Nhà thơ Kiên Giang
(1929-2014) - đúng ra năm sinh: 1927 - tên thật Trương Khương Trinh (bút danh
khác: Hà Huy Hà, Ngân Hà, Trinh Ngọc, Cửu Long Giang…,gốc người làng Đông
Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá, nay là Kiên Giang). Ông còn là ký giả, soạn
giả cải lương hàng đầu cùng thời với Năm Châu, Viễn Châu, Thái Thụy Phong,
Quy Sắc…và là thầy của hai soạn giả tài danh: Hà Triều - Hoa Phượng. Bài thơ
“Hoa trắng thôi cài trên áo tím” được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ thành ca khúc,
công chúng rất hâm mộ. Vở cải lương Người vợ không bao giờ cưới đã
giúp cho Thanh Nga (1942-1978) đạt giải Thanh Tâm (1958) và trở thành “nữ
hoàng sân khấu”. Trước 1975, Kiên Giang phụ trách ban Thi văn Mây Tần trên
đài Phát thanh Sài Gòn, làm thơ và viết cho các báo: Tiếng chuông, Tiếng dội,
Điện tín, Tia sáng…Ông tham gia phong trào ký giả đi ăn mày, dẫn đầu đoàn biểu
tình chống chế độ Cộng hòa đàn áp đặt quy chế khắt khe lên báo chí nên bị vào
tù. Sau ngày thống nhất đất nước, Kiên Giang làm Phó đoàn Cải lương Thanh
Nga, kiêm cán bộ phòng Nghệ thuật, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Sân khấu thành
phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm : + Tập thơ: Hoa trắng thôi cài trên áo tím, Lúa sạ
miền Nam, Quê hương thơ ấu. + Vở cải lương : Người đẹp bán tơ
(1956), Người vợ không bao giờ cưới, Áo cưới trước cổng chùa, Phấn lá men rừng,
Hồi trống trường làng, Lưu Bình Dương Lễ…, +Tân cổ giao duyên: Đội gạo
đường xa, Người đẹp bán tơ, Hương cau quê ngoại, Cô gái miền Tây… Cuộc đời
nhà thơ được hảng phim Truyền hình TP. HCM (TFS) thực hiện thành phim (1999)
với nhan đề: “Chiếc giỏ đời người”. Thơ Kiên Giang được coi là ấn tượng giọng
thơ chơn chất, mộc mạc của người Nam bộ.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, Rạch Giá (nay là Kiên Giang) từng được
coi là vùng đất thơ phương Nam với hiện diện của nhiều danh sĩ trên văn đàn:
nhà thơ Mạc Thiên Tích (1706-1780) với Chiêu Anh Các, đôi uyên ương thi sĩ:
Đông Hồ (1906-1969) - Mộng Tuyết (1914-2007), Sơn Nam (1926-2008) cùng người
bạn văn nghệ đồng hương tri kỷ Kiên Giang… và còn nữa dấu ấn không phai của
nhà thơ lãng tử yêu nước Nguyễn Bính (1918-1966) tại Hà Tiên … Với Kiên
Giang, một khuôn mặt thơ thuộc thế hệ đàn em gần gũi với Nguyễn Bính, mà
phong cách thơ có nhiều sắc điệu cọng hưởng với tác giả “Lỡ bước sang ngang”.
Nhà thơ Kiên Giang sinh ra tại làng Đông Thái, Gò Quao, vùng U Minh Thượng,
cùng quê với nhà văn Sơn Nam. Thuở nhỏ, anh học trò Trương Khương Trinh sống
với gia đình tại quê nhà, sau lên Rạch Giá vào tiểu học. Thi đậu bằng Tiểu học
Pháp Việt, Khương Trinh lên Sài Gòn học trường Lê Bá Cang rồi trở xuống Cần
Thơ, học lớp Đệ Nhị (nay là lớp 11) trường Nam Hưng (khu vực Tư thục Nam Cường,
sau đó là trường Tân Văn tọa lạc khoảng giữa đường Phan Đình Phùng hiện
nay). Tại đây, nhờ có khiếu văn chương, anh được thầy giao cho thực hiện tờ
bích báo lấy tên là “Ngày xanh”. Anh lo biên tập bài vỡ kiêm luôn việc trình
bày là vẽ và trang trí. Cô bạn học Nguyễn Thị Nhiều có nét chữ đẹp, giúp anh
nắn nót lo chép bài vở. Nhiều có cái tên mộc mạc, dân dã nhưng vóc người
duyên dáng với khuôn mặt thanh tú và mái tóc huyền liêu trai buông thỏng ôm ấp
đôi bờ vai. Gia đình người bạn gái theo đạo Thiên Chúa, nên anh học trò giỏi
văn nghệ đa tình thường lén theo rình bạn đi lễ tại nhà thờ Chánh Tòa (ở đường
Nguyễn Thị Minh Khai bây giờ) mặc dù mình là người ngoại đạo.
Tình cảm giữa hai người rất
“thơ”, và có lẽ trong cõi lòng sâu kín, họ cũng đã cảm nhận nhau tình yêu
trong thầm lặng, chẳng khác nào chuyện tình nên thơ giữa chàng thi sĩ tài hoa
Pháp Félix d’Avers () và người đẹp Marie Nodier (trong bài thơ “Tình tuyệt vọng”
mà nhà văn Khái Hưng (1890-1946) đã dịch rất hay từ tiếng Pháp sang tiếng Việt (1)).
Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Kiên Giang cùng những người bạn thanh
niên yêu nước như Nguyễn Bính, Sơn Nam vào vào khu 9 cùng toàn dân, tham gia
chống giặc ngoại xâm. Bài thơ nổi tiếng một thời “Hoa trắng thôi cài
trên áo tím” (2) của Kiên Giang mang tình tự của tác giả và có nguồn
gốc xuất phát từ thời điểm, không gian này.
Kiên Giang là một nhà thơ yêu nước, một soạn giả, một ký giả được sinh ra tại
Hậu Giang và lớn lên trong kháng chiến 9 năm chống Pháp ở Nam bộ. Ngoài những
vở cải lương mang đề tài lịch sử, văn học, những tấm gương trung hiếu tiết
nghĩa cao đẹp trong dân gian, Kiên Giang thể hiện trong tác phẩm tấm
lòng chơn chất, tình cảm dung dị hồn nhiên của con người miền Nam. Tác
phẩm Kiên Giang được coi là thông điệp chung nhà thơ nói hộ tâm tư trong
sáng, tình cảm thanh cao cho bà con, làng xóm và đồng bào mình không chỉ vủng
sông nước ruộng đồng mà còn cho khắp cả ba miền quê hương ruột thịt. Nếu trước
đây có dịp được nghe những bài thơ Kiên Giang chọn ngâm trên sóng đài Phát
thanh Sài Gòn của ban Thi văn Mây Tần, thính giả bốn phương cũng đã nhận ra
được tính nhất quán ở chủ đề những bài thơ và lập trường chân chính của người
phụ trách chương trình. Đó là tình yêu làng xóm, nghĩa tình đồng bào ruột thịt,
gián tiếp nói lên lòng yêu quê hương, tinh thần bảo vệ đất nước và ý chí đấu
tranh chống giặc ngoại xâm.
Với Kiên Giang, trước tiên, bài thơ nổi tiếng “Hoa trắng thôi cài trên
áo tím” được coi là thiên tình sử đẹp tuổi học trò thời hoa niên, lồng
trong bối cảnh chiến tranh của tác giả với cô gái có đạo yêu nghệ thuật văn
chương ở khu Nhà Thờ Lớn tại Tây Đô - tác phẩm đã làm cho tên tuổi nhà thơ
thêm rạng rỡ trên thi đàn. Hầu hết những bài thơ còn lại trong ba thi phẩm của
tác giả, đều nói lên được cái tình cảm hồn hậu, chơn chất và ngôn ngữ thơ
dung dị, giản đơn như lời ăn tiếng nói thật thà của con người miệt vườn Tây
Nam bộ. Thơ Kiên Giang đa phần nghiêng về tả cảnh và tự sự. Kiên Giang là thi
sĩ của miền sông nước Hậu Giang nên người đọc thường bắt gặp những cảnh quen
thuộc nơi quê hương tác giả. Đó là hình ảnh của con sông Hậu hiền hòa mang nước
dòng nước ngọt phù sa màu mỡ cho ruộng lúa vườn cây như đem hơi thở trong
lành về cho bà con làng xóm: “Đây Hậu Giang, đây Hậu Giang/ Nhánh sông gắn
bó Cửu Long Giang/ Phù sa cuộn chảy trong lòng nước/ Khói sóng hòa hơ thở xóm
làng…” (Đẹp Hậu Giang). Yêu đất nước là yêu quê hương, nơi chôn nhau cắt rún
còn in đậm dấu vết kỷ niệm của người thân và biết tự giác đứng lên cầm súng,
đấu tranh bảo vệ tổ quốc: “Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo/ Anh làm chiến
sĩ giữ quê hương/ Giữ màu áo cưới người yêu cũ/ Giữ cả lầu chuông, nóc giáo
đường” (HTTCTAT).
Thơ Kiên Giang là những bức tranh hồn hậu về gia đình, về trường học được
phác họa đơn sơ, chơn chất mà tinh tế và trữ tình, dễ lôi cuốn người đọc vì dễ
hiểu, dễ nhớ, chỉ đọc qua một lần có thể thuộc ngay. Dù có người bảo thơ Kiên
Giang có giọng điệu gần gũi với Nguyễn Bính, vì hai thi sĩ nổi tiếng này,
ngoài cá tính tương đồng ngẫu nhiên, họ đã có dịp sống và công tác văn nghệ gần
nhau lúc còn ở trong chiến khu. Đọc lại thơ Kiên Giang, ta bắt gặp hình ảnh
quen thuộc, gần gũi của mọi người trong gia đình, nơi trường học…Đó là cử chỉ
bỡ ngỡ của cậu học trò nhỏ ngây thơ rất dễ yêu, bắt đầu làm quen với từng con
chữ viết xa lạ lúc mới vào tiểu học dưới
sự hướng dẫn tận tình của cô giáo: “Từ khi cô giáo tập em đồ/ Không kê giấy
chậm em vô ý/ Để dấu tay lem vở học trò ” (Đồng xu giấy chặm). Bút pháp Kiên
Giang, dù mộc mạc đơn sơ nhưng tác giả đã nắm bắt tài tình được những chi tiết
đáng giá. Cũng như những dòng thơ mới thất ngôn dung dị nhưng đầy hình tượng
và sắc màu theo đó nhà thơ đã nhớ lại và mô tả về người mẹ quê Nam bộ tão tần
và đáng kính: “Nhớ mùa cau trổ trong vườn cũ/ Mẹ quét lá vàng ủ lấy phân/
Khói trắng lên trời như tóc bạc/ Con ngờ khói tóc quyện mây Tần” (Khói trắng).
Những đường nét, vệt màu tiêu biểu trong bức tranh sinh hoạt của người dân
vùng Đồng bằng sông Cửu Long luôn hiện diện trong chiều dài và độ sâu của thơ
Kiên Giang. Từ chiếc “Bánh ống Trà Vinh” xinh xắn, thơm ngọt đến hình ảnh đặc
thù Nam bộ của chiếc cầu tre quen thuộc bắt gặp rải rác ở các sông rạch đồng
bằng, luôn được nhà thơ Kiên Giang trìu mến mô tả bên cạnh những câu ca dao ý
vị : “Ai ở làng quê…/Đã từng …/ Qua nhịp cầu tre/ Tiếng hò tiếng hát/ Dưới
mái nhà tranh/ “Ầu ơ… Ví dầu cầu ván đóng đinh/ Cầu tre lắt lẻo, gập ghềnh
khó đi/ Khó đi mượn chén ăn cơm/ Mượn ve mua rượu, mượn đờn kéo chơi”. Tiếng
“Sàng gạo” vang vọng sột soạt trong ánh hoàng hôn bảng lảng với người mẹ hiền
mái tóc trắng phau, tiếng “Xe trâu” cót két, lang thang trên lối mòn làng
quê, là những âm vang quen thuộc trong đời nhà thơ: “Mẹ rắc hoàng hôn theo hạt
tuyết/ Cám bay phảng phất quyện hương cau/ Nghiêng nghiêng bóng xế sau lưng mẹ/
Gạo trắng như màu tóc trắng phau” (Sàng gạo)- “Xe trâu cót két/ Cót két xe
trâu/ Bánh xe nằng nặng in sâu lối mòn…” (Xe trâu). Bài thơ”Tiền và lá” mang
tính triết lý khiến ta dễ ngậm ngùi về một thói đời không phải là hiếm gặp ở
cõi nhân gian : “Tiền không là là em ơi/ Tiền là giấy bạc của đời in ra/ Người
ta giấy bạc đầy nhà/ Cho nên mới được gọi là chồng em” (Tiền và lá”). Còn nữa,
vẫn với lời thơ chơn chất, thật thà và bút pháp bình dị, hồn nhiên, nhà thơ
Kiên Giang tiếp tục cho ta hình tượng những con đò,chiếc quán đình
làng.. luôn đưa ta về với quê hương, nguồn cội. Trên tất cả ở nội dung
thơ Kiên Giang vẫn là tình yêu đất nước quê hương như luôn bàng bạc theo từng
tứ thơ, câu thơ :”Quê hương là máu, là xương thịt…/ Nếu ai xâm chiếm đến quê
hương/ Tình quê sẽ hóa ra tình nước/ Tình nước đúc thành súng với gươm…/ Dân
đứng lên siết chặt quân hàng/ Giặc vào đây, giặc sẽ rã tan…” (Tình quê tình
nước).
Với tình cảm nhạy bén của một nhà thơ cộng với sự năng nỗ bộc trực của một ký
giả, Kiên Giang không thể thờ ơ trước các vấn đề thời sự chướng tai gai mắt
diễn ra trong xã hội. Những ngày đất nước chưa giải phóng, nhà thơ đã hăng
hái tham gia, dẫn đầu đoàn biểu tình chống chế độ khắt khe với giới báo chí
mà không sợ tù đày. Phong trào chống chế độ độc tài mục nát đã phong tỏa chùa
chiềng, đàn áp ni cô, nhà sư xuống đường, sau sự kiện tự thiêu của hòa thượng
Thích Quảng Đức, Nhất Chi Mai, rồi đến hành động quả cảm coi thường mạng sống của Quách Thị Trang,
Mai Tuyết An…Cả đến cái chết của anh sinh viên Mỹ Morisson từ bên kia bờ Thái
Bình đương đã thiêu trước lầu Năm Góc để chống đối cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ,
đòi hòa bình tại Việt Nam, Kiên Giang đều có làm thơ để bày tỏ tấm lòng ngưỡng
mộ, tiếc thương: “Nhất Chi Mai, Morisson/ Đôi bồ câu trắng giữa lòng thiên
thu” (KG) – “Mai Tuyết An, Mai Tuyết An/ Là hoa mới nở giữa vườn xuân/ Tuổi
băng trinh đẹp màu thanh khiết/ Ánh mắt chưa hoen lấm bụi trần…”(KG). Những
năm cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, thấy các cô gái
đua nhau hăm hở lấy chồng Mỹ - cũng như phong trào lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc
gần đây, nhà thơ thay lời người mẹ, bày tỏ nỗi niềm : “Một sáng qua đò đi chợ
Tết/Mẹ khuyên con gái lọc lừa yêu/Lấy chồng ngoại quốc, quên nguồn gốc/ Tiền bạc đâu xe sợi chỉ điều/
Mai mốt nó về bên xứ nó/ Dân mình đùm bọc đức con lai/ Lớn lên
nó oán hờn cha mẹ/ Tham bã
phù hoa bỏ giống nòi” (KG). Chúng tôi không quên khoảng thời gian giữa “Phong trào bảo
vệ văn hóa dân tộc” và “đấu tranh chống đế quốc Mỹ”, những ngày anh em
giáo viên, sinh viên học sinh có tư tưởng tiến bộ, hăng hái làm tờ tạp chí
“Văn nghệ Miền Tây” (3) vào cuối năm 1967, được gặp Kiên Giang và
Sơn Nam ở khu Nancy (cuối đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn).
Hay dưới khung trời đêm Tây Đô xám xịt, thỉnh thoảng thành phố gầm rung lên với
tiếng bom do phi cơ B52 dội xuống U Minh vào đầu năm 1970 khi làm VNMT và tờ
Lập trường (4) tại quán cà phê “Giọt buồn” của cô giáo Mai
trước sân xưởng Cơ khí tại đường Mạc Tử Sanh (nay là đường 30/4, đối diện với
Bệnh viện 121 bây giờ).
Những lần lại được gặp mặt nhau, các anh Kiên Giang,
Sơn Nam, nhà văn yêu nước Vũ Hạnh (Nguyễn Đức Dũng) cùng nhà báo Mặc Tuyền,
các anh tặng sách, gởi sách cho chúng tôi bán hộ và không quên nhắc nhở nhóm
biên tập giữ vững lập trường dân tộc. Những cây bút văn nghệ tại Cần Thơ lúc ấy
: Ngũ Lang, Nguyễn Bá Thế (Nhất Tâm, Nam Xuân Thọ), Nguyễn Xuân Vũ, Huyền Vân
Thanh… là những tác giả thường có thơ được Kiên Giang chọn ngâm và bình trong
chương trình của ban thi văn Mây Tần do anh phụ trách trên đài Phát thanh.
Ngày nay, những anh em cùng nhóm dạo ấy, nếu may mắn còn khỏe mạnh và được gặp
lại nhau, thường không quên nhắc lại những kỷ niệm đẹp về nhà thơ quá cố Kiên
Giang kèm theo những lời chia sẻ ân tình chung thủy về một bậc văn nghệ đàn
anh.
Tóm lại, Kiên Giang là một khuôn mặt thơ đáng kính trong dòng thi ca
yêu nước suốt cả hai thời kỳ đấu tranh chống thực dân và đế quốc. Tài hoa ở
nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng tài năng trên văn đàn, sân khấu mà còn nổi bật
nhân cách ở sự nhạy bén trong hoạt động và đấu tranh xã hội. Chính nhà văn
Sơn Nam, người bạn cùng quê và “đồng thanh khí” của Kiên Giang đã chân tình
thổ lộ : “Đây là người bạn cùng xóm, cùng làng, cùng xứ U Minh mà tôi lấy làm
tự hào và thật lòng ca ngợi”. Nội dung thơ Kiên Giang thiên về đề tài quê
hương, làng xóm, tình yêu đất nước và sinh hoạt dân dã nơi làng quê. Về nghệ
thuật, ít khi nhà thơ dùng từ hoa bay bướm như Nguyễn Bính vốn là một nhà thơ
gần gũi với ông. Lời thơ Kiên Giang giống như cuộc đời thi sĩ, luôn sáng
trong, giản dị, như tiếng nói tự nhiên, mộc mạc của người Nam bộ nên rất giàu
tính nhân văn, được nhiều người thuộc lòng. Do vậy, ta có thể nói : thơ Kiên
Giang đậm tính “về nguồn”, và tạo nên một sắc thơ đặc biệt của miệt vườn.
(1) Xem KTNN số
834 ra ngày 10.10.2013 bài “Danh sĩ và giai nhân” của Ngũ Lang, tr. 13
(2) Cũng là tên
tập thơ của Kiên Giang, do họa sĩ Duy Liêm vẽ bìa. NXB Phù Sa Sài Gòn ấn hành trước 1975
(3) “Văn nghệ
Miền Tây”, Tạp chí Văn nghệ (1967-1970) ra được 5 số, do Ngũ Lang chủ trương biên tập, cùng sự cộng tác của một số nhà văn, SVHS có tư tưởng
tiến bộ và lập trường dân tộc, yêu nước, chống xâm lược. Số đặc biệt Xuân Mậu Thân
(1968) được GS. Pháp văn Nguyễn Bá Thảo - nguyên Phó Chủ Tịch MTDTGP khu Tây Nam bộ mang ra chiến khu (5/1968)
(4) “Lập trường”, tạp
san Xuân 1970 ra tại Vị Thanh (nay là Hậu Giang) do Ngũ Lang chủ trương biên tập với sự cộng tác của Nguyễn Bá Thế, Nhất
Tâm, Sơn Nam, Kiên Giang, Nguyễn Xuân Vũ…
22. 5. 2016
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét