Nỗi buồn (Tristesse de Chopin,
etudes en e major) or no other love
Frédéric
Chopin (1810 - 1849)
Frédéric Chopin (1810 - 1849), tên đầy đủ là Frédéric François Chopin hay tên Fryderyk
Franciszek Chopintheo nguyên gốc Balan. Ông là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ piano vĩ
đại Ba Lan và Thế Gới, người sáng lập âm nhạc kinh điển, cũng là một trong sáu
nhạc sĩ nổi tiếng cùng thời: Mendelssohn, Schumann, Liszt, Wagner và Verdi.
FRÉDÉRIC CHOPIN (1810 –
1849)
Thời niên thiếu của Frederic
F. Chopin
Frédéric Chopin được gọi là
“nhà thi sĩ” của cây đàn dương cầm. Nghệ thuật âm nhạc của Chopin là trái tim của
thời kỳ âm nhạc lãng mạn và nhờ Chopin, đàn dương cầm đã đạt được thời kỳ vàng
son rực rỡ.
Mẹ của Chopin là người Ba Lan, một người có giáo dục cao, thuộc gia đình quý tộc Skarbek nhưng đã bị sa sút và ông Nicholas đã là phụ giáo cho gia đình này. Cậu bé Frederic đã tiếp thu được một nền giáo dục căn bản tốt đẹp và đã được học âm nhạc với nhạc sĩ Joseph Elsner, vị sáng lập và cũng là giám đốc của Nhạc Viện Warsaw mới được thành lập. Năm lên 7 tuổi, Frederic đã sáng tác nhạc và nhạc bản đầu tiên đó đã được trình diễn nơi công cộng. Năm sau, Frederic cũng đã biểu diễn âm nhạc trước công chúng bằng bản Concerto của Adalbert Gyrowetz.
CĂN NHÀ NƠI SINH CHOPIN
TẠI
ŻELAZOWA WOLA – BA LAN
Năm 1826, Frédéric Chopin là
sinh viên chính thức của Nhạc Viện Warsaw nhờ đó đã học hỏi được căn bản về nhạc
lý, hòa âm và đối điểm. Chopin cũng làm quen với các nhạc phẩm của nhiều nhạc
sĩ rồi từ đó đã sáng tác ra các biến khúc (variations) từ những ảnh hưởng của
nhạc bản Don Giovanni của Wolfgang A. Mozart.
Nhạc phong của Chopin từ lúc
đầu đã mang âm vẻ đặc biệt, khiến cho vị giáo sư âm nhạc là ông Elsner không muốn
ép buộc môn đệ đi vào khuôn mẫu cổ điển và đã cho phép chàng nhạc sĩ trẻ tuổi
này hoàn toàn tự do để phát triển những nét nhạc đặc sắc cá nhân.
Chopin là một nhạc sĩ trẻ tuổi
tài hoa và cũng sớm đa tình. Trong các năm còn là sinh viên âm nhạc, Chopin đã
say đắm cô ca sĩ trẻ trung tên là Constantia Gladkowska, người đã gây nên trong
nội tâm của chàng nhạc sĩ “nước mắt và tiếng thở dài”, thứ lãng mạn phổ thông của
thế kỷ 19. Chính trong hoàn cảnh đam mê này, Chophin vào tuổi 19 đã viết nên phần
Adagio của Concerto cung Fa thứ vì nghĩ tới nàng ca sĩ trẻ đẹp đó.
Năm 1828, nhạc sĩ sáng tác
kiêm dương cầm tên là Johan Nepomuk Hummel, người thành phố Vienna, đã viếng
thăm Warsaw và đã trình diễn các nhạc kịch kiểu Ý (Italian opera). Chopin nhờ
thế làm quen được với nền âm nhạc của thế giới tây phương thời bấy giờ. Sau đó,
Frédéric Chopin đã tới thăm thành phố Berlin, được nghe các nhạc phẩm của
George Frederick Handel và của Felix Mendelssohn rồi lúc trở về Warsaw, lại được
nghe Niccolo Paganini trình diễn âm nhạc. Tới lúc này Chopin cảm thấy rất cần
phải ra khỏi nước Ba Lan. Cha của chàng xin chính phủ trợ cấp cho việc du học
nhưng lời yêu cầu bị khước từ, vì thế Chopin đã tự túc ra đi, tới thành phố
Vienna để dàn xếp việc xuất bản một số nhạc phẩm cũng như trình diễn âm nhạc tại
vài địa điểm.
Ngày 11-8-1829 tại rạp hát
Karntnerthor, Chopin đã biểu diễn âm nhạc trước công chúng rồi lúc trở về
Warsaw năm sau, lại ra mắt thính giả bằng nhiều nhạc phẩm có tên là “Tùy hứng
khúc” (fantasie) mang nhạc đề quốc gia (national themes) cùng với một loạt các
luyện khúc (etudes) đầu tiên. Sau đó, Chopin đã du lịch qua nhiều thành phố như
Breslau, Dresden và Prague, tới Vienna rồi vì hoàn cảnh chính trị không ổn định,
Chopin đã không sang được nước Ý. Trong khi sống tại Vienna, Chopin đã sáng tác
“nhạc khúc sinh động cung Si thứ” (B minor Scherzo) và “nhạc khúc kể chuyện
cung Sol thứ” (G minor Ballade). Những tác phẩm này đã bộc lộ nơi Chopin các
nét nhạc đặc sắc cá nhân trước khi Chopin gặp Franz Liszt , Vincenzo Bellini và
Hector Berlioz. Chopin chịu ảnh hưởng âm nhạc của Hummel và của phong điệu
dương cầm (piano style) từ nhà soạn nhạc người Ái Nhĩ Lan John Field, là người
đầu tiên đã dùng danh từ “nhạc khúc đêm” (nocturne) cho các bản nhạc ngắn, trữ
tình.
Frédéric Chopin là nhạc sĩ
dương cầm đồng thời là nhạc sĩ sáng tác ra các nhạc phẩm với đặc tính lãng mạn,
tập trung vào một tượng ý (motive) trong các dạo khúc (preludes) và luyện khúc
(etudes). Chopin cũng nghiên cứu kỹ càng về nhịp điệu, hòa âm, nhạc thức và các
nét giai điệu của nhạc phổ thông Ba Lan cùng các vũ điệu để viết ra các nhạc
khúc Mazurka, luân khúc (walzes), nhạc khúc Ba Lan (polonaises), nhạc điệu
Bolero và Tarantella rồi do cảm xúc, các biểu tượng âm nhạc được Chopin viết ra
bằng các nhạc khúc đêm (nocturne), nhạc khúc sinh động (scherzo), nhạc khúc kể
chuyện (ballade), nhạc khúc ứng tác (impromptu) và nhạc khúc tùy hứng
(fantasie). Tất cả các thể nhạc này đã phát triển vào thời kỳ đầu thế kỷ 19 là
giai đoạn mà cây đàn dương cầm trở nên một nhạc cụ ưu việt, dùng để độc tấu tại
gia đình lẫn nơi thính đường.
Frédéric Chopin đã không viết
các bản giao hưởng, các nhạc kịch (opera), các bản tứ hòa (quartet) ngoài một bản
hòa tấu ba đàn (trio) gồm dương cầm, vĩ cầm và hồ cầm (cello). Ngoài 2 sônát và
2 concerto dành cho dương cầm đặc sắc, Chopin nổi danh về những nhạc phẩm ngắn
với kỹ thuật cao trong tầm tay của các nhạc sĩ tài tử.
Frédéric Chopin cũng không
phải là một nhạc trưởng hay một giáo sư âm nhạc trong nhiều năm mặc dù do dạy đàn,
ông đã kiếm được những món tiền lớn. Trong cả cuộc đời, Frédéric Chopin đã
trình diễn trước công chúng khoảng 30 lần với những đặc điểm trầm buồn, với sắc
nhạc đi từ rất khẽ (pianissimo) tới mạnh vừa (mezzo forte) và rất ít khi dùng sắc
nhạc mạnh (forte).
Thời trung niên và cuối đời
của Frédéric Chopin
Khi Chopin đang sống tại
thành phố Vienna, chàng nhạc sĩ được tin thủ đô Warsaw của Ba Lan đã bị quân đội
Nga xâm lăng. Tin đau buồn này tới với Chopin và làm chàng nhạc sĩ cảm xúc và
sáng tác ra “Luyện Khúc Cách Mạng” (the Revolutionary Etude).
Tháng 9 năm 1831, chàng nhạc
sĩ tài danh này tới Paris và làm quen với các văn nhân của thành phố hoa lệ
này. Paris trong các năm của thập niên 1830 là nơi quy tụ những nhân tài gồm
các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ…. như Victor Hugo, Honoré de Balzac, Bá
Tước Alfred Victor Vigny, Alfonse de Lamartine, Henrich Heine, Ferdinand
Delacroix… Trong số các nghệ sĩ lừng danh cũng có các nhạc sĩ như Liszt và
Berlioz, Rossini và Meyerbeer. Qua sự giới thiệu của nhạc sĩ Liszt, Chopin làm
quen với bà Aurore Dudevant là một phụ nữ có đôi mắt to, đen, u buồn và được giới
văn chương biết đến qua bút hiệu George Sand. Bà này còn là một nhà hoạt động
chính trị, một người phản kháng vương quyền, chống đối các tập tục và quy ước cổ
điển của xã hội. Khi tình bạn bắt đầu, Chopin 28 tuổi còn nữ văn sĩ Geoge Sand
34 xuân xanh. Hai người thấy các điểm hợp với nhau : nàng với tính tình ưa áp đảo,
lãng mạn, thường hút thuốc lá luôn miệng và mặc bộ âu phục nam, còn chàng lại
có tính ủy mị, dễ bị chinh phục. George Sand đã nhận thấy ở Chopin khả năng
sáng tạo rất to lớn, rất kỳ diệu, đạt tới rất dễ dàng. Tại Paris, Chopin đã dạy
dương cầm cho một số mệnh phụ và đã nhận được các món thù lao rộng rãi.
Trong thời kỳ sống tại
Paris, Chopin đã nhận thấy mình không đủ sức chịu đựng để tranh tài với các nhạc
sĩ bậc thầy về diễn tấu (virtuoso) như Franz Liszt và Sigismund Thalberg, vì vậy
Chopin đã dồn thời gian vào việc sáng tác âm nhạc. Chàng nhạc sĩ mảnh mai này
đã đóng cửa, ở trong nhà nhiều ngày để dạo đàn và viết ra các nhạc phẩm mà công
chúng đều khen ngợi.
MỘT TRONG 2 TẤM ẢNH CHỤP CỦA
CHOPIN,
NĂM 1849, CHỤP BỞI L.A. BISSON
Mùa đông năm 1838-39, do
tình bạn, George Sand đã đưa Chopin đến sống tại đảo Majorca với hi vọng rằng
nơi tĩnh dưỡng này sẽ sớm làm phục hồi sức khỏe cho chàng nhạc sĩ yếu đuối.
Nhưng thời tiết đã trở nên xấu và sức khỏe của Chopin suy giảm, tuy thế nhạc sĩ
thiên tài này đã sáng tác được 24 dạo khúc (preludes) tại Valldemosa khiến cho
nơi này về sau trở thành Viện Bảo Tàng Chopin. Trong các năm trường từ 1839 tới
1846, Chopin đã trải qua các mùa hè tại lâu đài Nohant của nữ văn sĩ, nơi thường
quy tụ giới trí thức, tinh hoa của nước Pháp thời đó. Đây cũng là thời kỳ mà
Chopin đã sáng tác phong phú nhất trong khi sức khỏe của chàng nhạc sĩ tài hoa
này suy giảm dần, và rồi tình yêu đối với George Sand trở thành xung đột, ghen
tuông và đố kỵ. Các người con của George Sand đã trở nên một vấn đề. Chopin đứng
về phía Solange là người con gái của George Sand, còn phía kia là nữ văn sĩ và
người con trai Maurice, họ thường bất đồng ý trong nhiều chuyện tranh cãi. Hai
người tình nghệ sĩ đã cách ly nhau. Sự việc này đã khiến cho Chopin mất đi nguồn
cảm hứng và năng lực sáng tạo, cảm thấy thất vọng và bị suy sụp tinh thần. Tình
cảm giữa Frédéric Chopin và George Sand chấm dứt vào năm 1847. Chopin trở về
Paris.
Năm 1848, Frédéric Chopin
sang nước Anh do lời mời của một người học trò tên là Jane Stirling. Tại
London, Chopin đã trình diễn âm nhạc nhiều lần và vào ngày 15-5, đã biểu diễn
trước Nữ Hoàng Victoria của nước Anh. Sau một thời gian ngắn nghỉ ngơi tại Tô Cách
Lan, Chopin trở về London và vào ngày 16-11-1848, đã biểu diễn các nhạc phẩm của
mình tại Thính Đường Guildhall để gây quỹ cứu trợ cho các người tị nạn Ba Lan.
Sau đó Chopin quay trở về Paris và sống nhờ sự giúp đỡ của gia đình Stirling.
BỨC TRANH VẼ LẠI NHỮNG PHÚT
CUỐI CỦA CHOPIN
Frédéric Chopin chết vì bệnh
lao phổi vào ngày 17-10-1849 tại thành phố Paris. Theo lời yêu cầu của chàng nhạc
sĩ lãng mạn này, bản nhạc Cầu Hồn Requiem của Mozart đã được đàn lên trong buổi
tang lễ. Đám tang của Frédéric Chopin thật là rực rỡ. Các nhà quý tộc, các văn
nghệ sĩ lừng danh đã đến viếng thăm quan tài trong đó có cả Meyerbeer, Berlioz
và Delacroix nhưng nữ văn sĩ George Sand đã vắng mặt. Frédéric Chopin được chôn
trong lòng đất Paris cùng với nắm đất của xứ Ba Lan mà chàng nhạc sĩ đã mang
theo khi rời quê hương.
Các tác phẩm chính của
Frédéric Chopin
Các tác phẩm của Chopin gồm
phần âm nhạc dành cho dương cầm và dàn nhạc, với 2 concerto dương cầm, phần nhạc
thính phòng và một số bài hát, nhưng quan trọng nhất là phần nhạc dương cầm gồm
4 bản nhạc khúc kể chuyện (ballades), nhạc khúc tùy hứng cung Fa thứ (Fantasy
in F minor, 1841), nhạc khúc ru em (Berceuse,1844), nhạc khúc đưa đò
(Barcarolle, 1846), 3 sônát (sonatas), các dạo khúc, luyện khúc, nhạc khúc đêm,
nhạc khúc sinh động, nhạc khúc mazurka, nhạc khúc rondo, hành khúc và biến
khúc.
MỘ CHOPIN Ở PARIS (PHÁP)
Các sáng tác của Chopin đều
liên hệ chặt chẽ với cây đàn dương cầm, đặc biệt nhờ vào sự tăng thêm các phím
đàn. Chopin lại là nhạc sĩ rất khéo léo, biết cách dùng bàn đạp (pedal) của đàn
dương cầm để có được các cấp độ về sắc nhạc (color) và tiếng vang (sonority)
cũng như thí nghiệm nhiều về các cách bấm phím mới (new fingerings), dùng hết khả
năng của ngón cái hay ngón thứ 5 trên các phím đen, tận dụng cách trượt ngón từ
phím đen xuống phím trắng hay dùng kỹ thuật bắt chéo tay. Nhờ kỹ thuật ngón của
Chopin, các bản đàn rất khó biểu diễn trước kia, nay trở nên dễ dàng và do trí
tưởng tượng sáng tạo về kỹ thuật, các luyện khúc của Chopin đã làm cho các bài
tập tầm thường biến thành các nhạc phẩm mang chất lượng biểu diễn. Chopin còn cải
tiến hòa âm với các nét nhạc trữ tình, bay bổng, nhờ đó đã đứng ngang hàng với
Liszt và Wagner là hai nhạc sĩ đã nới rộng các quan niệm quy ước về cung điệu
(tonality).
Chopin đã dùng kỹ thuật của
đàn dương cầm để chuyển âm nhạc thành một nghệ thuật rất nên thơ, một cách diễn
tả trữ tình bằng âm thanh. Các người Ba Lan luôn luôn suy tôn Chopin như một nhạc
sĩ của đất nước Ba Lan. Miền quê hương này đã được lý tưởng hóa trong trí tưởng
tượng của chàng nhạc sĩ lãng mạn với ước vọng về niềm hạnh phúc nơi quê mẹ, với
lòng trông đợi hướng về đất tổ của kẻ lưu vong. Các nhạc khúc Ba Lan của Chopin
có thể được coi là cách bày tỏ tinh thần quốc gia và lại là một nhạc thức đặc
biệt, tới với nền âm nhạc tây phương bằng tinh thần hiệp sĩ và anh hùng.
Frédéric Chopin là một nhạc
sĩ lừng danh về các nhạc khúc đêm, nhạc khúc ứng tác và dạo khúc (nocturnes,
impromptus & preludes) với cách xử dụng rất tài tình về hòa âm và chuyển
cung bán âm (chromatic harmonies & modulations). Các nhân vật danh tiếng
như các nhà văn Balzac và Heine, các nhạc sĩ tài danh như Liszt, Berlioz,
Mendelssohn và Schumann đều ngưỡng mộ Chopin. Nhạc sĩ Schumann đã gọi Frédéric
Chopin là “một tinh thần thơ ca táo bạo nhất và hãnh diện nhất của thời đại”
(the boldest and proudest poetic spirit of the time).
Trường phái Cổ Điển và trường
phái Lãng Mạn
Các thời kỳ lịch sử của bộ
môn Âm Nhạc được phân biệt bằng các trường phái hay giai đoạn trong đó một đường
hướng diễn tả âm thanh đã được thịnh hành. Các nhà nghiên cứu đã dùng các danh
từ như “cổ điển” và “lãng mạn” để phân biệt về tác giả, tác phẩm và thời kỳ.
Trong các năm từ 1770 tới 1800 và đôi khi tới tận 1830, nét nhạc của các nhạc
sĩ lừng danh như Hayden, Mozart, Beethoven đã mang nhạc vẻ “cổ điển”. Danh từ
này hàm chứa các ý nghĩa về sự toàn hảo, tiêu chuẩn, dùng làm mẫu mực cho các
sáng tác âm nhạc về sau. Việc phân loại cũng đã được căn cứ vào số lượng nhạc
âm (musical sound) bị giới hạn, vào cách hòa âm căn bản, do cách xử dụng nhịp
điệu (rhythm) và nhạc thức (form) và do cả cách truyền cảm đi từ nhạc sĩ sáng
tác qua nhạc sĩ trình diễn tới thính giả.
Các nhạc sĩ sáng tác đã thí
nghiệm, làm biến đổi và làm phát triển cách diễn tả âm nhạc từ các nguyên tắc
căn bản. Như thế, cách nhận thức về mỹ thuật nói chung và về âm nhạc nói riêng
đã thay đổi theo thời gian và trường phái “lãng mạn” dần dần xuất hiện.
Vào đầu thế kỷ 19, tinh thần
lãng mạn đã thể hiện qua cách nhận thức về vẻ đẹp của các “khu vườn Anh”
(English garden), tại nơi này không còn cách trồng tỉa cân đối, cách xếp đặt
công phu nữa. Nhiều người đã bắt đầu đánh giá cao loại phong cảnh tự nhiên,
mang vẻ hoang dã, phóng khoáng. Về kiến trúc, đường nét cổ điển với cách đối xứng
và phức tạp đã nhường chỗ cho tính bất quy tắc và sự đổi mới về chi tiết. Cách
thưởng thức nghệ thuật đã thay đổi từ năm 1764 với sự xuất hiện của lối kiến
trúc Gothic mới.
Cách nhận thức mới về nghệ
thuật đã làm nẩy sinh ra một thế giới xa xôi với thế giới “quen thuộc và mỗi
ngày”, và trường phái lãng mạn đã khác biệt với trường phái cổ điển về sự “xa lạ
và xa vời” (strangeness and remoteness). Do đó Walter Pater đã định nghĩa trường
phái lãng mạn là “sự thêm vào vẻ đẹp chất liệu xa lạ” (the addition of
strangeness to beauty).
Một nét vẻ đặc biệt khác của
trường phái lãng mạn (romanticism) là tính không giới hạn (boundlessness). Nghệ
thuật lãng mạn lùi về quá khứ và hướng cả về tương lai, trải rộng tầm vóc phủ
lên thế giới và lan ra vũ trụ. Trong khi các quy tắc cổ điển chú trọng đến tính
trật tự, sự cân bằng về kiểm soát và sự hoàn hảo trong các giới hạn được hiểu
rõ, thì trường phái lãng mạn lại ca ngợi tính tự do, sự say đắm, các chuyển động
để theo đuổi những gì đạt tới được và không bao giờ đạt tới được. Nghệ thuật
lãng mạn bị ám ảnh bởi tinh thần mong đợi, ước vọng về một hoàn thành rất xa vời.
Trong các bộ môn nghệ thuật,
âm Nhạc là thứ dễ diễn tả, dễ bộc lộ nhất. Nhờ âm thanh và nhịp điệu, âm nhạc
đã mô tả các cảm xúc, ấn tượng, làm lộ ra những xúc động nội tâm. Âm Nhạc đã
dùng thứ ngôn ngữ riêng để nói lên thứ hình ảnh hiện thân của thế giới cũng như
các cảm xúc trong cuộc đời của mọi người. Âm nhạc được định nghĩa là một loại
ngôn ngữ không phải là lời nói thông thường. Các nhạc cụ vì vậy đã trở nên một
phương tiện, một thứ xe chuyên chở tư tưởng và tình cảm. Các nhạc sĩ lãng mạn
đã khéo léo phối hợp âm nhạc với lời nói, thành lời ca, hòa vào tiếng đàn như
trong thể nhạc Lied, một loại bài hát đã được sáng tác thành công vào thế kỷ 19
bởi Schubert, Schumann, Brahms và Hugo Wolf, hay trong loại nhạc kịch trường
(music drama) của Wagner. Ngoài ra còn có loại nhạc chương trình (program
music) phối hợp với thơ, với cách mô tả, cách tường thuật, cách bắt chước các
âm thanh tự nhiên và các âm thanh chuyển động, đã dùng tới các hình ảnh tưởng
tượng và được diễn tả ra bằng âm thanh.
Nhạc chương trình của thế kỷ
19 khởi đầu bằng bản “Giao Hưởng Đồng Quê” (Pastoral Symphony) của Beethoven,
kéo dài tới giữa thế kỷ với các nhạc sĩ Mendelssohn, Schumann, Berlioz, Liszt rồi
với các nhạc sĩ đại diện của cuối thế kỷ là Debussy và Richard Strauss. Các nhạc
sĩ của thời đại này đã cố gắng bằng cách dùng âm thanh, liên kết một câu chuyện,
một bài thơ, một hoạt cảnh với một bản nhạc lãng mạn.
Thế kỷ 19 cũng gặp sự chuyển
tiếp về thính giả và sự bảo trợ âm nhạc. Loại thính giả đồng nhất, thường có
văn hóa cao và số lượng hạn hẹp như giới quý tộc, đã được thay thế bằng giới
trung lưu đông đảo hơn nhưng không đồng nhất, không có trình độ cao về thưởng
thức âm nhạc. Các bảo trợ về âm nhạc của các hầu tước, bá tước, các cung đình
cũng bị nhường chỗ cho các hội hòa nhạc (concert societies) và các đại hội âm
nhạc (musical festivals). Nhạc sĩ sáng tác vào thế kỷ 19 đã đứng trước một sân
khấu rộng lớn hơn, phải cố gắng làm sao cho nhạc phẩm của mình được nhiều người
nghe và hiểu. Sự tương phản về tính phổ thông của thời đại này đối với thời đại
trước đã được thể hiện qua các sáng tạo đồ sộ của Meyerbeer, Berlioz, Wagner,
Strauss hay Mahler, hay qua các bản nhạc dương cầm ngắn của Schubert,
Mendelssohn và Chopin.
Trường phái lãng mạn của thế
kỷ 19 còn có một nét đặc thù, đó là sự khác biệt giữa các nhạc sĩ chuyên nghiệp
và các nhạc sĩ tài tử. Các nhạc sĩ độc tấu với tài nghệ xuất sắc đã xuất hiện
như Paganini về vĩ cầm và Liszt về dương cầm. Đã tăng thêm các tiêu chuẩn
chuyên nghiệp khiến cho sang thế kỷ 20, vai trò của nhạc trưởng trở nên rất
quan trọng và nhạc trưởng đôi khi còn được gọi là “nhà độc tài của dàn nhạc”.
Trường phái cổ điển và trường
phái lãng mạn có thể được coi là hai cực của nền nghệ thuật. Tinh thần cổ điển
đi tìm kiếm sự trật tự, sự cân đối, sự trong sáng của đề tài trong khi tinh thần
lãng mạn lại đặt nặng sự xa lạ, tính ngạc nhiên và tình cảm ngây ngất
(ecstasy), nhìn cuộc đời với tính chủ quan, khác hẳn yếu tố khách quan của tinh
thần cổ điển. Chính vì thế nhà triết học người Đức Friedrich Nietzsche trong
các bài viết về nghệ thuật, đã so sánh hai tinh thần cổ điển và lãng mạn bằng
hình ảnh của Apollo, vị thần Hy Lạp của ánh sáng và đo lường, tương phản với
Dionysus, vị thần của lòng đam mê và tính say sưa. Cả hai đặc tính trái ngược cổ
điển và lãng mạn đã là hai xung lực căn bản của bản chất con người.
Các cải tiến kỹ thuật vào thế
kỷ 19 đã làm phát minh ra các nhạc cụ mới, chẳng hạn như các kèn saxophone và
tuba. Việc thêm các “van” (valves) vào loại kèn đồng (brass instruments) đã cho
phép kèn tù và (horn) thổi được các giai điệu của Wagner và Tchaikovsky. Đàn
dương cầm cũng nhờ các tiến bộ khoa học mà có một khung căng dây đàn (frame) đúc
bằng gang, các dây đàn cứng cáp hơn và to dài hơn nên đã phát ra các âm thanh lộng
lẫy hơn, sâu đậm hơn. Nhờ cây đàn dương cầm với các âm thanh từ nhẹ (soft) tới
mạnh (forte), Liszt đã trình tấu các bản nhạc thuộc trường phái lãng mạn khác với
các bản sônát của Mozart vào thế kỷ trước.
Trong thế kỷ trước, nhạc sĩ
sáng tác cũng là nhạc sĩ trình diễn. Mozart và Beethoven đã trình bày các
concerto của chính mình giống như Franz Liszt diễn tấu nhạc phẩm “Tưởng Khúc
Hungari” (Hungarian Rhapsodie) hay Niccolo Paganini với các giai điệu vĩ cầm
mang âm sắc quái dị. Sau đó, các nhạc sĩ trình diễn tài ba dần dần diễn tấu các
nhạc phẩm của nhiều nhạc sĩ sáng tác khác.
Trong thời kỳ lãng mạn của
thế kỷ 19, đàn dương cầm đã đóng một vai trò quan trọng trong bộ môn âm nhạc. Tại
châu Âu và châu Mỹ trong thế kỷ này, cây đàn dương cầm trở nên nhạc cụ chính
trong gia đình, đã hấp dẫn các nhạc sĩ tài tử vì khả năng của đàn có thể diễn tả
vừa giai điệu, vừa hòa âm, khác với các loại nhạc cụ dây và gió.
Các bậc thầy về các nhạc bản
dương cầm của thế kỷ 19 gồm Schubert, Chopin và Liszt, Mendelssohn, Schumann và
Brahms… những nhạc sĩ đại tài này đã khai thác các nguồn vô tận của đàn dương cầm
và diễn tả một cách xúc tích vẻ lãng mạn và kịch tính của các nhạc phẩm trữ
tình.
TƯỢNG ĐÀI FRÉDÉRIC CHOPIN TẠI
CÔNG VIÊN
HOÀNG GIA LAZIENKI – BA LAN
Phạm Văn Tuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét