“Mỗi người trong chúng ta,
dù là con người tầm thường nhất, cũng tượng trưng cho một toàn bộ khó quan niệm
những cố gắng của tự nhiên và của con người được theo đuổi không ngừng qua nhiều
triệu thế kỉ. Chỉ riêng điều này có lẽ đủ để làm cho chúng ta xem xét tia lửa
mà chúng ta mang trong người như là vô cùng quý giá và cuộc sống như là một cái
gì quan trọng nhất”.
Những dòng nhật ký ấy Hoài
Thanh viết ở Huế tháng 11/1934, khi Hoài Thanh còn rất trẻ và đi “tìm cái đẹp
trong nghệ thuật đã trở thành lí tưởng của cuộc đời ông. Trên hành trình một đời
văn, một đời người, với “tia lửa” của riêng mình, Hoài Thanh bao giờ cũng thể
hiện khát vọng yêu cuộc sống và con người với tất cả tấm lòng chân thực nhất,
những rung động tinh tế, sâu sắc, độc đáo nhất. Đấy là cái “tạng” của Hoài
Thanh, là phong cách Hoài Thanh.
Văn học cũng như phê bình
văn học rất cần sự đa dạng, độc đáo của những cá tính sáng tạo; nói cách khác,
sự tồn tại và phát triển của văn học, của phê bình văn học không thể tách rời
phong cách. Xét cho cùng, bất cứ nghệ sĩ sáng tạo văn chương nào cũng có đặc điểm
riêng của mình, nhưng phong cách thì không thể ai cũng có. Phong cách - đó là kết
quả sáng tạo không mệt mỏi của mỗi nghệ sĩ và “tương lai chỉ thuộc về những ai
nắm được phong cách” (V.Hugo). Chính Hoài Thanh có lần viết về phong cách trong
phê bình văn học : “Chớ vội đi tìm cái gọi là phong cách. Hãy cứ nghiên cứu thật
sâu, thật kỹ, gắng phát hiện những vấn đề ẩn khuất bằng cả tâm hồn và trí tuệ của
mình, kỳ thật chín. Sau đó hãy cầm bút. Và hãy cố biểu đạt sao cho chính xác nhấtm
gọn nhất ý tưởng của mình. Lúc này, phong cách tự nó sẽ đến. Không phải mất công
tìm kiếm gì cả. Bởi vì phong cách chính là tổng thể quá trình sáng tác đó”. Thật
đúng vậy, phong cách Hoài Thanh toát lên từ toàn bộ cuộc đời và văn nghiệp của
ông.
Từ đầu những năm ba mươi của
thế kỉ XX, tên tuổi Hoài Thanh bắt đầu được chú ý với cuộc tranh luận “nghệ thuật
vị nghệ thuật hay “nghệ thuật vị nhân sinh”. Khởi nguồn sâu xa của cuộc bút chiến
này là việc phê bình tập truyện ngắn Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan.
Đầu tháng 8/1935, trên Tiểu thuyết thứ bẩy số 62, Hải Triều có bài
khen ý nghĩa xã hội của tập truyện trên. Ngay sau đó, trên báo Tràng An số
ra ngày 15/8/1935, Hoài Thanh có bài Văn chương là văn chương phủ nhận
quan điểm của Hải Triều và đề cao giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Cuộc tranh
luận kéo dài đến năm 1939 với hai phía của chiến tuyến : một bên cùng với Hải
Triều là Hải Thanh, Hải Khách (Trần Huy Liệu), Hải Âu (Trịnh Xuân An), Hồ Xanh,
Lâm Mộng Quang, Phan Văn Hùm...; một bên cùng với Hoài Thanh là Lưu Trọng Lư,
Lê Tràng Kiều, Thiều Quang, Lê Quang Lộc, Lan Khai... Phía Hoài Thanh bị “kết
án” là thoát li, hình thức chủ nghĩa, vị nghệ thuật. Sự thực, Hoài Thanh chỉ muốn
nhấn mạnh đặc trưng thẩm mỹ của văn chương, chứ ông không có ý phủ nhận ý nghĩa
xã hội của văn chương, trách nhiệm xã hội của người cầm bút; trên Tiểu
thuyết thứ bẩy23/5/1935, Hoài Thanh khẳng định: “Văn chương có ảnh hưởng lớn
vì văn chương hun đúc tinh thần người đời. Văn chương không có quyền luôn luôn ở
trên mấy tầng mây cao thẳm, lãnh đạm ngắm những cảnh phong ba dữ dội ở đời” (Cần
có một thứ văn chương mạnh mẽ hơn). Quan điểm ấy được Hoài Thanh phát triển sâu
sắc hơn trong cuốn Văn chương và hành động (viết năm 1936 với sự góp
mặt của Lê Tràng Kiều và Lưu Trọng Lư). Cuốn sách vừa ra đời đã bị thực dân thu
hồi và cấm lưu hành (mãi đến năm 1998 mới tìm lại được và ra mắt công chúng). ở
cuốn sách ấy, một người “vị nghệ thuật không thể có những dòng đầy nhiệt huyết
như thế này : “Là một người Việt Nam ở thời bây giờ trên vai ta mang nặng những
trách nhiệm không thể từ chối được... Trước tình hình như vậy, vòng tay đứng
nhìn là một tội ác... Chúng tôi nhận rằng nhà văn cũng phải hành động như mọi
người: hành động bằng việc làm và hành động bằng ngòi bút”[1].
Năm 1942, Hoài Thanh và Hoài
Chân viết Thi nhân Việt Nam, cuốn sách để đời trong văn nghiệp Hoài Thanh,
cuốn sách góp phần quyết định tạo nên tên tuổi Hoài Thanh. Trong hàng trăm nhà
thơ, hàng vạn bài thơ, nhà phê bình đã chọn ra 46 nhà thơ, 169 bài thơ tiêu biểu
cho phong trào Thơ Mới. Trần Mạnh Hảo viết một cách hình ảnh: “Thơ Mới khi ra
đời như kỳ hoa dị thảo mọc lên một cách hoang hóa từ khắp rừng núi, đồng bằng,
đô thị Việt Nam. Hoài Thanh và Hoài Chân đã mất nhiều công sức tìm ra những
tinh hoa, thâu tóm những loài hoa cỏ kỳ lạ điển hình nhất của rừng hoang Thơ Mới,
trồng vào khu rừng riêng có chọn lọc, rồi rào vườn bách thảo thi ca lại đặng
coi sóc, gìn giữ lưu lại cho hậu thế được thỏa sức ngắm nhìn”[2]. Những bài thẩm bình của Hoài Thanh với từng
nhà thơ thực sự là những bài thơ và bài tổng kết phong trào Thơ Mới mang tên Một
thời đại trong thi ca thực sự là một bản trường ca, “khúc tuyệt xướng” về
Thơ Mới. “Đọc Thi nhân Việt Nam, trước hết ta gặp một nhà thơ ở giữa các
nhà thơ” (Hoàng Trinh). “Nếu các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới là Bá Nha thì
họ đã có một Tử Kỳ chính là Hoài Thanh” (Ngô Văn Phú). Hoài Thanh đã xây nên
“lâu đài kiến trúc hài hòa, đầy chất thơ” (Đỗ Đức Hiểu).Thi nhân Việt Nam là
“một công trình của thế kỉ” (Nguyễn Văn Hạnh). “Rồi người đời sẽ quên dần và
quên hết các chức tước, các trọng trách mà ông giữ, để chỉ còn và còn mãi mãi
tác giả Thi nhân Việt Nam (Phong Lê).
Cuốn sách Nói chuyện
thơ kháng chiến (1951) tập hợp những bài nói chuyện về thơ của Hoài Thanh
trước đông đảo công chúng trên những nẻo đường đầy gian lao mà anh dũng của cuộc
kháng chiến chống Pháp. Trước sau Hoài Thanh vẫn là một nhà nghệ sĩ dạt dào
tình cảm dân tộc, đồng bào và thiết tha yêu thương quê hương đất nước. Với sự đồng
cảm sâu xa, Hoài Thanh luôn khẳng định “nội dung của thơ ca kháng chiến là tình
yêu nước, và không có gì ngoài tình yêu nước, không có gì ngoài những phương diện
của tình yêu nước”[3], đồng thời Hoài Thanh cũng nhiệt tình ủng
hộ khuynh hướng đại chúng trong hình thức biểu hiện. Tiếp tục duy trì những
thao tác đã dùng khi viết Một thời đại trong thi ca, nhà phê bình đã quan
sát thơ kháng chiến từ nhiều bình diện: cơ sở xã hội, đội ngũ sáng tác, nội
dung trữ tình, thể thơ... Trên cái nền hào hùng của cuộc kháng chiến và không
khí sôi nổi của phong trào sáng tác thơ ca quần chúng, Hoài Thanh đã phác họa
chân dung những con người mới của một thời đại mới, nhân vật công nông
binh, đồng thời ông chọn lọc và giới thiệu những bài thơ kháng chiến tiêu biểu
: Viếng bạn (Hoàng Lộc),Nhớ (Hồng Nguyên), Bài ca vỡ đất (Hoàng
Trung Thông), Người dân quân xã (Vĩnh Mai),Lượm, Lên Tây Bắc (Tố
Hữu) v.v... Trong bản giao hưởng thơ ca kháng chiến, Nói chuyện thơ kháng
chiến của Hoài Thanh đã là một nốt nhạc trong trẻo chan chứa niềm tự hào
và tin yêu, tiếp thêm sức mạnh cho những người kháng chiến.
Hoài Thanh đặc biệt chú ý đến
văn học trung đại. Năm 1943, một năm sau khi xuất bảnThi nhân Việt Nam, ông viết Một
phương diện của thiên tài Nguyễn Du – Từ Hải đăng trên báo Thanh Nghị ;
cũng năm đó, trên tờ Vì Chúa nguyệt san số 238, ông viết Một vài
ý kiến về quyển “Nguyễn Du và Truyện Kiều” của ông Nguyễn Bách Khoa bác bỏ
những quan điểm lệch lạc khi nghiên cứu Truyện Kiều. Sau này, do yêu cầu
nghiên cứu và giảng dạy, Hoài Thanh còn viết khá nhiều bài về tác phẩm của Nguyễn
Du, nhưng có lẽ bài viết hay nhất của ông về Truyện Kiều là Quyền
sống của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (1949). Viết về Truyện
Kiều, “văn phong và ngôn từ của Hoài Thanh, chủ yếu do khả năng cảm thụ tinh tế,
sâu sắc của tác giả, có phần gần gũi và kế thừa ngôn từ văn phong của Mộng Liên
Đường chủ nhân, của Thập Thanh Thị, của Chu Mạnh Trinh – những nhà thẩm bình Truyện
Kiều kiệt xuất - đồng thời vẫn có một nét duyên dáng, độc đáo riêng biệt
mà theo ý chúng tôi, trước hết là giá trị gợi cảm, mở rộng trường liên tưởng đối
với người đọc (Đặng Thanh Lê). Hoài Thanh còn viết về Bình ngô đại cáo và
thơ Nôm của Nguyễn Trãi, về Phan Trần, Hoa Tiên, Chinh phụ ngâm, về
thơ văn Nguyễn Đình Chiểu v.v... Hoài Thanh đã làm được điều mà nhiều nhà
nghiên cứu khác không làm nổi, là làm sống lại những tác phẩm thời quá khứ, khiến
cho “những bông hoa, kể cả những loại không phải là hoa khôi, đã trải qua hàng
trăm năm sương giá trở thành thắm tươi hơn, có khi còn thắm tươi hơn ngày mới nở”
(Trương Chính) [4].
Nhưng văn học hiện đại mới
là mối quan tâm hàng đầu và thường xuyên của Hoài Thanh. Các tác gia lớn trong
văn chương dân tộc được Hoài Thanh đặc biệt ưu ái. ở văn học cận đại Việt Nam,
những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Hoài Thanh chú ý tới Phan Bội Châu;
còn bây giờ, ở văn học hiện đại Việt Nam, Hoài Thanh chú ý tới Hồ Chí Minh và Tố
Hữu với tư cách là hai nhà thơ cách mạng hàng đầu mà tác phẩm của họ có sức động
viên rất lớn với quần chúng nhân dân. Hoài Thanh luôn có ý thức “học tập Bác
qua thơ Bác”; bằng cảm quan nhạy bén, linh khiếu thẩm bình văn chương tinh tế,
sắc sảo, từ vẻ đẹp của thơ Bác, Hoài Thanh đi sâu khám phá vẻ đẹp nhân cách Hồ
Chí Minh. Hoài Thanh luôn theo sát các chặng đường thơ Tố Hữu, nhất là từ tập Việt
Bắc trở đi, nhà phê bình thường xuyên có những phát hiện mới về thơ Tố Hữu
ở cấp độ chi tiết nghệ thuật; chẳng hạn, Hoài Thanh nhận ra “giọng thơ tâm
tình” trong Nước non ngàn dặm: “Bài thơ dài trên ba trăm câu mà gần
như không một lần lỡ nhịp ngang cung. Bài thơ ngọt lịm, đúng là một tiếng ru. Một
tiếng ru day dứt không thôi. Bởi ru đây không phải là ru để ngủ, để quên, mà để
đừng quên”[5]. Hoài Thanh viết về Hòn Đất của
Anh Đức, về thơ của Giang Nam, Thanh Hải, Lê Anh Xuân, Nguyễn Duy, Lưu Quang
Vũ, Cảnh Trà v.v... Cũng như với các nhà thơ mới trước kia, Hoài Thanh rất trân
trọng các nhà thơ trẻ của thời đại cách mạng, “Con mắt xanh” của nhà phê bình
tài hoa đã làm chất kim cương trong thơ họ lấp lánh tỏa sáng, nói như Chế Lan
Viên: “Cái hay của Hoài Thanh là sau việc đánh giá cao Thơ Mới như vậy, anh lại
góp phần vào việc làm ra một nền thơ cách mạng cao hơn, mới hơn, mới hơn về nội
dung cách mạng”[6]. Không những thế, Hoài Thanh đã bắt đầu tập
hợp tư liệu để viết một bài tổng kết về thơ ca hiện đại kiểu Một thời đại
trong thi ca; tiếc là ông đã ra đi quá sớm, không kịp thực hiện dự định
cao đẹp ấy của đời ông.
Một đời cầm bút và sáng tạo,
Hoài Thanh đã để lại trong văn chương dấu ấn thật khó phai mờ. Dấu ấn độc đáo
đó thể hiện trong quan niệm nghệ thuật, phương pháp phê bình, tính cách phê
bình của Hoài Thanh.
Hoài Thanh luôn trân trọng,
mến yêu cuộc sống và càng yêu cuộc sống, yêu con người, Hoài Thanh càng say mê
văn chương vì văn chương làm cho người ta thêm quý yêu cuộc sống và con người.
“Ông Hoài Thanh đã quan niệm Thơ không chỉ vì Thơ mà trước hết còn vì cuộc sống,
vì con người. ở đây, tình yêu thơ cũng là tình yêu con người với mọi góc cạnh
lung linh của tâm hồn, là tình yêu cuộc sống với đầy đủ những vui buồn...” (Chu
Hảo). Say mê văn chương, Hoài Thanh đề cao, khẳng định giá trị đích thực của
văn chương là ở phẩm chất nghệ thuật của nó, ở bản chất của nó, đó là cái đẹp,
nhà văn Nga K.Pautôpxki có câu nói nổi tiếng: “Niềm vui của nhà văn chân chính
là niềm vui của người dẫn đường vào xứ sở của cái đẹp”– phải chăng “cái đẹp” ấy
là vẻ đẹp của cuộc sống, vẻ đẹp của tâm hồn, là cái đẹp ở nội dung miêu tả, cái
đẹp ở phương thức biểu hiện của tác phẩm? Đức Năng, người con thứ hai của Hoài
Thanh, tưởng nhớ người cha kính yêu của mình “cả một đời hướng tâm vì cái đẹp:
cái đẹp của cuộc sống và cái đẹp của nghệ thuật”. Văn Giá nhấn mạnh: “Hoài
Thanh trước sau vẫn nhất quán trong một bản chất thi sĩ đích thựcmột: say mê đi
tìm cái đẹp và “sùng bái” cái đẹp (chữ dùng của cụ Đặng Thai Mai)...” Với Hoài
Thanh, chính cái đẹp mới làm nên phẩm chất văn chương. “Đặc sắc mỗi nhà thơ chỉ
trong những bài thơ hay”[7]. “Thơ chưa hay thì có cũng bằng không có”[8]. Nhưng cái đẹp, cái hay của văn chương phải
mang bản sắc riêng biệt, độc đáo. “Một truyện ngắn, một bài văn phê bình, hay một
bài văn nào khác, đều cần phải có cái đặc sắc của nó” (Phê bình văn – Tiểu
thuyết thứ bẩy, 14/9/1935). Văn chương là sản phẩm tinh thần của con người, một
sản phẩm đặc thù mang dấu ấn độc đáo của cá tính sáng tạo. “Nhà văn không có
phép thần thông để vượt ra ngoài thế giới này, nhưng thế giới này trong con mắt
nhà văn phải có một hình sắc riêng” (Ngoại cảnh trong văn chương – Tràng
An, 10/12/1935). Hoài Thanh còn chỉ rõ cội nguồn mọi sáng tạo độc đáo là ở tài
năng, nhân cách của người nghệ sĩ. Cái tài phải đi với cái tâm, một cái tâm
trong sáng, thành thật. Trong bài Nhỏ to viết cuối sách Thi nhân
Việt Nam, Hoài Thanh tâm sự với bạn cùng nghề văn : “Danh vọng quý thật, nhưng
còn có điều quý hơn danh vọng, quý hơn hết thảy : lòng ngay thẳng mà ít nhất
cũng phải giữ trọn trọng văn chương”. Sống thành thực, viết thành thực là một
tư tưởng nhất quán trong toàn bộ cuộc đời Hoài Thanh, ông chỉ viết những điều
mình xúc động, cảm nghĩ thực sự, không vay mượn của ai, không nói những điều
trái với rung cảm của lòng mình. Thật chẳng phải ngẫu nhiên Ngô Tất Tố viết ở đầu
cuốn Phê bình Nho giáo của Trần Trọng Kim (1938): “Tặng Hoài Thanh
Nguyễn Đức Nguyên, một người trong sạch, thành thật và có nghị lực trong lớp
thanh niên ngày nay”.
Quan niệm nghệ thuật của
Hoài Thanh là cơ sở cho phương pháp phê bình văn học của ông. Yêu cái đẹp, Hoài
Thanh chỉ chọn cái đẹp, cái hay trong văn chương để bình, chứ không phê, và
bình bằng cả tâm hồn mình, bằng cả con người văn hóa của mình. “Nếu gọi bằng nghiệp thì
bình thơ vẫn là cái nghiệp rất vui. Còn gì vui bằng cùng với ý đẹp, lời
đẹp và nhạc điệu, âm thanh đi vào những tâm hồn trong sáng, đi vào những nơi
trong sáng nhất của tâm hồn. Khó có những chuyến đi nào say người hơn”[9]. Với Hoài Thanh, phê bình văn học đã là một
niềm đam mê lớn, phê bình cũng là văn chương, ông đã nâng công việc bình thơ,
bình văn lên thành một nghệ thuật, nó đòi hỏi nhà phê bình phải viết cho hay,
cho hấp dẫn, phải có những sáng tạo mới mẻ. “Phê bình một quyển sách phải nói
cho đúng đã đành, mà lại cần phải nói cho hay nữa, làm thế nào cho câu nói của
mình có đặc sắc. Đối với một quyển sách, mình có ý kiến gì là lạ, mới nên hạ
bút phê bình, không thì thôi. Phê bình cũng cần phải có sáng tạo là thế”. Hoài
Thanh phát hiện cái đẹp, cái hay, cái mới, cái lạ trong văn chương bằng ấn tượng
trực cảm, sự đồng điệu của tâm hồn, “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. “Mỗi người
có một cái “tạng” riêng, “tạng” của Hoài Thanh trong phê bình là trực giác, ấn
tượng. Ông rất tự tin vào cảm xúc tự nhiên của mình, và thường là ông đúng” (Phạm
Xuân Nguyên). “Lối phê bình của Hoài Thanh là đi trực tiếp đến cái thần của sự
vật, gợi lên cái tứ của bài thơ; nó gần với sáng tác mà xa với khoa học ở cách
làm, nhưng vẫn đạt đến ý nghĩa khoa học vì nó cũng phát hiện ra chân lí” (Nguyễn
Thị Thanh Xuân). Nhưng phương pháp phê bình văn học của Hoài Thanh không đơn
thuần là phê bình ấn tượng mà còn là so sánh, xã hội học, hiện tượng học, tiếp
cận văn hóa – lịch sử... Khi bình thơ văn cổ điển, “với tinh thần biểu dương cổ
vũ, gạn đục khơi trong, kế thừa di sản, Hoài Thanh đã vận dụng sở trường bình
thơ kiểu thi thoại của ông để chỉ ra những bài thơ hay, câu thơ hay, hình ảnh
hay một cách xác đáng” (Trần Đình Sử). Để nhận diện chân dung tâm hồn các nhà
thơ mới, Hoài Thanh dùng phương thức so sánh ở cấp độ tác giả : “Nguyễn
Bính nhà quê hơn cả nên chỉ ưa sống trong tình quê... Anh Thơ là một người
thành thị đi du ngoạn nên chỉ thấy cảnh quê. Bàng Bá Lân gần Anh Thơ hơn gần
Nguyễn Bính... Nhưng người hiểu cảnh quê hơn Anh Thơ”[10]. Hoài Thanh luôn thực hiện phân
tích tác phẩm gắn với đặc trưng thể loại, phong cách, thi pháp : với những
tác phẩm truyệnnhư Truyện Kiều, Hoa Tiên, Phan Trần... Hoài Thanh chú
ý khám phá thế giới nhân vật (Thúy Kiều, Từ Hải, Dao Tiên, Lương Sinh, Kiều
Liên, Phan Sinh...); với các tác phẩm thơ trữ tình như Nhật ký
trong tù, Hoài Thanh ít nói tới sự kiện mà quan tâm nhiều đến thế giớitâm tư
tình cảm của nhà thơ: “Nhưng giữa bao nhiêu tối tăm dày đặc, ánh sáng vẫn
ngời lên, ánh sáng của một tấm lòng thương người và yêu mến đời vô hạn”[11]. Có thể nói, phương pháp phê bình văn học
của Hoài Thanh rất linh hoạt, uyển chuyển, “ông vừa tiếp nối cung cách bình thơ
của các thi nhân – hiền giả trong truyền thống văn hiến của cha ông, vừa kết hợp
và ẩn chứa trong lời bình cái quan niệm bản chất thơ ca của nhiều xu hướng văn
chương tiến bộ, trong lúc tâm hồn ông đã lộng gió phương Tây...” (Trường Lưu).
Con người Hoài Thanh, tính
cách Hoài Thanh hiện rõ trên những trang văn. Nếu nghệ sĩ là người tôn thờ cái
đẹp, sáng tạo cái đẹp, giàu xúc cảm và có trí tưởng tượng bay bổng thì Hoài
Thanh là một nghệ sĩ đích thực trong phê bình, ông là nhà phê bình – nghệ sĩ.
Trong văn chương, tác phẩm hay chính là cái đẹp và Hoài Thanh xác định
cho mình nhiệm vụ là “bình thơ hay”, “bình cái hay của thơ”. Tính cách nghệ sĩ
của Hoài Thanh còn thể hiện rõ ở năng lực đồng cảm, cảm thông với người sáng
tác. “Nét đồng điệu của tâm hồn là yếu tố tiên quyết giúp tác giả lắng lòng
nghe thấy cái huyền diệu, cái tinh tế trong những hồn thơ mong manh mà người
khác không cảm thấy được... Ông đã tạo ra mộtđiệu văn, đúng hơn, một điệu
thơ - phê bình, để dẫn ta vào một thế giới trong đó hồn ông và hồn thi nhân nhập
hòa làm một và được biểu hiện bằng những câu thơ linh diệu” (Thiếu Mai). “Kể từ Thi
nhân Việt Nam cho đến nay, Hoài Thanh vẫn là nhà phê bình có cách cảm thụ
thơ tinh vi và sâu sắc. Ông nhạy cảm và lại thận trọng : ông thường tìm được những
điều chủ yếu nhất của bài thơ, thấy được cái hay của câu chữ vần điệu và cũng
thấy được cả cái ấp úng trong lòng tác giả chưa giãi bày hết được lên thơ” (Vũ
Quần Phương). ở người nghệ sĩ Hoài Thanh, sự tinh tế, sâu sắc trong phong cách
phê bình lại được chắp cánh bởi tư duy hình tượng, bởi những liên tưởng sinh động.
Có cảm giác trong tay ông, cây đũa thần – phê bình chạm tới đâu là ở đấy tất cả
sống dậy, có hồn, khơi gợi tưởng tượng và cảm xúc. Một khái niệm trừu tượng như thơ
ca, dưới ngòi bút Hoài Thanh “thơ phải là một tia sáng nối cõi thực và cõi mộng,
mặt đất với các vì sao”. Đánh giá vị trí của Tản Đà trong tiến trình thơ ca Việt
Nam, Hoài Thanh khẳng định đó là “người đã dạo những bản đàn mở đầu cho cuộc
hòa nhạc tân kỳ đương sắp sửa”. Hoài Thanh hình dung xã hội Truyện Kiều,
“cái xã hội ghê tởm đó sống nhơ nhuốc dưới ngòi bút của Nguyễn Du với cái màu
da nhờn nhợt của Tú Bà, cái bộ mặt mày râu nhẵn nhụi của Mã
Giám Sinh, cái vẻ chải chuốt, dịu dàng của Sở Khanh, cái miệng thì xoen
xoét của Bạc Bà, Bạc Hạnh”[12].
Nếu nhà lí luận thiên về phê
bình lí trí thì nhà nghệ sĩ thiên về phê bình tình cảm. Hoài Thanh là nhà phê
bình tình cảm. “Con người Hoài Thanh giản dị và giàu tình như thế nào thì phong
cách viết của anh như vậy “ [13] (Vũ Đức Phúc). Cả cuộc đời đã theo
tiếng gọi của nghệ thuật, nhưng với Hoài Thanh, mọi cảm hứng sáng tạo nghệ thuật
đều chung một cội nguồn sâu xa là tình cảm. Phê bình không phải là chuyện tỉa
tót văn chương ; sức nặng của lời phê bình trước hết là ở giá trị chân lí – những
chân lí của cuộc đời chứa đựng trong tác phẩm phải thông qua cái tình của nhà
phê bình mới đến được trái tim người đọc. Chính Hoài Thanh đã viết : “Muốn phân
tích văn thơ cho chính xác không thể nào không cần đến ít nhiều rung cảm nghệ
thuật. Nhưng rung cảm nghệ thuật cũng là một thứ tình cảm, và rung cảm đúng hay
sai thường cũng là do những tình cảm chủ đạo trong đời sống mỗi chúng ta quyết
định”[14]. Tình cảm luôn là nguồn lực lớn lao chi
phối ngòi bút Hoài Thanh. Nhà phê bình đã hướng tới nhiều thể loại văn học (ca
dao, truyện, tiểu thuyết, phóng sự, bút ký v.v...) nhưng ông dành nhiều công sức
nhất (và cũng thành công nhất) ở công việc bình thơ, vì thơ là tiếng nói của
tình cảm, thơ diễn tả một cách chân thật và rung động những tâm tư, tình cảm
sâu sắc của con người. Là một nhà thơ giữa các nhà thơ mới, Hoài Thanh không cần
dùng một từ ngữ nào đặc tả nỗi buồn hoài cổ trong thơ Huy Cận, vậy mà người đọc
vẫn cảm nghe được nỗi cô đơn, trống vắng đến lạnh người trong cái xa xôi vô tận
của cõi đời: “Nhưng con đường về quá khứ đi càng xa, càng cô tịch, tứ bề càng
vắng lặng mênh mông. Có lẽ thi nhân trong cuộc viễn du đã có lần nhác thấy cái
xa thẳm của thời gian và không gian, có lẽ người đã nghe trong hồn hơi gió lạnh
buốt từ vô cùng đưa đến. Một Pascal hay một Hugo trong lúc đó sẽ rùng mình, sẽ
hốt hoảng; với cái điềm đạm của người phương Đông thời trước, Huy Cận chỉ lặng
lẽ buồn”[15]. Ngòi bút trữ tình của nhà phê bình phát
hiện vẻ đẹp tâm hồn trong thơ Tố Hữu: “Từ ấy để lại những hình ảnh khá đậm
về nhà thơ. Ta thấy anh nện gót trên đường phố Huế để tỏ thái độ khinh ghét đối
với cả một lối sống đớn hèn. Ta thấy anh một mình trong xà lim Quy Nhơn, tim nhức
nhối vì một tiếng rao đêm...”[16]. Còn đây, trong một tác phẩm tự sự, tiểu
thuyếtHòn Đất, nhà phê bình xúc động bởi một chi tiết rất nhỏ, tưởng như chẳng
mấy ai chú ý tới: “Không những ai nấy đều sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, ở đấy
còn có một cái có khi còn khó hơn đức hi sinh nữa: đó là đức quên mình. Tiêu
biểu nhất là chị Sứ. Chị luôn chăm lo cho người khác. ở trong hang, chị là
người uống nước ít nhất và “việc này cũng chỉ có chị biết mà thôi”...[17] Có thể nói như Lưu Liên: “Đấy là
kiểu thưởng thức văn chương rất mộc, rất gốc, rất gần... chỉ có con tim, tấm
lòng, và một niềm say đắm, say trong thơ và đắm nghĩa tình đời”[18].
Văn là người. Qua văn phong
phê bình thấy hiện lên một Hoài Thanh tinh tế, trang nhã, tài hoa. “Bản sắc ấy
đưa tác giả vào một diện không nhiều những nhà phê bình mà nếu bài viết có che
tên đi, người đọc vẫn nhận ra văn ấy, đúng là của con người ấy” [19] (Hồng Diệu). Trong cuộc đời, Hoài Thanh
là một con người từ tốn, khiêm nhường mà sắc sảo; trong văn chương, Hoài Thanh
đã xây dựng cho mình một bút pháp chân thực mà duyên dáng, hấp dẫn, sâu sắc mà
uyển chuyển, nhẹ nhàng. Đã có lần Hoài Thanh ngợi ca Thế Lữ có tài “điều khiển
đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không cưỡng được”[20]. Đến lượt mình, Hoài Thanh cũng chứng tỏ
một năng lực ngôn ngữ tài hoa không kém. Viết về Chinh phụ ngâm, ông đã sử
dụng một đội quân từ ngữ phong phú để diễn tả mọi cung bậc tâm trạng của người
chinh phụ : câu thơ mênh mang, câu thơ xao xác, câu thơ đau xé
ruột, câu băn khoăn, câu nhẹ lướt như bàn tay âu yếm, câu quấn
quýt, rạo rực yêu đương v.v...[21]. Hoài Thanh dùng nhiều thủ pháp riêng
như so sánh, liên tưởng, gợi không khí, tạo đường viền... làm cho cái hay của
tác phẩm nổi bật lên, đem đến cho độc giả những cảm xúc thẩm mỹ mới mẻ. So
sánh, đối chiếu với Kim Vân Kiều truyệncủa Thanh Tâm tài nhân để làm nổi
rõ chất sáng tạo đầy trí tuệ và thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du khi xây dựng
hình tượng Từ Hải : “Ngờ đâu non ba trăm năm sau, đầu thế kỉ XIX, ở một xứ mà
sinh thời chắc Từ Hải không biết đến, trên bờ sông Lam, Từ Hải còn được tái
sinh một lần nữa. Đã suýt mai một cùng quyển truyện của Thanh Tâm tài nhân, Từ
Hải bỗng được một thiên tài Việt Nam cho sống lại và vinh quang của Từ Hải lần
này mới thật rực rỡ. Cái mộng của Thanh Tâm tài nhân, cái mộng biến Từ Hải
thành một vị anh hùng cái thế, phải có thiên tài Nguyễn Du mới thực hiện được...
Ca tụng uy võ của Từ Hải, Thanh Tâm tài nhân viết : “Không quá ba ngày, Từ Hải
phá một thôi được năm huyện”. “Phá được năm huyện thì còn ra gì! Nguyễn Du chỉ
bỏ vài chữ và đổi cách đặt câu :
Đòi cơn gió táp mưa sa
Huyện thành đạp đổ năm tòa
cõi Nam
Dường như trong công việc
phê bình của mình, Hoài Thanh luôn chú ý đến sự giản dị và cô đọng trong bút
pháp mà vẫn không làm mất đi sự mềm mại, quyến rũ của nghệ thuật văn chương. Mở
bất cứ trang nào của Thi nhân Việt Nam, người ta cũng thấy những câu văn thật
trang nhã, đầy chất thơ: “Thời trước, dầu bị oan khuất như Cao Bá Nhạ, dầu bị
khinh bỉ như cô phụ trên bến Tầm Dương, vẫn còn có thể nương tựa vào một cái gì
không di dịch. Ngày nay lớp thành kiến phủ trên linh hồn đã tiêu tan cùng lớp
hoa hòe phủ trên thi tứ. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta
bàng hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều: một điều cần hơn trăm nghìn
điều khác: một lòng tin đầy đủ”[23]. Huy Cận viết: “Về cảm thụ thơ, phân
tích tinh tế các hồn thơ như trong Thi nhân Việt Nam thì ít ai bằng,
có lẽ chưa ai bằng Hoài Thanh”[24]. Lê Bá Hán nhận xét: “Anh có thể nắm bắt
bén nhạy cái “thần” của một tác giả, khái quát được khá tập trung phần tinh túy
nhất của một hồn thơ. Lắm khi chỉ với vài từ hoặc một câu ngắn gọn, anh diễn đạt
được cái cốt cách của một tác giả. Anh nhắc đến cái ung dung nhưng khẩn
trương, thôi thúc và đanh thép của Sóng Hồng, tiếng nói chân chất của
Thanh Hải, tiếng nói đằm thắm của Giang Nam, tiếng nói mặn màcủa
Viễn Phương, cái vị ngây ngất say sưa lí tưởng của thơ Lê Anh
Xuân...”[25].
Ngày 13/7/1980, trong nhật
ký, Hoài Thanh nói với hương hồn người vợ thân yêu của mình: “Nguyên tin rằng,
những phần đẹp nhất trong hồn ta, những việc làm đẹp nhất của chúng ta sẽ cùng
với sông núi này, đất trời này còn mãi!”[26]. Để có một phong cách, một bản lĩnh
riêng, Hoài Thanh đã cố gắng, nỗ lực không ngừng trong văn chương và trong cả
cuộc đời. Niềm tin của ông đang trở thành hiện thực. Những phần đẹp nhất của
tâm hồn ông, những việc làm đẹp nhất của đời ông đang được trân trọng, nâng niu
như trong hằng mơ ước. Mãi mãi, mọi người còn nhớ tới Hoài Thanh, “một con người
tài hoa, rất tài hoa, và hết mực trung thực, trung thực cho đến tận những ngày
cuối cùng đối với thơ và đối với đời”[27] (Vũ Tú Nam), “nhà phê bình văn học
lớn nhất, tài hoa nhất của thế kỉ XX này trên đất nước Việt Nam”[28] (Nguyễn Đình Chú).
[11] Thơ
văn Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trong nghiên cứu phê bình, NXB Đại học Quốc
gia, Hà Nội, 1997, tr.172.
In trong: Những vấn đề
mới trong nghiên cứu và giảng dạy văn học,
(tập sách kỉ niệm 50 năm
thành lập Khoa Văn học)
NXB ĐHQGHN, HN, 2006, tr.
79-9.
THƯ MỤC TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
TÁC GIA, TÁC PHẨM HOÀI THANH:
1. Trịnh Xuân An. Một
vài suy nghĩ nhân đọc cuốn “Phê bình và tiểu luận” (II) của Hoài Thanh. Văn nghệ
số 173, 19/8/1966.
2. Diệu Anh (Đinh Gia
Trinh). Nói chuyện thơ nhân quyển “Thi nhân Việt Nam”. Thanh Nghị,
16/8/1942.
3. Vũ Tuấn Anh. Hoài
Thanh – nhà phê bình thơ. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. NXB Hội nhà văn,
Hà Nội, 1995.
4. Trần Bảng. Người anh
cả của tôi. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
5. Nguyễn Bao. Hoài
Thanh và thơ. Di bút và di cảo. NXB Văn học, Hà Nội, 1993.
6. Nguyễn Đức Bính. Như
thế Hoài Thanh. Tạp chí Sông Lam, tháng 12/1996.
7. Vũ Cao. Đôi điều ghi
lại về anh. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
8. Huy Cận. Vô cùng
thương tiếc nhà văn Hoài Thanh. Văn nghệ, số 3, 1982.
9. Huy Cận. Hồi ức về
Hoài Thanh. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1995.
10. Hoài Chân. Kỷ niệm
về anh Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. Văn nghệ, số 15, 11/4/1992.
11. Trương Chính. Nhân đọc
cuốn “Phê bình và tiểu luận” (II), bàn về cách phê bình văn học của Hoài Thanh.
Tạp chí Văn học, số 11, 1966.
12. Trương Chính. Từ
phê bình đến tiểu luận. Văn nghệ, số 431, 14/1/1972.
13. Trương Chính. Cuộc
đời Phan Bội Châu (Phê bình cuốn Phan Bội Châu của Hoài Thanh).
Văn nghệ, 9/6/1979.
14. Trương Chính. Lời
giới thiệu. Tuyển tập Hoài Thanh, tập 1. NXB Văn học, Hà Nội, 1982.
15. Trương Chính. Một
nét tính cách của anh Hoài Thanh. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. NXB Hội
nhà văn, Hà Nội, 1995.
16. Trương Chính. Phong
cách phê bình của Hoài Thanh. Tạp chí Văn học và tuổi trẻ, số 7, 1995.
17. Nguyễn Đình Chú. Cuộc
tranh luận về quan điểm nghệ thuật 1935-1939.
18. Nguyễn Đình Chú. Với
Hoài Thanh tiên sinh - đôi điều tôi muốn nói. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ. NXB
Hội nhà văn, H, 2000.
19. Hồng Diệu. “Chuyện
thơ...” của Hoài Thanh. Tạp chí Văn học, số 3, 1979.
20. Hồng Diệu. Nhà văn
Hoài Thanh. Văn nghệ quân đội, số 6, 1982.
21. Hồng Diệu. Hoài Thanh. Nghệ
Tĩnh – gương mặt nhà văn hiện đại. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1990.
22. Hồng Diệu. Người đi
tìm cái đẹp. Sài Gòn giải phóng, 2/7/1999.
23. Hồng Diệu. Thời
nhân và Hoài Thanh. Tạp chí Văn học, số 7, 1999.
24. Hồng Diệu. Kỷ niệm
không quên. Văn nghệ số 33, 14/8/1999.
26. Hồng Diệu. Sức hấp
dẫn của “Toàn tập Hoài Thanh”. Văn nghệ số 35, 28/8/2000.
27. Thành Duy. Hoài
Thanh với cuốn “Văn chương và hành động”. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ. NXB
Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
28. Phan Cự Đệ. Hoài
Thanh. Nhà văn Việt Nam (1945-1975), tập 1, NXB Văn học, Hà Nội, 1982.
29. Nguyễn Đăng Điệp. Văn
chương, cái đẹp và một triết lí phê bình. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”,
NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1995.
30. Nguyễn Văn Đường. Lời
văn bình thơ của Hoài Thanh. Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống số 1, 1995.
31. Nguyễn Văn Đường. Công
việc bình thơ của Hoài Thanh. Tạp chí Văn học, số 5, 1995.
32. Văn Giá. Đi tìm đặc
điểm văn phong trong “Thi nhân Việt Nam”. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt
Nam”. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1995.
33. Văn Giá. Phần đời
bí ẩn của một con người.
34. Phan Hồng Giang. Hoài
Thanh, nhà phê bình văn học. Toàn tập Hoài Thanh, tập 4, NXB Văn học, Hà Nội,
1999.
35. Lê Bá Hán. Hoài
Thanh với phê bình. Tạp chí Văn học số 3, 1972.
36. Tế Hanh. Những tiếp
xúc đầu tiên với tác giả “Thi nhân Việt Nam”. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt
Nam”. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1995.
37. Lê Thị Đức Hạnh. Một
vài kỷ niệm. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1995.
38. Nguyễn Văn Hạnh. “Thi
nhân Việt Nam và phương pháp tiếp cận văn chương. Tạp chíVăn học, số 7,
1999.
39. Chu Hảo. Cảm nhận về
Hoài Thanh khi đọc lại “Thi nhân Việt Nam”. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ.
NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
40. Trần Mạnh Hảo. Từ
Hoài Thanh đến... Hoài Thanh. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà
Nội, 2000.
41. Đinh Thị Minh Hằng. Những
đóng góp của Hoài Thanh trong việc phê bình văn học cổ. Văn nghệ quân đội, số
5, 1992.
42. Hoàng Ngọc Hiến. Phê
bình văn học của Hoài Thanh và phê bình văn học hiện nay. Với khát vọng Chân
Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
43. Đỗ Đức Hiểu. “Thi nhân
Việt Nam bản trường ca về Thơ Mới. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. NXB Hội
nhà văn, Hà Nội, 1995.
44. Nguyễn Hòa. Giá trị
của mỗi người được xác định bởi sự đóng góp cho xã hội. Với khát vọng Chân Thiện
Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
45. Nguyễn Văn Hoàn. Hoài
Thanh với việc nghiên cứu Nguyễn Du và “Truyện Kiều”. Tạp chí Văn học,
số 7, 1999.
46. Phạm Hổ. Mấy kỉ niệm
về anh Hoài Thanh, Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. NXB Hội nhà văn, Hà Nội,
1995.
47. Nguyễn Văn Hùng. Chìm
nổi một cuốn sách. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
48. Nguyễn Văn Hùng. Nhọc
nhằn mỗi trang viết Hoài Thanh. Nghệ An cuối tuần, 16/7/2000.
49. Mộng Huyền. Kỷ niệm. Hoài
Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1995.
50. Nguyễn Khải. Kiến
giải thêm về Hoài Thanh. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà Nội,
2000.
51. Vũ Ngọc Khánh. Một
vài kỷ niệm với nhà văn Hoài Thanh. Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4, 1982.
52. Nguyễn Hoành Khung. Hoài
Thanh. Từ điển văn học, tập 2, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1983.
53. Lê Đình Kỵ. Hoài
Thanh và phê bình văn học. Tác phẩm mới, số 28, tháng 8/1973.
54. Lê Đình Kỵ. Lời cuối
sách. Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học – Hội nghiên cứu, giảng dạy văn học thành
phố Hồ Chí Minh, 1988.
55. Lê Đình Kỵ. Hoài
Thanh – thưởng thức phê bình thơ. Văn nghệ, số 15, 11/4/1992.
56. Thanh Lãng. Hoài
Thanh và Hoài Chân. Phê bình văn học thế hệ 1932. Phong trào văn hóa xuất bản,
Sài Gòn, 1973.
57. Phong Lê. Hoài
Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. Tạp chí Văn học, số 3, tháng 5-6/1992.
58. Phong Lê. Hoài
Thanh – sự nghiệp phê bình. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà Nội,
2000.
59. Đặng Thanh Lê. Hoài
Thanh và một chặng đường tiếp cận văn học. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”.
NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1995.
60. Lưu Liên. Dung dị
Hoài Thanh. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1995.
61. Vân Long. Thử tìm
hiểu đôi nét “vị nhân sinh” của nhà vị nghệ thuật Hoài Thanh. Giáo dục và thời
đại, số 44, 1/11/1998.
62. Phan Trọng Luận. Hoài
Thanh với chuyện sống và viết của một người phê bình. Văn nghệ, số 392,
16/4/1971.
63. Phan Trọng Luận. Xin
được gửi chút lòng tri âm. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà Nội,
2000.
64. Lưu Trọng Lư. Khóc
Hoài Thanh. Văn nghệ, số 3, 1982.
65. Lưu Trọng Lư. “Thi nhân
Việt Nam mãi còn đó, Hoài Thanh mãi còn đây. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”.
NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1995.
66. Trường Lưu. Hoài Thanh –
một tâm hồn thơ nhân bản. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ.
67. Trần Hạnh Mai. Hoài
Thanh, người đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật. Tạp chí Văn học, số 9, 1998.
68. Đặng Thai Mai. Thương
tiếc đồng chí Hoài Thanh. Văn nghệ, số 15, 10/4/1982.
70. Thiếu Mai. Hoài
Thanh. Tác giả lí luận, nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam 1945-1975, tập 1.
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1986.
71. Thiếu Mai. Phê bình
thơ hay thơ phê bình. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. Văn nghệ, số 15,
10/4/1982.
72. Nguyễn Đăng Mạnh. Vài
suy nghĩ nhỏ về “Tuyển tập Hoài Thanh”. Văn nghệ, số 15, 10/4/1982.
73. Nguyễn Đăng Mạnh. Hoài
Thanh con người sinh ra để đọc thơ, bình thơ.
74. Lê Minh. Nghĩ về
Hoài Thanh – người đồng chí. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà Nội,
2000.
75. Vũ Tú Nam. Nhà văn
Hoài Thanh chân tình và chu đáo. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. NXB Hội nhà
văn, Hà Nội, 1995.
76. Vũ Tú Nam. Hoài
Thanh – con người tài hoa, trung thực, giàu tình cảm. Với khát vọng Chân Thiện
Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
77. Nguyễn Đức Năng. Nhà
văn Hoài Thanh (những ký ức). Tạp chí Khoa học và Tổ quốc, số 28, 1998.
78. Anh Ngọc. Nhà phê
bình làm say đắm các nhà thơ. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà
Nội, 2000.
79. Nguyên Ngọc. Suy
nghĩ về một quan niệm văn chương. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. NXB Hội
nhà văn, H, 1995.
80. Lữ Huy Nguyên. Lời
ông lần giở trước đèn. Toàn tập Hoài Thanh, tập 4. NXB Văn học, Hà Nội, 1999.
81. Phạm Xuân Nguyên. Khát
vọng thành thực. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
82. Nhiều tác giả. Hoài
Thanh và “Thi nhân Việt Nam”, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1995.
83. Nhiều tác giả. Với khát
vọng Chân Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
84. Vũ Ngọc Phan. Hoài
Thanh (Nguyễn Đức Nguyên). Nhà văn hiện đại, quyển III. NXB Tân Dân, Hà Nội,
1943.
85. Ngô Văn Phú. “Thi nhân
Việt Nam”, thầy học của tôi. Văn nghệ, số 15, 11/4/1992.
86. Ngô Văn Phú. Chân
dung Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam”. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ.
NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
87. Vũ Đức Phúc. Hoài
Thanh. Tạp chí Văn học, số 2, 1982.
88. Vũ Đức Phúc. Sự
nghiệp của Hoài Thanh, nhà phê bình bậc thầy. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt
Nam”. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1995.
89. Nguyễn Phúc. Những
vấn đề về Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. Tạp chí Văn học, số 3,
1992.
90. Nguyễn Phúc. Nhìn lại
cái gọi là “thuyết vị nghệ thuật của Hoài Thanh. Tạp chí Văn học, số 2,
tháng 3-4/1993.
91. Vũ Đình Phòng. Kỷ niệm về
Hoài Thanh. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
92. Vũ Quần Phương. Hoài
Thanh và “chuyện thơ”. Văn nghệ, 25/8/1979.
93. Vũ Quần Phương. Con
người vị nhân sinh trong Hoài Thanh. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ. NXB Hội nhà
văn, Hà Nội, 2000.
94. Vũ Quần Phương. Về
quan điểm nghệ thuật (trước cách mạng) của Hoài Thanh. Với khát vọng Chân
Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
95. Vũ Phương. Hoài
Thanh và khát vọng một nền văn chương đích thực. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ.
NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
96. Nguyễn Phượng. Hoài
Thanh qua “Bình luận văn chương”. Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 36,
8/10/1998.
97. Linh Quân. Hoài
Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 7, 1998.
98. Nguyễn Duy Quý. Con
người và sự nghiệp văn chương của Hoài Thanh. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt
Nam”. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1995.
99. Nguyễn Xuân Sanh. Đôi
ý nghĩ thân tình. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. NXB Hội nhà văn, Hà Nội,
1995.
100. Nguyễn Xuân Sanh. Hoài
Thanh - đôi điều yêu quý về Anh. Với khát vọng Chân, Thiện, Mỹ. NXB Hội nhà
văn, Hà Nội, 2000.
101. Từ Sơn. Lời cuối
sách. Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 1988.
102. Từ Sơn. Di bút của
người cha. Tạp chí văn học, số 3, tháng 5-6/1992.
103. Từ Sơn. Hoài Thanh
với khát vọng Chân Thiện Mỹ.
. Tấm gương sáng của
người cha.
Với khát vọng Chân Thiện Mỹ.
NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
104. Từ Sơn. Hoài Thanh
– người thiết tha gắn bó với văn hóa dân tộc. Tạp chí Văn hóa nghệ thuật,
số 2, 2001.
105. Chu Văn Sơn. Nguồn
gốc của “Thi nhân Việt Nam”. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. NXB Hội
nhà văn, Hà Nội, 1995.
106. Trần Đình Sử. Một
vài suy nghĩ về phê bình văn học của Hoài Thanh. Lí luận và phê bình văn học.
NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1996.
107. Trần Đình Sử. Nhìn
lại quan niệm văn học của Hoài Thanh. Tia sáng, số 27, 9/1998.
108. Nguyễn Hương Tâm. Về
quan điểm nghệ thuật của Hoài Thanh (giai đoạn 1932-1945). Hoài Thanh và “Thi
nhân Việt Nam”. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1995.
109. Minh Tâm. Ông đồ
Hoài Thanh những chuyện ngoài văn chương. An ninh thế giới cuối tháng, số 17,
tháng 1/2003.
110. Minh Tâm. Mối tình
đầu của tác giả “Thi nhân Việt Nam”. Văn nghệ công an, số 2 (102), 2/2004.
111. Hoàng Trung Thông. Hoài
Thanh – nhà phê bình. Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, 1/2001.
112. Nguyễn Ngọc Thiện. Nhớ
kiện tướng trong bút chiến vì một nền văn học vị nhân sinh. Văn nghệ quân đội,
số 8, 1984.
113. Nguyễn Ngọc Thiện. Say
mê, chân thành trong tìm tòi, hoàn thiện cái hay, cái đẹp, cái tốt của văn
chương. Tạp chí Sông Hương, số 3, tháng 5-6/1992.
114. Nguyễn Ngọc Thiện. Hành
trình đến với bạn đọc của “Văn chương và hành động”. Văn chương và hành động.
NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1998.
115. Nguyễn Ngọc Thiện. Hoài
Thanh. Phong cách và đời văn, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005.
116. Đỗ Lai Thúy. Hoài
Thanh và phê bình ấn tượng. Tạp chí Văn học, số 3, 2003.
117. Cao Xuân Thử. Những
chuẩn mực để định giá thi ca của tác giả “Thi nhân Việt Nam”.Hoài Thanh và “Thi
nhân Việt Nam”. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1995.
118. Lê Anh Trà. Đọc
“Phê bình và tiểu luận” (I) của Hoài Thanh. Tạp chí Nghiên cứu văn học, số
5, 1961.
119. Văn Trọng. Tác phẩm
“Nói chuyện thơ kháng chiến”. - Đời và thơ mãi nhớ Anh. Văn nghệ, số 15,
10/4/1982.
120. Trần Thị Việt Trung. Đọc
lại “Thi nhân Việt Nam”. Văn nghệ, số 24, 15/6/1991.
121. Đoàn Minh Tuấn. Nhà
văn Hoài Thanh giảng Truyện Kiều. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn,
Hà Nội, 2000.
122. Xuân Tửu. Chúng
tôi đọc anh Hoài Thanh. Văn nghệ, số 33, 1961.
123. Lưu Trọng Văn. Hoài
Thanh những ngày sắp đi xa. Hoài Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. NXB Hội nhà văn,
Hà Nội, 1995.
124. Lưu Trọng Văn. Hoài
Thanh với Lưu Trọng Lư. Nông nghiệp Việt Nam, 15/7/1999.
125. Lưu Trọng Văn. Không
chỉ “Thi nhân Việt Nam”. Kiến thức gia đình, số 122, 7/1999.
126. Huỳnh Khái Vinh. Hoài
Thanh như tôi đã hiểu. Với khát vọng Chân Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà Nội,
2000.
127. Hồ Sĩ Vịnh. Hoài
Thanh - đẹp vị nhân sinh. Văn hiến Việt Nam. Xuân Tân Tỵ, 1/2001.
128. Thuần Vũ. Đọc thêm
về Hoài Thanh qua “Bình luận văn chương”. Văn nghệ quân đội, số 20,
10/1998.
129. Nguyễn Như Thanh Xuân. Hoài
Thanh, nhà phê bình văn học. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, số 224, 14/5/1982.
130. Nguyễn Thị Thanh Xuân. Hoài
Thanh và “Thi nhân Việt Nam”. Tạp chí Văn học, số 7, 1999.
131. Nguyễn Thị Thanh Xuân. Nhìn
lại quan điểm nghệ thuật của Hoài Thanh giai đoạn 1932-1945. Với khát vọng
Chân Thiện Mỹ. NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.
ĐOÀN ĐỨC PHƯƠNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét