Nét chính của tư tưởng Nguyễn
Du qua truyện Kim Vân Kiều và ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo qua thi phẩm này
Về mặt lịch sử, thi hào Nguyễn
Du không vĩ đại như thiên tài Nguyễn Trãi, nhưng về mặt thi ca và tư tưởng,
Nguyễn Du là nhà thơ và nhà tư tưởng lớn của Việt Nam.
Truyện Kim Vân Kiều dù là
thi phẩm phỏng tác của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Hoa), đã bộc lộ những nét tư
tưởng nhân bản và thâm trầm của Nguyễn Du, thi phẩm đã nói lên thực trạng phân
hóa, suy yếu của Việt Nam vào thế kỷ 18, vừa tỏa ra những thao thức về thân phận
con người nói chung, và thân phận con người Việt Nam nói riêng, của một thiên
tài thi ca và tư tưởng.
Các nhà văn học đánh giá
khác nhau về các giá trị của truyện Kiều. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Du chủ
trương thuyết "thiên mệnh" của Nho giáo, hay thuyết "hồng nhan bạc
mệnh" hoặc "tài mệnh tương đố". Có ý kiến cho rằng Nguyễn Du giới
thiệu thuyết nhân quả và nghiệp báo của nhà Phật. Có ý kiến bảo Nguyễn Du nói về
khía cạnh bi kịch của một người đàn bà tài sắc trong xã hội phong kiến.
Các ý kiến trên đều phản ánh
được một mặt nào đó các triết lý của truyện Kiều.
Chúng tôi thiết tưởng cần ôn
lại cuộc đời Nguyễn Du và xã hội Việt Nam thế kỷ 18 trước khi đi vào việc nhận
ra tư tưởng đặc biệt của thi hào.
Nguyễn Du đã đọc kinh Kim
Cương của Đại thừa Phật giáo đến cả nghìn lượt. "Ngã độc Kim cương thiên
biến linh", theo các tài liệu văn học hiện hành, sau năm 1975,- sống đi
sâu vào các tầng lớp nhân dân, thể nghiệm sâu sắc thân phận con người. Do vậy,
nguồn cảm xúc của nhà thơ có chiều hướng đi vào phổ quát của thân phận con người
mà không dừng lại ở thân phận của Kiều, của bản thân, hay của người Việt Nam ở
thế kỷ 18. Tư tưởng Nguyễn Du bay vút lên cao và thoát ra khỏi cái khung trời
không gian và thời gian hạn hẹp của xã hội đương thời. Tiếng thơ Nguyễn Du vì vậy
thiết tha tình người, thiết thực và nhân bản! Hơn thế, tiếng thơ còn bay xa vào
vùng trời tâm lý, trí tuệ cao vời nữa.
Về "Hồng Nhan Bạc Mệnh":
Hồng nhan bạc mệnh là một sự
thật ở đời, qua các thời đại, do các lý do nội tại và ngoại tại, khách quan và
chủ quan dựng nên, như là:
-Xã hội phong kiến là xã hội
thiếu dân chủ, nếu không nói là không có dân chủ, luật pháp thì thiếu công
minh, không hợp lý, hợp tình, đề ra các bất công áp bức, theo đó nhan sắc và
tài ba dễ bị nhận chìm.
-Các nhà Nho với giáo dục
xem nhẹ giá trị của người phụ nữ, kỳ thị phái tính.
-Giai cấp thống trị chuyên
quyền, thao túng xã hội.
-Đạo đức luân lý của phong
kiến thì tù hãm, ước lệ. Xã hội phong kiến Việt Nam dưới thế kỷ 18 thì đầy dẫy
các nạn tham nhũng, buôn bán người, tứ đổ tường.
-Nhan sắc và tài ba vốn dễ
biến thành đối tượng để con người ganh ghét, đố ky.
Bên cạnh các lý do khách
quan và ngoại tại ấy, dục vọng, ái ân và những mong ước cao xa của các nhan sắc,
tài ba là lý do nội tại tạo nên những cơn sóng gió cuộc đời nhận chìm chính tự
thân họ.
Tất cả những lý do bên trong
và bên ngoài ấy đã viết thành bi kịch của con người, đặc biệt là của người đẹp
tài hoa. Tất cả những lý do ấy là những cung nhạc đã phổ thành khúc đoạn trường
15 năm của Kiều.
Thâm nhập giáo lý duyên sinh
và Kim Cương của Phật giáo, Nguyễn Du hẳn là thấy rõ ràng các lý do ấy, và xúc
động viết thành bản trường thi lỗi lạc "Đoạn trường tân thanh".
Hãy điểm lại các vần thi đoạn
trường bất hủ của nhà thơ:
-"Phận hồng han có mong
manh,
Nửa chừng xuân thoát, gãy cành thiên hương" (câu 65-66)
Nửa chừng xuân thoát, gãy cành thiên hương" (câu 65-66)
-"Lạ gì bỉ, sắc, tư,
phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" (5-6)
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" (5-6)
-"Rằng hồng nhan tự
nghìn xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu" (107-108)
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu" (107-108)
-"Đau đớn thay phận đàn
bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung" (83-84)
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung" (83-84)
-"Chữ tài chữ mệnh khéo
là ghét nhau" (câu 2)
-"Anh hao phát tiếng ra
ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa" (415-416)
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa" (415-416)
-"Sư rằng: phúc họa đạo
trời,
Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Có trời mà cũng có ta,
Tu là cội phúc, tình là giây oan" (2655-2658)
Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Có trời mà cũng có ta,
Tu là cội phúc, tình là giây oan" (2655-2658)
-"Thúy Kiều sắc sảo
khôn ngoan,
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
Lại thêm lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong" (2659-2662)
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
Lại thêm lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong" (2659-2662)
-"Xét trong tội nghiệp
Thúy Kiều,
Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm" (2681-2682)
Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm" (2681-2682)
-"Đã mang lấy nghiệp
vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" (3249-3252)
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" (3249-3252)
Tất cả các vần thơ vừa được
trích dẫn nói lên rõ ràng Nguyễn Du đã nhìn những biểu hiện nội tâm và ngoại tại
của Kiều dưới cái nhìn qui luật rất là "nhân quả và nghiệp báo" ấy,
nghiệp lực con người bao gồm nghiệp cũ và nghiệp mới, biểu hiện qua các mặt của
cuộc sống:
- Nhân quả ngoại giới.
- Nhân quả nội tâm.
- Nhân quả vừa nội tâm vừa ngoại giới.
- Nhân quả nội tâm.
- Nhân quả vừa nội tâm vừa ngoại giới.
-Và quan trọng nhất của giáo
lý nhân quả này, là yếu tố tâm lý quyết định tạo ra nghiệp nhân và thọ nhận
nghiệp quả của chính Kiều. Chính tâm lý của Kiều đón nhận các hậu quả của nghiệp
nhưng tâm lý đó vẫn có thể độc lập với ảnh hưởng của các hậu quả kia, và cả đến
có thể chuyển đổi các hậu quả của nghiệp ngay trong hiện thế, điều mà Nguyễn Du
bảo:
"Thiện căn ở tại lòng
ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" (3251-3252)
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" (3251-3252)
hay:
"Sư rằng: phúc họa đạo
trời
Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Có trời mà cũng có ta
Tu là cội phúc tình là dây oan" (2655-2658)
Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Có trời mà cũng có ta
Tu là cội phúc tình là dây oan" (2655-2658)
Trời, đó là quy luật nhân quả
khách quan, Ta, đó là trí tuệ, ý chí và tâm lý hiện tại của con người. Nếu tâm
lý ấy tự tại, giải thoát khỏi các trói buộc, thì đoạn trường dù có cũng như
không, hay đoạn trường có thể đoạn dứt.
Tư tưởng triết học và đạo lý
ấy xác định rõ trách nhiệm cá nhân của con người đối với chính mình mà không phải
là sức mạnh khác giữ vai trò quyết định hạnh phúc hay khổ đau của đời mình.
Hồng nhan bạc mệnh chỉ là hiện
tượng của nhân quả giới. Nội tâm của Kiều mới là yếu tố quyết định phổ hay
không phổ khúc đoạn trường. Đây là triết lý con người rất người, chỉ có con người
có thể làm chủ lấy cuộc đời mình.
Về Triết Lý Tình Yêu:
Từ thế kỷ 18 nhà thơ Nguyễn
Du đã có quan niệm rất đặc biệt về hôn nhân và tình yêu.
Kiều là hình ảnh đại biểu
cho tiếng nói tình yêu và tình người; Thúy Vân, em ruột của Kiều, thì đại biểu
cho tiếng nói của hôn nhân và gia đình.
Những bước đi tình cảm của
Kiều là những bước đi của tình yêu: của lòng trung trinh, của ray rứt nhớ
nhung, của những rung động mãnh liệt của con tim.
Lần đầu đến với tình yêu,
Kim Trọng, Thúy Kiều đã bước qua hàng rào ước lệ của luân lý phong kiến, cái ước
lệ "nam nữ thọ thọ bất thân" chật hẹp và thiếu chất người!
Thế là, Kiều đã nói lên tình
yêu là lẽ sống, nó có giá trị vượt lên trên các giá trị ước lệ. Người ta chỉ có
thể bước qua các giá trị ước lệ hạn hẹp, mà không thể bước qua lẽ sống thực của
con người.
Với Nguyễn Du, tình yêu có
lý lẽ riêng của nó, có những bước đi riêng của nó, có chổ đặt chân trên vùng đất
khu biệt của nó mà nếu bước qua (hay bước ra ngoài) thì tình yêu sẽ hóa kiếp,
như Kiều đã ngăn Kim Trọng trước dáng vẽ có chiều suồng sã của chàng.
Nguyễn Du xem tình yêu là phần
tinh anh của tâm hồn, còn thể xác chỉ là chiếc bóng của nó, như ý thơ này:
-"Như nàng lấy hiếu làm
trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay" (3119-3120)
Bụi nào cho đục được mình ấy vay" (3119-3120)
-"Chữ trinh còn một
chút này
Chẳng cầm cho vững lại dày cho tan" (3161-3162)
Chẳng cầm cho vững lại dày cho tan" (3161-3162)
Nhưng yêu là con người yêu,
yêu con người, và yêu cả con người (tinh thần và thể chất). Vì thế, Nguyễn Du
đã để Thúy Vân thay Thúy Kiều sống chung hợp, săn sóc Kim Trọng. Tình yêu còn
có nghĩa là hy sinh, Kiều vì thế mà bán mình chuộc cha, cứu em, Vương Quan, và
đã lạy cầu Thúy Vân thay mình chung sống với Kim Trọng.
Nguyễn Du cho thấy tình yêu
thì khác với dục vọng, khác với ham muốn thể chất:
"Cũng nhơ nhuốc lại bày
trò
Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi.
Người yêu ta xấu với người
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau" (3155-3159)
Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi.
Người yêu ta xấu với người
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau" (3155-3159)
Yêu là cùng nhìn về một hướng,
chổ gặp gỡ của hai tâm hồn:
"Hai tình vẹn vẻ hòa
hài
Chằng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thi.
Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên" (3221-3224)
Chằng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thi.
Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên" (3221-3224)
Thúy Kiều và Thúy Vân thực sự
là hai hình ảnh kết thành một con người mà Nguyễn Du đã khéo vẽ:
"Ba sinh đã phỉ mười
nguyền
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn này" (3125-3126)
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn này" (3125-3126)
Tình yêu đã được thi ca Nguyễn
Du vẽ ra tình người chân thật. Khi tình người đó hướng về mẹ cha, nó là hiếu,
khi hướng về người bạn đường trăm năm, nó là tình yêu; khi hướng về anh em, nó
là dễ; khi hướng về bà con, láng giềng, đồng bào, nó là nghĩa là nhân; khi hướng
về xứ sở, nó là trung.
Quan niệm đó của Nguyễn Du
đã vượt ra khỏi quan niệm chật hẹp cứng đờ của hiếu, trung, tình, nghĩa của Nho
giáo, giúp con người thoát khỏi nhiều bi kịch do mâu thuẩn giữa hiếu và trung,
giữa tình và hiếu, giữa tình và trungẨ gây ra.
Đây là triết lý đầy tình người,
rất là nhân bản của Nguyễn Du, con người rất Việt Nam vậy.
Về Triết Lý Giải Phóng Phụ Nữ:
Với quan niệm của các nhà
Nho xưa, phụ nữ bị đóng khung trong "tam tòng" (tại gia tòng phụ, xuất
giá tòng phu, phu tử tòng tử: ở nhà thì theo cha, đi lấy chống thì theo chồng,
chồng chết thì theo con) và "tứ đức" (công, dung, ngôn, hạnh).
Nguyễn Du đã phá đổ chiếc
khung cũ kỷ ấy, giới thiệu nàng Kiều, người đẹp giỏi cầm, kỳ, thi, họa và kiêm
thạo cả tửu, giới thiệu Hoạn Thư khôn nước hơn Thúc Sinh:
-"Anh hoa phát tiếng ra
ngoài,
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen"
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen"
-"Thấp cơ thua trí đàn
bà,
Trông vào đau ruột, nói ra ngại lời" (1947-1948)
Trông vào đau ruột, nói ra ngại lời" (1947-1948)
-"Người đâu sâu sắc bước
đời,
Mà chàng Thúc phải ra người bó tay".(2007-2008)
Mà chàng Thúc phải ra người bó tay".(2007-2008)
Nhà thơ lỗi lạc ấy đã muốn
giải phóng phụ nữ, giới thiệu phụ nữ đi vào nhiều lãnh vực của xã hội.
Và tháo gỡ cái quan niệm chật
hẹp, phi lý về chữ trinh cũ:
-"Xưa nay trong đạo đàn
bà,
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường" (3115-3116)
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường" (3115-3116)
-"Như nàng lấy hiếu làm
trinh,
Bụi nào cho đực được mình ấy vay" (3119-3120)
Bụi nào cho đực được mình ấy vay" (3119-3120)
Cái nhìn đầy nhân ái và trí
tuệ ấy của Nguyễn Du là cái nhìn giá trị mới đầy tính người, giải phóng con người
ra khỏi vùng giá trị cũ kỷ của Nho học.
Về Tòa Án Nhân Dân Đầu Tiên
Của Việt Nam:
Sự xuất hiện của nhân vật
anh hùng Từ Hải như là sự xuất hiện của một tòa án nhân dân xử các tội phạm
phong kiến và các tội phạm do chế độ phong kiến bệ rạc đẻ ra. Trong phiên tòa xử
Tú bà, Mã Giám Sinh và Hoạn Thư, Kiều vốn là nạn nhân trở thành quan tòa. Tiếng
nói của quan tòa này hẳn là chính xác, công minh. Đây là tiếng nói đích thực của
nhân dân vừa công bình, vừa nhân ái.
Với Hoạn Thư, Kiều phán:
-"Tha ra thì cũng may đời
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên,
Truyền quân lệnh xuống trướng liền tha ngay" (2374-2378)
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên,
Truyền quân lệnh xuống trướng liền tha ngay" (2374-2378)
Với Tú Bà và Mã Giám Sinh, nàng
truyền:
-"Tú Bà cùng Mã Giám
Sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao?
Mệnh quân truyền xuống khai đao
Thế sao thì lại cứ sao gia hình" (2385-2388)
Các tên tội ấy đáng tình còn sao?
Mệnh quân truyền xuống khai đao
Thế sao thì lại cứ sao gia hình" (2385-2388)
Với hai phiên tòa nhân dân ấy,
Nguyễn Du, một thiên tài thi ca và tư tưởng, đã nói lên khát vọng thống thiết về
một xã hội nhân bản, hợp lý dựng xây trên công bằng, nhân ái, trên nền tảng giá
trị con người vì an lạc và hạnh phúc cao cả của con người - mỗi người và mọi
người.
Về Triết Lý Hành Động:
Nguyễn Du, với trí tuệ và
kinh nghiệm sống, đã đưa ra một triết lý sống, hành động rất người và rất giá
trị. Trong ý nghĩa tương đối của thế giới hiện tượng, con người và hạnh phúc của
con người là giá trị cao quí và là giá trị chuẩn. Các giá trị khác xoay quanh
giá trị chuẩn ấy. Trong trường hợp phải lựa chọn, thì con người và hạnh phúc
con người không phài là giá trị phải hy sinh.
Con người phải sống, và sống
với giá trị làm người của nó. Nguyễn Du đã để Kiều phấn đấu với 15 năm đoạn trường,
duy chỉ một lần quyết định trầm mình, nhưng đó chỉ là sự sắp đặt của nhà thơ với
thái độ tương nhượng với giá trị cũ, rữa sạch bụi quá khứ: Nguyễn Du đã để vải
Giác Duyên chờ sẳn để cứu nàng. Kiều sống có nghĩa là các giá trị ước lệ cũ phải
ra đi. Triết lý ở đây là con người sống để xây dựng các giá trị, chứ không phải
vì các (giá trị) ước lệ giá trị mà hy sinh con người. Nguyễn Du viết:
-"Vâng rằng bỉ thử nhất
thì
Tu hành thì cũng có khi tùng quyền" (3051-3052)
Tu hành thì cũng có khi tùng quyền" (3051-3052)
-"Xưa nay trong đạo đàn
bà
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường.
Có khi biến có khi thường
Có quyền nào phải một đường chấp kinh" (3115-3118)
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường.
Có khi biến có khi thường
Có quyền nào phải một đường chấp kinh" (3115-3118)
Khi con người nắm vững trục
giá trị, như Kiều giữ tấm lòng trinh, lòng hiếu, thì tùy duyên mà hành xử.
Triết lý hành động đó gọi là
"tùy duyên nhi bất biến" hay "dĩ bất biến ứng vạn biến".
Với triết lý hành động này,
các quan niệm cố chấp, bảo thủ về giá trị đều trở nên xa lạ; bảo thủ, cố chấp,
bấy giờ chỉ là:
"Rằng hay thì thật là
hay,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào" (489-490)
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào" (489-490)
Ngày nay ai sẽ là những người
chia sẽ với quan niệm giá trị sống hành động của Nguyễn Du ? Ai sẽ là người cảm
thông với nổi niềm ấy ("nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào") của Nguyễn
Du, như là chính Nguyễn Du đã dự liệu (hay đúng hơn, là nghi ngờ)?
"Bất tri tam bách dư
niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như"
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như"
Về Những ảm hưởng Của Phật
Giáo Trong Thi Ca Truyện Kiều:
Ngoài việc chịu ảnh hưởng
thuyết nhân quả và nghiệp báo nhà Phật, Nguyễn Du còn viết ra những vần thơ đầy
âm hưởng Phật giáo. Ngôn ngữ thi ca vốn đã là rất biểu tượng, ngôn ngữ thi ca
Nguyễn Du còn biểu hiện trừu tượng hơn. Nguyễn Du ngoài rung cảm thi ca, còn có
rung cảm trí tuệ Phật giáo. Nhà thơ núi Hồng Lĩnh đã nói đạo Phật bằng tiếng
nói của trái tim trần thế. Vần thi gợi lên ý ấy trong cảm nhận của người viết
trước tiên là:
"Ai ngờ lại hợp một nhà
Lựa là chăng gối mới ra sắc cầm" (3177-3178)
Lựa là chăng gối mới ra sắc cầm" (3177-3178)
Mười lăm năm đoạn trường là
một bài học về "khổ đế" mà nguyên nhân của nó, vừa hợp với giáo lý Tứ
đế vừa hợp với tinh thần giới luật nhà Phật, là lòng khát ái, dục ái:
"Xét trong tội nghiệp
Thúy Kiều
Mắc điều tình ái, khỏi diều tà dâm" (2681-2682)
Mắc điều tình ái, khỏi diều tà dâm" (2681-2682)
hay: "Tu là cội phúc,
tình là dây oan".
-Với Phật giáo (tiêu biểu
như các câu 1 và 2 trong kinh Pháp Cú) thì tâm làm chủ, tâm tạo tác các nghiệp
thiện và ác và sẽ nhận lấy quả báo tương ứng về sau. Với Kiều, tâm cũng quyết định
vui buồn và giá trị của đời sống:
-"Người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ".
-"Chữ trinh còn một
chút này
Chẳng cầm cho vững, lại dày cho tan" (3161-3162)
Chẳng cầm cho vững, lại dày cho tan" (3161-3162)
hay "chữ tâm kia mới bằng
ba chữ tài".
-Với Phật giáo, người Phật tử
mộ đạo, mến đạo, quyết tâm sống đạo mà nếu không hiểu đạo, không có chánh kiến
thì càng làm cô phụ giáo lý giải thoát mà thôi.
Âm hưởng giáo lý đó lại vọng
vào trong vần thơ tái hợp mà không tác hợp của Kiều:
"Người yêu ta xấu với
người
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau"
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau"
Ngay cả giáo lý Phật giáo
minh bạch thế mà nếu hành giả chấp thủ nó (chấp giới, chấp định, chấp tuệ, như
kinh Xà Dụ trình bày) thì sẽ rơi ngay vào cảnh:
"Yêu nhau thì lại bằng
mười phụ nhau"
- Phật giáo, tiêu biểu như
phẩm kinh Hạt Muối, Tương Ưng bộ kinh, bảo rằng người với tâm từ bi rộng lớn
thì hầu như không chịu hậu quả của các việc làm nhỏ bị sai trái. Với Kiều thì
Nguyễn Du xác định:
"Như nàng lấy hiếu làm
trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay" (3119-3120)
Bụi nào cho đục được mình ấy vay" (3119-3120)
- Kinh Kim Cương Bát Nhã, một
kinh nổi tiếng của Đại Thừa, thì nhìn mọi hiện hữu đều do duyên sinh, chúng là
không có tự ngã, thực sự ở ngoài các giá trị cấu, tịnh, thiện, ác, thị, phiẨ..
chúng không thật sự gây trở ngại đến vấn đề tự do, giải thoát của con người. Trở
ngại giải thoát là nằm ở tâm con người, ở lòng tham ái, chấp trước của con người.
Tư tưởng này như là có chuyển âm hưởng của nó vào vần thi:
"Duyên kia có phụ chi
mình
Mà toan chia gánh chung tình làm đôi" (3989-3990)
Mà toan chia gánh chung tình làm đôi" (3989-3990)
- Với người Phật tử, khi tâm
tham ái, chấp trước được khóa chặt, được kiểm soát, thì các hành động thân, khẩu,
ý trở thành các hành động giải thoát hết thảy. Với Kiều, sau những ngày tháng
đoạn trường thì:
"Từ ngày khép cửa phòng
the
Chẳng tu thì cũng như tu mới là" (3107-3108)
Chẳng tu thì cũng như tu mới là" (3107-3108)
- Người tu tập đạo Phật, đặc
biệt là các bậc Thánh hữu học, dù tâm đã tỏ tường đạo lý, tỏ tường sự thật của
mọi hiện hữu, nhưng tập quán sinh tử vẫn còn vương vấn thân sắc, có khi còn
vương vấn cõi lòng. Nguyễn Du lại diễn đạt một tâm trạng của Kiều sao mà nghe
như động đến tâm hồn của một thiền sư vậy, khi nhà thơ viết:
"Tiếc thay chút nghĩa
cũ càng
Dù lìa ngó ý, còn vương tơ lòng" (2241-2242)
Dù lìa ngó ý, còn vương tơ lòng" (2241-2242)
- Nhưng khi mà thiền sư đã hất
đổ hết các vọng tưởng, đốt cháy hết sầu, bi thì quả là giờ phút đại phúc, nghe
như vừa dựng đứng dậy cả khung trời giải thoát, bởi vì bấy giờ thiền sư đã phá
tan hết sương vô minh đã nhiều đời che khuất ngõ ý và làm tan hết mây dục vọng
đã nhiều đời giăng bít trời tâm. Nguyễn Du đã chuyển qua Kiều một cảm xúc của thời
kỳ hội ngộ như là cảm xúc của một thiền sư đang đối diện với giải thoát:
"Trời còn dễ có hôm nay
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời" (3121-3122)
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời" (3121-3122)
Thơ của Nguyễn Du nghe ra vừa
thơ vừa đạo suốt cả tâm sự Thúy Kiều. Nếu bạn tìm hiểu kỹ giáo lý nhà Phật rồi
đọc lại thi phẩm tuyệt tác Kim Vân Kiều bạn sẽ bắt gặp rất nhiều, nhiều lắm,
các vần thơ lồng ý đạo. Thi ca của thiên tài Nguyễn Du nhu hình thành một lúc
hai bè nhạc: một bè của khúc đoạn trường, bè kia là âm vang của trí tuệ giải
thoát.
Chơn Thiện
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét