Có lẽ người Việt chúng
ta ai mà chẳng từng hơn một lần được nghe khúc ca: Chàng về, em chẳng cho
về, Em nắm vạt áo, em đề câu thơ... Đều cùng là lời ca của cô gái lúc chia
tay tiễn dặn người thương, và dù rằng tất cả vẫn chỉ là một niềm đau đáu thương
yêu, nhưng ở mỗi miền đất nước, khúc ca tiễn dặn người thương ấy lại tấu lên những
cung bậc bồi hồi lưu luyến khác nhau.
Ta
hãy cùng bắt đầu từ xứ Bắc để rồi theo chiều dài đất nước qua khúc ruột miền
Trung dằng dặc mà xuôi về phương Nam của Tổ quốc.
Cô
gái xứ Bắc - xứ của hội Lim, hội Gióng tình tứ, với những tà áo tứ
thân mớ ba mớ bảy, với nón quai thao e ấp khuôn mặt trăng rằm, và cặp mắt lá
răm lúng liếng - dặn dò người thương:
Chàng về em chẳng cho về
Em nắm vạt áo em đề câu thơ.
Câu thương, câu nhớ, câu đợi,
câu chờ.
Khúc ca mở đầu bằng một lời tâm sự bình dị nhưng mạnh bạo Chàng về em chẳng cho
về. Giữa hai từ phủ định, không và chẳng, nàng đã chọn từ chẳng và bỏ lại từ
không; cho dù từ không mang thanh bằng - một cái thanh đặc trưng của
vần thơ lục bát. Nếu lắng nghe thật kĩ, nếu cân nhắc giữa hai từ, ta có thể nhận
thấy khá rõ ràng là từ chẳng được “đánh dấu” biểu cảm rõ nét còn từ không lại
mang vẻ trung tính một cách “lạnh lùng”. Hình như cái thanh hỏi “trúc trắc,
trục trặc” đã góp phần khiến cho từ chẳng có được nét nghĩa bổ sung mới mẻ so với
người bạn đồng chức, đồng nghĩa: từ không. Nét nghĩa bổ sung ấy dường như là
cái vẻ nũng nịu, “nhõng nhẽo” rất dễ thương... Hài hoà với ngữ nghĩa ấy của từ
ngữ, nhịp 2-2-2 thường gặp của câu lục đã được thay bằng nhịp 2-4 - một
cái nhịp phù hợp với tâm trạng của nhân vật trữ tình - hình như khi vừa
cất lời Chàng về, nàng đã hối hả nói liền một mạch nỗi lòng của nàng, ý định của
nàng: em chẳng cho về?!.
Nếu
trong mấy câu đầu không hề xuất hiện điệp ngữ thì ở câu cuối, chữ câu được luyến
đi láy lại kèm với việc chia tách từ. Thương nhớ và đợi chờ, một vị từ biểu thị
trạng thái tâm lí: thương nhớ và một vị từ biểu thị hành động tâm lí: đợi chờ.
Thêm vào đó, điều đáng nói ở đây là chúng cùng trong một trường ngữ nghĩa hẹp -trạng
thái tâm lí thương nhớ là cội nguồn dẫn đến hành động đợi chờ. Cả hai từ đều được
ghép lại từ hai thành tố thương và nhớ, đợi và chờ để thành thương nhớ, đợi chờ.
Và hai thành tố ấy thường sóng đôi với nhau. Nhưng ở lời ca này, nó bị tách
đôi, mỗi một chữ đứng ở một đầu của bồi hồi mong nhớ - Câu thương,
câu nhớ, câu đợi, câu chờ. Có lẽ tất cả những điều đó đã khiến câu thơ có màu sắc
của một lời hẹn thề yêu thương thuỷ chung.
Cả
khúc ca với toàn âm mở, âm vang, lại có vần bằng là chủ chốt, cộng hưởng với nhịp
khoan thai của thể thơ lục bát đã khiến niềm yêu thương, lưu luyến của cô gái
lúc chia tay như thêm ngân mãi, vọng mãi trong lòng bạn, lòng tôi. Nếu tôi hay
bạn là chàng trai trong câu ca ấy chắc sẽ “cầm lòng chẳng đặng” trước những lời
tình tứ và thắm thiết nhường kia!.
Vào
tới miền Trung của truông dài phá rộng, của lễ giáo phong kiến ngàn đời,
cũng câu ca trên nhưng lại mang màu sắc mới:
Chàng về em chẳng cho về
Em nắm vạt áo em đề câu thơ
Thơ đề ba chữ rành rành
Chữ trung, chữ hiếu, chữ
tình là ba
Chữ trung em để phần cha
Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ
tình.
Cũng đau đáu và bồi hồi một nỗi thương yêu ấy thôi nhưng cô gái trong bài ca
này dường như có vẻ “tỉnh táo” hơn. Bởi nàng như đang làm một phép phân chia rạch
ròi - Câu thơ ba chữ rành rành: Chữ trung, chữ hiếu, chữ tình là ba.
Chữ trung em để phần cha, Chữ hiếu phần mẹ,... Cái dáng dấp “chỉn chu” mọi nhẽ
dường như thấp thoáng đâu đó sau lời thơ. Mở đầu lời giãi bày về lời thơ sẽ đề
là câu thơ có dáng vẻ như một lời phân bua, như một sự bộc bạch cởi mở hết ruột
gan: Câu thơ ba chữ rành rành. Không phải là câu thơ có ba chữ, cũng không phải
là câu thơ ba chữ rõ ràng mà là Câu thơ ba chữ rành rành. Cái từ láy rành rành
được dùng một cách đắc địa, nó làm cho lời phân bua dứt khoát hơn, rõ ràng hơn.
Khuôn vần “anh”, một khuôn vần kết hợp giữa nguyên âm bổng /e/ và âm mũi vang /N/,
cùng với thanh huyền, một thanh điệu có âm sắc trầm, đã tiềm tàng góp phần hiện
thực hoá lượng nghĩa bổ sung đó của hai chữ rành rành. Song, dường như vẫn chưa
hết băn khoăn, nàng giãi bày tiếp câu thơ ba chữ ấy là ba chữ gì. Nàng liệt kê
từng chữ một một cách cụ thể: Chữ trung, chữ hiếu, chữ tình là ba. Cái tiết tấu
2-2-2-2 của nhịp thơ trong dòng thơ này như góp thêm cho cái rành mạch kia thêm
một lần, một độ rạch ròi nữa.
Trên cái mạch rành mạch và chỉn chu ấy, đúng như lời răn của đạo Khổng, đạo
Nho, nàng cung kính biếu chữ trung cho cha - rường cột của gia đình, nàng
trân trọng tặng chữ hiếu cho mẹ, cội nguồn của mọi yêu thương - nghĩa tình của
gia đình, dòng tộc. Sau khi đã thực hiện lễ nghĩa với bậc sinh thành, nàng mới
nghĩ tới chàng, tới mình, tới đôi ta. Cái sau rốt ấy, cái mà nàng dành lại ấy
là niềm thương mến, nhớ nhung, khắc khoải, bồi hồi để tặng người thương và
mình: chữ tình. Nghe đến đây, ta như giật mình thảng thốt. Thì ra, cái rạch ròi
kia chỉ là cái cớ? Câu ca dồn sức nặng vào bốn chữ cuối. Cái nặng của thanh
huyền, của vần bằng và âm vang đọng lại trong chữ tình đã cộng hưởng thêm cho
cái nặng của tình người - tình yêu đôi lứa.
Theo chiều dài đất nước xuôi
về phương Nam, hết truông dài phá rộng, ta tới Nam Bộ phì nhiêu, ruộng đồng
bát ngát, đất của những con người giàu lòng nghĩa hiệp... Thiên nhiên nơi đây
khoáng đạt đến mê hồn, và con người cũng hồn nhiên phóng khoáng như thiên nhiên
của vùng đất suốt bốn mùa chỉ có nắng vàng và gió lộng.
Và
phải chăng vì thế mà cô gái Nam Bộ lại tiễn dặn người yêu bằng câu ca
nồng nàn, thắm thiết đến cháy bỏng như thiên nhiên của xứ sở chôn nhau cắt rốn
của cô. Và thêm vào đó, nỗi niềm ấy được bày tỏ một cách hồn nhiên, bộc trực đến
“thẳng băng”:
Chàng về em nắm vạt áo em la
làng
Bỏ chữ thương, chữ nhớ giữa
đàng cho ai?
Ngay trong lời mở đầu, không phải là lời tình tứ thiết tha được diễn đạt bằng một
cặp lục bát với những câu chữ có âm sắc dịu dàng đầy nữ tính như cô gái xứ Bắc
và cô gái miền Trung: Chàng về em chẳng cho về /Em nắm vạt áo em đề câu
thơ... mà là lời bộc trực táo bạo, quyết liệt đến bất ngờ được dồn nén cả
vào trong một dòng thơ chín chữ Chàng về em nắm vạt áo em la làng... Một loạt yếu
tố đồng nghĩa, gần nghĩa như nhờ, gọi, kêu, nhắn,... đã bị gạt bỏ để cho la hiện
diện. Quả thật, nếu xét trên bình diện thang độ, thì hai chữ la làng xứng đáng ở
bậc cao nhất (so với những từ ngữ còn lại). Và ở đây thương nhớ cũng được tách
đôi như xoáy sâu thêm nỗi niềm, như tăng thêm nỗi thổn thức. Và nữa, cái chữ
thương, chữ nhớ ấy không phải dùng để đề lên vạt áo để gửi nhớ thương mà là nỗi
lo lắng khôn cùng Chàng về ... bỏ chữ thương, chữ nhớ giữa đàng cho ai? Câu thơ - câu
hỏi - Chàng về ... bỏ chữ thương, chữ nhớ giữa đàng cho ai? như trào
ra do không thể kìm nén dưới sức mạnh của niềm yêu thương mãnh liệt. Niềm yêu
thương ấy được bộc lộ hồn nhiên không hề giấu giếm - em đã thương anh
rồi, sao anh nỡ về để bỏ em bơ vơ?.
Một
câu ca ở ba miền đất nước nhưng ngân lên với những nốt trầm bổng xao xuyến khác
nhau. Tuy khác nhau về cách biểu hiện nhưng cả ba câu ca đều vẫn là một lời yêu
thắm thiết nồng nàn, vẫn bồi hồi thổn thức xuyên suốt thời gian, không gian.
Phạm Hải Lê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét