Nguyễn Du và Truyện Kiều
qua
cái nhìn của Chế Lan Viên
Trong tất cả các nhà thơ hiện
đại Việt Nam, so với cùng thời như Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, thì Chế
Lan Viên là người đã dành nhiều cảm hứng nghệ thuật cho thi hào Nguyễn Du và kiệt
tác Truyện Kiều hơn cả. Một đời làm thơ, ở vào những thời điểm sáng tác khác
nhau, Chế Lan Viên đã viết hơn 40 bài về Nguyễn Du và Truyện Kiều.
1- Nguyễn Du, Anh là ai?
Nguyễn Du, Anh là tấm lòng. Chế
Lan Viên là người đầu tiên gọi Nguyễn Du là Anh, một đại từ nhân xưng, viết
hoa, trang trọng, thương yêu và chia sẻ. Xưa nay, ta chỉ thấy người đời gọi
Nguyễn Du là Cụ, là thi hào, là Tiên Điền, là Thanh Hiên, thì với Chế Lan Viên,
một tấm lòng đồng cảm, sâu lắng, kính cẩn:
- Anh sinh vào thế kỷ nhiều
tà huy mưa bụi
Quờ tay ra không người đồng điệu nằm bên
Nỗi đau Anh trùng với nỗi đau nhân loại
Mượn câu Kiều hóa thạch cuộc đời riêng...
Quờ tay ra không người đồng điệu nằm bên
Nỗi đau Anh trùng với nỗi đau nhân loại
Mượn câu Kiều hóa thạch cuộc đời riêng...
(Nghĩ thêm về Nguyễn)
- Trong trăm trứng Âu Cơ,
Anh trứng lép
Mẹ xót thương đã ủ hết lòng
Chung một chất chia đều cho nhân loại
Anh nở ra thành một thi nhân.
Mẹ xót thương đã ủ hết lòng
Chung một chất chia đều cho nhân loại
Anh nở ra thành một thi nhân.
(Gửi Nguyễn Du)
Thế kỷ Nguyễn Du, nói nhà
thơ Huy Cận, “Cha ông năm tháng đè lưng nặng/ Những bạn đương thời của
Nguyễn Du” (Các vị la hán chùa Tây Phương), một “xã hội quằn quại đau khổ
trong nhiều biến động và bế tắc không tìm được lối ra”. Không biết bao
nhiêu những biến thiên lịch sử đã diễn trong suốt thế kỷ XVIII, XIX. Vì vậy,
nỗi đau nhân thế và lòng tin bất tận vào phẩm giá con người nơi Nguyễn Du luôn
như vầng trăng vằng vặc, tỏa sáng bao kiếp người, bao cảnh đời:
Chạnh thương cô Kiều như đời
dân tộc
Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên
Cành xuân phải trao tay khi nước mất
Cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên...
Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên
Cành xuân phải trao tay khi nước mất
Cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên...
Nguyễn Du từng viết: Của
tin gọi một chút này làm ghi... Nguyễn Du đồng hành cùng dân tộc và đất nước.
Chế Lan Viên khi viết về quá khứ, có cái nhìn riêng, không giống các nhà thơ
cùng thời. Nhà thơ vừa thấy cả những phút bi tráng và những giờ sáng rỡ của dân
tộc, thấy Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn, nhưng cũng thấy Cả
dân tộc đói nghèo trong rơm rạ/ Văn chiều hồn từng thấm giọt mưa rơi, thấy:
Gió mùa thu xào xạc hoa lau
Anh qua nhà của Nguyễn chẳng dừng lâu
Nhớ đến Nguyễn ngước nhìn Hồng Lĩnh vậy
Bến phà Vinh bom “cắt” hai đầu...
Anh qua nhà của Nguyễn chẳng dừng lâu
Nhớ đến Nguyễn ngước nhìn Hồng Lĩnh vậy
Bến phà Vinh bom “cắt” hai đầu...
(Gửi Kiều năm em đánh Mỹ)
Ta bắt gặp nhiều hình tượng
thơ Chế Lan Viên ẩn chứa những phát hiện đột khởi, bất ngờ, lý thú. Chẳng có Ôn
Như Hầu, Nguyễn Du, Yên Đỗ, Tú Xương, Hoàng Hoa Thám đồng thời với chúng ta,nhưng
thiếu các Anh là điều không thể được - Chính từ nỗi đau xưa mà ta mở cuộc hành
trình. Chế Lan Viên nghĩ về dân tộc mình với những suy tưởng triết lý: “Dân
tộc trầm luân trong sóng Tiền Đường”.
Phải là một tâm sự lớn của một
nhà tư tưởng lớn mới nghĩ ra như Chế Lan Viên.
Nói về đất nước, nhà thơ viết
nên những dòng thơ cảm động, tinh tế, thắm đượm hơi thở dân tộc:
Ta đã yêu Việt Nam đẹp, Việt
Nam thơ, bát ngát câu Kiều, bờ tre, mái rạ
Mái đình cong cong như bàn tay em gái giữa đêm chèo
Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xẩm xoan, cò lả
Cái đôn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo...
Mái đình cong cong như bàn tay em gái giữa đêm chèo
Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xẩm xoan, cò lả
Cái đôn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo...
(Thời sự hè 72 - Bình luận)
Nguyễn Du, Anh là Nguyễn của
ngàn lau sắc trắng, nối liền hơi bề dọc thời gian: quá khứ-hiện tại, dân tộc -
thời đại.
Trong bài thơ Nghĩ thêm
về Nguyễn, Chế Lan Viên đã viết: Ta yêu những hịch, những Bình Ngô gọi
lòng ra hỏa tuyến/ Nhưng không quên ngọn lau trắng bên đường Kiều thổi tự xa
xưa”.
Hình tượng “hoa lau trắng”
như biểu tượng của một Nguyễn Du trắng đêm với màu tóc bạc, thức cùng bao nỗi
buồn nhân thế. Lau là loại thân mềm, cành ra hoa trắng muốt, phất phơ giữa gió
ngàn. Lau sống cuộc đời hữu hạn, chết đi sau mùa đông hay mùa hạ, ngắn ngủi như
kiếp người. Blaise Pascal (1623-1662), nhà toán học, vật lý và
triết gia Cơ Đốc người Pháp, có nói, “người là cây sậy yếu đuối”.
Hình tượng này, với Chế Lan
Viên, là sự hữu hạn của đời người, là “thời gian nước xiết”:
Man mác hoa lau trắng
Đường về thăm Nguyễn Du
Ngàn lau từ Nguyễn thấy
Bạc xóa đến bây giờ
Đường về thăm Nguyễn Du
Ngàn lau từ Nguyễn thấy
Bạc xóa đến bây giờ
(Hoa lau trắng)
2- Mỗi trang Kiều rung một
bóng trăng thanh
Truyện Kiều là tiếng
lòng của Nguyễn Du, một Tiếng kêu đứt ruột “đoạn trường tân thanh” về một cuộc
đời, một thân phận ba chìm bảy nổi của Kiều, song, cũng đồng thời, đó là nỗi thống
khổ của bao phận người trong xã hội, không chỉ: “Đau đớn thay phận đàn bà”. Tiếng
kêu thương ấy là niềm thương cảm lớn của một trái tim:
Ngọn đèn khêu tỏ
Tôi nghiêng xuống bên đèn và lần đọc: “Trăm năm...”
Sông Tiền Đường chăng? Cỏ Đạm Tiên chăng?
Hay cỏ áy bóng tà, tà huy lịch sử?
Tôi nghiêng xuống bên đèn và lần đọc: “Trăm năm...”
Sông Tiền Đường chăng? Cỏ Đạm Tiên chăng?
Hay cỏ áy bóng tà, tà huy lịch sử?
(Thơ bình phương - Đời lập
phương)
Truyện Kiều, một kiệt
tác văn chương của dân tộc, luôn là lực hút trong sáng tạo thơ ca của Chế Lan
Viên. Nhà thơ cảm nhận đó là vết thương lòng ta phí máu (Các Anh xưa
- Hái theo mùa) nhưng cũng thấy cả hồn cha ông trong Truyện Kiều, Chinh phụ...
Ta nhớ Tố Như đọc chậm lại
KIỀU
Đọc chậm từng vầng trăng, từng nỗi buồn ly biệt
Đọc chậm từng vầng trăng, từng nỗi buồn ly biệt
(Thơ bình phương - Đời lập
phương)
Chế Lan Viên có nhiều bài,
nêu trực tiếp tên tác phẩm, như Đọc Kiều, Gửi Kiều cho em năm đánh Mỹ, Kỷ
niệm Nguyễn Du, Đọc Kiều (2 và 3), Đọc Kiều một ngày kia, Kỷ niệm
Nguyễn Du,...
Với nhiều góc độ, Chế Lan
Viên nhận ra, Truyện Kiều, tác phẩm văn chương đó bằng những triết luận:
- Lệ ta nhỏ trên Kiều ba
trăm năm sau
Ích cho Nguyễn ba trăm năm trước
Ông vui thấy ta còn biết khóc
Giữa cuộc đời chưa hết bể dâu.
Ích cho Nguyễn ba trăm năm trước
Ông vui thấy ta còn biết khóc
Giữa cuộc đời chưa hết bể dâu.
- Nghĩ xem giữa bốn bể, muôn
trùng, mây bay, nước xiết
Mà ngẫm lại cuộc đời
Quá đỗi phù du...
Mà ngẫm lại cuộc đời
Quá đỗi phù du...
(Kiều)
Chế Lan Viên là người nhận
ra sức mạnh của truyền thống, sức mạnh của nền văn hóa dân tộc, vì thế, có sự đồng
điệu giữa xưa và nay:
Tôi hiểu vì sao trong xà lim
án chém
Lý Tự Trọng trưa nao còn đọc trang Kiều
Lý Tự Trọng trưa nao còn đọc trang Kiều
(Đọc Kiều)
Chế Lan Viên là nhà thơ, với
chân cảm và tiên lượng của mình, nhận ra nhiều chân trời mới của Truyện Kiều, về
sau này, lý thuyết tiếp nhận văn học đã chứng minh:
Một ngày kia Truyện Kiều mới
phóng ra hết lượng tử của mình
Những vỉa thơ nhân loại quên đi, và phát hiện ra những hồn thơ ẩn náu
Hồn ta ơi ! Hôm nay ngươi thanh bình mà ngày mai giông bão
Trong câu Kiều xưa, ta tìm ra Nguyễn Du mà tìm cả chính mình.
Những vỉa thơ nhân loại quên đi, và phát hiện ra những hồn thơ ẩn náu
Hồn ta ơi ! Hôm nay ngươi thanh bình mà ngày mai giông bão
Trong câu Kiều xưa, ta tìm ra Nguyễn Du mà tìm cả chính mình.
(Đọc Kiều, một ngày kia, Di
cảo thơ, tập II)
Truyện Kiều được dịch
ra nhiều thứ tiếng. Điều ấy, Nguyễn Du không ngờ. Vầng trăng trong thơ
ông đã “Qua các biên thùy ngôn ngữ/ Cỏ non trong thơ ông/ Ra ngoài thế kỷ
vẫn còn xanh/ (Kỷ niệm Nguyễn Du).
Bên đèn, Ta biết ơn Nguyễn
Du từng lời, từng chữ
Hiểu mỗi giọt lệ thơ kia chảy tự trái tim nào?
Hiểu mỗi giọt lệ thơ kia chảy tự trái tim nào?
(Thơ bình phương - Đời lập
phương)
Kỷ niệm 250 năm ngày sinh
Nguyễn Du, đọc lại những bài thơ Chế Lan Viên viết về Nguyễn Du và Truyện
Kiều, nói như nhà thơ, “Những kỷ niệm Nguyễn Du chỉ thỏa lòng ta thôi” (Kỷ niệm
Nguyễn Du), để “Cho nghìn năm sau vầng trăng tiếng Việt mãi còn” (Nghĩ thêm về
Nguyễn).
Một đời thơ, với những suy
nghiệm sâu xa về Nguyễn Du và Truyện Kiều, Chế Lan Viên đã gửi vào văn học
một tiếng nói đầy suy tư, đậm chất triết học, lay động lòng người về một thi
hào, một kiệt tác của dân tộc.
HUỲNH VĂN HOA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét