Tuổi 20, tôi học Trường Bưởi,
Ban Tú tài triết học, thầy dạy Triết là Foulon. Ông rất ca ngợi Pascal và cho
chúng tôi học thuộc lòng một số đoạn văn của triết gia công giáo Pháp thế kỉ 17
này. Mấy chục năm sau, tôi đi chữa bệnh ở Berlin (CHDC Đức), tình cờ trong giá
sách của phòng nằm, tôi gặp lại cuốn Những điều suy nghĩ tiếng Pháp của Pascal.
Rỗi rãi, tôi có thì giờ đọc toàn tập và suy ngẫm, hiểu thêm ít nhiều về Pascal.
Ít nhiều thôi, vì đến như triết gia lỗi lạc Bergson, Giải thưởng Nobel Văn học
năm 1982, còn phải nói là “Những máy đo lường của chúng ta quá ngắn để ước lượng
được chiều sâu tư duy của Pascal”. Pascal và Descartes đã đề ra hai hình thức
tư duy mà trí thức hiện đại luôn chia sẻ.
Hai cực tư tưởng của Pháp và
có thể của con người nói chung: Descartes tìm ra một “phương pháp luận” lý
tính. Đối trọng là Pascal, triết gia tôn giáo thần bí, dựa vào tâm linh mà cảm
thông với cái siêu nhiên.
Bergson đánh giá hình thức
tư duy của Pascal sâu đậm hơn. Trong hoàn cảnh đảo điên ở mọi lĩnh vực, kỹ trị,
sự đối lập khoa học, đạo đức, sự khủng hoảng của văn minh phương Tây ta mới thấy
rõ chiều sâu của Pascal: không những văn chương lôi cuốn mà tư duy sắc bén, băn
khoăn siêu hình về số phận con người trước vũ trụ và cái chết. Ông được coi là
tổ sư của chủ nghĩa hiện sinh, trước cả triết gia Đan Mạch Kierkegaard (đầu thế
kỉ 19).
Pascal sinh ra trong một gia
đình chức sắc khá giả. Tuổi trẻ, ông đã nổi tiếng là một thần đồng khoa học, 12
tuổi đã tự tìm ra 32 tiền đề toán học của Euclide, 16 tuổi đã đưa ra định lý mới
về hình chóp, 18 tuổi đã chế tạo ra chiếc máy tính đầu tiên. Về sau, ông có những
phát hiện vật lý về áp suất không khí và chân không. Ông đã giao lưu ở các
phòng khách thượng lưu nên hiểu rõ tâm lý xã hội. Đột nhiên, năm 31 tuổi, thoát
chết trong một tai nạn xe cộ, ông giác ngộ đạo Thiên Chúa. Ông theo phái
Janssen (Port Royal) chống lại dòng Tên (Jesuits...) quá ư chính thống và quá gắn
với lý tính cùng trần tục. Ông dùng trước tác của mình để người không theo đạo
thấy cái cao cả của đạo.
Tập Những điều suy nghĩ
(Pensée) là một tác phẩm triết học và văn chương bậc thầy. Bên cạnh những vấn đề
thần học, trước tác nêu một cách sinh động các vấn đề về phận người (người từ
đâu ra, đi đến đâu, con người đối với vũ trụ, tại sao có thiện, ác, cái chết,
có hồn không? Rồi ý nghĩa cuộc đời...), những vấn đề mà con người ở thời nào,
nơi nào cũng phải đặt ra khi tách khỏi miếng cơm, lợi danh và chính trị...
Sau đây là môt số suy nghĩ của
Pascal:
- Cảm tình và ghét bỏ làm
thay đổi bộ mặt của công lý. Và luật sư được trả tiền hậu hĩnh trước khi ra tòa
sẽ thấy mình biện hộ đúng hơn biết bao nhiêu.
- Nếu muốn người khác nghĩ tốt
về mình, thì đừng nói tới những cái tốt của mình.
- Hãy cân nhắc cái được và
cái mất (hãy tin là có Chúa). Nếu ta được, thì được tất. Nếu có mất thì cũng chẳng
mất gì. Vậy đừng chần chừ, cứ đánh cuộc là có Thượng đế.
- Con người chỉ là một cây sậy,
sinh vật yếu nhất trong tự nhiên, nhưng đó là cây sậy biết nghĩ (...). Nhưng
khi vũ trụ đè bẹp con người thì con người vẫn cao cả hơn cái giết hại hắn, vì hắn
có ý thức là hắn chết, còn vũ trụ không ý thức được điều hơn hắn.
- Con người không phải là
thiên thần mà cũng không phải là con vật. Cái tai hại là ai muốn làm thiên thần
thì lại đi làm con vật.
- Sự im lặng vĩnh cửu của những
không gian vô tận kia làm cho tôi khiếp sợ.
- Nếu mũi của Nữ hoàng
Cléopactra ngắn đi một chút thì bộ mặt của Trái đất hẳn là đã khác.
- Trái tim có những lý lẽ
riêng của nó mà lý trí không hề biết.
- Cần phải tự biết mình; nếu
điều đó không dùng để tìm ra chân lý thì ít nhất cũng giúp ta điều chỉnh cuộc sống.
- Khi ta bắt gặp một văn
phong tự nhiên, ta hết sức ngạc nhiên và thích thú, vì ta đã chờ đợi một tác giả
mà lại thấy một con người.
Trong tập Suy nghĩ, có một số
luận điểm nổi tiếng:
- Luận điểm Hai vô cực (Les
deux infinis): con người làm sao mà hiểu được khoa học bằng lý tính và khoa học.
Con người bồng bềnh giữa hai vô cực. So với mặt trời, các tinh tú, vũ trụ, con
người chưa được là hạt bụi; óc tưởng tượng không quan niệm nổi cái “vô cực lớn”
như thế nào, cũng như cái vô cực nhỏ (con mọt, chân của nó, máu của nó, nguyên
tử nhỏ như thế nào...). Ngẫm hai vực thẳm ấy mà khiếp sợ. “Vì, rốt cuộc, người
là gì trong thiên nhiên? Một hư vô đối với vô cực, một điểm giữa không có gì và
tất cả. Người không tài nào hiểu nổi những đầu nút? Mục đích và nguyên tắc của
sự vật ẩn giấu vững chắc trong một sự bí mật không thể khám phá được.
- Luận điểm Cây sậy biết
nghĩ (Le roseau pensant): con người là sinh vật cơ cực về hồn và xác, nhưng lại
vĩ đại. “Con người chỉ là một cây sậy, sinh vật yếu nhất trong tự nhiên, nhưng
đó là cây sậy biết nghĩ. Vũ trụ không cần huy động toàn lực để bóp chết nó: một
chút hơi, một giọt nước cũng đủ giết chết nó. Nhưng ngay cả khi vũ trụ bóp chết
nó, con người vẫn cao cả hơn cái giết chết nó, vì nó biết là nó chết, và nó biết
cái mà vũ trụ hơn nó, còn vũ trụ thì không biết gì về điều đó”.
- Luận điểm Sự đánh cuộc (Le
pari): Lý tính không thể chứng minh là có Thượng đế, có đời sống bất tử được
hay không. Trong khi lưỡng lự nên đánh cuộc là có Thượng đế, có linh hồn bất tử,
vì nếu thua cuộc thì chỉ mất một cuộc đời trần gian ngắn ngủi và khổ sở, nếu được
thì được cả Thiên đường vĩnh cửu.
- Luận điểm Giải trí
(Divertissement): Do bản chất con người luôn luôn đau khổ hoặc buồn chán... Dù
đau khổ đến đâu, dù bị tang tóc..., cứ giải trí lăng nhăng là khuây khỏa chốc
lát. Giải trí để quên nghĩ đến mình, đến cái cơ cực của thân phận con người, tất
cả hoạt động của con người đều có ý nghĩa ấy.
Hữu Ngọc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét