Hoa
mai là loại hoa nở đầu tiên trong mùa Xuân. Nói đến mùa Xuân người ta liền nghĩ
đến hoa mai, nói đến hoa mai người ta liền nghĩ đến mùa Xuân. Hoa mai là một
trong những loài hoa được ưa chuộng nhất từ trước đến nay.
Có
nhiều loại hoa mai, hầu hết các loại mai đều có năm cánh, hay tám
cánh, có loại có nhiều tầng nên có rất nhiều cánh. Nhưng hai loại phổ
thông được nhiều người biết đến là hoa mai vàng (huỳnh hoa) và mai trắng
(bạch mai). Mai vàng là hoa mai người ta thường nói tới, nở rộ vào mùa
Xuân từ miền Trung vào Miền Nam. Màu vàng tượng trưng cho sự cao
thượng, cao sang, màu của vua chúa. Vào khoảng Tết ta, ra khỏi ngoại ô Saigon,
đi về hướng Lái Thiêu, Bình Dương, dọc đường nhà nào cũng có một cội mai già,
hoa đua nở đầy cành, vàng rực, đẹp không thể diễn tả. Loại hoa mai
thứ hai là "bạch mai" có màu trắng, cũng có năm cánh hay tám cánh như
huỳnh mai, nhưng mai trắng rất hiếm quý và có hương thơm dìu dịu, thanh khiết.
Có người gọi mai trắng là "Tuyết Mai", vì tuyết có màu trắng.
Hoa
mai không có hương sắc quyến rũ như hoa hồng, cũng không sực nức hương thơm như
dạ lý, nhưng hoa mai mỏng mảnh, đính trên cành, trên thân cây gầy guộc,
cằn cỗi tạo một nét đẹp tương phản, thật duyên dáng, độc đáo.
Tại
Việt Nam có một loại hoa mai gọi là "mai tứ quý". Hoa cũng có năm
cánh vàng như huỳnh mai, khi hoa tàn thì năm cánh rụng, năm đài hoa đổi thành
màu đỏ, úp lại, ôm lấy nhụy là hạt màu xanh. Hạt lớn dần đẩy năm đài hoa
bung ra giống như hoa mai đỏ. Vì vậy mai tứ quý được gọi là "Nhị Độ
Mai" tức là hoa mai nở hai lần, lần đầu cánh hoa có màu vàng, lần sau cánh
hoa có màu đỏ. Loại hoa này nở quanh năm.
Ngoài hương
sắc và duyên dáng, hoa mai được các nhà Nho và các Thiền sư coi là một biểu
tượng của hai đức tính "Nhẫn" và "Dũng". Chịu đựng thời tiết khắc nghiệt lạnh lẽo mùa Đông, hoa vẫn kết nụ để là đóa hoa
đầu tiên chào đón Xuân. Cảm cái đức hạnh thủy chung, cái khí tiết nhẫn
nhục và kiêu dũng đó, mùa Xuân phong cho hoa mai là vua của tất cả các
loài hoa khác, có tên là "Đông Quân". Nhiều nữ sĩ có tên
"Mai" lấy bút hiệu là "Đông Quân" cũng từ điển tích
này.
Từ
nét duyên dáng, thuần khiết bên ngoài cho đến tính khí đức hạnh, kiêu dũng
bên trong, hoa mai được người Trung Hoa tôn vinh là "quốc hoa". Các nhà
Nho và các Thiền sư Trung Hoa cũng như Việt Nam luôn coi hoa mai là một
tấm gương, một biểu tượng của vẻ đẹp vẹn toàn, "bách hoa khôi".
Họ đem ghép hoa mai với "tùng" và "trúc" thành một bộ ba
"Tam Hữu". Cây tùng tượng trưng cho trượng phu, cứng cõi, ngay
thẳng; cây trúc tượng trưng cho sự kiên nhẫn, rộng lượng và hoa mai được gọi là
"ngự sử mai" tượng trưng cho sự hiểu biết và nét đẹp vẹn toàn. Người
xưa rất quý "tam hữu".
Trong
Hội Thơ Tao Đàn, vua Lê Thánh Tông có bài thơ "Mai Thụ" (Cội mai) như
sau:
"Trội cành nam
chiếm một chồi
Tin Xuân mãi mãi điểm
cây mai
Tinh thân sáng, thuở
trăng tĩnh
Cốt cách Đông khi gió
thôi (ngừng)
Tiết cứng trượng phu,
thông (tùng) ấy bạn
Nết trong quân tử, trúc
là đôi (sánh đôi)
Nhà truyền (thống) thanh
bạch dăng từng khối
Phỉ xứng danh thơm đệ
nhất thời!"
Ngoài
ra hoa mai cũng được ghép với lan, cúc, trúc, thành bộ "tứ
quý", tức là bốn loại hoa, kiểng quý, tượng trưng của bốn mùa Xuân, Hạ
Thu, Đông.
Cụ
Chu Thần, Cao Bá Quát là một nho sĩ kiệt liệt, một tài năng văn
chương lỗi lạc, một đại anh hùng thế thiên hành đạo, suốt quãng đời bôn ba khắp
chốn cầu cổ kiếm để xây dựng sự nghiệp bá vương, cụ không gặp bậc chính nhân
quân tử nào có cốt cách như "mai ngự sử", vì vậy cụ đã làm hai câu
thơ:
"Thập tải luân
giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái hoa
mai"
Có nghĩa là:
"Mười năm xuôi
ngược giao du cốt tìm thanh kiếm cổ
Một đời chỉ cúi đầu vái
lạy trước hoa mai".
Cụ Chu Thần, Cao bá Quát
đã hết lời xưng tụng "bách hoa khôi". Cụ cũng có bốn câu thơ
"Trồng mai" được dịch ra như sau:
"Đầu non nắm hạt
mai gieo
Giống thanh gửi chốn núi
đèo xanh tươi
Nữa mai xuân điểm bầu
trời
Bức tranh tuyệt tác cho
đời ngắm chung".
Hoa
mai đã gợi nhiều cảm hứng cho thi nhân, nên ảnh hưởng rất lớn trong văn hóa
Trung Hoa và Việt Nam. Lý Bạch làm thơ:
"Ngồi trên
lầu Hoàng Hạc, nghe tiếng sáo thổi
Giữa tháng năm, chợt
vang khúc "hoa mai rơi" ở chốn Giang thành"
Nguyễn
Trãi, vị khai quốc công thần nhà Hậu Lê yêu hoa mai vì:
"Yêu mai, yêu
tuyết bởi vì đâu?
Vì tuyết trắng, mai thơ
và tinh khiết"
Trong
truyện Kiều, cụ Nguyễn Du có rất nhiều câu thơ nói về hoa mai.
"Thướt tha vóc
liễu Xuân đầy
Cành mai xa bẻ ngất ngây
ý sầu
Biết chàng lòng có
thương sâu
Chúa Xuân ngán nỗi chờ
lâu mỏi mòn"
Nhiều
Thiền sư Trung Hoa và Việt Nam đã dùng hoa mai làm ẩn dụ cho sự hạnh phúc, niềm
vui giác ngộ trong những bài kệ để truyền dạy Phật pháp cho Phật tử, cho
hậu thế. Bài kệ về "Mùa Xuân Hoa Mai" của Thiền Sư Mãn Giác được
phổ biến rộng rãi trong giới Phật tử:
"Xuân đi
trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng tưởng Xuân tàn hoa
rụng hết
Đêm qua sân trước một
cành mai"
Bài thơ có nghĩa là, cuộc đời là một dòng sinh diệt, vô thường, biến
chuyển theo thời gian và không gian. Xuân đến rồi Xuân đi, hoa cười rồi hoa
rụng… là lẽ đương nhiên của vũ trụ, hễ có sinh thì có diệt. Nhưng trong sự sinh
diệt của vũ trụ vẫn còn có một cái không sinh diệt đó là Phật tánh, là chân
tâm, chân như. Nếu chúng ta luôn tu tập, Phật tánh đó giúp ta có được cuộc sống
an lành, hạnh phúc. Tâm an bình gọi là Tâm Xuân, trong tâm Xuân, cành mai
(biểu tượng của hạnh phúc) sẽ còn mãi mãi, không tàn, không rụng. Cần gì phải
chờ đến mùa Xuân mới có hoa mai? Hoa nở rồi hoa cũng tàn. Chỉ có cành mai trong
tâm Xuân là tồn tại mãi mãi, ngoài dòng sinh diệt, vô thường, bể dâu
của vũ trụ.
Từ
ngày lưu lạc tha hương, những thi sĩ hải ngoại luôn mang theo trong tâm tưởng
những hoài niệm dấu yêu về một mùa Xuân êm đềm nơi quê cũ. Nhà thơ Nguyễn
Vô Cùng thương xót cội mai già:
"Xót cội mai
khô, bình rạn vỡ
Thương cành Xuân héo, dạ
đầy vơi
Khói hương tàn lạnh từ
Xuân ấy
Mà quyện tim ai mãi cuối
đời"
Trong
khu vườn hoài niệm đó có tang tóc, đổ vỡ, chia ly, bom đạn… Nhà thơ Nguyễn Vô
Cùng viết:
"Mùa Xuân này em
có về quê mẹ
Thăm dùm anh vườn cũ có
còn xanh
Tới gốc mai từng trúng
đạn bao lần
Xem có nở nụ hoa nào kịp
Tết"
Nhà
thơ Đăng Nguyên diễn tả mùa Xuân ở Huế tuyệt đẹp với mai vàng, mai trắng:
"Xuân nào đẹp
hơn Xuân Huế
Mai
vàng, mai trắng hương xưa
Em
cười tươi như hoa ngọc
Thơ ơi! Thương mấy cho
vừa
Bao giờ mùa Xuân trở lại
Bao giờ non nước đơm hoa!"
(Nhung nhớ vườn Xuân)
Làm thân viễn khách trên miền đất lạ, nhà thơ Phan Khâm luôn thiết
tha nhớ về cố quận, hồi tưởng lại cảnh mai vàng nở rộ trên đường
quê:
"Mùa Xuân
nào mình về thăm Cam Lộ
Ghé chợ Phiên đầy bắp
đậu sắn khoai
Đường nhà em còn hoa
vàng nở rộ
Mít ổi trong vườn chính
cho ai?"
Một
lần nữa Xuân lại về trên đất khách, nếu chúng ta may mắn có được một cành
mai để chưng trong nhà ngày Tết thì nét diễm kiều thanh tú của hoa mai cũng
không đem lại cho chúng ta niềm vui Xuân rội rã như những mùa Xuân kỷ niệm êm
đẹp quê nhà. Xuân đến rồi xuân cũng đi, mai nở rồi mai cũng
tàn, thôi thì chúng ta hãy vun xới mảnh vườn tâm trong ta, biến vườn tâm
thành vuờn Xuân tuyệt đẹp của thế gian. Trong Tâm Xuân luôn có những cành
mai.
TUYẾT MAI
Nguồn Thư
Viện Hoa Sen
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét