Để phục vụ tốt
Nói về Khổng và Lão tử, sử
gia nổi tiếng của Trung Hoa còn để lại cho chúng ta một mẫu chuyện, đại ý như
sau:
Lão Tử đang làm quan thủ thư
của Nhà Chu, Khổng tử tới nghiên cứu để san định bộ Lễ Kinh. Thầy hỏi Lão Đam
thật nhiều về Lễ nghi tiền triều.
Lão Đam đáp:
"Những người mà ông nói
tới kia đã tan xương nát thịt cả rồi. Chỉ còn lời nói của họ thôi. Vả lại, người
quân tử gặp thời thì xe ngựa võng giá nghênh ngang; không gặp thời, thì cỏ bồng
xoay theo chiều gió. Tôi nghe nói: 'Người buôn giỏi thì biết giấu của báu,
khiến người thấy như không có hàng hoá chi cả. Người quân tử đức cao thì diện mạo
ngó ngu si". Ông nên bỏ cái khí kiêu ngạo cùng cái lòng ham muốn nhiều,
bỏ cái vẻ ham hở cùng cái chí tham lam đi. Những thứ đó đều không ích gì cho
ông cả. Tôi chỉ bảo ông có thế thôi.
Khổng Tử ra đi, bảo môn đồ:
Con chim, ta biết nó bay;
con cá, ta biết nó lội; con thú, ta biết nó chạy. Ta có thể dùng lưới để săn
loài chạy; có thể dùng câu để bắt loài lội; có thể dùng tên để bắn loài bay. Đến
như con rồng cưỡi mây lướt gió trên trời, ta không sao biết được.
Chỉ cách nhau 20 năm, nhưng
Khổng Tử sinh trưởng ở lưu vực Hoàng Hà, còn Lão Đam dân lúa nước, lưu vực sông
Dương tử. Trong những vùng đất trời và dòng tộc khác nhau, họ thừa hưởng hai nền
văn hoá khác nhau, học thuyết Khổng và Lão đương nhiên cũng thật là khác nhau.
Hai vị hiểu nhau còn khó,
nói chi chúng ta, người theo sau cả vài thiên kỷ, làm sao hiểu được họ và ảnh
hưởng họ để lại trong cuộc sống đồng bào và dân tộc ta!
Khi cả hai học thuyết đó du
nhập Việt Nam, do áp lực chính trị hoặc văn hoá, tiền nhân chúng ta đã pha trộn
với cả những giáo huấn Việt Nam và học thuyết Phật giáo Nam Bắc Tông.
Kitô-giáo từ ba thế kỷ nay
và học thuyết Mác Lê sáu bẩy chục năm nay hiển nhiên chưa có độ dài lịch sử bằng
Triết học Trung hoa, nhưng cũng vì tính bảo vệ giáo điều, mà khó thấm nhập văn
hoá và con người thuộc các dân tộc Việt Nam cũng như Á châu. Vùng đất mênh
mông, nhưng gồm không nhiều dòng tộc từ thời cổ sử, mà những dòng tộc này đều
kiên cường, bất khuất, có thể thích ứng, mà không bị tiêu diệt. Nhưng nếu muốn
Thích nghi Văn hoá, bạn phải biết những nét cơ bản của nền văn hoá này.
Tập sách Bạn đang cầm đây muốn
giúp Bạn nhận diện Văn Hoá này. Văn-hoá của dòng tộc Việt-Nam, trải qua bao thời
đại và hiện nay, đang hướng về tương lai rất mới.
PHẦN I
VĂN HOÁ
VĂN HOÁ VIỆT NAM
1. Khái niệm VĂN HOÁ
2. KHOA HỌC văn hoá
3. Cội nguồn văn hoá Việt-Nam
1.KHÁI NIỆM
Người ta gọi Người và Văn
Hoá là một tinh thần đã được gieo trồng
Đừng muốn biểu diễn văn hoá
hơn cả cơ bắp.
Văn hoá bơi lội dưới câu cú
[1] Văn Hoá LÀ…
Đúng là có lắm quan niệm nhiều
ít khác nhau về nội dung từ VĂN HOÁ.
Làm sao có một khái niệm
tương đối đồng nhất?
Chúng ta điểm qua mấy quan
niệm được khá nhiều người biết đến:
1. Đào Duy Anh trong
"VN Văn Hoá sử cương"
Ngay từ những thập niên khởi
đầu xây dựng Văn Học Quốc Ngữ của chúng ta, Đào Duy Anh đã hiện ra như một học
giả với tác phẩm giáo khoa uy tín từ năm 1938: "Việt Nam Văn Hoá sử cương".
Ngay trang đầu, theo lối tác phẩm tư tưởng Âu Mỹ, ông xác định từ ngữ:
"VĂN HOÁ LÀ GÌ?
Người ta thường cho rằng văn
hoá là chỉ những học thuật tư tưởng của loài người, nhân thế mà xem văn hoá vốn
có tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không phải như vậy. Học thuật tư tưởng
cố nhiên là ở trong phạm vi của văn hoá nhưng phàm sự sinh hoạt về kinh tế, về
chính trị, về xã hội cùng hết thảy các phong tục tập quán tầm thường lại không
phải là ở trong phạm vi văn hoá hay sao? Hai tiếng văn hoá chẳng qua là chỉ
chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: Văn
hoá tức là sinh hoạt.
Văn hoá đã tức là sinh hoạt
thì không kể là dân tộc văn minh hay dã man đều có văn hoá riêng của mình, chỉ
khác nhau về trình độ cao thấp mà thôi. Ví dụ văn hoá các dân tộc Âu Mỹ thì
cao, mà văn hoá của các dân tộc mọi rợ ở Phi châu, Úc châu cùng các giống người
Mường, Mán, Mọi ở nước ta thì thấp" [4].
Định nghĩa trên của họ Đào
đã thật là hay, tuy vẫn còn vài điều bất ổn. Thí dụ: Căn cứ vào đâu hoặc dùng
tiêu chuẩn nào mà bảo: "Văn hoá của các dân tộc Âu Mỹ thì CAO, mà văn hoá
của các dân tộc mọi rợ ở Phi châu, Úc châu cùng các giống người Mường, Mán, Mọi
ở nước ta thì THẤP"? Bằng vào phẩm cách gì mà bảo dân này là Mọi, dân kia
là man di? Phải có mẫu số chung và tiêu chuẩn chung mới so sánh và đo lường được!
2. Trần ngọc Thêm "Tìm
về bản sắc văn hoá VN."
Chúng ta nghe một trong những
giáo sư nổi tiếng hiện nay, một trong những người đã được sang tận Liên-xô học
thi tiến sĩ Ngữ học và về làm giáo sư tại Đại học Hà-nội và Sài-gòn. Ông Trần
Ngọc Thêm trong giáo trình "Tìm về Bản sắc Văn Hoá Việt Nam" đã viết:
"Từ "văn hoá"
có rất nhiều nghĩa, nó được dùng để chỉ những khái niệm có nội hàm hết sức khác
nhau. Trong tiếng Việt, văn hoá được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức
(trình độ văn hoá), lối sống (nếp sống văn hoá); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ
trình độ văn minh của một giai đoạn (Văn hoá Đông sơn)… "Đề cương về văn
hoá Việt Nam" của Đảng CSĐD năm 1943 đã xếp văn hoá bên cạnh kinh tế,
chính trị và xem nó bao gồm cả tư tưởng, học thuật (=khoa học, giáo dục), nghệ
thuật. Ủy ban UNESCO của Liên hiệp quốc thì xếp văn hoá bên cạnh khoa học và
giáo dục, tức là đặt hai lĩnh vực này ra ngoài khái niệm văn hoá.
Federico Mayor, Tổng giám đốc
UNESCO cho biết: "Đối với một số người, văn hoá chỉ bao gồm những kiệt tác
tuyệt vời trong các lãnh vực tư duy và sáng tạo, đối với những người khác, văn
hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những
sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống
và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội
nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá họp năm 1970 tại Venise". Chính
với cách hiểu rộng này, văn hoá mới là đối tượng đích thực của văn học…" [5]
Sau khi giải thích bốn đặc
trưng cơ bản của Văn Hoá, tác giả cũng tìm về định nghĩa:
"Văn hoá là một hệ thống
hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua
quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường
tự nhiên và xã hội của mình". [6]
Đọc nội dung tác phẩm của
Đào Duy Anh và Trần Ngọc Thêm, chúng ta thấy cả hai giáo sư đều theo cách hiểu
bao quát như Liên hiệp quốc nhìn nhận năm 1970.
3. Gs. Nguyễn Đức Đàn
Nhà xuất bản Văn Học, năm
1998 cho ra đời một tác phẩm của Gs. Nguyễn Đức Đàn, cuốn "Tư tưởng triết
học và đời sống văn hoá văn học ẤN ĐỘ ".
Chỉ cần đọc tựa đề đó cũng
biết Giáo sư Đàn và người đảm trách xuất bản của Nhà xuất bản Văn Học cho rằng
Triết học và Văn học không bao hàm ở Văn Hoá. Nghĩa là Ấn Độ nói riêng hoặc các
Dân tộc nói chung, có thể có Văn học và triết học không thuộc văn hoá!
[2] Tìm về ngữ căn để nhận chính danh Văn Hoá
Không thể đơn giản nói ai
trúng, ai trật; chúng ta nên tìm ý nghĩa từ ngữ ngay từ gốc rễ của nó.
"VĂN HOÁ" là một từ
gốc rễ Hán-Việt. Thật hợp lý nếu chúng ta tìm hiểu từ gốc rễ để biết ngay trong
đất nước Trung Hoa, người ta đã hiểu thế nào.
Các tác giả "Đại cương
Lịch sử Văn Hoá Trung Quốc" [7] đã tìm về
gốc rễ như thế, ngay từ Lời Nói Đầu:
"Từ "VĂN HOÁ"
xuất hiện ở Trung quốc rất sớm. Quẻ Bói trong Chu Dịch nói: “Quan sát dáng vẻ
con người, lấy đó để giáo hoá cho thiên hạ" (quan hồ nhân văn, dĩ hoá
thành thiên hạ), trong đó đã bao hàm hai từ tố "văn" và
"hoá". Khổng Dĩnh Đạt trong cuốn "Chu Dịch chính
nghĩa" đã giải thích như sau: "ý nói bậc thánh nhân quan sát dáng vẻ
con người, tức là nói Thi, Thư, Lễ, Nhạc, theo đó mà dạy để giáo hoá thiên hạ".
Lưu Hướng (ước đoán 77-76 tcn) đời Tây Hán là người sử dụng từ văn hoá sớm
nhất, sách Thuyết Uyển bài Chi Vũ viết: "Bậc thánh nhân trị thiên hạ, trước
dùng văn đức rồi sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ lực đều để đối phó kẻ bất phục
tùng, dùng văn hoá không thay đổi được thì sau đó sẽ chinh phạt". Ở đây,
hai chữ văn hoá được dùng như một cách giáo hoá đối lập với vũ lực. Trong sách
Bổ vong thi của Thúc Triết có viết: "Văn hoá để làm cho bên trong hoà mục,
vũ công để sửa sang bên ngoài" (văn hoá nội tập, vũ công ngoại tu) [8]. Ở đây hai chữ
văn hoá gồm nghĩa với giáo hoá. Chung quy, văn hoá là văn trị giáo hoá, là chế
độ lễ nhạc điển chương. Cách nhìn nhận này mãi đến cuối thế kỷ trước vẫn không
thay đổi.
Trước mắt, từ văn hoá mà
chúng ta dùng có hàm nghĩa không giống với thời cổ, đó là có chuyển dịch qua tiếng
Nhật từ "văn hoá" của phương Tây vào cuối thế kỷ 19 [9]. Từ này tiếng
Anh tiếng Pháp đều viết là culture. Tiếng Đức là kultur, tiếng Nga là
kultura, đều từ chữ La tinh cultura mà ra. Trong tiếng la-tinh cultura bao hàm
ý nghĩa trồng trọt, cư trú, luyện tập, lưu tâm, chú ý v.v…. Từ văn hoá
trong tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga ngày nay vẫn giữ lại một số hàm nghĩa của nó
trong tiếng La tinh. Giữa thế kỷ 19 các khoa nhân văn học như nhân loại học, xã
hội học, dân tộc học, v.v… phát triển mạnh ở châu Âu, khái niệm văn hoá
cũng do đó mà có biến hoá, dần dà có cái hàm nghĩa hiện tại, hơn thế ngày càng
trở thành thuật ngữ thường dùng của các khoa học xã hội. Cha đẻ của nhân loại học
nước Anh là Thailơ (Taylor), trong cuốn Văn hoá nguyên thuỷ xuất bản năm 1871,
lần đầu tiên đưa ra một định nghĩa về văn hoá: "Văn hoá là một tổng thể phức
tạp, bao gồm trí thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục và
cả những năng lực thói quen mà con người đạt được trong xã hội". Về sau,
các học giả phương Tây đua nhau định nghĩa văn hoá, giới thiệu khái niệm văn
hoá. Cho đến nay, định nghĩa về văn hoá ít nhất có 160 loại….
Khái niệm văn hoá mà chúng
ta thường dùng trong nghiên cứu, lý luận lại chỉ những thứ có quan hệ đến văn
minh tinh thần, như triết học, sử học, văn học, mỹ học, âm nhạc và cả tôn
giáo, v.v…. Có một khái niệm rộng hơn về văn hoá, đó là tất cả những gì
loài người sáng tạo ra, là tổng hoà của văn minh vật chất và văn minh tinh thần,
bao gồm các chế độ điển chương trong đời sống chính trị, sự trao đổi sản xuất
trong đời sống kinh tế, việc ăn mặc ở trong đời sống xã hội v.v…. Nghĩa là
tất cả những gì con người bằng lao động thể xác và lao động trí não tạo nên…. Lại
có cái gọi là văn hoá tầng sâu, chỉ kết tinh của tinh thần dân tộc được hình
thành trong những điều kiện tự nhiên và điều kiện lịch sử nhất định, cũng có
nghĩa là đặc trưng văn hoá và bộ mặt tinh thần của một dân tộc.
Tóm lại, ý kiến của các học
giả trong và ngoài nước về văn hoá là không thống nhất. Văn hoá là một khái niệm
mơ hồ, nội hàm rất phong phú, vì nội hàm không xác định nên ngoại diện cũng
không xác định. Bởi vậy, khó mà có một định nghĩa rõ ràng hoàn thiện". [10]
[3] Từ Khái niệm đến Trình bày
Từ khái niệm tổng quát, người
ta đi vào trình bày tác phẩm với bố cục phù hợp khái niệm.
1. Việt Nam Văn hoá Sử cương
Sau Thiên thứ: Nhứt TỰ
LUẬN
Về định nghĩa Văn hoá và nguồn
gốc người VN cũng như sơ lược lịch sử tiến hoá của dân tộc VN, tác giả vào phần
chính với.
Thiên thứ Hai: KINH TẾ
SINH HOẠT
Trình bày về Nông, Công,
Thương nghiệp,
về sinh hoạt thôn quê và
thành thị,
về giao thông, sưu thuế và
tiền tệ.
Thiên thứ Ba: XÃ HỘI
KINH TẾ SINH HOẠT
Gia tộc, Xã thôn, Quốc gia,
Cứu tế và tương tế,
Phong tục, tín ngưỡng và tế
tự.
Thiên thứ Tư: TRÍ THỨC
SINH HOẠT
Qua các thời đại, với các học
phái Nho Phật Lão
Về Giáo dục, ngôn ngữ, văn học,
nghệ thuật, khoa học, phương thuật.
Thiên thứ Năm: TỔNG LUẬN
2. Tìm về Bản sắc Văn
hoá VN.
Của giáo sư Trần Ngọc Thêm,
có lẽ bố cục cũng không khác lắm, tuy nội hàm có nhiều phần phải rất khác:
Chương một:
CƠ SỞ LÍ LUẬN CHO CÁCH NHÌN
HỆ THỐNG
LOẠI HÌNH VỀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
LOẠI HÌNH VỀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
Trong chương này, tác giả
nhìn qua:
Văn hoá và cấu trúc văn hoá,
Loại hình văn hoá,
Toạ độ của văn hoá VN.
Tiến trình văn hoá Việt Nam.
Chương hai:
VĂN HOÁ NHẬN THỨC
Tư Tưởng xuất phát về bản chất
vũ trụ: Triết lý âm dương
Triết lý Phương Nam về cấu
trúc không gian của vũ trụ: mô hình tam tài, ngũ hành.
Triết lý phương Bắc về cấu
trúc không gian… Tứ tượng, Bát quái.
Cấu trúc thời gian của vũ trụ:
Lịch pháp và hệ Can Chi.
Chương ba:
VĂN HOÁ TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG:
ĐỜI SỐNG TẬP THỂ.
Tổ chức nông thôn,
Tổ chức quốc gia
Tổ chức đô thị
Chương bốn:
VH.TC.CĐ:ĐỜI SỐNG TẬP THỂ
Tín Ngưỡng, Phong tục,
Văn hoá giao tiếp và nghệ
thuật ngôn từ,
Nghệ thuật thanh sắc, Nghệ
thuật Hình khối
Chương năm:
VH.ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG
TỰ NHIÊN
Tận dụng MTTN để ăn uống và
giữ gìn sức khoẻ
Đối phó với MTTN: mặc và làm
đẹp con người
Đối phó với MTTN: Ở và đi lại
Chương sáu:
VH.ỨNG XỬ VỚI MT. XÃ
HỘI
Giao lưu với Ấn độ: VH. Chàm
Phật giáo và VHVN, Nho giáo
và VHVN, đạo giáo và VHVN.
Phương Tây với VHVN.
VH đối phó với Môi trường xã
hội: tính dung hợp…
Tác giả Thay lời kết luận bằng
hai chục trang bàn về Văn hoá VN từ truyền thống đến hiện đại.
Những phần phải rất
khác giữa tác phẩm thứ nhất với tác phẩm thứ hai là ở điểm này: Tác phẩm Tìm
về Bản sắc VHVN chú trọng nhiều tới phần trình bày Lý luận, tức phần Văn
hoá học, đồng thời dùng những nhận xét về VHVN như minh hoạ cho phần lý thuyết
đó. Còn Đào Duy Anh thì gần như chỉ trình bày những gì ông cho là "dữ kiện
lịch sử VH", mà không trực tiếp lý luận.
Cả hai đều có lý của mình. Một
người trình bày theo quá trình lịch sử và thành phần văn hoá. Thời học giả Đào
Duy Anh, người ta cũng chưa giảng dạy Văn Hoá tại Đại học, như một Khoa học.
Giáo sư Thêm là người đã được hưởng phần tiến bộ đó của giáo dục từ nước ngoài,
nên ông phải đặt vững lý luận như mô hình căn bản, rồi tìm xem Văn Hoá VN thế
nào chiếu theo mô hình đó.
Chúng ta không nói tới tác
giả thứ ba, giáo sư Đàn, vì tựa đề cuốn sách đủ nói quan niệm của ông về bản chất
và thành phần văn hoá, cũng vì ông bàn về Ấn độ, một phạm vi thứ yếu khi so
sánh với kiến thức về Văn hoá như một khoa học và về Văn Hoá Việt Nam. Đây là
hai thành phần của nội dung chúng ta tìm hiểu trong giáo trình này.
[1] Tư
Mã Thiên “Sử Ký”
MỘT CHÚT
VĂN HOÁ
HỌC
"Đặc điểm của con
người là chỉ đạt nhân tính đích thực và trọn vẹn, nghĩa là nhờ việc trau dồi
những ưu phẩm và giá trị của bản tính. Do đó, mỗi khi đề cập đến đời sống con
người là nói đến bản tính và văn hoá gắn liền với nhau hết sức chặt
chẽ" [1]
[4] Nguồn gốc Văn hoá
Minh nhiên nói về Văn Hoá trong
các văn kiện của Công Đồng Chung Vaticanô II thì không đâu bằng Hiến chế mục vụ
"Vui Mừng và Hy Vọng". [2] Ở đây có một phát biểu thật ngắn về
nguồn gốc văn hoá:
"Con người làm nên
văn hoá
Bất cứ ở trong đoàn thể
hay quốc gia nào, cũng có một số người càng ngày càng đông, đàn ông và đàn bà,
ý thức được rằng mình đóng vai trò chủ động trong việc tạo lập và phát triển văn
hoá của xã hội mình" [3]
Do đó, Công Đồng nhắc các
Kitô-hữu nhớ nhiệm vụ mình phải cộng tác với những người lương thiện để xây
dựng văn hoá tốt, xứng nhân phẩm:
"Thực ra, mầu nhiệm
Đức tin của người Kitô-hữu còn đặc biệt thúc đẩy và nâng đỡ họ, để họ chu toàn
sứ mạng đó hăng say hơn và khám phá được đầy đủ ý nghĩa các sinh hoạt của con
người. Nhờ đó, văn hoá có được một chỗ đứng đặc biệt quan trọng trong sứ mạng
toàn diện của con người.
Thực vậy, khi con người
cày cấy, với hai bàn tay và những phương tiện kỹ thuật, để trái đất sinh hoa
quả và trở thành nơi cư ngụ xứng đáng cho toàn thể gia đình nhân loại cũng như
khi con người tham gia một cách ý thức vào đời sống xã hội, tức là con người
thể hiện ý định của Thiên Chúa, ý định đã được tỏ rõ ngay từ đầu là loài người
phải làm chủ trái đất [4] và hoàn
thành công cuộc tạo dựng" [5].
Theo cách nhìn của Các Nghị Phụ
Vatican 2, những tín đồ và những nhà lãnh đạo cọng đồng tín đồ, Văn Hoá khởi
đầu từ việc Thiên Chúa tạo dựng con người và trao trách nhiệm "làm văn hoá" để
phát triển bản thân, đồng loại, và điều hành vũ trụ mà Ngài đã tạo thành.
Với tư cách nhà khoa học, người
ta không nhìn theo đức tin, nên không đả động tới quan phòng hoặc định mạng.
Người ta chỉ nhìn hiện tượng tự nhiên và nhận rằng:
. Con người, tập thể con người làm nên văn hoá.
. Tuy thế con người đã và vẫn chịu ảnh hưởng của môi trường thiên
nhiên
. và hoàn cảnh lịch sử
để hình thành nền văn hoá của
mình.
Đồng thời, con người lại bị chi
phối do chính văn hoá đó.
[5] Ba yếu tố của Văn Hoá
Văn hoá do con người, nhưng không
phải mỗi khi người ta bảo rằng mình làm văn hoá thì sản phẩm của người đó là
văn hoá. Cần có những yếu tố chính như: Tính nhân linh, giá trị bao quát và giá
trị trường tồn.
1. Tính nhân linh
Nếu thành quả trong đời sống con
người thường có pha trộn "công ơn" của trời đất, nghĩa là "thiên
thời" và "địa lợi" thì giá trị cốt yếu của văn hoá phải cân nhắc
là ở Con Người. "Thiên thời địa lợi" chỉ là thiên nhiên. Thiên nhiên
này thường khi chung cho cả phàm nhân, không riêng gì cho những người hoạt động
văn hoá. Thiên nhiên này chung cho cả các chủng, các dân tộc… nhưng mỗi chủng
hoặc dân tộc lại hình thành những nét văn hoá của mình.
Dẫy núi vẫn là dẫy núi, thời
chiến là thời chiến chung cho mọi người trong vùng ảnh hưởng. Nhưng người để
lại nét văn hoá vì nhìn núi như "mẹ bồng con", như "vọng
phu", rồi hình ảnh theo quan niệm đó lại tác động vào tâm tư bạn, để hình
thành những vần thơ, những dòng nhạc… thì tất cả những danh xưng đó, những vần
thơ và dòng nhạc đó đều là những nét văn hoá, bồi đắp vào nền văn hoá sẵn có
của một địa phương, một dân tộc.
Quan sát một hành động bình
thường, người trân trọng thiên nhiên hoặc yêu mến con người cũng thêm nét văn
hoá thơ mộng vào bối cảnh văn hoá sinh hoạt trước mắt:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng
đổ đi!
Tuy thế, không phải hoạt động nào
của con người trong vũ trụ này đều tô thêm văn hoá. Phải là hành động nhân
linh.
Con người vượn không ghi lại nét
văn hoá nào.
Con người thời
văn minh hái lượm, nghĩa là chỉ biết theo bản năng mà hưởng dùng
thiên nhiên, cũng chỉ để lại dấu vết hoá thạch của thân thể họ, không ghi dấu
ấn văn hoá nào.
Con người đi vào thời kỳ đồ đá
thô, rồi đồ đá mài v.v… càng sử dụng nhiều phẩm chất tinh thần (nhân linh) khi sử dụng
thiên nhiên, càng để lại dấu vết những tầng văn hoá phong phú hơn.
Con người tác động vao
thiên nhiên có thể mang tính vật chất hoặc mang tính tinh thần.
Lượm đá để ném muông thú hoặc
trái cây, đã bắt đầu là một động tác có tính văn hoá, mà dã thú không thể có
được. Nó đòi vận dụng "trí khôn".
Tất nhiên, mài đá thành dụng cụ,
khai thác quặng mỏ, rừng giá, thuần phục thú hoang v.v… cho đến những công
nghệ cao… đều là những nét trong công trình văn hoá, và kết quả nhìn thấy ngay
trên khoáng chất hoặc thú vật. Nhìn thấy thế, nên con người gọi là hoạt động
văn hoá có tính vật chất. Thực ra, cái làm nên tính văn hoá không là vật chất,
mà là tính sáng tạo của tâm não con người, tức tinh thần. Vì thế, Văn
hoá phải là hành động nhân linh.
Ngay những con người văn minh,
từng có những tác phẩm giá trị văn hoá cao, khi hành động hoàn toàn theo bản
năng mù quáng, thì cũng không có giá trị văn hoá.
2. Giá trị bao quát
Tuy sản phẩm văn hoá có chịu ảnh
hưởng và ghi dấu thời đại, địa lý, chủng tộc v.v… giá trị của công trình
văn hoá thường vượt khỏi sự đánh giá của tác nhân hoặc xã hội trong đó tác nhân
sống.
Khi tôi có một ý sáng tạo, một mô
hình trong óc tôi, tôi thưởng thức được, nhưng không có biểu hiện nào để một ai
hưởng được, thì ý đó, mô hình đó không thể được đánh giá như một hoạt động văn
hoá. Trái lại, ý tưởng hoặc mô hình như đã được diễn tả, có ảnh hưởng cho tôi,
cho tha nhân… càng nhiều thì càng có giá trị văn hoá.
Tất nhiên tính Bao Quát không
nhất định về trương độ phải như thế nào; nhưng nó vẫn cần được chấp nhận thực
sự do tuyệt đại đa số nhân dân trong phạm vi của nó, ổn định một thời gian
tương đối, để có thể đi vào nếp sống "giống
như tự nhiên", rồi lại tái phát hiện nơi con người hoặc môi
trường sống của con người như nhà cửa, ngôn ngữ, thơ văn.
Một bộ tộc ít người như BRAU ở
huyện Đắc Tô, chỉ còn cỡ hơn trăm người, nhưng họ vẫn có những nét văn hoá
riêng. Trong khi đó, hàng mấy chục ngàn người của một công ty, hàng triệu người
của một chính đảng có những kiểu nói, những y phục, những cung cách độc đáo của
họ… mà vẫn không thể nhìn nhận rằng họ làm thành nét văn hoá riêng.
Chính vì thế, giá trị công trình
văn hoá, khi được dân tộc hoặc loài người thưởng thức, thường vượt xa phạm vi
mà người làm văn hoá tưởng.
Tôi ca một bài ca
Nó bay đi nơi nào tôi
không biết
Vì ai mà theo được tiếng
ca bay trong không gian…
… Nhưng ngày kia
tôi thấy bài ca nở trên
môi một người…
Nguyễn Du chấm dứt Đoạn Trường
Tân Thanh với định giá rằng tác phẩm đó "mua vui cũng được một vài trống canh";
không ngờ nó là thi phẩm siêu tuyệt hàng thế kỷ!
Những người xây Tháp Bà không thể
ngờ được rằng cả mấy thế kỷ trôi qua, công trình của mình vẫn được coi là một
điểm văn hoá Chăm, mà nhiều người khắp các đại lục biết đến. Micaelangelo có
hài lòng cầm búa gõ vào trán tượng Môsê ông tạc ở Đền Thánh Phêrô Vatican và
giục "nói đi!"
hoặc cảm động muốn khóc khi nhìn khối cẩm thạch trắng đã thành tượng Pietà… thì
cũng không thể ngờ được đó là công trình văn hoá thiên kỷ ! Không thể ngờ được
rằng người các châu lục sẽ ngưỡng mộ công trình của mình. Đối lại, có những cá
nhân, những gia tộc, những trường phái hoặc phe đảng vì muốn nổi
tiếng toàn cầu, lưu danh thiên cổ mà
"sáng tạo ra những tác phẩm gọi là văn hoá", nhưng không đủ giá trị
nhân linh… thì cũng chỉ là công dã tràng. Công trình
của họ không được chấp nhận rộng rãi và lâu dài, nên không thể cấu thành yếu tố
văn hoá trong đời sống xã hội.
Khi kỹ thuật thông tin càng tinh
vi và bao trùm, thì giá trị nhân linh càng đòi hỏi cao, để có thể phổ biến và
tồn tại. Do đó, tác phẩm văn hoá ngày càng cần có phẩm chất cao hơn.
Tính bao quát cùng với tính
trường tồn của văn hoá sẽ cho người ta khả năng phân biệt văn
hoá bảo tàng và văn
hoá sinh hoạt.
Văn hoá Bảo Tàng là những công
trình văn hoá, có khi giá trị rất cao, nhưng thực sự không còn trực tiếp ảnh
hưởng đến đời sống con người nữa. Nó dành cho những người nghiên cứu, những học
giả, những du khách. Nó cũng gián tiếp mang lại lợi ích cho một số người. Thí
dụ: Những Tháp Chàm, những lăng tẩm các vua, những thứ ở trong các Bảo tàng
viện, dù là bảo tàng viện quân đội hoặc chính trị, những tục lệ như vẽ mình,
nhuộm răng, thách cưới v.v thuộc loại này, văn hoá bảo tàng.
Trái lại, văn hoá sinh hoạt vẫn
còn bàng bạc hoặc nổi bật trong đời sống người dân, không kể nó đã ra đời bao
lâu. Tục lệ Đầu Báo kéo theo nghĩa vụ "sống tết, chết giỗ",
nếp sống tình làng nghĩa xóm hoặc lượng giá tiếng
chào cao hơn mâm cỗ. Ngôn ngữ, văn tự quốc ngữ, kiểu cất nhà cửa,
trang trí bàn thờ gia đình… cũng chính là những nét văn hoá sinh hoạt rất giá
trị, nhiều khi không thể thay thế, nhưng người ta quá quen, nên thường khi
không nhận ra giá trị văn hoá của chúng, mà chúng vẫn bao trùm và nuôi dưỡng
toàn dân.
3. Giá trị trường tồn
Không thể thành văn hoá, nếu đã
không đủ độ dài lịch sử. Người ta gọi đó là tính lịch sử của văn hoá. Để tránh
lầm với giá trị lịch sử của một nét văn hoá nào đó trong một giai đoạn nào đó,
chúng tôi gọi đây là giá trị trường tồn. Nó phải "làm đẹp và cảm hoá"
con người trong một thời gian nào – thường phải nhiều thế hệ – mới đủ để coi
như một nét văn hoá của xã hội này. Nhảy "sol-đố-mi" đã có hồi phổ
biến cả miền Bắc, nhảy "lam-bâ-đa' cũng từng sôi lên khắp nước với cả ngàn
loa phóng thanh; nhưng nó đã lịm tắt và không thể là nét sinh hoạt văn hoá của
Việt Nam như đã và vẫn là nét văn hoá của một số nước. Chúng không sao đạt được
tầm mức của tuồng, chèo, quan họ và lý….
Chính vì thế, một dân tộc quá bén
nhậy tiếp thu những nét đẹp của các nền văn hoá bạn, lại dễ trở thành dân tộc
nghèo nàn về văn hoá đặc trưng. Y phục nam giới của chúng ta gần mất trọn nét
văn hoá của mình, văn hoá Mã-lai như đa số các nước Ấn Hồi còn giữ được. Nếu
không có Le Mur (hoạ sĩ Cát Tường) và báo Phong Hoá Ngày Nay thì hẳn y phục nữ
của chúng ta cũng chung số phận rồi ! Ca sĩ thì chưa, nhưng nhạc công ngũ âm
của chúng ta đã có nhiều người nghẹo cổ nhịp chân giống nhạc công tân nhạc Tây
phương, và cây tiêu hoặc huyền cầm trong tay họ không chịu nổi cử điệu họ. Đó
là nét văn hoá lai căn.
Trái lại, khi nét đẹp văn hoá đã
có một trương độ bao quát và trường độ thích đáng, nó có thể trở thành văn
hoá truyền thống. Văn hoá truyền thống phải là từ thế hệ qua thế
hệ. Bởi Truyền là chuyển qua, Thống phải có manh và có mối,
có gốc và
có ngọn… có thể tập hợp lại được. Văn hoá truyền
thống có phần tái tạo, nhưng phải có gốc rễ trước. Chính vì thế, nó về Truyền
thống, hoặc Văn hoá truyền thống mà người này chỉ "cái này do tôi",
"cái kia là của chúng
tôi" thì không có gì là truyền thống; mà e rằng cũng khó có
Văn Hoá, bởi chưa phải là giá trị phổ quát!
Đừng vội! Những gì có giá trị
Chân Thiện Mỹ sẽ tồn tại.
[6] Lượng giá Văn hóa
Người ta thường dùng hoặc lợi dụng văn hoá hơn là lượng giá văn
hoá. Hơn thế, gần như không thể có tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan và chuẩn để
lượng giá một công trình văn hoá. Vì mang tính nhân linh, lại phải có một quá
trình, nên một công trình văn hoá thường được đánh giá rất khác nhau.
1. Tính tương đối trong các lượng giá về văn hoá.
Có thật nhiều nguyên nhân làm biến đổi giá trị văn hoá, những
nguyên nhân làm người lượng giá thấy những trị giá khác nhau của cùng một công
trình văn hoá.
Chúng ta điểm sơ qua ba nguyên nhân:
1.1. Tính đa diện
của một công trình hoặc thành quả văn hoá.
Mỗi cá nhân hoặc tập thể, ở mỗi nơi, trong mỗi thời gian lại có thể nhìn một
diện trong nhiều diện của văn hoá. Người hoan nghênh văn hoá về diện thưởng
thức được vẻ đẹp. Người khác tìm tính thiện trong cùng công trình văn hoá đó.
Người khác nữa lại tìm công dụng giáo hoá của cũng một công trình này. Tất
nhiên, họ thấy những giá trị khác nhau và mức độ đánh giá của họ về công trình
cũng khác nhau.
Phố cổ Hội An có giá trị
rất lớn với du khách, với những người muốn nghiên cứu kiến trúc thời Nguyễn, do
đó cũng có giá trị chính trị và kinh tế lớn cho những người quản lý… nhưng có
thể thiệt thòi cho những người chủ nhân thực sự của những nhà thuộc căn phố đó
vì không thể sửa lại cho đủ tiện nghi, không thể yên tịnh sống đời sống cá nhân
và gia đình mình v.v.
1.
Tính
tương đối vì điều kiện lịch sử
Việc lượng giá những thành tựu văn hoá cũng bị lệ thuộc nhiều điều kiện của
dòng lịch sử nhân văn. Do đó, mỗi thời mỗi khác. Những nhà, những đường phố cổ
như ở Hội An, như rất nhiều ở Macao, như cả vùng Cổ Roma… thực ra chẳng mấy giá
trị vào thời của nó được kiến tạo. Nhiều phố nhiều nhà khác cũng thế. Ai thích
ngó ai đâu. Chính dòng thời gian trôi qua, mà chúng tồn tại, tăng giá trị của
chúng.
Dòng lịch sử cũng có thể
thay đổi giá trị của một thành quả văn hoá. Thí dụ: Quần thể kiến trúc Cố Đô
Huế, hoặc y phục áo năm tà v.v… có giá trị công dụng hiện tại vào
thời Nguyễn; ngày nay chỉ còn giá trị chứng tích, thuộc loại văn
hoá bảo tàng. Những trống đồng, đàn đá… cũng như thế.
Đã thay đổi giá trị,
lượng giá cũng thay.
1.3. Tình tương
đối do bối cảnh
I. Do bối cảnh không gian: Chiều kích cũng như đường nét và màu sắc một
tác phẩm văn hoá luôn luôn bị chi phối một phần bởi bối cảnh.
Chùa Một Cột mà đặt vào
giữa Hồ Tây thì hẳn không thể được lượng giá như ở vị trí hiện nay. Màu xi-măng
của nhà thờ chánh toà Nha Trang mà đổi sang màu trắng sẽ giảm nhiều giá trị. Ca
sĩ mặc Jeans vừa hát vừa hét vừa vặn mình… thì hẳn là giá trị khác ca sĩ mặc áo
dài VN với giọng ca và cử điệu đó! Y phục dạ hội phải khác phẩm phục lễ tế.
II. Do bối cảnh tâm lý xã hội: Phù hợp hoặc chống chọi, giá trị văn hoá được
định mức tuỳ theo mức độ nó đáp ứng được mong muốn của người thưởng thức.
Những bài thơ hay của
Xuân Diệu tiền chiến bị coi như tội lỗi trong thời kháng chiến và lại được ca
tụng hôm nay. Biết bao tác phẩm văn hoá hôm qua trong chiến tranh, ngày nay chỉ
còn giá trị chứng tích; nếu trình bày như thời thượng thì thực là lạc lõng hoặc
bị chê cười. Những mẩu chuyện hoặc cử chỉ chọc cười của Âu Mỹ mang trình chiếu
y nguyên tại Việt Nam thường thất bại vì tâm lý Tây - Ta quá khác biệt.
2. Lượng giá theo tiêu chuẩn nhân văn
Lượng giá tác phẩm văn hoá theo tiêu chuẩn nhân văn, người ta
thường chia theo giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
2.1. Giá trị vật chất
Thực ra, không có giá
trị vật chất của văn hoá; gọi thế chỉ để nói rằng thành tựu công trình văn hoá
đó giúp ích cho con người về phương diện vật chất, trực tiếp đáp ứng những nhu
cầu thể xác.
Tất cả những thành tựu
tốt đẹp về lương thực, may mặc, cư trú, di chuyển v.v đều có giá trị này.
Đặc biệt nhất là ngày nay, thời mà nhiều người gọi là Văn Minh Vật Chất và văn
hoá tiêu dùng.
2.2. Giá trị tinh thần
Nói "giá trị tinh
thần của văn hoá" tức là nói thành tựu văn hoá đáp ứng nhu cầu của tinh
thần hoặc làm phong phú tinh thần con người, cá nhân hoặc tập thể. Chính những
thành quả của tư tưởng và tâm tình con người, tự chúng, đều có giá trị của văn
hoá tinh thần.
Một công trình kiến trúc
có giá trị vật chất, những đầu óc phác hoạ ra thiết kế đó mang giá trị tinh
thần. Các tác phẩm văn học nghệ thuật, các phương pháp giáo dục đạo đức và mở
mang kiến thức… đều có giá trị tinh thần của văn hoá đương đại và có thể có giá
trị tương lai.
Người ta trong mỗi địa
phương, mỗi giai đoạn lịch sử, có thể có những chuẩn mực lượng giá vật chất và
tinh thần của các thành tựu văn hoá. Những chuẩn mực đó càng nhiều tính nhân
linh, ít chất chủ quan, càng được nhìn nhận trong phạm vi rộng lớn và càng tồn
tại lâu dài.
3. Lượng giá theo
công dụng
Theo công dụng, người ta thường chia giá trị văn hoá làm hai loại
để đánh giá: Giá trị thưởng thức và giá trị đào luyện.
3.1. Giá trị thưởng thức
Giá trị thưởng thức thường
phát sinh từ chất VĂN, nét đẹp trong lãnh vực vật lý hoặc tâm lý, đạo đức.
Nét mềm mại trong hội hoạ và kiến trúc cổ truyền. Nét xinh đẹp duyên dáng trong
trang điểm con người và trang hoàng nhà cửa. Nét đẹp và mềm mại, êm đềm thường
gặp trong thơ lục bát, trong điệu hát dân ca. Những nét đẹp vừa rung động năng
khiếu thẩm mỹ của người thưởng thức, vừa âm thầm tôn vinh nền văn hoá hài hoà
của dân tộc.
Ngoài giá trị MỸ, văn
hoá có chất đẹp của CHÂN và THIỆN. Tính chân thật đơn giản vẫn là một trong
nhiều đặc điểm văn hoá, tại Việt Nam cũng như trong nhiều dân tộc khác. Chân
thật ngay cả trong những biểu tượng. Những trá hình và giả tạo không thể làm
nên giá trị văn hoá. Tế nhị và bóng bảy trong nếp sống văn hoá chỉ thêm đẹp cho
giá trị chân thành. Hai giá trị này lại phát sinh từ thiện tâm. Chính vì thế mà
những người tàn nhẫn hoặc tinh quái không làm văn hoá được, cũng không thưởng
thức được văn hoá.
3.2. Giá trị đào luyện
Chính là hiểu về giá trị
này mà chúng ta gọi "bộ văn hoá giáo dục". Nếu "mỹ"
liên hệ nhiều với “Văn” thì tính đào luyện liên hệ với Hóa nhiều hơn và nhằm
mục tiêu Chân, Thiện. Dùng Văn để giáo luyện, cho con người Hóa tốt đẹp hơn.
Những cuộc cách mạng quân sự và chính trị chỉ thành công lâu dài nếu đi sau
hoặc song hành với cách mạng văn hoá. Nhưng cách mạng văn hoá bao giờ cũng khó
khăn và lâu dài hơn cách mạng thuần quân sự hoặc kinh tế, chính trị.
Nếu muốn kỹ hơn, chúng
ta phân biệt đào luyện tinh thần và đào luyện nhân cách.
I. Đào luyện tinh thần thì đào
luyện cả trí và tâm.
Con người vượt xa hơn
muôn vật, dầu xuất hiện trên trái đất hàng trăm triệu năm sau động vật khác,
chính nhờ con người phát triển trí. Các nước Tây phương, hoặc theo văn hoá
Thiên Chúa giáo, đuổi theo, rồi vượt xa các nền văn minh cổ đại Ấn Độ và Trung
Quốc… vì họ chú trọng tới "ánh sáng", tới lý trí và luôn luôn đòi hợp
lý. Càng ngày, những chủ trương tiến bộ càng phải quan tâm đào tạo trí óc hơn.
Tuy thế, văn hoá đầu óc
đủ chế tạo máy móc tự động, mà chưa đủ giúp con người hạnh phúc. Muốn hưởng
hạnh phúc, văn hoá đào luyện tâm hồn cần hơn. Chúng ta thua các nước tiên tiến
hàng thế kỷ về công nghiệp kỹ thuật, nhưng chúng ta không thua - mà có lẽ thắng
- họ về tâm hồn và cuộc sống tương đối hạnh phúc. Bởi từ ngàn xưa, chúng ta vẫn
chú trọng tới văn hoá tâm linh.
II. Đào luyện nhân cách
Đào luyện nhân cách thì
nền văn hoá nào cũng có và nó tương đối với giá trị đào luyện tâm linh của nền
văn hoá đó. Tuy nhiên, phải nói ngay rằng trong những môi trường sống khác nhau
về thời đại và không gian, người ta cũng thường có nhiều ít khác biệt về quan
niệm nhân cách.
Người Tây phương chú
trọng tới Thẳng thắn hơn; Đông phương chúng ta thường chú trọng hơn vào Điềm
đạm. Tây phương đòi luôn trật tự; Đông phương cần điều độ. Tây phương tôn trọng
ranh giới; Đông phương thích hài hoà….
Tóm lại, có thật nhiều chủ trương và nhiều cung cách lượng giá văn
hoá. Không ai có quyền cho chủ trương của mình hơn của người khác.
Dầu sao, một tác phẩm, một thành quả, một công trình văn hoá phải
đạt một số trong những giá trị văn hoá mà chúng ta vừa sơ lược trên.
[7] Nền văn hóa truyền thống
Chúng ta đã biết rằng một hoạt
động văn hoá mang lại một thành quả văn hoá, nhưng nếu tất cả đều trôi theo
thời gian bọt bèo, thì dân tộc đó, miền xứ đó không có một nền văn hoá nào cả.
Họ đã sống những mốt sống hời hợt. Sống giữa những dòng văn hoá. Cần truyền
thống văn hoá nhiều thế hệ, để tạo thành nếp sống văn hoá. Cần nhiều nếp sống
văn hoá tương thích, để trầm lắng thành nền văn hoá.
1. Muốn có Nét Văn Hoá truyền
thống
Muốn có NÉT văn hoá truyền thống
thì phải có nét văn hoá được truyền đời, nghĩa là
1.1. Một hoạt động văn hoá
Một nét sinh hoạt cá thể hoặc tập
thể có giá trị chân thiện mỹ, được cộng đồng nhìn nhận và tiếp thâu, được chấp
nhận, thấm nhuần và biểu lộ.
1.2. Hoạt động văn hoá đó đi vào sinh hoạ tới mức ổn định
1.2. Hoạt động văn hoá đó đi vào sinh hoạ tới mức ổn định
Xin dùng một nét thật bình dị để
minh hoạ: Chiếc áo dài, hoặc y phục phụ nữ Việt Nam.
Trong những năm 1930-1940, chiếc
áo dài Việt Nam kiểu Cát Tường giống hiện nay xuất hiện; nhưng còn bị tranh
cãi thật nhiều trong cuộc sống thường ngày và trên sách báo. Sang những năm
'50-75, cùng với chiếc quần mềm mại, làm nên trọn bộ đồ phụ nữ Việt Nam, chiếc
áo dài không chỉ là đương nhiên của các em nữ sinh Trung và Đại học, mà của cả
các cô, các bà thành thị và nông thôn trong những ngày giờ lễ hoặc trong những
sinh hoạt không xô bồ.
Trong cả Việt Nam Cộng Hoà, tức
Miền Nam Việt Nam hôm nay, bộ đồ (mà chủ yếu là chiếc áo dài) đã hoàn toàn trở
thành quốc phục phụ nữ Việt Nam.
Cuộc cách mạng 1975 nhận chìm hết
các áo dài (có thời và có miền chìm luôn cả các tu phục) để "áo bà ba đen" thống
trị khắp nơi, khắp giới. Đồng thời, chẳng mấy người biết đến công của hoạ sĩ Le
Mur Cát Tường.
Chiếc áo dài chẳng cần ai bênh
vực nó hoặc truyền lệnh dùng nó nữa.
Tuy thế, nó còn chìm trong lòng
dân và đi vào nhiều phim ảnh, sách báo ngoại quốc liên quan đến Việt Nam.
Qua hai chục năm, nghĩa là khi có
nữ sinh của người dân thường Việt Nam từ trong nước đi ra ngoại quốc, chiếc áo
dài Việt Nam lại nhẹ nhàng bay lượn… như một trong những nét văn hoá được thế
giới yêu chuộng.
Được thế là vì đã có thời gian
chiếc áo dài ổn định với tâm tình Việt Nam e ấp, với nếp sống Việt Nam duyên
dáng, nghĩa tình.
1.3. Truyền thống
Chiếc áo tứ thân hoặc năm tà cũng
từng là y phục phụ nữ Việt Nam, qua nhiều thời gian ổn định, cùng với chiếc nón
quai thao và chiếc quần một ống.
Thật nhiều thế hệ không chỉ may
loại y phục đó cho con, mà có những bà mẹ còn cẩn thận giữ gìn y phục quý của
mình để trao lại cho con.
Đó là tính truyền thống.
Chính vì thế mà trước đây, khi
vua Nguyễn muốn cho phụ nữ mang quần hai ống, người dân đã rầm rầm phản đối,
những phản ứng còn lắng vào tận nguồn vốn ca dao:
Tháng sáu có chiếu vua ra
Cầm quần không đáy người
ta hãi hùng
Chẳng đi thì chợ chẳng
đông
Đi mà bóc lột quần chồng
sao đang!
Chính vì thế mà ngày nay, khi
nhắc lại văn hoá cổ truyền, người ta lại nghe chèo cổ, quan họ, lại thấy xuất
hiện nón quai thao với áo năm tà….
Nhưng giá trị đi vào truyền thống
đến thế rồi, mà ngày nay áo năm tà hoàn toàn biến khỏi sinh hoạt thường
ngày. Nó chỉ còn dùng cho "văn nghệ". Tại sao?
Vì tính nhân văn không ủng hộ nó
khi đã xuất hiện áo dài Cát Tường. Áo dài này mang lại thật nhiều chất Chân và
Mỹ hơn, vượt xa khả năng áo năm tà. Áo năm tà không làm nổi đủ những đường nét
cơ thể, cũng không giúp giữ gìn cơ thể bằng áo dài Cát Tường.
Văn hoá truyền thống không chỉ
tích luỹ, mà cần phải tái tạo hoặc biến đổi thích ứng, mới khỏi trở thành văn
hoá bảo tàng, dành cho du khách và nghiên cứu sinh!
2. Văn hoá truyền thống
Chỉ có thể coi là văn hoá truyền
thống khi những nét văn hoá ổn định như thế hoà với nhau và phát huy khả năng
đào luyện người dân.
2.1. Những nét văn hoá hoà
với nhau
Một vài nét văn hoá rời rạc không
làm nên truyền thống văn hoá được. Phải nhiều và tạm đủ những nét hoà với nhau
thành hệ thống trong cung cách cảm nghĩ, sống và giao tiếp của số tuyệt đại
người dân trong một miền, trong một giai đoạn đủ bề dài… thì mới tạo thành văn
hoá truyền thống được.
Hệ thống để thành một nền văn hoá
rất phong phú, vì bao gồm đủ diện sinh hoạt thể chất và tâm hồn con người, như:
Tư tưởng, kiến thức, nghệ thuật, đạo đức, tín ngưỡng, phong tục.
Chúng ta coi như thí dụ minh hoạ: Ngôn
ngữ, rồi chữ quốc ngữ đã
đi vào văn hoá truyền thống Việt Nam.
Ngôn ngữ này đủ phong phú để diễn
tả những gì người ta cảm nghĩ, mong muốn, đủ vững mạnh để những ngoại ngữ, dù
được truyền bá bằng danh vọng và quyền bính, không thể lấn lướt nó. Tiếng Tàu
vẫn của Tàu, tiếng Tây vẫn là của người Tây. Người Việt Nam dù nói thông thạo
với người Tàu, người Tây bằng chính ngôn ngữ của họ, thì trong đời sống thường
ngày, vẫn cứ dùng tiếng Việt.
Văn tự quốc ngữ cũng chỉ sau nửa
thế kỷ được chính thức nhìn nhận, đã thay thế được tất cả ba thứ văn tự từng
thống trị trên sách báo và đơn từ chính thức của VN hàng thế kỷ: Chữ Nho, Chữ
Nôm và chữ Pháp.
Ngôn ngữ văn tự ấy hoà vào mọi
sinh hoạt văn hoá và nghề nghiệp của người Việt Nam.
2.2. Những nét văn hoá đào
luyện con người.
Những thế hệ ấu nhi, thiếu nhi
đến Vườn Trẻ, lớp mẫu giáo và cấp một không chỉ để học toán lý và các khoa học,
nhưng trước hết để học ngôn ngữ và văn tự dân tộc mình; từ cách diễn tả tâm
tình cơ bản đến những vấn đề trừu tượng… bằng ngôn ngữ và văn tự của mình.
Tới một mức độ nào đó, ngôn ngữ
và văn tự này trở thành công cụ chuyển tải tâm tư của những thế hệ trước cho
thế hệ trẻ, để hiểu biết, để thông cảm và để được đào luyện trong văn hoá dân
tộc.
Đến giai đoạn này, những yếu tố
văn hoá như ngôn ngữ và văn tự mới hoàn toàn đi vào hệ thống. Khi đó mới có khả
năng góp phần làm phong phú Văn hoá truyền thống.
Ngay cả khi đó, nó vẫn còn phải
thích ứng với môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội, nó mới giữ được vị
trí văn hoá truyền thống trong sinh hoạt nhân dân.
2.3. Ân oán với Văn hoá
truyền thống
Chính vì Văn hoá là trầm tích,
trường tồn và là yếu tố đương nhiên ý thức hoặc vô thức đào luyện con người
trong phạm vi của nó, nên phát sinh ân hoặc oán nó.
2.3.1. Thọ ân và tri ân
văn hoá
Bao lâu và ở đâu hậu quả văn hoá
còn được coi là lợi ích cho con người - cá nhân hoặc cộng đoàn - thì người ta
hãnh diện về nó, mang ơn nó.
Bao lâu và ở đâu người ta cảm
thấy nó đã là ác quả, thì người ta oán hận nó.
Chữ quốc ngữ là một hãnh diện của
chúng ta, vì một em nhỏ chỉ cần học vài tháng là có thể đọc các sách, trước đó
cha ông mình phải học hàng chục năm. Tuy các em có thể khổ về khó nhớ khi nào
viết G, khi nào GH hoặc khi nào I, khi nào Y…. Đó là phạm vi ngỏ cho chúng ta
góp sức với tiền nhân. Còn những phàn nàn vì diễn không hết cách phát âm nên
đổi Ph với F hoặc thêm Z thành DZ… thì bị đa số cho là “vẽ rắn thêm chân”.
Nói chung, mình phải được chỉ cho
thấy, phải tự nghiệm để chân nhận những lợi ích của những thành tựu văn hoá
mình được hưởng dùng. Có thế, mình mới ham thích tiếp thâu, mới sung sướng
hưởng dùng được. Càng sung sướng phát huy được những tiềm năng và lợi ích văn
hoá dân tộc, mình càng biết ơn tiền nhân và góp phần xây dựng.
2.3.2. Oán trách văn hoá
dân tộc và tiền nhân
Cứ đọc Đoạn
Tuyệt của Nhất
Linh, sẽ thấy Loan oán giận chế độ đại gia đình và mãnh liệt chống đối thế nào.
Cứ đọc Nửa Chừng Xuân là thấy tội nghiệp cho Mai và
bé Ái. Cứ đọc KHAO của Đồ Phồn sẽ cảm nhận được
tục lệ khao vọng nó tàn ác chừng nào với kiếp người. Giọng mỉa mai hài hước của
tác giả khiến người đọc không thể nhịn cười, nhưng càng cười càng xót xa.
Cha ông chúng ta từng hãnh diện
về những tục lệ chung quanh việc cưới hỏi, khao vọng, tang chế v.v.; nhưng
ngày nay người ta đã bỏ hầu hết những tục lệ đó. Tại sao? – Vì hại
thời giờ và tiền bạc, hại nhất là tự do của chàng và nàng… Thậm chí
có những cặp tình nhân không thể lấy nhau được chỉ vì một trong những tục lệ
đó. Thí dụ không tương xứng về gia cảnh, không thích hợp về năm
tuổi (con tinh của năm sinh: tuổi
Dần và tuổi Hợi chẳng
hạn).
Phong trào Duy Tân, Tự Lực Văn
Đoàn v.v. đã chiến đấu biết bao với những nét Văn Hoá Truyền Thống, nhất là về
gia đình. Những tác phẩm như Nửa Chừng Xuân, Đoạn Tuyệt dẫn đến việc hô hào người trẻ “Theo mới, hoàn toàn theo mới, không
chút do dự” [1].
Trong lịch sử văn hoá Việt Nam
chưa bao giờ có một cuộc đòi cải cách toàn diện văn hoá như thế.
Tất nhiên rằng cách mạng văn hoá
do chính quyền “vô sản” chủ trương thì lại có những đường nét rất khác. Chúng
ta sẽ coi khi nói về Văn Hoá Việt Nam hôm nay.
2.3.3. Quy luật điều chỉnh
và tái tạo
Văn hoá nói chung và Văn hoá
truyền thống, cũng giống như bản thân mỗi người hoặc cả nhân loại, không hề và
không thể đòi “giữ nguyên vẹn” ở mọi nơi, mọi thời. Phải thích ứng với thời
gian, không gian, nghĩa là với con người trong môi trường sống của mình. Người
ta đòi Thích Nghi Văn Hoá.
Quá vội thay đổi là Cấp tiến, mà
“duy ý chí”.
Quá chậm thay đổi là Bảo thủ, là
cổ hủ, để Thủ tục thành Hủ tục. Đó cũng là thái độ của những người “duy ý chí”.
Bổn phận mọi người, nhất những
người có trách nhiệm giáo dục cần xem xét luôn để có thể luôn tạo điều kiện mà
thích ứng và tái tạo Văn Hoá Truyền Thống.
Việc này đòi tất cả chúng ta,
nhất là giới lãnh đạo và giới truyền thông đại chúng phải hết sức thận trọng.
Thí dụ trong cung cách Thầy Trò. Người ta bỏ mất đạo sư đệ và tình đồng môn;
nhưng lại nhấn mạnh đến Tết Thầy, Biết ơn và Nâng đỡ
giáo viên… là người ta phá huỷ tinh hoa và mở đường bội bạc, vì bắt
buộc phải “mua điểm”.
Cũng đòi phải có đầu óc tổng hợp
để tránh mâu thuẫn và phá hoại, vì một mặt văn hoá đòi hệ thống, mặt khác chính
những con người là chủ thể của mọi nét văn hoá. Nếu lãnh đạo dùng quyền áp đặt,
sẽ mất tính Nhân Linh và thất bại thê thảm. Nếu mỗi thành phần lãnh đạo chỉ
biết “tăng cường lãnh đạo,
tham gia sáng kiến” trong phạm vi của mình, mà xung đột với lãnh
đạo những phạm vi khác, hoặc tổng hợp quá tải… thì dân thật khổ sở và mất linh
hồn của văn hoá Chân, Thiện, Mỹ!
Tóm lại, cần luôn nhớ và ứng dụng
quan niệm đúng văn hoá; Văn Hoá là hệ thống các giá trị tinh thần và thể chất,
do con người sáng tạo và tích luỹ, khi hoạt động tương tác giữa con người và
môi trường.
Nhất Linh
“Đoạn tuyệt”
Hoàng Đạo
“Mười điều tâm niệm”
[8] Cấu Trúc Văn Hoá
Thật nhiều trường hợp người ta
hoạt động văn hoá không đúng, có hại, là vì người ta không quan niệm rõ và nắm
vững về Cấu Trúc Văn Hoá, nói chung.
1.Văn hoá có cấu trúc
Văn hoá có hệ thống, nếu không,
văn hoá có thể tạo nhiều xáo trộn trong đời sống tập thể, mà không thể có giá
trị bao quát và trường tồn [1], không thể ổn định như một
hệ thống đào luyện người dân và thành gia tài truyền thống từ thế hệ sang thế
hệ.
Cấu trúc đó gồm những giá trị
tinh thần và vật chất cấu kết với nhau trong đời sống tập thể.
2. Thành tố Tinh Thần
Thành tố tinh thần của một nền
văn hoá là thành tố chính yếu. Không mấy người [2] gọi thành tố này là Văn
hoá Nhận thức. Thiết tưởng đây chỉ là một trong những thành tố làm
nên văn hoá, không thể LÀ văn hoá. Các tổ chức mà chúng ta thường gọi là văn
hoá trong đời sống chính trị, xã hội, cũng chỉ nhắm vào một vài hoạt động nào
đó có tính văn hoá. Bộ Văn hoá Giáo dục chẳng hạn chỉ chuyên trách về trường
học và sách giáo khoa. Bộ Xã hội, Bộ Kinh tế tài
chính v.v. chuyên
trách về những mặt khác cũng mang tính văn hoá.
Thành tố Tinh Thần trong cấu trúc
văn hoá bao gồm những suy tư, những nhận thức và những biểu cảm liên quan đến
tâm tư của con người khi hướng về con người hoặc vũ trụ, thường gọi là
Nhân-sinh-quan và Vũ-trụ-quan.
Về nhận thức cá nhân, chúng ta
quen xếp loại vào các khoa Sinh lý, Tâm lý, Luận lý, Đạo đức và Tâm linh, trong
đó có tín ngưỡng tôn giáo.
Về nhận thức thế giới khách quan,
thành tố tinh thần của văn hoá thường phát hiện trong hoạt động khám phá và
tương quan với tha nhân và vạn vật, với ngọn nguồn của muôn vật như những quan
niệm về Thiên Địa,Thượng đế, về tông giáo….
3. Thành tố Thể chất
Trong tầm nhìn thường nhật, người
ta thấy những nét văn hoá về Thể chất nhiều hơn về Tinh thần. Nói đúng hơn: đó
là những công trình có tính văn hoá phục vụ trực tiếp cho thân thể con người.
Khởi từ những đáp ứng thô sơ cho
nhu cầu ăn uống, ngủ, nghỉ của thời “ăn
lông, ở lỗ ”
đến những khoá học và phương pháp nấu ăn, những công ty toàn cầu như Coca-Cola,
Microsoft, những tiện nghi của khách sạn năm sao….
Từ tập tễnh đi bộ đến những
phương tiện di chuyển nhanh hơn tiếng động, những đoạn đường đi không phải
bước, những cánh cửa không cần giơ tay đóng mở, vượt cả huyền thoạt Aladin, cả
khoa học giả tưởng Jules Verne v.v..
Ngay cả việc vận động cơ thể cũng
nảy sinh thể dục thẩm mỹ, nghệ thuật trượt tuyết, trượt băng, đu giây, lướt
sóng v.v.
Con người ngày càng phát triển
những công trình văn hoá có tính đa năng, phục vụ đồng thời cho cả thể xác,
tinh thần. Giải trí mà là học, du ngoạn mà huấn luyện, hành nghề kiếm tiền mà
mở mang kiến thức, trau dồi thêm kỹ năng….
4. Thành tố tương tác đưa tới cấu trúc loại hình văn hoá
Mỗi thành tựu văn hoá thực sự lợi
ích cho con người, cá nhân hoặc tập thể, đều mang tính tương tác thích hợp.
- Đơn giản nhất là tương tác giữa tinh thần
và thân thể một cá nhân. Khi gắng toàn lực vào hưởng thụ hoặc phát huy một
nét văn hoá về thể chất mà quên lơ hoặc đi ngược tinh thần, con người mang
hoạ, như vận động viên dùng chất ma tuý, như nhà nông dùng quá nhiều phân
hoá học, quá nhiều thuốc trừ sâu và nhiều chất tăng trọng. Bạn quá miệt
mài với giá trị văn hoá tinh thần mà quên những điều kiện tối thiểu cho
thân thể, bạn sẽ như nhạc sĩ Mozart hoặc như những sinh viên từ trường thi
vào bệnh viện.
- Trong môi trường xã hội, ảnh hưởng tương
tác giữa những con người, tập thể với cá nhân, giữa những người chuyên
nghiệp khác nhau như chính trị, kinh tế, khoa học v.v. càng là thành
tố quan trọng hơn để phát triển hoặc phá hoại văn hoá.
Đặc điểm này của văn hoá khởi đầu từ cá nhân. Ngay cả những
phong trào cuốn hút hàng triệu người, hàng tỉ người, cũng bắt đầu từ một cá
nhân.
Nhờ vài nhà bác học mà con người có thể chiến thắng bệnh truyền
nhiễm, phong cùi. Nhờ mấy cái đầu siêu tuyệt mà nhân loại biết dùng sức mạnh
của hơi nước, điện, từ, vi điện tử…. Nhờ mấy trái tim cảm thông mà con người
bắt đầu chiến đấu để đa số thoát ách thống trị của thiểu số đặc quyền, mà con
người can đảm thí nghiệm kinh tế hiệp thông thay cho cộng sản hoặc tư bản, mà
con người dám bắt đầu xây dựng nền văn minh tình thương v.v.
- Với môi trường thiên nhiên cũng thế. Thường từ một cá nhân mà con người biết hưởng dùng hoặc đối phó với siêu nhiên. Sau đó, nhờ tương thân tương trợ, mà thành tựu tốt đẹp mới trở thành một nét văn hoá cho cả dân tộc, cả chủng hoặc toàn nhân loại. Có những nét văn hoá được bảo dưỡng hàng triệu triệu năm, như nghề nông hoặc chăn nuôi. Có những thành tựu chỉ được tin dùng một ít thế kỷ, rồi được thay thế bằng những phương tiện nhân đạo hơn, như dùng sức kéo của người và thú vật. Sức kéo ngày nay do điện và từ lực, do nước, gió v.v.
- Tất cả những công việc khám phá và biến
đổi thiên nhiên mang nhiều nguy hiểm đang từ từ được thay thế bằng máy móc
điện tử.
Cấu trúc văn hoá, vì thế, tuy cơ
bản trường tồn, mà vẫn từ từ có biến đổi, nhất là trong những phương tiện phục
vụ con người. Con người ngày càng phát huy nhân quyền, phát huy quyền “làm chủ” đièu hành và sử dụng thiên nhiên.
[9] Chủng loại văn hoá
Vì những nét đẹp giống nhau
có thể gặp thấy ở từng vùng, từng thời; trái lại, cũng có những đường nét
hoặc trình độ văn hoá không giống nhau… nên người ta thường bàn tới toạ
độ văn hoá hoặc định
vị văn hoá.
Khổ nữa, văn hoá không phải hoàn
toàn bất biến, và những thành tố văn hoá, những diện văn hoá của một vùng, một
dân tộc, cũng không thay đổi tương đương và đồng bộ. Vì thế mà có những thuyết
khác nhau để giải thích.
Giáo sư Trần Ngọc Thêm viết:
“… tựu trung lại, có thể quy về ba thuyết:
Từ cuối thế kỷ XIX ở Tây
Âu đã phổ biến thuyết
khuếch tán văn hoá (cultural
diffusion) với những đại biểu như F. Ratsel, L. Frobenius, F. Grabner, W.
Schmidt ở Đức, Áo; G. Eliot Smith, W. Rivers ở Anh – Quan điểm chủ yếu của
những người theo thuyết này là văn hoá được hình thành từ một trung tâm rồi
được “truyền bá”, “lan toả” ra các nơi khác bằng cách mô phỏng hoặc nhờ những
cuộc thiên di của các dân tộc. Có lan toả toàn bộ hoặc lan toả bộ phận (truyền
bá những yếu tố riêng lẻ của một nền văn hoá), lan toả tiên phát (trực tiếp từ
nơi phát sinh) hoặc lan toả thứ sinh. Việc cực đoan hoá thuyết này đã dẫn đến
chỗ bị giới cầm quyền thực dân lợi dụng để đề cao dân tộc này và khinh rẻ các
dân tộc khác, do vậy mà nó từng bị kết án là một “học thuyết tư sản”.
Đầu thế kỷ XX, từ những ý
kiến của F. Boas, các nhà nhân chủng học Mỹ C.L. Wisler và A.L. Kroeber đã phản
đối thuyết khuếch tán văn hoá và đề xuất thuyết vùng văn hoá (cultural
Areas). Trên cơ sở nghiên cứu văn hoá các dân tộc da đỏ Mỹ, các tác giả khẳng
định sự tồn tại của nhiều dân tộc trên cùng một vùng lãnh thổ mà văn hoá của họ
có những điểm chung.
Từ cách tiếp cận vùng văn
hoá trên cơ sở một đặc trưng hạn hẹp, C.L. Wisler và một số tác giả về sau đã
đi đến kết luận về sự cần thiết lựa chọn một tập hợp những đặc trưng tạo nên tip hay loại hình văn hoá vùng. Trên cơ
sở quan điểm này, từ những năm 30, trong dân tộc học Xô-viết đã hình thành thuyết loại hình kinh tế - văn
hoá mà đại
biểu là N.N. Cheboksarov và một số tác giả khác. Các tác giả cho rằng trong
lịch sử văn hoá nhân loại từng tồn tại ba nhóm loại hình kinh tế - văn hoá:
loại hình kinh tế - văn hoá săn bắt, hái lượm và đánh cá; loại hình kinh tế -
văn hoá nông nghiệp dùng cuốc và chăn nuôi; loại hình kinh tế - văn hoá nông
nghiệp dùng cày với sức kéo động vật. [xem Cheboksarov 1971] “
Giáo sư Thêm nhận xét về ba
thuyết đó:
“Mỗi một trong ba thuyết
trên đều ít nhiều có hạt nhân hợp lý của nó. Chúng thực ra không mâu thuẫn, mà
bổ sung cho nhau, mỗi thuyết thích hợp cho những điều kiện khác nhau.
Thật vậy, nếu các dân tộc
chủ nhân của các nền văn hoá, cũng như các ngôn ngữ của họ, xuất phát từ cùng
một gốc, thì giữa văn hoá gốc và các nền văn hoá này có thể có quan hệ “khuếch
tán”, lan toả.
Nếu các nền văn hoá gần
gũi nhau về địa lý thì chúng có thể từ tiếp xúc đến giao lưu với nhau, và trong
việc giao lưu ấy có thể xảy ra hiện tượng những yếu tố của nền văn hoá này thâm
nhập vào nền văn hoá kia (tiếp thu thụ động) hoặc nền văn hoá này vay mượn
những yếu tố của nền văn hoá kia (tiếp thu chủ động); rồi trên cơ sở những yếu
tố nội sinh (endogenous) và ngoại sinh (exogenous) ấy mà điều chỉnh, biến cải
cho phù hợp, gây ra sự tiếp biến
văn hoá (acculturation).
Các nền văn hoá gần gũi và giao lưu này tạo nên những vùng văn hoá. Cũng có thể
phân biệt vùng văn hoá ngay trong nội bộ một nền văn hoá….
Các thuyết và các khái
niệm nêu trên đều có thể được vận dụng ở những mức độ khác nhau. Chẳng hạn, lý
thuyết vùng văn hoá sẽ rất hữu hiệu cho việc xác định các vùng văn hoá của
người Việt và các tộc ít người như văn hoá sông Hồng, văn hoá đồng bằng sông Cửu
Long, văn hoá Tây Nguyên [Xem Ngô Đức Thịnh 1993 [3],
Huỳnh Khải Vinh 1995 [4]];
lý thuyết về sự lan toả thích hợp cho việc giải thích sự tương đồng văn hoá
giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo….
Song, để làm sáng tỏ bản
sắc của vùng văn hoá Việt Nam, điều quan trọng hơn là nêu được sự đồng nhất và
khác biệt giữa nó với các nền văn hoá khu vực (như Trung Hoa) và thế giới (như
phương Tây). Trong sự so sánh này, việc xác định loại hình văn hoá là hết sức
quan trọng. Chỉ ra được các loại hình với mức độ khái quát cao và những đặc
trưng của mỗi loại, ta có thể căn cứ vào đó mà xếp bất kỳ một nền văn hoá nào
vào trong các “ngăn” phân loại đã có. Ba loại hình kinh tế - văn hoá của N.N.
Cheboksarov thiên về các đặc điểm mang tính lịch sử - kinh tế mà chưa đồng thời
phản ánh được các đặc trưng địa lý – khu vực là điều không kém phần quan trọng
đối với việc xác định một nền văn hoá…” [5].
Sau đó, giáo sư Thêm nhắc nhớ
nguồn gốc nhân loại theo mấy nhà bác học, để dẫn tới Đông phương và Tây phương,
rồi ông nhận định:
“Bởi văn hoá là sản phẩm
của con người và tự nhiên nên nguồn gốc sâu xa của mọi sự khác biệt về văn hoá
chính là do những khác biệt về điều kiện tự nhiên (địa lý - khí hậu) và xã hội
(lịch sử - kinh tế) quy định.”
Khẳng định đó của giáo sư Thêm
khá đúng “văn hoá là sản
phẩm của con người và tự nhiên”. Đúng hơn, phải nói: Văn hoá là sản
phẩm của con người TRONG THIÊN NHIÊN. Tuy thế, những người nhìn văn
hoá lan toả và văn
hoá vùng đâu
có phủ nhận đó là sản phẩm của con người trong thiên nhiên.
Những lời tiếp theo của giáo sư
cho một nhận định không thể nói là đúng: “nguồn
gốc sâu xa của mọi sự khác biệt về văn hoá chính là do những khác biệt về điều
kiện tự nhiên (địa lý - khí hậu) và xã hội (lịch sử - kinh tế) quy định”.
Những hàng tiếp liền của giáo sư vừa mâu thuẫn với khẳng định đó, vừa hàm
một phân chia và lý luận không đúng: Ông nói đến vùng đất có mưa nhiều và vùng
đất mưa ít, gọi đó là Đông và Tây phương thì không đúng. Lượng mưa theo vĩ
tuyến, mà Đông Tây theo kinh tuyến. Càng là hoặc gần xích đạo, càng nhiều mưa.
Do đó, năm hàng này hiển nhiên
đúng:
“Môi trường sống của các
cộng đồng cư dân ở phương Đông (chính xác hơn là Đông Nam) là xứ nóng sinh ra mưa nhiều (ẩm), tạo nên những
vùng đồng bằng nằm
trong lưu vực các con sông lớn…. Còn phương Tây (chính xác hơn: Tây Bắc) lại là
xứ lạnh với
khí hậu khô, tạo nên những vùng đồng cỏ mênh
mông.
Hai loại hình đồng bằng và đồng cỏ dẫn
đến chỗ cư dân của hai khu vực phải sinh sống bằng hai nghề khác nhau: trồng
trọt và chăn nuôi. Kinh tế trồng
trọt bắt buộc người dân phải sống định cư, vì trồng cái cây xuống thỉ phải chờ
cho nó lớn lên, ra hoa kết trái để còn thu hoạch. Ấy là chưa kể đến những
loại cây lâu năm, phải trồng công phu, phải chờ 5-10 năm mới có quả, rồi lại
thu hoạch nhiều lần. Lối sống chăn
nuôi thì khác: Tài sản của dân du mục là đàn gia súc. Gia súc
ăn cỏ và không bị cố định như cái cây, ăn hết cỏ không thể ngồi đợi cho cỏ mọc
mà phải đi tìm bãi cỏ khác. Cho nên sống bằng nghề du mục là lối sống du cư –
vừa đi vừa ở nay đây mai đó lang thang.
Kết quả là hình thành một
cách khá rõ ràng hai loại văn hoá: Văn hoá nông nghiệp thì lo tạo dựng một cuộc sống ổn định
lâu dài, không xáo trộn - chúng mang tính chất trọng tĩnh; văn hoá du mục thì
tổ chức làm sao để có thể thường xuyên di chuyển một cách gọn gàng, nhanh
chóng, thuận tiện - chúng mang tính chất trọng động. Các nền văn hoá hiện đại dù đang
thuộc giai đoạn văn minh nào (nông nghiệp, công nghiệp, hay thậm chí hậu công
nghiệp) cũng đều không thoát ra ngoài hai loại hình ấy. Căn cứ theo nguồn gốc,
có thể gọi chúng là các nền VĂN HOÁ GỐC NÔNG NGHIỆP và các nền VĂN HOÁ GỐC DU MỤC,
căn cứ theo tính chất, có thể gọi chúng là các nền văn hoá TRỌNG TĨNH và TRỌNG
ĐỘNG” .
Thiết tưởng chúng ta có thể tạm
kết rằng Con người từ bỏ đời sống hái lượm mới qua cuộc sống “có văn hoá, mà
phân biệt loại hình văn hoá đầu tiên là Văn hoá Nông nghiệp và Văn hoá Du mục.
Chúng tôi gọi Chủng Loại Văn Hoá,
vì yếu tố con người. Du canh hoặc du mục, con người những thế kỷ đầu [6] đều sống quần tụ theo Chủng Tộc của
mình. Một chủng cũng có thể sống ở nhiều nước, nhiều dân, cả trong lục địa lẫn
hải đảo; những nét văn hoá giống nhau giữa các dân tộc không chỉ do lan
toả, mà có thể chính là do khuếch tán vì cùng chủng hơn là do địa lý. Vì con người
chịu ảnh hưởng của người hơn của thiên nhiên. Con người mang định mạng điều
hành Thiên nhiên [7] .
[1] Xem lại [6]
[10] Chuyển Biến Văn Hoá
Chúng ta nhắc lại: Người ta theo
văn hoá Tĩnh hoặc Động là vì tính khí của mình và vì sau thời kỳ thuần hái lượm
cây trái và thú vật để sống, con người thấy mình thích hợp với Nông
nghiệp hoặc Du mục. Hai nghề này lại do địa lý và khí hậu đề nghị cho từng
chủng tộc. Mà khí hậu không phân theo Đông-Tây, cũng không hẳn Nam-Bắc; nhưng
Xích Đạo và khoảng cách với xích đạo là nguyên nhân chính, núi cao hoặc bình
nguyên và đại dương là phụ, vì cơ bản sức nóng là do mặt trời. Vậy nên không
nói được rằng Tây phương du mục, Đông phương làm nông:
1. Một quan niệm thời thượng
“Điển hình cho loại trọng
tĩnh (gốc nông nghiệp) là các nền văn hoá phương Đông, còn điển hình cho loại
trọng động (gốc du mục) là các nền văn hoá phương Tây”
Nói đến chuyển đổi văn hoá, nhận
xét này của giáo sư Thêm càng không đúng địa lý, lịch sử và xã hội “Chính vì động nên các nền văn hoá phương Tây đã chuyển
biến rất nhanh. Trong khi phần lớn các nền văn hoá phương Đông đến nay về cơ
bản vẫn mang tính nông nghiệp thì các nền văn hoá Tây phương đã chuyển sang
công nghiệp từ lâu.
Con đường chuyển biến từ du
mục đến nông nghiệp đi qua giai đoạn thương nghiệp: Ban đầu là du mục, nhưng
trong khi lang thang từ nơi này sang nơi khác, người ta nhận ra sự khác biệt về
giá cả, vì vậy họ đã chuyển sang mô hình kết hợp du mục + buôn bán. Khi hàng
hoá dồi dào và thấy buôn bán có lợi hơn chăn nuôi, người du mục sẽ từ bỏ chăn
nuôi mà chuyển hẳn sang thương
nghiệp. Nhưng thương nghiệp thì phải có kho bãi, phải có nơi gặp gỡ để
trao đổi hàng hoá. Và thế là cuộc sống định cư hình thành, dân số tăng lên, các
kho bãi, chợ búa sẽ phát triển thành đô thị. Để phục
vụ nhu cầu của đô thị và có hàng hoá trao đổi lấy hàng nông nghiệp về nuôi sống
đô thị, đồng thời với sự phát triển của khoa học – sản phẩm của tư duy phân
tích, một xã hội công
nghiệp sẽ hình
thành.”
2. Nên nhận xét sâu hơn
Có thể vì vội vàng, có thể vì
“phương pháp luận” không đúng, giáo sư Thêm mắc vài ba khuyết điểm trong những
hàng trên, chúng ta không thể chấp nhận, mà cần quan niệm lại cho đúng.
2.1. Không đúng: “Từ du
mục đến thương nghiệp… đến công nghiệp”.
Xét về nhu cầu: Sau khi dùng đủ,
người du mục muốn hoặc cần bán gia súc cũng như nhà nông cần bán nông sản thôi.
Xét về hàng hoá bán ra và mua
vào, xét về điểm hẹn để buôn bán, nhà nông vẫn có nhiều ưu thế hơn du mục, cuộc
sống đơn giản và không định cứ.
Về mặt lịch sử: Hai
con đường buôn bán nổi tiếng thời thượng cổ là con đường tơ lụa và con đường hồ
tiêu, hoặc hương liệu, là hai con đường mua bán Nông Phẩm, không
phải của du mục. Điểm xuất và điểm nhập cũng là những nước nông nghiệp.
2.2. Không đúng: Tây
phương đi từ du mục qua thương nghiệp tới công nghiệp
Vì sao nói “quan niệm trên không
đúng”?
Lịch sử Tây phương hoặc Âu châu
ghi đậm nét sự kiện họ là những dân du mục (man
di ) vào phân
chia đế quốc Roma từ thế kỷ V đến VIII, và họ đều được các Thày Tu Thiên Chúa
Giáo – nhất là đan tu Biển Đức với châm ngôn “cầu nguyện và làm ruộng = orare et laborare”
– dạy họ canh tác và hình thành ngôn ngữ văn tự… để hình thành bản đồ
Châu Âu. Họ cơ bản làm nông, chăn nuôi làm phụ, cho tới khi máy móc chào đời. Máy
hơi nước cũng
ưu tiên khởi đầu được ứng dụng vào ngành dệt. Sau đó được
đưa vào ngành luyện thép, rồi đường sắt… lúc đầu nhằm
chuyên chở nông sản, rồi mới tới khoáng sản làm nhiên
liệu v.v.
Phát triển hàng hải ghe buồm với
ưu thế của Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha… mà phát triển hàng hải với máy hơi nước là
ưu thế của Anh quốc.
Chỉ khi đó mới phát triển thương
mại quốc tế và đô-thị-hoá để đi vào ngành công nghiệp.
Vậy nên nhận đình rằng:
2.2.1.. Rõ ràng không phải vì du
mục mà Tây phương chuyển sang thương nghiệp và công nghiệp.
2.2.2.. Các nước Âu Châu, và từ
thế kỷ 18 thêm Mỹ châu, tuy còn nhiều phong tục của mỗi sắc dân, nhưng họ có
chung một Văn hoá Thiên Chúa Giáo. Thiên Chúa Giáo có chương đầu Thánh Kinh
dạy: con người giống Thiên Chúa, nên con người có nhiệm vụ phát triển và làm
chủ vũ trụ vạn vật này . Thánh Kinh còn dạy họ coi nhau như anh em, phải
đi khắp thế giới loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa [1].
Tôi cho rằng chính Văn Hoá Thiên
Chúa giáo hoặc là Do-thái-Kitô-giáo, là yếu tố tiến bộ của các dân Âu Mỹ. Thiên
Chúa giáo ngành Hồi-giáo, từ thế kỷ VII, cũng là yếu tố tạo văn hoá tiến bộ cho
các dân Ả-rập và những nước theo Hồi giáo.
Yếu tố này, hàng chục thế kỷ sau
Âu châu, các nước Đông Phương vẫn không có, vì họ sẵn theo Khổng, Lão và Phật
giáo, những tôn giáo, nói chung, chủ trương Tịnh và tu tâm. Mặt khác, các dân
tộc nông nghiệp Á Phi nào sớm bị Âu châu thực dân lấn lướt, mà biết “cải cách”
như Minh Trị Thiên Hoàng của Nhật, hoặc Tôn Trung Sơn của Trung Quốc, Gandhi
của Ấn Độ… thì cũng sớm chấp nhận chuyển biến văn hoá; những bộ tộc du mục hoặc
du canh, vì một lý do nào đó, chẳng hạn mặc cảm yếu kém, chủ trương đóng kín,
không chịu tiêp biến hoặc thích nghi văn hoá, thì vẫn không có chuyển biến nào
đáng kể. Họ có thể sắp biến mất trong văn hoá thông tin toàn cầu hoá, trong nền
văn hoá này, không quyền lực nào che giấu được. Nếu chính quyền che đậy, nhân
dân thức tỉnh và ùa theo những nét văn hoá mới, không được chọn lọc và hướng
dẫn, thì khủng hoảng văn hoá phải xảy ra….
3.
CỘI NGUỒN
VĂN HOÁ
VIỆT NAM
“Chúa Trời lấy bùn đất mà
cấu tạo con người. Ngài thở sinh khí vào mũi, bỗng nó trở thành nhân linh.
Rồi Đức Chúa Trời lập một
vườn vui về hướng Đông và đặt con người vừa được tạo thành vào đó.
Đức Chúa Trời lại khiến
đất trổ sinh các thứ cây đẹp mắt, ăn ngon, với cây trường sinh và cây biết
thiện ác ngay giữa vườn. Một con sông từ giữa lạc viên chảy ra tưới khắp
vườn, cũng từ đó phân làm bốn nhánh: Nhánh thứ nhất gọi là Phisơn, chảy
quanh đất Heu-la, nơi có vàng. Vàng xứ này hảo hạng. Ở đó lại có trầm và bích
ngọc. Nhánh thứ nhì Giê-hơn, chảy khắp miền Ethiopia. Nhánh thứ ba là Tigre
chảy ngược lên vùng Assyrie. Còn nhánh thứ tư chính là Euphrate. Vậy Đức Chúa
Trời đặt con người ở lạc viên…” [2]
[11] Tìm phát tích nhân
loại
Muốn biết cơ bản Văn hoá Việt Nam,
phải biết người Việt Nam. Muốn biết người VN, phải tìm chủng loại và cái nôi
của dân tộc. Chúng ta liên hệ đến mấy khoa học chỉ mới bắt đầu trong một thế kỷ
nay, nghĩa là còn ít phổ biến và dễ bị trộn với giả thuyết. Chúng ta chỉ sàng
lọc vài hàng có lẽ đáng tin hơn.
Trước hết, về nguồn gốc loài
người theo địa khảo cổ:
1.
Nhóm các chủng xích đới
Max. Sorre, giáo sư Đại học
Sorbonne [3] viết:
“Trạng thái và khởi
nguyên.
Nhóm này gồm chung các
chủng rải rác vòng bán nguyệt chung quanh Biển Ấn Độ và trong các đảo Thái Bình
Dương. Họ sống trong môi trường xích đới, hoặc ít ra cũng nhiệt đới ẩm
ướt. Ngoài da mầu ít nhiều đậm lạt, họ còn chung cấu trúc thân thể mảnh mai,
mũi rộng, tóc thường quăn và sọ nói chung là cứng dài. Tướng mạo cổ kính của họ
nói lên một nguồn chung. Nhưng, họ làm thành hai nhóm cách biệt bằng Ấn độ
dương, mà họ chẳng hề thử vượt qua, họ cũng cách nhau bằng những sa mạc
Iran-A-rập thuộc quyền những chủng khác. Tóc và màu da là những nét phân biệt
họ. Trung tâm phân tán họ phải tìm ở miền khác trong vùng Nam Á Châu hoặc trong
vùng Insulinde [4]. Vào thời kỳ
đóng băng cuối cùng, vùng Iran không phải là sa mạc không thể qua giữa hai sắc
dân này, mà liên hệ còn dễ hơn nữa qua Ả-rập ít cừu địch; thời đó, trước khi
chìm mất từng phần của vùng Sonde [5], cánh Đồng
gồm cả Insulinde vào Đông Dương. Những chuyển di tách rời các phần đất
Ấn-Thái-Bình-Dương này chưa lâu lắm….
Nhóm Đông phương
Hình thức xưa nhất của
Nhóm Đông phương (australoide) biểu tượng nơi chủng Ta-Marianiêng, mới diệt
chủng từ năm 1877. Trong các đặc điểm của bộ cốt thì trán phẳng là rõ nhất.
Chủng Nam (australienne), đã từng có thời sinh trưởng ở phương Nam lục địa, có diện
mạo cổ sơ với trán thóp, lông mày thật mạnh và cánh mũi tẹt. Hình ảnh này nhắc
nhớ loại người Neanderthal. Di tích khảo cổ cho thấy họ sống trên vùng rất rộng
ở Malaya, Đông Dương, tới tận đồng bằng sông Ấn. Tại Nam Mỹ Châu, người ta cũng
thấy đặc tính này nơi sọ Ona. Còn những dân thường gọi là Đen, tượng trưng là
người Pa-pu (Tân Ghi-nê) và người Mã-lai. Những người này giữ vai trò quan
trọng tại Đông Nam Á. Di tích của họ gặp thấy trong thời Đá Mài ở Đông Dương và
cùng kiểu rải rác trong bán đảo thuộc các dân Indonêdiêng. Trong cánh Đông
phương này có những bộ tộc nhỏ thường gọi là Negrito (trong các đảo Adaman, bán
đảo Malacca, Philippines, Tân Ghi-Nê).
Nhóm Tây phương
Nam Sahara có cánh Tây phương của
chủng Mã-lai. Đây là đại lục đen theo đúng nghĩa. Tượng trưng cho những người
xưa ở đây là các dân Bochimans và Hottntots của Nam Phi và Négrilles của rừng
nhiệt đới…” [6]....
2. Da
Trắng, Da Vàng của người Á - Âu
Những mẫu người xưa
Dân lục địa Á-châu là
thuộc hai nhóm da mầu. Ranh giới giữa họ là từ cửa Ob đến cửa sông Hằng, trắng
vàng là hai sắc dân lớn và quan hệ giữa họ cho ra đời những dân lai. Thời và
địa điểm thì không sao minh định được. Hình như vào thời mà cả Tây Bắc Âu còn
đóng băng và lúc băng tan, có những bộ tộc từ Á-châu thường canh tác trên những
triền đồi… bị áp lực của những sắc dân tiến bộ hơn, nên một mặt họ tràn xuống
Tây Âu, mặt khác xuống Đông Bắc Á…. Trước hết, tại Yéso, Nam bán đảo Sakhaline,
trong các đảo Riu Kiu và Nam Kurin, xuất hiện sắc dân Ainos, giống người Âu,
trước đây đã chiếm cả quần đảo Nhật. Những người này vóc nhỏ, sọ dài, lông mày
đậm, mũi thẳng hoặc khoằm, tóc gợn sóng…. Nơi thứ hai, trên quần đảo của
Thái Bình Dương, như Hạ-uy-di, Quần đảo Samoa và Pasqua, có những dân tộc mang
dung mạo người Âu, mà da rám nắng, mũi thanh và cao: hình ảnh một phụ nữ Maori
buông tóc mang dáng dấp một phụ nữ miền nam Italia….
Những người da vàng
Lớp người thứ nhất là tập thể có phong hoá đồng dạng lớn hơn hết. Không phải họ bao cả một vùng. Người ta chỉ gặp các chủng tộc có những nét mông-gô-lích đã giảm nhẹ. Họ sống trong những phần đất khó đi lại và có phần khắc nghiệt để định cư, những nhóm sơn nhân nho nhỏ như Pumans ở Bornêo, hoặc những dân tộc định cư trên các cao nguyên Á châu như Tây Tạng, hoặc ở gần đại cực như người Paleo ở Sibêri. Trong số này, những dân ở Tây phương (như Osiaks và Voguls ở đồng bằng Ob) không còn giữ được cặp mắt mông-gôn, mà những dân ở Đông phương, như Tchouktches, gần chủng hơn. Người ta nhận ra những biệt điểm này: da vàng, tóc thẳng, đen, cứng, thân vóc đậm, cánh tay ngắn, gò má cao, mí mắt xếp, đầu tròn, sọ rộng, mũi trung bình…. Mẫu người Hoa Bắc cao hơn, đầu dài và vươn lên, sọ cao hơn. Những chủng tộc này bành trướng không ngừng. Người Môngols đã lai giống với người Alpins và Địa Trung Hải, thành nên những tộc Kirghiz ở Turkistan, Turcomans ở Ba tư, Tatars ở Crimée và Thổ ở Anatolie…. Trong vùng Hoa Nam và nhất là ở Đông Dương nhiều sắc tộc giao thoa, mà chúng ta còn thấy sót lại là những bộ tộc sơn dã…. Đông dương thật đúng là bài toán dân tộc học: phạm trù “indonésiens” người ta thường dùng chỉ các dân này có nhiều diện không thích hợp. Dầu sao, ở phương Nam, dòng Mã-lai đã lai chủng…” [7]
Lớp người thứ nhất là tập thể có phong hoá đồng dạng lớn hơn hết. Không phải họ bao cả một vùng. Người ta chỉ gặp các chủng tộc có những nét mông-gô-lích đã giảm nhẹ. Họ sống trong những phần đất khó đi lại và có phần khắc nghiệt để định cư, những nhóm sơn nhân nho nhỏ như Pumans ở Bornêo, hoặc những dân tộc định cư trên các cao nguyên Á châu như Tây Tạng, hoặc ở gần đại cực như người Paleo ở Sibêri. Trong số này, những dân ở Tây phương (như Osiaks và Voguls ở đồng bằng Ob) không còn giữ được cặp mắt mông-gôn, mà những dân ở Đông phương, như Tchouktches, gần chủng hơn. Người ta nhận ra những biệt điểm này: da vàng, tóc thẳng, đen, cứng, thân vóc đậm, cánh tay ngắn, gò má cao, mí mắt xếp, đầu tròn, sọ rộng, mũi trung bình…. Mẫu người Hoa Bắc cao hơn, đầu dài và vươn lên, sọ cao hơn. Những chủng tộc này bành trướng không ngừng. Người Môngols đã lai giống với người Alpins và Địa Trung Hải, thành nên những tộc Kirghiz ở Turkistan, Turcomans ở Ba tư, Tatars ở Crimée và Thổ ở Anatolie…. Trong vùng Hoa Nam và nhất là ở Đông Dương nhiều sắc tộc giao thoa, mà chúng ta còn thấy sót lại là những bộ tộc sơn dã…. Đông dương thật đúng là bài toán dân tộc học: phạm trù “indonésiens” người ta thường dùng chỉ các dân này có nhiều diện không thích hợp. Dầu sao, ở phương Nam, dòng Mã-lai đã lai chủng…” [7]
Nghiên cứu của Giáo sư đại học
Pháp là thế. Tài liệu khảo cổ và chủng học của Hoa Kỳ có khác không?
[12] “Một quá khứ bị lãng quên”
Khi nói về “Toạ độ của Văn
Hoá Việt Nam”, giáo sư Trần Ngọc Thêm có “mở rộng” sang cái nhìn về
nguồn gốc nhân loại, nguồn gốc Văn minh, theo nghiên cứu của giới Đại học Hoa
Kỳ. Chúng tôi xin trích lại bài đó như trong cuốn Tìm
về Bản sắc Văn Hoá VN. [8]
“TIA SÁNG MỚI RỌI VÀO MỘT QUÁ KHỨ BỊ LÃNG QUÊN
Wilheim G.Solheim II
Tiến sĩ Wilheim G.Solheim II là giáo sư nhân chủng học ở
trường Đại học Hawai chuyên nghiên cứu về tiền sử Đông Nam Á. Bài viết New
Light on a Forgotten Past trích giới thiệu dưới đây đăng trong National
Geographic (vol. 139. No.3. March. 1971). Cũng nội dung này, Ông đã trình bày
nhiều bài ở những tạp chí khác. Các chỗ nhấn mạnh là của chúng tôi (TNT).
Thế giới trong 10 năm qua
đã quay sang chú ý đến Đông Nam Á, nhưng nguyên do chính của sự chú ý này là
chiến tranh đang xảy ra tại đây. Chính cái tính chất nặng chĩu của những biến
cố quân sự ấy đã làm lu mờ nhiều khám phá lý thú về cổ sử và tiền sử của các
dân tộc hiện đang sống trên miền đất này. Thế nhưng, về lâu dài, những khám phá
này, phần nhiều có tính khảo cổ, sẽ tác dụng, có lẽ còn nhiều hơn là chiến
tranh hay hậu quả của chiến tranh, đối với lối suy nghĩ của chúng ta về miền
đất này và các dân tộc của miền này, và đối với lối tư duy của họ đối với chính
họ nữa. Ngay cả đến quan niệm của người phương Tây về vị trí của họ trong quá
trình biến đổi của văn hoá thế giới cũng có thể bị thay đổi hoàn toàn. Bởi vì
có nhiều dấu hiện rõ rệt và mạnh mẽ khiến ta nghĩ rằng những bước đầu tiên đến
văn minh có thể phát xuất từ Đông Nam Á.
Các nhà sử học Âu Mỹ thường hay lý luận rằng lối sống mà ta gọi là văn minh
thoạt tiên bắt nguồn từ vòng cung phì nhiêu miền Cận Đông, hoặc trong những
vùng sườn đồi lân cận. Ta đã tin tưởng từ lâu rằng ở đây con người cổ sơ đã
phát triển nghề nông và dần dần học cách làm gốm và đồ đồng. Một khảo cổ học
cũng yểm trợ cho điều tin tưởng này, một phần vì các nhà khảo cổ đào bới khá
nhiều trong vùng thung lũng phì nhiêu của Cận Đông.
Tuy nhiên, những khám phá
mới đây ở vùng Đông Nam Á bắt buộc chúng ta phải xét lại những quan niệm này.
Những vật dụng đã được đào lên và đem phân tích trong vòng 5 năm qua cho ta
thấy rằng con người ở đây đã bắt đầu trồng cây, làm đồ gốm và đúc đồ dùng bằng
đồng sớm hơn hết thảy mọi nơi trên trái đất.
Điều hiển nhiên là người
ta đã tìm thấy các chứng tích tại những nơi mà ngành khảo cổ đào xới trong vùng
Đông Bắc và Tây Bắc Thái Lan, với những chứng minh hỗ trợ từ các cuộc đào xới ở
Đài Loan. Nam và Bắc Việt Nam, các miền khác của Thái Lan, Malaixia, Philippin,
và ở cả Bắc Úc Châu nữa.
Các vật dụng đã tìm được
và ước định tuổi bằng cacbon 14 là những di tích văn hoá của dân tộc mà tổ tiên
họ đã biết phương pháp trồng cây, chế tạo đồ đá mài và đồ gốm sớm hơn các dân
tộc Cận Đông, Ấn Độ và Trung Hoa, tới cả hằng mấy ngàn năm. Trong một vùng ở
Bắc Thái Lan, có những đồ đồng được đúc bằng các khuôn kép vào khoảng 2.300 năm
trước công nguyên. Thậm chí có thể trước cả 3.000 trước công nguyên nữa. Như
vậy, nghĩa là trước khá lâu, so với các vật dụng bằng đồng được đúc ở Cận Đông,
Ấn Độ và Trung Hoa mà nhiều chuyên gia đã tưởng là những vật dụng đầu tiên
<…>
Người ta có thể sẽ có lý
khi đặt câu hỏi: Nếu có sự kiện quan trọng như vậy thì tại sao cho tới nay khoa
tiền sử học Đông Nam Á lại không ai biết đến? Có nhiều nguyên nhân, nhưng lý do
chính là vì rất ít những tìm tòi khảo cổ được tiến hành tại đây trước năm
1950 . gay cả đến bây giờ công việc cũng chỉ mới bắt đầu. Nhà cầm quyền
thực dân đã không đặt vấn đề ưu tiên vào vấn đề khảo cổ ở đây, và một số rất ít
người tra cứu về môn này đã không có một hiểu biết chuyên môn cần thiết. Trước
năm 1950, không có một bài biên khảo nào đúng với tiêu chuẩn hiện đại được tiến
hành. Lý do thứ hai là bất cứ cái gì khám phá thấy đều được xếp loại căn cứ vào
quan niệm từ lâu cho rằng đó là kết quả của sự di chuyển văn minh. Họ cho rằng:
Văn minh bắt nguồn từ Cận Đông, phát triển thịnh vượng ở xứ Mesopotamie và
Ai-Cập, và sau này ở Hi-Lạp và La-Mã. Văn minh cũng di chuyển về hướng Đông đến
Ấn Độ và Trung Hoa. Còn Đông Nam Á, vì ở xa nhất đối với điểm xuất phát, nên
cũng hưởng văn minh sau chót. Người châu Âu đã tìm thấy những nền văn hoá tiến
bộ ở Ấn Độ và Trung Hoa. Khi họ thấy có những điểm tương đồng… của các nước này
với các xứ sở miền Đông Nam Á thì họ cho rằng đó là do Ấn Độ và Trung Hoa đã
ảnh hưởng đến Đông Nam Á. Ngay cả cái tên mà họ đặt cho miền này – “Ấn Độ-Trung
Hoa” (Indochine) [9] –
cũng phản ánh thái độ đó <…>
Robert Heine Geidern, một
nhà nhân chủng học Áo, đã xuất bản năm 1932 bàn về những nét chính cổ truyền
của tiền sử Đông Nam Á. Ông cho rằng có một loạt các “làn sóng văn hoá”, nghĩa
là những dòng di cư. Theo ông thì đoàn di cư quan trọng nhất đến Đông Nam Á là
từ phía Bắc Trung Hoa. Ông cho rằng đồ đồng Đông Nam Á là kết quả di cư của các
dân tộc ở Đông Âu tới vào khoảng năm 1.000 trước công nguyên. Ông tin rằng
những dân tộc di cư về phía Đông và phía Nam, đi qua nước Tàu vào thời kỳ nhà
Tây Chu (1122-711 trước công nguyên). Các sắc dân này mang theo không chỉ
phương pháp đúc đồng mà cả một nghệ thuật trang trí đồ đồng bằng các hình vẽ kỉ
hà học [....]
Các nhà nghiên cứu tiền sử
phần đông đều chấp nhận lối lập luận cổ điển này, nhưng nếu theo đó thì có một
số sự kiện tỏ ra không được ăn khớp lắm. Một số nhà thực vật học nghiên cứu
nguồn gốc cây trồng chẳng hạn cho rằng Đông Nam Á là nơi biết trồng cây sớm
nhất.
Năm 1952, Ông Carl Sauer,
một nhà địa chất học Mỹ, đi thêm một bước xa hơn nữa. Ông nêu giả thuyết là
khoa trồng cây trên thế giới đã bắt nguồn trước tiên trong vùng Đông Nam Á. Ông
cho rằng khoa trồng cây do một sắc dân mang lại đây trước thời kỳ Đông Sơn rất
lâu, họ được biết tới dưới danh hiệu một nền văn hoá thô sơ gọi là Hoà Bình.
Các nhà khảo cổ không thể chấp nhận ngay thuyết của ông Sauer.
Từ năm 1920 trở đi, bà
Madeleine Colani, một nhà thực vật học, cổ sinh vật học và khảo cổ học người
Pháp, đã nêu ý kiến là có một nền văn hoá Hoà Bình. Những ý kiến của bà đều căn
cứ vào các cuộc đào xới ở một vài hang đá và các nơi trú ẩn bằng đá khác ở miền
Bắc Việt Nam, trong đó khu vực đào xới đầu tiên đã được tìm thấy ở vùng Hoà Bình <…> [10]
Chúng ta sẽ đọc tiếp tài liệu này
khi bàn về Văn Hoá Hoà Bình. Bây giờ nên chú ý đến một thời còn mờ mịt hơn, với
con người đang hình thành lý trí, mà tiền sử học gọi là Homo Sapiens trong văn
hoá hái lượm, rất lâu xa trước con người biết trồng
cây.
[13] Một quá khứ chưa tìm lại được: Văn hoá SƠN VI
Xin ghi lại, và xin ghi nhận một
chút trong công trình tập thể của những thế hệ trí thức Việt Nam làm việc
trong những điều kiện hết sức khắt khe vì nội chiến giành độc lập: “Ba thập kỷ, kỳ gian của một thế hệ
người trong lịch sử trôi đi, tư duy khảo cổ, tư duy lịch sử Việt Nam ngày càng
chín chắn, những cách tiếp cận liên
ngành, nghiên cứu đối sách và liên văn hoá và
việc đặt Vĩnh Phú - Việt Nam trong bối cảnh đại đồng văn (contexte)
Đông Dương – Đông Nam Á – Thái Bình Dương… ngày càng được ứng dụng có hiệu quả.
Đã xuất hiện nhiều công
trình tổng kết và tổng hợp về văn hoá Sơn Vi, văn hoá Phùng Nguyên….
Huyền thoại, huyền tích và
cả kho tàng Folklore nói chung của Vĩnh Phú được giải mã trên tảng nền kinh tế
- xã hội và theo lý thuyết về biểu tượng (théorie des Symboles)…. Cái truyền thống được
“lật đi lật lại”, trong ánh sáng hôm
nay. Địa chí Vĩnh Phú được xây dựng rất sớm….
… Khi người Việt và
không gian Việt bắt đầu được định hình và bước đầu phát triển, cho mãi tới thời
thuộc Pháp, Vĩnh Phú được xem là xứ Đoài, miền Tây không gian – hạt nhân Việt…. Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! (Thơ Quang Dũng). Mây Ba Vì, mây Tam
Đảo… được ngắm nhìn từ Kẻ Chợ kinh kỳ. Ba Vì (hay Tản Viên, theo tên chữ) cũng
như Tam Đảo (không có tên Nôm, kỳ lạ thế), mà nhất là Ba Vì, được xem là ngọn
Chủ Sơn (núi chúa) của không gian Việt.
Nhất cao là núi Tản Viên
Chúng ta gọi Vĩnh Phú thuộc miền
Trung Du, Bắc Việt. Trần Quốc Vượng nhận xét:
“Trung Du đã là nơi sống
xen Việt – Mường, Việt – Tày, mà điều chắc chắn, yếu tố Việt là cái tới sau,
từ đồng bằng, do thiên tai và biến động lịch sử….
… Việt Trì và vùng xung
quanh – tức là Vĩnh Phú
là vùng đỉnh xưa nhất của tam giác châu sông Hồng.
Sông Hồng là một tên gọi
muộn màng ở cuối thế kỷ XIX do mầu nước của dòng sông này. Sách Thuỷ kinh chú ở
thế kỷ VI gọi nó là “Tây Đạo”, cái “tên chữ” Hán Việt này là sự phiên âm một
tên Tày cổ Nậm Tao mà tên Việt hiện nay còn giữ được ở Việt Trì là Sông Thao….
Bao quanh điểm Việt Trì, là những núi đồi lô nhô như bát cơm mà tư duy vũ trụ
luận dân gian hình dung thành bầy voi trăm con mà tới 99 con chầu về Đất Tổ….
Cái dân gian gọi chung là
voi – đồi thì địa chất học và địa lý học phân tích hẳn hoi thành hai loại hình
khác nhau: Một loại là những đồi diệp thạch (schiste, grès schisteux) vết tích
của một bán bình nguyên thời địa trung sinh, trăm triệu năm về trước. Một loại
khác, với cấu tạo cuội sỏi và đất phong hoá từ đá gốc, có độ cao từ 25-60m, là
thềm bậc hai của sông Hồng (người ta bảo sông Hồng có tới mười bậc thềm, từ hạ
lưu ngược lên thượng lưu, mà bậc 1 nay chỉ còn những gò đồi sót cao 5-10m, ở lác
đác trên châu thổ).
Chính trên những con đồi –
thềm bậc hai sông Hồng này của vũng Vĩnh Phú, vào xuân hè 1968 tôi cùng các
đồng nghiệp sinh viên Đại học Tổng Hợp Hà Nội, trong khi đào lại Phùng Nguyên,
đã phát hiện ra nền văn hoá cuội gia công tiền Hoà Bình, sau được mệnh danh là
Văn hoá Sơn Vi, với niên đại C14: 10-20.000 năm cách ngày nay vào cuối thời Đá
Cũ, ở thời điểm cuối thế cánh tân Pleixtoxen. Bấy giờ là băng kỳ cuối cùng Wirm
ở Bắc Á – Bắc Âu, mực nước biển còn ở xa ngoài khơi Biển Đông, cái đồng bằng
Bắc Bộ thứ nhất với rừng cây rậm rạp che phủ những hệ thống sông chảy dài ra
hải đảo – Trường
sinh thái – nhân văn của người Sơn Vi,
hái lượm và đi săn, rộng mênh mông, những tưởng là vô tận…. Tôi tìm được di
tích Sơn Vi ở Gò Cưu và những thềm sót vùng Đầm Cà – Cổ Loa ngoại vi Hà Nội, ở
những gò-đồi thềm cổ sông Lục Nam từ Chũ đến An Châu Hà Bắc, cho tới giáp chân
núi Yên Tử, mạn Đông Triều.
Những phát hiện gần đây về
văn hoá Sơn Vi ở cả ba lưu vực sông Lô, sông Đà và Yên Bái – Hoàng Liên Sơn dọc
thượng – trung lưu sông Hồng đã dẫn Nguyễn Khắc Sử (1991) đến một giả thuyết về
sự hội tụ Sơn Vi ở đỉnh Việt Trì Vĩnh Phú từ ba nguồn Sơn Vi sớm dọc sông Lô,
sông Đà, sông Nhị. “Hội Thủy” là của tự nhiên, hội Nhân, hội văn hoá là của con
người.
Người cực khôn ngoan (homo
sapiens sapiens) đã hội tụ về Vĩnh Phú hàng vạn năm về trước rồi lan toả về
xuôi, về biển….
Đấy là con người và văn hoá lần
thứ nhất ở Vĩnh Phú. Từ lâu,
tôi vẫn ngờ rằng sự Hội tụ Sơn Vi muộn này đã khiến nảy sinh nền nông nghiệp sơ
khai - trồng trọt, chăn nuôi sơ khai. Nếu quả vậy, thì mảnh đất trung du Vĩnh
Phú - Sơn Tây của Việt Nam cũng giống như dải bình nguyên - cao nguyên Anatôli
của vùng Trung Cận Đông Châu Á - là môi trường sinh cảnh của cuộc cách mạng đá
mới- hay cách mạng nông nghiệp (nhảy vọt sang nông nghiệp) của loài người.
Không nên chỉ cho rằng nông nghiệp nảy sinh với văn hoá Hoà Bình ở vùng chân
núi đá vôi. Nó còn nảy sinh trên vùng bán bình nguyên trung sinh cũ, với sinh
cảnh thiên nhiên thuận lợi hơn nhiều.
Nhưng sau đó thì những hậu
duệ (con cháu) của chủ nhân văn hoá Sơn Vi đã mất tích ở trung du Vĩnh Phú.
Tiền nhân của họ, chúng tôi đã tìm thấy trong các hang động Thần Sa, Bắc thái
(văn hoá Thần Sa, trung kỳ hay hậu kỳ Đá Cũ, với niên đại C14 trên 30.000 năm).
Hậu thân của họ, tức chủ nhân những nền văn hoá Hoà Bình – Bắc Sơn nổi tiếng
(niên đại C14 9000-6000 năm cách ngày nay), chúng ta cũng đã tìm thấy nhiều
trong các hang động đá vôi ở Hoà Bình, ở Bắc Sơn, ở vùng núi đá vôi Thanh Nghệ,
Thượng - Trung Lào và rải rác ở ven biển Quảng Ninh (Hà Khẩu) hay ven biển
Quảng Nam (Bàu Dũ) cho mãi tới tận ven biển Sumnatra…” [12].
Có thể đọc vài trang trích dẫn
trên, Bạn đã phần nào biết tại sao lại có cùng những di tích khảo cổ nơi cả
vùng Đông Nam Á này. Ngoài thuyết về nguồn gốc con người do giáo sư Max.
Sorre trích dẫn trên. Chúng ta tìm CHỦNG tộc từng sống trên vùng này năm
sáu ngàn năm trước.
[14] Tìm chủng của người Việt Nam
Bình Nguyên Lộc là Nhà văn nổi
tiếng của Miền Nam Vệt Nam trong thập kỷ ’60 của thế kỷ XX. Đó là điểm son cho
ông; nhưng lại thiệt cho ông, vì sang thập niên ’70 ông công bố những công
trình nghiên cứu dài ngày của mình thì lại ít được lưu ý từ đầu. Mà tình hình
chính trị xã hội không để những người quen ông còn thời gian nghiền ngẫm kỹ.
Ông không đi ngược tới khởi nguyên loài người, Ông chỉ tìm về CHỦNG và
công bố trong tác phẩm
“Nguồn
gốc Mã-Lai của dân tộc Việt Nam”, 896 trang, Lá Bối Xuất Bản Năm
1971…
cùng với bốn năm tác phẩm về ngữ
học và phong tục học các dân tộc thuộc Chủng Mã Lai như VN, Chàm, Phù Nam, Cao
Miên, Miến Điện, Thái, Tây Tạng, Lê Hải Nam, Nhựt Bổn, Đại Hàn, Thượng Việt,
Nam Ấn-Độ, Nam Dương, Phi Luật Tân, Đa Đảo, Ba Thục, Tây Âu, Mân Việt và Sở….
Chúng ta ghi nhận một trong những
thành quả trí tuệ đó và lượm một số thông tin quan trọng ::
1. Người
Việt không đồng chủng Trung Hoa
Tiếp dòng tư tưởng của Max. Sorre
trên về chủng tộc Hoa, chúng ta có lưu ý của Bình Nguyên Lộc:
“1. Hoa chủng là kết quả của một cuộc hợp chủng giữa chủng Bắc
Mông-gô-lích của người Mông Cổ và với một chủng nào đó cao hơn Tày, thế nên
người Hoa Bắc, nhứt là ở Cam Túc, Sơn Tây và Thiểm Tây, mới cao lớn như vậy.
2. Cuộc hợp chủng ấy xảy ra ở ngoài nước Tàu, tại đâu không rõ,
nhưng họ xâm nhập Trung Hoa từ hướng Tây Bắc, qua hành lang Cam Túc.
3. Cái sọ của họ khác sọ Việt Nam 9 đơn vị về chỉ số.
4. Sọ Việt Nam có tính cách brachycéphale, còn sọ Hoa Bắc và Hoa
Nam thì có tính cách Mésocéphale. Dung lượng sọ cũng khác. [13]
Chúng ta không đi về chi tiết
dành cho nhân chủng học, vì ở đây chỉ cần xác nhận rằng theo khoa học, chúng
ta không đồng chủng với người Trung Hoa, ít là Hoa Bắc. Cả ngàn năm Bắc thuộc,
chúng ta chỉ một phần lai giống. Mà lai giống là một trong những quy luật thiên
nhiên để trường tồn và thăng tiến.
Khẳng định trên không chỉ thuộc
phạm vi sách vở nhà trường, nhưng đi vào những hệ luận quan trọng thực tế, như
giao lưu và hợp tác thương mại, văn hoá, tôn giáo v.v… Với những dân tộc
đồng chủng, thành quả tốt đẹp và mau lẹ hơn với những dân tộc khác chủng. Chỉ
mới năm bảy năm nay, chúng ta “hé cửa” giao lưu và hợp tác với các nước Asean,
có thể nói là đồng chủng, thành quả tốt đẹp và thoải mái gấp bao nhiêu lần
chúng ta bị bắt buộc quan hệ với Bắc Kinh và với Tây Phương.
[1] Theo Mt 28, 19-20;
CvTd 1, 8
[2] St 2,7-15
[3] “L’homme sur la
Terre”. Ch. 1. Hachette. 1961
[4] Vùng Nam A Châu: Malaysia xuống các đảo Indonesia, Philippines
[5] Từ Malaysia xuống
đảo Timor
[6] Max. Sorre sđd. Tr.
11-12
[7] Max. Sorre. Ib. p.
13-16
Dolichocephale: sọ dài
Mesocephale: sọ trung bình
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét