó vu vơ thì chợt nhìn qua phòng kế bên thấy cậu cũng đang đứng tần ngần một mình, nét mặt ủ rủ. Thấy vậy tôi mĩm cười như để an ủi (mà chả biết an ủi điều gì nữa) cậu nhìn tôi ngỡ ngàng (chắc tự hỏi vì sao tôi lại cười với cậu). Những ngày sau đó cậu hay lân la qua lớp nhìn tôi, thấy thế tôi lại cười xã giao thêm một vài lần. A, chắc cậu nghĩ tôi thích cậu nên cố ý tìm một quyển truyện có nhan đề Nỗi buồn thắp sáng, viết kèm thêm mấy hàng: ”Tặng Trúc Đào, người đã thắp sáng tâm hồn tôi. Danh“. Úi trời, tôi mới 14 tuổi gần đây còn thích trèo cây me cây lý cây ổi tìm hái trái, hay cầm vợt đuổi theo đàn bướm định bắt đem về nuôi mà. Tôi cười với cậu là nụ cười của một người chị muốn an ủi em trai có gương mặt bí xị tưởng bị thầy cô phạt chứ có định làm ánh đèn thắp sáng tâm hồn cậu đâu. Bé cái lầm rồi, từ nay tôi phải cẩn thận mỗi khi cười với con trai mới được.
Quyển sách thứ hai tôi nhận được là Angelique, Nữ Hầu Tước của những Thiên Thần của nhà văn Pháp Anne Golon do Kiên bạn anh Kiệt, ở nơi khác mới về năm nay tặng qua trung gian anh Kiệt chứ không trao trực tiếp. Lúc đó tôi học lớp 10 tức 16 tuổi. Thấy tôi cứ ôm sách đọc ngấu nghiến anh Kiệtchọc:
- Sao không nhắn lời cảm ơn người tặng gì hết trơn vậy ta, miễn có
truyện đọc là thích thôi chớ không cần tìm hiểu là ai hết phải không?
Tôi cười, khó khăn lắm mới ngẫng đầu khỏi quyển truyện:
- Em không nói thì anh cũng thay em cám ơn anh ấy dùm. Mà ai vậy anh
- Kiệt?
- Sao biết em vậy?
- Nói thì em cũng không biết đâu, để hôm nào anh rủ nó lại nhà chơi cho em xem mặt. Con chủ nhà sách Q.N đó. Còn sao biết em hả? Anh có chị em gái nổi tiếng ở trường ai mà không biết.
- Vậy nói bạn anh hể sách nào mới xuất bản ăn cắp ba má mang cho em đọc nghe, tôi đùa.
Lần kế Kiên tặng tôi tập thơ tình của thi sĩ Nguyên Sa.
Tôi như khám phá một chân trời mới với những lời đầy chất thơ và nhạc, qua đó tôi lấy cảm hứng để sáng tác thơ cho riêng. Tất nhiên là chẳng thể nào so sánh với Nguyên Sa được nhưng có hề gì. Ai cấm mỗi người nói lên cảm xúc của mình chứ.
Nếu viết truyện thì mình có thể lấy ngôi thứ ba làm nhân vật chánh nhưng trong thơ thì bắt buộc phải dùng ngôi thứ nhất hoặc anh hoặc em. Anh Kiệt đọc thơ tôi làm rồi hỏi:
- Bộ Trúc Đào biết yêu rồi hả?
- Trời, làm gì có. Bộ anh không hiểu em sao còn hỏi vậy? Tôi giẫy nẩy.
- Sao làm thơ như người có kinh nghiệm thế?
- Bài nào đâu?
- Bài Vương sầu đây thôi, rồi bài Chiêm bao trắng, Đêm hẹn nữa.
- Em làm nguyên cả tập, mỗi bài là mỗi trường hợp mỗi đề tài khác nhau. Chả lẽ em có từng ấy người yêu hả?
Anh cười cốc nhẹ đầu tôi:
- Ngoài đời em khờ như con ngốc ấy, mà sao viết văn thì già giặn gớm. Ba má đọc được chắc hoảng kinh lăn đùng ra xỉu quá.
- Phải có trí tưởng tượng dồi dào phong phú như vậy mai kia mới làm văn sĩ được chứ, bộ anh quên là hồi mình mới 9,10 tuổi đã biết viết văn rồi sao? Tôi giả bộ tự hào.
Lòng vẫn nhẹ như mây mềm dưới gót
Bước chinh nhân qua mấy bến tình hờ
Cho em sầu đời không mộng và mơ
Nghe vở vụn chạy dài trên sóng mắt
Từ một buổi nhìn nhau xa ngút mắt
Thoáng mĩm cười tìm hơi thở ngất say
Gặp gỡ nhau chi để nhớ bùi ngùi
Rồi cuốn hút cơn xoáy nào đi mãi
(Vương sầu, Th.H)
Bài thơ nầy tôi làm dựa theo chuyện tình của Hồng với một anh chàng lính Hải quân, tuy học cùng lớp nhưng Hồng lớn hơn tôi ba tuổi, thuở ấy các bạn đa số đều đến trường trễ. Vì gia đình Hồng có mở quán nhạc cà phê, các thanh niên học sinh lính tráng thường lui tới. Giờ rảnh Hồng ngồi làm thu ngân nên quen biết rộng rãi. Đời lính rày đây mai đó Hồng yêu anh chàng nầy sâu đậm nhưng chuyện tình ngắn ngủi vì anh chuyển đi nơi khác Hồng thất tình một thời gian khá lâu mới lấy lại nụ cười.
Như anh Kiệt nói, trong đời thường tôi là một cô bé ngây ngô không chút vốn sống nào nhưng thả vào thế giới sách vở thì tôi hoá thân thành đủ mọi nhân vật hoàn toàn khác với tôi.
Con chim dưới lá giật mình kêu hoang
Chân người đêm lạ êm ngoan
Bờ tường vi thấp thoáng choàng dáng tiên
Gái trinh thôi ngủ mơ hiền
Ta ngồi dạo nhạc giữa miền trăng tan
(Đêm hẹn, Th.H)
Mấy câu trên là cảm đề khi đọc về chuyện tình Romeo & Juliette, tưởng tượng cảnh anh chàng Romeo mỗi đêm lén đến dưới cửa sổ phòng Juliette dạo những bản tình ca cho nàng nghe.
Nhớ mấy năm trước, trong giờ Kim văn có bài Anh Phải Sống của hai tác giả Khái Hưng và Nhất Linh, là một trong vô vàn tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc khó phai mờ trong tâm khảm tôi. Truyện nói về hai vợ chồng nghèo đi vớt củi vào mùa lụt sông Hồng, chiếc thuyền nan bị lật úp vợ yếu sức nên anh Thức một tay ôm chị Lạc một tay cố bơi vào bờ. Nhưng lũ mạnh quá người chồng mệt dần. Biết nếu tiếp tục như thế cả hai sẽ cùng chết nên chị Lạc buông tay để nước cuốn trôi cho chồng sống sót trở về nuôi ba con còn nhỏ dại. Tôi vẫn nhớ như in câu chị Lạc nói trước khi chìm xuống nước: “Thằng Bò! cái Nhớn! cái Bé! Không! Anh phải sống!“
Câu chuyện thương tâm nầy cứ ám ảnh tôi mãi.
Rồi tôi thấy mình trong nhân vật cô bé Perrine mồ côi can trường lương thiện trên hành trình gian nan tìm về nguồn cội đã chinh phục ông nội khắc khe đã từ bỏ cha cô vì dám cưới người đàn bà ngoại chủng là mẹ cô
bằng chính nhân cách cư xử đầy lòng tự trọng đáng ngưỡng mộ, là một gương điển hình mà tôi nguyện sẽ noi theo (Trong Gia Đình, Hector Malot).
Óc tưởng tượng đưa tôi nhập vai Angelique, Nữ Hầu Tước hoang dã, ngỗ ngáo có một nghị lực và lòng can đảm ngoại hạng dám một mình chống lại mọi thế lực mạnh nhất của vua chúa, bọn cướp, bọn buôn người để sau cùng thành công và nhất là đòi lại công lý cho người chồng yêu dấu bị kẻ ganh ghét hãm hại.
Tôi mến phục và thương cảm cho ông già Jean Valjean, nhưng chắc chắn không muốn là phiên bản của một Cosette xinh đẹp hiền lành nhưng nhu nhược đã nghe lời anh chồng Marius vì hiểu lầm tưởng cha vợ là kẻ xấu nên bắt vợ phải từ bỏ người cha nuôi có công đem mình từ cuộc đời tăm tối biến thành một tiểu thơ cành vàng lá ngọc trong tác phẩm Những Người Khốn Khổ của đại văn hào Victor Hugo.
Hình tượng lý tưởng của tôi là những cô gái, phụ nữ nghèo khổ cô thân nhưng có nghị lực ý chí để thay đổi vận mệnh chính mình. Giàu lòng nhân hậu, dịu dàng nhưng có chính kiến, không khuất phục trước sự tàn ác. Vì vậy mà tôi rất bực mình cho cái cô Cosette quá yếu đuối, bị động mà trở thành vô ơn với cha nuôi. Có điều sau cùng anh chồng công tử bột hiểu ra sự thật, hối hận đưa vợ quay về thăm ông Jean Valjean trên giường bệnh.
Tôi mê sách đến độ nếu ai đó chịu thảo luận về đề tài nầy thì tôi có thể ngồi cả buổi không chán. Tiếc thay anh Kiệt thi đậu tú tài xong rời nhà đi học Khoa Học Saigon nên chẳng còn ai để trao đổi. Kiên cũng nối gót anh Kiệt về thành phố học Luật. Trước khi đi có tặng cho tôi quyển Cuốn Theo Chiều Gió (Margaret Mitchell) và nói riêng với anh Kiệt nhưng anh đem kể lại tôi nghe
- Mầy nói Trúc Đào chờ tao học xong luật sư ra cưới nhé
- Không ngỏ ý với em gái tao giờ đi, lỡ có đứa nhảy vô giành thì đừng khóc, anh Kiệt nói
- Trúc Đào còn nhỏ tao chưa nói đâu. Chờ có sự nghiệp đã.
Một chút rộn ràng. Thiếu nữ nào mà không thích khi biết có người để ý đến mình. Nhưng như tâm hồn tôi ảnh hưởng bởi sách vở quá nặng, từ sách học làm người, rèn luyện nhân cách, bàn về Chân Thiện Mỹ cho đến tiểu thuyết về thân phận con người, chiến tranh, diễm tình...nên tôi đâu chịu an phận làm một thiếu nữ không sự nghiệp, không hoài bảo? Tôi nhủ thầm là chính tôi cũng quyết phải đạt một cái gì kiểu như cụ Nguyễn Công Trứ nói:
Đã mang thân ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
(Nợ Tang Bồng)
Rồi tôi tự chế giễu: không khéo mình giống như truyện ngụ ngôn Con ếch muốn to bằng con bò, tài cán thì không có mà cứ tưởng mình xuất sắc lắm rồi đến lúc nổ tung bụng chết không kịp ngáp.
Trước mắt tôi lo gạo bài để chuẩn bị mùa thi, phải đậu nếu muốn trở thành ký giả văn sĩ gì đó chứ.
Tôi than với anh Kiệt: Mấy người theo tán tỉnh em nếu như họ biết đánh vào yếu điểm của em là thích đọc sách, thì không chừng họ đã chinh phục trái tim em từ lâu rồi.
- Có thằng Kiên đó, nó “cua” em bằng cả đống sách còn gì.
- Ừ nhỉ. Nhưng mà sao em chưa thấy rung động gì hết vậy
- Có nói chuyện với nhau bao giờ đâu mà rung động, thằng Kiên rất sâu sắc chứ không lắt chắt như mấy đứa khác đâu nha. Anh nói nếu muốn anh giúp bửa nào anh giả bộ chở em đi ăn kem rồi như vô tình nó cũng tới cùng chỗ tạo dịp cho hai đứa gặp mà nó lắc đầu lia lịa thôi tao chưa sẵn sàng đâu, lỡ nói mà bị nàng từ chối thì tao buồn chết, phải kiên nhẫn và xem tình ý của người ta thế nào đã.
Anh Kiệt đi, đổi lại chị Anh Đào tốt nghiệp xin về dạy trường trung học tỉnh cho gần nhà. Xuân Đào bắt đầu trổ mã, xinh xắn ra phết. Thỉnh thoảng nghe ba má nói nhỏ với nhau tưởng chúng tôi không nghe được:
- Nhà có con gái lớn thật như bom hẹn giờ, chả biết khi nào nó nổ.
Có mấy người đi dạm hỏi chị Anh Đào, nhưng chị ngập ngừng chưa nhận. Lấy lý do mới ra trường muốn trả hiếu ba má một hai năm nữa. Nhưng tôi biết nguyên nhân chính là chị chờ anh Long. Anh mồ côi cha từ nhỏ lại vừa để tang mất mẹ. Thêm vào cái nghiệp binh chủng nhảy dù sống chết như trò đùa nhảy từ trực thăng xuống đất. Ba má biết phong phanh, không cấm đoán nhưng cũng không đồng tình, sợ con gái lấy chồng quân nhân có nguy cơ trở thành goá phụ sớm.
Mùa hè năm đó tôi thi đậu tú tài một. Hồng nhắn ghé chơi nhiều lần nhưng bận học thi nên chưa đi. Nay có thời gian tôi xin ba má chở Xuân Đào đến quán Hồng ăn chè. Bất ngờ gặp Đằng với Thi, Phú, Mạnh và cả nhóm, tất nhiên Đằng cũng thi đậu về quê nội chơi vài tuần. Giờ Đằng trở thành thư sinh tuấn tú, dáng cao ráo rắn chắc mất đi cái vẻ háo thắng của một học sinh biết mình giỏi. Những hình ảnh xưa lần lượt hiện về như khúc phim quay chậm. Tôi khó khăn lắm mới kết nối giữa quá khứ và hiện tại: một Đằng vẻ mặt hầm hầm vì bị tôi chiếm điểm Anh văn; Đằng dương dương tự đắc vì thắng tôi toán lý hoá; Đằng đạp xe ca hát như điên rồi té lăn cù đau đớn mà tôi chả một lời thăm hỏi hay một cử chỉ lo lắng. Hình ảnh nhích gần hơn là Đằng bỗng trở nên thân thiện từ sau lần bắt gặp tôi làm mẹ búp bê; Đằng thử bắt chuyện khen tôi giỏi... Rồi Đằng bằng xương thịt đang ngồi trước mặt với nụ cười yêu đời tự tin. Bỗng nhiên tôi thấy lòng xôn xao gợn sóng trước người bạn học cũ!
Đang câu chuyện cởi mở, Xuân Đào đòi về. Tôi tức nhỏ quá muốn ngồi nán thêm chốc lát nhưng phải chìu. Thầm mong Đằng gàn tôi ở lại, thế mà người ta nín thinh. Mong Đằng hỏi địa chỉ để liên lạc, nín thinh! Mong Đằng hứa câu gì thí dụ “mai Đằng ở lại thêm ngày nữa nếu Trúc Đào đi vườn trái cây với tụi bạn“ chắc chắn tôi sẽ gật đầu liền, nín thinh! Tiễn hai chị em ra xe, tôi dùng thần giao cách cảm xúi Đằng hẹn hò với tôi như trong sách khoa học viết. Hy vọng tắt lịm theo câu nói của Đằng: Ừ Trúc Đào về nhé!
Có lẽ chúng tôi không cùng tần sóng nên Đằng không bắt được tín hiệu của tôi chăng.
Rồ máy xe đi một khoảng, tôi nhìn vào kính chiếu hậu thấy bóng Đằng còn đứng ngó theo thật lâu. Nhớ lại ánh mắt sáng ngời của Đằng khiến tối đó giấc ngủ không về ru tôi tròn mộng như mọi đêm.
Ngày lại ngày qua, mùa thi đến. Năm nay là lần đầu tiên Bộ Giáo Dục áp dụng lối thi trắc nghiệm, chấm thi bằng máy IBM cho tú tài toàn phần. Tôi học xanh xao gầy rộc, vì mỗi một câu hỏi có sẳn bốn câu trả lời. Câu nào cũng tương tự nhau, nếu không hiểu thật kỹ bài thì dể rơi vào bẫy như chơi. Không còn thời gian hay chỗ trống trong tim óc nghĩ ngợi vẩn vơ nữa. Kiên biết tôi lo học nên nhắn anh Kiệt là qua kỳ thi sẽ tặng tôi một thùng sách đọc bù, anh đã để dành sẳn rồi.
Thời gian nầy anh Long lên tiếng dạm hỏi chị Anh Đào. Ba má miễn cưỡng đồng ý, chờ sang năm mãn tang mẹ anh là cưới. Chắc sẽ có nhiều người ca bài Tôi đưa em sang sông lắm.
Kết quả kỳ thi tôi đậu hạng bình, không uổng công bao đêm thức trắng miệt mài (lúc ấy các kỳ thi có năm hạng: thứ, bình thứ, bình, ưu, tối ưu)
Tôi theo anh Kiệt lên Saigon ghi danh vào Văn Khoa, khấp khởi tưởng con đường trở thành ký giả hoặc văn sĩ đang bắt đầu hé lộ.
Trong vài chục quyển sách Kiên tặng, không biết điềm báo hay ngẫu nhiên tôi chọn mấy quyển để đọc trước, là Tầng đầu địa ngục của nhà văn Nga Alexandre Solzhenitsyn, kể về cuộc đời đày ải lao tù của những nhà bác học, trí thức Nga dưới thời Sô Viết. Và quyển Lửa thương yêu lửa ngục tù của nhà văn Đức Erich Maria Remarque nói về các tù binh chiến tranh và Do Thái thời Đức Quốc Xã. Nó vạch cho thấy tính phi nhân tàn bạo của một nhóm người mà ngay trong ác mộng kinh hoàng nhất tôi cũng không hình dung ra nổi.
Có đâu ngờ một thời gian không lâu sau đó, những trầm luân thống khổ tôi tưởng chỉ đọc thấy trong sách như tài liệu lịch sử bên lục địa Châu Âu xa xôi kia bỗng hiện tiền ngay trong đời tôi.
Kỳ Cuối
Bóng ai dưới giàn tử đằng
Phải người năm cũ tim hằng ngẩn ngơ
Biết nhau từ tuổi dại khờ
Mộng lòng dang dở nên chừ còn vương
Trúc đào hoa mãi ngọt ngào sắc hương (thơ Th.H)
Nhiều năm sau, nơi xứ người.
Chiều xưa có ngọn trúc đào
Mùa thu lá rụng bay vào sân em
Trời thu gió lạnh êm đềm
Vàng sân lá đổ cho mềm chân em.
Tại vì hai đứa ngây thơ.
Tình tôi dạo ấy là ngơ ngẩn nhìn...
(Trúc Đào, nhạc Anh Bằng, thơ Nguyễn Tất Nhiên)
Đó là tiếng nhạc Đằng cài đặt cho điện thoại của mình từ gần một năm nay.
- Chào Trúc Đào, khỏe không?
- Chào Đằng. Trúc Đào khỏe, cám ơn. Còn Đằng thế nào?
- Đằng cũng vậy. Nghe tiếng nói của Trúc Đào dù đang bịnh cũng khỏe lại ngay thôi, lúc nãy Trúc Đào bận hả?
- Đằng khéo ăn nói ghê. Trúc Đào ra phố bên ngoài ồn quá nên không nghe Đằng gọi. Về nhà mới nhìn thấy, xin lỗi nhé.
- Không sao đâu, Đằng gọi để hỏi xem Trúc Đào đã quyết định chuyện hôm trước Đằng đề nghị chưa đó mà.
- Trúc Đào đồng ý, hôm qua đã xin lấy nghỉ ba tuần tháng 8 được rồi.
- Ô thế thì vui quá chừng, cứ sợ Trúc Đào không đi được.
Cuộc hội ngộ giữa Đằng và Trúc Đào cũng ngẫu nhiên như trò đùa tạo hóa vào lúc không ai còn hy vọng tìm thấy nhau nữa!
Mùa hè của ba mươi năm trước. Ví von giống trận Đại Hồng Thủy trong Kinh Thánh thời Noah, nơi nào lũ tràn qua nó càn quét sạch sẽ cả nền văn hóa ưu việt, thế hệ ưu tú, đời sống bình ổn. Để lại đằng sau nó sự hoang tàn nát vụn của chết chóc đói khát và nhất là giá trị đạo đức lộn nhào. Đánh dấu sự thoái hóa tan rã của một thời hoàng kim, bắt đầu cho thời kỳ hoàn toàn đối ngược
Mọi người nhìn nhau e ngại, không biết kẻ đối diện với mình là người hay quỉ? Lương thiện hay tà tâm?
Những kỳ thi dang dở, những giấc mộng lụi tàn, những cảnh đời tả tơi như bóng ma vất vưởng. Linh hồn không ở đó, chỉ ăn để tồn tại như cái cây cọng cỏ.
Đằng gặp lại Trúc Đào vào lúc không hề chờ đợi nhất.
Là khi Đằng từ cao nguyên cùng anh Khải anh Phúc quay lại xứ biển để tìm cách ra khơi.
Ba Đằng bị bắt làm tù binh, rồi biền biệt mười lăm năm sau mới trở về.
Khải, Phú ở trại ít hơn ba, khoảng gần hai năm.
Thời gian đó má với Đằng vẫn ở lại Đà Lạt, hai anh về tiếp má và Đằng trồng hoa tưới rau cải cho ông bà ngoại. Sáng dậy thật sớm thồ hoa, rau ra chợ bỏ mối. Rồi vườn hoa của ông bà ngoại bị xung vào Hợp Tác Xã nên cả gia đình ăn lương tính theo công điểm trên chính mảnh đất mình thừa hưởng và làm chủ tự bao đời. Tường nhờ học bổng tiếp tục cao học nên kẹt bên Mỹ mất liên lạc luôn.
Trời chưa rựng sáng anh em Đằng có mặt tại bến đò như đã hẹn trước. Họ chia nhau rải rác để đừng bị để ý. Khải ngồi trong quán cóc uống cà phê pha bằng vợt, Phúc đội cái nón sùm sụp dưới chân là đống dụng cụ dao xẻng cuốc để làm ruộng, Đằng ngồi quán hủ tíu bên cạnh vẩn vơ ngó người bán ếch nhái xỏ xâu đặt trên cái xề ngồi chồm hổm mời gọi mọi người mua. Cả ba mặt mày đen nhẻm, áo quần phai màu củ kỷ nhưng gương mặt không giấu được nét thông minh khác hẳn dân đã quen suốt ngày dãi dầu mưa nắng. Tiếng người phụ đò hét lên inh ỏi:
- Ai đi miệt Thứ Bảy, Kinh Làng thì xuống nhanh nghe bà con ơi. Đò sắp chạy rồi, chuyến nầy là chót không đi thì phải chờ sáng mai mới có chuyến khác nghe bà con.
Nghe nói sẽ đi Kinh Làng, Thứ Bảy bất giác Đằng đưa mắt về hướng chiếc đò mà hành khách chín phần mười là phụ nữ vì ai cũng biết địa danh nầy, nơi mà chồng con anh em họ đang ngày đêm lao cải trông ngóng họ đến thăm nuôi. Thoáng thấy bóng cô gái đang sắp bước chân lên cây đòn dầy bắt từ bờ để lên đò có cái gì quen thuộc, như tia chớp quất mạnh làm tâm trí Đằng bừng tỉnh, anh chạy nhanh đến để nhìn cho rõ mặt.
- Trúc Đào, phải Trúc Đào không? Đằng cuống quít
Nghe ai gọi tên, cô gái chính làTrúc Đào giật mình quay lại nhìn. Một thanh niên dong dỏng cao, tóc cắt ngắn da ngâm đen đôi mắt sáng quắc. Ngờ ngợ quen quen...
- Đằng nè, Trúc Đào nhìn không ra sao?
- Trời ơi Đằng! sao tự nhiên có mặt ở đây?Thật không ngờ!
Trúc Đào thảng thốt kêu nho nhỏ, gương mặt thoảng ửng hồng. Cô đoán ra lý do.
- Còn Trúc Đào đi đâu vậy?
Đằng không trả lời mà hỏi lại, vừa đưa mắt nhìn vào bộ quần áo cô mặc:
- Đi thăm nuôi ba ở Kinh Làng. Còn ba Đằng sao rồi? Má Đằng khoẻ không?
Đằng chưa kịp trả lời thì người lơ đò cau có thúc giục:
- Chị gì đó có đi thì lên đò mau để tui còn rút đòn dầy cho đò chạy. Đừng đứng đó nói chuyện mọi người chờ kìa, tới giờ rồi.
Hai người nhìn sâu vào mắt nhau, có trăm điều để nói nhưng không thể thốt thành lời trước đám đông. Trúc Đào chỉ nói nhỏ:
- Thôi Trúc Đào đi. Đằng cẩn thận nha, chúc bình an.
- Đằng sẽ đến nhàTrúc Đào sau nhé, kính lời thăm bác khoẻ.
Con đò từ từ ra xa, Đằng vẫn còn đứng ngó theo lòng nao nao bao cảm xúc lẫn lộn.
Ngồi bó gối trên con đò nhỏ chật như mắm nêm các bà các chị ai cũng mang một hoặc hai giỏ đồ gồm đủ thứ thức ăn thịt cá kho hoặc xấy khô để ăn được lâu, nhúm đường, trà, cà phê, gói kẹo, cây kim cuộn chỉ... - mà để có được nó các người vợ phải đánh đổi bao giọt mồ hôi hòa giọt lệ, hoặc những vật dụng trong gia đình, những món đồ giá trị, kỷ niệm.. lần lượt đội nón mà đi -, tim Trúc Đào cũng đập dồn không kém Đằng, bùi ngùi như lại vừa để vuột thoát cái gì quí giá.
Ba cô đồng cảnh ngộ với ba Đằng, nhưng vì là công chức nên “chỉ được” ở trại phân nửa thời gian của ba Đằng thôi. Anh Long mất tích, chị Anh Đào bị sa thải về nhà phụ má may vá. Anh Kiệt xin vào hãng khiêng vác nước đá mỗi cây khoảng hai lăm ba mươi ký từ hầm đông lạnh chất lên xe hàng, không quen việc nặng và khí lạnh nên chỉ làm được hai ngày là ngã bịnh sốt mê man. Lại đòi chạy xe honda ôm, cả ngày lăn lóc ngoài đường bạn gặp nhìn không ra. Còn cô với Xuân Đào tập làm bánh chuối nướng, luộc khoai lang khoai mì sáng bày trước cổng hy vọng phụ thêm vài đồng. Má khóc mỗi đêm lúc tưởng các con đã ngủ, sáng ra mặt mày phờ phạc. Từng bộ áo dài tôn nét đẹp của má một thời, giờ biến mất dần trong tủ mỗi tháng gần tới đợt đi thăm ba.
Nhà sách của gia đình Kiên phải giao lại, ba mẹ anh trở về quê quán miền Đông. Giấc mộng làm luật sư để cưới Trúc Đào tan theo mây ngàn bay. Kiên đi buôn chuyến đầu tiên thì mất trắng suýt vào nhà giam, đành thử mua vài công đất trồng khoai lang khoai mì dưa rau chờ thời. Khoai cung cấp cho Trúc Đào Xuân Đào nấu bán.
Cô buồn rầu nghĩ sao ông trời oái oăm, cứ mỗi lần gặp Đằng là mỗi lần vội vã gấp gáp. Lần trước là do cả hai đều nhút nhát rụt rè, cố giấu tình cảm chẳng ai chịu mở lời trước vì sợ bị chối từ. Lần nầy thì do chuyến đò phải nhổ neo để kịp giờ vào chỗ hẹn, không có thời gian lẫn sự riêng tư cho cuộc trò chuyện. Có muộn màng không cho một bắt đầu?
Cô nghĩ tới Kiên, mà không xác định được đó là tình yêu hay tình bạn?!
Như một sự hiểu ngầm dù Kiên chưa chính thức nói gì, nhưng gần như mọi người trong gia đình đều mặc nhiên chấp nhận tình yêu Kiên dành cho Trúc Đào. Cô không cãi chính cũng không ưng thuận.
Anh len vào đời cô bằng những bước chân nhẹ nhàng êm ái không hấp tấp vội vả, không ồn ào sôi động mà bằng sự tinh tế của một người trầm lặng sâu sắc. Anh đón nhận cuộc sống nghiệt ngã thực tiễn, tìm cách chiến thắng nó chứ không để bị đánh gục bởi nó. Bên anh, người ta có cảm giác an toàn, chở che.
Còn Đằng giống như một giấc mơ cổ tích, một mộng tưởng thầm kín, một cơn mưa mây nhưng khuấy động dữ dội những sấm rền. Mỗi lần gặp lại Đằng là mỗi lần lòng cô dậy sóng
Người xin hồn người vuông sân vắng.
Mà bóng ưu phiền vẫn bước qua.
(thơ Th.H)
Cách bốn năm giữa hai lần gặp, cơ hồ Trúc Đào đã sống qua một cảnh đời khác. Lần trước trông cô thanh thoát trong bộ quần áo hợp thời, tóc xoã lửng vai nụ cười toả sáng của một nữ sinhthơ ngây tinh khiết, tương lai tràn đầy hứa hẹn. Lần này Trúc Đào mặc quần đen áo bà ba màu nâu phù sa, đội nón lá quai đen. Chiếc nón chằm thô kệch bằng loại lá xấu dành cho người nông dân đội ra đồng có cái che mưa nắng chứ không mỏng manh đài các như nón bài thơ xứ Huế mà ngày xưa cô thường che nghiêng nghiêng làm dáng đến trường. Cô xách một chiếc giỏ đan bằng lác của các bà mẹ thường dùng đi chợ, đựng lỉnh kỉnh gói lớn gói nhỏ, tóc dài được cột lại gọn gàng. Gương mặt vẫn xinh đẹp như xưa nhưng đượm vẻ u buồn khiến lòng Đằng tê điếng. Anh nói thầm: ngay cả mặc áo rách vá vai em vẫn quí phái không lẫn với ai được Trúc Đào ơi. Lẽ ra anh phải tìm em từ lâu rồi chứ. Tại sao tôi là thằng ngốc vậy trời!
Cảm giác hối tiếc thời gian phí hoài cứ trì nặng trái tim mà Đằng chẳng còn dịp nào để sửa chửa, bù trừ, hay thực hiện lời vừa hứa với Trúc Đào là sẽ liên lạc vì cùng ngày đó anh em Đằng trốn xuống tàu ra đi thành công
Lúc ngồi bó gối dưới hầm tàu đánh cá lênh đênh ngoài biển khơi chẳng biết có tới nơi cần tới không, anh lại tự chưởi rủa mi là tên hứa nhăng hứa cuội, là tên to đầu chết nhát. Sắp ra đi không hẹn ngày về, thân có thể làm mồi cho cá thế mà còn hứa hẹn. Hình dung cảnh Trúc Đào chờ tin ngày qua ngày để rồi buông ra câu kết luận suy cho cùng tên Đằng vẫn cư xử như thằng oắt con mười hai tuổi dạo nào mà càng tự giận thân.
Khi đến đảo bình yên, Đằng viết thư về cho má và dặn bằng mọi cách chuyển cho Trúc Đào một lá thư viết riêng. Nhiều tháng sau má Đằng trả lời là nhờ các anh con cô sáu tìm nhưng gia đình Trúc Đào bị đuổi đi vùng kinh tế mới biệt tăm rồi. Từ đây là bắt đầu cho chuỗi ngày đêm Đằng sống trong sự dày vò ân hận. Cái câu “tại sao mình không đi tìm Trúc Đào sớm hơn” cứ trở đi trở lại hàng trăm, hàng nghìn lần trong đầu cho đến tận nhiều năm sau nầy.
Ở đảo ba anh em nhờ liên lạc được với Tường lúc nầy đã có việc làm ổn định trong ngành khoa học, việc bảo lãnh dể dàng mau lẹ nên bốn anh em sớm đoàn tụ. Anh Tường khuyến khích, nuôicác em tiếp tục học nên kết quả sau mấy năm cả ba đều tốt nghiệp có việc làm ổn định.
Thời gian trôi....
Một năm trước, đầu tháng năm, đảo Victoria thuộc Vancouver, Canada.
Một thiếu phụ tuổi trung niênnhưng dáng dấp trẻ trung thanh lịch đứng
làm dáng dưới giàn hoa tử đằng, hỏi cậu trai độ hai mươi bốn tuổi đang giơ cái iphone chờ chụp ảnh:
- Nhìn tóc mẹ xem có được chưa, cái bụng có to quá kỳ không con trai?
- Đẹp rồi mẹ, bụng mẹ đâu có to mà lo dáng mẹ còn đẹp hơn của con gái nữa à. Giờ mẹ cười tươi lên nhé.
Cậu hướng dẫn mẹ cười, nghiêng về bên phải, xong bên trái, tay vin cành hoa tím để cậu chụp nhiều kiểu
- Đẹp lắm mẹ. Mấy hình nầy mẹ post lên facebook là bảo đãm nhiều ông nhảy vào xin kết bạn mệt nghỉ cho xem.
- Thôi đừng đùa con, mẹ không màng đâu. Hai mẹ con thế nầy là hạnh phúc rồi.
- Giờ con còn ở nhà thì mẹ thấy đủ, nhưng mai nầy con đi làm xa thì mẹ sẽ buồn lắm.
- Không buồn đâu, mẹ sẽ tìm những thú giải trí khác như trồng hoa, thăm các dì cậu, sách vở... Con đừng quên mẹ là con mọt sách mà.
Hai mẹ con tiếp tục vừa đi tìm cảnh để chụp thêm vừa trò chuyện, không để ý người đàn ông mang kính mát đang quan sát họ từ lúc chụp hình cạnh giàn hoa tử đằng.
Người đàn ông nầy dắt theo hai cô con gái sinh đôi độ mười lăm tuổi.
- Daddy ơi, lại chụp hình cho hai đứa con dùm đi. Nhà daddy trồng hoa màu đỏ mà cây nầy hoa trắng đẹp quá.
- Ok, daddy lại đây. Nhưng nhanh lên nhé.
Ý cô con gái nói về cây trúc đào! Người đàn ông có vẻ gấp gáp, muốn chìu con gái chụp hình cho xong để còn chạy theo hai mẹ con người đàn bà.
- Ô daddy chưa xong mà. You đi đâu thế? Hai cô bé tiếng Việt Anh lẫn lộn.
- Chị em tự chụp với nhau, chờ ở đây daddy quay lại ngay
Rồi không đợi trả lời, anh đã bỏ đi một đoạn xa. Ngó dáo dác, kia rồi hai mẹ con người phụ nữ đang đứng cạnh chiếc cầu bắc qua con lạch nhỏ nơi khu vườn Nhật Bản. Cậu con trai tiếp tục chụp hình cho mẹ, anh tiến lại gần:
- Hai người có muốn chụp chung hình không? Tôi sẽ làm dùm cho. Anh hỏi giọng mất bình tĩnh.
Cả hai mẹ con quaynhìn người vừa lên tiếng đề nghị, cậu trai chưa kịp
trả lời thì người phụ nữ thoáng khựng lại, mở to mắt:
- A...có phải... phải..ơ...
- Trúc Đào đúng không? Là Đằng nè.
Vừa nói anh vừa gỡ chiếc kính mát ra khỏi gương mặt rắn rõi, đuôi mắt có nhiều vết chân chim, tóc cắt gọn gàng đen pha lẫn bạc hai bên thái dương.
- Trời ơi Đằng thật sao? Người thiếu phụ kêu thảng thốt.
- Là Đằng thật mà.
- Sao lại có thể thế được? Sao chúng mình có thể gặp lại hôm nay được?
Trúc Đào, thiếu phụ đúng là Trúc Đào, vừa lấy tay chận lên trái tim vừa lập bập những lời tối nghĩa.
- Là bởi vì Thượng Đế đã thấu lời cầu nguyện của Đằng đó.
Cậu con trai hết đưa mắt từ mẹ mình sang người đàn ông như dò hỏi.
- Hai người có quen nhau à?
- Mẹ với bác Đằng là bạn học cũ từ hơn ba mươi năm. Xin giới thiệu với Đằng đây là Dave con của Trúc Đào.
Sau phần giới thiệu, sau niềm vui cho sự hội ngộ bất ngờ mọi người quay lại tìm hai con gái của Đằng, xong kéo nhau vào cafeteria uống nước. Dave đề nghị đưa hai cô con gái sinh đôi đi loanh quanh để không gian riêng tư cho đôi bạn lớn mất dấu ba mươi năm trò chuyện.
Hàng nghìn lần Đằng nhủ thầm trong những ngày buồn chán vô vị những đêm dài mất ngủ là nếu định mệnh còn cho gặp lại Trúc Đào thì anh sẽ trút ra bao nhiêu điều canh cánh trong lòng, sẽ nắm chặt không để vuột cô nữa dù có động đất hay gió bão thế nhưng giây phút đầu chỉ có hai người ngồi đối diện nhau họ lại cảm thấy ngượng nghịu ấp úng như cái thuở 17tuổi. Chỉ đến khi Trúc Đào hỏi mẹ của hai cháu đâu sao có ba cha con đi chơi vậy thì Đằng mới lấy lại phong độ của người đàn ông tự tin, và mỗi người lần lượt kể lại câu chuyện đời gián đoạn từ dạo gặp nhau trên bến đò đi Kinh Làng Miệt Thứ.
Gia đình Trúc Đào bị đuổi đi vùng kinh tế mới nơi đồng khô cỏ cháy nước mặn như muối, đĩa vắt như bánh canh. Hể nơi nào không có tia nắng mặt trời chiếu là hàng đàn muỗi bay vo vo bám từng mảng vào người hút máu. Chịu đựng chừng một tháng thì Kiên lặn lội đi tìm, đề nghị gia đình Trúc Đào về căn nhà lá anh cất trên mấy công đất trồng khoai tá túc tạm. Kiên cưới Trúc Đào.
Một năm sau thời cơ đếnKiên cùng anh Kiệt, Trúc Đào, Xuân Đào vượt biên. Chị Anh Đào ở lại phụ với má nuôi ba và ngóng tin anh Long. Mấy năm sau ba về, anh Long cũng trở về thân tàn dạ. Chị Anh Đào làm vợ anh Long. Rồi mọi người hội tụ bên Mỹ theo diện H.O.
Duy có Trúc Đào cùng Kiên sang Canada vì lúc đó ba mẹ anh đã sang trước bên nầy bảo lãnh. Kiên ngày đi làm hãng thịt bò nuôi vợ con tối ghi danh học tiếp, Trúc Đào cũng xin vào xưởng may làm bán thời gian cho đến lúc Kiên học xong là ngưng vì Kiên không muốn vợ cực khổ. Cuối cùng anh thực hiện được giấc mộng trở thành luật sư, chấm dứt quãng đời gian khó sau cả chục năm vật lộn với tiếng Anh và các kỳ thi luật rối rắm. Tưởng cuộc đời sẽ phẳng lặng như vậy cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt nhưng cơn bệnh ung thư não quái ác đã cướp đi người chồng chung thuỷ của Trúc Đào, người cha gương mẫu của Dave sáu năm trước. Để tránh quạnh hiu cô độc, Trúc Đào xin làm hai mươi giờ mỗi tuần trong nhà sách của bạn Kiên.
- Hồi xưa Trúc Đào mơ trở thành văn sĩ hay ký giả. Mộng không thành giờ làm nhân viên bán sách cũng là một cách tiếp cận với văn chương vậy. Trúc Đào nói.
Phần Đằng sau khi học xong ra có việc làm ổn định cứ mỗi cuối tuần anh thường lân la tiếp xúc với các tổ chức, đoàn thể, cá nhân người Việt...để dò tìm tin tức Trúc Đào, hy vọng cô cũng sang bên nầy hay ít ra có ai biết tin gì về cô. Ngày lại ngày qua. Rồi do nhu cầu công việc, hãng yêu cầu Đằng qua châu Âu làm vài năm. Mỏi mệt với thời gian anh ngưng tìm kiếm chấp nhận chỗ làm mới. Ở Hòa Lan anh gặp và cưới vợ, một người có dáng dấp nét mặt từa tựa Trúc Đào – cách nay mười sáu năm rồi quay về Mỹ sống. Vợ chồng có hai cô bé sinh đôi xinh xắn. Ba má Đằng sau đó cũng được anh Tường bảo lãnh chứ không đi theo diện H.O, chị Khanh người yêu của anh lấy chồng vì không thể chờ đợi, sau anh cưới vợ người Mỹ là đồng nghiệp trong ngành khoa học, hai người rất hạnh phúc mãi đến giờ. Ước mộng của ba Đằng về già trở về xứ biển đã không thành, mà phải sống đời lưu vong.
- Trúc Đào sang Canada thảo nào Đằng dò la tin tức mà không biết được. Mà Đằng lại không biết tên của ba má và anh chị em của Trúc Đào, Đằng quả thật người vô tâm. Còn mẹ của các con Đằng đâu sao không đi cùng hả? Cô ấy không sống với Đằng từ bốn năm nay rồi. Hai con ở với mẹ và cha dượng, Đằng được gặp con mỗi hai tuần một lần và chia nhau các kỳ nghỉ. Lần nầy tới phiên Đằng, đáng lẽ đưa con đi chơi xa nhưng công việc ở hãng nhiều Đằng phải làm thêm cho xong, ngày nghỉ còn ít quá nên sang đảo Victoria chơi cho gần. Láng giềng với nhau mà chưa có dịp đến, nhờ vậy giờ mới gặp lại Trúc Đào.
Cha con Đằng đã dự tính ở lại Vancouver ba hôm để đi thăm các vùng lân cận nên Trúc Đào ngỏ ý mời đến nhà đãi cơm cho biết nơi mẹ con cô sinh sống.
- Dave nối nghiệp cha, đã ra trường đang tập sự chỗ ngày xưa Kiêncộng tác. Nhưng cháu tình nguyện gia nhập tổ chức Liên Hiệp Quốc qua các quốc gia châu Phi châu Á kém phát triển vài năm rồi mới quay về Canada hẳn. Tháng tới đi rồi.
Đằng khen:
- Vợ chồng Trúc Đào khéo nuôi cậu con có lý tưởng cao đẹp quá.
- Đó là tự cháu chứ vợ chồng Trúc Đào đâu quyết định. Giờ con còn ở nhà vui, mai nầy đi xa bỏ Trúc Đào lủi thủi.
- Thì Trúc Đào qua sống với ba má, các anh chị em
- Ba má mất hết rồi, giờ chỉ còn các anh chị em thôi. Canada như quê hương thứ hai của mình rồi, bỏ đi thì thấy quyến luyến.
Đằng định nói chỉ cần Trúc Đào gật đầu sẽ có người sẳn sàng rước cô về Mỹ ngay lập tức nhưng thấy quá sỗ sàng nên ngưng kịp.
Từ đó hai người thường xuyên gọi điện cho nhau. Dịp xuân Washington là mùa hoa anh đào nở, Đằng mượn cớ mời Trúc Đào sang anh đưa đi ngắm. Thuyết phục mãi có thêm Dave đồng minh Trúc Đào mới đồng ý nghỉ ba ngày.
Tiết trời mát mẻ, đôi bạn xưa hòa cùng dòng người tha thẩn dưới những con đường hai bên là hàng ngàn cây vươn cành đan xen nhau chi chít triệu triệu đoá hoa trắng, hồng mơn mởn. Gió xuân dìu dịu thổi cho những cánh mỏng manh rời cành bay lả tả xuống đất xuống mặt hồ, đậu cả trên tóc trên vai du khách khiến lòng mọi người lâng lâng như lạc vào cảnh thần tiên.
Đằng giản dị trong áo sơ mi xanh nhạt quần màu cà phê sữa, mặt rạng rỡ bước đi tự tin. Trúc Đào thanh thoát trongchiếc áo đầm trắng điểm vài đoá hoa thuỷ tiên vàng, tóc xõa lửng vai, gương mặt với làn da trắng hồng mịn màng để tự nhiên không son phấn ngoại trừ môi thoa lớp son bóng màu anh đào. Lúc Đằng chụp mấy kiểu cho cô dưới một rặng hoa cạnh bờ hồ thì có nhóm người Việt Nam đi ngang dừng lại đề nghị giúp chụp hai người chung nhau, họ nói:
- Anh chị đẹp đôi quá mà không chụp chung hình về rửa lớn chưng trong phòng uổng lắm, cảnh đẹp mà người cũng xứng đôi.
Đằng đưa mắt hỏi ý kiến, cô gật nhẹ đầu:
- Ừ, thì chụp có sao nào.
Mãi gần đây Đằng mới dám nói lời yêu, rụt rè như trai mới lớn. Và đề nghị Trúc Đào về sống chung. Cô từ chối. Đằng tiu nghỉu hỏi:
- Tại sao? Trúc Đào không yêu Đằng hả?
- Không phải, Trúc Đào có yêu Đằng chứ.
- Vậy sao Trúc Đào từ chối về sống với Đằng. Chúng mình sẽ cưới nhau chính thức mà, nếu cần sẽ làm lễ thật lớn như phong tục người VN, đi Hawaï hưởng trăng mật, hoặc thuê một căn nhà cất trên ngọn cây sống vài tuần giữa rừng, hay đi Bắc cực Nam cực xem mặt trời mọc giữa đêm hè tùy Trúc Đào lựa chọn
Đằng thử dụ dỗ cô bằng những hình ảnh lãng mạn nên thơ nhưng cô cứ một mực nói là chưa được bây giờ đâu. Đằng năn nỉ:
- Chúng mình để lỡ ba mươi năm rồi mà Trúc Đào, thời gian đâu còn bao nhiêu nữa.
- Đằng nói đúng, chúng mình đã để lỡ ba mươi năm vậy thì thêm vài tháng hay một hai năm nữa cũng đâu có khác gì. Tạm thời chúng mình cứ duy trì tình trạng nầy để xem có phải chúng mình yêu nhau cần nhau thật sự hay là chỉ thỏa mãn cái khát vọng chưa đạt tự ngày xưa. Ở xa thì nhớ nhung về nhau mà khi sống chung nhà thì xung khắc. Có thể chúng mình lầm lẫn tình cảm hồi thời trẻ là tình yêu mà thật sự không phải thì sao
Biết không thể ép buộc Trúc Đào, Đằng đành hài lòng với việc gọi điện, gởi mail, thăm nhau vào dịp lễ. Lần nầy Đằng rủ Trúc Đào cùng đi vacation qua vài nước châu Âu chơi nửa tháng, được cô bật đèn xanh anh vui mừng hớn hở.
Phải tìm mưu kế để làm siêu lòng cô nàng khó tính mới xong.
Trong hành lý anh có mang theo một hộp vuông vắn mỗi cạnh khoảng 3cm trong chứa chiếc nhẫn bằng bạch kim gắn một hạt đá quí nho nhỏ, sắc trắng lóng lánh nhưng giản đơn. Dự tính khi đến Venice xứ Ý được mệnh danh thành phố của tình yêu, anh sẽ đưa cô đến trước sân Đại Giáo Đường St - Marc và làm liều quỳ một gối xuống trước mặt người đẹp đưa chiếc hộp nhung đen ra cầu hôn như trong phim hoặc truyện tình ướt át để xem nàng trả lời sao. Chỉ nghĩ thôi mà mặt Đằng đã thấy nóng bừng vì cái cảnh cải lương mà anh sắp đóng vai trước sự chứng kiến của bàng quan thiên hạ đến từ khắp nơi trên thế giới rồi đây. A mà có thể thành công lắm chứ vì theo anh biết thì người châu Âu rất lãng mạn tình tứ, họ sẽ vổ tay hoan hô biểu đồng tình với anh và trong bối cảnh nửa thực nửa mơ như vậy chả lẽ cô nở nhẫn tâm từ chối. Chắc chắn mấy nữ du khách Nhật sẽ xúc động mà khóc cho xem. À ha! Thử liều một phen mới được.
Đoạn kết:
Đằng có dám thực hiện hành động quỳ gối để cầu hôn hay không thì không biết vì đâu ai tháp tùng du lịch cùng hai người mà kiểm chứng được. Nhưng một điều hiển nhiên ai cũng thấy khi đến đón họ ở phi trường từ châu Âu trở về Mỹ là trên ngón áp út bàn tay trái của Trúc Đào
ngoài chiếc nhẫn trơn có từ lúc trở thành vợ Kiên giờ kèm thêm chiếc nhẫn bạch kim cẩn viên đá trắng. Còn gương mặt Đằng thì rực ngời niềm vui của một người đang hạnh phúc!!!.
Thanh Hà
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tưởng chừng như

Tưởng chừng như (Nói với Gaston,  15.Dec.2013-15.Dec.2020) Đập cổ kính ra tìm lấy bóng Xếp tàn y lại để dành hơi (Khóc Bằng Phi, Vua Tự Đứ...