1. Có lần tôi và mấy người bạn
đã tìm về quán cafe Tùng. Chúng tôi ngồi vào bộ bàn ghế nhỏ xíu dưới chân cầu
thang cuối căn phòng. Nơi có cái rào chắn nho nhỏ, làm bằng gỗ thông sơn trắng,
ngăn lối lên tầng hai của ngôi nhà. Nơi ngày xưa Trịnh Công Sơn và Khánh Ly,
trong thời gian ở Đà Lạt, vẫn ngồi uống cafe với nhau sau mỗi đêm đi hát về.
Chúng tôi đã ngồi vào bộ
bàn ghế đó trong tâm trạng thật hoài nhớ. Lẽ ra trong không gian đó, ánh sáng
đó, những hoài niệm đó, chúng tôi phải nói với nhau về những điều thật đẹp. Về
những bài hát đã từng ám ảnh chúng tôi, về một thứ âm nhạc gần gũi mà chúng
tôi vẫn nghe, như thể vẫn hít thở mỗi ngày. Lẽ ra chúng tôi phải nói về họ, về
Khánh Ly, về Trịnh Công Sơn, về Từ Công Phụng, về Lê Uyên Phương... Lẽ ra
chúng tôi phải nói về những điều kỳ diệu họ đã đem đến cho chúng tôi trong cuộc
sống.
Quán cafe Tùng những năm đầu
của thế kỷ này, giữa một khu phố có quá nhiều thay đổi, vẫn như xưa. Vẫn hai
hàng ghế tựa bọc da chạy dài theo vách, những chiếc ghế nhỏ xinh rải rác, bức
tranh treo tường, khung cửa kính nhìn ra phố.. Tất cả ấm cúng sang trọng theo
một kiểu rất riêng. Ấm cúng và buồn bã khiến con người ngồi trong quán bỗng
muốn gần nhau, thấy cần thiết phải có nhau.
Vậy mà chúng tôi đã sai lầm,
chúng tôi đã cãi vã vì một chuyện chẳng ra sao. Cãi nhau, khích bác nhau, giận
dỗi nhau, làm tổn thương nhau chỉ vì vô tâm, ích kỷ chỉ vì không muốn chấp nhận
nhau, dù chỉ là chấp nhận về cách nhìn những hoa rêu trên mái cũ nhà Đà Lạt.
Lẽ ra đã có một buổi tối
khác, nhưng có cách gì để làm lại ? Có lẽ chẳng bao giờ chúng tôi lại có
dịp cùng đi chung. Cùng xuýt xoa vì hơi sương lạnh buốt, cùng leo lên một chiếc
xe ngựa, rồi cùng không nói gì, chỉ ngồi im nghe tiếng vó ngựa gõ vào đêm lốc
cốc. Tiếng vó ngựa như đệm vào tiếng kể chuyện của người đánh xe. Bằng một giọng
khàn mệt, ông kể về những con đường ông và con ngựa đã đi, kể về những ngôi
nhà ma, những oan khuất trong cuộc đời của nhiều con người. Câu chuyện của
ông huyền hoặc đến nỗi đêm Đà Lạt bỗng thâm u thêm, như thể tất cả sương mù đều
tụ họp về đây, trong đêm nay, theo một tiếng gọi bí ẩn nào đó.
Chúng tôi đã mất một buổi
tối Đà Lạt đẹp vô cùng chỉ vì hẹp hòi, dại dột, và vô tâm.
2. Nhưng đó là mất mát của
riêng chúng tôi, chúng tôi đã phải trả giá cho sai lầm của mình bằng những
dằn vặt, nuối tiếc.
Còn Đà Lạt?
Có quá nhiều thứ đã mất đi
ở đây. Mất đi không chỉ do hẹp hòi, dại dột, và vô tâm. Mất đi do
thời cuộc, thời gian, mất đi do những quyết định vội vàng, tư lợi, thiếu hiểu
biết của một số người.
Mất đi trong xót xa, đắng
chát nhưng hình như không một ai tự thấy mình có lỗi để ân hận, giày vò.
Những mất đi đó đã làm nên
bao hệ luỵ đau đớn, nuối tiếc, buồn bã trong rất nhiều người. Những người đã
gắn bó với Đà Lạt bằng một tình yêu máu thịt. Những người đã sống, và gửi gắm
vào Đà Lạt cả một cuộc đời với bao kỷ niệm, mà thiếu nó người ta không làm
sao thoát được cảm giác bị bứt khỏi mặt đất, bị quăng quật trong bão giông với
những bất ổn kéo dài không ngưng nghỉ.
Tôi nhớ Đà Lạt những năm
80 của thế kỷ trước, vắng vẻ, nhiều sương mù, nhiều thông và hoa dại. Những
đêm cuối năm nằm ở ký túc xá khoa Văn trên đồi thông khu Đa Thiện, chúng tôi
nghe tiếng xe ngựa. Không phải những xe ngựa dành cho du khách bây giờ, mà
là những chuyến xe rau củ đi về trong sương lạnh.
Con dốc rất cao từ quán
cháo lòng La Si Mi Fa của Giáo sư- Tiến sĩ Sử học Nguyễn Hồng Giáp, đến bãi đất
trống đối diện ký túc xá khoa Văn quả là một thách thức cho những con ngựa
kéo xe luôn già và gầy yếu. Để tiếng lóc cóc mày (một) cắc/ tao
(một) cắc thêm rã rời mỏi mệt. Tiếng vó ngựa rời rạc và tiếng gió hú u u sau
đồi thông khiến đêm như ướt mềm ra, dài mướt. Và chúng tôi khi đó chợt không
thể vô lo, không thể không nghĩ đến gánh nặng cuộc đời với những buồn vui được
mất.
Thầy Nguyễn Hông Giáp đã rời
đại học Sorbonne để về quê hương, có một thời gian ông không được giảng dạy.
Ông mở quán cháo bán cho sinh viên. Cháo lòng heo ăn kèm bánh tráng nướng. Và
khoai lang Đà Lạt ruột đỏ au dẻo quẹo chấm muối ớt. Những bát cháo ở quán La
Si Mi Fa đã trở thành nỗi ám ảnh trong tâm trí tôi, cũng như hình ảnh vị giáo
sư đáng kính vẫn đi trên con đường từ ngả năm Phù Đổng Thiên Vương về ký túc.
Ông mỉm cười chào, một tay ông xách chiếc xô thiếc, tay kia là cặp que ông
dùng để gắp những tảng phân ngựa. Ông đi nhặt phân về bón cho cỏ hoa và cafe
trong vườn nhà...
Thầy Giáp giờ đã về sống ở
Sài Gòn. Hồi đó tôi đã từng nhiều lần muốn hỏi mà không dám, vì biết vậy là
quá táo bạo. Rằng có khi nào thầy nuối tiếc ? Vì đã rời Paris, xa
người vợ lai Pháp xinh đẹp để về đây, để nấu cháo lòng và nhặt phân ngựa ?
Để cười chào và đặt vào tâm trí những sinh viên chúng tôi một nỗi băn khoăn
không nguôi về số phận con người ?
Quán cháo mất đi như là một
tất nhiên, tôi không biết có bao nhiêu người khi nhớ về Đa Thiện - Đà Lạt lại
nhớ đến cái không gian quán chật hẹp như chiếc hầm khoét sâu vào ngọn đồi, với
những bộ bàn ghế bằng gỗ thông, và cái tên La Si Mi Fa reo vang những
nốt nhạc. Còn tôi vẫn hình dung trọn vẹn nó, cũng như tôi vẫn hình dung rõ rệt
cây thánh giá nằm bên trong ngôi sao, trên ngọn tháp tam giác cao vút trong
khu Năng Tĩnh trường Đại Học Đà Lạt. Tôi nghe kể hồi đó thầy Giáp là một
trong ba người đã leo lên đỉnh tháp cao 38 mét này, để lấy bù lon xiết các
cánh ngôi sao ôm chặt cây thánh giá, và cây thánh giá vẫn nằm nguyên vẹn
trong ngôi sao đó.
Không chỉ mình tôi hình
dung. Tôi còn nhớ một buổi tối, Liêng Hót Ha Suê, người chơi guitar bass
trong dàn nhạc của đội văn nghệ trường, đã đứng nguyện cầu giữa sân trường.
Anh nhìn lên đỉnh tháp với đôi mắt thành kính, và lời cầu kinh, và bàn tay làm
dấu thánh. Giờ khắc đó, anh đã không nhìn thấy ngôi sao, anh đã nhìn vào bên
trong để chỉ thấy cây thánh giá. Niềm tin của anh đã làm cho khuôn mặt anh
sáng rỡ đẹp đến kỳ lạ.
3. Người Đà Lạt than rằng
sương mù Đà Lạt đang ngày càng ít ỏi. Và đã có lý giải đó là một tất nhiên
khi trái đất nóng dần lên, khi con người sinh sôi nẩy nở bung chiếm nhiều
thêm ra. Liệu có hoàn toàn đúng như vậy?
Vả lại không chỉ sương mù,
Đà Lạt còn đang mất đi quá nhiều.
Những ngôi nhà gỗ đẹp như
bài thơ đang mất dần. Những con đường quanh co uốn lượn theo các sườn đồi
đang mất dần. Thông Đà Lạt đang mất dần không sao cầm giữ được. Không gian
tĩnh lặng rất riêng của Đà Lạt cũng không còn như xưa. Và đồi Cù, từ lâu người
Đà Lạt đã mất đồi Cù ngay trong lòng thành phố của mình.
Tôi nhớ lại cảm giác của
mình khi nghe tin đồi Cù - Đà Lạt bị rào giậu vây bọc kín bưng để biến thành
sân golf. Lúc đó tôi đã rời Đà Lạt được vài năm. Nhưng cũng như những người
đã đến và yêu Đà Lạt, Đà Lạt luôn ám ảnh tôi. Thật lạ lùng cho mảnh đất này,
bởi nhớ nhung một vùng đất mà như thể nhớ nhung một người tình, đã cùng đi với
mình qua bao hoang tưởng kỳ diệu, thì tôi nghĩ chỉ có Đà Lạt mới làm được.
Khi nghe tin, tôi đau đến
sững người, tôi đã có cảm giác của một người đi xa nghe tin căn nhà của mình
bị bán, bị đập vỡ, bị cày nát mà mình không có cách gì quay về, để bảo vệ để
chia sẻ, gánh vác. Và tiếp đó là cảm giác nuối tiếc, cay đắng tràn ngập tâm hồn
tôi.
Cho đến bây giờ, sau mười
mấy năm sử dụng, sân golf đồi Cù - Đà Lạt đã thu được lợi nhuận bao nhiêu? Và
lợi nhuận đó có đáng không? Có là bao so với những ảnh hưởng của nó đối với
môi trường? So với nỗi đau buồn của bao nhiêu con người đã từng gắn bó với đồi
Cù bằng một tình yêu máu thịt?
Ngày đó, tôi đã đến Đà Lạt
trong khao khát khờ dại của một người ở biển mà mải mê hoài vọng núi, mải mê
mơ về những quả đồi, và tiếng reo thầm thĩ của loài thông. Đồi Cù đã là tất cả
tưởng tượng của chúng tôi về thảo nguyên, những thảo nguyên vô cùng thanh sạch,
phóng khoáng, đẹp đẽ trong sách vở. Nhất là vào buổi chiều khi đi ngược nắng,
chúng tôi nhìn về chân trời xa rộng, để choáng ngợp trước đường chân trời
vòng cong rực sáng. Những đôi tình nhân đan tay dạo trên đồi dưới mắt nhìn của
chúng tôi khi đó đẹp như những thiên thần. Tôi đã mường tượng họ có thể bay
lên trời nhờ đôi cánh, và sự nâng bổng của ánh sáng lộng lẫy trên đồi chiều.
Đồi Cù trở thành sân golf.
Đã từ lâu người Đà Lạt và những người đã từng đến từng gắn bó với Đà Lạt đã
không còn được tự do ra vào đồi Cù. Mà đồi Cù cũng đã khác, ngay cả màu cỏ
trên đồi cũng đã khác xưa mất rồi. Những con người ngày xưa đã từng dạo chơi
trên đồi, đã từng ngồi tựa vào những gốc thông cô độc trên đồi, đã từng hôn
người mình yêu ở đó, làm sao họ còn tìm lại được dấu vết kỷ niệm. Mà không
còn dấu vết kỷ niệm con người ta sống hụt hẫng ra sao?
Tôi nhớ một lần Liêng Hot
Ha Suê đưa tôi đến một góc đồi, nhìn về ngôi nhà ngày xưa của anh mà ngồi buồn
suốt buổi. Anh đang nhớ người cha làm mục sư của mình và tuổi thơ với những
tháng ngày vô tư, thánh thiện. Có lần, sau một tối tập văn nghệ ở trường Đại
học, chúng tôi mang nhạc cụ trả về kho. Khi mọi người đã ra ngoài, và đèn điện
đã tắt, từ bóng tối chúng tôi nghe tiếng dương cầm vang lên. Liêng Hót Ha Suê
đang chơi đàn (cây dương cầm của trường đã hỏng nhiều phím và từ lâu không ai
sử dụng). Tiếng đàn thanh thoát mà ám ảnh. Đó là giai điệu của một bài thánh
ca. Tôi đã không còn nhớ tên bài hát, nhưng buổi tối đó và tiếng đàn như tiếng
đập thổn thức của trái tim anh, vẫn trở về trong tôi, mỗi lúc tôi về lại Đà Lạt,
đi trong sương lạnh nghe tiếng gió và tiếng thông reo.
Liêng Hót Ha Suê đã mất
ngôi nhà tuổi thơ của mình và không nguôi hoài nhớ. Còn bao nhiêu người Đà Lạt
khác đã mất những gì yêu thương của họ theo những đổi thay dâu bể trong đời?
4. Hôm nay, đọc bài Mãi mãi
Đà Lạt của nhà văn Nguyễn Đạt trên tôi chợt quá nao lòng. Thực ra
tôi đã biết quá ít về Đà Lạt, về những con người đã từng sống ở đây, đã làm
nên những điều kỳ diệu đẹp đẽ cho văn chương, cho hội hoạ, cho âm nhạc... Những
con người đã và đang tồn tại lặng lẽ để làm nên lịch sử Đà Lạt. Nhưng tôi đã
yêu Đà Lạt bằng trái tim tuổi trẻ trinh nguyên, và thương yêu đó đã không
nguôi ngoai dù theo thời gian bao nhiều điều khác đã như nước chảy dưới chân
cầu. Thương yêu đó đã khiến tôi không thể không nuối tiếc, xót xa khi đi qua
những mất mát của Đà Lạt trong cảm nhận của riêng tôi.
Tiếc nuối xót xa vì đã có
quá nhiều những nói một đằng làm một nẻo, đã có quá nhiều những đập vỡ, giấu
che. Như bức tượng Đức Mẹ tuyệt đẹp trước hội trường A1, hay cây thánh giá
trên đỉnh tháp sao trường Đại học. Và bao nhiêu điều khác nữa. Và ở nhiều nơi
khác nữa. Những đập vỡ, giấu che xuất phát từ những quan niệm độc đoán, ấu
trĩ đến đau lòng.
Đâu đó người ta đang nhìn
vào festival hoa, đâu đó nhan nhản những lời kêu gọi vì tương lai
thành phố. Đôi khi tôi mơ hồ rối rắm trước những lời kêu gọi ồn ào mà rỗng tuếch
đó, trước những festival có quá nhiều sắc màu rực rỡ giả tạo đó. Tôi thấy
mình như đang đi trong sương mù. Nhưng không phải sương mù thanh sạch mát lạnh
của Đà Lạt xưa, mà là một thứ sương mù độc địa, có sức mê hoặc và giấu che bản
chất. Tôi thấy mình mất phương hướng, và lại tràn ngập lòng tôi một cảm giác
cay đắng, tiếc nuối.
Khi mất một đêm Đà Lạt đẹp
vô cùng bên nhau, ít ra chúng tôi cũng biết mình đã đánh mất và không nguôi dằn
vặt. Còn Đà Lạt với những cây thông chết, những ngôi biệt thự hoang tàn. Đà Lạt
với những con đường, những trảng cỏ biếc xanh, những hiền lành chân chất mất
đi, thì chẳng biết nhìn vào ai, nhìn vào đâu để thở than trách móc!
Ai đó đã nói tiếc nuối là
một cảm giác vô ích, tôi nghĩ là tôi hiểu được điều đó, nhất là khi sự tiếc
nuối đó lại là của những người dân với thân phận bé nhỏ, không chức quyền.
Nhưng tôi đã không làm sao thoát được cảm giác đó, tôi cứ phải buồn
thương,xót đắng mãi cho những mất còn. Có lẽ tôi phải tự an ủi mình như nhà
văn Nguyễn Đạt, là Đà Lạt xưa vẫn còn trong ký ức của bao con người. Những
con người tồn tại lặng lẽ khuất lấp đâu đó với một tình yêu chân thành vô vụ
lợi dành cho Đà Lạt. Những con người đang sống với những khát vọng tự do và
tình yêu dành cho cái đẹp. Đà Lạt đã có một lịch sử và lịch sử Đà Lạt vẫn còn
đó. Có thể nhờ vậy mà chúng ta mãi mãi vẫn hình dung được trong tâm trí một
Đà Lạt vẹn nguyên. Một Đà Lạt xưa với đồi Cù với thông và sương và hoa dại. Một
Đà Lạt với quán cafe Tùng và những huyền thoại vô cùng đẹp. Ngày
xưa…
Krông Păc 19.7.2008
Đinh Thị Như Thúy
Theo http://www.vanchuongviet.org/
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét