Văn hóa Việt Nam 3
9.
Giao Lưu
Văn Hóa VIỆT - ẤN
Người ta
gọi lề thói hiện hành là văn hóa, và gọi những trạng thái đã qua là man rợ.
Phong hóa hiện tại sẽ bị gọi là man rợ khi chúng sẽ là những phong hóa đã qua. [1]
[31] Di chỉ Văn hóa Ốc Eo
Vào những
năm ‘40 của thế kỷ 20, M. Malleret đã dùng phi cơ để nhìn sâu mãi xuống những
luồng nước vùng Long Xuyên. Sau đó, từ từ người ta khai quật được nhiều di chỉ.
Qua Ốc Eo, Ba Thê thuộc An Giang, người ta tưởng đã đủ với Văn hóa Trăm Phố
chìm lặng ở bìa rừng U Minh. Vậy mà những di tích dẫn người ta tìm mãi qua Long
An, Đồng Tháp, lên tận thượng lưu sông Đồng Nai.
Thực ra,
những di chỉ loại này tỏa ra cả vùng Đông Nam Á, nhưng người ta cứ gọi là Văn
hóa Ốc Eo. Văn hóa này còn gây kinh ngạc thích thú vì những phế tích của đền
đài hoành tráng, của những ngôi mộ kim tự tháp đổ nát. “Bên mình những người quá cố là hàng
ngàn, hàng vạn đồ trang sức, hoa tai, nhẫn, ấn triện bằng đá quí, bằng vàng bạc
khắc chạm tinh vi mang đậm nét phong cách Tây Phương Thiên Trúc.
Từ những
đổ nát hoang tàn hôm nay, khảo cổ học đang dõi tìm về thời vàng son của một
quốc gia thịnh vượng, kỷ cương, đã tiến ra biển Đông, vượt vịnh Bengal, tới La
Mã cổ kính tồn tại từ buổi đầu công nguyên đến thế kỷ thứ VII. Phải chăng đây
là dấu tích của quốc gia Phù Nam như sử sách đã ghi?
Chúng ta
chưa hết ngạc nhiên bởi sự phát hiện những công trình kiến trúc đồ sộ, độc đáo
trên vùng sình lầy nơi đây, thì lại càng khó hiểu hơn bởi sự tàn lụi của nền
văn minh này…” [2]
Chúng ta
hẳn biết được rằng trên địa bàn rộng lớn như thế, người văn hóa Ốc Eo không thể
đồng nhất và không dễ gì có được những vùng “Trăm Phố” thứ hai, thứ ba. Đây là
vài chi tiết của cái nhìn khảo cổ:
1. Nông
nghiệp
Nói
chung, dân văn hóa Ốc Eo làm nghề nông. Họ trồng lúa nước hoặc lúa rẫy và nhiều
cây loại ngũ cốc, loại cây ăn trái. Do đó, họ phải biết làm thủy lợi, dầu chỉ
mới là tưới tiêu theo thủ công và đào kênh mương.
Chăn nuôi
chỉ như phần phụ vào nông nghiệp.
2. Ngư
nghiệp
Ngư
nghiệp lại không phải phụ như thế. Người miền văn hóa Ốc Eo sống với nhiều sông
rạch tự nhiên và kênh đào.
Đồng
ruộng của họ vẫn phần lớn ngập nước. Chính vì thế mà nghề đánh bắt cá nước ngọt
không thua ngư nghiệp biển.
3. Thủ
công - Mỹ nghệ
Thủ công
và Mỹ nghệ của họ, không ai phủ nhận được. Khảo cổ đã phát hiện bao nhiêu đồ
gốm xuất xưởng bằng bàn xoay. Bao nhiêu vòng tay, khuyên tai, nhẫn bằng đá quí
và thủy tinh. Hiển nhiên bằng đất nung nữa. Đồ đá không thiếu, nhưng dụng cụ
bằng sắt nhiều hơn.
Có thể vì
giao thương với nhiều vùng trên thế giới, người văn hóa Ốc Eo đã biết dùng tiền
đúc. “Có 12 đồng tiền và
những mảnh cắt của tiền đã được phát hiện ở các di tích.” [3]
Những
dụng cụ trên đồng thời cũng cho thấy nghề điêu khắc của họ đã tới trình độ khá
cao. Họ thực hiện với nhiều kích cỡ khác nhau và trên nguyên liệu đa dạng: đất
nung, đá quí, vàng bạc và thủy tinh.
4. Tín
ngưỡng
Khảo cổ
Trăm Phố cũng phát hiện dấu ấn của lớp người sống văn hóa giao lưu trong một
thời kỳ dài: cùng với tôn giáo “phồn thực” và bái vật như các nước trong vùng
Đông Nam Á này, họ còn chấp nhận cả một phần Ấn giáo và Phật giáo. Hiển nhiên
những biểu tượng thờ Linga, thần Siva và Visnu tới đây trước Phật giáo Bắc và
Nam tông. Phật giáo không thể tới sớm hơn 3 thế kỷ trước Công Nguyên.
Theo các
tài liệu của thư tịch cổ Trung Quốc, giáo sư Trần Quốc Vượng nhận rằng người
văn hóa Ốc Eo đã có sinh hoạt văn nghệ tôn giáo như ca, múa, nhạc. Hơn thế, họ
có cả chữ viết nữa. [4]
[32] Giao lưu văn hóa CHĂM
Không như
“người Ốc Eo”, người Chăm vẫn còn và là một trong các dân tộc làm nên người
Việt Nam. Chúng ta có thể nhìn lại nét hưng vong của dân tộc Chăm, để từ đó
nhận định về văn hóa Chăm.
1. Người
Chăm
Người
Chăm hoặc Chàm ngày nay đã thành “đồng bào” Việt Nam, một dân tộc thành tố của
nhân dân Việt Nam. Dầu lạc quan cũng phải nhận rằng các chính quyền Việt Nam
chỉ mới trong ba thế kỷ nay dám nhận dân Chăm là “thần dân” của mình. Muốn gọi
họ là “đồng bào”, thì phải nói rằng “cái bọc Âu Cơ” ở đây chính là chủng Mã Lai
(hoặc Malayo-Polynésien). Từ gần ba ngàn năm trước Công Nguyên, khi tổ tiên Lạc
Việt tới vùng Vĩnh Phú, thì một lớp người Malayo-Polynésien cũng tới vùng ven
biển chúng ta ngày nay. Khi quân Bắc bành trướng tràn ngập giang sơn của Bà
Trưng thì cũng xâm lăng họ. Nhưng cuối thế kỷ thứ hai [5],
thoát ách nô lệ, họ lập hai tiểu quốc Lâm Ấp và Chiêm Thành (Panduranga). Mãi
tới thế kỷ thứ VI, hai tiểu quốc mới thống nhất thành nước Champa.
Sau 30
năm chúa Nguyễn được yên ổn đối với chúa Trịnh phương Bắc Việt Nam, nên chúa
Phúc Chu hướng dẫn Nam-tiến. Năm Đinh Sửu 1667, Ông gồm cả Phan Rang, Phan Rí
làm phủ Bình Thuận, coi như không còn nước Champa. Năm Mậu Tý 1708 chúa Nguyễn
lại dùng Mạc Cửu làm tổng binh trấn Hà Tiên, giang sơn Việt Nam hình thành
giống ngày nay, và người Chăm thành phụ thuộc trên chính quê hương của họ. Một
dân tộc đấu tranh ngoan cường với quân Tàu, mà khi đối đầu với người Việt Nam,
lại co cụm lại và hao mòn dần, nên chỉ còn lại là một trong 50 dân tộc ít người
ở bìa rừng Ninh Thuận, Châu Đốc và Tây Ninh. Dân số không vượt trăm ngàn.
Có thể
nói một trong những nguyên nhân suy vong của họ là do nền văn hóa ít thích ứng
môi trường địa lý và xã hội của họ.
2. Văn
hóa Chăm
Văn hóa
Chăm có những nét độc đáo, rất nên nghiên cứu. Đây chỉ là vài nét chính:
2.1. Kiến trúc
Nói đến
văn hóa Chăm, ai cũng nghĩ ngay tới Tháp Chàm, như một kiến trúc đặc sắc, lác
đác nổi
bật trên
chân trời miền Trung Việt Nam, từ Quảng Bình tới Ninh Thuận, và có hướng lên cả
Tây Nguyên. Đúng ra, người Chăm ưa xây dựng cả một quần thể: Thành quách, Đền
chùa và Tháp. Tiêu biểu nhất là Tháp, mà người Chăm gọi là Kalăng. Họ cũng ưa
kiến trúc ba tháp hơn là một tháp sừng sững mà cô đơn. Xét chung, các tháp đều
hướng Đông và nhiều tầng tứ giác. Mỗi tầng đều có những tháp nhỏ nhọn vút lên,
nên đất tầng trên hẹp vào một ít. Trên cùng là chóp tròn hoặc phiến đá vuông.
Không một tầng, một góc tháp nào suông đuột, tất cả đều đầy hình nhân, động và
tĩnh vật, hoa văn giàu nét điêu khắc mỹ thuật, biểu lộ tâm linh. Nghệ thuật
cũng như nội dung tâm linh này phản ánh giao lưu văn hóa Ấn Độ và Đông Nam Á
châu.
2.2. Tôn giáo
Tôn giáo
người Chăm cũng biểu hiện tiếp biến văn hóa. Với chủ thần Brahma, thần Siva và
Visnu có thể người Chăm theo tôn giáo cổ truyền hội nhập Ấn giáo. Đa số đó được
gọi là người Chăm Ahier (hoặc Kafia). Còn một thiểu số theo tôn giáo cổ truyền
hội nhập Hồi giáo. Đó là người Chăm Awal (hoặc Bani). Nếu thờ Linga (sinh thực
khí) vừa do Ấn giáo (thần Siva), vừa là di ảnh của tôn giáo phồn thực, thì việc
thờ quốc mẫu Po-Nagar và thờ cúng tổ tiên phải là do tôn giáo cổ truyền. Những
niềm tin tôn giáo đó còn biểu lộ dồi dào qua mỹ thuật.
2.3. Mỹ thuật
Mỹ thuật
Champa khởi sắc nhất được lưu lại trong phạm vi tôn giáo: các kiểu thức và
trang trí đền tháp, các ngày lễ hội. Có thể một số người không lưu ý thấy những
hình nhân đang đấu tranh quyết liệt với dã thú. Nhưng ai cũng thấy những hình
người đang nhảy múa, nhất là hình vũ nữ với bộ ngực no tròn và các bộ phận toàn
thân như cũng uốn cong tròn. Thêm vào quanh đó là những Linga, những hoa sen.
Philippe
Stern có một nhận xét về nghệ thuật Chăm thường được giới chuyên môn tán
thưởng: “Nghệ thuật Chăm cổ
trong hình thức đẹp nhất, có thể coi như phục hưng nghệ thuật Ấn Độ ”.
Tuy thế,
người ta vẫn có thể đề vào những tác phẩm nghệ thuật này đôi ca dao Việt Nam:
Công cha
như NÚI Thái sơn
Nghĩa mẹ
như NƯỚC TRONG NGUỒN chảy ra.
Lâm Ấp và
Chiêm Thành cũng như Chân Lạp cổ thời chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ; nhưng cơ
bản văn hóa Đông Nam Á vẫn còn, mà mẫu hệ chỉ là một nét tổng quát.
2.4. Ngôn ngữ và văn chương
Ngôn ngữ
Chàm vẫn còn giống ngôn ngữ các tộc Mã-Lai cổ với tỷ lệ rất cao. Hơn nữa, những
thể văn cũng còn dễ nhận ra bà con. Người Chàm có ca dao, tục ngữ, truyện cổ,
thần thoại, thi phú… Tác giả “Việt
sử xứ Đàng Trong” [6] cho rằng người Chăm “ban đầu, thi phú ghi bằng chữ Phạn ”. Còn sau? – Bằng
thứ chữ Khâr Tapuk.
Nghiên
cứu về “Đồng bào sắc tộc
thiểu số Việt Nam”, Nguyễn Trắc Dĩ nhận thấy: Người Chăm “về phương diện ngôn ngữ có sự hỗn hợp
giữa các từ vựng Sanscrit – Việt và Môn – Khmer. Ngôn ngữ Chàm giống với thể
dân Atjet vùng Bắc Sumatra.” [7]
Bình
Nguyên Lộc đã kể cả hai dân tộc đó vào chủng “Mã-Lai đợt II”. Chúng ta gọi “mẫu
số chung” đó là Đông Nam Á.
2.5. Nghệ thuật âm thanh
Người
Chăm diễn tả nỗi lòng bằng âm thanh nhạc khí và ngôn ngữ cử điệu, tức là múa,
hơn bằng lời ca.
Họ có đàn
độc huyền Rabap Katoh, đàn hai dây Kuni Kara, trống bịt hai đầu Ganan, trống
bưng một mặt Baranon và trống lớn Hagar, ống sáo, tù và, kèn Sarinai bảy lỗ…
Như vậy đủ thấy khung nhạc của họ cũng rất phong phú.
Có hai
điểm không thể bỏ qua khi nhắc tới âm nhạc Champa : Vũ và than.
Vũ đi
liền với nhạc. Trong sinh hoạt, trong nghi lễ thần thánh hoặc hội hè, vũ luôn
luôn đi liền nhạc giống như người Phi Châu, người châu Mỹ La-tinh, không thể
đứng hoặc ngồi yên mà nghe nhạc. Nhạc trỗi lên là thân hình uốn éo. Các vũ công
có những điệu vũ rất điêu luyện với chân, với tay và cả thân mình. Họ khai thác
tới từng cách nhìn, từng rung động của một lóng tay và dáng diệu của cánh tay,
bàn tay và ngón tay. Nghệ thuật diễn cảm rất tinh vi.
Tinh vi
nhất về âm điệu than oán, khắc khoải. “Việt
sử tiêu án”
không tin rằng mình lộng ngữ khi viết: “Âm
điệu Chiêm Thành, tiếng nghe ai oán, ai nghe cũng nhỏ lệ ”.
Người
Chăm không thành thạo nghề biển hoặc khai thác rừng, nhưng nghe nhạc của họ,
giáo sư Lê Văn Chưởng nghĩ rằng: “Vũ
điệu và âm nhạc Chăm vừa phản ánh cái bao la của biển cả, vừa hàm chứa cái bí
ẩn, cái hắt hiu của núi rừng miền Trung khi đêm xuống ” [8].
Chúng ta
đều có thể đồng ý với nhạc sư Trần Văn Khê khi nói về điệu Nam-ai:
“Điệu Nam là phản ánh của lối nhạc Chăm
ai-oán, và qua nhạc Chăm, Việt Nam chịu ảnh hưởng nhạc Ấn Độ ” [9].
Hẳn không
sai lầm nếu chúng ta giải thích một trong những nguyên nhân phát sinh chất đậm
đà ai oán đó bằng lịch sử xã hội Ấn Độ và Chiêm Thành: Nỗi oán buồn kiếp sống
nghèo khổ, nỗi hận vong quốc.
Tóm lại,
qua người Ấn, nhất là qua người Chăm, chúng ta có giao lưu văn hóa Ấn Việt và
Chăm Việt, ở miền Trung và Nam Việt Nam đậm đặc hơn ở miền Bắc.
Chúng ta
còn tiếp nhận nhiều yếu tố văn hóa Ấn qua Phật giáo, nhưng ảnh hưởng này ào ạt
hơn trong thời Lý Trần, chúng ta sẽ kể sau.
[1] Anatole France “Sur la pierre blanche”
[2] Trần Độ, sđd., tr. 36-37
[3] “Văn hóa Óc Eo”, nxb. KHXH, 1995, tr.
337
[4] “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, tr. 124-125
[5] khoảng năm 192
[6] Phan Khoang, tr. 41
[7] Sđd. 1972. Tr. 89
[8] “Cơ sở Văn hóa Việt Nam”. 1999. Tr.74
[9] Lê Văn Chưởng dẫn Bách
Khoa, số 25-26. 1958
10.
Giao Lưu
Văn Hóa VIỆT - TRUNG
“Năm 210
tcn. Tần Thuỷ Hoàng chết, con là Tần Nhị Thế lên thay, đế chế Tần suy yếu
dần […] Nhâm Ngao và Triệu Đà chiếm Nam Hải, xây dựng một vương quốc riêng,
chống lại nhà Tần […] Năm 206 tcn. Nhà Tần đổ, Triệu Đà liền tiến quân đến đánh
chiếm các quận Quế Lâm, Tượng Quận, thành lập nước Nam Việt, tự xưng là Việt Vũ
Vương, đóng đô ở Phiên Ngung …’ [1]
[33] Triệu Đà, ông là ai?
Là một
trong những tướng lãnh của Tần, thế mà chỉ bốn năm sau khi lợi dụng Tần suy
yếu, Triệu Đà làm phản, mà đã chinh phục và lập được một đất nước riêng. Dân
nước đó thực ra thuộc chủng tộc nào? Đồng chủng với Triệu Đà hay với Tần Nhị
Thế, hoặc khác với cả hai?
1. Tại
sao đòi lý lịch Triệu Đà?
Triệu Đà
là ai? Người dân tộc nào? Tách rời khỏi Tần, nhưng nước Nam Hải và nước Nam
Việt của họ Triệu có phải là Dân Nước Việt Nam chúng ta? Nghi vấn sử này liên
quan đến “giao lưu văn hóa”. Nếu ông là người Trung Quốc và nước Nam Việt cũng
là Việt Nam ngày nay, thì với ông, Việt Nam đã bắt đầu chính thức giao lưu văn
hóa với Trung Quốc, bởi nhà Triệu làm vua tới 5 đời ! Nhưng nếu ông không phải
là người Trung Quốc, như Hán, Tần, Tống… hoặc nước Nam Việt của Triệu chẳng
phải Việt Nam ngày nay…thì triều đại ông chẳng tạo giao lưu văn hóa mới.
2. Những
chi tiết quan trọng không đồng nhất
Khi nói
về “giao lưu văn hóa cưỡng
bức với văn hóa Hán (thời Bắc thuộc), giáo sư Lê Văn Chưởng [2] viết:
“Đến năm 179 trước Công Nguyên, Triệu
Đà, một quan viên của nhà Tần, Trung Quốc, xâm chiếm Âu Lạc…”
Giáo sư
Trần Ngọc Thêm [3] cũng viết:
“Ý thức đối kháng bất khuất và thường
trực đối với mối nguy cơ xâm lăng từ phía phong kiến phương Bắc. Sự ra đời của
quốc hiệu “Nam Việt” từ trước Công Nguyên (thời Triệu Đà), trong đó yếu tố chỉ
phương hướng ‘nam’ lần đầu tiên xuất hiện… đánh dấu một
bước ngoặt trong nhận thức của nhân dân và tầng lớp lãnh đạo về mối nguy cơ xâm
lăng thường trực từ phía phong kiến phương Bắc…”
Gần như
các nhà sử ngày nay đều nhìn chuyện Triệu Đà thôn tính Âu Lạc.
Nhưng có
phải với tư cách “quan chức nhà Tần“?
Còn
chuyện về “ý thức đấu tranh” của giáo sư văn hóa Trần Ngọc Thêm thì thật không
sao chấp nhận được ý kiến của giáo sư sử học Nguyễn Cảnh Minh:
“Nước
Nam Việt của Triệu Đà thực chất là nhà nước cát cứ của một tập đoàn tướng lĩnh,
quan lại Hán tộc, không phải là nhà nước của người Việt. Nước Nam Việt của nhà
Triệu gốm có 3 quận : Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận, nằm ở phía bắc giáp với
nước Âu Lạc “ [4] .
Chưa hẳn
thế.
Giáo sư
Minh lại mơ hồ khi nói chuyện sụp đổ Văn Lang bằng truyện Trọng Thuỷ dụ dỗ Mỵ
Châu và “dùng tiền để mua chụộc các Lạc Hầu Lạc Tướng “ [5]
Lời nói
“không rõ” của hai tác giả Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng [6] thích hợp hơn: “Triệu Đà làm chúa đất Nam Hải muốn
cướp nước Âu Lạc, đã bao lần đem quân sang đánh…”.
Chúng ta
sẽ thấy rằng Âu Lạc, và Nam Việt thời Triệu Đà cũng nằm cả trong vùng Nam
Ngũ Lĩnh và Động Đình Hồ, tức Hoa Nam ngày nay, cũng là cái nôi của Bách Việt.
Nếu Triệu
Đà là người của hoàng đế Trung Quốc, hoặc một ông vua nào đó, thì quân mà Triệu
Đà dùng để tấn công Âu Lạc là quân của vua đó, chiến thắng của Triệu Đà chỉ mở
rộng biên cương và ngai vàng vua đó. Họ Triệu không thể tự dựng lên một vương
quốc mới, tự đặt mình làm vua và truyền ngôi cho con cháu. Mặt khác, nếu Triệu
Đà là người Hán tộc hoặc của hoàng đế nào, sao viết cho Hán Cao Tổ, đà tự xưng
“Nam Di đại trưởng lão”?
Tự xưng
như thế rõ ràng là tách biệt mình với Bắc phương, Trung Quốc, và tuyên bố mình
là người phương Nam. Đại trưởng lão cũng hàm ý còn
những trưởng lão khác như
đàn em của mình. Phải chăng đó là các tộc trưởng của các tộc thuộc Bách Việt?
So sánh
chế độ cai trị của Triệu Đà sau khi chiếm Âu Lạc với chế độ của Mã Viện sau khi
chiếm Nam Việt… sẽ phải tìm nguyên nhân khác biệt giữa hai chủng hoặc đồng
chủng. Chính vì thế, giao lưu văn hóa khi thống nhất Nam Hải với Âu Lạc cũng
không khó khăn hơn giao lưu văn hóa giữa Âu Việt và Lạc Việt, mà chúng ta đã
nói trên.
Như vậy,
giao lưu văn hóa Việt Trung chỉ chính thức từ thời Bắc thuộc, mà Bắc thuộc chỉ
đúng từ thời nhà Hán xâm chiếm Nam Việt, năm 111 t.CN.
[34]
Giao lưu văn hóa Việt Hán
Trước khi
nhìn lại giao lưu văn hóa với Bắc phương qua cả ngàn năm lệ thuộc, chúng ta
nhìn sơ lại mấy nét chính yếu như văn hóa truyền thống dân Việt.
Từ khi
hình thành các dân tộc Việt định cư định canh khắp vùng mà nay là Hoa Nam và
Đông Nam Á, người ta đều chủ yếu làm nghề nông và tạo thành một cái nôi phát
triển nghề lúa nước sớm nhất của nhân loại.
Với nghề
này, tuy vẫn “chồng cày, vợ
cấy, con trâu đi bừa”,
nhưng đàn ông chủ yếu ở ruộng rẫy, công việc sinh dưỡng con cái và bổ dưỡng cho
người lao động thuộc sứ mạng nữ giới; do đó, người ta vẫn theo chế độ mẫu hệ.
Đã thế,
người người sống gia đình tương đối tự lập, trong đại gia đình, họ hàng, thân
tộc kính trên nhường dưới và trong tổ chức xã hội “tình làng nghĩa xóm”.
Tôn giáo
cũng có những chiều hướng đặc trưng “thờ kính ông bà” và những thần tượng “cội
nguồn”.
Trong
cuộc sống tương nhượng để đồng thuận này, chữ Tình là quan trọng hơn hết.
Đó chính
là Văn hóa Văn-Lang, Âu-Lạc, văn hóa Truyền thống đã từ từ định hình qua mấy
ngàn năm trước khi người phương Bắc tràn xuống áp đảo và áp đặt văn hóa Hán
tộc.
Chính vì
thế, giao lưu văn hóa với người Hán, trước hết là áp đặt văn hóa, áp đặt trật
tự tổ chức xã hội, gia đình, nghề nghiệp, áp đặt những phong tục tập quán trong
sinh hoạt và áp đặt cả tư tưởng qua nội dung và phương pháp giáo dục. Do đó mà
có những cuộc khởi nghĩa như những lần bật mở một nồi nước sôi bị đậy vung.
Cung cách này kéo dài suốt từ thế kỷ I trước Công Nguyên tới nửa đầu thế kỷ thứ
mười.
Giáo sư
Đào Duy Anh có giải thích hơi khác về hơn một thế kỷ đầu Bắc phương cai trị yên
tịnh:
“Năm 111 trước kỷ nguyên, Lộ Bác Đức là
tướng nhà Hán đánh đuổi Triệu Dương Vương là vua thứ năm nhà Triệu, nước Việt
Nam thành nội thuộc Trung-Hoa đổi tên là Giao-chỉ-bộ, chia làm chín quận.
Ở đời
Thục và đời Triệu nước Văn Lang, tuy bị sáp nhập với nước láng giềng, nhưng chỉ
thay ngôi bá chủ, chứ các lạc hầu lạc tướng vẫn giữ quyền thế tập như xưa. Từ
Lộ Bác Đức lấy nước Nam Việt thì địa phận nước Văn Lang bị chia làm ba quận:
Giao chỉ, Cửu chân, và Nhật nam, mỗi quận có quan thái thú cai trị, nhưng vẫn
không can thiệp đến nội tình các ấp, mà địa vị và quyền bính của các lạc hầu
lạc tướng vẫn không thay đổi, duy phải ở dưới quyền quan thái thú và nộp thuế
cống mà thôi.
Gần đây
người ta đào được mộ xưa ở Thanh Hóa thấy những đồ dùng thuộc về trạng thái quá
độ ấy, có thể tiêu biểu cho ba giai đoạn văn hóa đồng thời tồn tại bấy giờ:
những đồ đá trau của người thổ trước xưa thuộc về tân thạch khí thời đại (âge
néolithique), những đồ đồng về thời Hán từ Trung Quốc đem vào, cùng những đồ
đồng do người bản xứ bắt chước đồ Trung Quốc mà làm ra. Trong các đồ về hạng
thứ ba, có những cái trống đồng là đồ rất phổ thông ở khắp miền Đông Á, nhưng
có lẽ gốc tự miền Bắc Việt mà ra. Trên những trống xưa nhất, thấy khắc những
người lạ lùng đi thuyền mang cung và đeo lông chim quanh mình, những cảnh tượng
ấy khiến ta phải nghĩ đến một dân tộc hàng hải khi ra đi chinh phục viễn
phương, mặc thứ y phục lông chim để mong cũng được tiện gió bay xa như các loại
hậu điểu [7]. Song những phong tục xưa ấy sẽ vì
tiếp xúc với văn hóa Trung Quốc mà biến đổi. Người Tàu, hoặc thường dân, hoặc
binh sĩ, hoặc tù đồ bị đày, hỗn chủng với người bản xứ mỗi ngày mỗi nhiều,
khiến ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc đối với dân bản xứ càng ngày càng thêm đậm.
Lại gặp ở Trung Quốc có loạn Vương Mãng, rất nhiều quan lại trung thành với nhà
Hán đem gia quyến trốn sang các quận ở phương Nam, nhất là quận Giao Chỉ là trị
hạt của quan thái thú Tích Quang. Họ giúp Tích Quang truyền bá văn hóa Trung
Quốc cho người bản xứ, như lập trường Hán học, dạy dân phép cày bừa và các lễ
giáo…” [8].
Những
nhận xét trên không khỏi có nhiều thiếu sót vì, khi tác giả viết, thế giới khảo
cổ và nhân chủng học chỉ thấy một phần nhỏ, sánh với ngày nay. Ngày nay, người
ta nhìn nhận:
- Trống đồng là của các dân Đông Nam Á
này, trong đó có cả người phía Nam Ngũ Lĩnh và Động Đình Hồ, thuộc chủng
Mã-Lai cổ. Trung Quốc du nhập từ chúng ta.
Tại sao
chúng ta dùng trống, trong khi các dân tộc dùng tù và, mõ…? Thần thoại về nguồn
gốc dân tộc – thần Sấm - đã trả lời [9]:
- Những người tàng hình Chim, trên thuyền
Chim, hoặc thuyền bát nhã đó thực là tổ tiên của các dân tộc chúng ta, “con cháu Lạc Hồng”.
Cũng đúng là họ đã theo đường biển xuống phương Nam và được tin rằng khi
trải qua cuộc sống này, họ sẽ đáp thuyền về vĩnh hằng.
- Văn hóa lúa nước thì các dân Bách Việt chúng ta dạy cho người Hán, chứ không phải dân du mục cổ đó dạy.
2. Giao lưu văn hóa Việt - Trung
Phân tích
của Đào Duy Anh đúng hơn không khi ông nói về Giao lưu văn hóa Nam-Việt – Trung
Quốc?
“Buổi đầu các tư tưởng và các điều cải
cách ấy chưa xâm phạm gì đến quyền lợi của các lạc hầu lạc tướng nên họ hoan
nghênh. Nhưng đến khi Tích Quang muốn lựa người bản xứ để đặt một ngạch quan
lại hạ cấp cùng một quân đội thường trú, khiến số người thoát ly phạm vi phong
kiến một ngày một đông, thì tình thế ra chiều khó chịu. Các lạc hầu lạc tướng
thấy quyền thế của họ có cơ nguy, bèn sinh lòng bất bình với phong trào mới,
nhưng trong đời Tích Quang họ vẫn yên lặng, chưa dám hoạt động gì.
Nhân thái
thú Tô Định thay Tích Quang là người bạo ngược, nên người Giao Chỉ lại thêm mối
căm tức mà chỉ mong có cơ hội để nghịch [..…]
… Mã Viện
thắng trận bèn bỏ hẳn chế độ phong kiến cũ mà lập chế độ quận huyện như ở Tàu
(thời ấy là triều Hán). Các lạc hầu, lạc tướng, một phần vì sợ lụy bỏ trốn vào
rừng, một phần bị bãi truất. Còn có bố chính (quan thế tập bực dưới) ở tổng, ở
làng thì có lẽ cũng còn giữ quyền thế tập như ở các miền thượng du Thanh Hóa và
Hòa Bình bây giờ. Bọn này cùng với trú dân Trung Hoa dần dần thành một lớp quí
tộc mới, thay cho lớp quí tộc xưa đã tiêu diệt.
Đem so
sánh lịch sử ta với lịch sử Tàu thì sẽ thấy rằng nước ta từ Mã Viện đã thoát
hẳn chế độ phong kiến xưa, cũng như Trung Quốc từ nhà Tần. Từ rày về sau sự du
nhập văn hóa Trung-hoa không còn trở ngại gì nữa, cho nên đến thế kỷ thứ X, khi
người Việt Nam bắt đầu cuộc chinh phục Nam tiến thì phàm lễ nghi, học thuật,
văn tự, nghệ thuật, tôn giáo cho đến chế độ gia tộc và chính trị, xã hội, đều
là theo văn hóa Trung-hoa…” [10]
Hiển
nhiên tác giả họ Đào đã có cái nhìn thiên lệch ít nhất trong hai khẳng định:
- “Từ
Mã Viện, sự du nhập văn hóa Trung Hoa không còn trở ngại gì nữa.
- Phàm lễ nghi, … nghệ thuật, tôn giáo,
cho đến chế độ gia tộc và chính trị, xã hội, đều là theo văn hóa Trung hoa…”
Thực ra,
chưa bao giờ hết trở ngại trong lãnh vực đó và chưa bao giờ
người Việt Nam, dù ở một tỉnh, một quận, “đều
theo văn hóa Trung hoa ”.
Chúng ta
thường chia thời giao lưu văn hóa này làm hai loại: Đối kháng và Tiếp biến.
3. Đối kháng văn hóa Trung Quốc
Quan lại
Trung-quốc nhất định áp đặt văn hóa Trung-quốc cho các dân tộc bị chiếm, vừa vì
họ cho rằng như thế mới “văn minh”, vừa là phương tiện cai trị và đồng hóa.
Tác giả Đại
Nam Quốc Sử Diễn Ca ghi
lại hành động áp đặt đó thật nhẹ nhàng:
“Tuần Tuyên mới có Tích Quang
dạy dân
lễ nghĩa, theo đường Hoa phong.”
Trái lại,
về phía chúng ta, có thể nói rằng các dân tộc Bách Việt, cho đến nhà Thục và
dân Thục đều nuôi hờn vong quốc đối với đích danh Tần Doanh Chính hoặc chung cả
quân dân Bắc phương xâm lược từ khi chúng tràn xuống phía Nam sông Dương Tử.
Tần không chiếm được Văn Lang vì viễn chinh quá xa và sông núi hiểm trở; nhưng khi
Thục Phán lập Âu Lạc và Triệu Đà làm vua Nam Việt thì Âu Lạc hoặc Nam Việt đều
vừa ghét vừa chống Bắc phương. Mối hận này tăng bội khi nhà Hán chính thức vẽ
lại địa đồ Nam Việt và thống trị cả cựu Bách Việt. Đấy là lý do tại sao Hai Bà
Trưng được thờ như hai vị anh thư tuần trung [11],
không chỉ trong vùng đất nước cựu Âu Lạc, mà lên tận Nhật Nam, Hợp Phố, Nam
Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, cả vùng Nam Hồ Động Đình và dải Ngũ Lĩnh [12].
Chính
việc đối kháng văn hóa – trong đó có chính trị, quân sự, chế độ gia đình… – là
động lực thúc đẩy dân chúng theo cờ những anh hùng liệt nữ chống Trung-quốc xâm
lăng:
Triệu Thị
Trinh năm 246,
Lý Bôn
quật khởi, xưng hoàng đế và hình thành nước Vạn Xuân, lập đô bên bờ sông
Tô-lịch khoảng 544-548,
Triệu
Quang Phục lừng lẫy những năm 548-571,
Mai Thúc
Loan năm 722 đã cùng các bạn phu gánh vải triều cống, rút đòn gánh ra kháng cự,
được nhân dân hưởng ứng và tôn làm Mai Hắc Đế. Vua Đường phải dùng tới 10 vạn
quân mới uy hiếp nổi.
Phùng
Hưng với hai chục năm chiến đấu, năm 791 anh hùng đánh tan 40 ngàn quân Đường
do Cao Chính Bình thống lãnh, lên ngôi và trối nước lại cho con là Phùng An.
Cha con
họ Khúc với gần hai chục năm (906-923) như tạo chí cho Dương Diên Nghệ
(931-937)
và Ngô
Quyền chính là người gặt hái được thành quả của trào lưu văn hóa chống ngoại xâm
đó tại Bạch Đằng vinh thắng năm 938.
Có những
người thấy Sĩ Nhiếp, viên Thái thú Giao Chỉ có nhiệm kỳ vào những năm 187-236,
được tôn làm Sĩ Vương, được lập đền thờ ở Thuận Thành Hà Bắc với tôn danh “Nam Bang Học Tổ ”… mà cho rằng hoạt động văn
hóa của những quan chức Trung Hoa thành công. Thực ra, những huy hoàng dành cho
Nho giáo và Hán học, cũng như dành kính các vị ấy, chỉ đến với họ sau này,
trong thời gian Việt Nam tự chủ với các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn. [13]
Vua quan
Nho giíao cũng như chức sắc Phật giáo lại là những người du nhập và truyền bá
văn hóa Trung-hoa vào Việt Nam đắc lực hơn thế lực ngàn năm xâm lược [14]
Trong
ngàn năm này, người Việt Nam tiếp nhận ảnh hưởng văn hoá Trung-quốc do những
lớp người di dân và tù nhân từ phương Bắc, cũng nhiều hơn do chính quyền. Người
ta nhận thấy những phong tục trong gia đình, trong hiếu hỉ… của Trung Quốc đã
êm đềm pha trộn vào những tục lệ cưới hỏi và tang chế người Việt. Ngay cả Đạo
Hiếu của Việt Nam cũng mang thêm nét Trung-hoa như minh tinh, bài vị v.v.
Hiển
nhiên rằng những pha trộn này khởi đầu du nhập vào các gia đình liên quan nhiều
với giới tăng ni và với giới cai trị, liên quan về chính trị Hán Học và Tống
Nho, hoặc liên quan về học thuật nhân bản theo quan điểm Khổng Lão, liên quan vì
kinh sách Phật học truyền bá bằng chữ Nho… Sau những nhận xét và sàng lọc, mới
từ từ len vào đại chúng Việt Nam. Với đại chúng thì những ngoại nhập này đã hết
còn nhận ra là “sản xuất tại
Trung-quốc” nữa.
Chính nhờ
những bước đi dài ngày và khiêm tốn như thế mà có được giao lưu văn hóa Trung -
Việt và tiếp biến văn hóa chúng ta. Những nét này đã và sẽ tồn tại lâu bền.
Có thể
phải nói rằng điểm đáng tiếc là sự biến đổi những gì liên quan đến chính quyền
trong xã hội Việt Nam. Về cơ bản, người ta còn giữ được tình nghĩa dân tộc;
nhưng về những đường nét hào hùng và trung kiên thì gần như biến mất hoặc méo
mó. Ngay cả đến những thời gian và yếu tố lập quốc, ngay cả đến những chuyện về
chủng tộc, người ta cũng từ từ quan niệm lại, viết lại và đọc lại cho có dáng
dấp huyền thoại hoặc màu sắc Bắc phương. Người ta đồng hóa Bắc phương của Lạc
Việt với Bắc phương của Bách Việt. Trong tầm nhìn đó, Hùng Vương là con cháu
Thần Nông, không phải của lúa nước, mà của “bên Tàu”. Thục Đế và Triệu Đà cũng
được khai lý lịch lại là Tàu. Những bà Trưng, bà Triệu trong chế độ mẫu hệ,
nhận số Trời, trở thành nữ lưu trả thù chồng, nợ nước, bị biếm họa thành Triệu
Ẩu (con mẹ Triệu), đến độ nhà trí thực Việt Nam yêu nước thời Nguyễn còn chân
thành viết cho các em học sinh hình ảnh Bà oai hùng, mà cô đơn, quái dị:
“Vùng vẫy non sông ba thước vú
Xông pha
tên đạn một đầu voi.”
Dầu thế,
nhìn chung thì phần mất mát của chúng ta không thể sánh với phần thủ đắc tốt
đẹp, vì khi du nhập những nét hay của văn minh Trung-quốc, tiền nhân Việt Nam
đã hành xử đúng như những người trưởng thành, trong một dân tộc văn minh: Biết
chọn lọc để du nhập và biết bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc.
[35]
Trong giao lưu văn hóa, bảo vệ bản sắc
Qua lăng
kính văn hóa, phải nói rằng trên đất nước Việt Nam hiện nay, dân tộc Kinh
(Lạc Việt) là
dân tộc có bản lãnh mạnh hơn hết trong năm chục dân tộc chúng ta. Người Chăm
hùng cường với biên cương rộng lớn, nay chỉ còn lại thiểu số với ít nhiều cổ
tục. Ngôn ngữ của hàng chục dân tộc khác đang ngày càng trở nên phụ thuộc và
thiếu thốn, vì không diễn tả được những sinh hoạt và nhu cầu hiện đại… nhường
chỗ cho ngôn ngữ và quốc ngữ Việt Nam thống nhất từ dân tộc Kinh.
Với người
Kinh, người Việt Nam chúng ta thì khác. Từ đối kháng tới tiếp biến. Phần nhỏ bị
biến, phần lớn chúng ta tiếp nhận và biến đổi thành của mình.
Xã hội
chính trị thêm những cơ cấu và phương pháp làm việc mới, tuy không thể hoặc rất
chậm xóa được những cơ cấu bản địa.
Chúng ta
nhắc lại ghi nhận tổng quát của Đào Duy Anh:
“Mã Viện thắng trận bèn bỏ hẳn chế độ
phong kiến cũ mà lập chế độ quận huyện như ở Tàu (thời ấy là triều Hán). Các
lạc hầu, lạc tướng, một phần thì sợ lụy bỏ trốn vào rừng, một phần thì bị bãi
truất. Còn các bồ chính (quan thế tập bực dưới) ở tổng, ở làng thì có lẽ cũng còn
giữ quyền thế tập như ở các miền thượng du Thanh Hóa và Hòa Bình bây giờ. Bọn
này cùng với trú dân Trung-hoa dần dần thành một lớp quí tộc mới, thay cho lớp
quí tộc xưa đã tiêu diệt.” [15]
Có thể
rằng nhìn như thế chỉ là nhìn từ trên xuống, hoặc nhìn trong sử liệu của triều
đình. Phong kiến không phải không còn trong thời Trần và “Hịch Tướng Sĩ” của anh
hùng Trần Hưng Đạo còn chính thức dựa vào việc bảo vệ thái ấp như một động cơ
thúc đẩy quân dân Việt Nam. Hơn thế, cung cách sống đại gia đình, họ hàng vẫn
còn đó. Rất ít người Việt Nam mang tên họ Trung-hoa, sau cả ngàn năm đô hộ. Nói
gì chỉ trong giai đoạn liền sau vó ngựa chinh phục tàn bạo của đoàn quân Mã
Viện!
Chữ viết
của mẫu quốc ngàn năm cai trị vẫn chỉ là “chữ
Hán”. Thứ chữ của người Hán, của chính quyền Hán, không phải của
chúng ta ! Rồi ra, người ta phải thấy hậu quả của quan niệm đó. Chữ Hán được
độc tôn do chính quyền áp đặt, người Việt đọc lên với âm Việt hơn âm Tàu, rồi
chỉ mấy thế kỷ sau đã thấy có chữ viết hơi khác chữ Hán, mà đọc lên, người Việt
Nam nào cũng hiểu: chữ Nôm của thời tự chủ.
Dầu những người Hán-học mỉa mai “nôm
na là cha mách qué”, hoặc dựa vào “thánh hiền” để răn dạy:
“Đàn ông chớ kể Phan Trần,
Đàn bà
chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.”
thì cũng
chẳng có tác phẩm Hán-văn nào phổ biến bằng Đoạn Trường Tân Thanh, Phan Trần,
Nhị Độ Mai, Bích câu kỳ ngộ, Hoa Tiên, Cung Oán, Lục VânTiên, Chinh Phụ diễn
nôm…
Ngôn ngữ
âm thanh và cử điệu của chúng ta cũng giàu thêm nhờ những tiếng Việt-Hán. Nhạc
cụ có thêm khánh, chuông. Ăn, mặc và nhà cửa người Việt cũng pha thêm những
đường nét thích hợp. Kiểu nhà nóc oằn và mở cửa ra vào ở đầu, thêm lối nhà nóc
thẳng, mái cao và cửa trổ bên hông. Nghề nghiệp của tiền nhân cũng đa dạng hơn
nhờ tiếp biến văn hóa. Người ta làm thêm văn tự cũng thêm loại giấy, mặt giấy
gỗ trầm, và tất nhiên cũng thêm nghề thầy đồ…
Chính nhờ
tiếp biến văn hóa mà cha ông chúng ta vừa bảo vệ được bản sắc văn hóa Nam Việt,
vừa thêm những nét đẹp mới, chung hòa trong cuộc sống. Tiếp biến văn hóa đó còn
chuyển tải cả những giá trị phổ quát của Phật giáo Đại Thừa, Khổng Lão và cả
đến giáo lý Kitô giáo (Gia-Tô) nữa!
[1] Nguyễn Cảnh Minh “Đại Cương Lịch Sử
VN.” I. Tr.58
[2] Sđd. Tr. 65
[3] Sđd. Tr. 98
[4] sđ d. tr.59 và 60
[5] Xin đọc lại [27] về các vua Hùng
[6] Sđd. Tr. 20
[7] Xem bài Les
grandes époques de l’Indochine, par
Louis Finet. Bulletin de l’enseignement mutuel du Tonkin, t. XV, n. 2, Avril-Juin,
1935, chú thích của Đào Duy Anh.
[9] Xin đọc thêm Nguyễn Thế Thoại trong “Tôn giáo học và các tôn giáo
chính ở Việt Nam” q.1, phần nói về Đạo Nội.
[10] Đào Duy Anh sđd. Tr. 27-28
[11] Vào khoảng năm 40-43
[12] Có những Dân tộc không đủ những điều
kiện tốt đẹp như chúng ta, cũng không quá yếu đến độ diệt chủng, đành sống gian
khổ, như dân tộc H’mông: “Ở
Đồng Văn, Mèo vạc hay Phó Bản, Lũng Cú… mở mắt ra đã thấy đá. Con người sinh ra
cũng trên đá, chết đi cũng vùi trong đá. Trên những triền núi chót vót lúc nào
cũng thấp thoáng những bộ áo quần sặc sỡ và tiếng hát lảnh lót như chim của
những cô gái Mèo…
người
H’mông (người Mèo) đã trôi dạt từ phương Bắc sau một cuộc thanh trừng sắc tộc.
Người Hán quyết nhổ cỏ tận gốc người H’mông. Yếu thế, người H’mông chạy về
phương Nam và nương náu trên đất Việt. Nhiều thế kỷ qua, người Việt và các dân
tộc anh em khác đã cùng sống thuận hòa có sướng có khổ, có buồn có vui. Ngày
Tết (thường là một ngày cuối tháng âm lịch từ tháng mười một đến tháng một),
người H’mông cùng ăn tết và thờ cúng ông bà. Một tục lệ không thể thiếu trong
ngày này là cắt tiết gà yểm trừ con ma nhà Hán, kẻ thù đã tàn sát người H’mông.
Trong cuộc đời của mỗi người H’mông, không mối thù nào lớn bằng mối
thù con ma này.” (Đặng Đại, trong Tuổi Trẻ Chủ Nhật 5-2000, tr. 43)
[13] Chúng ta sẽ nhắc tới nguyên hành động
đó của các triều đại Việt Nam.
[14] Xin đọc thêm “Phật Giáo tại VN” trong “Tôn giáo học” của cùng tác
giả
[15] Sđd. Tr. 28
11.
Văn Hóa
Việt Nam
THỜI TỰ
CHỦ
“Quan san hiểm yếu minh kinh hoạch
Khê giản
phiên bình quảng phủ tồn
Bạch thủ
Lạng châu nguy chế trị,
Nhất khâm
trung xích tắc càn khôn.”
(“Thượng Ngao” – Phạm Sư Mạnh)
Núi non
hiểm trở, kế hoạch phải rõ ràng
Bản mường
ở nơi khe suối phải được quan tâm vỗ về,
Bạc đầu
vì lo việc bố phòng ở châu Lạng
Một tấm
lòng trung đỏ thắm cả trời đất. [1]
[36] Tự
chủ, một điều kiện tốt cho văn hóa bản địa
Nhìn vào
những phần đất mà các dân tộc thuộc chủng Cổ Mã-Lai sinh trưởng, người ta thấy
ngay vị trí Việt Nam dễ để dân tộc Lạc Việt này tự chủ: Chúng
ta ở giữa các dân tộc thuộc Bách Việt. Các dân tộc phía Bắc chúng
ta tiếp cận những dân du mục Hán Mông. Các dân tộc phía Tây và Nam chúng ta
tiếp cận các dân tộc Ấn Độ, hoặc sống trên trăm ngàn hòn đảo giữa đại dương.
Thực tế, chúng ta cũng đã hàng nghìn năm giữ được quyền tự chủ: 938-1958.
Tự chủ
lại là điều kiện tốt để bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mình.
Những
triều đại cai trị dân tộc trong thời đại ngàn năm tự chủ này đã thành công và
thất bại thế nào trong lãnh vực văn hóa bản địa? Trước hết, chúng ta xét qua
những thành công, tức là những khai triển đúng nhờ tình trạng tự chủ của dân
tộc:
1. Một ý
thức tập thể mạnh: Tổ Quốc và Đồng bào.
Mỗi lần
đánh đuổi được Bắc quân xâm lăng, chính quyền chiến thắng biểu lộ gần gụi dân
hơn, thân thương hơn. Công việc làm ăn ổn định hơn, cảm nghiệm hạnh phúc gia
đình và hòa khí xóm làng hơn… người dân có ý thức hơn về tình nghĩa dân tộc và
trật tự xã hội tự chủ, nên sức mạnh dân tộc càng ngày càng tăng. Lòng yêu nước
ngày càng nồng ấm. Hơn thế, người dân Việt Nam còn tin tưởng như kiện tướng Lý
Thường Kiệt rằng đây chính là phần Giang Sơn mà Trời dành cho dân tộc mình:
Nam quốc Sơn hà Nam đế cư,
Tiệt
nhiên định phận tại Thiên thư.
Do đó, họ
an tâm và quyết chí bảo vệ và phát triển.
2. Chính trị quân chủ từ từ thống nhất hơn và guồng máy chính quyền được kiện toàn
hơn.
Từ chế độ
quận huyện rời rạc, đồng bào chỉ thống nhất trong tay triều đình phương Bắc,
Ngô Quyền xưng vương, sau trận Bạch Đằng đuổi quân Nam Hán, năm 939, ông mở một
tổ quốc vững bền với kinh đô Cổ Loa.
Người anh
hùng quá cố, chứng cũ lại tái diễn, chúng ta bị loạn Thập Nhị Sứ Quân; may mà
Đinh Bộ Lĩnh qui tụ được mười hai sứ quân đó, thành một nước mang theo lý tưởng
lớn lao “Đại Cồ Việt”.
Lần đầu tiên trong lịch sử, năm 968, một người Việt Nam tự xưng Hoàng Đế: Đinh
Tiên Hoàng với thủ đô
Hoa Lư…
Từ nay,
Triều đại có thể thay thế, nhà vua có thể lật đổ, nhưng quan niệm về Tổ quốc và
Chủ quyền dân tộc sẽ muôn đời tồn tại. Quân xâm lược có thể tới, gian khổ có
thể chồng chất… những người Việt Nam sẽ muôn đời là chủ đất Việt Nam. Lịch sử
bắt đầu thành món ăn bổ dưỡng cho những thế hệ cháu con. Cũng từ đây, niềm tự
hào dân tộc phát sinh làm nên một trong những dòng sông phúc lợi:
“Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông
Triều,
Đến sông
Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều,
Bát ngát
sông kinh muôn dặm,
Thướt tha
đuôi trĩ một mầu,
Nước trời
một sắc, phong cảnh ba thu…
Đây là
chiến địa buổi Trùng Hưng [2] Nhị-thánh [3] bắt Ô Mã,
Cũng là
bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.
Khi ấy:
Thuyền
tầu muôn đội, tinh kỳ phấp phới,
Hùng hổ
sáu quân, giáo gươm sáng chói…
Khác nào
khi xưa:
Trận Xích
Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp
Phì [4] giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi
Đến nay
nước sông tuy chảy hoài
Mà nhục
quân thù không rửa nổi.” [5]
Gần như
không có kẻ thù nào sát nách, con dân Trung quốc phát triển mạnh trong hai lưu
vực sông Hoàng Hà và Dương Tử. Những bộ tộc của Hoàng Hà hiếu chiến đã thống
nhất Trung Hoa và từng ngàn năm đô hộ Việt Nam, nên vẫn chưa dễ từ bỏ mộng xâm lăng.
Vì thế, trong thời gian thống nhất tự chủ, các triều Ngô, Lê, Lý, Trần vẫn phải
tập họp nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Bắc phương. Tuy thế, vì lòng yêu
nước sống động hơn, nên những cuộc chiến tàn khốc hơn càng ghi đậm đà chiến
thắng cho Việt Nam và đau đớn ê chề cho Trung Quốc.
4. Trong chiến tranh, quân dân Việt Nam vẫn biểu lộ tinh thần Nhân đạo và Cao
thượng.
Trong
Bình Ngô Đại Cáo, Ức Trai đã thay dân Việt Nam cho biết: Mình chỉ tự vệ, không
muốn sát hại, dù là kẻ thù xâm lược. Thắng, mình tha bổng Thần-vũ
chẳng giết làm gì! Chúng
biết kính nể là đủ: Cấp cho năm trăm chiếc thuyền để về,
lúc qua sông mà vẫn còn mất vía…
5. Chiến tranh Cạnh sinh hoặc Đấu tranh sinh tồn
Vừa thiện
chiến, vừa phong phú và có điều kiện làm ăn phát triển, người nông dân Việt Nam
tất nhiên không muốn vượt cao nguyên và rừng núi Bắc phương hoặc phía Tây, cũng
không thể tràn xuống biển Đông, Nam tiến là con đường duy nhất.
Sau khi
đánh Tống và an bang, Lê Đại Hành chinh phạt Chiêm Thành vì bắt giam sứ giả.
Đinh quân phá thủ đô Yudrapura (Trà Kiệu) và bắt Chiêm Thành chịu triều cống,
rồi mới rút về; nhưng nông dân không ít ở lại Địa lý châu, mà nay các vùng
thuộc Quảng Bình. Bởi kinh đô Chiêm Thành đã phải dời vào Vijaya (Phật Thệ /
Bình Định ngày nay). Lý Thái Tôn 1044 sẽ “trị tội” tân đô Vijaya này và bắt
5.000 người Chiêm về khai thác vùng rừng núi Nghệ An. Hơn hai chục năm sau, tức
1069, Lý Thánh Tông dẫn nông dân vào làm ruộng Quảng Trị rồi! Chế Mân với
đường lối cộng sinh dâng hai châu Ô và Ri để cưới công chúa Huyền Trân năm
1306, hoặc trái lại, Chế Bồng Nga hung hăng tấn công đến tận Thăng Long, cũng
không đổi được dòng lịch sử. Năm 1402, Hồ Quí Ly đã có thể nhìn nông dân Việt
Nam khai thác châu Tư, châu Nghĩa, và Cổ Lũy (Quảng Nam, Quảng Ngãi).
6. Phục viên sau chiến tranh, sau phục vụ
Không
thiếu những vị tướng tài, những vị mưu sĩ giỏi, xong việc liền vui thú ẩn dật:
Hàn Lâm
học sĩ Lý Tử Tấn đến thăm Nguyễn Trãi và ghi:
Lý Tử Tấn
đề Ức Trai bích
Tâm kính
tương phùng khởi ngẫu nhiên
Biệt khai
thành thị nhất lâm tuyền
Ưu du lễ
nhượng an nhân trạch
Xuất nhập
khiêm cung lạc tính thiên
Lại tán
đình tiền duy thảo sắc
Khách lai
trúc ngoại hữu trà yên
Công dư
thoái thực phần hương tọa
Họa trục
trương cầm lạc tuế niên.
(Lòng gương chọn chỗ há tình cờ
Thành thị
riêng bày một cảnh thơ
Lễ độ ung
dung nhân nghĩa giữ
Kính
nhường đi đứng tính tình ưa
Lại về,
sân đất trơ màu cỏ
Khách
đến, rào tre nổi khói trà
Xong việc
đốt hương ngồi lặng lẽ
Phiếm
đàn, nét họa tháng ngày qua.)
[Trần Thanh Mai dịch] [6]
7. Tín ngưỡng và tôn giáo phát triển, đồng hành.
Từ khởi
thủy, người Lạc Việt chúng ta vẫn sùng kính tổ tiên và giữ “đạo ông bà”, nhưng
khi giao lưu văn hóa Việt-Trung, người ta tiếp nhận thêm giáo thuyết, rồi tổ
chức tôn giáo Phật, Nho, Lão. Giáo lý và cả những niềm tin bình dân do bốn dòng
tín ngưỡng ấy thấm vào và chi phối thật nhiều trong đời sống các tầng lớp nhân
dân.
Về tổ
chức chính quyền, hiển nhiên không thể theo Lão hay Phật, mà chỉ theo học
thuyết Nho giáo: Quân-sư-phụ… nhưng về tôn giáo, có triều đại ủng hộ Nho, có
triều đại ủng hộ Phật. Nho giáo không có nhiều thần thánh, nên chỉ Văn Miếu là
đủ. Tu Nho cũng chính là tự luyện nên người quân tử Tu
tề trị bình, vì thế mỗi làng không cần cơ sở chung nào khác một
ngôi đình làng. Trái lại, Phật giáo đại thừa thì có biết bao thần thánh và cần
bao nhiêu chùa chiền cho đủ ! Do đó, chúng ta thấy còn thật nhiều ngôi chùa cổ
kính trải gió sương thế kỷ, mà thành danh lam thắng cảnh. Thế kỷ XV, Thiên Chúa
giáo, hoặc Công giáo, tuy lăng lẽ theo nho sĩ Việt Nam và giáo lý viết bằng hán
văn từ Trung Hoa vào Việt Nam, nhưng chỉ ồn ào và bị triều Lê trung hưng ngăn
cấm khoảng giữa thế kỷ XVI. Bởi tôn giáo mới này có vẻ khó dung hoà với các tôn
giáo trước đây, đặt căn bản trên suy luận nguồn cội và ấp ủ bằng lòng biết ơn.
Thêm vào đó, Kitô giáo chỉ dạy con người có một Thiên Chúa là cha, coi
mọi người bình đẳng, huynh đệ. Làm sao chấp nhận được trong văn hóa xã hội nho
giáo «quân, sư, phụ». Khi chính quyền Lê trung hưng quyết đấu
tranh với nhà Mạc là lúc Lê Huyền Tông (1663-1671) hai lần cấm Đạo Kito
8. Kiến tạo văn hóa vật thể và tinh thần.
Giai đoạn
Lý Trần, tức thời tự chủ thống nhất, có nhiều công trình còn di chỉ. Trước hết
là Thăng Long, Hoàng thành gồm hai lớp, bảo vệ nhiều cung điện bề thế. Tiếp đến
là bao nhiêu chùa chiền, mà ngày nay còn di lại một số báu vật cho ngành du
lịch và khảo cổ: chùa Một Cột, chùa Giạm, tháp Báo Thiên, tháp Chương
Sơn v.v. Sử gia Lê Văn Hưu ghi một hiện tượng rất lạ thời họ Trần:
“Nhân dân quá một nửa làm sãi, trong
nước chỗ nào cũng có chùa.”
Cùng với
nghề nông phát triển và dân cư sinh hoạt, việc đắp đê được qui hoạch hẳn hoi,
thêm chức hà đê sứ. Thiết lập thủ đô Thăng Long 36 phố phường cũng đòi hỏi kỹ
thuật đê sông Hồng.
Nhiều
nghề khác cũng tiến bộ, như: nghề gốm, nghề sứ, nghề đúc đồng và chạm khắc trở
thành tinh vi. Nghề dệt vải và dệt lụa nổi tiếng ở phường Yên Thái. Hàng Đào
nghề nhuộm. Thành phẩm của những nghề trên đẩy mạnh việc buôn bán trong và
ngoài nước.
Đạo Ông
Bà thêm
những biểu hiện tôn kính anh hùng liệt sĩ. Chính từ thời này, để tương đối với
Hoa Nam, người ta “tìm lại” và “viết lại” nguồn gốc dân tộc với Con Rồng cháu
tiên. Phổ biến chuyện Một Bọc trăm con, để tạo hiệp nhất các dân tộc. Tuy
nhiên, những lỗ hổng còn lớn :Triều đình không chỉ lập phả hệ 18 đời vua Hùng
và đề cao Con Rồng Cháu Tiên, mà còn bắt tuyên thệ trước Thần Đồng Cổ (Trống
Đồng, tượng trưng thần tổ là Thần Sấm) để quan dân đều trung hiếu.
Đạo Nội với Tứ Bất tử đều nói lên sự phối hợp giữa
thần thánh và con người, giữa quí tộc và bình dân…. Vị thần nào cũng lo phúc
đức cho đời.
Ngành Văn
hóa phụng tự từ đó
phát sinh: thi ca, múa hát và cúng tế trong lễ hội, trong hiếu hỉ. Những lễ hội
lại gợi hứng cho ca, vè, thi, phú, tuồng chèo và lên đồng, coi bói.
Tuy Tam
tứ giáo đồng nguyên và song hành, nhưng nhà Lý chú trọng tới NHO giáo hơn. Triều
Lý lập Văn Miếu (1070) thờ Thánh Hiền, lập Quốc Tử Giám (1076) đào tạo nho sĩ
quí tộc, mở khoa thi Thái Học sinh để tuyển hiền tài… Hán học trở thành con
đường hứa hẹn dẫn tới giàu sang.
Triều đại
sau – Nhà
Trần – tất nhiên phải làm gì cho khác để thu phục nhân tâm. Thi Thái Học sinh
trở thành thi Tiến Sĩ. Tránh Nho sĩ bước đầu gièm pha chuyện thay đổi chủ,
Triều Trần ra mặt ủng hộ Phật giáo hơn. Khuynh hướng này không chỉ để lại chùa
và tháp, còn để lại nhiều tác phẩm văn học đậm đà hương vị Thiền. Văn chương
chữ Hán đời Trần cũng đáng hãnh diện về những tác phẩm hàm ý đề cao Dân Tộc như Đại
Việt Sử Ký, Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Chích Quái…
Chính
ngôn ngữ văn học đời Trần cũng thêm một ngành quan trọng: CHỮ NÔM. Nhờ thứ chữ
này, mà người bình dân không đọc nổi, chỉ nghe cũng có thể thưởng thức thi văn
của thức giả trong dân tộc mình. Tuy còn lệ thuộc Hán văn về tự dạng và luật
thơ, những chữ Nôm đã thực sự giúp chúng ta có một nền văn học tự chủ đáng tự
hào. Thiên Chúa Giáo là bộ phận sử dụng chữ Nôm nhiều nhất và nhiều thể loại
văn nôm, trong khi văn học chừ Nôm của nho gia chỉ là văn vần. Một giáo sĩ
Majorica cũng viết tới ba bốn chục tác phẩm!
[37] Văn hóa Việt Nam thời giành nhau làm chủ
Từ sau
nhà Trần tới ngày bị Pháp đô hộ, nhân dân chúng ta không được tròn một thế kỷ
thanh bình và thống nhất lãnh đạo. Tình trạng an-ninh chính trị thiếu, sẽ suy
giảm kinh tế, xã hội; nhưng văn học nói riêng và văn hóa nói chung không hẳn
xuống theo.
1. Bối cảnh lịch sử và văn hóa Hồ - Hậu Trần
Để giảm
áp lực trong nước do những thần dân trung thành với Trần triều và để làm nhẹ
ảnh hưởng Trung Quốc, nhà Hồ dời đô về Thanh Hóa và gọi là Tây Đô [7], với quốc hiệu là Đại Ngu.
Ngay từ khi phò Lê, Hồ Quí Ly đã biểu lộ tài cao với những mộng ước to lớn cho
dân tộc về kinh tế và văn học:
Hạn điền: mỗi chủ đất chỉ được làm chủ dài nhất là mười
năm, rồi chính quyền xét cấp lại.
Hạn nô: ấn định về nô lệ và những người làm công cho
một chủ nhân.
Tiền
giấy, được họ
Hồ sử dụng là thuộc vào lớp tiên phong của nhân loại. Thật là tiện lợi.
Về văn
học, Quí Ly
phê bình kinh điển Nho học, ấn định chữ Nôm là văn tự chính thức. Ông cũng mở
thêm trường tại các lộ, phủ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông. Ông tổ chức lại các kỳ
thi và các môn thi.
Họ Hồ
thất bại, vì các cận thần và cựu thần nhà Lê nhìn ông là chuyên quyền, tiếm
quyền và giảo quyệt, nên tích cực hoặc tiêu cực chống đối. Vì thế, khi Trương
Phụ và Mộc Thạnh đem hơn hai trăm ngàn quân sang đánh, năm 1407, cha con Hồ Quí
Ly đều đại bại và bị bắt.
Con cháu
và vua tôi nhà Trần nhảy ra chớp thời cơ để giữ quyền tự chủ. Đáng tiếc, các
ông Hậu Trần cũng chỉ chống đỡ được bảy năm với Giản Định Đế [8] và Trùng Quang Đế [9], rồi đất nước chúng ta bị
Triều Minh trấn áp.
2. Cưỡng bức văn hóa thời Minh.
Rút kinh
nghiệm dùng bạo lực cả ngàn năm trước không thành công, Triều Minh sau chiến
thắng vội rút võ quan về, để dùng văn trị. Văn quan Hoàng Phúc được trao quyền.
“Nắm quyền cai trị được gần một tháng,
tháng Chín năm đó (1414) Hoàng Phúc bắt các phủ huyện, châu dựng văn miếu, lập
đàn tế lễ hàng năm thờ xã tắc Phong Vân, Sơn Xuyên và các thần theo phong tục
Trung Hoa. Hắn còn đặt ra luật cấm trai gái nước Việt cắt tóc ngắn. Phụ nữ phải
mặc quần dài áo ngắn theo phong tục phương Bắc. Cũng tháng Mười năm ấy, theo
lời bàn của Tham nghị Bành Đạo Tường, Hoàng Phúc đã cho mở trường học tiếng
Trung Hoa và ra sức lôi kéo mua chuộc sĩ phu, thầy thuốc, tăng đạo, để phục vụ
nền đô hộ.
Năm Ất
Mùi (1415), Hoàng Phúc cấp lộ phí, cho người đi theo phục dịch và bắt các quan
cai trị các địa phương phải đón tiếp long trọng những người Việt sang Kim Lăng
thụ phong chức tước để về nước làm việc cho chính quyền đô hộ…
… Ngoài
việc đào tạo và mua chuộc các quan chức, Hoàng Phúc còn thực hiện âm mưu thiêu
hủy những bi ký của những người Việt từ trước để lại, một số có giá trị lớn
chúng đưa về Bắc. Hàng năm nhà Minh còn bắt các địa phương Đại Việt phải cống
nạp những nho sinh trẻ, những thợ thủ công lành nghề để đưa về Kim Lăng, hòng
hủy diệt dân tộc Đại Việt…” [10]
Đối phó
với cưỡng bức văn hóa, người Việt đa số đoàn kết bảo tồn văn hóa truyền thống
và đòi chủ quyền dân tộc, mà kết quả đời đời ghi nhớ là cuộc thắng lợi của nhà
Lê.
3. Tiếp biến văn hóa thời Sơ Lê
Vừa khi
thành công kháng chiến, các triều vua Việt Nam ưa du nhập nhiều nét văn hóa
Trung Hoa, vừa để tô chuốt cho “thiên mệnh đế vương”, vừa để che đậy mặc cảm
dân tộc nhược tiểu.
Đầu năm
Mậu Tuất [11], Lê Lợi và các bạn chính
thức dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn. Thừa hưởng tài sản tinh thần và vật chất từ
bốn đời. “Truyền thuyết kể
rằng:
Lớn lên
Lê Lợi làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, được hồn sư ông mặc áo trắng hiển hiện chỉ
cho ngôi huyệt phát ‘đế vương’ ở động Chiêu Nghi. Sau đó một người phường chài
là Lê Thận bắt được một lưỡi gươm cũ, khi đưa vào tay Lê Lợi thì thanh gươm
không phải mài mà sáng như gươm mới. Trên gươm có khắc hàng chữ triện, Lê Lợi
biết là một thanh gươm quí. Hai ngày sau vợ Lê Lợi ra vườn hái rau lại bắt được
một quả ấn báu cũng khắc mấy chữ lối triện, trên lưng quả ấn khắc tên họ Lê
Lợi. Ngày sau nữa lại bắt được cái chuôi kiếm ở gốc cây đa, có khắc hình con
rồng, con hổ và hai chữ “Thanh Thúy”, đem lắp vào lưỡi kiếm đã bắt được thì vừa
vặn không sai chút nào.
Từ đó ông
càng tin rằng vận nước đã được trao vào tay mình, càng chăm chỉ dùi mài đọc
sách và binh pháp nuôi chí và chờ thời vận…” [12]
Sau hơn
mười năm chiến đấu bằng binh khí và ngoại giao, nhất là luôn luôn đề cao nhân
nghĩa, Lê Lợi lên làm Thuận Thiên đại vương của nước Đại Việt, nắm quyền xây
dựng đất nước theo mộng ước của mình.
Theo lăng
kính văn hóa, chúng ta thấy Đại Việt thời Hậu Lê đã có khả năng tiếp biến văn
hóa tốt đẹp trong khoảng chín chục năm. Cũng chính nhờ tiếp biến văn hóa Việt
Trung như thế mà nhiều vua thời Lê vinh quang.
3.1. Chính
sách nông nghiệp
Nông
nghiệp vẫn là thế mạnh của nhân dân chúng ta. Để đủ sức tự cường,
triều Lê cải tiến với việc phân điền, tỉnh điền và hộ đê. Vừa lên ngôi, Lê Thái
Tổ đã cho kiểm kê hộ khẩu, làm sổ hộ, sổ điền và tiến hành việc quân điền. Tới
đời Lê Thánh Tông thì chính sách quân điền đã thành đạt, tư tưởng trọng nông đã
thật sự vào tâm não người nho sĩ:
Nhất sĩ
nhì nông,
Hết gạo
chạy rông,
Nhất nông
nhì sĩ.
3.2. Sinh
hoạt văn nghệ nhân gian
Kẻ Sĩ đa
số từ nông phát xuất và khi đời nghiêng bóng lại trở về nông. Khoảng cách giai
cấp thật gần gụi. Thưởng thức văn nghệ và giải trí như cầm kỳ thi tửu họa… thì
giai cấp nào cũng có. Tác phẩm Hí Phường phả lục của Lương Thế Vinh cho biết Tuồng và
Chèo là hai loại hình văn nghệ sân khấu nhân gian đã phát triển rộng và cao.
3.3. Đào
tạo nhân tài
Nhìn lại,
chúng ta thấy gần như các triều đại tự chủ Việt Nam có ưu điểm này là biết chấp
nhận nhân tài, đào tạo nhân tài bằng những phương pháp và qui tắc công khai,
phổ biến cho toàn dân. Do đó, con vua, con quan hoặc con lê thứ đều phải học
tập và dự thi. Khó có tình trạng:
“Con vua thì lại làm vua,
Con bác
sãi chùa lại quét lá đa.”
Con bác
sãi chùa hoặc con bần cố nông mà có chí tiến thủ, có tư chất và gặp điều kiện
thích hợp, thì vẫn không bị dòng máu hoặc đảng phái cản trở, đến độ người người
tâm niệm: “Ai giầu ba họ, ai
khó ba đời”.
“Mùa Thu, tháng Tám [13], xây Văn Miếu, tô tượng Khổng Tử, Chu
Công và Tứ Phối, vẽ hình Thất Thập Nhị Hiền… để bốn mùa cúng tế…” [14]
Năm năm
sau, nhà Lý mở khoa thi Nho giáo đầu tiên. Rồi tiếp tục, tuy có thể “phép thi lúc này chưa có thể thức nhất
định. Thỉnh thoảng có chiếu vua ban ra cho học trò trong nước vào kinh dự thi.
Nhà vua thường tự coi thi ở sân điện…” [15]
Kể từ năm
1232, nhà Trần đặt ra học vị Thái Học Sinh cho thí sinh thành đạt, sau Lê đổi
thành Tiến sĩ… Nho học thích ứng đã giúp nhân dân Việt Nam thêm nhiều người tài
đức. Nhờ có nhiều nhân sĩ tài cao giúp đỡ như Ức Trai Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn…
Lê Sơ đã tổ chức các khoa thi để tuyển chọn nhân tài phục vụ hoàng triều và
nhân dân. Lê Thái Tổ mở đầu các khoa thi. Chúng ta đều hiểu tác dụng tôn quân
của Khổng học. Nhân dân càng thấm nhuần châm ngôn “Quân-sư-phụ”, việc cai trị
càng ổn định.
Tuy thế,
phải nhận rằng thời Lê Sơ có nhiều nhân tài kiệt xuất. Ức Trai ngày nay được
quốc tế nhìn nhận là nhà văn hóa lớn. Ai nghiên cứu văn chương Quốc âm cũng
phải đọc tới Quốc Âm thi tập với 254 bài thơ của
ông.
Lên ngôi
mới 2 tuổi, nhờ Tuyên Từ hoàng thái hậu điều khiển triều chính, Lê Nhân Tông “Thần sắc anh tuấn, dung dáng đúng đắn,
mỗi khi tan chầu, thân đến kinh diên đọc sách, mặt trời xế bóng về Tây mới
thôi.” [16]
Lê Thánh
Tông xứng đáng được ca tụng là Nguyên Soái của Tao Đàn với Nhị thập bát Tú. Là
nhà thơ lớn và sáng tác phong phú, người tổ chức việc học và thi cử chu đáo
nhất thời phong kiến Đại Việt. Cũng không bao giờ trong lịch sử Việt Nam người
ta được thấy tình nghĩa thi văn nối kết vua tôi, thông cảm lãnh đạo và nhân dân
như thời Hồng Đức.
1.
Guồng máy cai trị
Bộ máy
nhà nước quân chủ đó cũng
thường xuyên được đổi mới, nhờ đường lối tiến và cử của các khoa thi và các
trường thi. Tầng lớp sĩ phu hiển đạt, từ đời Lê Thái Tông, 1442, được khắc tên
vào bia đá để ở Văn Miếu, sau khi bảng vàng và áo mão vinh qui, thường tham chính
bên cạnh và nhiều khi thay quí tộc. Nhiều nho sĩ không hiển đạt, trung thành
với nghề giáo, vẫn thấy được trò cũ của mình thành rường cột đất nước.
3.5. Tận
tâm vì Gia Đình, vì Tổ quốc.
Những vua
như Lê Thánh Tông, khi từ trần mới 56 tuổi, mà để lại 14 con trai, 20 con gái…
thì không hẳn vì họ đuổi theo sắc dục mà quên giáo dục con hoặc lo cho dân tộc.
Sinh con, giáo dục con là thước đo lòng yêu dân. Chính Thánh Tông tự thuật:
Lòng vì
thiên hạ những sơ âu
Thay việc
Trời dám trễ đâu
Trống dời
canh còn sách
Chiêng xế
bóng chửa thôi chầu.
Đối với
họ, bảo vệ gia phong mới bảo vệ Đất Nước:
“Một thước núi, một tấc sông của ta có
lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được. Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất của
vua Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc thì người đó sẽ bị trừng trị nặng.”
Chính từ
thời này [17] chúng ta có địa đồ Đại Việt, rồi Đại
Việt Sử ký Toàn thư và Thiên Nam dư hạ tập…
3.6. Pháp
trị
Văn trị
theo đạo làm người, gia đạo và tình làng nghĩa xóm đã là tốt, nhưng với đông
đảo quần chúng thuộc đủ mọi điều kiện sống khác nhau, không thiếu những người
ác tâm phá hoại và những người yếu đuối dễ bị cuốn theo. Xã hội cần Luật pháp.
Do đó, khi có được luật pháp, người ta coi như một chặng đường mới, sáng tỏ
hơn:
“Trước kia, việc kiện tụng trong nước
phần nhiều đều rất phiền nhiễu, phép quan thường câu nệ, cố làm cho khắc
nghiệt, khiến cho nhiều người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy đó làm thương xót,
bèn sai quan Trung Thư san định ra luật lệnh, châm chước cho thích hợp với thời
thế, chia ra thành môn loại và điều khoản khác nhau, gọi là Hình Thư của một triều đại, khiến cho ai xem dễ hiểu. Sách làm
xong, vua xuống chiếu cho ban hành, dân đều lấy làm tiện. Đến đây, việc xử án
được thẳng thắn, rõ ràng, cho nên vua [18] mới cho đổi niên hiệu mới là Minh Đạo
và cho đúc tiền Minh Đạo.” [19]
Phải nhận
rằng Pháp trị thời đó khá nghiêm minh hoặc quân chủ mà “dân chủ” – có thể hơn
bây giờ? – ta mới thấy pháp quan mà dám xử cả hoàng thái tử Lý Long Xưởng.
Nếu đời
Lý có Tô Hiến Thành thì đời Trần có hai luật gia nổi tiếng là Trương Hán Siêu
và Nguyễn Trung Ngạn.
Nhưng nổi
tiếng nhất và là bộ luật trước nhất còn giữ lại được đến nay: Luật
Hồng Đức, công bố năm 1483, với 721 điều đáng kể. Đào Duy Anh viết:
“Đời Lê Thánh Tôn châm chước
pháp luật nhà Tùy và nhà Đường soạn thành bộ luật Hồng Đức gồm có hình luật và
hộ luật, lại định riêng kỳ xử việc nhỏ và kỳ xử việc lớn…” [20]
Chúng ta
có thể tự huyễn hoặc không khi tạm kết một thoáng nhìn lại văn hóa thời Lê Sơ:
Trên cơ
sở văn hóa dân tộc hoặc là văn hóa bản địa, văn hóa thời Lê Sơ đã du nhập và
thích ứng thật nhiều nét văn hóa Nho giáo qua giới sĩ phu.
[38] Văn Hóa Việt Nam thời buổi phân tranh
Khi nhà
Lê suy sụp, tình hình chính trị xã hội Việt Nam để lại những trang sử huynh đệ
tương tranh: Lê - Mạc, Lê - Mạc - Trịnh, Lê - Mạc- Trịnh - Nguyễn.
1. Bối
cảnh lịch sử
Sau gần
tám chục năm cầm quyền, xét chung nhà Lê tỏ ra xứng đáng và nhân dân phát
triển.
Lê Túc
Tông lên ngôi ngày 6 tháng 6 năm Giáp Tý [21].
Tháng 11, sai sứ lên đường sang Trung Quốc; nhưng sứ chưa qua biên giới đã phải
triệu hồi, vì Túc Tông qua đời. Ông đã căn dặn: Con
thứ hai của Hiến Tông là Tuấn, người hiền minh nhân hiếu, có thể lên ngôi chính
thống…. Nếu thân vương nào tiếm ngôi trời thì người trong nước giết đi…”
Thái
hoàng Thái hậu, thân mẫu Hiến-tông và bà của Túc Tông, là người muốn đặt Lã Côi
Vương, vì Tuấn con của kẻ tỳ thiếp, không xứng đáng.
Khi thành Lê Uy Mục, Tuấn giết bà và một số đại thần như Đàm Văn Lễ,
Nguyễn Quang Bật… Tuy thế, điều đáng tiếc hơn nữa là Tuấn mê đắm tửu sắc cũng
như sát nhân. Sứ giả nhà Minh đã phải than:
An-nam tứ
bách vận vưu trường
Thiên ý
như hà giáng quỉ vương.
Vận nước
Nam còn dài bốn trăm năm
Mà
sao ý trời cho vua quỉ xuống.
Cháu nội
của Lê Thánh Tông là Oánh cũng bị “quỉ vương” tống giam đợi giết, đã vượt ngục
vào Thanh Hóa và tháng 11 năm 1509 bất thần dẫn quân về chiếm hoàng thành, bức
tử Lê Uy Mục và lên làm Lê Tương Dực [22].
Năm 1513, khi sang phong vương cho Tương Dực, sứ giả Minh triều là Trần Nhược
Thủy và phó sứ là Phạm Hy Tăng đã cùng nhận xét:
“Quốc
vương An-nam mặt thì đẹp, mà người lệch, tính thích dâm, làm vua lợn, loạn
vong sẽ tới không lâu ”.
Không
lâu, tháng Tư Bính Tý, 1516, cận thần Trịnh Duy Sản sai người đâm chết Lê Tương
Dực, đón cháu bốn đời Lê Thánh Tông là Huệ, 11 tuổi, về làm vua Lê Chiêu
Tông [23].
Chiêu
Tông phải đến tận cung Mạc để phong Đăng Dung làm Thái Phó, Đăng Doanh làm Dục
Mỹ Hầu. Phẫn uất, Chiêu Tông âm mưu chống Mạc. Mưu lộ, ông vua yếu đuối phải
chạy trốn. Mạc và cận thần tôn chàng thanh niên 16, em Chiêu Tông là Xuân, làm
Lê Cung Hoàng [24].
Khi chịu
không thấu, ngày 15.6.1527, Lê Cung Hoàng phải “nhường ngôi” cho Mạc Đăng Dung.
Chấm dứt 10 đời vua Lê với một trăm năm trị nước [25].
Chính khi
Đăng Dung lên ngôi, Nguyễn Kim dựng nghĩa Cần Vương ở Thanh Hóa. Rồi khi Đăng
Dung mất thì Đăng Doanh làm Thái thượng Hoàng cho Mạc Phúc Hải. Khi Phúc Hải
chết sau sáu năm làm vua chọi gà và xướng ca,
thì ở Thanh Hóa, Nguyễn Kim cũng bị đầu độc chết và binh quyền vào tay Trịnh
Kiểm.
Mạc Phúc
Nguyên lên ngôi năm 1546, nhưng trong triều phe phái anh em vẫn giành giựt, bên
ngoài thì quân Lê Trịnh từ Thanh Hóa kéo ra đòi lại giang san.
Phúc
Nguyên chết, chú bé Mậu Hợp lên làm vua suốt 29 năm, nhưng càng lớn lên chú
càng ham tửu sắc, để cuối cùng bị quân Lê Trịnh bắt trong chùa cùng với hai kỹ
nữ [26].
Rảnh tay phía Bắc, quân Lê Trịnh thấy bận tâm về phía Nam, vì từ năm Mậu
Ngọ [27],
Nguyễn Hoàng đã được làm trấn thủ Thuận Hóa, âm thầm thực hiện sấm Trạng Trình:
“Hoành sơn nhất đái, vạn đại
dung thân”.
Từ tháng 2 năm Quí Dậu [28] lại được phong làm Thái Phó lo trấn
giữ cả miền Nam.
Tuổi 89,
Nguyễn Hoàng mới mất sau 4 con trai là Hà, Hán, Thành, Diễn. Người con thứ năm
là Hải đang ở Bắc làm con tin, Nguyễn Hoàng trối vương quyền lại cho người con
thứ sáu, 51 tuổi: “Đất Thuận
Quảng phía Bắc có núi Ngang và sông Gianh hiểm trở, phía Nam có núi Hải Vân và
núi Đá Bia vững bền. Núi sẵn vàng, sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ
của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện lính để chống chọi với họ
Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời, bằng thế lực không địch được, thì cố
giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dạy của ta ”.
Phật chúa
Nguyễn Phúc Nguyên lên cầm quyền năm Quí Sửu, 1613, thì năm Kỷ Mùi 1619 Trịnh Tùng
đem quân vào bắt đầu những thập niên Trịnh Nguyễn phân tranh.
Lính vua,
lính chúa, lính làng
Nhà vua
bắt lính cho chàng phải ra
Giá vua
bắt lính đàn bà
Để em đi
đỡ chàng và bốn năm…
Nhờ có
Đào Duy Từ hiến kế, Phúc Nguyên đã đắp xong Lũy Thầy và tổ chức quân đội khá
qui mô.
Thời
Nguyễn Phúc Lan [29],
hai lần quân Trịnh vào đánh đều bị bại và phản công. Nguyễn Phúc Tần [30] dẫn quân chiếm tới 7 huyện ở Nghệ An
của miền Bắc. Mãi tới năm Canh Tý [31] Trịnh mới khôi phục được.
Năm Kỷ
Mùi [32],
chúa Nguyễn “cho phép” cựu tướng triều Minh là Dương Ngạn Địch cùng Trần Thương
Xuyên và ba ngàn gia thuộc vào khai phá vùng Gia Định, Mỹ Tho. Không lâu, khu
vực này thương mãi phồn thịnh. Không chỉ thuyền buôn người Thanh, mà cả người
Nhật Bản và Tây Phương cũng giao thương.
Nguyễn
Phúc Trân chỉ cai trị bốn năm [33],
nhưng lại là người chú trọng tới nhân dân hơn. Ông giảm thuế và chế định tang
lễ cho nhẹ nhàng hơn. Con ông thì khác. Nguyễn Phúc Chu [34] không chỉ đòi dân đóng góp công sức và
sinh mạng để mở đất qua Phan-rang, Phan-rí, Hòa Đa, tới tận Phiên Trấn…. Ông
còn xây cất một loạt chùa miếu, mở hội lớn ở chùa Thiên Mụ, chùa núi Mỹ Am.
Nguyễn Phúc Chú [35] lên cầm quyền khi 30 tuổi và chỉ điều
hành đất nước mười ba năm, nhưng thời gian này có hai dấu mốc văn hóa:
1.1. Đồng
hồ công cộng
Ông cho
đặt đồng hồ ở các dinh và các đồn duyên hải. Đồng hồ trước còn cần nhập từ Tây
phương, sau Nguyễn Văn Tú đã chế tạo được.
1.2. Mạc
Thiên Tứ và Chiêu Anh Các
Mạc Cửu
được làm tổng binh trấn Hà Tiên từ năm 1708, con trai là Mạc Thiên Tứ được
Nguyễn Phúc Chú cho cầm quyền thay cha từ 1736 với tước Đô Đốc Trấn Hà Tiên.
Không chỉ chú trọng giao thương như cha, Thiên Tứ còn mở Chiêu Anh các, qui tụ
văn nhân thi sĩ. Họ lưu tới 320 bài thơ của 25 tác giả gốc Hoa và 6 thi sĩ
người Việt.
1.3. Khởi
đầu kinh đô Huế
Nguyễn
Phúc Khoát lên cầm quyền năm 25 tuổi [36],
quyết xưng VƯƠNG. Năm Giáp Tí 1744 ông đúc ấn Quốc-vương và Kỷ Mùi chính thức
tiến dần lên ngôi. Tại Phú Xuân, ông cũng bắt đầu kiến thiết quy mô: điện Kim
Hoa và điện Quang Hoa, các gác Dao Trì, Triệu Dương, Quang Thiên, các nhà Tựu
Lạc, Chính Quan, Trung Hòa, Di Nhiên v.v. Ở thượng lưu sông Hương, ông cho
xây dựng phủ Dương Xuân, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ khắc họa rất tinh xảo.
Tường trong, tường ngoài đắp rồng, hổ, lân, phượng, hoa cảnh…. Phú Xuân trở
thành đô thị chính trị và văn vật.
Nguyễn
Phúc Thuần, hoàng tử thứ 16 lên ngôi trong cảnh phế lập và bị cận thần uy hiếp.
Người lộng hành chính là Trương Phúc Loan. Cảnh hãm hại trung thần, bán quan
buôn tước và bóc lột nhân dân đều phát sinh từ đầu mối họ Trương này. Tại Tây
Sơn, Bình Định, ba anh em Nguyễn Nhạc dấy binh và được nông dân nhiệt thành ủng
hộ… Quân Trịnh thừa cơ đánh thốc vào. Tháng 12 năm 1774, quân Trịnh đánh úp Phú
Xuân. Tây Sơn hoà với Trịnh để đánh vào Nguyễn. Phúc Thuần tự trận, Nguyễn Huệ
chiếm Long Xuyên tháng 9 Đinh Dậu… [37] Cháu là Nguyễn Phúc Ánh, 17 tuổi, nhờ
Giám Mục Bá Đa Lộc che giấu, rồi chạy thoát ra đảo Thổ Chu, tập họp binh tướng.
Năm chục chiến thuyền Anh đổ bộ chiếm lại và bố phòng Bến Nghé. Năm Canh
Tí [38],
Nguyễn Phúc Ánh chính thức lên ngôi, dùng ấn “Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo ”.
Chúng ta
biết: Từ đó tới năm 1802, từ Nam Quan tới Cà Mau, loạn lạc và chiến tranh không
trừ phần đất nước nào của chúng ta: Lê - Trịnh - Tây Sơn - Nguyễn Phúc, thêm
vào đó những lực lượng ngoại quốc: quân Thanh xâm lược, quân Thái Lan, Bồ Đào
Nha, quân Pháp trợ lực….
Giữa muôn
vàn đổ nát, điểm văn hoá sáng chói nhất là sức chịu đựng kiên cường của dân tộc
Việt Nam và việc định hình Chữ Quốc Ngữ..
[1] Tạ Ngọc Liễn dịch, trong “Chân dung văn hóa Việt Nam”
[2] Niên hiệu của Trần Nhân Tông từ 1293
[3] Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông
[4] Nơi Tạ Hiền nước Tấn phá quân Bồ Kiên
nước Tần
[5] “Bạch Đằng Giang Phú” của Trương Hán
Siêu, Tạ Ngọc Liễn trích trong “Chân Dung văn hóa VNam”, Bến Tre 1999, tr.
100-101
[6] Tạ Ngọc Lễ, sđd. Tr. 165-166
[7] 1400-1407
[8] 1407-1409
[9] 1409-1413
[10] Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng, sđd. Tr.
143-144
[11] 1418
[12] Quỳnh Cư- Đỗ Đức Hùng, sđd. Tr. 147
[13] Tức năm 1070, thời Lý Thánh Tông
[14] “Đại Việt sử ký toàn thư” bản kỷ, q.
3, tờ 5a
[15] “Lịch triều hiến chương loại chí” Khoa
mục chí, q. 26
[16] Theo văn bia Mục Lăng do Nguyễn Bá Kỷ
ghi.
[38] 1780
2. Mấy đặc điểm văn hóa Việt Nam thời này
Điểm đàu tiên trong cuộc huynh đệ tương tàn là tranh giành chính
nghĩa cho mình và lên án người khác, khiến “đàn em” không còn biết chọn phe
phái nào. Đành “chịu trận”.
2.1. Mất lý tưởng hoặc phân
hóa lý tưởng
Kể từ khi Lê tàn, Mạc lên ngôi và Lê Trịnh gắng trung hưng, người
Việt Nam nói chung không còn quan niệm đồng nhất về lý tưởng quốc gia, dân tộc.
Kẻ sĩ, nói riêng, cũng không còn hợp nhau trong lý tưởng tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ.
Khâm Định Việt Sử kể chuyện Trịnh Khải chạy Tây Sơn năm 1786, cũng
là để nói lên hiện trạng đó:
“Khi Trịnh Khải chạy đến xã Hạ Lôi, huyện Yên Lăng thì quân sĩ
đi theo đã tan tác gần hết. Bấy giờ, có viên Thiên sai làm việc ở Lại Phiên là
Lý Trần Quán [1],
trước đó được cử đi truyền hịch để chiêu mộ nghĩa binh, bất ngờ gặp Khải, Lý
Trần Quán giả vờ nói với người học trò của mình là Nguyễn Trang rằng:
Đây là quan Tham Tụng người họ Bùi [2] đi
lánh nạn đến, anh hãy hộ vệ ngài, đưa ngài qua bên kia địa giới của huyện này.
Nguyễn Trang biết đó là chúa Trịnh, bèn cùng đồ đảng là Nguyễn Bá,
bắt giải nạp cho giặc [3].
Trần Quán được tin ấy, vội vàng chạy đến vừa lạy vừa khóc, nói rằng:
- Đẩy chúa vào
tình thế này, tội là ở thần.
Nói xong, lấy nghĩa lớn mà khuyên bảo Nguyễn Trang, nhưng Trang
lại nói:
- Sợ Thầy không
bằng sợ giặc, quí chúa không bằng quí thân.
Nói rồi, hắn giải Trịnh Khải đi. Khải dùng dao cắt cổ tự tử. [4]
Chắc chắn rằng một phần vì mục tiêu chính trị, phần thấy lý tưởng
Nho giáo từ mấy thế kỷ đến nay không còn đủ sức nơi tam cương ngũ thường nữa,
họ Lê, họ Mạc và họ Trịnh vẫn là theo Nho giáo và Phật, nhưng tranh giành quyền
bính như họ thì sao gọi là theo lý tưởng Nho giáo hoặc Tổ quốc, Dân tộc, hoặc
từ bi hỉ xả!
Họ Nguyễn Phúc miền Nam đề cao quan niệm thờ Trời, Phật và Lão
giáo, chẳng hạn: Nguyễn Hoàng tự xưng chúa tiên và xây chùa
Thiên Mụ [5].
Nguyễn Phúc Nguyên xưng chúa Phật [6],
Nguyễn Phúc Lan tự xưng chúa Thượng [7].
Chúng ta thường nghe phác họa anh em Tây Sơn như nông dân vùng lên
cứu quốc. Xin coi lại:
“Tổ tiên anh em Tây Sơn vốn người họ Hồ ở huyện Hưng Nguyên,
Nghệ An. Khoảng những năm 1653-1657 quân Nguyễn đánh ra Đàng Ngoài, chiếm được
7 huyện của trấn Nghệ An, khi rút về Nam, họ đem theo rất nhiều dân ở các huyện
trên vào sinh sống ở các vùng đất mới phía Nam để khẩn hoang. Ông tổ của Tây
Sơn cũng bị quân Nguyễn bắt và an sáp ở ấp Tây Sơn Nhất (nay là thôn An Khê,
phủ Hoài Nhân, Bình Định). Từ đó họ đổi sang họ Nguyễn.
Đến đời Nguyễn Phi Phúc lại dời sang ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn
(Tuy Phước, Bình Định). Ông Nguyễn Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng, sinh được
ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ. Gia đình ông làm nghề
buôn trâu, cuộc sống cũng khá giả…
… Nguyễn Nhạc xuất thân làm biện lại (thu thuế ở một trạm thuế
trong vùng), nhưng vụ thuế năm Tân Mão [8],
thu được bao nhiêu Nhạc đánh bạc hết sạch. Để tránh sự truy tố của nhà cầm
quyền, Nhạc bỏ trốn cùng hai em vào ở núi Thượng Đạo, ấp Tây Sơn, dựng trại,
lập đồn, xưng hùng khởi nghĩa. Cơ nghiệp triều Tây Sơn bắt đầu từ đây…” [9]
Ngay cả khi Nguyễn Huệ đại thắng ngoại xâm và vinh hiển lên ngôi,
Nguyễn Nhạc cũng không nhường, Nhạc vẫn làm vua vùng từ Bình Thuận đến Quảng
Nam ngày nay [10].
2.2. Cơ cấu tổ chức chính trị
phi lý
Trong nước vẫn có vua, truyền dòng và nối ngôi. Nhưng vua chỉ là
hư vị. Chúa cũng truyền dòng, nối vị, mà chúa mới nắm thực quyền.
Chúa Nguyễn cũng từ từ trút bỏ quyền lực trên đầu mình. Nguyễn
Phúc Chu [13] đã
tự xưng là Quốc chúa, Nguyễn Phúc Chú [14] là Ninh
Vương, Nguyễn Phúc Khoát [15] vừa
là Võ Vương, vừa tự đúc tiền Thái Bình và vận động triều Thanh nhìn
nhận mình.
2.3. Mua quan, bán chức
Vẫn có kỳ thi tuyển nhân tài ra làm quan giúp nước đấy, nhưng thi
không chắc đậu và đậu không bảo đảm hoan lộ tốt đẹp. Vàng bạc mới bảo đảm.
Một Trịnh Doanh đã ba lần xuống lệnh bán quan chức:
- Năm
Tân Dậu [16] “Ai
nộp thóc sẽ được làm quan.” [17]
- Năm
Mậu Thìn [18] “Hạ
lệnh cho bách quan văn võ, ai nộp tiền hoặc thóc, sẽ trao cho các chức
phẩm khác nhau.” [19]
- Năm
Canh Thìn [20] “Hạ
lệnh cho dân, ai nộp thóc sẽ trao cho quan chức.” [21]
Người đã xuất tiền hoặc đổ thóc ra mua quan chức, sẽ tìm lại bằng
đủ cách bất công và bóc lột:
Con ơi nhớ lấy câu này:
Thêm vào chiến tranh, quan quân quấy nhiễu như thế, người dân làm
sao có thể an cư và lạc nghiệp.
2.4. Thi cử cũng hư hỏng
Đọc lại trang sử hồi đó, chúng ta cứ tưởng như truyện đang xảy ra
trong cái thời dối trá này. Từ đó hoài nghi: Phải chăng tham nhũng, chạy chọt
đã là một nét tiêu cực cố hữu trong “văn hóa” VN.:
“Học trò đã quen thói đua nhau chạy chọt, quan trường thì coi
nhẹ kỷ cương, công khai gởi gắm. Vì thế, người đỗ đạt phần nhiều không có thực
học, miệng thế bàn tán rất xôn xao. Chúa Trịnh Doanh nổi giận, bắt tất cả thi
lại, đánh hỏng đến trên hai trăm người…” [23]
Tình trạng bi đát đến độ con của danh sĩ Lê Quí Đôn mà cũng đi vào
“sổ đỏ” nhân kỳ thi Hội, tháng 10 Ất Mùi [24]:
“Quí Kiệt là con của Quí Đôn, vào kì đệ tứ, Quí Kiệt và Đinh
Thì Trung đổi quyển cho nhau, việc bị bại lộ, Đinh Thì Trung bị khép vào tội
đày đi Yên Quảng, còn Quí Kiệt phải về làm dân thường. Đinh Thì Trung phát giác
ra bức thư gửi gắm của Lê Quí Đôn ở Lê Quí Kiệt, nhưng chúa Trịnh Sâm lấy cớ
rằng Lê Quí Đôn là bậc Huân thần, bỏ đi không xét, chỉ luận thêm tội cho Quí
Kiệt, bắt giam trong ngục cấm ở cửa Đông.” [25]
Thi, với bao nhiêu là chính sách, là chiếu cố, là gởi gắm… cho nên
sỉ số tăng ghê gớm. Phan Huy Chú viết:
“… Quan Thự Phủ là Đỗ Thế Giai bàn rằng, dụng binh hao tổn
nhiều, tiền tài nhà nước thiếu thốn. Vậy, hãy cho mỗi người được nạp ba quan
rồi miễn cho họ việc khảo hạch, cũng gọi tiền ấy là tiền thông kinh! Vì
lẽ này, kẻ làm ruộng, người đi buôn, cho đến cả đám hàng thị và bọn buôn bán
vặt cũng nhất nhất làm đơn xin nạp tiền thi. Đến ngày vào thi, sĩ tử đông đến
nỗi dẫm đạp lên nhau, có kẻ chết ở cửa trường. Còn trong trường thi, kẻ mang
theo sách, kẻ hỏi chữ, lại có cả kẻ mượn người thi thay, chúng ngang nhiên làm
bậy, chẳng biết kiêng nể phép tắc là gì. Những người đậu mà có thực tài, mười
phần không được lấy một.” [26]
Chính vì những tranh chấp quyền bính và danh lợi đó, mà nhân dân
chúng ta đã uổng phí bao tài năng trong những thế kỷ người mình tự chủ.
2.5. Những điểm son văn học
Hẳn là có bao nhiêu phí phạm trong xã hội phân tranh; tuy thế, gặp
thòi bình hoặc giữa “cơn giố bụi”, dòng tiến hóa của dân tộc không thể hoàn
toàn bị tàn phá. Mỗi thực cảnh xã hội chính trị là bối cảnh của một vài điểm
son văn học. Thí dụ:
- Vì
tôn quân và tôn trọng quyền dân tộc, chúng
ta có những tác phẩm sử địa để đời như:
- Trùng
San Lam Sơn thực lục,
- Hoan
Châu phong thổ kí,
- Lê
triều đế vương trung hưng công nghiệp thực lục
- Hồ
thượng thư gia lễ.
- Việt
sử bị lãm,
- Lạng
Sơn toàn thành đồ chí.
- Thời
này cũng xuất hiện những tác phẩm văn chương chữ Nôm của Đạo Công giáo,
như đã nói, và tác phẩm Hán Nôm giá trị nho giáo như:
- Chinh
phụ ngâm khúc của Đặng
Trần Côn.
- Công
dư tiệp kí của Vũ Phương Đề [32]
- Sãi
vãi truyện thơ nôm của Nguyễn
Cư Trinh [33]
- Cung
oán ngâm khúc và
- Ôn
như thi tập của Nguyễn
Gia Thiều [34]
- Hoa
tiên truyện của Nguyễn
Huy Tự [35]
- Tụng
Tây hồ phú và Cung oán thị của
Nguyễn Huy Lượng [36] cũng
rất nổi tiếng.
- Thi
tập ngẫu hứng thì có thật nhiều,
nhất khi tác giả đi sứ:
- Sứ
hoa thi tập và Vạn
thọ thánh tiết khánh hạ thi tập của Phùng Khắc Khoan [37] nổi
tiếng. Tập Vạn thọ có lời tựa của Sứ giả Triều Tiên Lý
Chi Phong.
- Trúc
Ông phụng sứ tập của Đặng
Đình Tướng [38]
- Hoa
trình thi tập của Nguyễn
Quí Đức [39]
- Mặc
ông sứ tập của Đinh Nho Hoàn [40]
- Sứ
hoa tùng vịnh của Nguyễn
Kiều [41] và
Phó sứ Nguyễn-Tông-Quải
v.v.… đều gợi lên thời kỳ thi văn rộ nở.
Độc loại về Y học phải kể tác phẩm thiên tài y khoa Lê Hữu
Trác [42] với
bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh.
2.6. Tư tưởng và tôn giáo
Chúng ta đã nói: Tư tưởng và Lý tưởng Nho giáo suy thoái. Thời tự
chủ mà người cùng dân tộc tranh giành quyền bính này, người ta tìm lẩn trốn,
hoặc tìm lại nguồn gốc thần thiêng cội nguồn dân tộc để sống và để an tâm:
- Người ta tìm lẩn trốn
Vì thế sáng tác ra những thơ phú truyện, thưởng thức quang cảnh
thiên nhiên và hưởng nhàn,
Vì thế tư tưởng Đạo giáo phổ biến.
- Người ta tìm hòa giải
Nên Đạo Nội phát triển, nhất là sùng kính Tứ bất tử. Nên nhớ rằng
Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan được thuật lại như người đầu tiên được thánh mẫu
Liễu Hạnh hiển linh và trao sứ mạng phổ biến việc lập đền, tôn thờ thánh mẫu
này [43].
Vì chiến tranh khiến ai cũng cảm thấy cái chết bất ngờ có thể tới,
người ta trở về với tín niệm hồn bất tử, nên việc lên đồng và thờ cúng vong
linh thịnh hành. Việt Điện U Linh tập của Lý Tế Xuyên và Lĩnh
Nam Chích Quái của Vũ Quỳnh, Kiều Phú cũng ở trong vùng tư tưởng tôn
giáo này.
KITÔ giáo là một yếu tố rất mới lan tỏa thời này.
Với giáo thuyết tin yêu Thiên Chúa và đồng loại, Kitô-giáo nhẹ
nhàng vào Việt Nam từ hồi nào không rõ. Thời Lê Huyền Tông 1663-1671 mới để lại
dấu vết của sử thần (nha Nguyễn) là hai lần vua hạ lệnh cấm Đạo, một Đạo đã
truyền vào ba tổng thuộc hai huyện Trung Châu Bắc Việt (Nam Định ngày nay).
Nhưng tới Mạc Lê-Trinh và Nguyễn chúa thì người ta lại thấy có những quốc thư
gởi Macao hoặc Roma để xin nhà truyền Đạo. Đây đó, người ta đã thấy những thánh
đường Công Giáo và những nghi lễ thờ kính Chúa, nghi lễ hiếu hỉ cho người theo
đạo, rất được dân ta trọng vọng…Rồi lại có những lần chính quyền trục xuất
người truyền đạo và cấm dân theo đạo.
Ngoài những kinh sách truyền đạt giáo lý, Văn chương quốc âm phải
kể những ca vãn song thất lục bát của công giáo, những truyện các thánh và sách
“gương tội”, “gương phúc”, “truyện Thày Lazaro Phiên” đã khai sinh dòng văn
xuôi quốc âm, một thể loại độc đáo chỉ gặp thấy nơi “nhà đạo”. Một mai, nếu
được tái xuất, những tác phẩm thi văn chữ nôm của Linh mục Lữ Y Đoan và công
nương Catarina chị chúa Trịnh sẽ chói sáng.[44]
Chỉ cần đọc Bài Giảng Trên Núi của sách Tin Mừng theo Matthêu hoặc
một tác phẩm nào trong Tân Ước cung thấy được rằng đạo lý Kitô giáo thật sự đáp
ứng mong muốn mãnh liệt của nhân dân Việt Nam trong triều chính “huynh đệ tương
tàn” đó. Những tín đồ đầu tiên của Kitô giáo thật sự đã đem vào Văn Hóa Việt
Nam nhiều yếu tố mới .
Như thế, thời này có thể băng hoại về kinh tế và chính trị, nhưng
tận thâm tâm người dân Đại Việt vẫn thành tín và trân trọng Trời, Đất, Con
Người và vạn vật.
[39] Văn hóa Việt Nam thời Nguyễn
Về bờ cõi giang san, Nguyễn Gia Long đã thu phục được rộng hơn bao
giờ hết ; nhưng về văn hoá, Nguyễn triều có mang lại được gì tốt đẹp hơn hoặc
khôi phục được những giá trị cổ truyền từ thời Lý Trần?
1. Bối cảnh lịch sử xã hội
Năm 1786, Nguyễn Ánh đánh bật Nguyễn Lữ khỏi vùng Gia Định [45].
Liền bốn năm sau đó, ông luôn luôn tổ chức những “trận giặc mùa”: lợi
dụng gió mùa để kéo hải thuyền ra tấn công Nguyễn Nhạc. Tháng 3 năm 1799, ông
hạ Qui Nhơn và đổi là Bình Định.
Tháng 6 năm 1801, Nguyễn Ánh đánh bật triều đình Tây Sơn của
Nguyễn Quang Toản và chiếm lại Phú Xuân. Một năm tiếp theo là những bước tiến
thần tốc, như không có gì cản trở được, vì thế, tháng 7.1802 Nguyễn Ánh đã là
ông vua một nước Việt Nam thống nhất lớn hơn bao giờ hết trong lịch sử Đất
Nơ]sc ta.
- Giai
đoạn đầu: 1802-1884
82 năm các vua nhà Nguyễn mặc tình thi thố tài năng cai trị một
nước Việt Nam độc lập, với vài người Âu cố vấn.
Thực ra, ngay từ đầu, vẫn phải chịu ảnh hưởng của Trung Hoa. Lê
Quang Định được cử làm chánh sứ sang Trung Hoa xin phong vương và nhìn nhận tên
nước là Nam Việt. Năm Giáp Tí [47],
Thanh triều mới cử Tề Bồ Sâm, Án sát Quảng Tây, sang phong vương cho Gia Long
Nguyễn Ánh, và đặt tên nước là Việt Nam. Vì Nam Việt của Triệu Đà xưa gồm cả
một phần Nam Trung Hoa. Thế kỷ XIX năm Bính Dần [48] tại
điện Thái Hòa, Gia Long chính thức xưng Đế.
Thực ra, năm 1858 Pháp bắt đầu kế hoạch thực dân, năm 1862 chúng
chiếm ba tỉnh miền Đông. Sau năm năm [49],
triều Nguyễn đã phải ký thỏa ước nhường trọn sáu tỉnh miền Nam Việt Nam, nơi đã
từng là đầu cầu cho quân Nguyễn về tấn công khôi phục toàn quốc. Từ 1873, Pháp
lại biểu lộ dã tâm chiếm toàn quốc Việt Nam khi tấn công Hà-Nội.
Dầu sao, cho tới hòa ước Patenôtre Pháp ký với triều Nguyễn [50] và
Hòa ước Thiên Tân Pháp ký với Thanh triều, thì trên pháp lý, triều Nguyễn mới
đánh mất chủ quyền độc lập của Việt Nam [51] và
phải điều hành đất nước theo cây gậy lãnh đạo của Thực dân Pháp.
- Giai
đoạn thứ hai: 1884-1945
Điểm chung của giai đoạn này là thực quyền của người Pháp trên
quyền hành vua quan.
Nếu nhìn qua lăng kính dân tộc, người ta có thể coi
như hai chặng:
- 1884-1916:
bảo vệ chủ quyền hoàng-việt, Hoàng đế, thí dụ Hàm Nghi, Duy Tân; triều
thần cũng còn nhiều cương quyết bảo vệ chủ quyền cho dân tộc hoặc cho vua.
- 1916-1945:
cố giữ ngai vàng. Vua không còn thực quyền nào, nhưng vẫn gắng giữ ngai
vàng, dù phải hy sinh hết quyền lợi của nhân dân. Đó là khi Đồng Khánh và
Bảo Đại sợ mình đi phải vết xe Duy Tân.
Gia Long từng theo luật Thanh triều, giành quyền lo cho dân nước;
nhưng khi triều đình càng yếu nhược, nhân dân càng cảm thấy mình có nhiệm vụ
bảo vệ nòi giống: các đảng phái chính trị đứng ra tổ chức lãnh đạo quần chúng
đấu tranh, và họ có cách làm của họ, kiên trì mãi tới thành công.
2. Những đặc điểm
văn hóa thời Nguyễn
2.1. Phục hưng và thanh lọc
văn hóa Nho giáo
Ngay từ năm Canh Tí, 1780, khi chưa tiến qua được vương quốc Tây
Sơn, Nguyễn Ánh đã mở khoa thi Hương tại Gia-định. Vậy mà khi thống nhất giang
san rồi, các vua nhà Nguyễn cho tuyển sinh đậu rất ít, để tìm thực lực và lấy
lại giá trị cho khoa bảng.
2.2. Văn chương chữ Nôm
Cựu Hồ Nguyễn Tây Sơn, cũng giống như nhà Hồ trước đây, chủ trương
dùng chữ Nôm để toàn dân có thể thưởng thức được nội dung các bản văn triều
đình và xã hội, cũng như thưởng thức những công trình thi văn của người mình.
Triều Tây Sơn phù du qua giòng lịch sử, triều Nguyễn Phúc cố lập lại thượng
phong Nho-học, nhân dân chúng ta cũng gặt hái được những tác phẩm giá trị
bậc nhất của văn chương chữ Nôm, như:
- Đoạn
trường Tân Thanh của Nguyễn
Du
- Thơ của Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan
- Lục
Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
- Các thể loại thi ca của nhiều nho sĩ như Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, Cao Bá Nhạ, Trần Tế Xương v.v.
2.3. Văn chương quốc ngữ và
tính phổ biến văn học
Thứ chử mà văn nhân thi sĩ trong dân chúng ta dùng cả ngàn năm,
chỉ là chữ Hán. Thứ chữ mấy trăm năm lưu dụng trong cả xã hội và tôn giáo,
trong cả những tác phẩm giá trị thật cao, vẫn chỉ là chữ Nôm. Còn thứ chữ mới,
chính thức được phổ biến từ ông vua cuối triều Nguyễn, liền được coi là QUỐC
NGỮ! Thực không nhờ quyền lực và thế lực nào hơn là do giá trị nội tại của
loại mẫu tự Việt-hóa từ La-tinh này với cách kết cấu rất khoa học nhưng đơn
giản, mà những thế hệ truyền đạo Thiên Chúa đã dầy công tạo hình cho nó.
Với thứ văn tự này, người Việt Nam chỉ cần học ít tháng là có thể
đọc tất cả các sách và viết ra mọi cảm nghĩ của mình, thay vì mất cả chục năm
như thời học Hán Nôm.
Tứ đó, tỉ lệ người bình dân biết đọc biết viết tăng vọt với cấp số
nhân. Những nhà văn, nhà thơ quốc ngữ vừa đông, vừa gồm mọi lứa tuổi và địa vị
xã hội.
Cũng do đó, chữ quốc ngữ góp phần rất lớn trong tiến bộ xã hội của
dân tộc ngay từ thời Nguyễn.
2.4. Học chánh
Trước hết Học chánh triều Nguyễn tự chủ vẫn là NHO HỌC. Chỉ khi
chịu Bảo Hộ, việc học mới đổi sang Tân Học và Chữ Quốc Ngữ.
2.4.1. Nhìn chung
Nhà Nguyễn phục hưng và ủng hộ Nho giáo, để tổ chức mọi tầng lớp
xã hội hướng về hoàng đế và tùy thuộc triều đình. Chính vì thế mà
- Triều
Nguyễn, ngay từ khi chưa thống nhất giang san, đã mở các khoa thi để tuyển
chọn người có học; nhưng trải qua hàng thế kỷ “lính vua, lính chúa,
lính làng…” đâu còn được bao nhiêu thanh niên, càng không còn mấy
người có học. Tất nhiên người đậu không nhiều và khó có người xuất
sắc. [52]
- Nguyễn
Ánh thu dụng nhiều danh nho của thời Lê - Trịnh - Tây Sơn như Trần Văn Kỷ,
Ngô Thời Nhậm, La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, Phan Huy Ích.
- Nhà Nguyễn thống nhất giáo dục và thi cử, sửa lại các luật thi cho thống nhất và nghiêm minh, sửa lại học vị.
Người đậu thi Hương được gọi là Cử Nhân, được ghi danh vào Hổ
Bảng [53],
được cấp thẻ đồng, dự yến Lộc Ninh và đương nhiên được vào kinh dự thi Hội.
Nếu trong kỳ thi Hương, ai chỉ đậu 3/4 thì được gọi là Tú Tài, ghi
danh ở Mai Bảng [54],
dự yến Lộc Ninh, nhưng không được thẻ đồng và không được dự thi Hội. Muốn vào
thi Hội thì năm sau phải thi và đậu Hương thí.
Thi Hội có đậu Chánh bảng thì sau đó mới được vào thi Đình, đậu
Phó bảng thì không đuợc. Tiến sĩ hoặc người đậu đại khoa này được nêu tên trên
Kim Bảng [55],
cũng gọi là Long Bảng [56].
2.4.2. QUỐC TỬ GIÁM và QUỐC SỬ QUÁN
Nói chung, hai cơ quan này đã có từ trước, nhưng triều Nguyễn vẫn
làm mới lại:
a/ Quốc tử giám
Lý Nhân Tông [57] đã
khai sinh Quốc tử giám năm 1076 với ba quan chức: Tri giám, Quốc tử giám tế tửu
và Quốc tử giám tư nghiệp.
Gia Long đệ tam niên [58],
Quốc tử giám được thành lập ở Huế với hai quan chức: Chánh Đốc học và Phó Đốc
học.
Quốc tử giám thời Nguyễn qui tụ những ai?
“Sai chọn con em của các nhà tôn thất từ 10 tuổi trở lên và từ
15 tuổi trở xuống cho được vào học tại nhà Quốc tử giám” [59].
Thực ra, người được qui tụ về Quốc tử giám không đông, nhưng ảnh hưởng khuyến
học của nó thì lan ra cả nước.
b/ Quốc sử quán
Cơ quan này chịu trách nhiệm biên soạn và lưu trữ mọi tài liệu
liên quan đến nhà nước. Triều Trần đã lập Quốc sử viện từ sáu thế kỷ trước và
đã tuyển chọn được nhân tài để làm việc trong cơ quan này:
“Mùa Xuân, tháng Giêng năm Nhâm Thân [60] quan
giữ chức Hàn Lâm viện Học sĩ kiêm Quốc sử viện Giám tu là Lê Văn Hưu vâng sắc
chỉ soạn xong bộ Đại Việt Sử Ký chép sử từ Triệu Vũ Đế đến Lý
Chiêu Hoàng, gồm 30 quyển, đem dâng lên, vua xuống chiếu khen ngợi.” [61]
Gia Long lập Quốc Sử Quán, nhưng công trình xây dựng chỉ hoàn
thành năm 1821, thời Minh Mạng. Chính ông vua này đích thân đến kiểm nhận công
trình và cho khắc bia đá trước cổng: Khuynh Cái Hạ Mã.
Dù bạn là quan chức, qua đây Bạn phải xuống ngựa và nghiêng lọng.
Nhìn qua các chức vụ cũng thấy tầm quan trọng người xưa đặt ở Quốc
Sử Quán: 1 Tổng tài, 1 Phó Tổng tài, 10 Toản tu [62],
25 Biên tu [63],
5 Hiệu Khảo [64],
12 Thu Chưởng [65],
8 Đằng Lục [66].
Số nhân viên có thể thật đông, theo nhu cầu.
Đây là một trong những cơ quan còn để lại nhiều tài liệu văn hóa
thật quí, bởi họ đã làm việc nhiều. Thí dụ:
- Kêu
gọi và sưu tầm tài liệu sách vở trong toàn quốc
- San
định, nhuận sắc và cho khắc in nhiều thư tịch cổ. Thí dụ bộ Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư [67].
- Biên
soạn nhiều công trình lớn, thí dụ:
- Khâm
định Việt sử Thông giám cương mục (52 quyển)
- Đại
Nam thực lục (453 quyển)
- Đại
Nam liệt truyện (87 quyển)
- Tạo
thành phong trào học tập, nghiên cứu sâu rộng. Từ đó có được những nhân
tài lớn, như nhà bách khoa toàn thư Phan Huy Chú
(1782-1840), người để lại nhiều tác phẩm lớn như:
- Lịch
triều hiến chương loại chí (49 quyển)
- Hoàng
việt địa dư chí (2 quyển)
- Lịch
đại điển yếu thông luận…
2.5. Thi xã
Chúng ta đã biết Tao Đàn, nhị thập bát tú của Lê
Thánh Tông, thế kỷ XV, là một thi xã. Chiêu Anh các của
nhóm Mạc Thiên Tứ, thế kỳ XVIII, cũng là một thi xã. Chúng ta nhắc qua Bình
Dương thi xã rồi Bạch Mai thi xã thời Nguyễn.
- Bình
Dương thi xã khi chào
đời, sau ngày Gia Long lên ngôi, mang tên Sơn Hội ở Gia
Định; nhưng nó nổi tiếng từ khi đã là Bình Dương Thi xã với điểm tụ Gò
Cây Mai:
“Gò Cây Mai nằm về phía nam Trấn thành [68],
cách trấn thành ba mươi dặm rưỡi. Nơi đây đất nổi gò cao, trên gò ấy có nhiều
cây mai thuộc giống Nam Mai, gốc và cành rườm rà, nhưng khi nở ra, cánh hoa
không có tuyết, chỉ có lá đỡ và mùi thơm mà thôi. Thứ hoa này thụ bẩm được linh
khí mà sinh ra, cho nên, không thể đem trồng ở nơi khác được. Trên Gò Cây Mai
có ngôi chùa gọi là chùa An-Tôn. Từ nơi đây, đêm đêm vang lên tiếng đọc kinh,
ngày ngày có chuông sớm trống chiều rền trong mây khói, cảnh sắc thật thanh u
kỳ lạ. Dưới Gò Cây Mai lại có con suối chảy quanh, các cô gái chiều chiều chèo
ghe nhỏ đi hái sen. Những khi có tiết đẹp thì văn nhân tài tử rủ nhau mang bầu
rượu túi thơ, leo lên trên gò mà ngâm vịnh xướng họa. Dưới gốc mai, thơ và hoa
cùng thi tỏa hương nồng, đó quả là thắng cảnh của du khách.” [69]
Thật nhiều người tham gia thi xã này, nhưng nổi nhất hẳn là Gia
Định tam gia : Trịnh Hoài Đức, Ngôn Nhân Tĩnh và Lê Quang Định.
Bạch Mai thi xã ra đời nửa thế kỷ sau Bình Dương thi xã. Tụ điểm chính vẫn là Gò
Cây Mai;nhưng nội dung thi ca thì khác lắm rồi, vì vương quyền nhà Nguyễn và
chủ quyền dân tộc bị đe dọa nặng nề. Tác phẩm chủ yếu văn Nôm của những người
tiêu biểu như Phan Văn Trị, Nguyễn Hữu Huân, Huỳnh Mẫn Đạt…
Bạch Mai thi xã tan rã cùng với thành Gia Định thất thủ ngày
17.2.1859.
Nói chung, khi phục hưng và chấn chỉnh việc học Nho và đạo Nho,
nhà Nguyễn đã nhắm tới lợi ích phổ biến “Trung Quân” Chính các nho sĩ ở khắp
nơi và trong mọi giai tầng nhân dân sẽ theo và đòi hỏi người khác theo khuôn
thước nho giáo: Tam Cương, Ngũ Thường. Thế là thêm vào Hình Luật Gia Long, có Nhân-trị
của đạo nho.
3. Tổ chức Hành chánh
Đạo nho làm nên nét văn hóa tinh thần, tổ chức hành chánh làm nên
văn hóa xã hội và vật thể.
Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, nhà Nguyễn tổ chức hành chánh
dưới triều đình: Tỉnh xuống Phủ xuống Huyện xuống Tổng xuống Xã xuống Thôn
Làng.
Chính quyền các cấp dưới huyện đều do dân cử; triều đình không bổ,
mà chỉ nhìn nhận. Trung ương cũng chẳng cần “xuống nắm địa phương”. Tất nhiên
mỗi cấp dưới cũng chịu ảnh hưởng quyết định của cấp trên.
Tại mỗi thôn làng, nhà Nguyễn cũng cho xây Đình, vừa làm nơi nhắc
nhớ anh hùng liệt nữ, những ân nhân của làng, vừa là nơi tụ họp hội hè và bàn
bạc việc chung lớn nhỏ.
Hai nét đó đủ cho thấy “cái ách” triều đình nặng nhẹ tuỳ tinh thần
địa phương. Thực chất thì chính quyền không có thủ đoạn bó dân hoặc “bàn tay
sắt bọc nhung”.
4. Tôn giáo
Nho giáo là chính đạo của triều Nguyễn. Bên cạnh đó, triều đình
không có vấn nạn nào về Phật giáo, Lão giáo và nhất là Đạo Nội, ngoài ra việc
gắng quy tụ dưới quyền hoàng đế.
Khi kiến thiết kinh thành Huế, Triều đình cũng quan tâm tới đàn
Nam Giao. Việc nhà vua thay toàn dân tế Trời là theo tinh thần phổ quát cổ
thời. Nhà Nguyễn đưa vào pháp luật. Việc tế giao cũng được qui định rất
trang trọng [70].
Thêm vào đó là những qui định để tôn giáo ủng hộ chính quyền. Vì thế, nói chung
các vua Nguyễn đề phòng Thiên Chúa Giáo, dầu chính nhờ một vị Giám mục trong
tôn giáo này mà Gia Long gượng lại được trước những đòn chí mạng do Tây Sơn.
Ủng hộ Đạo Nội, tiếp nối thêm việc tôn sùng Thánh Mẫu miền
Nam với thần tích và đền thờ Bà Đen. Ngay ông vua cuối thời độc lập nhà Nguyễn
là Tự Đức, ông vua sùng Nho, cũng “can thiệp vào tất cả các đền thờ bằng
cách gia phong cho tất cả các thần trong nước…” [71]
Chúng ta cũng biết chuyện Nguyễn Công Trứ được dân Kim Sơn Tiền
Hải ở Ninh Bình và Thái Bình lập miếu “thờ sống” vì công khẩn điền lập ấp, mà
bị triều Nguyễn giáng chức và triệu hồi…
Nói chung, cũng như trong mọi chính thể tập quyền, Văn Hóa bị
chính quyền mưu đồ nắm giữ, nhưng đó vẫn là của Toàn Dân. Cũng chính vì chủ
trương tập quyền, mà triều Nguyễn công khai cấm Đạo Thiên Chúa gay gắt và lâu
dài hơn hết. Mà một trong những lầm tưởng chính là coi Thiên Chúa Giáo như phát
xuất từ Âu châu Đồng thời khẳng định rằng không theo lệnh vua mà bỏ Đạo là coi
thường triều đình. Đối lại, một số thừa sai hiểu lầm răng “đạo hiếu” là tôn
giáo và do đó “thờ ông bà cha mẹ” là “đa thần, là mê tín”. Từ sai lầm đó, phía
chính quyền nghiêm trị, phía giáo dân cho rằng mình phải làm chứng cho sự thực: ”Một Thiên Chúa duy nhất được tôn thờ; dù biết ơn và tôn kính, người không thờ
người”.
[44] Xin đọc thêm trong “Lịch sử văn học Công
Giáo VN.”cúa Võ Long Tê, NXB.Tư Duy.1965 hoặc “Công giáo trên Quê hương Việt
Nam” q.1. Nguyễn Thế Thoại
[51] 1965 thời Paul Ely toàn quyền cuối cùng,
Pháp mới trao trả độc lập Việt Nam cho chính phủ Tổng thống Ngô Đình Diệm.
[40] Giao lưu văn hóa Việt-Âu trước thời
Nguyền
Nói về giao lưu văn hóa Việt-Âu, chúng ta có thể chia làm hai
chặng: Trước thời Nguyễn và Trong thời Nguyễn, hoặc từ thế kỷ XVI tới 1802 và
từ 1802 tới 1956.
Trước thời Nguyễn, yếu tố Âu châu mang văn hóa vào Việt Nam, hầu
hết là những người theo Thiên Chúa giáo, thuộc ngành Kitô Công giáo Roma. Họ đa
số là nhà buôn, số rất ít là nhà truyền giáo, mà vẫn phải nhờ phương tiện nhà
buôn để tới và trụ lại trên đất nước chúng ta. Thiên Chúa Giáo, danh xưng đúng
hơn là Kitô giáo, phát sinh từ Ysrael , ở Tây Băc Á, truyền qua đế quốc
Roma từ đầu công nguyên. Từ thế kỷ thứ Năm đến thứ Tám các dân du mục – xưa gọi
là man di – từ bắc phương chia nhau đế quốc Roma, đã theo Kito giáo, lập
thành các nước châu Âu.
1. Bối cảnh lịch
sử
Chúng ta đã biết
1.1 Lịch sử thế giới ghi nhận rằng:
“Thế kỷ XV, khi người Bồ Đào Nha và Y-Pha-Nho chiếm đất thực dân,
thì phần đông các nước Châu Âu về kinh tế đã hướng theo chiều tư bản chủ nghĩa,
về chánh trị áp dụng chánh sách quân chủ chuyên chế. Tại Bồ Đào Nha, một nước
nhiều thị trường nhất, vua Jean II [1] không thèm triệu tập quốc hội nữa.
Vua chiếm hết các nguồn lợi ở thuộc địa. Từ năm 1503, vua đứng ra
mua gia vị, cho bọn trung gian bán lại. Lợi về phần vua từ 50 đến 60 phần trăm.
Ở Ba Tây, lúc đầu người Bồ Đào Nha nào cũng được tới buôn bán miễn
là nộp 10 phần trăm tiền lời mua bán nô lệ và 28 phần trăm tiền lời các thứ
hàng hóa nhập cảng khác. Nhưng về sau bọn quan lại chiếm độc quyền thương mãi.
Từ thế kỷ 16 trở đi vua Bồ Đào Nha trực tiếp tổ chức công việc cai
trị thuộc địa để củng cố uy quyền của họ ở đó. Các hội buôn ở Ấn Độ, Châu Phi
và Ba Tây dần dần lọt vào các xí nghiệp thương mãi vĩ đại do vua làm chủ.
Người Y-Pha-Nho khi tìm được Tân thế giới chỉ chiếm giữ quần đảo
Antilles. Họ bắt đầu khai thác đồn điền…
… Dần dần người Y-Pha-Nho chiếm cả đại lục trừ xứ Ba Tây [2] của người Bồ Đào Nha và vùng Đông Bắc Mỹ đến thế
kỷ 16 bị người Anh và Pháp chiếm cứ…[3]
Sự phát triển hàng hải của người Bồ Đào Nha và sự mở mang đế quốc
thực dân của người Y-Pha-Nho gây nhiều ảnh hưởng quan trọng cho nền kinh tế thế
giới.
Ảnh hưởng đầu tiên là các đường giao thương giữa châu Á và châu Âu
thay đổi làm cho các hải cảng Đại Tây Dương phát đạt mà các hải cảng Địa Trung
Hải sa sút…
Về mặt tinh thần, kiến thức loài người nhờ những phát kiến vĩ đại
ấy mà mở rộng thêm. Những điều mới lạ thức tỉnh óc khoa học, thúc giục con
người lao mình vào công cuộc tìm tòi, nghiên cứu…” [4]
Về phương diện nghiên cứu triết học, thần học và các khoa học tự
nhiên, nước Pháp không thua dân tộc nào ở Âu châu hồi đó; nhưng về hàng hải,
còn lâu Pháp mới theo kịp Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và xứ Venitia. Mãi năm 1598,
Pháp mới chiếm được một phần nhỏ ở Bắc Mỹ châu, tức vùng Virginie và Canada.
Phải tới thời Louis XIV với 72 năm cai trị [5],
Pháp mới có hải thuyền sánh được với Anh và Hòa Lan. Tuy thế, khi máy hơi nước
ra đời, Anh sẽ vượt lên xa các nước, rồi trở thành vương quốc rộng nhất trong
thế kỷ XIX.
1.2. Lịch sử Giáo Hội Kitô-giáo
Lịch sử Giáo Hội Kitô-giáo cũng cho người ta quan niệm rằng hàng
chục thế kỷ Giáo Hội này lan tràn khắp Âu châu tới biển Bắc Băng Dương và Đại
Tây Dương và miền Bắc Phi, tới vùng Sa mạc mênh mông miền Nam…. Họ ngưng tại
đó, vì cứ tưởng rằng đã thi hành xong lệnh truyền của Ngài Sáng Lập, Đức
Kitô: Loan báo Tin Mừng đến tận cùng thế giới.
Khi hàng hải phát triển, người ta mới thấy rằng còn những dân tộc,
những vùng đất chưa nghe loan báo Tin Mừng. Giáo Hội Kitô-giáo, đứng đầu là
Giáo-hoàng, phải tìm cách cho thày giảng tới những vùng “đất mới” này.
Không có phương tiện, Giáo hoàng của thế kỷ XV và XVI ủy cho
triều đình Bồ Đào Nha nhiệm vụ truyền Đạo và bảo trợ nhà truyền giáo, vì những
người đó đều là Kitô-hữu.
1.3. Lịch sử Việt Nam trong Đông Nam Á
Lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI bắt đầu với Lê Túc Tông, tiếp liền Lê
Uy Mục không thể đứng vững, nếu không có Mạc Đăng Dung trợ lực; nhưng chỉ một
phần tư thế kỷ sau, nhà Mạc bắt đầu chia cắt giang san nhà Lê. Chúng ta đi vào
nội chiến với Lê - Mạc - Trịnh - Nguyễn Tây Sơn, Nguyễn Phúc. Phe nào cũng muốn
thắng, nên phe nào cũng tìm thế lực ngoài yểm trợ. Cố vấn Tây Phương và vũ khí
Tây Phương còn quan trọng trong chiến tranh hơn hàng hóa vải vóc và đồng hồ…
Người và hàng hóa đương nhiên mang theo những yếu tố văn hóa. Âm
thầm, vua chúa và nhân dân chúng ta đã chủ động tiếp thu và bắt đầu giao lưu
văn hóa với Tây Phương.
Cũng ngay từ thế kỷ XVI, các nhà truyền Đạo Kitô theo các tàu buôn
Bồ Đào Nha vào Việt Nam. Để có nơi ở và phương tiện sống, họ thường làm nhân
viên của công ty hoặc của thương điếm. Ngoài những giờ làm việc đó, họ truyền
Đạo. Để dễ hiểu, người ta đặt lên và gọi Đạo Kitô là “Hoa Lang Đạo ”.
Khi nào vui vẻ vì thương thuyền và hàng hóa, tặng phẩm v.v.
các vua chúa Việt Nam cho họ tự do truyền giáo và người dân theo Đạo. Khi nào
thấy bất lợi và nghi ngờ họ làm lợi cho đối phương , vua chúa ra lệnh ngăn cấm.
Sang thế kỷ XVI và XVII, khi Tây Ban Nha thành cường quốc kinh tế
và đế quốc chinh phục Tân Thế Giới Mỹ châu, họ cũng chinh phục mấy ngàn hòn Đảo
trong Thái Bình Dương, ở về phía Đông Nam nước ta, làm nên một nước mang tên
vua Tây Ban Nha, nước Philippines. Vì trước chưa hề thành một dân, một nước,
nên Tân quốc gia này rất sớm bị Tây-hóa và trở thành nước Công-giáo duy nhất ở
Á-châu. Các nhà buôn và các thừa sai truyền giáo tại Trung Hoa, Nhật Bản, Việt
Nam và Chiêm Thành, Châm, Chân Lạp cũng thêm những người mang quốc tịch Tây Ban
Nha, rồi Pháp, Italia. Tuy mang quốc tịch khác nhau, có khi dòng giống khác
nhau, họ đều là những nước đang phát triển nhờ văn hóa Công-giáo. Họ đến, không
chỉ truyền Đạo, mà gián tiếp cũng mang vào những yếu tố văn hóa Tây Phương của
văn minh Thiên-Chúa-giáo.
Nguyễn Hiến Lê nhận xét đơn giản:
“Từ thế kỷ 17, người Âu đã sang buôn bán ở nước ta. Trước hết,
người Bồ Đào Nha mở thương điếm ở Hội An, thuộc tỉnh Quảng Nam, đồng thời người
Hòa Lan cũng mở thương điếm ở Phố Hiến (Hưng Yên). Người Bồ Đào Nha giúp khí
giới cho chúa Trịnh, người Hoà Lan giúp khí giới cho chúa Nguyễn.
Sau, Anh và Pháp theo gót, xin vào buôn bán. Lúc đó, đã có một số
giáo sĩ vào truyền đạo Da-tô, khi thì được lưu thông dễ dàng, khi thì không.
Tóm lại, ảnh hưởng của người Âu chưa có gì.” [6]
Hẳn chúng ta nên nhìn kỹ hơn và phân tích kỹ hơn.
2. Vài nét văn hóa Tây-phương vào Việt Nam trước 1802
2. Vài nét văn hóa Tây-phương vào Việt Nam trước 1802
Dầu “đơn giản hóa vấn đề”, chúng ta vẫn cần ghi nhận:
2.1..Gián tiếp và Trực tiếp
Trước hết, có thể nói văn hóa Tây phương vào Việt Nam theo đường
gián tiếp và trực tiếp. Gián tiếp do thương mại cổ thời (như thấy trong di chỉ
Trăm Phố). Gián tiếp qua ngả Trung quốc, Nho sĩ và chữ Hán. Trực tiếp do
chính người Tây phương du nhập.
Ngay từ thời Tây Hán, nhiều nhà truyền giáo Kitô-giáo đã tới Trung
quốc. Thời Nguyên thống trị Trung Hoa, có những người Âu như Marco-Polo được bổ
nhiệm vào những chức vụ cao trong triều. “Minh Thái Tổ sau khi đuổi người
Nguyên, bài xích người Tây phương triệt để. Đến năm 1516, vua Vũ Tôn mới cho
người Bồ Đào Nha đến ở Quảng Châu. Kế đó, người Anh, Hòa Lan, Y Pha Nho [7] cũng được tới Trung Quốc buôn bán và truyền Đạo.
Năm 1601, Ricci [8] được vua rước tới Bắc Kinh dạy hoàng thái tử.
Giỏi khoa học, ông dịch hình học Euclide ra tiếng Mãn Thanh, cùng làm sách Vạn
Quốc Dư Đồ. Kế ông, có người Đức Schall. Ông này lập một xưởng đúc súng (1636).
Ngoài ra, giáo sĩ dòng Jésuite [9] còn đến truyền bá các thứ khoa học như Thiên văn
học, Lịch pháp, cơ khí học, số học, địa lý học, dược học, pháp thuật v.v.…
Khoa học Tây phương bắt đầu truyền sang Trung Quốc từ đó.” [10]
Với cầu hán tự, những gì thuộc Văn Hóa Tây phương nhập vào Trung
quốc, cũng không bao lâu sau có ở chúng ta. Ngay đến cuốn Giáo-lý Công giáo của
Cha Ricci cũng thành sách học đạo của một số nho sĩ và sách dạy Đạo của một số
“thầy giảng” tiên khởi Việt Nam, thế kỷ XVI-XVII. Những sách khoa học do giáo
sĩ này sáng tác cho người Tàu, hiển nhiên cũng có nhiều người Việt hoặc Nhật,
hoặc Cao-ly đọc và học thêm văn hóa Tây phương.
Trực tiếp là chính các người Âu tới buôn bán hoặc truyền Đạo hoặc
phục vụ triều đình cũng mặc nhiên hoặc công nhiên truyền bá văn hóa của họ vào
cho người Việt Nam.
2.2. Từ thương
phẩm tới vũ khí, từ lái buôn đến cố vấn và giáo sĩ truyền giáo.
Chúng ta đều biết: Con đường tơ lụa có thể là “xa
lộ quốc tế dân dụng” đầu tiên nối liền hai ba đại lục và hàng hóa chuyên chở
trên đó đa phần từ Nam Đông phương sang Tây phương và Trung Cận Đông: Tơ lụa,
tiêu, ớt,… đá quí, đồ gồm sứ và đồ đồng.… Nhưng vải dệt máy và súng đạn thì
Tây phương tiến bộ hơn Đông phương trầm lặng. Chính vì thế, khi khai thác đường
hàng hải thì tàu Tây chở sang những vải dệt máy, đồng hồ… và súng đạn.
Khởi đầu, chính vì Tây phương kỹ nghệ hóa sớm hơn, mà cũng vì
chúng ta nội chiến nhiều hơn.
2.3. Tôn giáo và
học thuyết xã hội
Dầu từ những bộ tộc du mục, mang dòng máu hiếu động và hiếu chiến,
người Tây phương cũng đã hàng chục thế kỷ học làm nông và theo đạo lý
Kitô-giáo [11],
nhưng họ vẫn mang khuynh hướng xã hội tự do, bình đẳng. Họ tin sức mạnh của
công lý. Có gạt đạo lý qua bên, họ cũng tin mạnh được yếu thua.
Khác hẳn quan niệm tam cương ngũ thường của Nho giáo và lề
thói các dân tộc Đông Nam Á châu chúng ta.
Chính vì thế, từ thế kỷ XVI tới nay, các chính quyền ở Việt Nam
(giống như cả vùng) thường vẫn ưa thích và lợi dụng văn hóa phẩm và con người
Tây-phương, nhưng lại đề phòng, ngăn ngừa hoặc nghiêm khắc cấm đoán việc truyền
Đạo Kitô, nhất là chi Giáo Hội Rôma, vì chi này tổ chức chặt chẽ hơn các chi
hội “cải cách” hoặc “tân giáo”, hoặc gọi chung là “tin lành”. Ngay đến anh em
Tây Sơn, người “đạo dòng”, một khi nắm quyền cũng theo cung cách đó.
Mặt khác, tin hay không tin, người ta vẫn phải nhận rằng bạo
lực chẳng bao giờ có kết quả tốt đẹp lâu bền.
Chính vì thế, mà mỗi khi “nới lỏng” hoặc “làm ngơ”, chính quyền
lại thấy số tín đồ Công-giáo đã tăng quá mức mình tưởng và chấp nhận. Năm 1658
có chừng 300.000 tín đồ Công-giáo người Việt Nam. Dầu loạn lạc, dầu chiến tranh
chết chóc, dầu chính quyền cấm đoán, năm 1848, khi Minh Mệnh nằm xuống sau ba
lệnh cấm Đạo chính Ông ban hành, số tín đồ Công giáo vẫn lên tới 420.000.
Kết quả: Khung trời Tôn giáo ở Việt Nam, từ thế kỷ XVI đã thực tế
có thêm những người và nét văn hóa Kitô-giáo: trong kiến trúc, thi ca, quan
niệm và tổ chức đời sống. Những nét văn hóa Công-giáo không dễ hòa đồng vào với
các tôn giáo khác, ngoại trừ hình thức cung kính và thi ca.
[1] 1495-1521
[2] Bresilia
[3] Thật
khó hiểu: “Từ1506”, “từ thế kỷ XVI”, “đến thế kỷ XVI”… tác gỉa muốn nói về
những năm nào? Năm nào Bồ Đào Nha? Năm nào Tây Ban Nha? Năm nào người Anh?!
[4] Nguyễn
Hiến Lê - Thiên Giang, Lịch Sử Thế Giới, cuốn III,
ch. III
[5] 1643-1715
[6] Sđd.
IV, tr. 100-101
[7] Y
Pha Nho = Tây Ban Nha = Espana = Espagne
[8] Giáo
sĩ Matteo Ricci “Lợi Mã Đậu”
[9] Quen
gọi “Dòng Tên”
[10] Nguyễn
Hiến Lê, sđd, tr. 173-174
[11] “Anh
em chỉ có một Cha trên trời, một Thầy là Đức Kitô, còn tất cả là anh em.”,
Kinh Tân Ước, Mt 23, 8
PHẦN
IV
VĂN
HÓA VN.
THỜI TOÀN CẦU HÓA
10. Giao
Lưu Văn Hóa Việt Âu
11. Văn
Hóa VN. thời toàn cầu hóa
12. Bảo
tồn di sản văn hóa
12.
GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT ÂU
“Nói đến đài kỷ niệm dựng ở Hà nọi năm 1941 để ghi ơn giáo
sĩ Alexandre de Rhodes, Học giả Nguyễn Văn Tố đã viết: ’Mỗi khi chúng ta đi qua giữa cảnh trí này,
chúng ta sẽ tưởng niệm cùng một lúc cụ Hàn Thuyên, cha đẻ chữ Nôm, và vị giáo
sĩ Dòng Tên, ngoài việc hoàn thành chữ Quốc Ngữ, còn cống hiến cho ta những
tài liệu quan trọng về lịch sử ngôn ngữ Việt Nam” [1].
Đối chiếu Hàn Thuyên và Alexandre de Rhodes,
học giả Nguyễn Văn Tố muốn chúng ta lưu ý đến công trình tiên phong của Hàn
Thuyên trong việc phát động nền văn học chữ Nôm và của Alexandre de Rhodes
trong việc phát động nền văn học chữ Quốc Ngữ “. [2]
[41] Giao lưu văn hóa Việt - Âu thời Nguyễn
Mấy thế kỷ trước
Nguyễn triều, vua Lê và Chúa Trinh, vua Mạc và chúa Nguyễn có xin người Âu
giúp, cũng chỉ là xin cho một vài giáo sĩ, nhiều hơn là xin giao thương , mà
thứ hàng đắt giá nhất là vũ khí và quí nhất là một hai giáo sĩ làm cố vấn
khoa học, thiên văn trong triều. Mở đầu thời Nguyễn là xin giúp quân đội, rồi
tới giai đoạn không những không nhờ, còn kháng chiến, mà vẫn bị quân Tây
phương đàn áp và văn hóa Tây phương tràn vào.
1. Bối cảnh lịch sử
Cứ xét bối cảnh Quốc
Tế và Việt Nam, chúng ta thấy dễ hiểu cung cách hãnh xử của mấy ông vua
Nguyễn Triều và trào lưu tiếp biến văn hóa.
1.1. Bối cảnh quốc tế
Khi Âu-châu đã đi vào
kỹ nghệ hoá và ngoại thương, Trung Hoa và Á Đông vẫn hì hục theo nông nghiệp
thủ công.
Đầu thế kỷ 16, Bồ Đào
Nha sau khi đặt đầu cầu ở Ấn Độ, đã tiến sang chiếm Malacca, rồi định đặt cơ
sở ở Quảng Đông [3],
nhưng không thành công. Ít chục năm sau, họ đổi chiến thuật hùng hổ thành
ngon ngọt, nên thuê được Macao (Áo Môn) làm thương cảng. Tiếp theo, người Tây
Ban Nha, người Anh và Bồ Đào Nha cùng đưa thuốc lá từ người Mỹ da đỏ vào tập
cho người Tàu da vàng hút. Sau đó, người Anh đưa một thứ sản phẩm Ả-rập qua
Ấn Độ để truyền vào Trung Hoa: Nha-phiến. Buôn nha-phiến là mối lợi lớn nhất
người Anh kiếm được qua thương trường Ả-rập – Ấn-độ – Trung-hoa.
Nha-phiến còn là một
ngòi nổ thử sức Đông - Tây.
Năm 1838, Tổng đốc Lâm
Tắc Từ dâng sớ về triều:
“Nếu không cấm tiệt
được nha phiến thì chỉ vài chục năm nữa, trong nước không còn lính để chống
địch, mà cũng không đủ tiền cung cấp binh nhu ”.
Vua Đạo Quang liền ra
lệnh nghiêm cấm và nghiêm phạt tới mức tử hình, phái Lâm Tắc Từ làm Khâm sai
đi Quảng Đông thi hành. Người Anh chống trả. Cuộc chiến tranh nha
phiến lần thứ nhất dẫn tới hòa ước Nam Kinh: Trung Quốc phải mở cửa
Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Thượng Hải, còn Hồng Kông thì Trung
Quốc tặng Anh quốc luôn 99 năm!
Trung Quốc loạn lớn,
Tây phương quậy phá thêm. Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ
hai [4] dẫn
tới hòa ước Bắc Kinh: Thuốc phiện được bày bán công khai, người Âu Mỹ hưởng
quyền lãnh sự tài phán.
Nga đã thừa cơ hội Âu
Mỹ quần thảo Trung Hoa để mở trận Đông tiến, bảo hộ Mãn Châu và lan dần ra
tới biển [5].
1..2. Bối cảnh Việt Nam
“Người hùng Đông
phương” là Trung Hoa đã bị xâu xé như thế, mấy nước nhỏ như chúng ta [6] không
thể không bị giày vò, nhất là khi chúng ta đang tan nát vì nạn ngũ quyền:
Trịnh, Mạc, Lê, Nguyễn Tây Sơn, Nguyễn Phúc…
“Cuối thế kỷ 18,
Nguyễn Ánh thua Tây Sơn, nhân quen một người Pháp làm giám mục đạo Da-tô, tên
là Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine), bèn nhờ Bá Đa Lộc xin chính phủ
Pháp giúp khí giới, binh lính để diệt Tây Sơn. Bá Đa Lộc vui vẻ nhận lời.
Nguyễn Ánh giao hoàng tử Cảnh và quốc ấn cho Bá Đa Lộc để làm tin.
Năm
1787, Bá Đa Lộc vào yết kiến vua Louis XVI. Pháp đương gặp lúc quốc khố rỗng
không, chẳng giúp được gì cả. Bá Đa Lộc phải xuất tiền mua khí giới và mộ
lính chở sang Việt Nam vừa lúc cách mạng 1789 nổ ra ở Pháp.
Từ
đó, thế lực Nguyễn Ánh mạnh lên; khi thắng được Tây Sơn, thống nhất quốc gia,
lên ngôi vua, ông không quên ơn người Pháp, đối với họ có biệt nhãn, cho họ
tự do buôn bán và truyền đạo.
Trong
thời Minh Mạng, sự giao thiệp Việt Pháp có phần nhạt nhẽo,[7] tới đời Tự Đức thì hai bên hóa ra thù hằn
nhau. Nguyên nhân là Pháp muốn chiếm nước ta. Tự Đức hiểu dã tâm đó, ra lệnh
cấm đạo.
Năm
1858, dưới triều Nã Phá Luân đệ tam, liên quân Pháp – Y Pha Nho tấn công Đà
Nẵng rồi Gia Định. Năm 1862, triều đình phải cắt cho Pháp ba tỉnh miền Đông
Nam Việt, năm 1867, mất luôn ba tỉnh miền Tây nữa. Cao Miên trước vẫn thần
phục ta, lúc đó bị Xiêm quấy nhiễu, Pháp can thiệp, ép Xiêm phải để Pháp bảo
hộ Cao Miên.
Năm
1870 (triều Tự Đức), Pháp phải cắt hai tỉnh Alsace và Lorraine cho Phổ, càng
nóng lòng muốn kiếm thêm thuộc địa để bù lại, tỏ thái độ xâm lăng rõ ràng,
gởi quân đội viễn chinh qua với mật lệnh: “Bắc Việt tiếp giáp với những tỉnh Tây Nam Trung Hoa, ta
nên chiếm giữ lấy để cai trị ở Viễn Đông được chắc chắn”. Năm 1873,
Pháp tấn công Bắc Việt, thành Hà Nội thất thủ, nhưng quân Pháp vẫn chưa hoàn
toàn thắng thế. Năm 1883, Pháp lại tấn công Bắc Việt một lần nữa, chiếm Hà
Nội rồi vô chiếm luôn Thuận An. Năm sau, nhà Nguyễn ký một hiệp ước chịu để
nước Pháp bảo hộ và chủ trương việc ngoại giao.
Muốn
bắt nhà Thanh nhận chủ quyền của mình ở Việt Nam, Pháp tuyên chiến với Trung
Hoa và thắng nhiều trận trên biển (Phúc Châu và Đài Loan) và trên bộ (Tuyên
Quang) [8].
Lịch sử còn ghi lại:
Với hòa ước Patenôtre
(1884) ký giữa Pháp và triều Nguyễn, với hòa ước Thiên Tân tiếp đó của Pháp
và Thanh triều, Pháp “chính thức được nhìn nhận” (!) là chủ của thuộc
địa Nam Kỳ và Bảo hộ Bắc Kỳ, Trung Kỳ Việt Nam, Lào và Cambodge.
2. Đặc điểm văn hóa giao lưu Việt - Âu thời này
Thật nhiều đặc điểm
của thời văn hóa Việt - Âu giao lưu, chúng ta chỉ điểm ra một số quan trọng:
Văn hóa Âu Á thật là
quá khác nhau, nên khi gặp nhau, đều đòi hỏi cố gắng. Gần như suốt quá trình
gặp gỡ cả mấy trăm năm, luôn luôn có hai khuynh hướng hoặc tình cảm pha trộn:
Lợi dụng và chống đối, ngay cả khi từng bộ phận lớn hoặc nhỏ gắng dung hòa
hoặc thích ứng văn hóa. Có khi bùng lên mãnh liệt, khi khác lại
âm thầm len lỏi vào cuộc sống. Bùng lên bằng cải cách do chế
độ mới chủ trương. Bùng lên bằng phong trào bình Tây sát Tả, bằng
sắc chỉ và đạo dụ cấm đạo. Những len lỏi vào cuộc sống, người ta
vẫn lai rai nhận thấy nhiều ít qua thi văn, qua sự lựa chọn kiểu nhà cửa hoặc
phương tiện tiêu dùng, qua cả những công việc hiếu hỉ của người dân.
2.2. Đối kháng văn hóa
Có thể nói: Đối kháng
văn hóa, khi chúng ta tiếp xúc với Tây phương, khởi đầu là do “ý thức hệ”.
Chúng ta chủ trương con người có sống theo luân thường đạo lý – nói rõ hơn là
sống trong tam cương ngũ thường – thì mới đúng đạo làm người. Còn người Âu Mỹ
thì theo Bình đẳng, Tự do, Huynh đệ, theo tiêu chuẩn Tin Mừng, hoặc theo chủ
trương sức mạnh của đế quốc từ ngàn xưa.
Hiển nhiên có những
người thực tâm “vì đạo lý” hoặc vì ý thức hệ; nhưng cũng thật nhiều
người – nhất là những người nắm quyền trong xã hội và gia đình – chỉ
dựa vào tam cương ngũ thường để bảo vệ quyền lợi của cá nhân và giai cấp họ.
Phía Âu Mỹ chính thức dựa vào sức mạnh đế quốc tiên tiến, nhưng không thiếu
những con người thực sự vì giáo lý Tin Mừng [9] mà
quyết tâm truyền Đạo và truyền bá văn hóa Tây phương.
Đối kháng còn mang
riêng nghĩa chống đối vì yêu nước thương dân Việt Nam. Giáo sư Lê Văn Chưởng
viết:
“Chống lại Âu hóa
hay nói một cách khác là ý thức đề kháng văn hóa ngoại xâm. Ý thức này phát
xuất từ lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam mà trong giai đoạn này được thể
hiện bằng cuộc chiến đấu của Nguyễn Tri Phương đã chặn đứng bước tiến xâm
lăng của Pháp ở Đà-nẵng (1858). Ý thức để kháng ngoại xâm như một thác nước
chảy ngầm cho nên khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam Việt luôn gặp sức kháng cự
của nghĩa quân và của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Trương Đinh, Nguyễn
Duy Dương, Nguyễn Trung Trực… Ở Bắc Bộ và Trung Bộ thì do sự lãnh đạo của
Hoàng Diệu, Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám… Và, các phong trào chống Pháp
như Cần Vương, Văn Thân, Duy Tân, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, mà đỉnh cao
là sự ra đời của mặt trận Việt Minh…” [10]
Nếu muốn gọi những
người như Đinh Công Tráng, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng v.v. là
nhà ái quốc thì đúng; còn những vị như Tôn Thất Thuyết, Phan Thanh Giản,
Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, dù có ái-quốc thì cũng chủ yếu là Trung-Quân.
Phong trào Cần Vương cũng thế. Ngay cái tên của nó cũng nhắm
tới ông vua, dù là ông vua chưa trưởng thành, bất xứng. Mà trước đó, những
người “ái quốc” nhận là phong trào Văn Thân. Nhưng “Văn Thân ”
vẫn là khẳng định đấu tranh vì ý thức hệ nho giáo - có thể hoặc không đồng
nghĩa với “yêu nước, thương dân”, vì hai phạm trù này giáo huấn Khổng Mạnh
dành cho nhà vua., không cho đại chúng nhân dân.
Phải tới những người,
vì noi gương Nhật Bản, mà chủ trương Đông Du, Đông Kinh Nghĩa
Thục và Duy Tân mới không còn là đấu tranh vì ý
thức hệ nho giáo nữa. Nhưng, những người này lại không chủ trương chống Đạo
hoặc giáo huấn Bình Đẳng Tự do, không chủ trương dùng bạo lực như những người
và phong trào trước đó. Những người thuộc ba phong trào này không thực sự
chống văn hóa Âu Mỹ; chỉ chống về phương diện chính trị thực dân và về một số
nét văn hóa Tây phương mà chúng ta coi là lố lăng hoặc ngược với bản sắc dân
tộc.
2.3. Cấm Đạo (Công giáo)
Một trong những hành
động mãnh liệt và được lặp lại nhiều lần trong mấy thế kỷ, có khi lôi cuốn
thật nhiều người Việt Nam… là việc Cấm Đạo Kito, với những lời mạ lị sâu độc.
Người ta không thể hiểu đúng, nếu chỉ hiểu theo quan niệm chính trị hoặc từ
giác độ tôn giáo. Phải nhìn và phân tích việc cấm Đạo theo tầm nhìn văn hóa,
người ta mới hiểu thấu và hiểu đúng.
“Phần thư khanh nho”
thời Tần Thủy Hoàng đâu phải thực chất có mục tiêu cấm Nho giáo hoặc nho học.
Thực ra, đó chỉ là để bảo vệ ngai vàng Tần Thủy Hoàng và ghế thừa tướng Lý
Tư. Tần vẫn dùng chữ Nho và sách Nho do họ nhuận sắc hoặc biên soạn., nhưng
thừa tướng Lý Tư và Tần Thỉ Hoàng muốn các nho sĩ của họ và phục vụ cho họ
thôi.
Cấm Đạo Thiên Chúa ở
Việt Nam từ thời Lê Trịnh đâu phải vì sợ người Bồ hoặc Tây chiếm đất đai.
Ngay đến Cảnh Thịnh cấm Đạo cũng hoàn toàn không phải vì thương dân thương
nước. Cấm Đạo thời Nguyễn đa số vì thấy tín đồ không “cắn cỏ phục tùng” vua
quan, vì sợ người tín đồ bị Pháp lợi dụng mà xâm chiếm chủ quyền của triều
đình.
Đấy là một sai lầm lớn
khi khởi đầu với Minh Mạng, Thiệu trị. Sai lầm đó có thể giồn một số người
sang hàng ngũ chống đối… Dầu sao, số đó chỉ chiếm tỉ lệ thật nhỏ:
“Viễn cảnh dân
chúng, trước hết là giáo dân nổi dậy hưởng ứng đoàn quân “giải phóng” chỉ là
sản phẩm tưởng tượng của các giáo sĩ. Và phải chủ quan đến mức cuồng tín thì
mới dự kiến phát động được quần chúng nhân dân một nước đứng lên “vũ trang
khởi nghĩa” hưởng ứng một quân đội nước ngoài đến nã súng chẳng những vào
thành lũy của vua quan mà cả vào nhà cửa, ruộng nương của họ! Riêng giáo dân,
dù từ lâu, họ là nạn nhân của một chính sách phân biệt đối xử có lúc nghiệt
ngã đến mức vô nhân của một chế độ phong kiến. R. de Genouilly nhận xét về
các “làng công giáo” ở Gia Định: “Đáng lẽ họ phải tỏ ra nồng nhiệt
với chính nghĩa của chúng ta. Cứ qua kết quả mà xét, sự nồng nhiệt đó đã
không có”; giáo dân “luôn luôn đứng bên lề” [11]
Cứ đọc các châu bản
nhà Nguyễn cũng thấy có nêu lý do cấm đạo vì lỗi luân thường đạo lý (nho
giáo) hoặc một vài trường hợp vì nghi ngờ mưu phản (phản Nguyễn triều, nhất
là phản chính hoàng đế đương quyền). Do đó, khi nhà cầm quyền thực mạnh, hoặc
hoàn toàn không hy vọng lấy được chủ quyền lại, thì cũng không nói gì truyện
cấm Đạo nữa.
Việc cấm Đạo hôm nay
tại một số nước cũng cùng những nguyên nhân đó.
[42] Tiếp biến văn hóa Việt Âu thời Nguyễn
Có thể thấy việc tiếp
biến văn hóa Âu - Việt diễn ra mau lẹ hơn tiếp biến văn hóa Ấn - Việt với
Phật giáo hoặc Hoa Việt với Nho giáo.
1.
Về văn hóa vật thể
Văn hóa vật thể là
những nét dễ thấy nhất và dễ ảnh hưởng.
1. Xây dựng Hạ tâng cơ sở
Ngay từ những thập
niên cuối thế kỷ XIX, nghĩa là sau khi đặt vững quyền cai trị, người Pháp đã
bắt đầu lo những xây dựng cơ bản , như: Hệ thống giao thông đường bộ và thủy
liên tỉnh và giữa các huyện, tổng. Hải hành và đường bộ xuyên Việt là hai
công trình có quy mô lớn đầu tiên. Sau hai tuyến ngắn đường sắt Saigon - Mỹ
Tho và Lạng Thương - Lạng Sơn, tới đường sắt Saigon - Hà Nội.
1.2.
Phương tiện giao thông
Cùng với đường, phương
tiện giao thông cải tiến và đổi mới: không còn chỉ là gồng gánh cho bình dân
hoặc lừa ngựa cho quí tộc. Nông dân thêm cộ bò, rồi xe kéo, xe đạp. Đầu thế
kỷ XX, người ta thấy xe “ôtô” của các quan về đến huyện, đến tổng. Sau đó là
ôtô-hàng hoặc xe đò chở hành khách. Đường sông đường biển đã xuất hiện canô
và phà chạy bằng máy hơi nước.
1.3.
Nghê nghiệp
Các nghề truyền thống
như nông và ngư nghiệp, thủ công nghiệp cũng được cải tiến thẩt nhiều. Tiêu
thụ mạnh hơn, vì thị trường trong nước tăng nhờ giao thông thuận tiện. Còn
thêm những thị trường lớn trong khối Đông Dương và Liên Hiệp Pháp.
Có thể nói: Nội
thương và ngoại thương đã chính thức phát triển và được nhân dân ham thích
hơn cả nông lâm ngư ngiệp. Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn Chợ Lớn
có bề thế đô thị. Nam Định, Hòn Gai, Qui Nhơn, Biên Hòa, Mỹ Tho…là những thị
trấn nổi tiếng.
Nếp sống thành thị từ
từ hiện ra khác hẳn nông thôn và lôi cuốn hơn nhiều.
1.4.
Kiến trúc
Kiến trúc nhà cửa của
thị dân là những khu phố, những ngôi nhà khang trang mang dáng dấp Tây
phương. Nổi hơn nữa là những cơ sở của chính quyền như Phủ Toàn quyền, dinh
Thống đốc, Tòa án, Bưu điện, nhà Hát, nhà Ga, Bến Xe v.v. Các cơ sở giáo dục
còn được biết đến nhiều hơn: Đại Học Đông Dương, Trường Viễn Đông Bác Cổ,
các trường Cao Đẳng và Trung học Kỹ Thuật… các cơ sở từ thiện, bác ái, bệnh
viện, nhà thương, viện tế bần, cô nhi viện, nhà dưỡng lão v.v....nhất là các nhà
thờ và nhà dòng Công giáo.
2. Về
Văn hóa Phi Vật Thể
Văn hóa phi vật thể
quan trọng hơn và cũng biến chuyển hơn
2.1.
Chữ Quốc Ngữ
Không chỉ là vì nhu
cầu truyền đạo, mà còn vì tiến trình của nhân dân Việt Nam, các giáo sĩ - nhất là Alexandre de Rhodes - đã tận tâm với việc sáng chế và hoàn thành kiểu
viết ngôn ngữ Việt Nam bằng mẫu tự la tinh, sớm được gọi là Quốc Ngữ. Nếu học
theo kiểu xưa, người ta phải nhớ chừng tám chục ngàn chữ Nôm, mới đọc được
các loại sách. Mẫu tự la-tinh và cách ghép vần quốc ngữ đơn giản đến độ
một người khiếm thị, chỉ dùng xúc giác đầu ngón tay - cũng có thể học đọc và
viết trong mấy tháng. Việc đơn giản đó càng rút ngắn thời gian hơn nữa cho
nghề in ấn và phổ biến kiến thức.
Năm 1651, nhà in của
Tòa Thánh Roma cho ra đời hai tác phẩm của giáo sĩ Alexandre de Rhodes;
“Đó là hai tài liệu xác thực đầu tiên về chữ quốc ngữ và văn quốc ngữ nữa
“ [12]
Khởi từ nhu cầu dùng
mẫu tự latin để sinh hoạt với chúng ta [13],
các hế hệ giáo sĩ ngoại quốc và các thày giảng (nho sĩ tòng giáo) đã từ từ
hoàn thành một trong mấy loại chữ viết toàn hảo bậc nhất : Chữ Quốc Ngữ. Về
điểm này, lích sử dân tộc chúng ta và dân tộc Đức có một trang rất giống
nhau. Giáo sĩ truyền giáo theo mẫu tự latin để sáng chế cho dân tộc “quê
hương thứ hai” của họ một lối chữ viết.
Các thừa sai truyền
Đạo ở Nhật Bản và Trung Hoa cũng đã làm thế, nhưng họ không thành công, lối
viết của họ không phổ biến được. Về trước: Trung Hoa đã có tự hào về chữ Nho
và vẫn ngày thêm đơn giản hóa. Nhật cũng đã thành công nhiều trong việc đơn
giản hóa chữ nho làm chữ Nhật. Về sinh hoạt thừa sai, giáo sĩ tại hai nước
trên không gặp được cảnh sống “gia đình” như giáo sĩ tại VN. Sống với Thày
giảng và “anh em nhà Đức Chúa Trời”.
Hẳn là suốt mấy trăm
năm, chữ mà sau được coi là “Quốc ngữ” chỉ thông dụng trong phạm vi những
người công giáo hoặc trực tiếp liên hệ với họ. Tác phẩm quốc ngữ xưa
nhất của người Việt Nam là của linh mục Philippê Bỉnh, người đã ở lại Âu châu
từ 1796 tới 1830. Tác phẩm của Ngài còn tại thư viện Vatican.
Vì muốn bảo vệ đạo Nho
và chữ Hán mà quan lại triều Minh Mạng từng dâng sớ xin cấm Đạo và tiêu huỷ
hết tài liệu chữ quốc ngữ:
“Các sách vở viết chữ mọi rợ cũng phải đốt hết. . .[14]
“Đến sau khi Nam Việt Nam thành thuộc địa (1867), chính phủ đem chữ quốc ngữ
dạy ở các trường học. Các nhà tân học bấy giờ như Trương Vĩnh Ký, Paulus Của,
cũng dùng chữ quốc ngữ để viết văn. Ở Trung Việt bấy giờ có ông Nguyễn Trường
Tộ xin triều đình thông dụng chữ quốc ngữ, nhưng trong buổi hán học thịnh hành
lời đề xướng của ông không ai để ý đến. Đến đầu thế kỷ 20 thì các nhà học giả
Bắc Việt như Đào Nguyên Phổ, Phan Kế Bính cũng bắt chước văn sĩ Nam Việt mà
dùng chữ quốc ngữ để viết sách viết báo.
Năm
1906 chính phủ Bắc Việt đặt Hội Đồng Cải Cách Học Vụ (Conseil de
perfectionnement de l’enseignement) sửa lại chương trình và bắt đầu dùng
Việt Ngữ làm một môn giáo khoa phụ. Năm 1908 ở Trung Việt đặt Bộ Học để thi
hành việc cải lương ấy. Thế là Việt Ngữ đã được chính phủ thừa nhận đem dùng
ở trong học giới. Đến năm 1915 vầ 1919 ở Bắc Việt và Trung Việt bỏ khoa cử.
Từ đó Việt Ngữ có địa vị trọng yếu trong chương trình học vụ mà lần lần thông
dụng trong khắp ba xứ “ [15]
Một khi người Việt Nam
rộng rãi tiêp nhận thì nhờ lối viết và học đơn giản này trong một giai đoạn
nhất định, người ta vượt xa mau lẹ hơn những dân tộc quanh mình.
Một thiên kỷ chữ Hán
cho đồng bào chúng ta thâu lượm được nhiều kiến thức không bằng nửa thế kỷ
quốc ngữ! Nhiều tác phẩm Hán Nôm của cha ông chúng ta và những tác phẩm
ngoại quốc được phiên âm và phiên dịch. Cùng với một số trường có chương
trình Pháp, hoặc nhận ngoại ngữ Pháp, thật nhiều tác phẩm văn học Pháp cũng
dễ dàng qua quốc ngữ để đến với dân ta. Sau đó, Pháp văn thành chuyển ngữ để
người Việt Nam đọc và học tác phẩm của các dân tộc Âu Mỹ. Thế là chúng
ta được dẫn tới nhiều ngành văn học chưa hề có trong lịch sử Hán văn : thư
từ, báo và tạp chí.
Ngay trước khi có “Công
báo quốc ngừ Gia Định Báo”, tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ [16] thì
nhà in đã được xây dựng ở Miền Nam [17].
Từ nay, các sách Đạo Công giáo không cần in nhờ Nazareth Hong Kong nữa.
2.2.
Chính Tư Tưởng và Tinh Thần.
Con người sống trong
bối cảnh văn hóa không những có khả năng từ từ biến đổi môi trường, mà còn có
phương tiện để dễ dàng tiếp nhận những tư tưởng mới. Thế là tinh thần con
người cũng từ từ biến đổi.
Nói chung, nhiều người
Việt Nam trong giao thoa văn hóa Việt Âu nhận ra rằng “biển học” của nho gia
không mênh mông như các cụ đồ tưởng. Nho học sâu hơn rộng. Tam cương ngũ
thường có bảo đảm phần nào trật tự trong cuộc sống con người và xã hội, nhưng
cũng bóp nghẹt và trăng trói nhiều năng lực, khi nó không đồng dạng nho giáo.
Giống như nhóm Khang
Hữu Vi, Lương Khải Siêu bên Trung Quốc, một số Nho Sĩ Việt Nam đọc hán văn
của họ và đọc sách báo mới cũng cảm nghiệm nhu cầu đổi mới xã hội Việt Nam.
Phan Bội Châu cùng anh em Duy Tân Hội trong Việt Nam Quang Phục Hội chủ
trương Đông Du giúp nước. Lương Văn Can và Nguyễn Quyến hướng dẫn Phong trào
Đông Kinh Nghĩa Thục.. Lớp trẻ có học càng mau lẹ tìm Tự do, Bình đẳng, Dân
chủ, Nhân đạo. Tự Lực Văn Đoàn với những nhà thơ nhà văn trẻ, Tây học, đã đấu
tranh mãnh liệt bằng nhiều cách, nhất là “tiểu thuyết luận đề” , để nhân dân
Việt Nam “theo mới, hoàn toàn theo mơí không chút do dự” [18] …
Họ có công gây ý
thức văn hóa Dân Tộc :
“Một đổi mới quan trọng nữa là sự ý thức mạnh mẽ về quốc gia, về dân tộc trong
quan niệm làm văn học. Xưa lịch triều, nho gia coi Hán học là quốc học, Hán
tự là “chữ ta”, văn chương Trung Hoa là văn chương mình. Cũng vì vậy nên các
cụ đã phần nào chểnh mảng với việc sáng tác quốc văn. Bước sang hiện đại, mất
nước, rồi bừng tỉnh trước thế giới năm châu, ý thức quốc gia về chính trị
cũng đưa người Việt Nam đến ý thức quốc gia về văn học. Người ta công kích tổ
tiên đã đi học mướn viết nhờ và lo xây dựng lấy một quốc học chân chính. Vì
vạy mà ngay từ đầu, cả các nhà nho cũng cương quýết dứt bỏ chữ Hán, triệt để
hoan nghênh chữ quốc ngữ, dùng quốc ngữ để viết văn. Cũng nhờ vậy mà sau tuy
bị Pháp đô hộ, chuyên dạy cho học thuật Pháp, chữ Pháp, người ta không đi đến
lập lại cái lầm xưa, lấy chữ của kẻ thống trị làm chữ của mình, mà vẫn lo
nuôi dưỡng ngành quốc văn, chuẩn bị cho nó một chỗ ngồi trong một ngày mai
độc lập. . .” [19]
Nhờ các khoa học vật
lý và nhân văn, tâm nhìn của người Việt Nam không còn bị đóng khung trong
sách Nho và Trung Hoa vĩ đại, mà bắt đầu nhìn ra thế giới và vũ trụ.
2.3.
Phương Pháp Đào Tạo
Có Những nhà Nho được
ca tụng tầm cỡ bác học. Nhưng nhìn kỹ, trải ngàn năm nho học, chúng ta chỉ có
được năm ba người kịêt xuất như thế. Nhận định sâu hơn, phải thấy rằng các vị
đó dù sáng tác một khối lượng tương đối lớn, nhưng không đa diện và thiếu độc
đáo. Lãnh vực xuất sắc là sử địa, lễ nhạc tiền nhân. Thật khó tìm được tác
phẩm lý luận phê bình hoặc nghiên cứu khoa học.
Trong giao lưu văn hóa
Âu Mỹ Việt Nam, thế giới văn nghệ và khoa học vừa đông, vừa đa tài hoặc biệt
tài, khiến kinh ngạc cả những nước tiên tiến.
Thành quả đó, nhờ
phương pháp đào tạo Âu Mỹ vừa cởi mở, vừa thúc đẩy khai phá. Thế hệ thầy
không sợ, mà còn mong trò hơn mình, sung sướng đón nhận từng ý kiến bất đồng
của trò, để cùng xem xét lại.
Ngay từ thời manh nha
văn học quốc ngữ tại Nam Kỳ, Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của đã được người
Pháp và người Anh ca tụng.
Thí dụ J.Bouchot viết
về Petrus Trương Vĩnh Ký:
“Ông (Petrus Ký) đọc
và nói rành được 15 sinh ngữ và cổ ngữ Đông Tây phương, trong số đó ông viết
được 11 thứ”.
J.Thompson, nhà du
lịch Anh còn nhận xét kỹ hơn nữa:
“Petrus Ký là giáo
dân Nam Kỳ và giáo sư trường thông ngôn Sài Gòn. Ông là một ngoại lệ đặc biệt
trong đám dân bản xứ... Ông theo học trường trung học công giáo Pê Năng, và
tôi không bao giờ quên sự kinh ngạc của tôi khi được giới thiệu với ông.
Petrus Ký ngỏ lời bằng một thứ tiếng Anh rất khá, với giọng pha một chút
Pháp. Tiếng Pháp ông cũng nói được, mà nói không kém thuần tuý và tao nhã .
Tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Ý đối với ông cũng quen thuộc như
những tiếng nói Đông Phương. Một hôm, tôi đến thăm thấy ông đang soạn tập
‘Phân tích đối chiếu những sinh ngữ trên thế giới’.Cuốn sách ông đã để công
nghiên cứu từ mười năm. Ông có bên tay tất cả một kho sách hiếm và quí mà ông
đã thu thập được, phần ỏ Âu châu, phần ở Á châu. Vào buổi tối, một ông Cố Đạo
đến góp chuyện với chúng tôi, và lúc tôi ra về, để lại cho hai ông tranh luận
bằng tiếng La-tinh về một vấn đề thần học”. [20]
Là nhà chính trị,
Trương Vĩnh Ký còn là nhà văn. Ông Long Điềm tính ra Trương Vĩnh Ký viết từ
năm 26 tuổi (1862) tới ngày từ trần (1898) được 118 sách! [21]
Ngày nay nhìn lại,
chúng ta thấy chỉ sau một phần tư thế kỷ “cách tân văn hóa”, nhiều người Việt
Nam đã tốt nghiệp, trở thành giáo sư trong nước hoặc trong những trường đại
học, cao đẳng nói tiếng Anh Pháp Tây Ban Nha trên thế giới.
Thế mà những tiến bộ
ấy và bản chất thông minh của chúng ta vẫn chưa đủ chuẩn bị cho dân tộc chúng
ta tiến vào kỷ nguyên văn hóa điện tử. Tiếng Pháp và nhất là chữ quốc ngữ là
phương tiện tốt; nhưng chính sách cai trị của Pháp không tốt. Thực chất nó
nhằm khai thác dân tộc chúng ta. Muốn thế, như bất cứ “lực lượng khai thác”
nào, nó dùng mọi cách tuyên truyền cho chúng ta thấy mình quá hèn yếu trong
khi chúng quá uy hùng và tiên tiến. Công giáo Việt Nam, tuy mang
bản chất bình đẳng, huynh đệ và tự do trong ThánhThần, nhưng hội nhập vào môi
trường Nho Phật và nông thôn Việt Nam, nên lo vun trồng thuận thảo và khiêm
tốn hơn nghĩ tới đấu tranh công bình, bác ái. Vì thế, chính Công giáo trong
giai đoạn này cũng chưa giúp được nhiều, cũng chẳng làm chứng được bao nhiêu.
2.4. Phương pháp khai
thác
Sẽ thật là thiếu sót
nếu chúng ta không nhìn thấy điều tai hại này cho người Việt Nam trong thời
“tiếp biến văn hóa”. Đó là phương pháp khai thác thuộc địa của người Pháp.:”
Chia mà Trị”. Họ tạo chia rẽ và phân hóa theo địa lý và lịch sử, theo tôn
giáo và nghề nghiệp…
Hậu quả là đại đa số
nhân dân VN. bị bóc lột đau đớn mà không sao đoàn kết được để vùng lên tự vệ.
“Vốn đầu tư của tư bản
Pháp vào Việt Nam từ 1924 đến 1939 gấp hơn 6 lần từ 1898 đến 1918. Diện tích
đồn điền cao su từ 17.000 héc ta năm 1917 tăng lên gần 100.000 hécta năm
1929. Giấy phép làm mỏ do chính quyền thực dân cấp năm 1914 là 257 chiếc, năm
1930 là 17.685 chiếc.
Để bảo đảm thu lợi
nhuận thuộc địa tối đa, chính quyền thực dân Pháp thực hành thủ đoạn độc
quyền kinh tế, độc quyền kinh doanh một số ngành công nghiệp nặng, độc quyền
nắm phương tiện giao thông vận tải, độc quyền khai thác những mỏ có trữ lượng
lớn, độc quyền chiếm đất lập đồn điền, độc quyền xuất nhập khẩu, độc quyền
muối, thuốc phiện, rượu, độc quyền ngân hàng, độc quyền bán buôn“ [22] Cứ 1000 làng thì có đến 1500 đại lý bán lẻ
rượu và thuốc phiện. Hằng năm người ta cũng đã tọng từ 23 đến 24 triệu
lít rượu cho 12 triệu người bản xứ. [23]
[1]
Nguyễn văn Tố. Tạp chí Indochine,số 41 ngày 12.6.1941
[2] Võ
Long Tê “Lịch sử văn học công giáo Việt Nam” I.tr.227-228
[3] Năm
1517
[4] 1856-1860
[5] Nga
sẽ đụng Nhật Bản
[6] Trừ
Nhật Bản, vì Minh Trị thiên hoàng kịp thời canh tân
[7] Không
chỉ “nhạt nhẽo”, Minh Mạng đã công khai muốn bãi nhiệm những công thần của
Gia Long, dù là Pháp hay Việt. Minh Mạng đã lệnh cầm chân các thừa sai ngoai
quốc bằng lệnh tập trung để “dịch sách”, lệnh trục xuất …
[8] Nguyễn
Hiến Lê, sđd, tr. 100-102
[9] Mọi
người là anh em, con một Cha, Thiên Chúa.
[10] Sđd,
tr. 85-86
[11] Văn
thư 4.3.1859, Bùi Thân Phượng trích trong “Vài vấn đề về bối cảnh lịch sử
dẫn đến việc ký kết Hiệp ước Nhâm Tuất 1862” trong “Một số vấn đề lịch
sử Đạo Thiên Chúa trong lịch sử Dân Tộc Việt Nam”, Viện KHXH và BTG,
Tp.HCM, 1988
[12] Phạm
thế Ngũ “Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên“ q.III, ch.III. Quốc học tùng
thư 1965
[13] Trước
hết, các giáo sĩ dùng để dạy tiếng Việt cho những giáo sĩ mới tới. Thí dụ gs.
Fr.de Pina dạy gs. Alex. De Rhodes.
[14] “Giáo
Hội Công Giáo ở VN” ph.3 ch.12. do Một giáo sư sử học.
[15] Đào
Duy Anh “Việt Nam Văn Học Sử” thiên thứ Tư, IX ngôn ngữ
[16] Năm
1868, Petrus Trương Vĩnh Ký là chủ bút
[17] Nhà
in Tân Định năm 1863
[18] Một
trong “Mười Điều Tâm Niệm” của Hoàng Đạo
[19] Phạm
thế Ngũ “VN.văn học sử giản ước tân biên”, q.2, thiên 2.
[20] Mười
năm du lịch ở Trung quốc và Đông Dương
[21] “Những
sách của cụ TV.Ký” Tri Tân số 44 ngày 28.1.1911
[22] Hồ
Chí Minh “bản án chế độ thực dân Pháp” Hà Nội 1980,tr.98
[23] Lịch
sử Đảng Cộng Sản VN. Sơ thảo. Hà Nội 1984,ch.1 tr.28
|
Nguyễn Thế
Thoại
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét