Tôi ngẫm nghĩ khi đặt nhan đề này cho bài viết.
Một loại nhan đề thuở chiến tranh, trong văn chương miền Bắc
nhan nhản: đọc lên đã thấy cái khí thế thời đấy thường gọi là ”hào hùng” "sôi nổi”
nhưng "tha thiết”…
Chỉ ai sống những năm 70 của thế kỷ ở miền Bắc mới hiểu hết ý
nghĩa của loại nhan đề này, và chỉ riêng viết về ý nghĩa của nó cần rất nhiều
thời gian, giấy bút, và tâm huyết, hình như lịch sử đang kiên nhẫn đợi các nhà
văn Việt phục hồi bộ nhớ một cách „lành lặn”, để viết về chiến tranh Vietnam- tại
miền Bắc- một cách đầy đủ, nhiều góc cạnh, để viết về các loại nhan đề văn
chương Bắc cho sát với tính chất lịch sử của nó hơn thì phải.
Tôi lấy cái nhan đề này đặt cho bài viết của mình, khi chợt
nhận ra: ngày chỉ có đầy đủ ý nghĩa, nếu ta sống hết thời hiện tại của nó, văn
chỉ có giá trị khi đặt ra những vấn đề của ngày hôm nay.
Mấy ngày hôm nay bạn bè xa gần tíu tít gửi cho tôi những tin
tức thế giới hết sức giật gân: ”những học giả nghiên cứu văn hóa Mayan đã kỹ lưỡng
nghiên cứu thiên tượng sẽ xuất hiện vào ngày 21 tháng 12 năm 2012, họ cho rằng
đây là ngày chung kết của nền văn minh hiện tại trên quả đất. Ngày này là ngày
Đông chí (Winter Solstice). Đây là ngày mặt trời sẽ hoàn toàn trùng hợp với
giao điểm mà hình thành bởi Hoàng Đạo (Ecliptic) và Xích Đạo (Eqator) của Hệ
Ngân Hà. Sau đó, nhân loại sẽ đi vào một nền văn minh hoàn toàn mới „
Thư đi từ lại, mọi người gửi tiếp cho nhau bài viết về dự
đoán tương lai của nhà tiên tri Barba Vanga (Bungari) về những năm tiếp của nhân
loại. Toàn những tin kinh hoàng, những phỏng đoán thất thiệt, những viễn cảnh
tương lai rùng rợn chờ đợi con người.
Tôi cứ tưởng bạn bè của mình sẽ náo loạn hớt hải, hoặc ít nhất
than vãn, kêu rên…Không! Chẳng thấy ai làm sao, bật computer cả bọn lại nhào
vào chat với hớn hở khoe này mách kia, hoặc gửi kèm theo mail những bài thơ, những
kể lể dài dòng…
Lạ. Con người quả là một thứ sinh vật kỳ lạ nhất cõi đời này.
Nhưng ngẫm nghĩ một hồi, thấy đấy mới đúng là cuộc sống, là hiện tại.
Chàng Kiệt Tấn hay đùa bỡn chắc lại gật gù bảo tôi: „chưa thấy quan
tài chưa rỏ lệ!”
Tôi chợt nhớ ra những ngày sống trong chiến tranh của mình. Nếu
nhìn thật kỹ, về bản chất, những ngày sống đó khác hẳn ngày sống hôm nay, vì
lúc đó là thời chiến tranh, còn bây giờ là thời hòa bình.
Cuộc sống trong chiến tranh, giống như một căn nhà có một
cánh cửa lúc nào cũng mở, bất kỳ sự việc trên đời nào đều có thể xâm nhập hoặc
từ ngoài vào hay từ trong ra qua cánh cửa mở. Còn những người sống trong căn
nhà này luôn luôn ở tư thế sẵn sàng đối phó, bởi bất kỳ cái gì cũng có thể xảy
ra, kể cả cái chết- sự đứt đoạn cuối cùng.
Nhưng cái hiện tại căng thẳng đó không chỉ duy trì trong một
ngày, mà rất lâu, tính bằng thế hệ. Bởi vậy có lẽ dân Việt – trong đó có lũ bạn
bè tôi giờ đây- vẫn còn nguyên si cái tư thế đối phó sẵn sàng với mọi
bất trắc ấy trong máu, nên chẳng hiện thực đáng sợ nào đe dọa được họ nữa.
Có lẽ vậy con người vẫn tiếp tục thản nhiên sống, mặc kệ ngày
mai ra sao, cho dù đứng về mặt lý thuyết, con người có khả năng đề ra những giải
pháp cứu vãn được tình thế tương lai của mình.
Cho rằng mình đã phát hiện ra tính chất lạc quan tự thân này
của cuộc sống, tôi vứt công việc sang một bên, đi vào phố chơi lang thang.
Thành Budapest diễm lệ sáng chói chang dưới nắng thu vàng rực rỡ sau cơn mưa.
Mưa rửa sạch những mệt nhọc hiện đại của đời thường, trả lại
từng đường nét tinh tế và lộng lẫy trên những tháp chuông nhà thờ cao vút, trả
lại dáng vẻ dịu dàng uyển chuyển của dòng Đanuýp biếc xanh uốn lượn
dưới những cây cầu, trả lại sắc đỏ ối của những dàn cây leo tràn vào từng khung
cửa sổ những ngôi nhà mái đỏ, nho nhỏ xinh xinh, cạnh con đường toàn những bậc
thang gập ghềnh trèo lên thành cổ…
Budapest giống như một lâu đài cổ trong truyện cổ tích, được
phóng to khi ta nhìn qua kính lúp. Đi qua một chùm đèn bằng sắt đen có những
hoa văn lượn cực kỳ tinh tế, đứng dưới chân một tượng bằng đá xanh thể hiện người
dũng sĩ thuở xưa đang phi ngựa phóng về phía, hoặc thả bộ băng qua một cây cầu
đá lâu đời nhất của thành phố, đôi khi tôi có cảm giác mình không thể chỉ là
người đời nay, chỉ là người của thế kỷ này được.
Bởi tôi nhận ra tất cả âm thanh, màu sắc, khí thế, cảm giác của
những cuộc sống Người đã trôi qua tại nơi đây, có thể từ những câu chuyện tôi
đã đọc trong sách, có thể chính vì tôi sờ tay lên mặt đá lạnh ram ráp này, hoặc
vì một phần tuổi xuân tôi đã trải qua ở đây, những kinh nghiệm đời thu được làm
tôi có cảm giác đó.
Có thể rất nhiều người có cảm giác này như tôi. Vì cùng
một thời đại, họ đều trải qua ít nhất hai chế độ chính trị- văn hóa- xã hội
khác nhau như tôi, đều cùng có một quá khứ về chiến tranh.
Ngẫm nghĩ kỹ về những điều đã trải, đã biết, đã so sánh, đã đọc
và đang chứng kiến, có thể nói, có thể viết vô tận về những điều có thể thổ lộ
cho nhau- chúng ta- những kẻ đang sống trong thời đại này.
Thế mà không như vậy. Luôn luôn có những bức tường
hạn chế vô hình đâu đó, ngăn con người không ra khỏi một cái quỹ đạo cũng vô
hình nốt, quy định họ lại trong đó. Tại sao thế nhỉ? Đấy là cái gì vậy? Cái gì
quy định con người đến mức gần như tuyệt đối thế?
Bên dòng Đanuýp có một đoạn đường đi bộ tuyệt đẹp, tôi vừa bước
từng bước gật gù theo những ý tưởng của mình, vừa ngắm quả núi bên kia sông sặc
sỡ sắc vàng ươm pha đỏ ối, xanh đang rực lên trong nắng chiều sắp tắt, như một
tảng màu bất hủ rơi từ bức tranh diễm lệ của vũ trụ xuống, chợt tôi dừng chân,
ngước nhìn một tấm biển bằng đồng ghi dòng chữ” Tại đây nhà triết học vĩ đại
Hung, nổi tiếng thế giới Lukács György đã sống và làm việc từ năm 1945-1971”
Tôi dừng lại đọc thật kỹ, ngẫm nghĩ một hồi rồi bước đi. Ở
đâu có một tấm biển ghi dòng chữ:”Từ năm…đến năm… tại đây nhà triết học maxit
Lukács György đã dùng quyền hạn chính trị của mình hạn chế và cấm đoán hoạt
động của các đồng sự triết học khác”? Ở đâu có nhỉ? Chắc chả ở đâu có. Chắc
chỉ được ghi lại trong sách, một trong những bản sao lịch sử nghiêm
khắc nhất. Tôi đã đọc những trang sách nói về sự trù úm và đầy ải bạn đồng nghiệp
của nhà triết học Hung nổi tiếng này, khi ông còn nằm trong guồng máy chính trị
đương thời.
Lạ. Con người quả thật là những sinh vật lạ lùng nhất. Tự xúm
nhau lại tạo dựng nên các quần thể chung lớn nhất như thành phố, quốc gia, rồi
nghĩ ra các hệ tư tưởng để điều hành lần nhau, để rồi chính tất cả những „thành
tựu” ấy đè bẹp họ.
Đất nước của vua Atilla quật cường này sau thời kỳ thể chế
chính trị cũ thay đổi, cứ như có một cơn lốc vô hình đi qua đây, xới trộn tất cả
các tầng đất đá lên, để lộ thiên tất cả những thứ gì từ xưa bị dấu kỹ. Tâm linh
người dân ở đất nước này cũng thế, một ngày tự dưng họ toàn nói về những điều
ngày xưa họ chỉ để trong lòng, và rất nhiều sự việc, cứ như một ván cờ xóa đi
làm lại từ đầu, quay trở lại điểm xuất phát đầu tiên.
Tôi đứng ở một bến metro mang tên Ferenciek tere, khi tôi còn
là sinh viên ở đây nó là quảng trường Giải phóng. Nhiều điều tôi được học trong
trường đại học hồi đó giờ cần phải hiểu lộn ngược lai- về mặt chính trị- bởi
đơn giản theo thời gian cách giải thích, góc độ đánh giá đã thay đổi.
Chỉ tội nghiệp cho con người! Khả năng chịu đựng để thích
nghi của con người cao đến nỗi, cũng vẫn là con người ấy, ở chỗ này dường như
nó hèn mạt khốn nạn đến mức không thể tha thứ được, nhưng ở chỗ khác, nó có thể
hiên ngang dấn thân như một người anh hùng chân chính.
Thời gian đã dạy tôi hiểu nỗi đau lớn nhất của con người là
không được làm người một cách ra hồn, vì nó biết đau, biết buồn sâu sắc, biết
trở thành con người thật sự mới là cái đích sống của một kiếp. Thơ văn, sách vở
đã dạy tôi điều đó. Con người tìm đến sách, đến viết, đến hoạt động nghệ thuật
cũng vì thế. Nhưng dường như nỗi đau là vô tận.
Bởi những ngày sống hôm nay của ta, một cách như thế nào đó,
vẫn không đúng như ước muốn làm người của ta, một cách nào đó con người vẫn cứ
lặp đi lặp lại những sai lầm cũ của mình, và tiếp tục chịu đựng. Tại sao vậy?
Không chỉ riêng kinh nghiệm bản thân của từng người, văn học
và nghệ thuật cũng nói về những nỗi đau của con người là lớn nhất. Tất nhiên
như mọi sự vật trên đời, những nỗi đau xuất hiện, tăng dần theo mức độ, và nỗi
bất hạnh của con người dường như cứ lặp đi lặp lại chính vì cái mức độ hiểu biết,
cảm nhận về nỗi đau khác nhau.
Tôi nhớ đầu những năm 90, khi Đông Âu vừa thay đổi thể chế
chính trị, tôi về nước, một đồng nghiệp học triết với tôi cứ hoang mang hỏi đi
hỏi lại:” Có đúng là thể chế chính trị đấy bị lật đổ không? Họ không sợ xã hội bị
hỗn loạn à? Bây giờ sẽ lấy gì thay thế đây?”
Tôi nhớ khi học về sự kiện năm 1956 Liên xô đàn áp bằng xe
tăng những người Hung nổi dậy đòi chính quyền, tôi hỏi cô giáo dạy mình”Thưa
cô, sao gọi là phản cách mạng được khi người nổi dậy là người dân sống ở đất nước
này?” Cô giáo nhìn tôi, không đáp.
Tôi nhớ câu chuyện một người bạn Hung kể cho tôi lý do suốt đời
không bao giờ ăn đùi gà của anh ta: ”Vì người đàn bà cho đứa trẻ lên sáu- con của
một nhà quý tộc đang trong trại lao động cải tạo- một miếng đùi gà - đã bị đánh
tả tơi ngay trước mặt đứa bé.”
Tôi nhớ một lần, tôi gửi một bài hát Việt cho một người bạn
Việt đang sống bên Mỹ, anh rất ngạc nhiên hỏi tại sao anh không biết đến bài
hát này bao giờ? Tôi kể cho anh nghe đấy là thời điểm tôi cùng đồng nghiệp đi
điều tra nông thôn miền Bắc tơi tả hoang tàn vì chiến tranh như thế nào, tôi đã
nghe bài hát này, và nhớ lại. Anh bạn Việt bên Mỹ trả lời tôi rằng: lúc đó anh
cũng đang ở miền Bắc - trong một trại giam…
Nỗi đau của con người, phải chăng đến tận thời đại này cũng
chỉ có thể biết đến một cách gián tiếp mà thôi? Tại sao? Cái gì làm con người
không cảm thấy đau?.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét