Khi đời càng loạn thì con người càng thích hoang tưởng. Hình
như người Việt Nam chúng ta mỗi khi nhắc đến hai chữ Thiên Thai thì trong tâm tưởng
ít nhiều vương vấn đến bản nhạc tiền chiến cùng tên của nhạc sĩ Văn Cao. Ông đã
tóm gọn ý nghĩa của Thiên thai bằng những lời lẽ quyến luyến trong đoạn dẫn của
cuộn video chủ đề về nhạc của ông được nhà nước cho phép phát hành
trong thời kỳ đổi mới:
"Tại sao tôi nói đến Thiên thai, là bởi vì một nơi, một
cõi nào đó người ta coi như đất hứa mà một cái đất hứa thì không ai tìm được ở
trên cái thế gian này. Nhưng đi tìm mãi trong những cái hoài niệm của mình ở tuổi
thanh niên thì nhớ rằng có lần tìm ra được…"
Giọng nói trầm buồn ấy vẫn còn lảng vảng, gợi lại một khuôn mặt
già nua khắc khổ của một người nghệ sĩ tài hoa nhưng sinh bất phùng thời mỗi
khi nghe lại bản nhạc bất hủ này do ca sĩ Ánh Tuyết hát.
"Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng. Nhớ Lưu
Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên… Kìa đường lên tiên, kìa nguồn hương duyên
theo gió tiếng đàn xao xuyến. Phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền. Mấy cung
trìu mến như nước reo mạn thuyền. Âm ba, thoáng rung cánh đào rơi. Nao nao bầu
sương khói phủ quanh trời. Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan. Quê hương dần
xa lấp núi ngàn. Bâng khuâng chèo khua nước Ngọc tuyền. Ai hát trên bờ Đào
Nguyên.
Thiên thai, chốn đây hoa xuân chưa gặp bướm trần gian. Có một
mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần. Thiên tiên, chúng em xin dâng hai
chàng trái đào thơm. Khúc nghê thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn.
Đèn soi trăng êm, nhạc lắng tiếng quyên đây đó nỗi lòng mong
nhớ. Này khúc bồng lai là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi. Đàn xui ai
quên đời dương thế. Đàn non tiên, đàn khao khát cuộc tình duyên. Thiên thai,
ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian. Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng
có một lần.
Gió hát trầm tiếng ca, tiếng phách dồn lắng xa. Nhắc chi ngày
xưa đó đến se buồn lòng ta. Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn quên trần hoàn cùng bầy
tiên đàn ca bao năm. Nhớ quê chiều nào xa khơi. Chắc không đường về tiên nữ ơi!
Gió hát trầm tiếng ca, tiếng phách dồn lắng xa. Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn
lòng ta. Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn khi trở về. Tìm Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi
nao? Những khi chiều tà trăng lên, tiếng ca còn rền trên cõi tiên."
Văn Cao quả là một nghệ sĩ lãng mạn, dòng nhạc đã ngất ngây
mà lời ca thực tuyệt vời đã đưa tâm hồn người nghe lạc vào … thiên thai trong
giây phút. Vậy, thiên thai bắt nguồn từ đâu trong văn học Hoa Việt mà đã ảnh hưởng
đậm đà biết bao văn, thi, nghệ sĩ như thế? Bản nhạc có nhắc đến mấy dữ kiện
quan trọng: Đào nguyên, thiên thai, bồng lai, ngọc tuyền, Lưu Nguyễn, bầy tiên
và khúc nghê thường vv... Ta thử "cổ thư lần dở trước
đèn" để truy nguyên xem sao.
Đào Nguyên:
Đào Nguyên, viết đủ là Đào hoa nguyên, nghĩa là suối hoa đào;
còn gọi là động đào, động bích hay động nguyên bích. Những từ này bắt nguồn ở
bài "Đào Hoa Nguyên Ký" của Đào Tiềm.
Đào Tiềm (365 – 427) còn có tên là Uyên Minh, tự là Nguyên Lượng,
quê ở Tử Tang, Tầm Dương nay thuộc tỉnh Giang Tây. Ông thuộc dòng dõi thế gia vọng
tộc, tằng tổ tức ông cố là Đào Khản là một danh tướng của Đông Tấn làm đến chức
Đại Tư Mã, tước Quận Công; ông nội và cha đều làm Thái thú; nhưng đến đời ông
thì sa sút vì gặp thời loạn lạc, giặc giã liên miên mà sử Trung quốc ghi là "Ngũ
Hồ thập lục quốc"; thời đắc thế của những kẻ gian hùng hoặc anh
hùng.
Bản chất thông minh, ham đọc sách, lúc còn trẻ, ông mang rất
nhiều hoài bảo muốn ra giúp nước cứu đời, nhưng chẳng toại nguyện, cho nên nhiều
lúc nhà không đủ cơm ăn. Năm 29 tuổi xin được chức Tế tửu ở Giang châu nhưng chỉ
được ít lâu lại lui về cày ruộng; và việc cày cấy không đủ nuôi gia đình. Trước
cửa nhà ông có năm cây liễu, nên ông còn lấy biệt hiệu là Ngũ liễu tiên
sinh.
Năm 35 tuổi, vì sinh nhai ông lại xin làm tham quân, là một
chức quan nhỏ cho Lưu Dụ (lúc bấy giờ là tể tướng). Nhưng rồi ông thấy chốn
quan trường ở Kinh đô Kiến Khang (thời Đông Tấn) đầy rẫy dã tâm tranh danh đoạt
lợi dẫn đến sự tương tàn nên chán nản xin đổi về địa phương. Ông được cử về làm
huyện lệnh ở Bành Trạch (thuộc tỉnh Giang Tây ngày nay). Lương bổng huyện lệnh
chẳng là bao mà Đào Tiềm vốn thanh liêm nên gia cơ cũng chẳng mấy sung túc.
Một hôm trên quận phái một viên Đốc bưu, chỉ là một tên quan
nhỏ, xuống huyện Bành Trạch thu thuế giữa lúc ông đang cao hứng ngâm thơ trong
nội thất với thường phục. Một tên nha lại ở huyện đường vội thúc giục khuyên
ông nên mặc quan phục với đai thắt lưng chỉnh tề để đón tiếp viên Đốc bưu. Cảm
thấy nhục nhã, ông thở dài nói: "Ta không muốn vì năm đấu gạo (là số lương
của huyện lệnh), mà phải khom lưng trước bọn tiểu nhân đó." Nói xong,
không ra gặp tên Đốc bưu, ông liền cởi ấn thụ trao cho tên nha lại và từ quan rồi
lui về quê ở Tử Tang; bấy giờ ông đã 41 tuổi. Từ đó, khi thấy rằng chẳng ứng dụng
được nho học vào đời, ông quyết ẩn cư nơi thôn dã, tìm vui vào đạo Lão Trang,
lãng du thâm sơn cùng cốc với túi thơ bầu rượu. Giai đoạn này ông lại sáng tác
nhiều nhất, mà đến nay vẫn còn lưu bộ "Đào Uyên Minh tập" gồm 10 cuốn.
Ông nghiêng về thơ, ít văn; nhưng thơ và văn của ông đều bình
dị tự nhiên mà ý tứ lại thâm trầm, chứ không chuộng lối biền ngẫu của giới sĩ
phu đương thời. Ông được xem như là nhà thơ điền viên đầu tiên của Trung Quốc đến
nỗi những bậc kỳ tài về sau như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Liễu Tôn Nguyên, Vương An Thạch,
Tô Đông Pha đều chịu ảnh hưởng của ông khi ca tụng thiên nhiên hay an vui ẩn dật.
Trong các trước tác của ông có bài Đào Hoa Nguyên Ký (Chép
Chuyện Suối Hoa Đào), vốn là bài tựa cho bài thơ tựa "Đào hoa nguyên
thi" hết sức nổi tiếng trên văn đàn, được dịch đại lược như sau:
"Vào khoảng triều Thái Nguyên đời Tấn (ghi chú: Tấn Hiếu
Vũ Đế - 371 TL.), có một người ở Vũ Lăng (nay thuộc tỉnh Hồ Nam) làm nghề đánh
cá, một hôm bơi thuyền theo dòng lạch mà đi quên mất đường xa gần. Không biết tự
lúc nào con thuyền dẫn đến một rừng đào, phong cảnh như nhung thêu gấm dệt, cỏ
thơm xanh mướt, sắc hoa rực rỡ.
Người ngư phủ bị cảnh đẹp lôi cuốn cứ bơi thuyền mãi đến cuối
rừng đào thì thấy một ngọn núi, rồi có một cửa động lờ mờ như có ánh sáng, bèn
bỏ thuyền theo động mà vào. Ban đầu động rất hẹp, nhưng qua một đoạn bỗng thấy
rộng rãi sáng bừng, và một thôn xóm rất lớn hiện ra trước mắt với đất đai
phì nhiêu, bãi dâu xanh tốt, nhà cửa chỉnh tề, ruộng tốt ao đẹp, tiếng gà tiếng
chó tiếp nhau, già trẻ trai gái đi lại tấp nập, lao động vui vẻ, sống một cuộc
sống thanh bình vô tư lự.
Mọi người thấy có khách lạ đến thì đều kinh dị nhưng sau khi
nghe ngư phủ kể lể đầu đuôi liền vồn vã nhiệt tình đãi đằng rượu thịt. Người
đánh cá hỏi chuyện, mới biết người trong thôn đều có tổ tiên chạy lánh nạn tới
đây vào những năm loạn lạc cuối đời Tần, từ đó cách biệt hẳn với bên ngoài. Họ
không biết đến đời Hán, nói chi đến đời Ngụy và Tấn sau đó nữa.
Sau mấy ngày lưu lại vui chơi, người đánh cá mới từ biệt ra về;
có người dặn "Đừng kể cho người ngoài biết làm gì nhé!" Trên đường đi
anh ta chú ý đánh dấu kỹ càng chuẩn bị sau này lại đến thăm. Về đến Vũ Lăng,
anh ta báo cáo với quan Thái thú. Thái thú cảm thấy thú vị, liền cử người theo
anh đánh cá trở lại chốn cũ, nhưng tìm mãi không sao thấy cửa động đâu nữa.
Đào Tiềm viết bài này trong thời kỳ nhiễu nhương đen tối của
Trung quốc và ông muốn nói lên cái ước vọng khát khao tốt đẹp của người đương
thời trong hoàn cảnh xã hội lúc đó.
Cái khéo ở đoạn kết là khi ngư phủ trở lại để tìm Đào Nguyên
thì đường đi mất dấu không thể nào tìm lại được nữa, ngụ ý rằng cõi thiên thai
không thực, nó chỉ là ước mơ gặp trong giấc mộng chập chờn ngắn ngủi, khi thức
giấc thì vẫn phải đối diện với trần gian khổ não. Mà đâu có phải chỉ ở bài Đào
hoa nguyên ký của Đào Tiềm mới có đoạn kết như thế. Về sau ta sẽ thấy rằng
trong các truyện về Lưu Nguyễn và Từ Thức cũng đều tương tự như vậy cả.
Thực ra Đào Tiềm đã chịu ảnh hưởng của Lão Trang, vì trong,
chương 80 của Đạo đức kinh (TaoDeJing – gồm 81 chương), Lão Tử có viết phác hoạ
một quốc gia lý tưởng như sau: "Nước thì nhỏ, dân thì ít. Dù có khí cụ
gấp chục gấp trăm sức người cũng không dùng đến. Ai nấy đều coi chết là hệ trọng
nên không đi đâu xa. Có xe thuyền mà không ai ngồi, có gươm giáo mà không bao
giờ đem bày. Bỏ hết văn tự, bắt người trở lại dùng lối thắt dây thời thượng cổ. Ai
nấy đều chăm việc ăn no mặc ấm, ở yên ổn, vui với phong tục của mình. Các nước
láng giềng gần gũi có thể trông thấy nhau, ở nước này có thể nghe thấy được
tiếng gà tiếng chó của nước kia (kê khuyển chi thanh tương văn), nhân dân
trong những nước ấy đến già chết mà vẫn không qua lại với nhau". (1)
Hoa đào chiếm một địa vị đặc biệt rong văn học Trung quốc;
khi hoa đào nở thì phải là mùa xuân và hầu như bài Đường thi nào hay thường được
truyền tụng đều có rừng đào hay cánh hoa đào rơi lả tả, chưa kể đến bài thơ nổi
danh "Đế Đô Thành Nam Trang" của Thôi Hộ (618-907):
"Khứ niên kim nhựt thử môn trung,
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ?
Đào hoa y cựu tiếu đong phong"
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
Nhân diện bất tri hà xứ khứ?
Đào hoa y cựu tiếu đong phong"
Và Văn Cao cũng không khỏi vương vấn với hình ảnh đẹp ấy:
"… Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần".
Bồng Lai - Thiên Thai - Lưu Nguyễn - Từ Thức:
Trở lại với việc truy cứu ngôn tự, "Bồng lai" là
tên một ngọn núi, và Thiên Thai là tên của một dãy núi gần biển thuộc huyện
Thiên Thai, tỉnh Triết giang bên Tàu có ngọn Hoa Đảnh, địa thế cheo leo, hiểm
trở và theo truyền thuyết của Trung quốc thì đó là cõi tiên ở.
Tương truyền, Lưu Thần và Nguyễn Triệu là hai chàng trai rũ
nhau đi hái thuốc trên núi Thiên Thai, rồi lạc lối và gặp hai Tiên Nữ, và cùng
hai nàng kết duyên thành vợ chồng. Sau khi ở cảnh Tiên được nửa năm thì Lưu Thần
và Nguyễn Triệu chợt nhớ quê nhà, cùng đòi về thăm. Khi trở lại quê hương thì
phong cảnh hoàn toàn đổi khác, hỏi ra mới biết đã đến đời cháu thứ sáu rồi.
Không còn ai quen thuộc, lòng buồn bã hối hận, hai chàng tìm đường trở lại núi
Thiên Thai nhưng than ôi, đường xưa lạc lối nên không tìm lại được cõi Tiên nữa.
Từ đó người ta chẳng còn thấy hai chàng nơi nao.
Tưởng cũng nên nhắc thêm rằng vào năm 576, Đại sư Trí Khải một
vị cao tăng Phật giáo trụ trì Tu Thiền Tự (do vua nước Trần là Tuyên Đế đã sắc
tứ vào năm 578) tại núi Thiên thai đã lập nên "Thiên thai tông" lấy bộ
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh làm tông chỉ.
Câu chuyện vừa kể lại giống như chuyện truyền kỳ trong văn học
Việt nam nói đến Từ Thức như sau:
"Vào khoảng niên hiệu Quang Thái nhà Trần (tức đời
Trần Thuận Tông 1388-1398), có ông Từ Thức là quan Tế huyện Tiên du, tỉnh Bắc
Ninh. Nhân mùa xuân, cây mẫu đơn hiếm quí của ngôi chùa trong huyện nở hoa, người
các nơi trẩy hội đổ đến xem, ngựa xe dập dìu. Trong số người thưởng ngoạn có một
thiếu nữ tuổi độ 16, sắc nước hương trời lỡ làm gẫy cành hoa bị người canh gác
giữ lại đòi bồi thường. Mãi đến tối chẳng thấy người nhà đến nhận, Từ Thức chợt
nghe chuyện bèn thương cảm trao áo bạch cẩm cừu để chuộc tội cho cô, và nhờ thế
cô mới được thả.
Về sau, Từ Thức treo ấn từ quan lui về ẩn dật ở huyện Tống
sơn, ngày ngày lãng du khắp danh lam thắng cảnh với túi thơ bầu rượu. Một hôm
nhìn thấy ngoài cửa biển Thần Phù hiện đám mây ngũ sắc, vội chèo thuyền đến xem
thì thấy có một quả núi đẹp; nhìn quanh lại nhận ra một lối hẹp dẫn lên núi. Đến
đỉnh núi lại thấy bày ra lầu đài cực kỳ tráng lệ; đang ngỡ ngàng thì có thanh y
đồng nữ đến bảo:
- "Phu nhân tôi xin mời tướng công nhập điện."
Đến nơi thấy có một tiên nương đang ngự trên giường thất
bảo, ôn tồn nói:
- "Ta là Ngụy phu nhân địa tiên Nam Nhạc cai quản
6 động của 36 động ở Phù Lai. Được biết tiên sinh có lòng nhân hay cứu người khốn
đốn, và mới đây đã cứu con gái yêu của ta nên hôm nay mới mời đến nơi này diện
kiến".
Đoạn bà gọi tiên nữ ra chào, hóa ra là cô gái đã làm gẫy
cành hoa, rồi nói tiếp:
- "Con gái ta tên là Giáng Tiên vẫn nhớ ơn cứu độ, nên
ta muốn nó kết làm giai ngẫu với tiên sinh để bồi đền".
Dĩ nhiên là Từ Thức rất vui lòng chấp thuận; từ đấy
chàng sống hoan lạc ở cõi tiên. Thắm thoát đã một năm trôi qua, Từ bỗng nhớ cố
hương bèn xin phép về thăm. Biết Từ chưa thoát được lòng trần nên tiên nương cấp
cho một cẩm vân xa để đi lại. Vợ chàng bịn rịn trước khi chia tay trao cho Từ một
phong thư bảo khi về đến nhà hẳn mở ra xem.
Đến nơi thì mọi cảnh và người đã hoàn toàn đổi khác. Từ giới
thiệu tên họ của mình mà hỏi thăm các phụ lão thì có người bảo:
- "Thuở nhỏ tôi có nghe nói chuyện ông cụ tam đại nhà
tôi có cùng tên họ như ông đi vào núi và biệt tích đến nay cũng phải cả trăm
năm".
Bấy giờ Từ mới hối tiếc bùi ngùi muốn lên xe mây để về núi
nhưng xe đã hóa ra con tường loan bay mất. Bèn mở thư của Giáng Hương ra đọc
thì thấy ghi: "Kết loan lữ ư vân trung, tiền duyên dĩ đoạn; Phỏng tiên sơn
ư hải thượng, hậu hội vô nhân." (Kết bạn loan trong mây duyên trước đã dứt;
Tìm núi tiên trên biển hội sau khôn cầu).
Thất vọng, Từ bỏ vào núi Hoàn sơn ở huyện Nông cống thuộc tỉnh
Thanh hóa và tứ đó tuyệt tích.
Ngọc tuyền - Bầy tiên và khúc nghê thường:
Nói đến bầy tiên với khúc nghê thường hay "Nghê thường
vũ y khúc" thì cũng có đôi truyền thuyết. Theo sách Dị Văn Lục thì vũ khúc
này do Đường Minh Hoàng sau khi du nguyệt điện về rồi chế ra cho những người
cung nữ múa hát. Sách ghi:
Vào niên hiệu Khai nguyên nhà Đường (713-741), nhân một đêm
Trung thu vua Đường Minh Hoàng (hay Đường Huyền tông Lý Long Cơ) thấy trăng
sáng, mơ ước được đặt chân lên cung hằng thăm thú. Có đạo sĩ tên La Công Viễn
(có sách chép là Diệp Pháp Thiện), có phép tiên mới dùng giải lụa trắng, hóa
thành một chiếc cầu đưa nhà vua đến nguyệt điện.
Trong điện lưu ly bấy giờ sáng rực. Những nàng tiên cực kỳ
xinh tươi trong xiêm y lộng lẫy, đang uyển chuyển múa hát theo tiếng nhạc du
dương làm mê hồn người. Đường Minh Hoàng càng nhìn càng ngây ngất, quên cả trời
gần sáng đến nỗi La Công Viễn phải nhắc nhở nhiều lần mới chịu rời gót.
Khi trở về triều, Đường Minh hoàng vận dụng trí nhớ chế thành
khúc "Nghê thường vũ y" để tập cho cung nữ trong triều múa hát. Rồi cứ
thế, đến đêm rằm tháng tám, Đường Minh hoàng và Dương quí phi cùng uống rượu dưới
trăng, ngắm đoàn cung nữ múa hát khúc Nghê thường để tưởng như đang sống trong
cung Quảng hàn nơi nguyệt điện.
Sách "Đường Thư" lại chép: Đường Minh Hoàng lên
chơi nguyệt điện, thấy các tiên nữ mặc áo cánh chim, xiêm y ngũ sắc, hát bài
"Tây thiên điệu khúc", đến khi trở về trần, còn nhớ mang máng. Nhằm
lúc có Tiết độ sứ là Dương Kính Thuật từ Tây Lương về, đem khúc hát Bà-la-môn đến
hiến, Đường Minh Hoàng truyền đem san định lại và đổi tên là khúc "Nghê
thường vũ y".
Theo Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh thì Nghê là ráng hồng,
hoặc mây sắc đỏ và thường là xiêm y. Vậy nghê thường là xiêm y màu ráng đỏ (tựa
như màu rượu vang đỏ theo lối nói ngày nay). Vài nơi khác lại giải thích
"Nghê thường vũ y" là các tiên nữ mặc quần ngũ sắc và áo lông có hình
cánh chim và "Nghê thường vũ y khúc" là bài hát múa ở cõi thần tiên
do bầy tiên nữ biểu diễn.
Thực ra dựa vào sử liệu lúc bấy giờ thì những điệu múa hát
này bắt nguồn từ Ấn-độ đã được truyền vào Trung quốc sau khi đã được cải biên ở
nước Khuất Chi, qua huyện Đôn Hoàng, thuộc đất Tây Lương, và dần dần được biến
đổi cho hợp với truyền thống và văn hóa của nước du nhập.
Đôn Hoàng trước thời nhà Đường đã là một thành phố giao lưu
văn hóa và thương mại rất quan trọng của con đường tơ lụa nối liền Trường An đến
Địa trung hải. Đôn Hoàng nằm cạnh sa mạc tử thần Taklimakan (hay Gobi), và cũng
là một thánh địa Phật giáo từ thế kỷ thứ 4 và nay vẫn còn lưu truyền rất nhiều
di tích quý giá trong các vách núi đá vôi.
Nước Khuất Chi ở đâu?
Còn nước Khuất Chi (Kutsha, Kucha; còn được gọi là Nhục Chi,
hoặc Quy Tư, hoặc Dao Tần; nay là huyện Khố Xá hay Khố Đông, khu tự trị Duy Ngô
Nhỉ tỉnh Tân Cương) xưa vốn là một nước phồn thịnh, có một nền văn hóa tiến bộ
và nổi tiếng về âm nhạc và vũ khúc. Phụ nữ nước Qui Tư rất xinh đẹp và điêu luyện
về múa hát. Y phục rất sặc sỡ với nhiều nét thêu thùa tinh xảo khéo léo. Cũng ở
vùng núi nước Khuất Chi có những ngọn "suối đàn". Nước nhỏ xuống đá từng
giọt phát âm trầm bổng tựa như khúc nhạc. Có thể nơi đây đã gợi cho văn nhân
thi sĩ ý tưởng về "ngọc tuyền" và Tây thiên là nơi thần tiên cực lạc
chăng?
Nước Khuất Chi cũng đã từng được nhắc nhở nhiều lần trong văn
học Phật giáo Trung quốc. Chính ở xứ này, đã xuất hiện một vị Tổ sư Phật giáo
danh tiếng là Ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva: 344-413). Vị Tổ sư này, thân phụ
là người Ấn Ðộ, thân mẫu là công chúa của nước Khuất Chi. Khi còn nhỏ Ngài sang
Kashmir tầm đạo, đến hai mươi tuổi Ngài trở về Khuất Chi thì bị một đạo quân viễn
chinh của Trung Hoa sang xâm chiếm nước này và bắt Ngài về Trường An. Ở đây
Ngài truyền giáo Ðại thừa và phiên dịch kinh điển.
Than ôi! vật đổi sao dời qua nhiều thời đại. Chỉ cần xem qua
bộ "Phật Quốc Ký" do Đại Sư Pháp Hiển ghi lại sau khi đã qua Ấn độ cầu
pháp năm 399 và "Đại Đường Tây vực ký" của Ngài Huyền Trang sau khi
đi thỉnh kinh năm 629 ta cũng đã thấy sự sự sinh diệt của những quốc gia này
như mây nổi.
Đại cương về địa dư thì Ngài Pháp Hiển ghi: "Khởi
đi từ Trường an, vượt đất Lũng, đến nước Càn qui, rồi tới nước Nhục đàn, vượt
núi Dưỡng lâu, đến trấn Trương dịch, sau đó mới đến xứ Đôn hoàng. Sau đó tiếp tục
về hướng tây sẽ đến các nước Thiện thiện, Ô-di (Agni; còn gọi là Y Ngô), Cao
Xương, Vu điền, Kế tân (Hetian hay Khotan), Tử hợp, Dãy núi Tuyết (Pamirs), Ô
Trường (Udỳana), Huy, Kiệt xoa (Kashi hay Kashgar), và Ðột Quyết và nhiều nước
nhỏ khác trước khi đến Ấn độ".
Trong vòng 230 năm sau đó xứ Đôn Hoàng đã lọt vào tay Trung
quốc rồi. Vậy mà đến khi ngài Huyền Trang Tây du còn phải đi qua 26 nước lớn nhỏ
kể từ Đôn Hoàng. Cuốn "Đại Đường Tây vực ký" ghi lại cuộc hành trình
thỉnh kinh gian khổ trong 16 năm, có ghi tên vài nước: Y Ngô (Agni, còn gọi là
Ô Di), Cao Xương, A-Kỳ-Ni (nay là huyện Yên Kỳ, xứ Tân Cương). Rồi phải vượt
qua con sông lớn Giao Hà, vòng quanh chân núi Ngân Sơn, mới vào nước Khuất Chi.
Sau Khuất Chi đi về phía Tây 60 dặm, phải qua một sa mạc nhỏ, đến nước Bạt Lộc
Già (hay Cô Mặc, tức Bái Thành và A Khắc Tố thuộc Tân Cương), rồi đến núi Tăng
Sơn thuộc Thông Lĩnh (Thiên Sơn). Ra khỏi Tăng Sơn, theo dòng sông Cáp Lạp Thập,
vượt qua núi Khách Lạt Côn Luân, đến một cái hồ lớn gọi là Nhiệt Hải (tức là
Issik-kol, thuộc Liên Xô cũ). Đi theo bờ hồ về phía Tây bắc độ 500 dặm, thì đến
thành Tô Ðiệp (Tokmak, thuộc Liên Xô cũ) của nước Ðột Quyết (đây là xứ Tây Đột
Quyết, chứ Đông Đột Quyết sắp bị Đường Thái Tông Lý Thế Dân tiêu diệt vào năm
630). Cứ thế lặn lội qua bao gian nguy mới đến được Tây trúc.
Đến nay thì chỉ trong vòng chưa đến 2 ngàn năm, bao nhiêu nước
lớn nhỏ quanh con đường tơ lụa đã bị bọn dân Hán bá quyền thâu tóm cả.
Tản mạn đôi điều:
Như thế, ta thấy rằng ước muốn về một chốn thần tiên ở cõi trần
này ắt hẳn đã có từ ngày con người biết mơ mộng. Sử sách ở Đông phương ghi chép
lần đầu là chương 80 trong Đạo đức kinh của Lão tử (thế kỷ thứ 6 trước CN);
Ngài đã mô tả đến một xứ sở lý tưởng an bình, no ấm và không áp bức mà mãi đến
thế kỷ 16, vài triết gia Tây phương như Thomas Moore và Rabelais mới dùng chữ
Utopia để nói đến một nơi chốn tương tự, nhưng lại là một hải đảo xa xôi chứ
không phải ở vùng non cao mây phủ.
Đến thời Đào Tiềm, nước Tàu đã trải qua biết bao cơ man nhiễu
loạn, dân chúng lầm than, sinh linh bị sát hại không ngừng vì chiến tranh liên
miên từ Xuân thu, chiến quốc qua đến Tam quốc và đến Nam bắc triều. Đời sống thực
mong manh, kẻ sĩ phu bất lực trở nên bi quan yếm thế chỉ đành ẩn cư nơi thôn dã
hoặc chốn cao sơn cùng cốc để tránh tai họa, và bài "Đào hoa nguyên
ký" ra đời liền được tán tụng. Các văn nhân thi sĩ đời sau cứ dựa vào ý tưởng
ấy mà thêu dệt thêm thắt vào chuyện Lưu Nguyễn, Từ Thức, nghê thường vũ y cho
cõi thần tiên càng thêm hư ảo. Và cứ cái đà liên tưởng ẩn dụ, các tiểu tiết của
chuyện này đem trộn qua chuyện nọ. Ngay trong câu hát của bản Thiên thai ta
cũng thấy lù mù thiên địa rồi:
"Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên…"
Lưu Nguyễn nào mà lạc tới Đào Nguyên, chỉ có một anh đánh cá
thôi!
Nhưng cho dù có thêm thắt gì đi nữa rồi cũng chỉ loanh quanh
với cung vàng điện ngọc, từng đàn tiên nữ trẻ đẹp tuyệt vời trong xiêm y rực rỡ
múa lượn những điệu vũ mê hồn, cùng với nhạc phách du dương và lời ca tiếng hát
vang lừng, với ê hề sơn hào hải vị và bồ đào mỹ tửu thơm nồng được rót mềm
môi….quên cả thời gian lẫn không gian. Có nghĩa là toàn những thứ ước mơ rốt
ráo của một đời người … đàn ông, tìm kiếm được chăng chỉ là trong giấc mộng. Rõ
là những điều hoang tưởng cho bõ những khốn khó bủa vây hằng ngày nơi trần thế
mà mình không muốn trực diện.
Chẳng hề thấy nữ tác gia nào mạnh dạn viết về một cõi … (có lẽ
với cái tên khác) mà nơi ấy toàn là trai tráng thanh tú, vai u thịt bắp cuồng
cuộn chực chờ suốt ngày để phục dịch theo yêu cầu của nữ khách lãng du. Nghe vẫn
có một cái gì không được ổn.
Vì sao? có lẽ vì thiên thai đã được khai sinh vào một thời đại
cổ xưa khi nam nhân làm chủ mọi việc, từ trong gia đình ra đến xã hội - nam trọng
nữ khinh và có quyền năm thê bảy thiếp - Hoặc vì thể chất giống đực dễ thích
nghi với những chuyện phiêu lưu thám hiểm, và dễ thoát ly gia đình và xã hội
hơn một khi bất mãn; ví dụ bỏ vào núi để làm cách mạng chẳng hạn.
Hay vì cái mơ ước của người phụ nữ vốn thực tế hơn. Hạnh phúc
của họ đơn thuần chỉ mong có được một người chồng chung thủy, đem lại kinh tế ổn
định để trao thân gởi phận mà gầy dựng một gia đình đầm ấm với bầy con xinh khỏe.
Các ông thực có cùng mộng ước chăng? Nghi lắm.
Bây giờ dưới triều đại của Bush con, nhìn quanh thấy ai cũng
bi quan chán nãn với kinh tế tụt hậu, thất nghiệp tràn lan, khủng bố phá hoại
khắp nơi, nay đánh Afghanistan, mai dọa Iraq, mốt hù Bắc Triều tiên, công ăn việc
làm khó khăn ngay cả trong ngành y tế, thầy thuốc với y hiệu cứ phải chi nhiều
thu ít, nên cũng muốn lui về ở ẩn sớm như Đào Tiềm cho yên thân già.
Nhưng thôi hãy tạm quên tất cả những nhiễu nhương nhân thế
trong dịp đầu xuân, khi khí trời đang dần ấm áp vào một buổi chiều hanh nắng,
hoa đào (ở vùng tây bắc này) còn đang cười với gió đông, chim chóc hót vang
ngoài sân, ta hãy ngồi dựa thoải mái vào cái love-seat, gác chân lên cái
ottoman trong căn phòng vắng chỉ một mình ta với ta, bên cửa sổ nhìn ra một sân
đầy hoa đủ màu sặc sở, nhấp một cốc nhỏ XO Rémy Martin Cognac (có hơn được bồ
đào mỹ tửu không nhỉ?), mở dàn nhạc, bỏ cái CD có bài Thiên thai của Văn Cao và
chìm vào trong giấc mơ thần tiên với giọng ca Ánh Tuyết. Bạn có gặp Đường Minh
Hoàng và Dương quý phi cùng bầy tiên với nghê thường vũ y khúc chăng?.
Ghi chú:
(1) Bản dịch Việt từ Hán ngữ của Nguyễn Hiến Lê - Xin kèm bản dịch Anh ngữ của
www.chinapage.com/laotze.html để tiện tham khảo:
(80).
Let your community be small, with only a few people;
Keep tools in abundance, but do not depend upon them;
Appreciate your life and be content with your home;
Sail boats and ride horses, but don't go too far;
Keep weapons and armour, but do not employ them;
Let everyone read and write,
Eat well and make beautiful things.
Live peacefully and delight in your own society;
Dwell within cock-crow of your neighbours,
But maintain your independence from them.
(80).
Let your community be small, with only a few people;
Keep tools in abundance, but do not depend upon them;
Appreciate your life and be content with your home;
Sail boats and ride horses, but don't go too far;
Keep weapons and armour, but do not employ them;
Let everyone read and write,
Eat well and make beautiful things.
Live peacefully and delight in your own society;
Dwell within cock-crow of your neighbours,
But maintain your independence from them.
(TaoDeChing - Lao Tze)
Thiên thai
Văn Cao - Ánh Tuyết
Đầu Xuân Quý Tỵ
Trần Trúc Lâm
Nhạc Văn Cao (1923-1995),
Lời Văn Cao và Hoàng Thoái
Phạm Ngọc Lân đàn và hát
Phạm Ngọc Lân đàn và hát
Văn Cao sáng tác ca
khúc bất hủ này khoảng năm 1942-43, khi ông chưa đầy 20 tuổi, phỏng theo thơ của
Hoàng Thoái viết về huyền thoại Thiên Thai: hai chàng họ Lưu và họ Nguyễn vào
núi hái thuốc gặp một con suối lớn, bên bờ suối có hai cô gái xinh đẹp đã lưu
hai người lại ân ái sống với nhau trong một thời gian. Thật ra đó là hai nàng
tiên bên con suối Đào Nguyên. Khi hai chàng nhớ quê hương từ biệt các tiên nữ
trở về thì không còn nhận ra người và cảnh vật nào nữa, vì trên trần thế đã trải
qua thời gian mấy trăm năm rồi!
Trang bìa của bản in năm 1955 của nhà xuất bản Tinh Hoa Huế có lời tựa của tác giả:
"Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên Thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường Thi với hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người Sông Ngự đã lạc cảm xúc rồi... Xuân Giáp Thân"
Xuân Giáp Thân là mùa xuân 1944, "Người Sông Ngự" chính là Văn Cao, khi đến thăm xứ Huế vào mùa thu năm 1940 ông đã có ấn tượng mạnh với sông Hương núi Ngự.
Phạm Duy dùng gần 9 trang sách trong cuốn Hồi Ký (tập 1, Thời Thơ Ấu – Vào Đời) để viết về tác phẩm Thiên Thai của Văn Cao "Một bài hát theo tôi thật là tuyệt diệu! Nó vừa có tính chất trường ca, vừa có tính chất nhạc cảnh." "Bản Thiên Thai của Văn Cao đã vươn lên một hình thức rất lớn, chia ra nhiều đoạn, nhiều cảnh, gồm tới con số chín mươi bốn khuôn nhạc, chan chứa những giai điệu thần tiên và những lời ca thần diệu".
Trang bìa của bản in năm 1955 của nhà xuất bản Tinh Hoa Huế có lời tựa của tác giả:
"Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên Thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường Thi với hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người Sông Ngự đã lạc cảm xúc rồi... Xuân Giáp Thân"
Xuân Giáp Thân là mùa xuân 1944, "Người Sông Ngự" chính là Văn Cao, khi đến thăm xứ Huế vào mùa thu năm 1940 ông đã có ấn tượng mạnh với sông Hương núi Ngự.
Phạm Duy dùng gần 9 trang sách trong cuốn Hồi Ký (tập 1, Thời Thơ Ấu – Vào Đời) để viết về tác phẩm Thiên Thai của Văn Cao "Một bài hát theo tôi thật là tuyệt diệu! Nó vừa có tính chất trường ca, vừa có tính chất nhạc cảnh." "Bản Thiên Thai của Văn Cao đã vươn lên một hình thức rất lớn, chia ra nhiều đoạn, nhiều cảnh, gồm tới con số chín mươi bốn khuôn nhạc, chan chứa những giai điệu thần tiên và những lời ca thần diệu".
Thiên thai
Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Ðào Nguyên
Kìa đường lên tiên, kìa nguồn hương duyên
Theo gió tiếng đàn xao xuyến
Phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền
Mấy cung trìu mến như nước reo mạn thuyền
Âm ba thoáng rung cánh đào rơi
Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời
Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan
Quê hương dần xa lấp núi ngàn
Bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền
Ai hát trên bờ Ðào Nguyên
Thiên Thai chốn đây Hoa Xuân chưa gặp Bướm trần gian
Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần
Thiên Tiên chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm
Khúc nghê thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn
Ðèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quyên đây đó nỗi lòng mong nhớ
Này khúc bồng lai là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi
Ðàn xui ai quên đời dương thế
Ðàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên
Thiên Thai! Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian
Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần
Gió hắt trầm tiếng ca tiếng phách ròn lắng xa
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta
Ðào Nguyên trước Lưu Nguyễn quên trần hoàn
Cùng bầy tiên đàn ca bao năm
Nhớ quê chiều nào xa khơi Chắc không đường về Tiên nữ ơi!
Gió hắt trầm tiếng ca tiếng phách ròn lắng xa
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta
Ðào Nguyên trước Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Ðào Nguyên, Ðào Nguyên nơi nao?
Những khi chiều tà trăng lên
Tiếng ca còn rền trên cõi tiên.
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Ðào Nguyên
Kìa đường lên tiên, kìa nguồn hương duyên
Theo gió tiếng đàn xao xuyến
Phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền
Mấy cung trìu mến như nước reo mạn thuyền
Âm ba thoáng rung cánh đào rơi
Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời
Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan
Quê hương dần xa lấp núi ngàn
Bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền
Ai hát trên bờ Ðào Nguyên
Thiên Thai chốn đây Hoa Xuân chưa gặp Bướm trần gian
Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần
Thiên Tiên chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm
Khúc nghê thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn
Ðèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quyên đây đó nỗi lòng mong nhớ
Này khúc bồng lai là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi
Ðàn xui ai quên đời dương thế
Ðàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên
Thiên Thai! Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian
Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần
Gió hắt trầm tiếng ca tiếng phách ròn lắng xa
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta
Ðào Nguyên trước Lưu Nguyễn quên trần hoàn
Cùng bầy tiên đàn ca bao năm
Nhớ quê chiều nào xa khơi Chắc không đường về Tiên nữ ơi!
Gió hắt trầm tiếng ca tiếng phách ròn lắng xa
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta
Ðào Nguyên trước Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Ðào Nguyên, Ðào Nguyên nơi nao?
Những khi chiều tà trăng lên
Tiếng ca còn rền trên cõi tiên.
Phạm Ngọc Lân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét