Đi suốt đời chưa hết niềm say
Đàm Chu Văn
viết: ”Đi suốt đời chưa hết niềm say”, hẳn người đọc sẽ tự hỏi, những nỗi niềm
làm anh say đến suốt đời là gì? và điều gì làm nên hạnh phúc
của anh trong thơ?
“Đi bên những
hàng cây
Thấy hồn xanh
trời đất.
Đi bên những
cánh đồng
Nhịp mùa màng
tất bật
Đi bên những
dòng sông
Sông nâng đời
dào dạt
Đi bên những
con người
Tình reo niềm
chân chất
Ta như cây,
như đồng
Ta như sông,
như biển
Lòng tràn đầy
thương mến
Với cuộc đời
nâng niu”
(Đi Bên Những
Hàng Cây)
Đàm Chu Văn
mang hồn thơ ấy ngắm nhìn quê hương, đất nước. Đâu anh cũng thấy rạng rỡ những
sinh sôi đang từng ngày từng giờ vươn tới xa sau
Trời đã cao
thêm đất sáng thêm
Nguy nga công
nghiệp gọi trăm miền
Hương vườn
vấn vít lùa cao ốc
Lối cũ người
thương mỏi mắt nhìn
(Nhơn Trạch )
Mỗi giây phút
tươi ròng sinh nở
Ngàn suối
trăm sông dồn tụ mỡ màu
Ngẩng mặt
Thái Bình Dương lồng lộng
Xanh vô cùng
vô tận xa sau
(Mũi Cà Mau)
Anh ngạc
nhiên khi về thăm quê, một quê hương “tường cao cổng kín giăng đầy”. Đứng trên
đỉnh Lang Bian, tâm hồn anh chất ngất niềm say: ”phố xá, ngàn thông, sông hồ…
như tranh vẽ/ đất nước muôn trùng ghì riết lòng yêu”. Cảm thức về quê hương đất
nước của anh đã gọi tới nghìn xưa và xa tới ngàn sau, đâu đây câu thơ có cái
hào sảng của thi nhân xưa đắm mình cùng non xanh nước biếc cẩm tú.
Nhưng ĐCV là
con người của thực tại, của hôm nay. Nhìn dấu tích xưa ở thành nội Huế, anh chỉ
thấy rêu phong: ”Ông hoàng bà chúa giờ đâu/ Bơ vơ chỉ thấy một màu rêu phong”.
Nụ cười hiền từ của Phật ở Bay-on (Angkor Thom) như một giải thoát, anh chỉ
thấy đó là “nụ cười đá” mà kiếp người mãi là kiếp khổ. Anh trở về với Hội
Gióng, để âm vang hùng tráng của lịch sử theo
với Gióng bay mãi lên “Nước mấy nghìn năm nghìn lần giặc giã/ giáo gươm rèn lẫn
với cuốc cày../Bao thế hệ nối nhau ra trận /Tự trong nôi đã nghe giục lên
đường”. Kết bài thơ là một tứ rất hay và mới
Giặc tan rồi
ngựa sắt khuất ngàn mây
Dường như sắc
lửa còn vương lại
Thắm hoa đào
hớn hở trĩu trên tay”
Cái say đất
nước tươi đẹp hùng vĩ chất ngất bao nhiêu thì cái bi thương trĩu lòng trước
những đồng đội hy sinh lại níu chặt lấy trái tim anh bấy nhiêu. Đó cũng là một
cảm thức say, say nghĩa say tình. Bài Viếng Bạn Ở Nghĩa Trang Biên Giới
Tây Nam là một bài làm chếnh choáng nỗi đau nơi tâm hồn người đọc về
những người lính trẻ chết trận. Câu thơ vừa có chiều rất sâu của lòng yêu
thương vừa có những tứ thơ ánh lên sự tài hoa:
Anh em về hết
cả rồi
Bạn còn nằm
lại với nơi đất này
Hai mươi năm
lọt kẽ tay
Mẹ cha đã
khuất bóng mây cuối chiều
Còn lời hò
hẹn người yêu
Vẫn lơ lửng
tựa trăng treo trước rừng
Nước non nợ
đã trả xong
Bạn nằm ngủ
giữa hương đồng mà đau
Bao người
lính trẻ quê đâu
Máu xương gửi
lại điạ đầu Tây Ninh
Bốn bề trời
đất lặng thinh
Ngỡ như chẳng
có chiến tranh ngày nào…
Bên dưới cái
đẹp của cảnh, cái đẹp của câu chữ; bên dưới sự bình yên “như chẳng có chiến
tranh ngày nào“ là nỗi đau thấm thía lắm. Nếu đọc bài thơ thật chậm và lắng
lòng ta theo từng con chữ, bất giác ta phải đưa tay ôm lấy ngực, vì nỗi bi
thương cứ nhói vào tim, không sao yên tâm được. “Bạn nằm ngủ giữa
hương đồng mà đau”. Câu thơ đẹp đến nỗi không thể đẹp hơn và thấm thía
không thể thấm thía hơn một tấm lòng với đồng đội. Những bài Vô Danh, Tìm
Cậu, Suối Săn Máu cũng đẹp, mênh mang nghĩa tình và niềm đau như thế.
Tình cảm với
cha, với mẹ cũng làm say hồn thơ Đàm Chu Văn. Anh viết về cha, mẹ,
về người thân mà tâm hồn như có cánh bay. Anh viết kính tặng cha:
Ở Bắc nhớ
cháu nhớ con
Vào Nam, để
lại mảnh hồn ngoài quê
Mây lành vươn
bóng chở che
Phân thân hai
nửa đi về chiêm bao
(Hai Nửa)
Mẹ ơi!/ con
sắp thành người đàn ông năm mươi tuổi mang nặng buồn vui của quá nửa đời người
thế mà mỗi khi nhớ về mẹ mình vẫn khóc (Mẹ)
Anh chia sẻ
với chị những thao thức hao mòn không gian thời gian
Gia tài chỉ
một bức thư
Một lời hẹn
ước gửi từ Trường Sơn
Thế mà mấy
chục năm trường
Chị thao thức
với đêm mòn trăng sao
Tuổi xuân anh
gửi chiến hào
Tuổi xuân chị
gửi dầu hao bấc gầy
Những đêm về
lạnh mưa bay
Chăn đơn gối
chiếc vơi đầy tâm tư
Giật mình quờ
một tiếng ru
Giật mình
mình lại vừa mơ thấy mình…
Bài thơ có
những câu hay đến kinh ngạc. Nó diễn tả được tâm tình thủy chung,
cuộc sống đằng đẵng cô độc, và những khao khát cháy lòng của chị. Tình thương
tác giả dành cho chị ẩn kín sau những mỏi mòn gầy hao lạnh buốt. Tứ thơ thấp
thoáng phong vị sang trọng cuả câu thơ Kiều, óng ánh thân tình ca dao, nhưng
được dệt bằng chất liệu hiện đại. Bài thơ vừa là tình cảnh riêng của chị, nhưng
cũng là cảnh đời chung của bao nhiêu chị có chồng hy sinh ở Trường Sơn. Vì thế
sức lan tỏa cảm xúc thật mạnh mẽ. Đã có mấy nhà thơ viết được những câu thơ xúc
động về những người vợ trẻ như thế.
Hồn thơ dạt
dào yêu thương và nhân hậu của Đàm Chu văn cũng ôm ấp những thân phận, những
cảnh ngộ đầy vơi nỗi buồn: những đứa trẻ đánh giày, em bé lang thang dưới mưa,
không biết về đâu, những công nhân cạo mủ cao su, những công nhân Long Bình
”kíp ca cuốn lốc nhịp đời/ nhớ thương gửi ở đầy vơi nỗi niềm“; “bữa cơm trưa
vội vã /tháng hai kỳ lĩnh lương chớp lóa/ tính sao cho đủ mọi bề..”những lưng
trần quần cụt” dưới ruộng đồng…
Giữa mênh mông
dạt dào
Tưởng nghe
thấy mùi bùn tanh nơi đồng ruộng
Những áo nâu
áo xám mặn mòi
Những lưng
trần quần cụt
Một đời ta
còn nợ mồ hôi…
…có nỗi buồn
ướp nắng
Bay theo
Cảm thức về
quê hương, đất nước, lịch sử cao rộng, cảm thức về những nghĩa tình sâu nặng,
cảm thức về thời đại tuy phơi phới niềm tin nhưng còn nhiều nỗi buồn; tất cả
ướp trong một trái tim giàu lòng yêu người yêu đời; đó là căn cốt hồn thơ Đàm
Chu Văn. Trong cuộc sống đời thường, bao nhiều nhà thơ bị quay quắt, bị vong
thân trong dòng xoáy của đời sống công nghiệp, của những nhập nhòa sáng
tối rác rưởi chỗ này chỗ kia, của những tha hóa nhầy nhụa, thì Đàm Chu Văn vẫn
giữ được hồn thơ trong trẻo, tinh khôi và hồn hậu, đó là cá tính sáng tạo riêng
của anh.
Cá tính sáng
tạo này đặc sắc tài hoa trong những bài thơ tình viết bằng lục bát. Xin
đọc Bỗng Nhiên Nhớ
Tưởng bâng
quơ ấy là thôi
Bỗng nhiên lại
nhớ một người đẩu đâu
Phải duyên
sao chẳng tình đầu
Nợ nần sao
chẳng kiếp sau đợi chờ
Thản nhiên
người bước vào thơ
Làm xao xác
cả cõi bờ nhân gian
Ta đi nhặt
tiếng ve tàn
Ai xui cho hạ
nắng tràn lên xanh
Ta về nhặt
nỗi mong manh
Nhặt câu Kiều
lẩy ghép thành ca dao
Nhặt hoa
quỳnh ướp chiêm bao
Đợi trăng
nghiêng xuống cõi nào vân vi
Mới tiếp cận
bài thơ, người đọc gặp một bóng dáng quen quen trong Tương Tư của Nguyễn Bính.
Cũng là ca dao điệu nói, cũng là tâm trạng dằn vặt nhớ nhung giãi bày. Câu thơ
cũng được dệt bằng chất liệu của bút pháp lãng mạn thời Nguyễn Bính, thế nhưng
những tứ thơ lạ bỗng sáng lóa lên, đến ngỡ ngàng:
Ta đi nhặt
tiếng ve tàn
Ai xui cho hạ
nắng tràn lên xanh
Tương tư mà
hồn thơ tươi xanh quá. Tiếng ve tàn nhưng mùa hạ vẫn rực rỡ đến chói chan. Một
ngày óng chuốt dịu dàng và một đêm quý phái thơm nức hương hoa
Nhặt hoa quỳnh
ướp chiêm bao
Những
bài Ai Đem Thương Nhớ, Bao Giờ Cho Đến Sớm Mai, Mắt Đen, Ru Em, Bâng
Quơ Lục Bát đều có chất tài hoa của “giống đa tình“ làm thơ. Tôi rất thích
những bài như thế bởi vì nó bộc lộ chất thi sĩ cuả Đàm Chu Văn.
Nhà thơ phải
có phẩm chất thi sĩ. Không có phẩm chất thi sĩ thì thơ chỉ là văn xuôi bắt
thành vần. Nhất là khi viết lục bát, người không có tư chất thi sĩ thì chỉ có
thể viết những bài ca, bài vè. Lục bát là thể thơ thách đố phẩm chất thi sĩ
căng thẳng nhất. Muốn vượt qua được những thách đố ấy người làm thơ phải có tài
năng sáng tạo ngôn ngữ, phải có tư duy nghệ thuật riêng cùng với tố chất của
giống đa tình. Đàm Chu Văn chưa đạt tới kiểu tư duy nghệ thuật mới,
song anh có nhiều tứ thơ mới, đủ làm nên thơ hay, đủ tạc nên một khuôn mặt có
đường nét cạnh sắc dễ nhận ra giữa nhiều nhà thơ.
Đó là một
khuôn mặt sáng tươi trẻ thơ, đầy ắp niềm vui. ”Mười lăm mười bảy
tươi xinh/ Ước gì giữ mãi tuổi mình bấy nhiêu”, dù có những vụng dại, khuôn mặt
ấy vẫn trong. “Mối tình đầu vụng dại/Nỗi đắng đót trong ngần” (Hoa Tầm Xuân),
và cái nhìn rất xanh. ”Vịn vào nắng mai/ Mắt xanh sức trẻ/ Lòng như chớm hé/
bao nhiêu hẹn hò”(Ru) “Ta về ta nhớ muà xuân/ Ta về ta nhớ trắng ngần màu
trăng“
Khuôn mặt ấy cũng thoáng có nét buồn riêng,
ẩn hiện những nét nhăn thế sự dày vò (Nhiều Khi), Tuy vậy, nỗi buồn ấy qua
nhanh vì cuốc sống chảy đi cuồn cuộn “Chẳng kịp buồn dai/ buồn trang sức/ phố
hối hả vào đêm căng nức/dòng Đồng Nai sôi réo những con đường “(Chiều Biên
Hòa. Thơ anh lấp lánh sắc màu, dạt dào hân hoan. Thơ anh vượt lên nỗi đau, vượt
lên những cực nhọc đời thường. Thơ anh nói được cái đẹp cao cả và phát hiện cái
đẹp mong manh. Cả cái rác, cái dơ, cái sex cũng thăng hoa trong thơ anh thành
cái đẹp (in đọc Thời Đại, Thiếu Nữ, Chiều Biên Hòa, Những Câu Thơ Đã Tặng)
Cái thú vị
khi đọc thơ Đàm Chu Văn là những tứ thơ mới lạ, ẩn mật và vụt lớn lên
có thể làm ta ngây ngất. xin đọc:
Mãi không về
những người trai khiêng kiệu
Giặc tan rồi
ngựa sắt khuất ngàn mây
Dường như sắc
lửa còn vương lại
Thắm hoa đào
hớn hở trĩu trên tay
(Hội Gióng)
Thời gian xô
về hai phía
Riêng ta tha
thẩn bước dừng
Quê hương bé
thơ chập chững
Đã ùn mây
trắng sau lưng
(Thăm Quê)
Muốn quên thì
giục nhớ
Quảy càn khôn
lên ngàn
(Nhiều Khi)
Ngược miền
xanh xưa
Gặt về nuối
tiếc
Vẫn còn phía
trước
Gió đầy hai
vai
(Ru)
Đàm Chu Văn
vẫn sáng tác bằng thi pháp thơ truyền thống, đôi khi sự sáng tạo không vượt xa
được con đường cũ. Anh cũng không thành công trong thể loại Tứ Tuyệt hiện đại,
có lẽ vì anh chưa khai thác được những đặc trưng thi pháp của Tứ Tuyệt truyền
thống. Thơ anh là cây đời xanh tươi, anh chưa vươn tới kiểu thơ tư tưởng. Thực
ra tư tưởng trong thơ anh là cái nhìn cuộc đời tươi xanh, là tấm lòng nhân hậu
và lý tưởng thẩm mỹ giàu chất nhân văn. Tôi tin rằng với tư chất tài hoa, anh
sẽ còn viết được nhiều bài thơ hay, vì anh vẫn còn rong ruổi giữa Hai Phía
Thời Gian với tấm lòng rộng mở và hồn thơ trong trẻo reo vui.
Tháng 9/2009
Bùi Công Thuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét