Alton Glenn Miller sinh ngày 01/03/1904 tại Clarinda, bang
Iowa. Gia đình ông sau đó chuyển đến Nebraska, rồi Missouri và cuối cùng là
Fort Morgan, Colorado. Thời gian sống ở North Platte, Nebraska, Glenn bắt đầu
làm quen với âm nhạc khi bố của ông mang về nhà cây đàn mandolin, Glenn sau đó
đổi cây đàn này để lấy chiếc kèn trombon cũ kĩ, méo mó và luyện tập bất cứ khi
nào có thể. Mẹ ông đã từng rất lo lắng khi thấy đứa con trai của mình dành phần
lớn thời gian để chơi trombone, bà nói rằng: “Nhiều lúc, tôi tự hỏi liệu nó có
làm nên tích sự gì không.”.
Alton Glenn Miller (1904-1944)
Năm 1923, Glenn bước chân vào Trường Đại học Colorado, tuy
nhiên trong thời gian đó, ông vẫn liên tục tham gia các buổi thử giọng và chơi
nhạc bất cứ khi nào có thể. Sau khi trượt 3 trong số 5 môn học trong một học
kì, Glenn từ bỏ việc học để tập trung vào sự nghiệp của một nhạc công chuyên
nghiệp.
Ông lưu diễn cùng nhiều ban nhạc và dừng chân tại Los Angeles
để gia nhập vào nhóm nhạc The Ben Pollack. Cùng với Ben Pollack, Glenn đã có
nhiều cơ hội biên soạn các tác phẩm kinh điển của mình. Năm 1928, ông kết hôn với
cô bạn cùng thời đại học, Helen Burger tại thành phố New York. Ba năm tiếp theo
đó, ông kiếm sống bằng nghề biên soạn nhạc và thổi kèn trombon.
Glenn Miller đã chơi và thu âm với những tên tuổi có cùng niềm
đam mê như Tommy và Jimmy Dorsey, Gene Krupa, Eddie Condon và Coleman Hawkins.
Năm 1934, Miller trở thành nhà điều hành âm nhạc của Dorsey Band, và sau đó ông
lại đứng ra thành lập ban nhạc The Ray Noble với các tay chơi nhạc như Charlie
Spivak, Peewee Erwin, Bud Freeman, Johnny Mince, George Van Eps và Delmar
Kaplan.
Tháng 4 năm 1935, Glenn Miller lần đầu tiên tiến hành thu âm
dưới tên thật của mình. Cùng lúc sử dụng 6 chiếc kèn co, một bản nhịp và nhóm tứ
tấu đàn dây, ông đã tiến hành thu âm bản Moonlight on the Ganges và A
Blues Serenade. Nhưng số lượng đĩa bán được chỉ vài trăm bản, chưa thể gọi là
thành công nên ông tiếp tục công việc của mình với ban nhạc Noble.
Năm 1937, Glenn Miller quyết định tách ra thành lập ban nhạc
riêng. Ban nhạc tồn tại trong thời gian ngắn rồi tan rã do thất bại trong việc
định hình và tạo phong cách riêng. Thất bại, chán chường và mất phương hướng,
ông quay trở về New York.
Vào thời khắc nhụt chí đó, Glenn nhận thấy cần phải có một thứ
âm thanh độc nhất được tạo ra bởi chiếc kèn clarinet pha dòng nhạc du dương khi
giọng nam cao của kèn saxophone được chơi lên cùng một nốt và được hòa âm bởi
ba tiếng kèn saxophone khác. Tất cả tạo nên một nét riêng và một phong cách mà
dễ dàng nhận thấy là hoàn toàn khác biệt với những ban nhạc đương thời khác.
Được thành lập vào năm 1938, ban nhạc thứ hai của Glenn
Miller bao gồm các thành viên: Tex Benecke, Marion Hutton, Ray Eberle, Paul
Tanner, Johnny Best, Bobby Hackett và Billy May đã ngay lập tức chiếm ngôi của
những bản thu âm từng làm mưa làm gió ở East Coast. Tại New York State Fair,
Syracuse, ban nhạc đã thu hút một lượng rất lớn những tín đồ âm nhạc, mà chưa
ban nhạc nào làm được trong lịch sử của thành phố. Đêm diễn tiếp theo ở
Pennsylvania, họ tiếp tục phá vỡ kỷ lục mọi thời đại của Guy Lombardo tại
Hershey Park Ballroom. Ban nhạc sau đó được ASCAP mời đến biểu diễn tại
Carnegie Hall cùng với ba nhóm nhạc nổi tiếng khác – được dẫn dắt bởi Paul
Whiteman, Fred Warning và Benny Goodman – và đã tạo nên tiếng vang hơn ba tên
tuổi đình đám này.
Những bản thu âm tiếp theo đã phá kỷ lục phải kể đến là Tuxedo
Junction, được bán ra với 115.000 bản ngay trong tuần đầu tiên, In the
Mood và Pensylvania 6-5000 đều xuất hiện trên bìa của RCA Victor
Bluebird. Vào đầu năm 1940, tạp chí Down Beat đã công bố Miller đứng đầu bảng xếp
hạng Sweet Band Poll. Sự kiện đánh dấu đỉnh cao vinh quang của Glenn Miller là
việc hãng thuốc lá Chesterfields cho phát bản nhạc Moonlight Serenade (Serenade
Ánh trăng) của ông ba lần một tuần trên CBS.
Năm 1941, ban nhạc lần đầu tiên đặt chân đến Hollywood và góp
mặt trong bộ phim Sun Valley Serenade. Ca khúc Chattanooga Choo Choo trong
phim do ban nhạc thu âm đạt kỷ lục khi bán ra hơn một triệu bản.
Chiến tranh nổ ra gây ảnh hưởng tới các ban nhạc cũng như nhạc
sĩ, nhiều thanh niên trên toàn nước Mỹ nhận lệnh nhập ngũ. Mùa thu năm 1942,
Alton Gleen Miller gia nhập quân đội, không lâu sau đó, ông được chỉ định vào
Quân đoàn Đặc chủng. Glenn được thăng hàm đại úy rồi đến thiếu tá. Ông đã mất
vài tháng để thuyết phục các quan chức cao cấp trong quân đội rằng ông có thể cải
tổ ban nhạc quân đội và nâng cao chí khí của quân lính.
Khóa huấn luyện kết thúc, ông chuyển sang phục vụ cho Quân
đoàn Không quân và thành lập ban nhạc the Army Air Force Orchestra. Tháng 11
năm 1943, Glenn xuất ngũ, phải đợi một thời gian thì ông mới được phép đưa ban
nhạc của mình ra nước ngoài biểu diễn. Chưa đầy một năm, Glenn Miller và ban nhạc
lực lượng phòng không của mình đã tham gia hơn 800 buổi biểu diễn. Trong số đó,
có hơn 500 buổi được phát cho hàng triệu người nghe, hơn 300 buổi trình diễn cá
nhân bao gồm các buổi hòa nhạc và khiêu vũ với tổng số người tham dự lên đến
hơn 600.000 người.
Mùa thu năm 1944, ban nhạc lên kế hoạch cho chuyến lưu diễn 6
tuần ở Châu Âu và sẽ đặt chân đến Paris trong thời gian này. Miller quyết định
khởi hành trước để sắp xếp và chuẩn bị mọi việc cho ban nhạc. Vào cái ngày định
mệnh 15 tháng 12 năm đó, Gleen Miller đáp chuyến bay đường dài đến Paris, và
không bao giờ quay trở về, để lại biết bao kế hoạch âm nhạc còn dang dở.
Bản nhạc Moonlight Serenade, viết vào năm 1935 và thu âm
vào năm 1939 ở RCA BlueBird, đã được xếp vào top 10 danh sách nhạc pop của Mỹ
năm 1939 trên Billboard (không có top 5). Trong suốt những năm tháng chiến
tranh, bản nhạc đã trở thành bài “Quốc ca thứ 2” của Mỹ.
Đoan Thanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét