Buổi sáng trong vườn
1*. Mưa rải đều trên thảm cỏ, mây xám chùng thấp, thi thoảng
một làn chớp lóe lên, văng vẳng tiếng sấm rền xa xa. Gió phất lay những hàng
cây trước nhà nghiêng ngả, đêm xuống nhanh hơn, khí hậu mát dần. Cô học trò tôi
nói đúng, qua tháng chín sẽ hết nóng thôi.
Sáng sớm ra vườn, ngắm nhìn những hạt sương đọng trên cây lá,
phản chiếu ánh nắng vàng tươi, tâm trạng người xa xứ cũng nhẹ bớt nỗi niềm. Tôi
đang đứng ở một nơi cách đất nước mình nửa vòng trái đất, làm bài tập thể dục
Hương Công thường lệ, rồi tay đánh đường xa, bách bộ quanh vườn, đến khi mỏi
chân thì ngồi xuống chiếc ghế bên hiên, cúi đầu, nghiêng cổ hết cỡ về bên phải,
bên trái… đủ bảy mươi hai lần, đó là “bí kíp” chống nhức mỏi cánh tay. Nhớ thời
bao cấp, cuộc sống nhọc nhằn, lao động cật lực, cơ bắp làm việc nhiều khiến
cánh tay phải của tôi bỗng nhức nhối khó chịu. Uống thuốc, đi chữa trị nhiều
nơi vẫn không khỏi, đành phải nghỉ ngơi một thời gian. Rồi tự nhiên, cơn đau dứt
hẳn như một phép mầu, có thể nhờ sức trẻ, tôi đã vượt qua.
Bước vào tuổi già, cánh tay bỗng lại trở chứng. Đi bệnh viện,
bác sĩ phán: “Thiếu calci” rồi cho một toa thuốc nặng tiền, uống ngày uống đêm,
vẫn không thấy hiệu quả gì. Than thở với mấy bà bạn cùng đi tập dưỡng sinh, được
một bà mách nước: “Thuốc thang gì, vẽ chuyện! chẳng qua là dây thần kinh cột sống
cổ của chị bị chèn ép đấy thôi. Tôi chỉ cho chị bài tập này nè, bảo đảm trong
vòng ba ngày, chị sẽ bớt đau ngay.” Tôi ngoan ngoãn làm theo. Nói ba ngày thì
hơi lạc quan, nhưng khi tôi tập khoảng mười ngày thì cánh tay nhẹ dần, rồi lành
hẳn lúc nào không biết. Tôi báo tin vui, khen bà bạn: “Chị đúng là Hoa Đà tái thế.”
“Thì tôi cũng học lóm của ông bác sĩ đông y quen thôi mà. Nè, hết đau cũng phải
tập thường xuyên đấy nhé, bảo đảm không bao giờ bị lại.” Không chờ khuyên bảo,
tôi vẫn siêng năng tập mỗi ngày cho đến khi bận bịu làm giấy tờ, rồi đi khám sức
khỏe, phỏng vấn… Tôi bỏ tập một thời gian. Qua đây được vài ngày, cánh tay bị
tê nhức, tôi mới giật mình và bắt đầu tập thể dục cổ trở lại. Sau một tuần, tay
tôi giảm đau thấy rõ, nhủ lòng từ nay, không được làm biếng nữa, sức khỏe là
vàng mà.
Một ngày như mọi ngày. Tập tành xong, tôi thở sâu cho không
khí trong lành tràn đầy buồng phổi, rồi pha một tách cà phê sữa nóng, ngồi nhâm
nhi vị thơm đắng ngọt ngào, thả hồn lên mây trắng trời xanh … chợt thấy vườn
nhà tôi sao mà đơn điệu, buồn tẻ quá. Phân ranh với vườn nhà khác là dãy hàng
rào gỗ ghép bằng những miếng ván mỏng đơn sơ, cao quá đầu người. Tôi thầm nghĩ,
như vậy ăn trộm nhảy qua dễ như chơi, nhưng rồi cũng không lo lắm vì nếu chuyện
có thể xảy ra thì cũng xảy ra rồi. Con gái nói: “Mẹ làm như ở Việt Nam hồi đó.”
Lại nhớ đến thời khốn khó, lương tiền ít ỏi mà sao cứ bị mất trộm hoài. Chiếc
quần, cái áo phơi trên dây, đôi dép để ngoài cửa… sơ sẩy một tí là bốc hơi liền.
Trước tầm mắt hạn hẹp của tôi là diện tích khoảng vườn vuông
vắn, thảm cỏ mượt mà, vạt đất trồng chanh ớt, dấp cá, tía tô … rải rác vài loại
cây ăn quả còn nhỏ xíu như đào, ổi, hồng… không biết bao lâu mới đơm hoa kết
trái?… Và bao la trong tim tôi là một không gian vườn khác, xanh tươi hơn, thơ
mộng hơn cùng những kỷ niệm êm đềm thời bé dại làm tôi mãi nhớ hoài.
Dễ chừng đã hơn nửa thế kỷ, tôi vẫn không quên ngõ vào nhà dì
Ấm- bạn của mẹ tôi, với hai hàng chè tàu thẳng tắp rẽ qua hai phía. Chính giữa
là bức bình phong bằng đá khắc dòng chữ nho sắc sảo, cạnh bể nuôi cá vàng, nổi
bật hòn non bộ rêu phong với những hình tượng tí hon như mục đồng thổi sáo, tiều
phu đốn củi, ngư ông thả lưới… soi bóng xuống mặt nước trong veo. Qua một sân rộng
trải sỏi là căn nhà trệt ba gian hai chái đồ sộ với những bức hoành phi sơn son
thiếp vàng, những bức tranh thủy mạc mơ màng sương khói đã một thời làm tôi mê
mẩn. Càng mê mẩn hơn nữa là được cùng đám trẻ hàng xóm bày những trò chơi buôn
bán, năm mười, đánh thẻ, ô làng, ù mọi… trong ngôi vườn rộng thênh thang, cây
trái trĩu cành.
Ba cây nhãn được trồng bên chái phải, cao lớn sum suê. Để
tránh thất thoát, đến mùa nhãn chín, dì tôi thường thuê những thanh niên lực lưỡng
leo lên cây, dùng mo cau bọc từng chùm nhãn thành những chiếc lồng lơ lửng. Tôi
không nhớ thời gian là bao lâu, chỉ biết những hôm dì gọi người đến hái và chở
những lồng nhãn ra chợ bán, vui như ngày hội, thế nào tôi cũng được một túi
nhãn rơi, cơm dày và ngọt lịm.
Đào cũng nhiều. Những cây đào thấp, bốn mùa sai trái. Đào ở Huế không tròn như đào ở Mỹ, người Sài Gòn gọi là mận, trái hình nón trơn tru, màu lục nhạt và hồng tươi, ruột trắng như bông gòn, vị ngọt thanh. Tôi không thích ăn đào, chỉ thích hương thơm của lá. Mỗi lần đứng gần cây, tôi thường có thói quen ngắt vài lá vò nát trong lòng bàn tay rồi đưa lên mũi, cảm nhận một mùi hương dịu nhẹ, dễ chịu vô cùng đến nỗi tôi đã từng nuôi mộng là sau này lớn lên sẽ trở thành kỹ sư hóa mỹ phẩm, chế tạo một loại nước hoa có hương lá đào (đáng tiếc là chí lớn tài hèn!).
Đào cũng nhiều. Những cây đào thấp, bốn mùa sai trái. Đào ở Huế không tròn như đào ở Mỹ, người Sài Gòn gọi là mận, trái hình nón trơn tru, màu lục nhạt và hồng tươi, ruột trắng như bông gòn, vị ngọt thanh. Tôi không thích ăn đào, chỉ thích hương thơm của lá. Mỗi lần đứng gần cây, tôi thường có thói quen ngắt vài lá vò nát trong lòng bàn tay rồi đưa lên mũi, cảm nhận một mùi hương dịu nhẹ, dễ chịu vô cùng đến nỗi tôi đã từng nuôi mộng là sau này lớn lên sẽ trở thành kỹ sư hóa mỹ phẩm, chế tạo một loại nước hoa có hương lá đào (đáng tiếc là chí lớn tài hèn!).
Khoảng năm, sáu cây mít ở cuối vườn, trái lớn, có rất nhiều
công dụng. Đầu tiên, phần bên ngoài là vỏ mít gai lú nhú trải đều, dùng để “trừng
phạt”. Tôi chưa hề thấy ai quì gối trên đó cả, nhưng mới nghe dọa cũng sợ hết hồn.
Thứ đến, phần bên trong dùng để “phục vụ bao tử”: từ những múi mít chín vàng
thơm lựng đến những món ăn chế biến từ mít, món nào cũng ngon không chê vào đâu
được: Mít non làm gỏi hoặc nấu canh với tôm và lá lốt, xơ mít kho cá bống thệ,
hột mít luộc chấm muối mè. Người Huế tôi thường có tính từ “mủ mít” để chỉ những
người ít nói, nhưng “mủ mít” thật sự cũng rất có công dụng. Nhớ hoài những đêm
mùa hè, tôi thường theo các anh chị lớn, lấy mủ mít trét trên cây que dài, đi bắt
ve ve. Có lần tôi tóm được một chú ve mới lột vỏ, thân hình mong manh xanh biếc,
run rẩy thấy thương, tôi không nỡ nhốt vào hộp giấy, nên chụp chú trong chiếc lồng
bàn, chờ đến sáng, đem thả ra vườn để chú tự bay đi.
Bưởi nhà dì chỉ có hai cây, không phải giống Huế mà thuộc
“dòng dõi” một loại bưởi nổi tiếng ở miền Nam. Hoa ra nhiều, đậu trái tròn to,
múi dày mọng nước rất ngon. Thích nhất là mỗi lần có khách quí đến nhà, dì thường
làm món gỏi bưởi với khô mực để ăn chơi trước khi nhập tiệc, mùi vị thơm cay nồng
nàn… rồi còn những chùm khế ngọt, những trái ổi sẻ, trần bì xanh tươi, bồ quân
hồng tím… đặc trưng cho quê hương tôi đến bây giờ vẫn chưa phai mờ trong ký ức…
Hoa nở khắp vườn và trên các lối đi. Nhớ thời gian trọ học ở
nhà dì, những đêm thức trắng ôn thi, không gian tĩnh lặng, càng về khuya, hoa
bưởi cùng những lài, hường, tỉ muội, ngâu, thiên lý… chung quanh tôi thi nhau
thả hương theo gió đưa tâm hồn tôi bay bổng như lạc vào cõi tiên … Đêm
thơm như một dòng sữa, lũ chúng em êm đềm rủ nhau ra trước nhà. Hiu hiu hương từ
ngàn xa bỗng quay về dạt dào bên hè, ngoài trời khuya… (Dạ Lai Hương - Phạm
Duy)
Nắng lên cao. Thời tiết dịu dàng. Tách cà phê vừa cạn, tôi đứng
dậy thả bộ một vòng trước khi trở vào nhà. Mặt trời chiếu sáng những nụ hoa nhỏ
xíu trắng ngần. Hoa ớt. Hy vọng sẽ có những trái ớt thật sự, nghĩa là phải cay
như ớt Huế, bởi có nhiều lần ghé qua các nhà hàng, ăn những lát ớt mọng xanh,
đường kính gần 2cm, chỉ thấy the the, khiến tôi có cảm giác là phụ nữ ở đây
không biết ghen.
2*. Sáng nay mở cửa bước ra vườn, bàn chân bỗng mất cảm giác,
hình như tôi đang lạc vào một ngăn đá tủ lạnh khổng lồ. Chung quanh tôi, trời vẫn
xanh, mây vẫn trắng, nắng vàng bàng bạc, gió nhẹ đón chào… thì không có lý do
gì ngăn cản tôi trốn chạy. Tôi trở về phòng, mặc thêm áo ấm, quàng khăn, mang tất…
đứng trước gương ngắm nhìn hình ảnh mình hơi lạ lùng một chút, vì đã hơn ba
mươi năm sống ở Sài Gòn nhiệt đới, tôi đã quên hẳn trang phục mùa đông rồi.
Hồi sắp đi, định ra Lê Thánh Tôn sắm đồ lạnh nhưng bạn bè
nói: “Đừng, để tụi này lo cho.” Vậy là áo len, khăn quàng, mũ, tất… có đến chục
cái, chen kín va li. Có những chiếc áo thời trang hơn bốn mươi năm trước, từ
lâu cất kỹ trong đáy rương kỷ niệm, bây giờ được lấy ra: “Mi biết không? Đây là
cái áo đầu tiên tao học đan, mới xỏ tay một lần, giờ tặng mi nè.” Tôi cảm động
mân mê cái cổ bẻ góc tròn, vuốt ve những hoa văn hình thoi đường nét đan sắc sảo
trên nền áo nâu sẫm phớt vàng: “Mầu len thật độc đáo, lâu quá mới được thấy lại.”
“Mi nhớ không? có một thời, mầu này rất được ưa chuộng ở Huế.” Nhìn cô bạn thân
thời trung học giờ đã hom hem, ký ức lại tràn về. Nhớ mùa đông năm nào, hai đứa
rủ nhau đi mua len về đan áo, dạo hết hai con phố, rã rời chân cẳng vẫn không
tìm được mầu ưng ý. Cô bán hàng chỉ những cuộn len mầu nâu sẫm óng ánh vàng:
“Hàng mới về, em mua đi.” Tôi lắc đầu: “Em thấy… hơi già, không hợp.” “Vậy là
em theo không kịp thời đại rồi. Đây là mầu cổ đồng –thời trang tuổi trẻ trong
mùa lạnh này đó. Em biết không, hàng về bao nhiêu, là hết bấy nhiêu, các tiệm
đan len đã tranh nhau mua, chị bán đắt lắm.”
Lại được tặng những chiếc áo len kiểu mới rất hiện đại: “Tao
đặt đan cho mi đó. Thích không?” “Đẹp thì có đẹp, những màu tươi quá, hơi bị trẻ.”
“Vậy thì không sao. Tụi mình mới U 70 thôi mà, vẫn còn trẻ quá đi chứ.” Lạc
quan thấy ớn. Bạn bè phê bình: “Con nhỏ này thật khó tính, màu len nào cũng
không vừa ý, hồi còn trẻ thì chê màu già, đến khi già thì chê màu trẻ.” Tôi
cãi: “Làm chi có, màu nào cũng được cả. Vì bây giờ mặc vào, có ai… thèm nhìn
đâu mà kén cá chọn canh!” “ Có lý."
Thật ra, được trang bị đầy đủ như tôi bây giờ, không còn cảm
thấy lạnh nữa, chỉ thấy đầu mũi hơi tê vì gió. Nhớ một câu chuyện đọc hồi còn
bé, có nhà bác học chế ra một loại máy biến đổi không gian, chỉ cần đứng lên
máy, ước đi đến đâu là sẽ được toại nguyện ngay tức khắc. Đà Lạt, Nha Trang,
Vũng Tàu… là những danh lam thắng cảnh tôi từng mơ ước, sau này lớn lên, được
đi suốt chiều dài đất nước, giấc mơ thời bé dại chìm vào quên lãng cho đến bây
giờ… Lúc này, Huế đang trong cảnh mưa dầm gió bấc. Mùa đông ở quê hương tôi rất
hiếm hoi những ngày nắng đẹp, giá như lúc này có được chiếc máy, tôi sẽ mang cả
khung trời êm ả quanh tôi về đó, gió sẽ ngừng thổi, mưa sẽ thôi rơi… chỉ còn
cái lạnh se se trong ánh nắng vàng trải nhẹ, rất thích hợp cho những cánh áo
len khoe màu trên đường phố, trong sân trường, dưới những hàng cây lá xanh gần
với nhau. Tuổi trẻ đã lùi xa gần nửa thế kỷ, sao mỗi lần nghĩ về, lòng vẫn thấy
bâng khuâng.
Mùa đông ở đây có nhiều lễ hội lớn. Không khí thật rộn ràng.
Ngoài lễ Noel quen thuộc, còn có lễ Halloween, lễ Thanhksgiving… thật lạ lẫm,
dĩ nhiên là đối với riêng tôi –một kẻ chân ướt chân ráo –mà thôi.
Một buổi sáng trước ngày lễ Halloween, như thường lệ, tôi đi
bộ một vòng khắp cư xá, thấy như lạc vào một cõi mơ hồ, rờn rợn, bởi phần lớn
nhà nào cũng trang hoàng trước cửa… những bộ xương khô tay chân khẳng khiu chỉa
thẳng lên trời, những hình thù ma quái, mặt trắng bệt, mắt thô lố, lưỡi thè ra
cả tấc… Theo truyền thuyết, lễ hội này bắt nguồn từ dân tộc Celt, sống cách đây
hơn 2000 năm trên các vùng đất bây giờ là Anh Quốc, Ái Nhĩ Lan và miền bắc nước
Pháp. Ngày lễ hội này báo hiệu sự bắt đầu của mùa lạnh, của những ngày tối tăm
thường được liên kết với sự tàn tạ và sự chết của loài người, cho phép những
linh hồn người chết được trở về nhà trên trần gian vào đêm hôm đó.
Lễ Thanhksgiving vui hơn. Đây là một dịp sum họp gia đình ở Bắc
Mỹ. Truyền thuyết về lễ này xuất phát từ thời xưa, khi những nhà thám hiểm Âu
Châu đầu tiên đặt chân lên Châu Mỹ, thiếu thốn lương thực và có nguy cơ bị chết
đói thì được những thổ dân da đỏ mang lương thực đến thết đãi. Thức ăn mang đến
chủ yếu là gà tây và bắp. Sau đó họ còn được người da đỏ dạy cách đặt lươn, trồng
bắp, săn bắt, v.v. và thiết lập một mối quan hệ hữu hảo với nhau. Cho nên, buổi
tiệc gia đình trong ngày lễ Thanksgiving không thể thiếu món gà tây nhồi… thập
cẩm. Lần đầu tiên ăn món thời thượng này, thấy giống như gà tam hoàng bán phổ
biến ở chợ Việt Nam, thịt bở và nhạt, không đậm đà thơm ngon như gà ta mình.
Nói các bạn đừng cười, có chê tôi là bảo thủ, là “hai lúa”
cũng cam tâm. Giữa chiều đông giá lạnh, trong gian phòng ấm áp, bên bàn tiệc
tưng bừng hoa nến như thế này, tôi vẫn chưa hòa nhập được, vẫn nghĩ đến một tô
cháo gà nghi ngút khói, một dĩa gỏi su hào, dưa leo, cà rốt, rau răm, đậu phụng…
thơm hương tỏi ớt nồng nàn… Ngoài cửa kính, hoàng hôn trên xứ người chầm chậm
trôi … Thời gian như ngừng trong tê tái, cây trút lá cuốn theo chiều mây,
mưa giăng mắc khắp nơi tiêu điều, sương thướt tha bay ôi đìu hiu…(Đêm Đông -Nguyễn Văn Thương)
Lễ Giáng Sinh càng rộn ràng hơn. Trước lễ một tuần, trong cư
xá, những biểu tượng ma quỷ được thay thế bằng những thiên thần ôm đàn hoặc thổi
sáo, những cây thông đính ngôi sao, những hang đá, máng lừa, chiếc xe chở ông
già Noel có bầy tuần lộc kéo… tất cả đều làm bằng vật liệu nhẹ có gắn điện. Đêm
xuống, cư xá sáng bừng, ngay cả trên thảm cỏ, bụi cây… cũng lấp lánh hoa đèn gợi
nhớ những ngày hội hoa đăng ở Thảo Cầm Viên năm nào giờ đã cách xa.
Không như ở Việt Nam, bên này hầu như nhà nào cũng trang
hoàng cây Noel, cũng có tiệc nửa đêm dù không phải là Thiên Chúa Giáo. Trong những
ngày lễ này, rộn rịp nhất là hoạt động của các đài Truyền hình: họ tổ chức những
đêm dạ vũ, ca sĩ từ Việt Nam qua rất đông, rồi còn những hoạt động gây quĩ cho
những bữa ăn từ thiện ở nhà thờ, nhà chùa, nhà dưỡng lão... Hoành tráng nhất là
lễ hội Giáng sinh tổ chức ngoài trời, trong công viên rộng rãi, có văn nghệ cây
nhà lá vườn, có nhân viên mặc trang phục Santa Claus phát quà nên phụ huynh dẫn
con cháu đến rất đông. Tất cả đều được trực tiếp truyền hình. Ở Houston, hồi
tháng bảy, chỉ có 2 kênh tiếng Việt, chương trình nghèo nàn đơn điệu, phát sóng
toàn những bộ phim có từ thời ông Bảo Đại mới rụng rốn, bây giờ có thêm 3 kênh
nữa, khá hơn nhiều. Kênh VietfaceTV thường xuyên chiếu chương trình Paris by
night của Thúy Nga, tuy cũ nhưng xem lại cũng đỡ buồn, kênh SaiGon Network có mục
hội thoại khá thú vị. Trội nhất là kênh GlobalTV, có chương trình Màu Kỷ Niệm
thích hợp cho những người lớn tuổi đang sống bằng hồi ức như tôi. Vừa rồi, đài
phát hình nhạc cảnh “Anh Không Chết Đâu Em” được làm lại từ năm 1995, cũng Nhật
Trường và Thanh Lan nhưng tôi thấy không hay bằng ngày xưa dù khi đó chưa có Ti
Vi màu. Đặc biệt, MC chương trình này là Như Hảo, học cùng trường PCT cuối thập
niên 50, trên tôi hai lớp, sao giờ vẫn thấy trẻ trung năng động, chẳng tệ như
tôi, tóc bạc da mồi, dung nhan xuống cấp trầm trọng, cả tháng chỉ dám nhìn vào
gương vài lần thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét