Thứ Ba, 24 tháng 1, 2017

Văn hóa Việt Nam 3

Văn hóa Việt Nam 3
9.
Giao Lưu Văn Hóa VIỆT - ẤN
Người ta gọi lề thói hiện hành là văn hóa, và gọi những trạng thái đã qua là man rợ. Phong hóa hiện tại sẽ bị gọi là man rợ khi chúng sẽ là những phong hóa đã qua. [1]
[31] Di chỉ Văn hóa Ốc Eo
Vào những năm ‘40 của thế kỷ 20, M. Malleret đã dùng phi cơ để nhìn sâu mãi xuống những luồng nước vùng Long Xuyên. Sau đó, từ từ người ta khai quật được nhiều di chỉ. Qua Ốc Eo, Ba Thê thuộc An Giang, người ta tưởng đã đủ với Văn hóa Trăm Phố chìm lặng ở bìa rừng U Minh. Vậy mà những di tích dẫn người ta tìm mãi qua Long An, Đồng Tháp, lên tận thượng lưu sông Đồng Nai.
Thực ra, những di chỉ loại này tỏa ra cả vùng Đông Nam Á, nhưng người ta cứ gọi là Văn hóa Ốc Eo. Văn hóa này còn gây kinh ngạc thích thú vì những phế tích của đền đài hoành tráng, của những ngôi mộ kim tự tháp đổ nát. “Bên mình những người quá cố là hàng ngàn, hàng vạn đồ trang sức, hoa tai, nhẫn, ấn triện bằng đá quí, bằng vàng bạc khắc chạm tinh vi mang đậm nét phong cách Tây Phương Thiên Trúc.
Từ những đổ nát hoang tàn hôm nay, khảo cổ học đang dõi tìm về thời vàng son của một quốc gia thịnh vượng, kỷ cương, đã tiến ra biển Đông, vượt vịnh Bengal, tới La Mã cổ kính tồn tại từ buổi đầu công nguyên đến thế kỷ thứ VII. Phải chăng đây là dấu tích của quốc gia Phù Nam như sử sách đã ghi?
Chúng ta chưa hết ngạc nhiên bởi sự phát hiện những công trình kiến trúc đồ sộ, độc đáo trên vùng sình lầy nơi đây, thì lại càng khó hiểu hơn bởi sự tàn lụi của nền văn minh này… [2]
Chúng ta hẳn biết được rằng trên địa bàn rộng lớn như thế, người văn hóa Ốc Eo không thể đồng nhất và không dễ gì có được những vùng “Trăm Phố” thứ hai, thứ ba. Đây là vài chi tiết của cái nhìn khảo cổ:
1. Nông nghiệp
Nói chung, dân văn hóa Ốc Eo làm nghề nông. Họ trồng lúa nước hoặc lúa rẫy và nhiều cây loại ngũ cốc, loại cây ăn trái. Do đó, họ phải biết làm thủy lợi, dầu chỉ mới là tưới tiêu theo thủ công và đào kênh mương.
Chăn nuôi chỉ như phần phụ vào nông nghiệp.
2. Ngư nghiệp
Ngư nghiệp lại không phải phụ như thế. Người miền văn hóa Ốc Eo sống với nhiều sông rạch tự nhiên và kênh đào.
Đồng ruộng của họ vẫn phần lớn ngập nước. Chính vì thế mà nghề đánh bắt cá nước ngọt không thua ngư nghiệp biển.
3. Thủ công - Mỹ nghệ
Thủ công và Mỹ nghệ của họ, không ai phủ nhận được. Khảo cổ đã phát hiện bao nhiêu đồ gốm xuất xưởng bằng bàn xoay. Bao nhiêu vòng tay, khuyên tai, nhẫn bằng đá quí và thủy tinh. Hiển nhiên bằng đất nung nữa. Đồ đá không thiếu, nhưng dụng cụ bằng sắt nhiều hơn.
Có thể vì giao thương với nhiều vùng trên thế giới, người văn hóa Ốc Eo đã biết dùng tiền đúc. “Có 12 đồng tiền và những mảnh cắt của tiền đã được phát hiện ở các di tích.” [3]
Những dụng cụ trên đồng thời cũng cho thấy nghề điêu khắc của họ đã tới trình độ khá cao. Họ thực hiện với nhiều kích cỡ khác nhau và trên nguyên liệu đa dạng: đất nung, đá quí, vàng bạc và thủy tinh.
4. Tín ngưỡng
Khảo cổ Trăm Phố cũng phát hiện dấu ấn của lớp người sống văn hóa giao lưu trong một thời kỳ dài: cùng với tôn giáo “phồn thực” và bái vật như các nước trong vùng Đông Nam Á này, họ còn chấp nhận cả một phần Ấn giáo và Phật giáo. Hiển nhiên những biểu tượng thờ Linga, thần Siva và Visnu tới đây trước Phật giáo Bắc và Nam tông. Phật giáo không thể tới sớm hơn 3 thế kỷ trước Công Nguyên.
Theo các tài liệu của thư tịch cổ Trung Quốc, giáo sư Trần Quốc Vượng nhận rằng người văn hóa Ốc Eo đã có sinh hoạt văn nghệ tôn giáo như ca, múa, nhạc. Hơn thế, họ có cả chữ viết nữa. [4]
[32] Giao lưu văn hóa CHĂM
Không như “người Ốc Eo”, người Chăm vẫn còn và là một trong các dân tộc làm nên người Việt Nam. Chúng ta có thể nhìn lại nét hưng vong của dân tộc Chăm, để từ đó nhận định về văn hóa Chăm.
1. Người Chăm
Người Chăm hoặc Chàm ngày nay đã thành “đồng bào” Việt Nam, một dân tộc thành tố của nhân dân Việt Nam. Dầu lạc quan cũng phải nhận rằng các chính quyền Việt Nam chỉ mới trong ba thế kỷ nay dám nhận dân Chăm là “thần dân” của mình. Muốn gọi họ là “đồng bào”, thì phải nói rằng “cái bọc Âu Cơ” ở đây chính là chủng Mã Lai (hoặc Malayo-Polynésien). Từ gần ba ngàn năm trước Công Nguyên, khi tổ tiên Lạc Việt tới vùng Vĩnh Phú, thì một lớp người Malayo-Polynésien cũng tới vùng ven biển chúng ta ngày nay. Khi quân Bắc bành trướng tràn ngập giang sơn của Bà Trưng thì cũng xâm lăng họ. Nhưng cuối thế kỷ thứ hai [5], thoát ách nô lệ, họ lập hai tiểu quốc Lâm Ấp và Chiêm Thành (Panduranga). Mãi tới thế kỷ thứ VI, hai tiểu quốc mới thống nhất thành nước Champa.
Sau 30 năm chúa Nguyễn được yên ổn đối với chúa Trịnh phương Bắc Việt Nam, nên chúa Phúc Chu hướng dẫn Nam-tiến. Năm Đinh Sửu 1667, Ông gồm cả Phan Rang, Phan Rí làm phủ Bình Thuận, coi như không còn nước Champa. Năm Mậu Tý 1708 chúa Nguyễn lại dùng Mạc Cửu làm tổng binh trấn Hà Tiên, giang sơn Việt Nam hình thành giống ngày nay, và người Chăm thành phụ thuộc trên chính quê hương của họ. Một dân tộc đấu tranh ngoan cường với quân Tàu, mà khi đối đầu với người Việt Nam, lại co cụm lại và hao mòn dần, nên chỉ còn lại là một trong 50 dân tộc ít người ở bìa rừng Ninh Thuận, Châu Đốc và Tây Ninh. Dân số không vượt trăm ngàn.
Có thể nói một trong những nguyên nhân suy vong của họ là do nền văn hóa ít thích ứng môi trường địa lý và xã hội của họ.
2. Văn hóa Chăm
Văn hóa Chăm có những nét độc đáo, rất nên nghiên cứu. Đây chỉ là vài nét chính:
2.1. Kiến trúc
Nói đến văn hóa Chăm, ai cũng nghĩ ngay tới Tháp Chàm, như một kiến trúc đặc sắc, lác đác nổi
bật trên chân trời miền Trung Việt Nam, từ Quảng Bình tới Ninh Thuận, và có hướng lên cả Tây Nguyên. Đúng ra, người Chăm ưa xây dựng cả một quần thể: Thành quách, Đền chùa và Tháp. Tiêu biểu nhất là Tháp, mà người Chăm gọi là Kalăng. Họ cũng ưa kiến trúc ba tháp hơn là một tháp sừng sững mà cô đơn. Xét chung, các tháp đều hướng Đông và nhiều tầng tứ giác. Mỗi tầng đều có những tháp nhỏ nhọn vút lên, nên đất tầng trên hẹp vào một ít. Trên cùng là chóp tròn hoặc phiến đá vuông. Không một tầng, một góc tháp nào suông đuột, tất cả đều đầy hình nhân, động và tĩnh vật, hoa văn giàu nét điêu khắc mỹ thuật, biểu lộ tâm linh. Nghệ thuật cũng như nội dung tâm linh này phản ánh giao lưu văn hóa Ấn Độ và Đông Nam Á châu.
2.2. Tôn giáo
Tôn giáo người Chăm cũng biểu hiện tiếp biến văn hóa. Với chủ thần Brahma, thần Siva và Visnu có thể người Chăm theo tôn giáo cổ truyền hội nhập Ấn giáo. Đa số đó được gọi là người Chăm Ahier (hoặc Kafia). Còn một thiểu số theo tôn giáo cổ truyền hội nhập Hồi giáo. Đó là người Chăm Awal (hoặc Bani). Nếu thờ Linga (sinh thực khí) vừa do Ấn giáo (thần Siva), vừa là di ảnh của tôn giáo phồn thực, thì việc thờ quốc mẫu Po-Nagar và thờ cúng tổ tiên phải là do tôn giáo cổ truyền. Những niềm tin tôn giáo đó còn biểu lộ dồi dào qua mỹ thuật.
2.3. Mỹ thuật
Mỹ thuật Champa khởi sắc nhất được lưu lại trong phạm vi tôn giáo: các kiểu thức và trang trí đền tháp, các ngày lễ hội. Có thể một số người không lưu ý thấy những hình nhân đang đấu tranh quyết liệt với dã thú. Nhưng ai cũng thấy những hình người đang nhảy múa, nhất là hình vũ nữ với bộ ngực no tròn và các bộ phận toàn thân như cũng uốn cong tròn. Thêm vào quanh đó là những Linga, những hoa sen.
Philippe Stern có một nhận xét về nghệ thuật Chăm thường được giới chuyên môn tán thưởng: “Nghệ thuật Chăm cổ trong hình thức đẹp nhất, có thể coi như phục hưng nghệ thuật Ấn Độ ”.
Tuy thế, người ta vẫn có thể đề vào những tác phẩm nghệ thuật này đôi ca dao Việt Nam:
Công cha như NÚI Thái sơn
Nghĩa mẹ như NƯỚC TRONG NGUỒN chảy ra.
Lâm Ấp và Chiêm Thành cũng như Chân Lạp cổ thời chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ; nhưng cơ bản văn hóa Đông Nam Á vẫn còn, mà mẫu hệ chỉ là một nét tổng quát.
2.4. Ngôn ngữ và văn chương
Ngôn ngữ Chàm vẫn còn giống ngôn ngữ các tộc Mã-Lai cổ với tỷ lệ rất cao. Hơn nữa, những thể văn cũng còn dễ nhận ra bà con. Người Chàm có ca dao, tục ngữ, truyện cổ, thần thoại, thi phú… Tác giả “Việt sử xứ Đàng Trong” [6] cho rằng người Chăm “ban đầu, thi phú ghi bằng chữ Phạn ”. Còn sau? – Bằng thứ chữ Khâr Tapuk.
Nghiên cứu về “Đồng bào sắc tộc thiểu số Việt Nam”, Nguyễn Trắc Dĩ nhận thấy: Người Chăm “về phương diện ngôn ngữ có sự hỗn hợp giữa các từ vựng Sanscrit – Việt và Môn – Khmer. Ngôn ngữ Chàm giống với thể dân Atjet vùng Bắc Sumatra.” [7]
Bình Nguyên Lộc đã kể cả hai dân tộc đó vào chủng “Mã-Lai đợt II”. Chúng ta gọi “mẫu số chung” đó là Đông Nam Á.
2.5. Nghệ thuật âm thanh
Người Chăm diễn tả nỗi lòng bằng âm thanh nhạc khí và ngôn ngữ cử điệu, tức là múa, hơn bằng lời ca.
Họ có đàn độc huyền Rabap Katoh, đàn hai dây Kuni Kara, trống bịt hai đầu Ganan, trống bưng một mặt Baranon và trống lớn Hagar, ống sáo, tù và, kèn Sarinai bảy lỗ… Như vậy đủ thấy khung nhạc của họ cũng rất phong phú.
Có hai điểm không thể bỏ qua khi nhắc tới âm nhạc Champa : Vũ và than.
Vũ đi liền với nhạc. Trong sinh hoạt, trong nghi lễ thần thánh hoặc hội hè, vũ luôn luôn đi liền nhạc giống như người Phi Châu, người châu Mỹ La-tinh, không thể đứng hoặc ngồi yên mà nghe nhạc. Nhạc trỗi lên là thân hình uốn éo. Các vũ công có những điệu vũ rất điêu luyện với chân, với tay và cả thân mình. Họ khai thác tới từng cách nhìn, từng rung động của một lóng tay và dáng diệu của cánh tay, bàn tay và ngón tay. Nghệ thuật diễn cảm rất tinh vi.
Tinh vi nhất về âm điệu than oán, khắc khoải. “Việt sử tiêu án” không tin rằng mình lộng ngữ khi viết: “Âm điệu Chiêm Thành, tiếng nghe ai oán, ai nghe cũng nhỏ lệ ”.
Người Chăm không thành thạo nghề biển hoặc khai thác rừng, nhưng nghe nhạc của họ, giáo sư Lê Văn Chưởng nghĩ rằng: “Vũ điệu và âm nhạc Chăm vừa phản ánh cái bao la của biển cả, vừa hàm chứa cái bí ẩn, cái hắt hiu của núi rừng miền Trung khi đêm xuống ” [8].
Chúng ta đều có thể đồng ý với nhạc sư Trần Văn Khê khi nói về điệu Nam-ai:
Điệu Nam là phản ánh của lối nhạc Chăm ai-oán, và qua nhạc Chăm, Việt Nam chịu ảnh hưởng nhạc Ấn Độ ” [9].
Hẳn không sai lầm nếu chúng ta giải thích một trong những nguyên nhân phát sinh chất đậm đà ai oán đó bằng lịch sử xã hội Ấn Độ và Chiêm Thành: Nỗi oán buồn kiếp sống nghèo khổ, nỗi hận vong quốc.
Tóm lại, qua người Ấn, nhất là qua người Chăm, chúng ta có giao lưu văn hóa Ấn Việt và Chăm Việt, ở miền Trung và Nam Việt Nam đậm đặc hơn ở miền Bắc.
Chúng ta còn tiếp nhận nhiều yếu tố văn hóa Ấn qua Phật giáo, nhưng ảnh hưởng này ào ạt hơn trong thời Lý Trần, chúng ta sẽ kể sau.
[1] Anatole France “Sur la pierre blanche
[2] Trần Độ, sđd., tr. 36-37
[3] “Văn hóa Óc Eo”, nxb. KHXH, 1995, tr. 337
[4] “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, tr. 124-125
[5] khoảng năm 192
[6] Phan Khoang, tr. 41
[7] Sđd. 1972. Tr. 89
[8] “Cơ sở Văn hóa Việt Nam”. 1999. Tr.74
[9] Lê Văn Chưởng dẫn Bách Khoa, số 25-26. 1958
10.
Giao Lưu Văn Hóa VIỆT - TRUNG
“Năm 210 tcn. Tần Thuỷ Hoàng chết, con  là Tần Nhị Thế lên thay, đế chế Tần suy yếu dần […] Nhâm Ngao và Triệu Đà chiếm Nam Hải, xây dựng một vương quốc riêng, chống lại nhà Tần […] Năm 206 tcn. Nhà Tần đổ, Triệu Đà liền tiến quân đến đánh chiếm các quận Quế Lâm, Tượng Quận, thành lập nước Nam Việt, tự xưng là Việt Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung …’ [1]
[33] Triệu Đà, ông là ai?
Là một trong những tướng lãnh của Tần, thế mà chỉ bốn năm sau khi lợi dụng Tần suy yếu, Triệu Đà làm phản, mà đã chinh phục và lập được một đất nước riêng. Dân nước đó thực ra thuộc chủng tộc nào? Đồng chủng với Triệu Đà hay với Tần Nhị Thế, hoặc khác với cả hai?
1. Tại sao đòi lý lịch Triệu Đà?
Triệu Đà là ai? Người dân tộc nào? Tách rời khỏi Tần, nhưng nước Nam Hải và nước Nam Việt của họ Triệu có phải là Dân Nước Việt Nam chúng ta? Nghi vấn sử này liên quan đến “giao lưu văn hóa”. Nếu ông là người Trung Quốc và nước Nam Việt cũng là Việt Nam ngày nay, thì với ông, Việt Nam đã bắt đầu chính thức giao lưu văn hóa với Trung Quốc, bởi nhà Triệu làm vua tới 5 đời ! Nhưng nếu ông không phải là người Trung Quốc, như Hán, Tần, Tống… hoặc nước Nam Việt của Triệu chẳng phải Việt Nam ngày nay…thì triều đại ông chẳng tạo giao lưu văn hóa mới.
2. Những chi tiết quan trọng không đồng nhất
Khi nói về “giao lưu văn hóa cưỡng bức với văn hóa Hán (thời Bắc thuộc), giáo sư Lê Văn Chưởng [2] viết:
Đến năm 179 trước Công Nguyên, Triệu Đà, một quan viên của nhà Tần, Trung Quốc, xâm chiếm Âu Lạc…
Giáo sư Trần Ngọc Thêm [3] cũng viết:
Ý thức đối kháng bất khuất và thường trực đối với mối nguy cơ xâm lăng từ phía phong kiến phương Bắc. Sự ra đời của quốc hiệu “Nam Việt” từ trước Công Nguyên (thời Triệu Đà), trong đó yếu tố chỉ phương hướng ‘nam’ lần đầu tiên xuất hiện… đánh dấu một bước ngoặt trong nhận thức của nhân dân và tầng lớp lãnh đạo về mối nguy cơ xâm lăng thường trực từ phía phong kiến phương Bắc…
Gần như các nhà sử ngày nay đều nhìn chuyện Triệu Đà thôn tính Âu Lạc.
Nhưng có phải với tư cách “quan chức nhà Tần“?
Còn chuyện về “ý thức đấu tranh” của giáo sư văn hóa Trần Ngọc Thêm thì thật không sao chấp nhận được ý kiến của giáo sư sử học Nguyễn Cảnh Minh:
“Nước Nam Việt của Triệu Đà thực chất là nhà nước cát cứ của một tập đoàn tướng lĩnh, quan lại Hán tộc, không phải là nhà nước của người Việt. Nước Nam Việt của nhà Triệu gốm có 3 quận : Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận, nằm ở phía bắc giáp với nước Âu Lạc “ [4] .
Chưa hẳn thế.
Giáo sư Minh lại mơ hồ khi nói chuyện sụp đổ Văn Lang bằng truyện Trọng Thuỷ dụ dỗ Mỵ Châu và “dùng tiền để mua chụộc các Lạc Hầu Lạc Tướng “ [5]
Lời nói “không rõ” của hai tác giả Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng [6] thích hợp hơn: “Triệu Đà làm chúa đất Nam Hải muốn cướp nước Âu Lạc, đã bao lần đem quân sang đánh…”.
Chúng ta sẽ thấy rằng  Âu Lạc, và Nam Việt thời Triệu Đà cũng nằm cả trong vùng Nam Ngũ Lĩnh và Động Đình Hồ, tức Hoa Nam ngày nay, cũng là cái nôi của Bách Việt.
Nếu Triệu Đà là người của hoàng đế Trung Quốc, hoặc một ông vua nào đó, thì quân mà Triệu Đà dùng để tấn công Âu Lạc là quân của vua đó, chiến thắng của Triệu Đà chỉ mở rộng biên cương và ngai vàng vua đó. Họ Triệu không thể tự dựng lên một vương quốc mới, tự đặt mình làm vua và truyền ngôi cho con cháu. Mặt khác, nếu Triệu Đà là người Hán tộc hoặc của hoàng đế nào, sao viết cho Hán Cao Tổ, đà tự xưng “Nam Di đại trưởng lão”?
Tự xưng như thế rõ ràng là tách biệt mình với Bắc phương, Trung Quốc, và tuyên bố mình là người phương Nam. Đại trưởng lão cũng hàm ý còn những trưởng lão khác như đàn em của mình. Phải chăng đó là các tộc trưởng của các tộc thuộc Bách Việt?
So sánh chế độ cai trị của Triệu Đà sau khi chiếm Âu Lạc với chế độ của Mã Viện sau khi chiếm Nam Việt… sẽ phải tìm nguyên nhân khác biệt giữa hai chủng hoặc đồng chủng. Chính vì thế, giao lưu văn hóa khi thống nhất Nam Hải với Âu Lạc cũng không khó khăn hơn giao lưu văn hóa giữa Âu Việt và Lạc Việt, mà chúng ta đã nói trên.
Như vậy, giao lưu văn hóa Việt Trung chỉ chính thức từ thời Bắc thuộc, mà Bắc thuộc chỉ đúng từ thời nhà Hán xâm chiếm Nam Việt, năm 111 t.CN.
[34] Giao lưu văn hóa Việt Hán
Trước khi nhìn lại giao lưu văn hóa với Bắc phương qua cả ngàn năm lệ thuộc, chúng ta nhìn sơ lại mấy nét chính yếu như văn hóa truyền thống dân Việt.
1. Văn hóa Truyền Thống
Từ khi hình thành các dân tộc Việt định cư định canh khắp vùng mà nay là Hoa Nam và Đông Nam Á, người ta đều chủ yếu làm nghề nông và tạo thành một cái nôi phát triển nghề lúa nước sớm nhất của nhân loại.
Với nghề này, tuy vẫn “chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”, nhưng đàn ông chủ yếu ở ruộng rẫy, công việc sinh dưỡng con cái và bổ dưỡng cho người lao động thuộc sứ mạng nữ giới; do đó, người ta vẫn theo chế độ mẫu hệ.
Đã thế, người người sống gia đình tương đối tự lập, trong đại gia đình, họ hàng, thân tộc kính trên nhường dưới và trong tổ chức xã hội “tình làng nghĩa xóm”.
Tôn giáo cũng có những chiều hướng đặc trưng “thờ kính ông bà” và những thần tượng “cội nguồn”.
Trong cuộc sống tương nhượng để đồng thuận này, chữ Tình là quan trọng hơn hết.
Đó chính là Văn hóa Văn-Lang, Âu-Lạc, văn hóa Truyền thống đã từ từ định hình qua mấy ngàn năm trước khi người phương Bắc tràn xuống áp đảo và áp đặt văn hóa Hán tộc.
Chính vì thế, giao lưu văn hóa với người Hán, trước hết là áp đặt văn hóa, áp đặt trật tự tổ chức xã hội, gia đình, nghề nghiệp, áp đặt những phong tục tập quán trong sinh hoạt và áp đặt cả tư tưởng qua nội dung và phương pháp giáo dục. Do đó mà có những cuộc khởi nghĩa như những lần bật mở một nồi nước sôi bị đậy vung. Cung cách này kéo dài suốt từ thế kỷ I trước Công Nguyên tới nửa đầu thế kỷ thứ mười.
Giáo sư Đào Duy Anh có giải thích hơi khác về hơn một thế kỷ đầu Bắc phương cai trị yên tịnh:
Năm 111 trước kỷ nguyên, Lộ Bác Đức là tướng nhà Hán đánh đuổi Triệu Dương Vương là vua thứ năm nhà Triệu, nước Việt Nam thành nội thuộc Trung-Hoa đổi tên là Giao-chỉ-bộ, chia làm chín quận.
Ở đời Thục và đời Triệu nước Văn Lang, tuy bị sáp nhập với nước láng giềng, nhưng chỉ thay ngôi bá chủ, chứ các lạc hầu lạc tướng vẫn giữ quyền thế tập như xưa. Từ Lộ Bác Đức lấy nước Nam Việt thì địa phận nước Văn Lang bị chia làm ba quận: Giao chỉ, Cửu chân, và Nhật nam, mỗi quận có quan thái thú cai trị, nhưng vẫn không can thiệp đến nội tình các ấp, mà địa vị và quyền bính của các lạc hầu lạc tướng vẫn không thay đổi, duy phải ở dưới quyền quan thái thú và nộp thuế cống mà thôi.
Gần đây người ta đào được mộ xưa ở Thanh Hóa thấy những đồ dùng thuộc về trạng thái quá độ ấy, có thể tiêu biểu cho ba giai đoạn văn hóa đồng thời tồn tại bấy giờ: những đồ đá trau của người thổ trước xưa thuộc về tân thạch khí thời đại (âge néolithique), những đồ đồng về thời Hán từ Trung Quốc đem vào, cùng những đồ đồng do người bản xứ bắt chước đồ Trung Quốc mà làm ra. Trong các đồ về hạng thứ ba, có những cái trống đồng là đồ rất phổ thông ở khắp miền Đông Á, nhưng có lẽ gốc tự miền Bắc Việt mà ra. Trên những trống xưa nhất, thấy khắc những người lạ lùng đi thuyền mang cung và đeo lông chim quanh mình, những cảnh tượng ấy khiến ta phải nghĩ đến một dân tộc hàng hải khi ra đi chinh phục viễn phương, mặc thứ y phục lông chim để mong cũng được tiện gió bay xa như các loại hậu điểu [7]. Song những phong tục xưa ấy sẽ vì tiếp xúc với văn hóa Trung Quốc mà biến đổi. Người Tàu, hoặc thường dân, hoặc binh sĩ, hoặc tù đồ bị đày, hỗn chủng với người bản xứ mỗi ngày mỗi nhiều, khiến ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc đối với dân bản xứ càng ngày càng thêm đậm. Lại gặp ở Trung Quốc có loạn Vương Mãng, rất nhiều quan lại trung thành với nhà Hán đem gia quyến trốn sang các quận ở phương Nam, nhất là quận Giao Chỉ là trị hạt của quan thái thú Tích Quang. Họ giúp Tích Quang truyền bá văn hóa Trung Quốc cho người bản xứ, như lập trường Hán học, dạy dân phép cày bừa và các lễ giáo…” [8].
Những nhận xét trên không khỏi có nhiều thiếu sót vì, khi tác giả viết, thế giới khảo cổ và nhân chủng học chỉ thấy một phần nhỏ, sánh với ngày nay. Ngày nay, người ta nhìn nhận:
  • Trống đồng là của các dân Đông Nam Á này, trong đó có cả người phía Nam Ngũ Lĩnh và Động Đình Hồ, thuộc chủng Mã-Lai cổ. Trung Quốc du nhập từ chúng ta.
Tại sao chúng ta dùng trống, trong khi các dân tộc dùng tù và, mõ…? Thần thoại về nguồn gốc dân tộc – thần Sấm - đã trả lời [9]:
  • Những người tàng hình Chim, trên thuyền Chim, hoặc thuyền bát nhã đó thực là tổ tiên của các dân tộc chúng ta, “con cháu Lạc Hồng”. Cũng đúng là họ đã theo đường biển xuống phương Nam và được tin rằng khi trải qua cuộc sống này, họ sẽ đáp thuyền về vĩnh hằng.
  • Văn hóa lúa nước thì các dân Bách Việt chúng ta dạy cho người Hán, chứ không phải dân du mục cổ đó dạy.
2. Giao lưu văn hóa Việt - Trung
Phân tích của Đào Duy Anh đúng hơn không khi ông nói về Giao lưu văn hóa Nam-Việt – Trung Quốc?
Ông viết:
Buổi đầu các tư tưởng và các điều cải cách ấy chưa xâm phạm gì đến quyền lợi của các lạc hầu lạc tướng nên họ hoan nghênh. Nhưng đến khi Tích Quang muốn lựa người bản xứ để đặt một ngạch quan lại hạ cấp cùng một quân đội thường trú, khiến số người thoát ly phạm vi phong kiến một ngày một đông, thì tình thế ra chiều khó chịu. Các lạc hầu lạc tướng thấy quyền thế của họ có cơ nguy, bèn sinh lòng bất bình với phong trào mới, nhưng trong đời Tích Quang họ vẫn yên lặng, chưa dám hoạt động gì.
Nhân thái thú Tô Định thay Tích Quang là người bạo ngược, nên người Giao Chỉ lại thêm mối căm tức mà chỉ mong có cơ hội để nghịch  [..…]
… Mã Viện thắng trận bèn bỏ hẳn chế độ phong kiến cũ mà lập chế độ quận huyện như ở Tàu (thời ấy là triều Hán). Các lạc hầu, lạc tướng, một phần vì sợ lụy bỏ trốn vào rừng, một phần bị bãi truất. Còn có bố chính (quan thế tập bực dưới) ở tổng, ở làng thì có lẽ cũng còn giữ quyền thế tập như ở các miền thượng du Thanh Hóa và Hòa Bình bây giờ. Bọn này cùng với trú dân Trung Hoa dần dần thành một lớp quí tộc mới, thay cho lớp quí tộc xưa đã tiêu diệt.
Đem so sánh lịch sử ta với lịch sử Tàu thì sẽ thấy rằng nước ta từ Mã Viện đã thoát hẳn chế độ phong kiến xưa, cũng như Trung Quốc từ nhà Tần. Từ rày về sau sự du nhập văn hóa Trung-hoa không còn trở ngại gì nữa, cho nên đến thế kỷ thứ X, khi người Việt Nam bắt đầu cuộc chinh phục Nam tiến thì phàm lễ nghi, học thuật, văn tự, nghệ thuật, tôn giáo cho đến chế độ gia tộc và chính trị, xã hội, đều là theo văn hóa Trung-hoa…” [10]
Hiển nhiên tác giả họ Đào đã có cái nhìn thiên lệch ít nhất trong hai khẳng định:
  • Từ Mã Viện, sự du nhập văn hóa Trung Hoa không còn trở ngại gì nữa.
  • Phàm lễ nghi, … nghệ thuật, tôn giáo, cho đến chế độ gia tộc và chính trị, xã hội, đều là theo văn hóa Trung hoa…
Thực ra, chưa bao giờ hết trở ngại trong lãnh vực đó và chưa bao giờ người Việt Nam, dù ở một tỉnh, một quận, “đều theo văn hóa Trung hoa ”.
Chúng ta thường chia thời giao lưu văn hóa này làm hai loại: Đối kháng và Tiếp biến.
3. Đối kháng văn hóa Trung Quốc
Quan lại Trung-quốc nhất định áp đặt văn hóa Trung-quốc cho các dân tộc bị chiếm, vừa vì họ cho rằng như thế mới “văn minh”, vừa là phương tiện cai trị và đồng hóa.
Tác giả Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca ghi lại hành động áp đặt đó thật nhẹ nhàng:
Tuần Tuyên mới có Tích Quang
dạy dân lễ nghĩa, theo đường Hoa phong.
Trái lại, về phía chúng ta, có thể nói rằng các dân tộc Bách Việt, cho đến nhà Thục và dân Thục đều nuôi hờn vong quốc đối với đích danh Tần Doanh Chính hoặc chung cả quân dân Bắc phương xâm lược từ khi chúng tràn xuống phía Nam sông Dương Tử. Tần không chiếm được Văn Lang vì viễn chinh quá xa và sông núi hiểm trở; nhưng khi Thục Phán lập Âu Lạc và Triệu Đà làm vua Nam Việt thì Âu Lạc hoặc Nam Việt đều vừa ghét vừa chống Bắc phương. Mối hận này tăng bội khi nhà Hán chính thức vẽ lại địa đồ Nam Việt và thống trị cả cựu Bách Việt. Đấy là lý do tại sao Hai Bà Trưng được thờ như hai vị anh thư tuần trung [11], không chỉ trong vùng đất nước cựu Âu Lạc, mà lên tận Nhật Nam, Hợp Phố, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, cả vùng Nam Hồ Động Đình và dải Ngũ Lĩnh [12].
Chính việc đối kháng văn hóa – trong đó có chính trị, quân sự, chế độ gia đình… – là động lực thúc đẩy dân chúng theo cờ những anh hùng liệt nữ chống Trung-quốc xâm lăng:
Triệu Thị Trinh năm 246,
Lý Bôn quật khởi, xưng hoàng đế và hình thành nước Vạn Xuân, lập đô bên bờ sông Tô-lịch khoảng 544-548,
Triệu Quang Phục lừng lẫy những năm 548-571,
Mai Thúc Loan năm 722 đã cùng các bạn phu gánh vải triều cống, rút đòn gánh ra kháng cự, được nhân dân hưởng ứng và tôn làm Mai Hắc Đế. Vua Đường phải dùng tới 10 vạn quân mới uy hiếp nổi.
Phùng Hưng với hai chục năm chiến đấu, năm 791 anh hùng đánh tan 40 ngàn quân Đường do Cao Chính Bình thống lãnh, lên ngôi và trối nước lại cho con là Phùng An.
Cha con họ Khúc với gần hai chục năm (906-923) như tạo chí cho Dương Diên Nghệ (931-937)
và Ngô Quyền chính là người gặt hái được thành quả của trào lưu văn hóa chống ngoại xâm đó tại Bạch Đằng vinh thắng năm 938.
4. Tiếp biến văn hóa
Có những người thấy Sĩ Nhiếp, viên Thái thú Giao Chỉ có nhiệm kỳ vào những năm 187-236, được tôn làm Sĩ Vương, được lập đền thờ ở Thuận Thành Hà Bắc với tôn danh “Nam Bang Học Tổ ”… mà cho rằng hoạt động văn hóa của những quan chức Trung Hoa thành công. Thực ra, những huy hoàng dành cho Nho giáo và Hán học, cũng như dành kính các vị ấy, chỉ đến với họ sau này, trong thời gian Việt Nam tự chủ với các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn. [13]
Vua quan Nho giíao cũng như chức sắc Phật giáo lại là những người du nhập và truyền bá văn hóa Trung-hoa vào Việt Nam đắc lực hơn thế lực ngàn năm xâm lược [14]
Trong ngàn năm này, người Việt Nam tiếp nhận ảnh hưởng văn hoá Trung-quốc do những lớp người di dân và tù nhân từ phương Bắc, cũng nhiều hơn do chính quyền. Người ta nhận thấy những phong tục trong gia đình, trong hiếu hỉ… của Trung Quốc đã êm đềm pha trộn vào những tục lệ cưới hỏi và tang chế người Việt. Ngay cả Đạo Hiếu của Việt Nam cũng mang thêm nét Trung-hoa như minh tinh, bài vị v.v.
Hiển nhiên rằng những pha trộn này khởi đầu du nhập vào các gia đình liên quan nhiều với giới tăng ni và với giới cai trị, liên quan về chính trị Hán Học và Tống Nho, hoặc liên quan về học thuật nhân bản theo quan điểm Khổng Lão, liên quan vì kinh sách Phật học truyền bá bằng chữ Nho… Sau những nhận xét và sàng lọc, mới từ từ len vào đại chúng Việt Nam. Với đại chúng thì những ngoại nhập này đã hết còn nhận ra là “sản xuất tại Trung-quốc” nữa.
Chính nhờ những bước đi dài ngày và khiêm tốn như thế mà có được giao lưu văn hóa Trung - Việt và tiếp biến văn hóa chúng ta. Những nét này đã và sẽ tồn tại lâu bền.
Có thể phải nói rằng điểm đáng tiếc là sự biến đổi những gì liên quan đến chính quyền trong xã hội Việt Nam. Về cơ bản, người ta còn giữ được tình nghĩa dân tộc; nhưng về những đường nét hào hùng và trung kiên thì gần như biến mất hoặc méo mó. Ngay cả đến những thời gian và yếu tố lập quốc, ngay cả đến những chuyện về chủng tộc, người ta cũng từ từ quan niệm lại, viết lại và đọc lại cho có dáng dấp huyền thoại hoặc màu sắc Bắc phương. Người ta đồng hóa Bắc phương của Lạc Việt với Bắc phương của Bách Việt. Trong tầm nhìn đó, Hùng Vương là con cháu Thần Nông, không phải của lúa nước, mà của “bên Tàu”. Thục Đế và Triệu Đà cũng được khai lý lịch lại là Tàu. Những bà Trưng, bà Triệu trong chế độ mẫu hệ, nhận số Trời, trở thành nữ lưu trả thù chồng, nợ nước, bị biếm họa thành Triệu Ẩu (con mẹ Triệu), đến độ nhà trí thực Việt Nam yêu nước thời Nguyễn còn chân thành viết cho các em học sinh hình ảnh Bà oai hùng, mà cô đơn, quái dị:
Vùng vẫy non sông ba thước vú
Xông pha tên đạn một đầu voi.
Dầu thế, nhìn chung thì phần mất mát của chúng ta không thể sánh với phần thủ đắc tốt đẹp, vì khi du nhập những nét hay của văn minh Trung-quốc, tiền nhân Việt Nam đã hành xử đúng như những người trưởng thành, trong một dân tộc văn minh: Biết chọn lọc để du nhập và biết bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc.
[35] Trong giao lưu văn hóa, bảo vệ bản sắc
Qua lăng kính văn hóa, phải nói rằng trên đất nước Việt Nam hiện nay, dân tộc Kinh (Lạc Việt) là dân tộc có bản lãnh mạnh hơn hết trong năm chục dân tộc chúng ta. Người Chăm hùng cường với biên cương rộng lớn, nay chỉ còn lại thiểu số với ít nhiều cổ tục. Ngôn ngữ của hàng chục dân tộc khác đang ngày càng trở nên phụ thuộc và thiếu thốn, vì không diễn tả được những sinh hoạt và nhu cầu hiện đại… nhường chỗ cho ngôn ngữ và quốc ngữ Việt Nam thống nhất từ dân tộc Kinh.
Với người Kinh, người Việt Nam chúng ta thì khác. Từ đối kháng tới tiếp biến. Phần nhỏ bị biến, phần lớn chúng ta tiếp nhận và biến đổi thành của mình.
Xã hội chính trị thêm những cơ cấu và phương pháp làm việc mới, tuy không thể hoặc rất chậm xóa được những cơ cấu bản địa.
Chúng ta nhắc lại ghi nhận tổng quát của Đào Duy Anh:
Mã Viện thắng trận bèn bỏ hẳn chế độ phong kiến cũ mà lập chế độ quận huyện như ở Tàu (thời ấy là triều Hán). Các lạc hầu, lạc tướng, một phần thì sợ lụy bỏ trốn vào rừng, một phần thì bị bãi truất. Còn các bồ chính (quan thế tập bực dưới) ở tổng, ở làng thì có lẽ cũng còn giữ quyền thế tập như ở các miền thượng du Thanh Hóa và Hòa Bình bây giờ. Bọn này cùng với trú dân Trung-hoa dần dần thành một lớp quí tộc mới, thay cho lớp quí tộc xưa đã tiêu diệt.” [15]
Có thể rằng nhìn như thế chỉ là nhìn từ trên xuống, hoặc nhìn trong sử liệu của triều đình. Phong kiến không phải không còn trong thời Trần và “Hịch Tướng Sĩ” của anh hùng Trần Hưng Đạo còn chính thức dựa vào việc bảo vệ thái ấp như một động cơ thúc đẩy quân dân Việt Nam. Hơn thế, cung cách sống đại gia đình, họ hàng vẫn còn đó. Rất ít người Việt Nam mang tên họ Trung-hoa, sau cả ngàn năm đô hộ. Nói gì chỉ trong giai đoạn liền sau vó ngựa chinh phục tàn bạo của đoàn quân Mã Viện!
Chữ viết của mẫu quốc ngàn năm cai trị vẫn chỉ là “chữ Hán”. Thứ chữ của người Hán, của chính quyền Hán, không phải của chúng ta ! Rồi ra, người ta phải thấy hậu quả của quan niệm đó. Chữ Hán được độc tôn do chính quyền áp đặt, người Việt đọc lên với âm Việt hơn âm Tàu, rồi chỉ mấy thế kỷ sau đã thấy có chữ viết hơi khác chữ Hán, mà đọc lên, người Việt Nam nào cũng hiểu: chữ Nôm của thời tự chủ. Dầu những người Hán-học mỉa mai “nôm na là cha mách qué”, hoặc dựa vào “thánh hiền” để răn dạy:
Đàn ông chớ kể Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.
thì cũng chẳng có tác phẩm Hán-văn nào phổ biến bằng Đoạn Trường Tân Thanh, Phan Trần, Nhị Độ Mai, Bích câu kỳ ngộ, Hoa Tiên, Cung Oán, Lục VânTiên, Chinh Phụ diễn nôm…
Ngôn ngữ âm thanh và cử điệu của chúng ta cũng giàu thêm nhờ những tiếng Việt-Hán. Nhạc cụ có thêm khánh, chuông. Ăn, mặc và nhà cửa người Việt cũng pha thêm những đường nét thích hợp. Kiểu nhà nóc oằn và mở cửa ra vào ở đầu, thêm lối nhà nóc thẳng, mái cao và cửa trổ bên hông. Nghề nghiệp của tiền nhân cũng đa dạng hơn nhờ tiếp biến văn hóa. Người ta làm thêm văn tự cũng thêm loại giấy, mặt giấy gỗ trầm, và tất nhiên cũng thêm nghề thầy đồ
Chính nhờ tiếp biến văn hóa mà cha ông chúng ta vừa bảo vệ được bản sắc văn hóa Nam Việt, vừa thêm những nét đẹp mới, chung hòa trong cuộc sống. Tiếp biến văn hóa đó còn chuyển tải cả những giá trị phổ quát của Phật giáo Đại Thừa, Khổng Lão và cả đến giáo lý Kitô giáo (Gia-Tô) nữa!
[1] Nguyễn Cảnh Minh “Đại Cương Lịch Sử VN.” I. Tr.58
[2] Sđd. Tr. 65
[3] Sđd. Tr. 98
[4] sđ d. tr.59 và 60
[5] Xin đọc lại [27] về các vua Hùng
[6] Sđd. Tr. 20
[7] Xem bài Les grandes époques de l’Indochine, par Louis Finet. Bulletin de l’enseignement mutuel du Tonkin, t. XV, n. 2, Avril-Juin, 1935, chú thích của Đào Duy Anh.
[8] Đào Duy Anh, sđd. Tr. 26
[9] Xin đọc thêm Nguyễn Thế Thoại trong “Tôn giáo học và các tôn giáo chính ở Việt Nam” q.1, phần nói về Đạo Nội.
[10] Đào Duy Anh sđd. Tr. 27-28
[11] Vào khoảng năm 40-43
[12] Có những Dân tộc không đủ những điều kiện tốt đẹp như chúng ta, cũng không quá yếu đến độ diệt chủng, đành sống gian khổ, như dân tộc H’mông: “Ở Đồng Văn, Mèo vạc hay Phó Bản, Lũng Cú… mở mắt ra đã thấy đá. Con người sinh ra cũng trên đá, chết đi cũng vùi trong đá. Trên những triền núi chót vót lúc nào cũng thấp thoáng những bộ áo quần sặc sỡ và tiếng hát lảnh lót như chim của những cô gái Mèo…
người H’mông (người Mèo) đã trôi dạt từ phương Bắc sau một cuộc thanh trừng sắc tộc. Người Hán quyết nhổ cỏ tận gốc người H’mông. Yếu thế, người H’mông chạy về phương Nam và nương náu trên đất Việt. Nhiều thế kỷ qua, người Việt và các dân tộc anh em khác đã cùng sống thuận hòa có sướng có khổ, có buồn có vui. Ngày Tết (thường là một ngày cuối tháng âm lịch từ tháng mười một đến tháng một), người H’mông cùng ăn tết và thờ cúng ông bà. Một tục lệ không thể thiếu trong ngày này là cắt tiết gà yểm trừ con ma nhà Hán, kẻ thù đã tàn sát người H’mông. Trong cuộc đời của mỗi người H’mông, không mối thù nào lớn bằng mối thù con ma này.” (Đặng Đại, trong Tuổi Trẻ Chủ Nhật 5-2000, tr. 43)
[13] Chúng ta sẽ nhắc tới nguyên hành động đó của các triều đại Việt Nam.
[14] Xin đọc thêm “Phật Giáo tại VN” trong “Tôn giáo học” của cùng tác giả
[15] Sđd. Tr. 28
11.
Văn Hóa Việt Nam
THỜI TỰ CHỦ
Quan san hiểm yếu minh kinh hoạch
Khê giản phiên bình quảng phủ tồn
Bạch thủ Lạng châu nguy chế trị,
Nhất khâm trung xích tắc càn khôn.
(“Thượng Ngao” – Phạm Sư Mạnh)
Núi non hiểm trở, kế hoạch phải rõ ràng
Bản mường ở nơi khe suối phải được quan tâm vỗ về,
Bạc đầu vì lo việc bố phòng ở châu Lạng
Một tấm lòng trung đỏ thắm cả trời đất. [1]
[36] Tự chủ, một điều kiện tốt cho văn hóa bản địa
Nhìn vào những phần đất mà các dân tộc thuộc chủng Cổ Mã-Lai sinh trưởng, người ta thấy ngay vị trí Việt Nam dễ để dân tộc Lạc Việt này tự chủ: Chúng ta ở giữa các dân tộc thuộc Bách Việt. Các dân tộc phía Bắc chúng ta tiếp cận những dân du mục Hán Mông. Các dân tộc phía Tây và Nam chúng ta tiếp cận các dân tộc Ấn Độ, hoặc sống trên trăm ngàn hòn đảo giữa đại dương. Thực tế, chúng ta cũng đã hàng nghìn năm giữ được quyền tự chủ: 938-1958.
Tự chủ lại là điều kiện tốt để bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mình.
Những triều đại cai trị dân tộc trong thời đại ngàn năm tự chủ này đã thành công và thất bại thế nào trong lãnh vực văn hóa bản địa? Trước hết, chúng ta xét qua những thành công, tức là những khai triển đúng nhờ tình trạng tự chủ của dân tộc:
1. Một ý thức tập thể mạnh: Tổ Quốc và Đồng bào.
Mỗi lần đánh đuổi được Bắc quân xâm lăng, chính quyền chiến thắng biểu lộ gần gụi dân hơn, thân thương hơn. Công việc làm ăn ổn định hơn, cảm nghiệm hạnh phúc gia đình và hòa khí xóm làng hơn… người dân có ý thức hơn về tình nghĩa dân tộc và trật tự xã hội tự chủ, nên sức mạnh dân tộc càng ngày càng tăng. Lòng yêu nước ngày càng nồng ấm. Hơn thế, người dân Việt Nam còn tin tưởng như kiện tướng Lý Thường Kiệt rằng đây chính là phần Giang Sơn mà Trời dành cho dân tộc mình:
Nam quốc Sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư.
Do đó, họ an tâm và quyết chí bảo vệ và phát triển.
2. Chính trị quân chủ từ từ thống nhất hơn và guồng máy chính quyền được kiện toàn hơn.
Từ chế độ quận huyện rời rạc, đồng bào chỉ thống nhất trong tay triều đình phương Bắc, Ngô Quyền xưng vương, sau trận Bạch Đằng đuổi quân Nam Hán, năm 939, ông mở một tổ quốc vững bền với kinh đô Cổ Loa.
Người anh hùng quá cố, chứng cũ lại tái diễn, chúng ta bị loạn Thập Nhị Sứ Quân; may mà Đinh Bộ Lĩnh qui tụ được mười hai sứ quân đó, thành một nước mang theo lý tưởng lớn lao “Đại Cồ Việt”. Lần đầu tiên trong lịch sử, năm 968, một người Việt Nam tự xưng Hoàng Đế: Đinh Tiên Hoàng với thủ đô Hoa Lư…
Từ nay, Triều đại có thể thay thế, nhà vua có thể lật đổ, nhưng quan niệm về Tổ quốc và Chủ quyền dân tộc sẽ muôn đời tồn tại. Quân xâm lược có thể tới, gian khổ có thể chồng chất… những người Việt Nam sẽ muôn đời là chủ đất Việt Nam. Lịch sử bắt đầu thành món ăn bổ dưỡng cho những thế hệ cháu con. Cũng từ đây, niềm tự hào dân tộc phát sinh làm nên một trong những dòng sông phúc lợi:
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều,
Bát ngát sông kinh muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một mầu,
Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu…
Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng [2] Nhị-thánh [3] bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.
Khi ấy:
Thuyền tầu muôn đội, tinh kỳ phấp phới,
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói…
Khác nào khi xưa:
Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì [4] giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi
Đến nay nước sông tuy chảy hoài
Mà nhục quân thù không rửa nổi.” [5]
3. Người Việt Nam chứng tỏ kiên cường, bất khuất
Gần như không có kẻ thù nào sát nách, con dân Trung quốc phát triển mạnh trong hai lưu vực sông Hoàng Hà và Dương Tử. Những bộ tộc của Hoàng Hà hiếu chiến đã thống nhất Trung Hoa và từng ngàn năm đô hộ Việt Nam, nên vẫn chưa dễ từ bỏ mộng xâm lăng. Vì thế, trong thời gian thống nhất tự chủ, các triều Ngô, Lê, Lý, Trần vẫn phải tập họp nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Bắc phương. Tuy thế, vì lòng yêu nước sống động hơn, nên những cuộc chiến tàn khốc hơn càng ghi đậm đà chiến thắng cho Việt Nam và đau đớn ê chề cho Trung Quốc.
4. Trong chiến tranh, quân dân Việt Nam vẫn biểu lộ tinh thần Nhân đạo và Cao thượng.
Trong Bình Ngô Đại Cáo, Ức Trai đã thay dân Việt Nam cho biết: Mình chỉ tự vệ, không muốn sát hại, dù là kẻ thù xâm lược. Thắng, mình tha bổng Thần-vũ chẳng giết làm gì! Chúng biết kính nể là đủ: Cấp cho năm trăm chiếc thuyền để về, lúc qua sông mà vẫn còn mất vía…
5. Chiến tranh Cạnh sinh hoặc Đấu tranh sinh tồn
Vừa thiện chiến, vừa phong phú và có điều kiện làm ăn phát triển, người nông dân Việt Nam tất nhiên không muốn vượt cao nguyên và rừng núi Bắc phương hoặc phía Tây, cũng không thể tràn xuống biển Đông, Nam tiến là con đường duy nhất.
Sau khi đánh Tống và an bang, Lê Đại Hành chinh phạt Chiêm Thành vì bắt giam sứ giả. Đinh quân phá thủ đô Yudrapura (Trà Kiệu) và bắt Chiêm Thành chịu triều cống, rồi mới rút về; nhưng nông dân không ít ở lại Địa lý châu, mà nay các vùng thuộc Quảng Bình. Bởi kinh đô Chiêm Thành đã phải dời vào Vijaya (Phật Thệ / Bình Định ngày nay). Lý Thái Tôn 1044 sẽ “trị tội” tân đô Vijaya này và bắt 5.000 người Chiêm về khai thác vùng rừng núi Nghệ An. Hơn hai chục năm sau, tức 1069, Lý Thánh Tông dẫn nông dân vào làm ruộng Quảng Trị rồi! Chế Mân với đường lối cộng sinh dâng hai châu Ô và Ri để cưới công chúa Huyền Trân năm 1306, hoặc trái lại, Chế Bồng Nga hung hăng tấn công đến tận Thăng Long, cũng không đổi được dòng lịch sử. Năm 1402, Hồ Quí Ly đã có thể nhìn nông dân Việt Nam khai thác châu Tư, châu Nghĩa, và Cổ Lũy (Quảng Nam, Quảng Ngãi).
6. Phục viên sau chiến tranh, sau phục vụ
Không thiếu những vị tướng tài, những vị mưu sĩ giỏi, xong việc liền vui thú ẩn dật:
Hàn Lâm học sĩ Lý Tử Tấn đến thăm Nguyễn Trãi và ghi:
Lý Tử Tấn đề Ức Trai bích
Tâm kính tương phùng khởi ngẫu nhiên
Biệt khai thành thị nhất lâm tuyền
Ưu du lễ nhượng an nhân trạch
Xuất nhập khiêm cung lạc tính thiên
Lại tán đình tiền duy thảo sắc
Khách lai trúc ngoại hữu trà yên
Công dư thoái thực phần hương tọa
Họa trục trương cầm lạc tuế niên.
(Lòng gương chọn chỗ há tình cờ
Thành thị riêng bày một cảnh thơ
Lễ độ ung dung nhân nghĩa giữ
Kính nhường đi đứng tính tình ưa
Lại về, sân đất trơ màu cỏ
Khách đến, rào tre nổi khói trà
Xong việc đốt hương ngồi lặng lẽ
Phiếm đàn, nét họa tháng ngày qua.)
[Trần Thanh Mai dịch[6]
7. Tín ngưỡng và tôn giáo phát triển, đồng hành.
Từ khởi thủy, người Lạc Việt chúng ta vẫn sùng kính tổ tiên và giữ “đạo ông bà”, nhưng khi giao lưu văn hóa Việt-Trung, người ta tiếp nhận thêm giáo thuyết, rồi tổ chức tôn giáo Phật, Nho, Lão. Giáo lý và cả những niềm tin bình dân do bốn dòng tín ngưỡng ấy thấm vào và chi phối thật nhiều trong đời sống các tầng lớp nhân dân.
Về tổ chức chính quyền, hiển nhiên không thể theo Lão hay Phật, mà chỉ theo học thuyết Nho giáo: Quân-sư-phụ… nhưng về tôn giáo, có triều đại ủng hộ Nho, có triều đại ủng hộ Phật. Nho giáo không có nhiều thần thánh, nên chỉ Văn Miếu là đủ. Tu Nho cũng chính là tự luyện nên người quân tử Tu tề trị bình, vì thế mỗi làng không cần cơ sở chung nào khác một ngôi đình làng. Trái lại, Phật giáo đại thừa thì có biết bao thần thánh và cần bao nhiêu chùa chiền cho đủ ! Do đó, chúng ta thấy còn thật nhiều ngôi chùa cổ kính trải gió sương thế kỷ, mà thành danh lam thắng cảnh. Thế kỷ XV, Thiên Chúa giáo, hoặc Công giáo, tuy lăng lẽ theo nho sĩ Việt Nam và giáo lý viết bằng hán văn từ Trung Hoa vào Việt Nam, nhưng chỉ ồn ào và bị triều Lê trung hưng ngăn cấm khoảng giữa thế kỷ XVI. Bởi tôn giáo mới này có vẻ khó dung hoà với các tôn giáo trước đây, đặt căn bản trên suy luận nguồn cội và ấp ủ bằng lòng biết ơn. Thêm vào đó, Kitô giáo chỉ dạy con người  có một Thiên Chúa là cha, coi mọi người bình đẳng, huynh đệ. Làm sao chấp nhận được trong văn hóa xã hội nho giáo «quân, sư, phụ». Khi chính quyền Lê  trung hưng quyết đấu tranh với nhà Mạc là lúc Lê Huyền Tông (1663-1671) hai lần cấm Đạo Kito
8. Kiến tạo văn hóa vật thể và tinh thần.
Giai đoạn Lý Trần, tức thời tự chủ thống nhất, có nhiều công trình còn di chỉ. Trước hết là Thăng Long, Hoàng thành gồm hai lớp, bảo vệ nhiều cung điện bề thế. Tiếp đến là bao nhiêu chùa chiền, mà ngày nay còn di lại một số báu vật cho ngành du lịch và khảo cổ: chùa Một Cột, chùa Giạm, tháp Báo Thiên, tháp Chương Sơn v.v. Sử gia Lê Văn Hưu ghi một hiện tượng rất lạ thời họ Trần:
Nhân dân quá một nửa làm sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa.
Cùng với nghề nông phát triển và dân cư sinh hoạt, việc đắp đê được qui hoạch hẳn hoi, thêm chức hà đê sứ. Thiết lập thủ đô Thăng Long 36 phố phường cũng đòi hỏi kỹ thuật đê sông Hồng.
Nhiều nghề khác cũng tiến bộ, như: nghề gốm, nghề sứ, nghề đúc đồng và chạm khắc trở thành tinh vi. Nghề dệt vải và dệt lụa nổi tiếng ở phường Yên Thái. Hàng Đào nghề nhuộm. Thành phẩm của những nghề trên đẩy mạnh việc buôn bán trong và ngoài nước.
Văn hóa tinh thần cũng phát triển trong thời Tự chủ và tự cường.
Đạo Ông Bà thêm những biểu hiện tôn kính anh hùng liệt sĩ. Chính từ thời này, để tương đối với Hoa Nam, người ta “tìm lại” và “viết lại” nguồn gốc dân tộc với Con Rồng cháu tiên. Phổ biến chuyện Một Bọc  trăm con, để tạo hiệp nhất các dân tộc. Tuy nhiên, những lỗ hổng còn lớn :Triều đình không chỉ lập phả hệ 18 đời vua Hùng và đề cao Con Rồng Cháu Tiên, mà còn bắt tuyên thệ trước Thần Đồng Cổ (Trống Đồng, tượng trưng thần tổ là Thần Sấm) để quan dân đều trung hiếu.
Đạo Nội với Tứ Bất tử đều nói lên sự phối hợp giữa thần thánh và con người, giữa quí tộc và bình dân…. Vị thần nào cũng lo phúc đức cho đời.
Ngành Văn hóa phụng tự từ đó phát sinh: thi ca, múa hát và cúng tế trong lễ hội, trong hiếu hỉ. Những lễ hội lại gợi hứng cho ca, vè, thi, phú, tuồng chèo và lên đồng, coi bói.
Tuy Tam tứ giáo đồng nguyên và song hành, nhưng nhà Lý chú trọng tới NHO giáo hơn. Triều Lý lập Văn Miếu (1070) thờ Thánh Hiền, lập Quốc Tử Giám (1076) đào tạo nho sĩ quí tộc, mở khoa thi Thái Học sinh để tuyển hiền tài… Hán học trở thành con đường hứa hẹn dẫn tới giàu sang.
Triều đại sau – Nhà Trần – tất nhiên phải làm gì cho khác để thu phục nhân tâm. Thi Thái Học sinh trở thành thi Tiến Sĩ. Tránh Nho sĩ bước đầu gièm pha chuyện thay đổi chủ, Triều Trần ra mặt ủng hộ Phật giáo hơn. Khuynh hướng này không chỉ để lại chùa và tháp, còn để lại nhiều tác phẩm văn học đậm đà hương vị Thiền. Văn chương chữ Hán đời Trần cũng đáng hãnh diện về những tác phẩm hàm ý đề cao Dân Tộc như Đại Việt Sử Ký, Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Chích Quái…
Chính ngôn ngữ văn học đời Trần cũng thêm một ngành quan trọng: CHỮ NÔM. Nhờ thứ chữ này, mà người bình dân không đọc nổi, chỉ nghe cũng có thể thưởng thức thi văn của thức giả trong dân tộc mình. Tuy còn lệ thuộc Hán văn về tự dạng và luật thơ, những chữ Nôm đã thực sự giúp chúng ta có một nền văn học tự chủ đáng tự hào. Thiên Chúa Giáo là bộ phận sử dụng chữ Nôm nhiều nhất và nhiều thể loại văn nôm, trong khi văn học chừ Nôm của nho gia chỉ là văn vần. Một giáo sĩ Majorica cũng viết tới ba bốn chục tác phẩm!
[37] Văn hóa Việt Nam thời giành nhau làm chủ
Từ sau nhà Trần tới ngày bị Pháp đô hộ, nhân dân chúng ta không được tròn một thế kỷ thanh bình và thống nhất lãnh đạo. Tình trạng an-ninh chính trị thiếu, sẽ suy giảm kinh tế, xã hội; nhưng văn học nói riêng và văn hóa nói chung không hẳn xuống theo.
1. Bối cảnh lịch sử và văn hóa Hồ - Hậu Trần
Để giảm áp lực trong nước do những thần dân trung thành với Trần triều và để làm nhẹ ảnh hưởng Trung Quốc, nhà Hồ dời đô về Thanh Hóa và gọi là Tây Đô [7], với quốc hiệu là Đại Ngu. Ngay từ khi phò Lê, Hồ Quí Ly đã biểu lộ tài cao với những mộng ước to lớn cho dân tộc về kinh tế và văn học:
Hạn điền: mỗi chủ đất chỉ được làm chủ dài nhất là mười năm, rồi chính quyền xét cấp lại.
Hạn nô: ấn định về nô lệ và những người làm công cho một chủ nhân.
Tiền giấy, được họ Hồ sử dụng là thuộc vào lớp tiên phong của nhân loại. Thật là tiện lợi.
Về văn học, Quí Ly phê bình kinh điển Nho học, ấn định chữ Nôm là văn tự chính thức. Ông cũng mở thêm trường tại các lộ, phủ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông. Ông tổ chức lại các kỳ thi và các môn thi.
Họ Hồ thất bại, vì các cận thần và cựu thần nhà Lê nhìn ông là chuyên quyền, tiếm quyền và giảo quyệt, nên tích cực hoặc tiêu cực chống đối. Vì thế, khi Trương Phụ và Mộc Thạnh đem hơn hai trăm ngàn quân sang đánh, năm 1407, cha con Hồ Quí Ly đều đại bại và bị bắt.
Con cháu và vua tôi nhà Trần nhảy ra chớp thời cơ để giữ quyền tự chủ. Đáng tiếc, các ông Hậu Trần cũng chỉ chống đỡ được bảy năm với Giản Định Đế [8] và Trùng Quang Đế [9], rồi đất nước chúng ta bị Triều Minh trấn áp.
2. Cưỡng bức văn hóa thời Minh.
Rút kinh nghiệm dùng bạo lực cả ngàn năm trước không thành công, Triều Minh sau chiến thắng vội rút võ quan về, để dùng văn trị. Văn quan Hoàng Phúc được trao quyền.
Nắm quyền cai trị được gần một tháng, tháng Chín năm đó (1414) Hoàng Phúc bắt các phủ huyện, châu dựng văn miếu, lập đàn tế lễ hàng năm thờ xã tắc Phong Vân, Sơn Xuyên và các thần theo phong tục Trung Hoa. Hắn còn đặt ra luật cấm trai gái nước Việt cắt tóc ngắn. Phụ nữ phải mặc quần dài áo ngắn theo phong tục phương Bắc. Cũng tháng Mười năm ấy, theo lời bàn của Tham nghị Bành Đạo Tường, Hoàng Phúc đã cho mở trường học tiếng Trung Hoa và ra sức lôi kéo mua chuộc sĩ phu, thầy thuốc, tăng đạo, để phục vụ nền đô hộ.
Năm Ất Mùi (1415), Hoàng Phúc cấp lộ phí, cho người đi theo phục dịch và bắt các quan cai trị các địa phương phải đón tiếp long trọng những người Việt sang Kim Lăng thụ phong chức tước để về nước làm việc cho chính quyền đô hộ…
… Ngoài việc đào tạo và mua chuộc các quan chức, Hoàng Phúc còn thực hiện âm mưu thiêu hủy những bi ký của những người Việt từ trước để lại, một số có giá trị lớn chúng đưa về Bắc. Hàng năm nhà Minh còn bắt các địa phương Đại Việt phải cống nạp những nho sinh trẻ, những thợ thủ công lành nghề để đưa về Kim Lăng, hòng hủy diệt dân tộc Đại Việt…” [10]
Đối phó với cưỡng bức văn hóa, người Việt đa số đoàn kết bảo tồn văn hóa truyền thống và đòi chủ quyền dân tộc, mà kết quả đời đời ghi nhớ là cuộc thắng lợi của nhà Lê.
3. Tiếp biến văn hóa thời Sơ Lê
Vừa khi thành công kháng chiến, các triều vua Việt Nam ưa du nhập nhiều nét văn hóa Trung Hoa, vừa để tô chuốt cho “thiên mệnh đế vương”, vừa để che đậy mặc cảm dân tộc nhược tiểu.
Đầu năm Mậu Tuất [11], Lê Lợi và các bạn chính thức dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn. Thừa hưởng tài sản tinh thần và vật chất từ bốn đời. “Truyền thuyết kể rằng:
Lớn lên Lê Lợi làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, được hồn sư ông mặc áo trắng hiển hiện chỉ cho ngôi huyệt phát ‘đế vương’ ở động Chiêu Nghi. Sau đó một người phường chài là Lê Thận bắt được một lưỡi gươm cũ, khi đưa vào tay Lê Lợi thì thanh gươm không phải mài mà sáng như gươm mới. Trên gươm có khắc hàng chữ triện, Lê Lợi biết là một thanh gươm quí. Hai ngày sau vợ Lê Lợi ra vườn hái rau lại bắt được một quả ấn báu cũng khắc mấy chữ lối triện, trên lưng quả ấn khắc tên họ Lê Lợi. Ngày sau nữa lại bắt được cái chuôi kiếm ở gốc cây đa, có khắc hình con rồng, con hổ và hai chữ “Thanh Thúy”, đem lắp vào lưỡi kiếm đã bắt được thì vừa vặn không sai chút nào.
Từ đó ông càng tin rằng vận nước đã được trao vào tay mình, càng chăm chỉ dùi mài đọc sách và binh pháp nuôi chí và chờ thời vận…” [12]
Sau hơn mười năm chiến đấu bằng binh khí và ngoại giao, nhất là luôn luôn đề cao nhân nghĩa, Lê Lợi lên làm Thuận Thiên đại vương của nước Đại Việt, nắm quyền xây dựng đất nước theo mộng ước của mình.
Theo lăng kính văn hóa, chúng ta thấy Đại Việt thời Hậu Lê đã có khả năng tiếp biến văn hóa tốt đẹp trong khoảng chín chục năm. Cũng chính nhờ tiếp biến văn hóa Việt Trung như thế mà nhiều vua thời Lê vinh quang.
3.1. Chính sách nông nghiệp
Nông nghiệp vẫn là thế mạnh của nhân dân chúng ta. Để đủ sức tự cường, triều Lê cải tiến với việc phân điền, tỉnh điền và hộ đê. Vừa lên ngôi, Lê Thái Tổ đã cho kiểm kê hộ khẩu, làm sổ hộ, sổ điền và tiến hành việc quân điền. Tới đời Lê Thánh Tông thì chính sách quân điền đã thành đạt, tư tưởng trọng nông đã thật sự vào tâm não người nho sĩ:
Nhất sĩ nhì nông,
Hết gạo chạy rông,
Nhất nông nhì sĩ.
3.2. Sinh hoạt văn nghệ nhân gian
Kẻ Sĩ đa số từ nông phát xuất và khi đời nghiêng bóng lại trở về nông. Khoảng cách giai cấp thật gần gụi. Thưởng thức văn nghệ và giải trí như cầm kỳ thi tửu họa… thì giai cấp nào cũng có. Tác phẩm Hí Phường phả lục của Lương Thế Vinh cho biết Tuồng và Chèo là hai loại hình văn nghệ sân khấu nhân gian đã phát triển rộng và cao.
3.3. Đào tạo nhân tài
Nhìn lại, chúng ta thấy gần như các triều đại tự chủ Việt Nam có ưu điểm này là biết chấp nhận nhân tài, đào tạo nhân tài bằng những phương pháp và qui tắc công khai, phổ biến cho toàn dân. Do đó, con vua, con quan hoặc con lê thứ đều phải học tập và dự thi. Khó có tình trạng:
Con vua thì lại làm vua,
Con bác sãi chùa lại quét lá đa.
Con bác sãi chùa hoặc con bần cố nông mà có chí tiến thủ, có tư chất và gặp điều kiện thích hợp, thì vẫn không bị dòng máu hoặc đảng phái cản trở, đến độ người người tâm niệm: “Ai giầu ba họ, ai khó ba đời”.
Mùa Thu, tháng Tám [13], xây Văn Miếu, tô tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối, vẽ hình Thất Thập Nhị Hiền… để bốn mùa cúng tế…” [14]
Năm năm sau, nhà Lý mở khoa thi Nho giáo đầu tiên. Rồi tiếp tục, tuy có thể “phép thi lúc này chưa có thể thức nhất định. Thỉnh thoảng có chiếu vua ban ra cho học trò trong nước vào kinh dự thi. Nhà vua thường tự coi thi ở sân điện…” [15]
Kể từ năm 1232, nhà Trần đặt ra học vị Thái Học Sinh cho thí sinh thành đạt, sau Lê đổi thành Tiến sĩ… Nho học thích ứng đã giúp nhân dân Việt Nam thêm nhiều người tài đức. Nhờ có nhiều nhân sĩ tài cao giúp đỡ như Ức Trai Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn… Lê Sơ đã tổ chức các khoa thi để tuyển chọn nhân tài phục vụ hoàng triều và nhân dân. Lê Thái Tổ mở đầu các khoa thi. Chúng ta đều hiểu tác dụng tôn quân của Khổng học. Nhân dân càng thấm nhuần châm ngôn “Quân-sư-phụ”, việc cai trị càng ổn định.
Tuy thế, phải nhận rằng thời Lê Sơ có nhiều nhân tài kiệt xuất. Ức Trai ngày nay được quốc tế nhìn nhận là nhà văn hóa lớn. Ai nghiên cứu văn chương Quốc âm cũng phải đọc tới Quốc Âm thi tập với 254 bài thơ của ông.
Lên ngôi mới 2 tuổi, nhờ Tuyên Từ hoàng thái hậu điều khiển triều chính, Lê Nhân Tông “Thần sắc anh tuấn, dung dáng đúng đắn, mỗi khi tan chầu, thân đến kinh diên đọc sách, mặt trời xế bóng về Tây mới thôi.” [16]
Lê Thánh Tông xứng đáng được ca tụng là Nguyên Soái của Tao Đàn với Nhị thập bát Tú. Là nhà thơ lớn và sáng tác phong phú, người tổ chức việc học và thi cử chu đáo nhất thời phong kiến Đại Việt. Cũng không bao giờ trong lịch sử Việt Nam người ta được thấy tình nghĩa thi văn nối kết vua tôi, thông cảm lãnh đạo và nhân dân như thời Hồng Đức.
1.  Guồng máy cai trị
Bộ máy nhà nước quân chủ đó cũng thường xuyên được đổi mới, nhờ đường lối tiến và cử của các khoa thi và các trường thi. Tầng lớp sĩ phu hiển đạt, từ đời Lê Thái Tông, 1442, được khắc tên vào bia đá để ở Văn Miếu, sau khi bảng vàng và áo mão vinh qui, thường tham chính bên cạnh và nhiều khi thay quí tộc. Nhiều nho sĩ không hiển đạt, trung thành với nghề giáo, vẫn thấy được trò cũ của mình thành rường cột đất nước.
3.5. Tận tâm vì Gia Đình, vì Tổ quốc.
Những vua như Lê Thánh Tông, khi từ trần mới 56 tuổi, mà để lại 14 con trai, 20 con gái… thì không hẳn vì họ đuổi theo sắc dục mà quên giáo dục con hoặc lo cho dân tộc. Sinh con, giáo dục con là thước đo lòng yêu dân. Chính Thánh Tông tự thuật:
Lòng vì thiên hạ những sơ âu
Thay việc Trời dám trễ đâu
Trống dời canh còn sách
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu.
Đối với họ, bảo vệ gia phong mới bảo vệ Đất Nước:
Một thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được. Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất của vua Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc thì người đó sẽ bị trừng trị nặng.
Chính từ thời này [17] chúng ta có địa đồ Đại Việt, rồi Đại Việt Sử ký Toàn thư và Thiên Nam dư hạ tập…
3.6. Pháp trị
Văn trị theo đạo làm người, gia đạo và tình làng nghĩa xóm đã là tốt, nhưng với đông đảo quần chúng thuộc đủ mọi điều kiện sống khác nhau, không thiếu những người ác tâm phá hoại và những người yếu đuối dễ bị cuốn theo. Xã hội cần Luật pháp. Do đó, khi có được luật pháp, người ta coi như một chặng đường mới, sáng tỏ hơn:
Trước kia, việc kiện tụng trong nước phần nhiều đều rất phiền nhiễu, phép quan thường câu nệ, cố làm cho khắc nghiệt, khiến cho nhiều người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy đó làm thương xót, bèn sai quan Trung Thư san định ra luật lệnh, châm chước cho thích hợp với thời thế, chia ra thành môn loại và điều khoản khác nhau, gọi là Hình Thư của một triều đại, khiến cho ai xem dễ hiểu. Sách làm xong, vua xuống chiếu cho ban hành, dân đều lấy làm tiện. Đến đây, việc xử án được thẳng thắn, rõ ràng, cho nên vua [18] mới cho đổi niên hiệu mới là Minh Đạo và cho đúc tiền Minh Đạo.” [19]
Phải nhận rằng Pháp trị thời đó khá nghiêm minh hoặc quân chủ mà “dân chủ” – có thể hơn bây giờ? – ta mới thấy pháp quan mà dám xử cả hoàng thái tử Lý Long Xưởng.

Nếu đời Lý có Tô Hiến Thành thì đời Trần có hai luật gia nổi tiếng là Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn.

Nhưng nổi tiếng nhất và là bộ luật trước nhất còn giữ lại được đến nay: Luật Hồng Đức, công bố năm 1483, với 721 điều đáng kể. Đào Duy Anh viết: “Đời Lê Thánh Tôn châm chước pháp luật nhà Tùy và nhà Đường soạn thành bộ luật Hồng Đức gồm có hình luật và hộ luật, lại định riêng kỳ xử việc nhỏ và kỳ xử việc lớn…” [20]
Chúng ta có thể tự huyễn hoặc không khi tạm kết một thoáng nhìn lại văn hóa thời Lê Sơ:
Trên cơ sở văn hóa dân tộc hoặc là văn hóa bản địa, văn hóa thời Lê Sơ đã du nhập và thích ứng thật nhiều nét văn hóa Nho giáo qua giới sĩ phu.
[38] Văn Hóa Việt Nam thời buổi phân tranh
Khi nhà Lê suy sụp, tình hình chính trị xã hội Việt Nam để lại những trang sử huynh đệ tương tranh: Lê - Mạc, Lê - Mạc - Trịnh, Lê - Mạc- Trịnh - Nguyễn.
1. Bối cảnh lịch sử
Sau gần tám chục năm cầm quyền, xét chung nhà Lê tỏ ra xứng đáng và nhân dân phát triển.
Lê Túc Tông lên ngôi ngày 6 tháng 6 năm Giáp Tý [21]. Tháng 11, sai sứ lên đường sang Trung Quốc; nhưng sứ chưa qua biên giới đã phải triệu hồi, vì Túc Tông qua đời. Ông đã căn dặn: Con thứ hai của Hiến Tông là Tuấn, người hiền minh nhân hiếu, có thể lên ngôi chính thống…. Nếu thân vương nào tiếm ngôi trời thì người trong nước giết đi…
Thái hoàng Thái hậu, thân mẫu Hiến-tông và bà của Túc Tông, là người muốn đặt Lã Côi Vương, vì Tuấn con của kẻ tỳ thiếp, không xứng đáng. Khi thành Lê Uy Mục, Tuấn giết bà và một số đại thần như Đàm Văn  Lễ, Nguyễn Quang Bật… Tuy thế, điều đáng tiếc hơn nữa là Tuấn mê đắm tửu sắc cũng như sát nhân. Sứ giả nhà Minh đã phải than:
An-nam tứ bách vận vưu trường
Thiên ý như hà giáng quỉ vương.
Vận nước Nam còn dài bốn trăm năm
 Mà sao ý trời cho vua quỉ xuống.
Cháu nội của Lê Thánh Tông là Oánh cũng bị “quỉ vương” tống giam đợi giết, đã vượt ngục vào Thanh Hóa và tháng 11 năm 1509 bất thần dẫn quân về chiếm hoàng thành, bức tử Lê Uy Mục và lên làm Lê Tương Dực [22]. Năm 1513, khi sang phong vương cho Tương Dực, sứ giả Minh triều là Trần Nhược Thủy và phó sứ là Phạm Hy Tăng đã cùng nhận xét:
“Quốc vương An-nam mặt thì đẹp, mà người lệch, tính thích dâm, làm vua lợn, loạn vong sẽ tới không lâu ”.
Không lâu, tháng Tư Bính Tý, 1516, cận thần Trịnh Duy Sản sai người đâm chết Lê Tương Dực, đón cháu bốn đời Lê Thánh Tông là Huệ, 11 tuổi, về làm vua Lê Chiêu Tông [23].
Chiêu Tông phải đến tận cung Mạc để phong Đăng Dung làm Thái Phó, Đăng Doanh làm Dục Mỹ Hầu. Phẫn uất, Chiêu Tông âm mưu chống Mạc. Mưu lộ, ông vua yếu đuối phải chạy trốn. Mạc và cận thần tôn chàng thanh niên 16, em Chiêu Tông là Xuân, làm Lê Cung Hoàng [24].
Khi chịu không thấu, ngày 15.6.1527, Lê Cung Hoàng phải “nhường ngôi” cho Mạc Đăng Dung. Chấm dứt 10 đời vua Lê với một trăm năm trị nước [25].
Chính khi Đăng Dung lên ngôi, Nguyễn Kim dựng nghĩa Cần Vương ở Thanh Hóa. Rồi khi Đăng Dung mất thì Đăng Doanh làm Thái thượng Hoàng cho Mạc Phúc Hải. Khi Phúc Hải chết sau sáu năm làm vua chọi gà và xướng ca, thì ở Thanh Hóa, Nguyễn Kim cũng bị đầu độc chết và binh quyền vào tay Trịnh Kiểm.
Mạc Phúc Nguyên lên ngôi năm 1546, nhưng trong triều phe phái anh em vẫn giành giựt, bên ngoài thì quân Lê Trịnh từ Thanh Hóa kéo ra đòi lại giang san.
Phúc Nguyên chết, chú bé Mậu Hợp lên làm vua suốt 29 năm, nhưng càng lớn lên chú càng ham tửu sắc, để cuối cùng bị quân Lê Trịnh bắt trong chùa cùng với hai kỹ nữ [26]. Rảnh tay phía Bắc, quân Lê Trịnh thấy bận tâm về phía Nam, vì từ năm Mậu Ngọ [27], Nguyễn Hoàng đã được làm trấn thủ Thuận Hóa, âm thầm thực hiện sấm Trạng Trình: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Từ tháng 2 năm Quí Dậu [28] lại được phong làm Thái Phó lo trấn giữ cả miền Nam.
Tuổi 89, Nguyễn Hoàng mới mất sau 4 con trai là Hà, Hán, Thành, Diễn. Người con thứ năm là Hải đang ở Bắc làm con tin, Nguyễn Hoàng trối vương quyền lại cho người con thứ sáu, 51 tuổi: “Đất Thuận Quảng phía Bắc có núi Ngang và sông Gianh hiểm trở, phía Nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia vững bền. Núi sẵn vàng, sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người  anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện lính để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời, bằng thế lực không địch được, thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dạy của ta ”.
Phật chúa Nguyễn Phúc Nguyên lên cầm quyền năm Quí Sửu, 1613, thì năm Kỷ Mùi 1619 Trịnh Tùng đem quân vào bắt đầu những thập niên Trịnh Nguyễn phân tranh.
Lính vua, lính chúa, lính làng
Nhà vua bắt lính cho chàng phải ra
Giá vua bắt lính đàn bà
Để em đi đỡ chàng và bốn năm…
Nhờ có Đào Duy Từ hiến kế, Phúc Nguyên đã đắp xong Lũy Thầy và tổ chức quân đội khá qui mô.
Thời Nguyễn Phúc Lan [29], hai lần quân Trịnh vào đánh đều bị bại và phản công. Nguyễn Phúc Tần [30] dẫn quân chiếm tới 7 huyện ở Nghệ An của miền Bắc. Mãi tới năm Canh Tý [31] Trịnh mới khôi phục được.
Năm Kỷ Mùi [32], chúa Nguyễn “cho phép” cựu tướng triều Minh là Dương Ngạn Địch cùng Trần Thương Xuyên và ba ngàn gia thuộc vào khai phá vùng Gia Định, Mỹ Tho. Không lâu, khu vực này thương mãi phồn thịnh. Không chỉ thuyền buôn người Thanh, mà cả người Nhật Bản và Tây Phương cũng giao thương.
Nguyễn Phúc Trân chỉ cai trị bốn năm [33], nhưng lại là người chú trọng tới nhân dân hơn. Ông giảm thuế và chế định tang lễ cho nhẹ nhàng hơn. Con ông thì khác. Nguyễn Phúc Chu [34] không chỉ đòi dân đóng góp công sức và sinh mạng để mở đất qua Phan-rang, Phan-rí, Hòa Đa, tới tận Phiên Trấn…. Ông còn xây cất một loạt chùa miếu, mở hội lớn ở chùa Thiên Mụ, chùa núi Mỹ Am. Nguyễn Phúc Chú [35] lên cầm quyền khi 30 tuổi và chỉ điều hành đất nước mười ba năm, nhưng thời gian này có hai dấu mốc văn hóa:
1.1. Đồng hồ công cộng
Ông cho đặt đồng hồ ở các dinh và các đồn duyên hải. Đồng hồ trước còn cần nhập từ Tây phương, sau Nguyễn Văn Tú đã chế tạo được.
1.2. Mạc Thiên Tứ và Chiêu Anh Các
Mạc Cửu được làm tổng binh trấn Hà Tiên từ năm 1708, con trai là Mạc Thiên Tứ được Nguyễn Phúc Chú cho cầm quyền thay cha từ 1736 với tước Đô Đốc Trấn Hà Tiên. Không chỉ chú trọng giao thương như cha, Thiên Tứ còn mở Chiêu Anh các, qui tụ văn nhân thi sĩ. Họ lưu tới 320 bài thơ của 25 tác giả gốc Hoa và 6 thi sĩ người Việt.
1.3. Khởi đầu kinh đô Huế
Nguyễn Phúc Khoát lên cầm quyền năm 25 tuổi [36], quyết xưng VƯƠNG. Năm Giáp Tí 1744 ông đúc ấn Quốc-vương và Kỷ Mùi chính thức tiến dần lên ngôi. Tại Phú Xuân, ông cũng bắt đầu kiến thiết quy mô: điện Kim Hoa và điện Quang Hoa, các gác Dao Trì, Triệu Dương, Quang Thiên, các nhà Tựu Lạc, Chính Quan, Trung Hòa, Di Nhiên v.v. Ở thượng lưu sông Hương, ông cho xây dựng phủ Dương Xuân, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ khắc họa rất tinh xảo. Tường trong, tường ngoài đắp rồng, hổ, lân, phượng, hoa cảnh…. Phú Xuân trở thành đô thị chính trị và văn vật.
Nguyễn Phúc Thuần, hoàng tử thứ 16 lên ngôi trong cảnh phế lập và bị cận thần uy hiếp. Người lộng hành chính là Trương Phúc Loan. Cảnh hãm hại trung thần, bán quan buôn tước và bóc lột nhân dân đều phát sinh từ đầu mối họ Trương này. Tại Tây Sơn, Bình Định, ba anh em Nguyễn Nhạc dấy binh và được nông dân nhiệt thành ủng hộ… Quân Trịnh thừa cơ đánh thốc vào. Tháng 12 năm 1774, quân Trịnh đánh úp Phú Xuân. Tây Sơn hoà với Trịnh để đánh vào Nguyễn. Phúc Thuần tự trận, Nguyễn Huệ chiếm Long Xuyên tháng 9 Đinh Dậu… [37] Cháu là Nguyễn Phúc Ánh, 17 tuổi, nhờ Giám Mục Bá Đa Lộc che giấu, rồi chạy thoát ra đảo Thổ Chu, tập họp binh tướng. Năm chục chiến thuyền Anh đổ bộ chiếm lại và bố phòng Bến Nghé. Năm Canh Tí [38], Nguyễn Phúc Ánh chính thức lên ngôi, dùng ấn “Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo ”.
Chúng ta biết: Từ đó tới năm 1802, từ Nam Quan tới Cà Mau, loạn lạc và chiến tranh không trừ phần đất nước nào của chúng ta: Lê - Trịnh - Tây Sơn - Nguyễn Phúc, thêm vào đó những lực lượng ngoại quốc: quân Thanh xâm lược, quân Thái Lan, Bồ Đào Nha, quân Pháp trợ lực….
Giữa muôn vàn đổ nát, điểm văn hoá sáng chói nhất là sức chịu đựng kiên cường của dân tộc Việt Nam và việc định hình Chữ Quốc Ngữ..
[1] Tạ Ngọc Liễn dịch, trong “Chân dung văn hóa Việt Nam
[2] Niên hiệu của Trần Nhân Tông từ 1293
[3] Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông
[4] Nơi Tạ Hiền nước Tấn phá quân Bồ Kiên nước Tần
[5] “Bạch Đằng Giang Phú” của Trương Hán Siêu, Tạ Ngọc Liễn trích trong “Chân Dung văn hóa VNam”, Bến Tre 1999, tr. 100-101
[6] Tạ Ngọc Lễ, sđd. Tr. 165-166
[7] 1400-1407
[8] 1407-1409
[9] 1409-1413
[10] Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng, sđd. Tr. 143-144
[11] 1418
[12] Quỳnh Cư- Đỗ Đức Hùng, sđd. Tr. 147
[13] Tức năm 1070, thời Lý Thánh Tông
[14] “Đại Việt sử ký toàn thư” bản kỷ, q. 3, tờ 5a
[15] “Lịch triều hiến chương loại chí” Khoa mục chí, q. 26
[16] Theo văn bia Mục Lăng do Nguyễn Bá Kỷ ghi.
[17] Lê Thánh Tông
[18] Lý Thái Tông, 1042
[19] Đại Việt Sử Ký toàn thư, bản kỉ, q. 2, tờ 31a
[20] Đào Duy Anh, sđd. Tr. 152
[21] 1504
[22] 1510-1516
[23] 1516-1522
[24] 1522-1527
[25] 1428-1527
[26] năm 1592
[27] 1558
[28] 1573
[29] 1635-1648
[30] 1648-1687
[31] 1660
[32] 1679
[33] 1687-1691
[34] 1691-1725
[35] 1725-1738
[36] 1738-1765
[37] 1777
[38] 1780
2. Mấy đặc điểm văn hóa Việt Nam thời này
Điểm đàu tiên trong cuộc huynh đệ tương tàn là tranh giành chính nghĩa cho mình và lên án người khác, khiến “đàn em” không còn biết chọn phe phái nào. Đành “chịu trận”.
2.1. Mất lý tưởng hoặc phân hóa lý tưởng
Kể từ khi Lê tàn, Mạc lên ngôi và Lê Trịnh gắng trung hưng, người Việt Nam nói chung không còn quan niệm đồng nhất về lý tưởng quốc gia, dân tộc. Kẻ sĩ, nói riêng, cũng không còn hợp nhau trong lý tưởng tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Khâm Định Việt Sử kể chuyện Trịnh Khải chạy Tây Sơn năm 1786, cũng là để nói lên hiện trạng đó:
Khi Trịnh Khải chạy đến xã Hạ Lôi, huyện Yên Lăng thì quân sĩ đi theo đã tan tác gần hết. Bấy giờ, có viên Thiên sai làm việc ở Lại Phiên là Lý Trần Quán [1], trước đó được cử đi truyền hịch để chiêu mộ nghĩa binh, bất ngờ gặp Khải, Lý Trần Quán giả vờ nói với người học trò của mình là Nguyễn Trang rằng:
Đây là quan Tham Tụng người họ Bùi [2] đi lánh nạn đến, anh hãy hộ vệ ngài, đưa ngài qua bên kia địa giới của huyện này.
Nguyễn Trang biết đó là chúa Trịnh, bèn cùng đồ đảng là Nguyễn Bá, bắt giải nạp cho giặc [3]. Trần Quán được tin ấy, vội vàng chạy đến vừa lạy vừa khóc, nói rằng:
- Đẩy chúa vào tình thế này, tội là ở thần.
Nói xong, lấy nghĩa lớn mà khuyên bảo Nguyễn Trang, nhưng Trang lại nói:
- Sợ Thầy không bằng sợ giặc, quí chúa không bằng quí thân.
Nói rồi, hắn giải Trịnh Khải đi. Khải dùng dao cắt cổ tự tử. [4]
Chắc chắn rằng một phần vì mục tiêu chính trị, phần thấy lý tưởng Nho giáo từ mấy thế kỷ đến nay không còn đủ sức nơi tam cương ngũ thường nữa, họ Lê, họ Mạc và họ Trịnh vẫn là theo Nho giáo và Phật, nhưng tranh giành quyền bính như họ thì sao gọi là theo lý tưởng Nho giáo hoặc Tổ quốc, Dân tộc, hoặc từ bi hỉ xả!
Họ Nguyễn Phúc miền Nam đề cao quan niệm thờ Trời, Phật và Lão giáo, chẳng hạn: Nguyễn Hoàng tự xưng chúa tiên và xây chùa Thiên Mụ [5]. Nguyễn Phúc Nguyên xưng chúa Phật [6], Nguyễn Phúc Lan tự xưng chúa Thượng [7].
Chúng ta thường nghe phác họa anh em Tây Sơn như nông dân vùng lên cứu quốc. Xin coi lại:
Tổ tiên anh em Tây Sơn vốn người họ Hồ ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An. Khoảng những năm 1653-1657 quân Nguyễn đánh ra Đàng Ngoài, chiếm được 7 huyện của trấn Nghệ An, khi rút về Nam, họ đem theo rất nhiều dân ở các huyện trên vào sinh sống ở các vùng đất mới phía Nam để khẩn hoang. Ông tổ của Tây Sơn cũng bị quân Nguyễn bắt và an sáp ở ấp Tây Sơn Nhất (nay là thôn An Khê, phủ Hoài Nhân, Bình Định). Từ đó họ đổi sang họ Nguyễn.
Đến đời Nguyễn Phi Phúc lại dời sang ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn (Tuy Phước, Bình Định). Ông Nguyễn Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng, sinh được ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ. Gia đình ông làm nghề buôn trâu, cuộc sống cũng khá giả…
… Nguyễn Nhạc xuất thân làm biện lại (thu thuế ở một trạm thuế trong vùng), nhưng vụ thuế năm Tân Mão [8], thu được bao nhiêu Nhạc đánh bạc hết sạch. Để tránh sự truy tố của nhà cầm quyền, Nhạc bỏ trốn cùng hai em vào ở núi Thượng Đạo, ấp Tây Sơn, dựng trại, lập đồn, xưng hùng khởi nghĩa. Cơ nghiệp triều Tây Sơn bắt đầu từ đây…” [9]
Ngay cả khi Nguyễn Huệ đại thắng ngoại xâm và vinh hiển lên ngôi, Nguyễn Nhạc cũng không nhường, Nhạc vẫn làm vua vùng từ Bình Thuận đến Quảng Nam ngày nay [10].
2.2. Cơ cấu tổ chức chính trị phi lý
Trong nước vẫn có vua, truyền dòng và nối ngôi. Nhưng vua chỉ là hư vị. Chúa cũng truyền dòng, nối vị, mà chúa mới nắm thực quyền.
Chúa Trịnh còn có thể giết cả vua, như Lê Anh Tông [11], Kính Tông [12].
Chúa Nguyễn cũng từ từ trút bỏ quyền lực trên đầu mình. Nguyễn Phúc Chu [13] đã tự xưng là Quốc chúa, Nguyễn Phúc Chú [14] là Ninh Vương, Nguyễn Phúc Khoát [15] vừa là Võ Vương, vừa tự đúc tiền Thái Bình và vận động triều Thanh nhìn nhận mình.
2.3. Mua quan, bán chức
Vẫn có kỳ thi tuyển nhân tài ra làm quan giúp nước đấy, nhưng thi không chắc đậu và đậu không bảo đảm hoan lộ tốt đẹp. Vàng bạc mới bảo đảm.
Một Trịnh Doanh đã ba lần xuống lệnh bán quan chức:
  • Năm Tân Dậu [16] “Ai nộp thóc sẽ được làm quan.” [17]
  • Năm Mậu Thìn [18] “Hạ lệnh cho bách quan văn võ, ai nộp tiền hoặc thóc, sẽ trao cho các chức phẩm khác nhau.” [19]
  • Năm Canh Thìn [20] “Hạ lệnh cho dân, ai nộp thóc sẽ trao cho quan chức.” [21]
Người đã xuất tiền hoặc đổ thóc ra mua quan chức, sẽ tìm lại bằng đủ cách bất công và bóc lột:
Con ơi nhớ lấy câu này:
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan. [22]
Thêm vào chiến tranh, quan quân quấy nhiễu như thế, người dân làm sao có thể an cư và lạc nghiệp.
2.4. Thi cử cũng hư hỏng
Đọc lại trang sử hồi đó, chúng ta cứ tưởng như truyện đang xảy ra trong cái thời dối trá này. Từ đó hoài nghi: Phải chăng tham nhũng, chạy chọt đã là một nét tiêu cực cố hữu trong “văn hóa” VN.:
Học trò đã quen thói đua nhau chạy chọt, quan trường thì coi nhẹ kỷ cương, công khai gởi gắm. Vì thế, người đỗ đạt phần nhiều không có thực học, miệng thế bàn tán rất xôn xao. Chúa Trịnh Doanh nổi giận, bắt tất cả thi lại, đánh hỏng đến trên hai trăm người…” [23]
Tình trạng bi đát đến độ con của danh sĩ Lê Quí Đôn mà cũng đi vào “sổ đỏ” nhân kỳ thi Hội, tháng 10 Ất Mùi [24]:
Quí Kiệt là con của Quí Đôn, vào kì đệ tứ, Quí Kiệt và Đinh Thì Trung đổi quyển cho nhau, việc bị bại lộ, Đinh Thì Trung bị khép vào tội đày đi Yên Quảng, còn Quí Kiệt phải về làm dân thường. Đinh Thì Trung phát giác ra bức thư gửi gắm của Lê Quí Đôn ở Lê Quí Kiệt, nhưng chúa Trịnh Sâm lấy cớ rằng Lê Quí Đôn là bậc Huân thần, bỏ đi không xét, chỉ luận thêm tội cho Quí Kiệt, bắt giam trong ngục cấm ở cửa Đông.” [25]
Thi, với bao nhiêu là chính sách, là chiếu cố, là gởi gắm… cho nên sỉ số tăng ghê gớm. Phan Huy Chú viết:
… Quan Thự Phủ là Đỗ Thế Giai bàn rằng, dụng binh hao tổn nhiều, tiền tài nhà nước thiếu thốn. Vậy, hãy cho mỗi người được nạp ba quan rồi miễn cho họ việc khảo hạch, cũng gọi tiền ấy là tiền thông kinh! Vì lẽ này, kẻ làm ruộng, người đi buôn, cho đến cả đám hàng thị và bọn buôn bán vặt cũng nhất nhất làm đơn xin nạp tiền thi. Đến ngày vào thi, sĩ tử đông đến nỗi dẫm đạp lên nhau, có kẻ chết ở cửa trường. Còn trong trường thi, kẻ mang theo sách, kẻ hỏi chữ, lại có cả kẻ mượn người thi thay, chúng ngang nhiên làm bậy, chẳng biết kiêng nể phép tắc là gì. Những người đậu mà có thực tài, mười phần không được lấy một.” [26]
Chính vì những tranh chấp quyền bính và danh lợi đó, mà nhân dân chúng ta đã uổng phí bao tài năng trong những thế kỷ người mình tự chủ.
2.5. Những điểm son văn học
Hẳn là có bao nhiêu phí phạm trong xã hội phân tranh; tuy thế, gặp thòi bình hoặc giữa “cơn giố bụi”, dòng tiến hóa của dân tộc không thể hoàn toàn bị tàn phá. Mỗi thực cảnh xã hội chính trị là bối cảnh của một vài điểm son văn học. Thí dụ:
  • Vì tôn quân và tôn trọng quyền dân tộc, chúng ta có những tác phẩm sử địa để đời như:
Các tác phẩm của Hồ Sĩ Dương [27]:
  • Trùng San Lam Sơn thực lục,
  • Hoan Châu phong thổ kí,
  • Lê triều đế vương trung hưng công nghiệp thực lục
  • Hồ thượng thư gia lễ.
Của Nguyễn Nghiễm [28] như:
  • Việt sử bị lãm,
  • Lạng Sơn toàn thành đồ chí.
Ngô Thì Sĩ [29] với Việt sử tiêu án
Nguyễn Hoản [30] và Phan Lê Phiên [31] đều có Đại Việt lịch triều đăng khoa lục.
  • Thời này cũng xuất hiện những tác phẩm văn chương chữ Nôm của Đạo Công giáo, như đã nói, và tác phẩm Hán Nôm giá trị nho giáo như:
  • Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn.
  • Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề [32]
  • Sãi vãi truyện thơ nôm của Nguyễn Cư Trinh [33]
  • Cung oán ngâm khúc 
  • Ôn như thi tập của Nguyễn Gia Thiều [34]
  • Hoa tiên truyện của Nguyễn Huy Tự [35]
  • Tụng Tây hồ phú và Cung oán thị của Nguyễn Huy Lượng [36] cũng rất nổi tiếng.
  • Thi tập ngẫu hứng thì có thật nhiều, nhất khi tác giả đi sứ:
  • Sứ hoa thi tập và Vạn thọ thánh tiết khánh hạ thi tập của Phùng Khắc Khoan [37] nổi tiếng. Tập Vạn thọ có lời tựa của Sứ giả Triều Tiên Lý Chi Phong.
  • Trúc Ông phụng sứ tập của Đặng Đình Tướng [38]
  • Hoa trình thi tập của Nguyễn Quí Đức [39]
  • Mặc ông sứ tập của Đinh Nho Hoàn [40]
  • Sứ hoa tùng vịnh của Nguyễn Kiều [41] và Phó sứ Nguyễn-Tông-Quải
v.v.… đều gợi lên thời kỳ thi văn rộ nở.
Độc loại về Y học phải kể tác phẩm thiên tài y khoa Lê Hữu Trác [42] với bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh.
2.6. Tư tưởng và tôn giáo
Chúng ta đã nói: Tư tưởng và Lý tưởng Nho giáo suy thoái. Thời tự chủ mà người cùng dân tộc tranh giành quyền bính này, người ta tìm lẩn trốn, hoặc tìm lại nguồn gốc thần thiêng cội nguồn dân tộc để sống và để an tâm:
- Người ta tìm lẩn trốn
Vì thế sáng tác ra những thơ phú truyện, thưởng thức quang cảnh thiên nhiên và hưởng nhàn,
Vì thế tư tưởng Đạo giáo phổ biến.
- Người ta tìm hòa giải
Nên Đạo Nội phát triển, nhất là sùng kính Tứ bất tử. Nên nhớ rằng Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan được thuật lại như người đầu tiên được thánh mẫu Liễu Hạnh hiển linh và trao sứ mạng phổ biến việc lập đền, tôn thờ thánh mẫu này [43].
Vì chiến tranh khiến ai cũng cảm thấy cái chết bất ngờ có thể tới, người ta trở về với tín niệm hồn bất tử, nên việc lên đồng và thờ cúng vong linh thịnh hành. Việt Điện U Linh tập của Lý Tế Xuyên và Lĩnh Nam Chích Quái của Vũ Quỳnh, Kiều Phú cũng ở trong vùng tư tưởng tôn giáo này.
KITÔ giáo là một yếu tố rất mới lan tỏa thời này.
Với giáo thuyết tin yêu Thiên Chúa và đồng loại, Kitô-giáo nhẹ nhàng vào Việt Nam từ hồi nào không rõ. Thời Lê Huyền Tông 1663-1671 mới để lại dấu vết của sử thần (nha Nguyễn) là hai lần vua hạ lệnh cấm Đạo, một Đạo đã truyền vào ba tổng thuộc hai huyện Trung Châu Bắc Việt (Nam Định ngày nay). Nhưng tới Mạc Lê-Trinh và Nguyễn chúa thì người ta lại thấy có những quốc thư gởi Macao hoặc Roma để xin nhà truyền Đạo. Đây đó, người ta đã thấy những thánh đường Công Giáo và những nghi lễ thờ kính Chúa, nghi lễ hiếu hỉ cho người theo đạo, rất được dân ta trọng vọng…Rồi lại có những lần chính quyền trục xuất người truyền đạo và cấm dân theo đạo.
Ngoài những kinh sách truyền đạt giáo lý, Văn chương quốc âm phải kể những ca vãn song thất lục bát của công giáo, những truyện các thánh và sách “gương tội”, “gương phúc”, “truyện Thày Lazaro Phiên” đã khai sinh dòng văn xuôi quốc âm, một thể loại độc đáo chỉ gặp thấy nơi “nhà đạo”. Một mai, nếu được tái xuất, những tác phẩm thi văn chữ nôm của Linh mục Lữ Y Đoan và công nương Catarina chị chúa Trịnh sẽ chói sáng.[44]
Chỉ cần đọc Bài Giảng Trên Núi của sách Tin Mừng theo Matthêu hoặc một tác phẩm nào trong Tân Ước cung thấy được rằng đạo lý Kitô giáo thật sự đáp ứng mong muốn mãnh liệt của nhân dân Việt Nam trong triều chính “huynh đệ tương tàn” đó. Những tín đồ đầu tiên của Kitô giáo thật sự đã đem vào Văn Hóa Việt Nam nhiều yếu tố mới .
Như thế, thời này có thể băng hoại về kinh tế và chính trị, nhưng tận thâm tâm người dân Đại Việt vẫn thành tín và trân trọng Trời, Đất, Con Người và vạn vật.
[39] Văn hóa Việt Nam thời Nguyễn
Về bờ cõi giang san, Nguyễn Gia Long đã thu phục được rộng hơn bao giờ hết ; nhưng về văn hoá, Nguyễn triều có mang lại được gì tốt đẹp hơn hoặc khôi phục được những giá trị cổ truyền từ thời Lý Trần?
1. Bối cảnh lịch sử xã hội
Năm 1786, Nguyễn Ánh đánh bật Nguyễn Lữ khỏi vùng Gia Định [45]. Liền bốn năm sau đó, ông luôn luôn tổ chức những “trận giặc mùa”: lợi dụng gió mùa để kéo hải thuyền ra tấn công Nguyễn Nhạc. Tháng 3 năm 1799, ông hạ Qui Nhơn và đổi là Bình Định.
Tháng 6 năm 1801, Nguyễn Ánh đánh bật triều đình Tây Sơn của Nguyễn Quang Toản và chiếm lại Phú Xuân. Một năm tiếp theo là những bước tiến thần tốc, như không có gì cản trở được, vì thế, tháng 7.1802 Nguyễn Ánh đã là ông vua một nước Việt Nam thống nhất lớn hơn bao giờ hết trong lịch sử Đất Nơ]sc ta. 
Triều Nguyễn Phúc này sẽ kéo dài qua hai giai đoạn rất khác nhau mà tồn tại tới 143 năm [46]:
  • Giai đoạn đầu: 1802-1884
82 năm các vua nhà Nguyễn mặc tình thi thố tài năng cai trị một nước Việt Nam độc lập, với vài người Âu cố vấn.
Thực ra, ngay từ đầu, vẫn phải chịu ảnh hưởng của Trung Hoa. Lê Quang Định được cử làm chánh sứ sang Trung Hoa xin phong vương và nhìn nhận tên nước là Nam Việt. Năm Giáp Tí [47], Thanh triều mới cử Tề Bồ Sâm, Án sát Quảng Tây, sang phong vương cho Gia Long Nguyễn Ánh, và đặt tên nước là Việt Nam. Vì Nam Việt của Triệu Đà xưa gồm cả một phần Nam Trung Hoa. Thế kỷ XIX năm Bính Dần [48] tại điện Thái Hòa, Gia Long chính thức xưng Đế.
Thực ra, năm 1858 Pháp bắt đầu kế hoạch thực dân, năm 1862 chúng chiếm ba tỉnh miền Đông. Sau năm năm [49], triều Nguyễn đã phải ký thỏa ước nhường trọn sáu tỉnh miền Nam Việt Nam, nơi đã từng là đầu cầu cho quân Nguyễn về tấn công khôi phục toàn quốc. Từ 1873, Pháp lại biểu lộ dã tâm chiếm toàn quốc Việt Nam khi tấn công Hà-Nội.
Dầu sao, cho tới hòa ước Patenôtre Pháp ký với triều Nguyễn [50] và Hòa ước Thiên Tân Pháp ký với Thanh triều, thì trên pháp lý, triều Nguyễn mới đánh mất chủ quyền độc lập của Việt Nam [51] và phải điều hành đất nước theo cây gậy lãnh đạo của Thực dân Pháp.
  • Giai đoạn thứ hai: 1884-1945
Điểm chung của giai đoạn này là thực quyền của người Pháp trên quyền hành vua quan.
Nếu nhìn qua lăng kính dân tộc, người ta có thể coi như hai chặng:
  • 1884-1916: bảo vệ chủ quyền hoàng-việt, Hoàng đế, thí dụ Hàm Nghi, Duy Tân; triều thần cũng còn nhiều cương quyết bảo vệ chủ quyền cho dân tộc hoặc cho vua.
  • 1916-1945: cố giữ ngai vàng. Vua không còn thực quyền nào, nhưng vẫn gắng giữ ngai vàng, dù phải hy sinh hết quyền lợi của nhân dân. Đó là khi Đồng Khánh và Bảo Đại sợ mình đi phải vết xe Duy Tân.
Gia Long từng theo luật Thanh triều, giành quyền lo cho dân nước; nhưng khi triều đình càng yếu nhược, nhân dân càng cảm thấy mình có nhiệm vụ bảo vệ nòi giống: các đảng phái chính trị đứng ra tổ chức lãnh đạo quần chúng đấu tranh, và họ có cách làm của họ, kiên trì mãi tới thành công.
2. Những đặc điểm văn hóa thời Nguyễn
2.1. Phục hưng và thanh lọc văn hóa Nho giáo
Ngay từ năm Canh Tí, 1780, khi chưa tiến qua được vương quốc Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã mở khoa thi Hương tại Gia-định. Vậy mà khi thống nhất giang san rồi, các vua nhà Nguyễn cho tuyển sinh đậu rất ít, để tìm thực lực và lấy lại giá trị cho khoa bảng.
2.2. Văn chương chữ Nôm
Cựu Hồ Nguyễn Tây Sơn, cũng giống như nhà Hồ trước đây, chủ trương dùng chữ Nôm để toàn dân có thể thưởng thức được nội dung các bản văn triều đình và xã hội, cũng như thưởng thức những công trình thi văn của người mình. Triều Tây Sơn phù du qua giòng lịch sử, triều Nguyễn Phúc cố lập lại thượng phong Nho-học, nhân dân chúng ta cũng gặt hái được những tác phẩm  giá trị bậc nhất của văn chương chữ Nôm, như:
  • Đoạn trường Tân Thanh của Nguyễn Du
  • Thơ của Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan
  • Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
  • Các thể loại thi ca của nhiều nho sĩ như Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, Cao Bá Nhạ, Trần Tế Xương v.v.
2.3. Văn chương quốc ngữ và tính phổ biến văn học
Thứ chử mà văn nhân thi sĩ trong dân chúng ta dùng cả ngàn năm, chỉ là chữ Hán. Thứ chữ mấy trăm năm lưu dụng trong cả xã hội và tôn giáo, trong cả những tác phẩm giá trị thật cao, vẫn chỉ là chữ Nôm. Còn thứ chữ mới, chính thức được phổ biến từ ông vua cuối triều Nguyễn, liền được coi là QUỐC NGỮ! Thực không nhờ quyền lực và thế lực nào hơn là do giá trị nội tại của loại mẫu tự Việt-hóa từ La-tinh này với cách kết cấu rất khoa học nhưng đơn giản, mà những thế hệ truyền đạo Thiên Chúa đã dầy công tạo hình cho nó.
Với thứ văn tự này, người Việt Nam chỉ cần học ít tháng là có thể đọc tất cả các sách và viết ra mọi cảm nghĩ của mình, thay vì mất cả chục năm như thời học Hán Nôm.
Tứ đó, tỉ lệ người bình dân biết đọc biết viết tăng vọt với cấp số nhân. Những nhà văn, nhà thơ quốc ngữ vừa đông, vừa gồm mọi lứa tuổi và địa vị xã hội.
Cũng do đó, chữ quốc ngữ góp phần rất lớn trong tiến bộ xã hội của dân tộc ngay từ thời Nguyễn.
2.4. Học chánh
Trước hết Học chánh triều Nguyễn tự chủ vẫn là NHO HỌC. Chỉ khi chịu Bảo Hộ, việc học mới đổi sang Tân Học và Chữ Quốc Ngữ.
2.4.1. Nhìn chung
Nhà Nguyễn phục hưng và ủng hộ Nho giáo, để tổ chức mọi tầng lớp xã hội hướng về hoàng đế và tùy thuộc triều đình. Chính vì thế mà
  • Triều Nguyễn, ngay từ khi chưa thống nhất giang san, đã mở các khoa thi để tuyển chọn người có học; nhưng trải qua hàng thế kỷ “lính vua, lính chúa, lính làng…” đâu còn được bao nhiêu thanh niên, càng không còn mấy người có học. Tất nhiên người đậu không nhiều và khó có người xuất sắc. [52]
  • Nguyễn Ánh thu dụng nhiều danh nho của thời Lê - Trịnh - Tây Sơn như Trần Văn Kỷ, Ngô Thời Nhậm, La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, Phan Huy Ích.
  • Nhà Nguyễn thống nhất giáo dục và thi cử, sửa lại các luật thi cho thống nhất và nghiêm minh, sửa lại học vị.
Người đậu thi Hương được gọi là Cử Nhân, được ghi danh vào Hổ Bảng [53], được cấp thẻ đồng, dự yến Lộc Ninh và đương nhiên được vào kinh dự thi Hội.
Nếu trong kỳ thi Hương, ai chỉ đậu 3/4 thì được gọi là Tú Tài, ghi danh ở Mai Bảng [54], dự yến Lộc Ninh, nhưng không được thẻ đồng và không được dự thi Hội. Muốn vào thi Hội thì năm sau phải thi và đậu Hương thí.
Thi Hội có đậu Chánh bảng thì sau đó mới được vào thi Đình, đậu Phó bảng thì không đuợc. Tiến sĩ hoặc người đậu đại khoa này được nêu tên trên Kim Bảng [55], cũng gọi là Long Bảng [56].
2.4.2. QUỐC TỬ GIÁM và QUỐC SỬ QUÁN
Nói chung, hai cơ quan này đã có từ trước, nhưng triều Nguyễn vẫn làm mới lại:
a/ Quốc tử giám
Lý Nhân Tông [57] đã khai sinh Quốc tử giám năm 1076 với ba quan chức: Tri giám, Quốc tử giám tế tửu và Quốc tử giám tư nghiệp.
Gia Long đệ tam niên [58], Quốc tử giám được thành lập ở Huế với hai quan chức: Chánh Đốc học và Phó Đốc học.
Quốc tử giám thời Nguyễn qui tụ những ai?
Sai chọn con em của các nhà tôn thất từ 10 tuổi trở lên và từ 15 tuổi trở xuống cho được vào học tại nhà Quốc tử giám” [59]. Thực ra, người được qui tụ về Quốc tử giám không đông, nhưng ảnh hưởng khuyến học của nó thì lan ra cả nước.
b/ Quốc sử quán
Cơ quan này chịu trách nhiệm biên soạn và lưu trữ mọi tài liệu liên quan đến nhà nước. Triều Trần đã lập Quốc sử viện từ sáu thế kỷ trước và đã tuyển chọn được nhân tài để làm việc trong cơ quan này:
Mùa Xuân, tháng Giêng năm Nhâm Thân [60] quan giữ chức Hàn Lâm viện Học sĩ kiêm Quốc sử viện Giám tu là Lê Văn Hưu vâng sắc chỉ soạn xong bộ Đại Việt Sử Ký chép sử từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng, gồm 30 quyển, đem dâng lên, vua xuống chiếu khen ngợi.” [61]
Gia Long lập Quốc Sử Quán, nhưng công trình xây dựng chỉ hoàn thành năm 1821, thời Minh Mạng. Chính ông vua này đích thân đến kiểm nhận công trình và cho khắc bia đá trước cổng: Khuynh Cái Hạ Mã.
Dù bạn là quan chức, qua đây Bạn phải xuống ngựa và nghiêng lọng.
Nhìn qua các chức vụ cũng thấy tầm quan trọng người xưa đặt ở Quốc Sử Quán: 1 Tổng tài, 1 Phó Tổng tài, 10 Toản tu [62], 25 Biên tu [63], 5 Hiệu Khảo [64], 12 Thu Chưởng [65], 8 Đằng Lục [66]. Số nhân viên có thể thật đông, theo nhu cầu.
Đây là một trong những cơ quan còn để lại nhiều tài liệu văn hóa thật quí, bởi họ đã làm việc nhiều. Thí dụ:
  • Kêu gọi và sưu tầm tài liệu sách vở trong toàn quốc
  • San định, nhuận sắc và cho khắc in nhiều thư tịch cổ. Thí dụ bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư [67].
  • Biên soạn nhiều công trình lớn, thí dụ:
  • Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (52 quyển)
  • Đại Nam thực lục (453 quyển)
  • Đại Nam liệt truyện (87 quyển)
  • Tạo thành phong trào học tập, nghiên cứu sâu rộng. Từ đó có được những nhân tài lớn, như nhà bách khoa toàn thư Phan Huy Chú (1782-1840), người để lại nhiều tác phẩm lớn như:
  • Lịch triều hiến chương loại chí (49 quyển)
  • Hoàng việt địa dư chí (2 quyển)
  • Lịch đại điển yếu thông luận…
2.5. Thi xã
Chúng ta đã biết Tao Đàn, nhị thập bát tú của Lê Thánh Tông, thế kỷ XV, là một thi xã. Chiêu Anh các của nhóm Mạc Thiên Tứ, thế kỳ XVIII, cũng là một thi xã. Chúng ta nhắc qua Bình Dương thi xã rồi Bạch Mai thi xã thời Nguyễn.
  • Bình Dương thi xã khi chào đời, sau ngày Gia Long lên ngôi, mang tên Sơn Hội ở Gia Định; nhưng nó nổi tiếng từ khi đã là Bình Dương Thi xã với điểm tụ Gò Cây Mai:
Gò Cây Mai nằm về phía nam Trấn thành [68], cách trấn thành ba mươi dặm rưỡi. Nơi đây đất nổi gò cao, trên gò ấy có nhiều cây mai thuộc giống Nam Mai, gốc và cành rườm rà, nhưng khi nở ra, cánh hoa không có tuyết, chỉ có lá đỡ và mùi thơm mà thôi. Thứ hoa này thụ bẩm được linh khí mà sinh ra, cho nên, không thể đem trồng ở nơi khác được. Trên Gò Cây Mai có ngôi chùa gọi là chùa An-Tôn. Từ nơi đây, đêm đêm vang lên tiếng đọc kinh, ngày ngày có chuông sớm trống chiều rền trong mây khói, cảnh sắc thật thanh u kỳ lạ. Dưới Gò Cây Mai lại có con suối chảy quanh, các cô gái chiều chiều chèo ghe nhỏ đi hái sen. Những khi có tiết đẹp thì văn nhân tài tử rủ nhau mang bầu rượu túi thơ, leo lên trên gò mà ngâm vịnh xướng họa. Dưới gốc mai, thơ và hoa cùng thi tỏa hương nồng, đó quả là thắng cảnh của du khách.” [69]
Thật nhiều người tham gia thi xã này, nhưng nổi nhất hẳn là Gia Định tam gia : Trịnh Hoài Đức, Ngôn Nhân Tĩnh và Lê Quang Định.
Bạch Mai thi xã ra đời nửa thế kỷ sau Bình Dương thi xã. Tụ điểm chính vẫn là Gò Cây Mai;nhưng nội dung thi ca thì khác lắm rồi, vì vương quyền nhà Nguyễn và chủ quyền dân tộc bị đe dọa nặng nề. Tác phẩm chủ yếu văn Nôm của những người tiêu biểu như Phan Văn Trị, Nguyễn Hữu Huân, Huỳnh Mẫn Đạt…
Bạch Mai thi xã tan rã cùng với thành Gia Định thất thủ ngày 17.2.1859.
Nói chung, khi phục hưng và chấn chỉnh việc học Nho và đạo Nho, nhà Nguyễn đã nhắm tới lợi ích phổ biến “Trung Quân” Chính các nho sĩ ở khắp nơi và trong mọi giai tầng nhân dân sẽ theo và đòi hỏi người khác theo khuôn thước nho giáo: Tam Cương, Ngũ Thường. Thế là thêm vào Hình Luật Gia Long, có Nhân-trị của đạo nho.
3. Tổ chức Hành chánh
Đạo nho làm nên nét văn hóa tinh thần, tổ chức hành chánh làm nên văn hóa xã hội và vật thể.
Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, nhà Nguyễn tổ chức hành chánh dưới triều đình: Tỉnh xuống Phủ xuống Huyện xuống Tổng xuống Xã xuống Thôn Làng.
Chính quyền các cấp dưới huyện đều do dân cử; triều đình không bổ, mà chỉ nhìn nhận. Trung ương cũng chẳng cần “xuống nắm địa phương”. Tất nhiên mỗi cấp dưới cũng chịu ảnh hưởng quyết định của cấp trên.
Tại mỗi thôn làng, nhà Nguyễn cũng cho xây Đình, vừa làm nơi nhắc nhớ anh hùng liệt nữ, những ân nhân của làng, vừa là nơi tụ họp hội hè và bàn bạc việc chung lớn nhỏ.
Hai nét đó đủ cho thấy “cái ách” triều đình nặng nhẹ tuỳ tinh thần địa phương. Thực chất thì chính quyền không có thủ đoạn bó dân hoặc “bàn tay sắt bọc nhung”.
4. Tôn giáo
Nho giáo là chính đạo của triều Nguyễn. Bên cạnh đó, triều đình không có vấn nạn nào về Phật giáo, Lão giáo và nhất là Đạo Nội, ngoài ra việc gắng quy tụ dưới quyền hoàng đế.
Khi kiến thiết kinh thành Huế, Triều đình cũng quan tâm tới đàn Nam Giao. Việc nhà vua thay toàn dân tế Trời là theo tinh thần phổ quát cổ thời. Nhà Nguyễn đưa  vào pháp luật. Việc tế giao cũng được qui định rất trang trọng [70]. Thêm vào đó là những qui định để tôn giáo ủng hộ chính quyền. Vì thế, nói chung các vua Nguyễn đề phòng Thiên Chúa Giáo, dầu chính nhờ một vị Giám mục trong tôn giáo này mà Gia Long gượng lại được trước những đòn chí mạng do Tây Sơn.
Ủng hộ Đạo Nội, tiếp nối thêm việc tôn sùng Thánh Mẫu  miền Nam với thần tích và đền thờ Bà Đen. Ngay ông vua cuối thời độc lập nhà Nguyễn là Tự Đức, ông vua sùng Nho, cũng “can thiệp vào tất cả các đền thờ bằng cách gia phong cho tất cả các thần trong nước…” [71]
Chúng ta cũng biết chuyện Nguyễn Công Trứ được dân Kim Sơn Tiền Hải ở Ninh Bình và Thái Bình lập miếu “thờ sống” vì công khẩn điền lập ấp, mà bị triều Nguyễn giáng chức và triệu hồi…

Nói chung, cũng như trong mọi chính thể tập quyền, Văn Hóa bị chính quyền mưu đồ nắm giữ, nhưng đó vẫn là của Toàn Dân. Cũng chính vì chủ trương tập quyền, mà triều Nguyễn công khai cấm Đạo Thiên Chúa gay gắt và lâu dài hơn hết. Mà một trong những lầm tưởng chính là coi Thiên Chúa Giáo như phát xuất từ Âu châu Đồng thời khẳng định rằng không theo lệnh vua mà bỏ Đạo là coi thường triều đình. Đối lại, một số thừa sai hiểu lầm răng “đạo hiếu” là tôn giáo và do đó “thờ ông bà cha mẹ” là “đa thần, là mê tín”. Từ sai lầm đó, phía chính quyền nghiêm trị, phía giáo dân cho rằng mình phải làm chứng cho sự thực: ”Một Thiên Chúa duy nhất được tôn thờ; dù biết ơn và tôn kính, người không thờ người”.
[1] Đó chính là Tiến sĩ Lý Trần Quán 1735-1786
[2] Ám chỉ Bùi Huy Bích
[3] Tây Sơn
[4] KĐVSCM. Chính biên, q. 44, tờ 21
[5] Năm 1601
[6] 1613-1635
[7] 1635-1648
[8] 1771
[9] Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng “Các Triều đại Việt Nam”, 1995, tr. 218-219
[10] Nguyễn Huệ mất ngày 16.9.1792; Nguyễn Nhạc 1793
[11] 1556-1573
[12] 1599-1619
[13] 1691-1725
[14] 1725-1738
[15] 1738-1765
[16] 1741
[17] Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, q. 39, tờ 1
[18] 1748
[19] KĐVSCM. q. 40, tờ 25
[20] 1760
[21] KĐVSCM. q. 42, tờ 8
[22] Ca dao
[23] KĐVSCM. Chính biên, q. 42, tờ 9 và 10
[24] 1775
[25] KĐVSCM. Chính biên, q. 44, tờ 27
[26] Phan Huy Chú, “Lịch triều hiến chương loại chí”, khoa mục chí.
[27] 1621-1681
[28] 1708-1775
[29] 1726-1780
[30] 1713-1792
[31] 1735-1809
[32] Năm quyển dã sử giá trị
[33] 1716-1767
[34] 1741-1798
[35] 1743-1790
[36] ?-1808
[37] 1528-1623
[38] 1649-1735
[39] 1648-1720
[40] 1671-1716
[41] 1695-1752
[42] 1720-1792
[43] Xin đọc thêm Tôn giáo học của Nguyễn Thế Thoại
[44] Xin đọc thêm trong “Lịch sử văn học Công Giáo VN.”cúa Võ Long Tê, NXB.Tư Duy.1965 hoặc “Công giáo trên Quê hương Việt Nam” q.1. Nguyễn Thế Thoại
[45] Đông Định Vương Nguyễn Lữ mất tại Qui Nhơn 1787
[46] 1802-1945
[47] 1804
[48] 1806
[49] 1867
[50] 1884
[51] 1965 thời Paul Ely toàn quyền cuối cùng, Pháp mới trao trả độc lập Việt Nam cho chính phủ Tổng thống Ngô Đình Diệm.
[52] Thời đó “khuê môn bất xuất”, không có nữ thí sinh!
[53] Bảng có vẽ hình con cọp
[54] Bảng vẽ cành mai
[55] Bảng vàng
[56] Vì vẽ con rồng
[57] 1072-1127
[58] 1804
[59] Đại Nam thực lục, chính biên, đệ nhất kỉ, q.14
[60] 1272
[61] Đại sử Ký Toàn Thư, bản kỷ, q.5, tờ 33a
[62] Chịu trách nhiệm duyệt xét các bản Biên tu chuyển đến
[63] Chịu trách nhiệm trực tiếp biên soạn
[64] Tập hợp hoặc xác minh một số tư liệu nào đó
[65] Lo các việc hậu cần
[66] Chép lại bản thảo cho đẹp
[67] Đã in năm 1697
[68] Phiên trấn Gia Định
[69] Trịnh Hoài Đức, “Gia Định thành thông chí”, q.2, “Sơn xuyên chỉ
[70] Xin coi lại “Tôn giáo học”, cùng người viết.
[71] Nguyễn Thế Thoại, “Tôn giáo học”, chương 12 “Thờ Thần ở Việt Nam
[40] Giao lưu văn hóa Việt-Âu trước thời Nguyền
Nói về giao lưu văn hóa Việt-Âu, chúng ta có thể chia làm hai chặng: Trước thời Nguyễn và Trong thời Nguyễn, hoặc từ thế kỷ XVI tới 1802 và từ 1802 tới 1956.
Trước thời Nguyễn, yếu tố Âu châu mang văn hóa vào Việt Nam, hầu hết là những người theo Thiên Chúa giáo, thuộc ngành Kitô Công giáo Roma. Họ đa số là nhà buôn, số rất ít là nhà truyền giáo, mà vẫn phải nhờ phương tiện nhà buôn để tới và trụ lại trên đất nước chúng ta. Thiên Chúa Giáo, danh xưng đúng hơn là Kitô giáo, phát sinh từ Ysrael , ở Tây Băc Á, truyền qua  đế quốc Roma từ đầu công nguyên. Từ thế kỷ thứ Năm đến thứ Tám các dân du mục – xưa gọi là  man di – từ bắc phương chia nhau đế quốc Roma, đã theo Kito giáo, lập thành các nước châu Âu.
1. Bối cảnh lịch sử
Chúng ta đã biết
1.1 Lịch sử thế giới ghi nhận rằng:
“Thế kỷ XV, khi người Bồ Đào Nha và Y-Pha-Nho chiếm đất thực dân, thì phần đông các nước Châu Âu về kinh tế đã hướng theo chiều tư bản chủ nghĩa, về chánh trị áp dụng chánh sách quân chủ chuyên chế. Tại Bồ Đào Nha, một nước nhiều thị trường nhất, vua Jean II [1] không thèm triệu tập quốc hội nữa.
Vua chiếm hết các nguồn lợi ở thuộc địa. Từ năm 1503, vua đứng ra mua gia vị, cho bọn trung gian bán lại. Lợi về phần vua từ 50 đến 60 phần trăm.
Ở Ba Tây, lúc đầu người Bồ Đào Nha nào cũng được tới buôn bán miễn là nộp 10 phần trăm tiền lời mua bán nô lệ và 28 phần trăm tiền lời các thứ hàng hóa nhập cảng khác. Nhưng về sau bọn quan lại chiếm độc quyền thương mãi.
Từ thế kỷ 16 trở đi vua Bồ Đào Nha trực tiếp tổ chức công việc cai trị thuộc địa để củng cố uy quyền của họ ở đó. Các hội buôn ở Ấn Độ, Châu Phi và Ba Tây dần dần lọt vào các xí nghiệp thương mãi vĩ đại do vua làm chủ.
Người Y-Pha-Nho khi tìm được Tân thế giới chỉ chiếm giữ quần đảo Antilles. Họ bắt đầu khai thác đồn điền…
… Dần dần người Y-Pha-Nho chiếm cả đại lục trừ xứ Ba Tây [2] của người Bồ Đào Nha và vùng Đông Bắc Mỹ đến thế kỷ 16 bị người Anh và Pháp chiếm cứ…[3]
Sự phát triển hàng hải của người Bồ Đào Nha và sự mở mang đế quốc thực dân của người Y-Pha-Nho gây nhiều ảnh hưởng quan trọng cho nền kinh tế thế giới.
Ảnh hưởng đầu tiên là các đường giao thương giữa châu Á và châu Âu thay đổi làm cho các hải cảng Đại Tây Dương phát đạt mà các hải cảng Địa Trung Hải sa sút…
Về mặt tinh thần, kiến thức loài người nhờ những phát kiến vĩ đại ấy mà mở rộng thêm. Những điều mới lạ thức tỉnh óc khoa học, thúc giục con người lao mình vào công cuộc tìm tòi, nghiên cứu…” [4]
Về phương diện nghiên cứu triết học, thần học và các khoa học tự nhiên, nước Pháp không thua dân tộc nào ở Âu châu hồi đó; nhưng về hàng hải, còn lâu Pháp mới theo kịp Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và xứ Venitia. Mãi năm 1598, Pháp mới chiếm được một phần nhỏ ở Bắc Mỹ châu, tức vùng Virginie và Canada. Phải tới thời Louis XIV với 72 năm cai trị [5], Pháp mới có hải thuyền sánh được với Anh và Hòa Lan. Tuy thế, khi máy hơi nước ra đời, Anh sẽ vượt lên xa các nước, rồi trở thành vương quốc rộng nhất trong thế kỷ XIX.
1.2. Lịch sử Giáo Hội Kitô-giáo
Lịch sử Giáo Hội Kitô-giáo cũng cho người ta quan niệm rằng hàng chục thế kỷ Giáo Hội này lan tràn khắp Âu châu tới biển Bắc Băng Dương và Đại Tây Dương và miền Bắc Phi, tới vùng Sa mạc mênh mông miền Nam…. Họ ngưng tại đó, vì cứ tưởng rằng đã thi hành xong lệnh truyền của Ngài Sáng Lập, Đức Kitô: Loan báo Tin Mừng đến tận cùng thế giới.
Khi hàng hải phát triển, người ta mới thấy rằng còn những dân tộc, những vùng đất chưa nghe loan báo Tin Mừng. Giáo Hội Kitô-giáo, đứng đầu là Giáo-hoàng, phải tìm cách cho thày giảng tới những vùng “đất mới” này.
Không có phương tiện, Giáo hoàng của thế kỷ XV và XVI ủy  cho triều đình Bồ Đào Nha nhiệm vụ truyền Đạo và bảo trợ nhà truyền giáo, vì những người đó đều là Kitô-hữu.
1.3. Lịch sử Việt Nam trong Đông Nam Á
Lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI bắt đầu với Lê Túc Tông, tiếp liền Lê Uy Mục không thể đứng vững, nếu không có Mạc Đăng Dung trợ lực; nhưng chỉ một phần tư thế kỷ sau, nhà Mạc bắt đầu chia cắt giang san nhà Lê. Chúng ta đi vào nội chiến với Lê - Mạc - Trịnh - Nguyễn Tây Sơn, Nguyễn Phúc. Phe nào cũng muốn thắng, nên phe nào cũng tìm thế lực ngoài yểm trợ. Cố vấn Tây Phương và vũ khí Tây Phương còn quan trọng trong chiến tranh hơn hàng hóa vải vóc và đồng hồ…
Người và hàng hóa đương nhiên mang theo những yếu tố văn hóa. Âm thầm, vua chúa và nhân dân chúng ta đã chủ động tiếp thu và bắt đầu giao lưu văn hóa với Tây Phương.
Cũng ngay từ thế kỷ XVI, các nhà truyền Đạo Kitô theo các tàu buôn Bồ Đào Nha vào Việt Nam. Để có nơi ở và phương tiện sống, họ thường làm nhân viên của công ty hoặc của thương điếm. Ngoài những giờ làm việc đó, họ truyền Đạo. Để dễ hiểu, người ta đặt lên và gọi Đạo Kitô là “Hoa Lang Đạo ”.
Khi nào vui vẻ vì thương thuyền và hàng hóa, tặng phẩm v.v. các vua chúa Việt Nam cho họ tự do truyền giáo và người dân theo Đạo. Khi nào thấy bất lợi và nghi ngờ họ làm lợi cho đối phương , vua chúa ra lệnh ngăn cấm.
Sang thế kỷ XVI và XVII, khi Tây Ban Nha thành cường quốc kinh tế và đế quốc chinh phục Tân Thế Giới Mỹ châu, họ cũng chinh phục mấy ngàn hòn Đảo trong Thái Bình Dương, ở về phía Đông Nam nước ta, làm nên một nước mang tên vua Tây Ban Nha, nước Philippines. Vì trước chưa hề thành một dân, một nước, nên Tân quốc gia này rất sớm bị Tây-hóa và trở thành nước Công-giáo duy nhất ở Á-châu. Các nhà buôn và các thừa sai truyền giáo tại Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam và Chiêm Thành, Châm, Chân Lạp cũng thêm những người mang quốc tịch Tây Ban Nha, rồi Pháp, Italia. Tuy mang quốc tịch khác nhau, có khi dòng giống khác nhau, họ đều là những nước đang phát triển nhờ văn hóa Công-giáo. Họ đến, không chỉ truyền Đạo, mà gián tiếp cũng mang vào những yếu tố văn hóa Tây Phương của văn minh Thiên-Chúa-giáo.
Nguyễn Hiến Lê nhận xét đơn giản:
Từ thế kỷ 17, người Âu đã sang buôn bán ở nước ta. Trước hết, người Bồ Đào Nha mở thương điếm ở Hội An, thuộc tỉnh Quảng Nam, đồng thời người Hòa Lan cũng mở thương điếm ở Phố Hiến (Hưng Yên). Người Bồ Đào Nha giúp khí giới cho chúa Trịnh, người Hoà Lan giúp khí giới cho chúa Nguyễn.
Sau, Anh và Pháp theo gót, xin vào buôn bán. Lúc đó, đã có một số giáo sĩ vào truyền đạo Da-tô, khi thì được lưu thông dễ dàng, khi thì không. Tóm lại, ảnh hưởng của người Âu chưa có gì.” [6]
Hẳn chúng ta nên nhìn kỹ hơn và phân tích kỹ hơn.
2. Vài nét văn hóa Tây-phương vào Việt Nam trước 1802
Dầu “đơn giản hóa vấn đề”, chúng ta vẫn cần ghi nhận:
2.1..Gián tiếp và Trực tiếp
Trước hết, có thể nói văn hóa Tây phương vào Việt Nam theo đường gián tiếp và trực tiếp. Gián tiếp do thương mại cổ thời (như thấy trong di chỉ Trăm Phố). Gián tiếp qua ngả Trung quốc, Nho sĩ  và chữ Hán. Trực tiếp do chính người Tây phương du nhập.
Ngay từ thời Tây Hán, nhiều nhà truyền giáo Kitô-giáo đã tới Trung quốc. Thời Nguyên thống trị Trung Hoa, có những người Âu như Marco-Polo được bổ nhiệm vào những chức vụ cao trong triều. “Minh Thái Tổ sau khi đuổi người Nguyên, bài xích người Tây phương triệt để. Đến năm 1516, vua Vũ Tôn mới cho người Bồ Đào Nha đến ở Quảng Châu. Kế đó, người Anh, Hòa Lan, Y Pha Nho [7] cũng được tới Trung Quốc buôn bán và truyền Đạo.
Năm 1601, Ricci [8] được vua rước tới Bắc Kinh dạy hoàng thái tử. Giỏi khoa học, ông dịch hình học Euclide ra tiếng Mãn Thanh, cùng làm sách Vạn Quốc Dư Đồ. Kế ông, có người Đức Schall. Ông này lập một xưởng đúc súng (1636). Ngoài ra, giáo sĩ dòng Jésuite [9] còn đến truyền bá các thứ khoa học như Thiên văn học, Lịch pháp, cơ khí học, số học, địa lý học, dược học, pháp thuật v.v.… Khoa học Tây phương bắt đầu truyền sang Trung Quốc từ đó.” [10]
Với cầu hán tự, những gì thuộc Văn Hóa Tây phương nhập vào Trung quốc, cũng không bao lâu sau có ở chúng ta. Ngay đến cuốn Giáo-lý Công giáo của Cha Ricci cũng thành sách học đạo của một số nho sĩ và sách dạy Đạo của một số “thầy giảng” tiên khởi Việt Nam, thế kỷ XVI-XVII. Những sách khoa học do giáo sĩ này sáng tác cho người Tàu, hiển nhiên cũng có nhiều người Việt hoặc Nhật, hoặc Cao-ly đọc và học thêm văn hóa Tây phương.
Trực tiếp là chính các người Âu tới buôn bán hoặc truyền Đạo hoặc phục vụ triều đình cũng mặc nhiên hoặc công nhiên truyền bá văn hóa của họ vào cho người Việt Nam.
2.2. Từ thương phẩm tới vũ khí, từ lái buôn đến cố vấn và giáo sĩ truyền giáo.
Chúng ta đều biết: Con đường tơ lụa có thể là “xa lộ quốc tế dân dụng” đầu tiên nối liền hai ba đại lục và hàng hóa chuyên chở trên đó đa phần từ Nam Đông phương sang Tây phương và Trung Cận Đông: Tơ lụa, tiêu, ớt,… đá quí, đồ gồm  sứ và đồ đồng.… Nhưng vải dệt máy và súng đạn thì Tây phương tiến bộ hơn Đông phương trầm lặng. Chính vì thế, khi khai thác đường hàng hải thì tàu Tây chở sang những vải dệt máy, đồng hồ… và súng đạn.
Khởi đầu, chính vì Tây phương kỹ nghệ hóa sớm hơn, mà cũng vì chúng ta nội chiến nhiều hơn.
2.3. Tôn giáo và học thuyết xã hội
Dầu từ những bộ tộc du mục, mang dòng máu hiếu động và hiếu chiến, người Tây phương cũng đã hàng chục thế kỷ học làm nông và theo đạo lý Kitô-giáo [11], nhưng họ vẫn mang khuynh hướng xã hội tự do, bình đẳng. Họ tin sức mạnh của công lý. Có gạt đạo lý qua bên, họ cũng tin mạnh được yếu thua. Khác hẳn quan niệm tam cương ngũ thường của Nho giáo và lề thói các dân tộc Đông Nam Á châu chúng ta.
Chính vì thế, từ thế kỷ XVI tới nay, các chính quyền ở Việt Nam (giống như cả vùng) thường vẫn ưa thích và lợi dụng văn hóa phẩm và con người Tây-phương, nhưng lại đề phòng, ngăn ngừa hoặc nghiêm khắc cấm đoán việc truyền Đạo Kitô, nhất là chi Giáo Hội Rôma, vì chi này tổ chức chặt chẽ hơn các chi hội “cải cách” hoặc “tân giáo”, hoặc gọi chung là “tin lành”. Ngay đến anh em Tây Sơn, người “đạo dòng”, một khi nắm quyền cũng theo cung cách đó.
Mặt khác, tin hay không tin, người ta vẫn phải nhận rằng bạo lực chẳng bao giờ có kết quả tốt đẹp lâu bền.
Chính vì thế, mà mỗi khi “nới lỏng” hoặc “làm ngơ”, chính quyền lại thấy số tín đồ Công-giáo đã tăng quá mức mình tưởng và chấp nhận. Năm 1658 có chừng 300.000 tín đồ Công-giáo người Việt Nam. Dầu loạn lạc, dầu chiến tranh chết chóc, dầu chính quyền cấm đoán, năm 1848, khi Minh Mệnh nằm xuống sau ba lệnh cấm Đạo chính Ông ban hành, số tín đồ Công giáo vẫn lên tới 420.000.
Kết quả: Khung trời Tôn giáo ở Việt Nam, từ thế kỷ XVI đã thực tế có thêm những người và nét văn hóa Kitô-giáo: trong kiến trúc, thi ca, quan niệm và tổ chức đời sống. Những nét văn hóa Công-giáo không dễ hòa đồng vào với các tôn giáo khác, ngoại trừ hình thức cung kính và thi ca.
[1] 1495-1521
[2] Bresilia
[3] Thật khó hiểu: “Từ1506”, “từ thế kỷ XVI”, “đến thế kỷ XVI”… tác gỉa muốn nói về những năm nào? Năm nào Bồ Đào Nha? Năm nào Tây Ban Nha? Năm nào người Anh?!
[4] Nguyễn Hiến Lê - Thiên Giang, Lịch Sử Thế Giới, cuốn III, ch. III
[5] 1643-1715
[6] Sđd. IV, tr. 100-101
[7] Y Pha Nho = Tây Ban Nha = Espana = Espagne
[8] Giáo sĩ Matteo Ricci “Lợi Mã Đậu”
[9] Quen gọi “Dòng Tên”
[10] Nguyễn Hiến Lê, sđd, tr. 173-174
[11] “Anh em chỉ có một Cha trên trời, một Thầy là Đức Kitô, còn tất cả là anh em.”, Kinh Tân Ước, Mt 23, 8
PHẦN IV
          VĂN HÓA VN.
THỜI TOÀN CẦU HÓA
10.   Giao Lưu Văn Hóa Việt Âu
11.    Văn Hóa VN. thời toàn cầu hóa
12.   Bảo tồn di sản văn hóa
                        12.
                        GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT ÂU
Nói đến đài kỷ niệm dựng ở Hà nọi năm 1941 để ghi ơn giáo sĩ  Alexandre de Rhodes, Học giả Nguyễn Văn Tố đã viết: ’Mỗi khi chúng ta đi qua giữa cảnh trí này, chúng ta sẽ tưởng niệm cùng một lúc cụ Hàn Thuyên, cha đẻ chữ Nôm, và vị giáo sĩ Dòng Tên, ngoài việc hoàn thành chữ Quốc Ngữ, còn cống hiến cho ta những tài liệu quan trọng về lịch sử ngôn ngữ Việt Nam” [1].
Đối chiếu Hàn Thuyên và Alexandre de Rhodes, học giả Nguyễn Văn Tố muốn chúng ta lưu ý đến công trình tiên phong của Hàn Thuyên trong việc phát động nền văn học chữ Nôm và của Alexandre de Rhodes trong việc phát động nền văn học chữ Quốc Ngữ “. [2]
[41] Giao lưu văn hóa Việt - Âu thời Nguyễn
Mấy thế kỷ trước Nguyễn triều, vua Lê và Chúa Trinh, vua Mạc và chúa Nguyễn có xin người Âu giúp, cũng chỉ là xin cho một vài giáo sĩ, nhiều hơn là xin giao thương , mà thứ hàng đắt giá nhất là vũ khí và quí nhất là một hai giáo sĩ làm cố vấn khoa học, thiên văn trong triều. Mở đầu thời Nguyễn là xin giúp quân đội, rồi tới giai đoạn không những không nhờ, còn kháng chiến, mà vẫn bị quân Tây phương đàn áp và văn hóa Tây phương tràn vào.
1. Bối cảnh lịch sử
Cứ xét bối cảnh Quốc Tế và Việt Nam, chúng ta thấy dễ hiểu cung cách hãnh xử của mấy ông vua Nguyễn Triều và trào lưu tiếp biến văn hóa.
1.1. Bối cảnh quốc tế
Khi Âu-châu đã đi vào kỹ nghệ hoá và ngoại thương, Trung Hoa và Á Đông vẫn hì hục theo nông nghiệp thủ công.
Đầu thế kỷ 16, Bồ Đào Nha sau khi đặt đầu cầu ở Ấn Độ, đã tiến sang chiếm Malacca, rồi định đặt cơ sở ở Quảng Đông [3], nhưng không thành công. Ít chục năm sau, họ đổi chiến thuật hùng hổ thành ngon ngọt, nên thuê được Macao (Áo Môn) làm thương cảng. Tiếp theo, người Tây Ban Nha, người Anh và Bồ Đào Nha cùng đưa thuốc lá từ người Mỹ da đỏ vào tập cho người Tàu da vàng hút. Sau đó, người Anh đưa một thứ sản phẩm Ả-rập qua Ấn Độ để truyền vào Trung Hoa: Nha-phiến. Buôn nha-phiến là mối lợi lớn nhất người Anh kiếm được qua thương trường Ả-rập – Ấn-độ – Trung-hoa.
Nha-phiến còn là một ngòi nổ thử sức Đông - Tây.
Năm 1838, Tổng đốc Lâm Tắc Từ dâng sớ về triều:
Nếu không cấm tiệt được nha phiến thì chỉ vài chục năm nữa, trong nước không còn lính để chống địch, mà cũng không đủ tiền cung cấp binh nhu ”.
Vua Đạo Quang liền ra lệnh nghiêm cấm và nghiêm phạt tới mức tử hình, phái Lâm Tắc Từ làm Khâm sai đi Quảng Đông thi hành. Người Anh chống trả. Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất dẫn tới hòa ước Nam Kinh: Trung Quốc phải mở cửa Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Thượng Hải, còn Hồng Kông thì Trung Quốc tặng Anh quốc luôn 99 năm!
Trung Quốc loạn lớn, Tây phương quậy phá thêm. Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ hai [4] dẫn tới hòa ước Bắc Kinh: Thuốc phiện được bày bán công khai, người Âu Mỹ hưởng quyền lãnh sự tài phán.
Nga đã thừa cơ hội Âu Mỹ quần thảo Trung Hoa để mở trận Đông tiến, bảo hộ Mãn Châu và lan dần ra tới biển [5].
1..2. Bối cảnh Việt Nam
“Người hùng Đông phương” là Trung Hoa đã bị xâu xé như thế, mấy nước nhỏ như chúng ta [6] không thể không bị giày vò, nhất là khi chúng ta đang tan nát vì nạn ngũ quyền: Trịnh, Mạc, Lê, Nguyễn Tây Sơn, Nguyễn Phúc…
Cuối thế kỷ 18, Nguyễn Ánh thua Tây Sơn, nhân quen một người Pháp làm giám mục đạo Da-tô, tên là Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine), bèn nhờ Bá Đa Lộc xin chính phủ Pháp giúp khí giới, binh lính để diệt Tây Sơn. Bá Đa Lộc vui vẻ nhận lời. Nguyễn Ánh giao hoàng tử Cảnh và quốc ấn cho Bá Đa Lộc để làm tin.
Năm 1787, Bá Đa Lộc vào yết kiến vua Louis XVI. Pháp đương gặp lúc quốc khố rỗng không, chẳng giúp được gì cả. Bá Đa Lộc phải xuất tiền mua khí giới và mộ lính chở sang Việt Nam vừa lúc cách mạng 1789 nổ ra ở Pháp.
Từ đó, thế lực Nguyễn Ánh mạnh lên; khi thắng được Tây Sơn, thống nhất quốc gia, lên ngôi vua, ông không quên ơn người Pháp, đối với họ có biệt nhãn, cho họ tự do buôn bán và truyền đạo.
Trong thời Minh Mạng, sự giao thiệp Việt Pháp có phần nhạt nhẽo,[7]  tới đời Tự Đức thì hai bên hóa ra thù hằn nhau. Nguyên nhân là Pháp muốn chiếm nước ta. Tự Đức hiểu dã tâm đó, ra lệnh cấm đạo.
Năm 1858, dưới triều Nã Phá Luân đệ tam, liên quân Pháp – Y Pha Nho tấn công Đà Nẵng rồi Gia Định. Năm 1862, triều đình phải cắt cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Việt, năm 1867, mất luôn ba tỉnh miền Tây nữa. Cao Miên trước vẫn thần phục ta, lúc đó bị Xiêm quấy nhiễu, Pháp can thiệp, ép Xiêm phải để Pháp bảo hộ Cao Miên.
Năm 1870 (triều Tự Đức), Pháp phải cắt hai tỉnh Alsace và Lorraine cho Phổ, càng nóng lòng muốn kiếm thêm thuộc địa để bù lại, tỏ thái độ xâm lăng rõ ràng, gởi quân đội viễn chinh qua với mật lệnh: “Bắc Việt tiếp giáp với những tỉnh Tây Nam Trung Hoa, ta nên chiếm giữ lấy để cai trị ở Viễn Đông được chắc chắn”. Năm 1873, Pháp tấn công Bắc Việt, thành Hà Nội thất thủ, nhưng quân Pháp vẫn chưa hoàn toàn thắng thế. Năm 1883, Pháp lại tấn công Bắc Việt một lần nữa, chiếm Hà Nội rồi vô chiếm luôn Thuận An. Năm sau, nhà Nguyễn ký một hiệp ước chịu để nước Pháp bảo hộ và chủ trương việc ngoại giao.
Muốn bắt nhà Thanh nhận chủ quyền của mình ở Việt Nam, Pháp tuyên chiến với Trung Hoa và thắng nhiều trận trên biển (Phúc Châu và Đài Loan) và trên bộ (Tuyên Quang) [8].
Lịch sử còn ghi lại:
Với hòa ước Patenôtre (1884) ký giữa Pháp và triều Nguyễn, với hòa ước Thiên Tân tiếp đó của Pháp và Thanh triều, Pháp “chính thức được nhìn nhận” (!) là chủ của thuộc địa Nam Kỳ và Bảo hộ Bắc Kỳ, Trung Kỳ Việt Nam, Lào và Cambodge.
2. Đặc điểm văn hóa giao lưu Việt - Âu thời này
Thật nhiều đặc điểm của thời văn hóa Việt - Âu giao lưu, chúng ta chỉ điểm ra một số quan trọng:
2.1. Không nhất quán
Văn hóa Âu Á thật là quá khác nhau, nên khi gặp nhau, đều đòi hỏi cố gắng. Gần như suốt quá trình gặp gỡ cả mấy trăm năm, luôn luôn có hai khuynh hướng hoặc tình cảm pha trộn: Lợi dụng và chống đối, ngay cả khi từng bộ phận lớn hoặc nhỏ gắng dung hòa hoặc thích ứng văn hóa. Có khi bùng lên mãnh liệt, khi khác lại âm thầm len lỏi vào cuộc sống. Bùng lên bằng cải cách do chế độ mới chủ trương. Bùng lên bằng phong trào bình Tây sát Tả, bằng sắc chỉ và đạo dụ cấm đạo. Những len lỏi vào cuộc sống, người ta vẫn lai rai nhận thấy nhiều ít qua thi văn, qua sự lựa chọn kiểu nhà cửa hoặc phương tiện tiêu dùng, qua cả những công việc hiếu hỉ của người dân.
2.2. Đối kháng văn hóa
Có thể nói: Đối kháng văn hóa, khi chúng ta tiếp xúc với Tây phương, khởi đầu là do “ý thức hệ”. Chúng ta chủ trương con người có sống theo luân thường đạo lý – nói rõ hơn là sống trong tam cương ngũ thường – thì mới đúng đạo làm người. Còn người Âu Mỹ thì theo Bình đẳng, Tự do, Huynh đệ, theo tiêu chuẩn Tin Mừng, hoặc theo chủ trương sức mạnh của đế quốc từ ngàn xưa.
Hiển nhiên có những người thực tâm “vì đạo lý” hoặc vì ý thức hệ; nhưng cũng thật nhiều người  – nhất là những người nắm quyền trong xã hội và gia đình – chỉ dựa vào tam cương ngũ thường để bảo vệ quyền lợi của cá nhân và giai cấp họ. Phía Âu Mỹ chính thức dựa vào sức mạnh đế quốc tiên tiến, nhưng không thiếu những con người thực sự vì giáo lý Tin Mừng [9] mà quyết tâm truyền Đạo và truyền bá văn hóa Tây phương.
Đối kháng còn mang riêng nghĩa chống đối vì yêu nước thương dân Việt Nam. Giáo sư Lê Văn Chưởng viết:
Chống lại Âu hóa hay nói một cách khác là ý thức đề kháng văn hóa ngoại xâm. Ý thức này phát xuất từ lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam mà trong giai đoạn này được thể hiện bằng cuộc chiến đấu của Nguyễn Tri Phương đã chặn đứng bước tiến xâm lăng của Pháp ở Đà-nẵng (1858). Ý thức để kháng ngoại xâm như một thác nước chảy ngầm cho nên khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam Việt luôn gặp sức kháng cự của nghĩa quân và của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Trương Đinh, Nguyễn Duy Dương, Nguyễn Trung Trực… Ở Bắc Bộ và Trung Bộ thì do sự lãnh đạo của Hoàng Diệu, Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám… Và, các phong trào chống Pháp như Cần Vương, Văn Thân, Duy Tân, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, mà đỉnh cao là sự ra đời của mặt trận Việt Minh…” [10]
Nếu muốn gọi những người như Đinh Công Tráng, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng v.v. là nhà ái quốc thì đúng; còn những vị như Tôn Thất Thuyết, Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, dù có ái-quốc thì cũng chủ yếu là Trung-Quân. Phong trào Cần Vương cũng thế. Ngay cái tên của nó cũng nhắm tới ông vua, dù là ông vua chưa trưởng thành, bất xứng. Mà trước đó, những người “ái quốc” nhận là phong trào Văn Thân. Nhưng “Văn Thân ” vẫn là khẳng định đấu tranh vì ý thức hệ nho giáo - có thể hoặc không đồng nghĩa với “yêu nước, thương dân”, vì hai phạm trù này giáo huấn Khổng Mạnh dành cho nhà vua., không cho đại chúng nhân dân.
Phải tới những người, vì noi gương Nhật Bản, mà chủ trương Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục và Duy Tân mới không còn là đấu tranh vì ý thức hệ nho giáo nữa. Nhưng, những người này lại không chủ trương chống Đạo hoặc giáo huấn Bình Đẳng Tự do, không chủ trương dùng bạo lực như những người và phong trào trước đó. Những người thuộc ba phong trào này không thực sự chống văn hóa Âu Mỹ; chỉ chống về phương diện chính trị thực dân và về một số nét văn hóa Tây phương mà chúng ta coi là lố lăng hoặc ngược với bản sắc dân tộc.
2.3. Cấm Đạo (Công giáo)
Một trong những hành động mãnh liệt và được lặp lại nhiều lần trong mấy thế kỷ, có khi lôi cuốn thật nhiều người Việt Nam… là việc Cấm Đạo Kito, với những lời mạ lị sâu độc. Người ta không thể hiểu đúng, nếu chỉ hiểu theo quan niệm chính trị hoặc từ giác độ tôn giáo. Phải nhìn và phân tích việc cấm Đạo theo tầm nhìn văn hóa, người ta mới hiểu thấu và hiểu đúng.
Phần thư khanh nho” thời Tần Thủy Hoàng đâu phải thực chất có mục tiêu cấm Nho giáo hoặc nho học. Thực ra, đó chỉ là để bảo vệ ngai vàng Tần Thủy Hoàng và ghế thừa tướng Lý Tư. Tần vẫn dùng chữ Nho và sách Nho do họ nhuận sắc hoặc biên soạn., nhưng thừa tướng Lý Tư và Tần Thỉ Hoàng muốn các nho sĩ của họ và phục vụ cho họ thôi.
Cấm Đạo Thiên Chúa ở Việt Nam từ thời Lê Trịnh đâu phải vì sợ người Bồ hoặc Tây chiếm đất đai. Ngay đến Cảnh Thịnh cấm Đạo cũng hoàn toàn không phải vì thương dân thương nước. Cấm Đạo thời Nguyễn đa số vì thấy tín đồ không “cắn cỏ phục tùng” vua quan, vì sợ người tín đồ bị Pháp lợi dụng mà xâm chiếm chủ quyền của triều đình.
Đấy là một sai lầm lớn khi khởi đầu với Minh Mạng, Thiệu trị. Sai lầm đó có thể giồn một số người sang hàng ngũ chống đối… Dầu sao, số đó chỉ chiếm tỉ lệ thật nhỏ:
Viễn cảnh dân chúng, trước hết là giáo dân nổi dậy hưởng ứng đoàn quân “giải phóng” chỉ là sản phẩm tưởng tượng của các giáo sĩ. Và phải chủ quan đến mức cuồng tín thì mới dự kiến phát động được quần chúng nhân dân một nước đứng lên “vũ trang khởi nghĩa” hưởng ứng một quân đội nước ngoài đến nã súng chẳng những vào thành lũy của vua quan mà cả vào nhà cửa, ruộng nương của họ! Riêng giáo dân, dù từ lâu, họ là nạn nhân của một chính sách phân biệt đối xử có lúc nghiệt ngã đến mức vô nhân của một chế độ phong kiến. R. de Genouilly nhận xét về các “làng công giáo” ở Gia Định: “Đáng lẽ họ phải tỏ ra nồng nhiệt với chính nghĩa của chúng ta. Cứ qua kết quả mà xét, sự nồng nhiệt đó đã không có”; giáo dân “luôn luôn đứng bên lề” [11]
Cứ đọc các châu bản nhà Nguyễn cũng thấy có nêu lý do cấm đạo vì lỗi luân thường đạo lý (nho giáo) hoặc một vài trường hợp vì nghi ngờ mưu phản (phản Nguyễn triều, nhất là phản chính hoàng đế đương quyền). Do đó, khi nhà cầm quyền thực mạnh, hoặc hoàn toàn không hy vọng lấy được chủ quyền lại, thì cũng không nói gì truyện cấm Đạo nữa.
Việc cấm Đạo hôm nay tại một số nước cũng cùng những nguyên nhân đó.
[42] Tiếp biến văn hóa Việt Âu thời Nguyễn
Có thể thấy việc tiếp biến văn hóa Âu - Việt diễn ra mau lẹ hơn tiếp biến văn hóa Ấn - Việt với Phật giáo hoặc Hoa Việt với Nho giáo.
1. Về văn hóa vật thể
Văn hóa vật thể là những nét dễ thấy nhất và dễ ảnh hưởng.
1.  Xây dựng Hạ tâng cơ sở
Ngay từ những thập niên cuối thế kỷ XIX, nghĩa là sau khi đặt vững quyền cai trị, người Pháp đã bắt đầu lo những xây dựng cơ bản , như: Hệ thống giao thông đường bộ và thủy liên tỉnh và giữa các huyện, tổng. Hải hành và đường bộ xuyên Việt là hai công trình có quy mô lớn đầu tiên. Sau hai tuyến ngắn đường sắt Saigon - Mỹ Tho và Lạng Thương - Lạng Sơn, tới đường sắt Saigon - Hà Nội.
1.2. Phương tiện giao thông
Cùng với đường, phương tiện giao thông cải tiến và đổi mới: không còn chỉ là gồng gánh cho bình dân hoặc lừa ngựa cho quí tộc. Nông dân thêm cộ bò, rồi xe kéo, xe đạp. Đầu thế kỷ XX, người ta thấy xe “ôtô” của các quan về đến huyện, đến tổng. Sau đó là ôtô-hàng hoặc xe đò chở hành khách. Đường sông đường biển đã xuất hiện canô và phà chạy bằng máy hơi nước.
1.3. Nghê nghiệp
Các nghề truyền thống như nông và ngư nghiệp, thủ công nghiệp cũng được cải tiến thẩt nhiều. Tiêu thụ mạnh hơn, vì thị trường trong nước tăng nhờ giao thông thuận tiện. Còn thêm những thị trường lớn trong khối Đông Dương và Liên Hiệp Pháp.
Có thể nói: Nội thương và ngoại thương đã chính thức phát triển và được nhân dân ham thích hơn cả nông lâm ngư ngiệp. Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn Chợ Lớn có bề thế đô thị. Nam Định, Hòn Gai, Qui Nhơn, Biên Hòa, Mỹ Tho…là những thị trấn nổi tiếng.
Nếp sống thành thị từ từ hiện ra khác hẳn nông thôn và lôi cuốn hơn nhiều.
1.4. Kiến trúc
Kiến trúc nhà cửa của thị dân là những khu phố, những ngôi nhà khang trang mang dáng dấp Tây phương. Nổi hơn nữa là những cơ sở của chính quyền như Phủ Toàn quyền, dinh Thống đốc, Tòa án, Bưu điện, nhà Hát, nhà Ga, Bến Xe v.v. Các cơ sở giáo dục còn được biết đến nhiều hơn: Đại Học Đông Dương, Trường Viễn Đông Bác Cổ, các trường Cao Đẳng và Trung học Kỹ Thuật… các cơ sở từ thiện, bác ái, bệnh viện, nhà thương, viện tế bần, cô nhi viện, nhà dưỡng lão v.v....nhất là các nhà thờ và nhà dòng Công giáo.
2. Về Văn hóa Phi Vật Thể
Văn hóa phi vật thể quan trọng hơn và cũng biến chuyển hơn
2.1. Chữ Quốc Ngữ
Không chỉ là vì nhu cầu truyền đạo, mà còn vì tiến trình của nhân dân Việt Nam, các giáo sĩ - nhất là Alexandre de Rhodes - đã tận tâm với việc sáng chế và hoàn thành kiểu viết ngôn ngữ Việt Nam bằng mẫu tự la tinh, sớm được gọi là Quốc Ngữ. Nếu học theo kiểu xưa, người ta phải nhớ chừng tám chục ngàn chữ Nôm, mới đọc được các loại sách. Mẫu tự la-tinh và cách ghép vần quốc ngữ đơn giản  đến độ một người khiếm thị, chỉ dùng xúc giác đầu ngón tay - cũng có thể học đọc và viết trong mấy tháng. Việc đơn giản đó càng rút ngắn thời gian hơn nữa cho nghề in ấn và phổ biến kiến thức.
Năm 1651, nhà in của Tòa Thánh Roma cho ra đời hai tác phẩm của giáo sĩ Alexandre de Rhodes;
  • Phép giảng tám ngày …
  • Từ điển Việt Nam - Bồ Đào Nha - Latin
“Đó là hai tài liệu xác thực đầu tiên về chữ quốc ngữ và văn quốc ngữ nữa “ [12]
Khởi từ nhu cầu dùng mẫu tự latin để sinh hoạt với chúng ta [13], các hế hệ giáo sĩ ngoại quốc và các thày giảng (nho sĩ tòng giáo) đã từ từ hoàn thành một trong mấy loại chữ viết toàn hảo bậc nhất : Chữ Quốc Ngữ. Về điểm này, lích sử dân tộc chúng ta và dân tộc Đức có một trang rất giống nhau. Giáo sĩ truyền giáo theo mẫu tự latin để sáng chế cho dân tộc “quê hương thứ hai” của họ một lối chữ viết.
Các thừa sai truyền Đạo ở Nhật Bản và Trung Hoa cũng đã làm thế, nhưng họ không thành công, lối viết của họ không phổ biến được. Về trước: Trung Hoa đã có tự hào về chữ Nho và vẫn ngày thêm đơn giản hóa. Nhật cũng đã thành công nhiều trong việc đơn giản hóa chữ nho làm  chữ Nhật. Về sinh hoạt thừa sai, giáo sĩ tại hai nước trên không gặp được cảnh sống “gia đình” như giáo sĩ tại VN. Sống với Thày giảng và “anh em nhà Đức Chúa Trời”.
Hẳn là suốt mấy trăm năm, chữ mà sau được coi là “Quốc ngữ” chỉ thông dụng trong phạm vi những người công giáo  hoặc trực tiếp liên hệ với họ. Tác phẩm quốc ngữ xưa nhất của người Việt Nam là của linh mục Philippê Bỉnh, người đã ở lại Âu châu từ 1796 tới 1830. Tác phẩm của Ngài còn tại thư viện Vatican.
Vì muốn bảo vệ đạo Nho và chữ Hán mà quan lại triều Minh Mạng từng dâng sớ xin cấm Đạo và tiêu huỷ hết tài liệu chữ quốc ngữ:
“Các sách vở viết chữ mọi rợ cũng phải đốt hết. . .[14]
“Đến sau khi Nam Việt Nam thành thuộc địa (1867), chính phủ đem chữ quốc ngữ dạy ở các trường học. Các nhà tân học bấy giờ như Trương Vĩnh Ký, Paulus Của, cũng dùng chữ quốc ngữ để viết văn. Ở Trung Việt bấy giờ có ông Nguyễn Trường Tộ xin triều đình thông dụng chữ quốc ngữ, nhưng trong buổi hán học thịnh hành lời đề xướng của ông không ai để ý đến. Đến đầu thế kỷ 20 thì các nhà học giả Bắc Việt như Đào Nguyên Phổ, Phan Kế Bính cũng bắt chước văn sĩ Nam Việt mà dùng chữ quốc ngữ để viết sách viết báo.
Năm 1906 chính phủ Bắc Việt đặt Hội Đồng Cải Cách Học Vụ (Conseil de perfectionnement de l’enseignement) sửa lại chương trình và bắt đầu dùng Việt Ngữ làm một môn giáo khoa phụ. Năm 1908 ở Trung Việt đặt Bộ Học để thi hành việc cải lương ấy. Thế là Việt Ngữ đã được chính phủ thừa nhận đem dùng ở trong học giới. Đến năm 1915 vầ 1919 ở Bắc Việt và Trung Việt bỏ khoa cử. Từ đó Việt Ngữ có địa vị trọng yếu trong chương trình học vụ mà lần lần thông dụng trong khắp ba xứ “ [15]
Một khi người Việt Nam rộng rãi tiêp nhận thì nhờ lối viết và học đơn giản này trong một giai đoạn nhất định, người ta vượt xa mau lẹ hơn những dân tộc quanh mình.
Một thiên kỷ chữ Hán cho đồng bào chúng ta thâu lượm được nhiều kiến thức không bằng nửa thế kỷ quốc ngữ! Nhiều tác phẩm Hán Nôm của cha ông chúng ta và những tác phẩm ngoại quốc được phiên âm và phiên dịch. Cùng với một số trường có chương trình Pháp, hoặc nhận ngoại ngữ Pháp, thật nhiều tác phẩm văn học Pháp cũng dễ dàng qua quốc ngữ để đến với dân ta. Sau đó, Pháp văn thành chuyển ngữ để người Việt Nam đọc và học tác phẩm của các dân tộc Âu Mỹ.  Thế là chúng ta được dẫn tới nhiều ngành văn học chưa hề có trong lịch sử Hán văn : thư từ, báo và tạp chí.
Ngay trước khi có “Công báo quốc ngừ Gia Định Báo”, tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ [16] thì nhà in đã được xây dựng ở Miền Nam [17]. Từ nay, các sách Đạo Công giáo không cần in nhờ Nazareth Hong Kong nữa.
2.2. Chính Tư Tưởng và Tinh Thần.
Con người sống trong bối cảnh văn hóa không những có khả năng từ từ biến đổi môi trường, mà còn có phương tiện để dễ dàng tiếp nhận những tư tưởng mới. Thế là tinh thần con người cũng từ từ biến đổi.
Nói chung, nhiều người Việt Nam trong giao thoa văn hóa Việt Âu nhận ra rằng “biển học” của nho gia không mênh mông như các cụ đồ tưởng. Nho học sâu hơn rộng. Tam cương ngũ thường có bảo đảm phần nào trật tự trong cuộc sống con người và xã hội, nhưng cũng bóp nghẹt và trăng trói nhiều năng lực, khi nó không đồng dạng nho giáo.
Giống như nhóm Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu bên Trung Quốc, một số Nho Sĩ Việt Nam đọc hán văn của họ và đọc sách báo mới cũng cảm nghiệm nhu cầu đổi mới xã hội Việt Nam. Phan Bội Châu cùng anh em Duy Tân Hội trong Việt Nam Quang Phục Hội chủ trương Đông Du giúp nước. Lương Văn Can và Nguyễn Quyến hướng dẫn Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.. Lớp trẻ có học càng mau lẹ tìm Tự do, Bình đẳng, Dân chủ, Nhân đạo. Tự Lực Văn Đoàn với những nhà thơ nhà văn trẻ, Tây học, đã đấu tranh mãnh liệt bằng nhiều cách, nhất là “tiểu thuyết luận đề” , để nhân dân Việt Nam “theo mới, hoàn toàn theo mơí không chút do dự” [18] …
Họ có công gây ý thức  văn hóa Dân Tộc :
“Một đổi mới quan trọng nữa là sự ý thức mạnh mẽ về quốc gia, về dân tộc trong quan niệm làm văn học. Xưa lịch triều, nho gia coi Hán học là quốc học, Hán tự là “chữ ta”, văn chương Trung Hoa là văn chương mình. Cũng vì vậy nên các cụ đã phần nào chểnh mảng với việc sáng tác quốc văn. Bước sang hiện đại, mất nước, rồi bừng tỉnh trước thế giới năm châu, ý thức quốc gia về chính trị cũng đưa người Việt Nam đến ý thức quốc gia về văn học. Người ta công kích tổ tiên đã đi học mướn viết nhờ và lo xây dựng lấy một quốc học chân chính. Vì vạy mà ngay từ đầu, cả các nhà nho cũng cương quýết dứt bỏ chữ Hán, triệt để hoan nghênh chữ quốc ngữ, dùng quốc ngữ để viết văn. Cũng nhờ vậy mà sau tuy bị Pháp đô hộ, chuyên dạy cho học thuật Pháp, chữ Pháp, người ta không đi đến lập lại cái lầm xưa, lấy chữ của kẻ thống trị làm chữ của mình, mà vẫn lo nuôi dưỡng ngành quốc văn, chuẩn bị cho nó một chỗ ngồi trong một ngày mai độc lập. . .” [19] 
Nhờ các khoa học vật lý và nhân văn, tâm nhìn của người Việt Nam không còn bị đóng khung trong sách Nho và Trung Hoa vĩ đại, mà bắt đầu nhìn ra thế giới và vũ trụ.
2.3. Phương Pháp Đào Tạo
Có Những nhà Nho được ca tụng tầm cỡ bác học. Nhưng nhìn kỹ, trải ngàn năm nho học, chúng ta chỉ có được năm ba người kịêt xuất như thế. Nhận định sâu hơn, phải thấy rằng các vị đó dù sáng tác một khối lượng tương đối lớn, nhưng không đa diện và thiếu độc đáo. Lãnh vực xuất sắc là sử địa, lễ nhạc tiền nhân. Thật khó tìm được tác phẩm lý luận phê bình hoặc nghiên cứu khoa học.
Trong giao lưu văn hóa Âu Mỹ Việt Nam, thế giới văn nghệ và khoa học vừa đông, vừa đa tài hoặc biệt tài, khiến kinh ngạc cả những nước tiên tiến.
Thành quả đó, nhờ phương pháp đào tạo Âu Mỹ vừa cởi mở, vừa thúc đẩy khai phá. Thế hệ thầy không sợ, mà còn mong trò hơn mình, sung sướng đón nhận từng ý kiến bất đồng của trò, để cùng xem xét lại.
Ngay từ thời manh nha văn học quốc ngữ tại Nam Kỳ, Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của đã được người Pháp và người Anh ca tụng.
Thí dụ J.Bouchot viết về Petrus Trương Vĩnh Ký:
“Ông (Petrus Ký) đọc và nói rành được 15 sinh ngữ và cổ ngữ Đông Tây phương, trong số đó ông viết được 11 thứ”.
J.Thompson, nhà du lịch Anh còn nhận xét kỹ hơn nữa:
“Petrus Ký là giáo dân Nam Kỳ và giáo sư trường thông ngôn Sài Gòn. Ông là một ngoại lệ đặc biệt trong đám dân bản xứ... Ông theo học trường trung học công giáo Pê Năng, và tôi không bao giờ quên sự kinh ngạc của tôi khi được giới thiệu với ông. Petrus Ký ngỏ lời bằng một thứ tiếng Anh rất khá, với giọng pha một chút Pháp. Tiếng Pháp ông cũng nói được, mà nói không kém thuần tuý và tao nhã . Tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Ý đối với ông cũng quen thuộc như những tiếng nói Đông Phương. Một hôm, tôi đến thăm thấy ông đang soạn tập ‘Phân tích đối chiếu những sinh ngữ trên thế giới’.Cuốn sách ông đã để công nghiên cứu từ mười năm. Ông có bên tay tất cả một kho sách hiếm và quí mà ông đã thu thập được, phần ỏ Âu châu, phần ở Á châu. Vào buổi tối, một ông Cố Đạo đến góp chuyện với chúng tôi, và lúc tôi ra về, để lại cho hai ông tranh luận bằng tiếng La-tinh về một vấn đề thần học”. [20]
Là nhà chính trị, Trương Vĩnh Ký còn là nhà văn. Ông Long Điềm tính ra Trương Vĩnh Ký viết từ năm 26 tuổi (1862) tới ngày từ trần (1898) được 118 sách! [21]
Ngày nay nhìn lại, chúng ta thấy chỉ sau một phần tư thế kỷ “cách tân văn hóa”, nhiều người Việt Nam đã tốt nghiệp, trở thành giáo sư trong nước hoặc trong những trường đại học, cao đẳng nói tiếng Anh Pháp Tây Ban Nha trên thế giới.
Thế mà những tiến bộ ấy và bản chất thông minh của chúng ta vẫn chưa đủ chuẩn bị cho dân tộc chúng ta tiến vào kỷ nguyên văn hóa điện tử. Tiếng Pháp và nhất là chữ quốc ngữ là phương tiện tốt; nhưng chính sách cai trị của Pháp không tốt. Thực chất nó nhằm khai thác dân tộc chúng ta. Muốn thế, như bất cứ “lực lượng khai thác” nào, nó dùng mọi cách tuyên truyền cho chúng ta thấy mình quá hèn yếu trong khi  chúng  quá uy hùng và tiên tiến. Công giáo Việt Nam, tuy mang bản chất bình đẳng, huynh đệ và tự do trong ThánhThần, nhưng hội nhập vào môi trường Nho Phật và nông thôn Việt Nam, nên lo vun trồng thuận thảo và khiêm tốn hơn nghĩ tới đấu tranh công bình, bác ái. Vì thế, chính Công giáo trong giai đoạn này cũng chưa giúp được nhiều, cũng chẳng làm chứng được bao nhiêu.
2.4. Phương pháp khai thác
Sẽ thật là thiếu sót nếu chúng ta không nhìn thấy điều tai hại này cho người Việt Nam trong thời “tiếp biến văn hóa”. Đó là phương pháp khai thác thuộc địa của người Pháp.:” Chia mà Trị”. Họ tạo chia rẽ và phân hóa theo địa lý và lịch sử, theo tôn giáo và nghề nghiệp…
Hậu quả là đại đa số nhân dân VN. bị bóc lột đau đớn mà không sao đoàn kết được để vùng lên tự vệ.
“Vốn đầu tư của tư bản Pháp vào Việt Nam từ 1924 đến 1939 gấp hơn 6 lần từ 1898 đến 1918. Diện tích đồn điền cao su từ 17.000 héc ta năm 1917 tăng lên gần 100.000 hécta năm 1929. Giấy phép làm mỏ do chính quyền thực dân cấp năm 1914 là 257 chiếc, năm 1930 là 17.685 chiếc.
Để bảo đảm thu lợi nhuận thuộc địa tối đa, chính quyền thực dân Pháp thực hành thủ đoạn độc quyền kinh tế, độc quyền kinh doanh một số ngành công nghiệp nặng, độc quyền nắm phương tiện giao thông vận tải, độc quyền khai thác những mỏ có trữ lượng lớn, độc quyền chiếm đất lập đồn điền, độc quyền xuất nhập khẩu, độc quyền muối, thuốc phiện, rượu, độc quyền ngân hàng, độc quyền bán buôn“ [22] Cứ 1000 làng thì có đến 1500 đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Hằng năm người ta cũng đã tọng từ 23 đến 24 triệu lít  rượu cho 12 triệu người bản xứ. [23]
[1]  Nguyễn văn Tố. Tạp chí Indochine,số 41 ngày 12.6.1941
[2] Võ Long Tê “Lịch sử văn học công giáo Việt Nam” I.tr.227-228
[3] Năm 1517
[4] 1856-1860
[5] Nga sẽ đụng Nhật Bản
[6] Trừ Nhật Bản, vì Minh Trị thiên hoàng kịp thời canh tân
[7] Không chỉ “nhạt nhẽo”, Minh Mạng đã công khai muốn bãi nhiệm những công thần của Gia Long, dù là Pháp hay Việt. Minh Mạng đã lệnh cầm chân các thừa sai ngoai quốc bằng lệnh tập trung để “dịch sách”, lệnh trục xuất …
[8] Nguyễn Hiến Lê, sđd, tr. 100-102
[9] Mọi người là anh em, con một Cha, Thiên Chúa.
[10] Sđd, tr. 85-86
[11] Văn thư 4.3.1859, Bùi Thân Phượng trích trong “Vài vấn đề về bối cảnh lịch sử dẫn đến việc ký kết Hiệp ước Nhâm Tuất 1862” trong “Một số vấn đề lịch sử Đạo Thiên Chúa trong lịch sử Dân Tộc Việt Nam”, Viện KHXH và BTG, Tp.HCM, 1988
[12] Phạm thế Ngũ “Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên“ q.III, ch.III. Quốc học tùng thư 1965
[13] Trước hết, các giáo sĩ dùng để dạy tiếng Việt cho những giáo sĩ mới tới. Thí dụ gs. Fr.de Pina dạy gs. Alex. De Rhodes.
[14] “Giáo Hội Công Giáo ở VN” ph.3 ch.12. do Một giáo sư sử học.
[15] Đào Duy Anh “Việt Nam Văn Học Sử” thiên thứ Tư, IX ngôn ngữ
[16] Năm 1868, Petrus Trương Vĩnh Ký là chủ bút
[17] Nhà in Tân Định năm 1863
[18] Một trong “Mười Điều Tâm Niệm” của Hoàng Đạo
[19] Phạm thế Ngũ “VN.văn học sử giản ước tân biên”, q.2, thiên 2.
[20] Mười năm du lịch ở Trung quốc và Đông Dương
[21] “Những sách của cụ TV.Ký” Tri Tân số 44 ngày 28.1.1911
[22] Hồ Chí Minh “bản án chế độ thực dân Pháp” Hà Nội 1980,tr.98
[23] Lịch sử Đảng Cộng Sản VN. Sơ thảo. Hà Nội 1984,ch.1 tr.28
Nguyễn Thế Thoại

Theo http://www.vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...