Trăm năm ly hợp 1
(Truyện
lịch sử dòng họ Lê Khắc
làng Văn Xá-Thừa Thiên Huế)
* Tộc phả chí TRĂM NĂM LY HỢP kể chuyện lịch sử
dòng họ Lê Khắc làng Văn Xá Thừa Thiên Huế. Hòa trong đó có chuyện đời tác giả. Địa
danh, niên đại, danh xưng tổ chức, danh tính nhân vật, sự kiện, số liệu…, nhất nhất người và việc đều ghi chép y nguyên sự thật. Chỉ
vài ba trường hợp phải thay tên khai sinh bằng tên hiệu vì lý do kỹ thuật.
* Cuốn truyện dự kiến dung lượng 20 chương.
Từ tháng 2/2011, trên blog LeKhacVanXa đã lần lượt đăng tải 15 chương bản thảo
lượt đầu, tranh thủ xin bà con Lê Khắc ở trong nước và nước ngoài tham gia chỉ
ra sai sót và cung cấp thêm tư liệu chuẩn xác giúp đỡ tác giả sửa chữa bổ sung.
Từ tháng 12-2011, xin được thay thế, đưa lên blog “bản
thảo đã sửa chữa lần thứ nhất” sau khi tiếp thu ý kiến
của bà con. Kính đề nghị bà con tiếp tục góp ý bổ cứu xây dựng, gửi
về hộp thư điện tử vantri1937@yahoo.com.vn để
tác giả hoàn thiện bản thảo, tổ chức ấn hành vào thời điểm thích hợp.
Chân thành cảm ơn.
Chân thành cảm ơn.
Chương
1 - Con đàn cháu đống tan tác ly hương
“Thời
điểm đau thương phát nổ trái bom ly tán dòng tộc Lê Khắc nhà mình chính là năm
Bính Tuất 1946!”
Trưởng phái Văn Trí
ngẫm ngợi. Thở dài. Hạ bút đặt một chữ thập mực đỏ vẹo vọ liền kề dãy số 1946
trong cuốn sử biên niên chép truyện bốn trăm năm chi phái Lê Khắc thuộc
Lê đại tộc làng Văn Xá sinh sôi con đàn cháu đống thịnh suy tan hợp nổi chìm
trôi dạt bốn bể năm châu.
Ngài Văn Phố Lê Khắc
Thứ (1891-1946), thân phụ của Văn Trí, qua đời đúng năm Bính Tuất, ngày 25
tháng Bảy. Ở tuổi 55. Giữa tiết Ngâu này. Tháng bảy nước nhảy tràn bờ. Mưa Huế
sụt sùi tầm tã. Nước sông Bồ dâng lút đường quê, mấp mé bậc tam cấp ngôi từ đường
bề thế giữa làng Văn Xá. Chủ nhiệm Việt Minh Văn Phố xăn quần bì bõm lội đi hô
hào chống lụt. Chỉ được vỏn vẹn hai ngày. Sang ngày thứ ba là ngã bệnh trọng.
Bởi, cả đời ông
chưa hề dãi dầu mưa nắng.
Là cậu ấm con quan
tuần phủ nhị phẩm Văn Xuyên Lê Từ (1855-1928), là con rể Hiệp tá đại học sĩ nhất
phẩm Nguyễn Hữu Mẫn (1853-1943), nhưng Văn Phố ì ạch đường hoạn lộ, quanh quẩn ở
Kinh thành với vài chức quan nho nhỏ, rồi hồi hưu năm 1943 sau khi luân chuyển
kinh qua tri huyện Tuyên Hóa, tri phủ Quảng Trạch và tri phủ Duy Xuyên.
Tháng 8-1945, Việt
Minh cướp chính quyền ở Hà Nội. Tại kinh thành Huế, vua Bảo Đại thoái vị, trao ấn
kiếm cho ông Trần Huy Liệu là đại diện của chính phủ Hồ Chí Minh. Nhà cầm quyền
tỉnh Thừa Thiên tư giấy về nhiệm sở cũ của cố tuần phủ Lê Từ và cựu tri phủ Lê
Khắc Thứ, hỏi kiến nghị xử lý đương sự và con cháu thế nào. Sau đó không thấy hạch
sách gì. Lại có cán bộ trên huyện về thăm, chuyện trò vui vẻ, tỏ ra biết tường
tận sự tích năm 1908 tuần phủ Văn Xuyên bị Hội đồng cơ mật Nam triều và nhà nước
bảo hộ Pháp cho hồi hưu lập tức, buộc rời sở lỵ trong vòng 24 giờ vì cái tội bất
tuân thượng lệnh, khăng khăng không chịu huy động lính khố xanh đàn áp nông dân
Quảng Ngãi chống thuế. Cả chuyện tri phủ Văn Phố năm 1943 không hợp tác với
phát xít Nhật, bỏ về làng. “Không phải tôi bỏ. Mà
là xin hưu non bởi sợ lính Nhật hung ác. Tính tôi vốn nhát!”- ông Văn Phố rụt rè cải chính như thế. Nhưng cán bộ cười
xuê xoa, rồi vận động ông ra làm chủ nhiệm Việt Minh xã.
Mừng độc lập, dựng cột cờ cao vọi
giữa sân. Sáng tinh mơ, toàn gia hai chục người nam phụ lão ấu xếp hàng, hát “Đoàn quân Việt Minh đi…”. Vung
nắm đấm tay phải kề thái dương chào cờ đỏ sao vàng. Rồi lục tục người nào việc
nấy. Ông cựu tri phủ Nam triều, tân chủ nhiệm Việt Minh xông pha lăn
vào công tác xã hội, rồi lăn ra ốm. Và không qua khỏi.
Ông chết lúc lửa chiến tranh
lan từ Nam ra Bắc. Sài Gòn nổ súng kháng chiến ngày 23 tháng 9 năm
1945. Ở miền trung, Đà Nẵng và Huế, người Việt càng nín nhịn thì thực dân Pháp
càng lấn lướt. Mỗi ngày có vài chuyến tàu hỏa xuyên Việt chạy qua ga Văn Xá rần
rần trai tráng nam tiến chi viện đồng bào phương Nam đánh giặc. Ông
Văn Phố có 11 con trai, nhưng lúc nằm xuống, bên linh cữu chỉ có 8 trai chưa
trưởng thành. Mấy người trai lớn, những mảnh vỡ đầu tiên của cuộc ly tán trăm
năm, lúc ấy đang bị chiến cuộc giằng xé mỗi người một phía, lờ lững chung
chiêng đi hay ở, ta hay tây, bắc hay nam…
Văn Trí còn nhớ như in cái phút
đám tang cha đang não nùng tiếng kêu khóc, triền miên thập thững tiếng gõ mõ tụng
kinh… chợt tắt lặng. Tất cả hướng ra cổng, xôn xao:
đoàn nhà ngoại từ Huế về phân ưu. Ông ngoại của Văn Trí đã từ trần năm 1943. Tới
đám tang hôm ấy có bà ngoại, Công Nữ Kỳ Vân, là cháu nội vua Minh Mạng. Chú bé
Văn Trí 9 tuổi ngơ ngác nhìn bà quận chúa lọm khọm đặt bàn tay run nhăn nheo
lên nắp quan tài, than thở: “Ông Phủ ơi, sao ông
đành đoạn ra đi, bỏ lại bầy con lít nhít giữa thời tao loạn. Bầy cháu ngoại ruột
rà của tôi, mấy chục đứa mồ côi cha đây nì, rồi mai mốt ai nuôi ai dạy, ai dắt
díu tản cư chạy giặc? Ông Phủ ơi, ba cô con gái lá ngọc cành vàng cưng quý nâng
trứng hứng hoa của tôi, tôi gả hết cho ông, chỉ một mình ông làm rể, rứa mà ông
bỏ ông đi…”
Quan thượng nhất phẩm triều
đình và phu nhân là bà quận chúa kiêu kỳ gả liền liền ba tiểu thư khuê các cho
một thuộc quan lẹt đẹt hàm ngũ phẩm! Chuyện tương tự không biết từng xảy nơi
đâu?
Ba bà, ba chị em con quan
cháu vua. Cùng cha cùng mẹ. Chung chồng. Bà cả, Nguyễn Thị Tuyết, sinh 5 lần
nuôi được 3. Bà hai, Nguyễn Thị Lâm, đẻ 9 con nuôi được 8. Bà ba, Nguyễn Thị Điện,
đẻ 8 lần còn 6. Cả đàn con của ông Văn Phố, sinh 22 thành niên 17, không phân
biệt là con của bà nào, đều gọi bà Tuyết, chánh thất, là Mạ, bà Lâm, thứ thất,
là Dì chị, và bà Điện là Dì em. Năm 1932, bà Tuyết ốm chết, được gọi là “Mạ đời xưa”. Tôn bà Lâm lên chánh thất,
làm Mạ. Còn bà Điện, kêu bằng Dì, bỏ chữ “em”!
Văn Trí là con thứ tám của bà
Lâm, nguyên là thứ thất, nhưng trong giấy khai sinh bằng ba thứ chữ Pháp, Việt
và Hán, lại ghi“…ngày tháng năm sanh? - 15-4-1937; con
vợ chánh hay vợ thứ mấy? - Vợ chánh…”
Hai mươi năm sau ngày cha chết,
1966, ở Bắc Việt, bên miệng hầm tránh bom Mỹ, Văn Trí, đang hành nghề ký giả, mới
được Mạ, bà lão bảy chục móm mém, kể đầu đuôi “mối tình
chồng vợ tay tư” ly kỳ của bậc sinh thành.
Huế, những năm 1910. Ông nội, Văn
Xuyên, cử nhân Hán học 1878, đã là tuần phủ hồi hưu. Ông ngoại, Nguyễn Hữu Mẫn,
du học sinh tu nghiệp ở Pháp về nước cũng năm 1878, năm 1887 đồng sáng lập Quốc
tử giám ở Huế (năm 1896 đổi thành trường Quốc học Huế.). Cho tới khi hưu, thầy
Mẫn đứng đầu bảng giáo sư Quốc học người Việt.
Một cựu học, một tân học, mà giao du
thân mật, tâm đầu ý hiệp.
Ở trường Quốc học, Hiệp tá đại học sĩ
Nguyễn Hữu Mẫn có ba môn sinh “nhớ đời”.
Một, cậu ấm Nguyễn Tất Thành con quan Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, học hành xuất
chúng mà xả thân vì nghĩa, tham gia phong trào chống thuế ở Trung kỳ năm 1908,
bị nhà cầm quyền kết tội làm loạn, buộc thầy Mẫn đuổi học! Hai, cậu ấm Ngô Đình
Diệm con quan thượng thư Ngô Đình Khả, thoạt tiên định làm thầy tu nên học trường
Dòng, sau vâng lời cha quyết chí tiến thân hoạn lộ, xin vào Quốc học để chuyển
lên trường Hậu bổ, ba năm liền là học trò cưng của thầy Mẫn.
Môn sinh thứ ba chính là cậu ấm Văn
Phố, quý tử của tuần phủ Văn Xuyên. Bẩm chất thông minh nhưng ham chơi ngang với
ham học nên Văn Phố nhận được từ sư phụ những câu khích lệ ngang với lời quở
trách. Dù thế, mối thâm giao giữa sư phụ với thân phụ là cơ duyên cho Văn Phố
có một ngày đẹp trời thoắt gọi sư phụ là nhạc phụ! Khi cụ Tuần ngỏ lời xin kết
thân gia, cụ Thượng hỉ hả gả ngay cô gái đầu lòng.
- Mạ ơi,
tảo hôn à?
- Bậy
nà. Năm đó “mạ đời xưa” đã mười
tám tuổi, còn cậu các con (gia đình không rõ vì sao vẫn kêu cha đẻ bằng cậu)
thì chẵn hai mươi. Năm sau, 1912, sinh anh cả Lê Khắc Duyệt. Rồi liền
liền cứ hai năm đẻ một anh: anh Dần (sinh năm 1914, mất sớm), anh Điềm (sinh
năm 1916), anh Di (sinh năm 1918, mất năm 1942, khi chưa lập gia đình). Trai út
là Lê Khắc Hoài (sinh năm 1920). Trong 9 năm, “Mạ đời
xưa” sinh 5 ông con trai.
- Eo ơi,
các cụ “năng suất” ghê! Có phải
là hiếm muộn chi đâu. Cũng không sợ chậm đích tôn nối dõi. Thế thì
sao ông nội lại xin ông ngoại gả tiếp Mạ về làm vợ Cậu?
- Kể chi cho ốôc dộôc (xấu hổ). Gả mô mà gả…
Búi tóc Huế bạc
phơ ngượng ngùng lúc lắc. Văn Trí vừa cười hí hí vừa xăng xái lục vấn tận ngọn
nguồn. Thì ra thế. Mạ và Dì vốn là tiểu thư khuê các cấm cung, học chữ quốc ngữ,
học cả tiếng Pháp do ông ngoại dạy, chữ viết nghiêng nghiêng đều tăm tắp, thông
thạo đọc làu truyện Kiều tiếng Việt và bập bẹ truyện ngụ ngôn La Phông-ten tiếng
Pháp. Rồi nữ công gia chánh, may vá thêu thùa, làm bánh trái, nấu món ăn lối Huế.
Ông anh rể Văn Phố hào hoa đủ mùi cầm kỳ thi họa hàng tuần đều đặn ghé thăm nhạc
gia, dạy cho hai cô em vợ hát xướng, ngâm thơ, xoa mạt chược. Chiều chiều anh
em líu ríu vui vầy trong khu vườn mênh mông rợp cây ăn quả trên đường Trần Thúc
Nhẫn bên sông Hương. Cho đến một bữa, bà ngoại lo lắng kêu cô gái thứ hai ra
góc vườn hỏi nhỏ sao dạo ni nom dáng con khang khác. Thì thất kinh bổ ngửa: mạ đã
tắt kinh, phải quấn vải che cái bụng lùm lùm từ mấy tháng rồi.
Mạ 21 tuổi thì sinh chị
Bích Hà. Năm 1918.
Nghe kể tới đó, Văn Trí tếu
táo:
- Các cụ
dạy như rứa là tiền dâm hậu thú!
- Ờ thì
thú. Không phải khảo đả đầu thú chi mô, mà là hôn thú. Ông ngoại cưng mạ lắm,
không đánh roi nào. Mô phạm. Giáo sư Quốc học mà! Phải gửi chị Hà ở với bà ngoại
cho tới 14 tuổi. Còn mạ thì cậu cưới ngay về làm thứ thất. Bốn năm sau mạ đẻ chị
Bích Khuê. “Mạ đời xưa” không
có con gái nên cưng chiều chị Khuê lắm. Quý hơn con đẻ.
- Hí hí.
Cậu với mạ sướng thật. Chứ như thời xã hội chủ nghĩa thì chắc chắn bị kiểm
thảo kỷ luật tới số .
- Ui
chao, thời phong kiến làm quan năm thê bảy thiếp là thường. Ông nội con là tuần
phủ, có tới 6 bà. Ông cố của Mạ là vua Minh Mạng sinh hạ 78 hoàng tử
và 64 công chúa!
- Nhưng
ai đời cụ Thượng nhất phẩm cao sang mà gả hai cô gái yêu quý cho một chú chàng
ngũ phẩm bé tí hin.
- Thì
chuyện đã rồi, cậu mạ lỡ rồi…
- Lỡ
khéo ghê! Lỡ thì một lần thôi chứ! Mạ nì, sao ông bà ngoại mất bò không lo làm
chuồng, không chịu phòng ngừa, canh chừng cô gái út?
- Canh
chừng ráo riết một hai năm chứ hơi sức mô phòng ngừa mười năm! Năm 1912, “Mạ đời xưa” sinh anh Duyệt, tới
1918 thì Mạ sinh chị Hà. Rồi Mạ sinh chị Khuê năm 1922, chị Nghê
1926, anh Tình 1928. Tới năm 1929 mới xảy chuyện Dì…
Ông rể Văn Phố từ khi
cưới được cô tiểu thư thứ hai thì tới thăm nhạc gia có phần thưa thớt, tháng một
lần. Nhưng sau khi thân phụ khuất núi thì chẳng ai hiểu vì sao tỏ ra quyến luyến
nhạc gia hơn. Cứ đều đặn cách dăm bảy ngày lại sai anh xe lọc cọc mang sang một
thúng quà biếu. Hoặc gạo nếp, trái cây, cân trà thượng hảo hạng. Hoặc lợn quay,
gà thiến, chai rượu thập toàn đại bổ.
Mạ có nghi ngờ theo
dõi đâu để biết Cậu chắp nối với Dì tự bao giờ. Khi đang mang thai anh Tình, Mạ
nghe Cậu hay ngâm ngợi câu thơ vua Tự Đức khóc bà Bằng phi “…Đập cổ kính ra tìm lấy bóng/ xếp tàn y lại để dành hơi…” Văn Trí nghe Mạ kể rù rì mà kinh ngạc. Các cụ ngày
xưa tẩm ngẩm tầm ngầm lãng mạn đa tình ghê gớm. Ai ngờ, sắm vai bồ câu nhanh nhẩu
đưa thư lại chính là anh xe chân chất lành một cục. Chiếc xe kéo cao lênh khênh
bánh bọc cao su đặc không người ngồi lúc tới nhà cụ Thượng luôn luôn
hạ càng ở một góc sân kín đáo. Anh xe lễ mễ bê thúng quà vào, rề rà thưa gửi,
chậm rãi bày từng món lên sập dưới ánh mắt kẻ cả của nhạc mẫu hài lòng chàng rể
hiếu thảo. Không ai thèm để ý tiểu thư út ít. Cô rón rén tới bên xe, lật đệm ngồi,
lấy ra cái tráp gỗ xinh xắn khẩn xà cừ. Rón rén mang vô buồng. Mở tráp lấy tặng
phẩm. Không phải khăn nhiễu, xuyến vàng chi mô. Mà là mảnh áo lụa tàu tàu quen
thuộc của chính cô. Cô cởi phăng cái áo lót đang mặc trên người, gấp nhỏ, bỏ vô
tráp. Lại rón rén đi ra, đặt tráp vào thùng xe, lật nệm đậy như cũ.
Anh xe thản nhiên kéo xe về, lại khệ
nệ bê vào các thứ quà cụ Thượng gửi cho chàng rể, hai con gái và chín cháu ngoại.
Bà cả, bà hai háo hức giở xem. Còn ông rể, đàn ông đàn ang lưu tâm làm chi khoản
ăn uống bếp núc vặt vãnh! Kín nhẹm, ông săn đón xăm xoi…
cái thùng xe. Không ai trông thấy ông cắp cái tráp báu vật vào phòng riêng. Lật
đật bật nắp. Nâng niu gỡ tấm áo còn ấm sực. Âu yếm ôm áo bằng cả hai tay, úp
lên mặt, hít một hơi dài tưởng như vô tận. Rồi tiếc rẻ luồn trong áo gối. Để ôm
ấp thâu đêm (trừ lúc tạt qua các phòng úy lạo bà cả hoặc bà hai, tất nhiên.)
Mấy ngày sau, tấm áo hả hơi,
thì “bồ câu” lại bay đi làm cái
việc lén lút hệ trọng là đổi áo cũ lấy… áo cũ!
Rốt cuộc, trời không chịu đất
thì đất phải chịu trời, thêm một lần nữa, thầy Mẫn nhượng bộ cậu học trò đa
tài, đa tình, đa mưu.
Dì về với Cậu, lập “phòng ba”. Trong 16 năm sau đó, Dì
sinh ba con gái, là chị Bình, chị Đình (mất sớm), chị Tiêu (mất sớm) rồi liền
tù tì 5 con trai: Khác, Khôi, Duy, Kháng, Lượng.
Mạ
kể:
- Em Lượng đầy tuổi tôi
thì Cậu mất. Trước lúc nhắm mắt, cậu thều thào: các con mô cả rồi, con về đủ
chưa, con, con cho đông…Cậu rứa đó, quý con cái nhất trần
đời. Đây nì, cả nhà mình ngày xưa thuộc làu bài thơ Cậu khai bút Chào xuân
Kỷ Mão 1939:
Kìa
kìa cọp núp thỏ ra đua
Văn
Xá hừng xuân tiết thuận mùa
Dạy
trẻ nhân TỪ noi đức tổ
Chăn
dân cần MẪN báo ân vua
Thanh
liêm nghèo của mình cam khổ
Phước
lộc giàu con họ phải thua…
Châu
gấm chi chờ thơ Văn Phố
Tu
thân có nhớ tích thỏ rùa?
Bởi vì
Cậu sinh năm 1891, Tân Mão, cầm tinh con thỏ…
- Con mèo chứ ạ?
- Không phải mèo! Các cụ nhà nho vẫn bảo năm Mão là năm thỏ.
Cậu nói “Cọp núp”nghĩa là năm Mậu
Dần qua đi, “thỏ ra đua” là Kỷ
Mão tới. Năm tuổi, bốn mươi chín, Cậu ngẫm đời mình. Cuối bài Cậu tự nhận tài
thơ phú mình nào có hơn ai. Lại mang cái tội rất to là quên bẵng lời ông nội từng
răn dạy: mi là con thỏ thông minh mà ham vui nên công danh lận đận, như tích
truyện ngụ ngôn con thỏ chạy thi với con rùa đó. À, còn hai câu thực, có cặp từ
đối, nhân Từ và cần Mẫn, là Cậu… nịnh ông nội
Lê Từ và ông ngoại Nguyễn Hữu Mẫn. Hai câu luận, Cậu không hề
buồn phiền nhà mình nghèo của, mà vui sướng hơn người ở chỗ…giàu
con!
- Giàu ghê chưa, hai mươi hai người con, kỷ
lục!
- Chưa phải kỷ lục. Con vẫn thua cha! Ông nội
sinh hạ cả thảy ba mươi hai người! Các con có tới sáu bà nội! Nhưng
lúc Mạ về làm dâu thì chỉ thấy có bốn bà. Nghe nói bà đầu tiên bị ông cố bà cố
trách cứ sao đó mà bắt ra ở nơi khác. Bà Cả thì mất sớm. Bốn bà còn lại, mỗi bà
được ông tạo lập cho một cơ ngơi riêng. Ông ngự chính giữ, trong tòa
nhà gỗ tứ thiết ba gian hai chái đồ sộ thâm nghiêm. Bốn bà quây quanh. Hai mươi
năm dưỡng già ở Văn Xá, Nội đẻ thêm 9 cô chú nữa, riêng Bà Năm đẻ được 6 con là
o Cư, o Tấn, o Kha, o Duật, chú Bằng và chú út trai Lê Khắc Lự.
Năm 1991, khi Văn Trí vào định cư làm
báo ở Sài Gòn, được chính chú Lự nói cho biết ngọn nguồn từ đâu dòng họ Lê Khắc
con đàn cháu đống.
Từ cái mầm họa tuyệt tự hai trăm năm về trước.
Làng Văn Xá thành lập nửa cuối thế kỷ
15, thoạt kỳ thủy mang tên Võ Xá. Là quê hương Thuận Thiên Cao hoàng hậu Trần
Thị Đang (Dương?) húy là Ngọc Kính, vợ vua Gia Long, mẹ vua Minh Mạng. Năm 1812,
vua Gia Long gia ân tưởng thưởng công tích văn võ song toàn, ban cho tên làng:
Văn Xá.
Tiền khai canh làng Văn Xá là Lê đại tộc
nguyên phát tích từ miền Lam Sơn châu Ái (Thanh Hóa). Giữa thế kỷ 15, sau khi
nhà Lê đánh thắng Chiêm Thành, một số võ quan tin cẩn chọn lựa trong 8 đạo quân
bình Chiêm được lệnh chiêu mộ dân nghèo ở châu Ái, châu Hoan (Thanh Nghệ Tĩnh)
vào tổ chức khai khẩn vùng đất Thuận Quảng.
Tiên tiên thủy tổ, Thế thứ nhất họ Lê Văn
Xá là Lê Hộ công đại lang.
Tiên thủy tổ, Thế thứ hai họ Lê, có hai
ngài là anh em ruột. Ông anh là văn quan, Hầu tước Lê Xuân Dục, Dực vận công thần,
Đặc tấn khai phủ trụ quốc, Kim Tử Vinh Lộc đại phu, Đại Lý Tự Khanh, Trung đô
Chánh triều Tham khảo nha, kiêm Tri tào vận sứ Nha chánh hầu. Ông em là võ tướng,
Quận công Lê Đình Phổ, Dực vận công thần, Đặc tấn Thượng trụ quốc, Thượng tướng
quân Cẩm y vệ, Đô chỉ huy sứ, Trung đô chánh triều Thái bộc Thái quận công. Cả
hai ngài là tiền khai canh làng Văn Xá, được hợp thờ tại Đình Văn Xá (đã được xếp
hạng là Di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết
định số 61-1999 QÐ/BVHTT ngày 13-9-1999).
Trong khoảng 100 năm, từ hai ngài
tiên thủy tổ họ Lê làng Văn Xá, đã sinh ra 17 người con, cháu, chắt… là các ngài Lê Văn Học, Lê Hà, Lê Đội, Lê Văn Toại, Lê Đắc
Bằng, Lê Tất Thắng, Lê Viên, Lê Văn Lô, Lê Văn Y, Lê Hữu Cơ, Lê Văn Long, Lê Hữu
Văn, Lê Văn Cường, Lê Văn Kiêu, Lê Văn Tài, Lê Đình Nghĩa và Lê Đình Sai. Vì thời
Tây Sơn, phổ tộc bị hỏa tai, nên ngày nay không rõ quan hệ, thứ bậc của từng
ngài. Đến khoảng đầu thế kỷ 17, sau 10 đời, Lê đại tộc phát triển đông đúc,
tách dần thành năm chi phái (cành nhánh) là Lê Đình, Lê Khắc, Lê Văn, Lê Quang
và Lê Tăng.
Thế tổ Lê Khắc là ngài Lê Hữu
Tài. Từ khi xuất phái cho tới hơn một trăm năm sau, sang thế kỷ 18, thế thứ
sáu, vẫn “độc đinh”, chỉ có một
người nam là ngài Lê Hồng Du. Nguy cơ tuyệt tự chỉ mành treo chuông. Cao tổ thế
thứ năm là Lê Nguyên Huân, tinh thông địa lý, tìm được ngôi đất “phát đinh” ở xứ Long Hồ, liền đưa di
cốt bà nội là bà Biện (thế thứ ba) lên đó cát táng. Linh nghiệm tức thì! Ngài
Lê Hồng Du sinh được ba con trai là Lê Hồng Cơ, Lê Minh Luân và Lê Hưng Nguyên,
đó là thế thứ bảy. Thế thứ tám, phát triển dùng dằng chậm lại, chỉ có hai “đinh” là ngài Lê Cát và ngài Lê Mẫn.
Thế thứ chín bắt đầu “tăng tốc phát triển”, có tới 7 “đinh”
là các ngài Lê Từ, Lê Triết, Lê Trọng Bỉnh, Lê Doãn Thăng, Lê Đôn, Lê Trí và Lê
Phu. Tới thế thứ mười của ngài Văn Phố, dòng họ Lê Khắc có năm chục “đinh”. Thế 11, chính là thế của Văn
Trí, đã có hơn 150 “đinh”! Đến
đời con cháu của Văn Trí, thế 12 và 13, tăng tới hơn ngàn “đinh”! Sinh sôi theo cấp số nhân!
Dòng họ Lê Khắc thoạt tiên phát “quý”, nhiều người làm quan. Một trăm
năm gần đây, phát “đinh”, con
đàn cháu đống. Nhưng chưa phát “phú”.
Của không ngon đông con cũng hết. “Ui chao, ăn như
thúng lủng khu”. Cả ngàn con cháu rào rào như tằm
ăn rỗi. “Nghèo của mình cam khổ”! Đông
con làm sao giàu!
Từ Thế thứ chín, các cụ phải
giao trách nhiệm anh lớn làm ăn nuôi em nhỏ. Báo Trung Bắc tân văn năm
1928 trong bài viết tường thuật đám tang cựu tuần phủ Văn Xuyên đã trầm trồ
khen cung cách cụ Tuần hồi hưu gia cảnh thanh bần mà giáo huấn cả đàn con ba chục
người nên ông nọ bà kia suốt lượt. Thế thứ 10 của ông Văn Phố cũng theo gương ấy.
Rồi cũng tươm!
Nhưng đó là thời bình.
Năm 1946, chiến tranh lan khắp nước.
Tháng 12, chủ tịch Hồ Chí Minh phát lệnh toàn quốc kháng chiến: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ quyết không chịu làm nô lệ một
lần nữa!” . Ở Huế, Việt Minh vây quân Pháp
trong đồn Mang Cá và khu phố Tây. Nhưng ta thiếu vũ khí, quân nhiều hơn súng,
súng nhiều hơn đạn. Mặt trận Huế núng dần. Nguy cơ vỡ trận ngày một ngày hai. Một
người em họ của Văn Trí là đại đội trưởng vệ quốc quân Lê Khắc Khung, đã hi
sinh ngay trong những ngày đầu chiến đấu bảo vệ phòng tuyến Huế. Lại mất tích cả
hai người anh họ rất thân thiết với đại gia đình Văn Trí. Một là anh Khắc Luân,
cha yểu mệnh, sau khi mãn tang cha thì mẹ đi lấy chồng biệt xứ. Anh Luân sống với
bà nội nhưng hay tới nhà Văn Trí ở cả tuần và kêu Mạ bằng thím Phủ. Hai là anh
Văn Khê. Cha mẹ cũng mất sớm, anh Khê thường quanh quẩn chơi bời ăn ngủ bên nhà
Dì. Anh Luân và anh Khê hay rủ anh Tình và mấy em trai choai choai như Khác,
Trí, Khôi sang vườn ông nội hái trái đào ăn no kềnh, rồi ngồi bệt dưới bóng cây
tán chuyện; bọn nhỏ thường vòi anh Luân kể chuyện lịch sử đời xưa đánh nhau chí
tử bên ta bên tàu, nghe cả buổi không chán. Dắt bầy em vào nhà thờ thắp hương,
anh Luân đọc rành rọt từng dòng chữ Nho nghiêm ngắn trên mấy bức hoành phi câu
đối, giảng nghĩa cặn kẽ. Anh còn nói chắc như đinh đóng cột rằng mai sau anh
không đi đâu hết, anh sống mãi ở Văn Xá làm thủ từ nhà thờ Ông. Anh Luân trên
trán có cái bớt đỏ như son tròn bằng cúc áo, nom rất ngộ, anh Tình hay trêu “bà mụ đánh dấu mai mốt khỏi đi lạc” (Thế
mà y như rằng, đời anh Luân rồi phiêu bạt…). Từ khi tin
dữ vỡ mặt trận Huế ập về làng thì cả nhà không ai còn nhìn thấy hai anh Khắc
Luân và Văn Khê đâu nữa…
Có lệnh thành phố tiêu thổ
kháng chiến, sửa soạn lui quân phòng ngự. Làng quê thực hiện vườn không nhà trống,
tản cư, bất hợp tác với giặc. Ở Văn Xá, Ủy ban ra lệnh dỡ nhà để địch không lợi
dụng đóng quân. Ngay tới Phủ thờ Thuận thiên Cao hoàng hậu đã nức tiếng với câu
ca “Tới đây đầu lạ sau quen/Trông em xinh đẹp như
sen Phủ thờ…” cũng bị triệt hạ trong đêm.
Mạ và Dì cuống quít như kiến
trong chảo nóng. Biết trông cậy vào ai? Mạ đời xưa sinh năm con trai,
chết bệnh mất hai anh. Nay chỉ còn ba. Anh Duyệt 35 tuổi. Anh Điềm 31. Anh Hoài
27. Cả ba anh đều là “quan tham, quan phán” thời Tây. Giữa nước sôi lửa bỏng, không anh nào có mặt ở
nhà.
Anh Lê Khắc Hoài đã xuôi cực
nam Trung bộ, rồi Nam bộ, sau này trở thành quan chức ngoại giao
chính quyền Sài Gòn. Tham tán sứ quán Việt Nam Cọng Hòa tại Na Uy. Năm 75 tàn
cuộc, đem vợ con sang Pháp mở hiệu ăn. Năm 2005, ba tháng cuối đời mới
quay về chết tại quê hương.
Anh Lê Khắc Điềm lặn lội ra chiến khu
Việt Bắc, để vợ là chị Lương Thị Huyền ở lại Huế dạy học nuôi ba con. Anh Điềm
nhờ có vốn liếng văn hóa và nghiệp vụ từ thời Tây, trở thành quan chức chuyên
gia ngành thuế hàng đầu của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, liên tục
40 năm. Năm 1975, anh vô Sài Gòn phụ trách ngành thuế thành phố lớn nhất nước.
Tuổi 70 mới được nghỉ hưu.
Anh Lê Khắc Duyệt ở Huế, làm quan chức
ngành công an- giám đốc cảnh sát trung phần-trung nguyên của chính quyền Sài
Gòn. Không biết có phải do họ Ngô phần nào ưu ái con cháu của cựu sư phụ và cựu
đồng môn của Ngô tổng thống? Năm 1957, người đưa nhà tình báo huyền thoại Vũ Ngọc
Nhạ lần đầu diện kiến lãnh chúa miền trung Ngô Đình Cẩn chính là Lê Khắc Duyệt.
Vậy đó, ba người trai lớn, người
thì trụ thủ phủ Trung Việt, người xuôi thành đô Nam Việt, người ngược chiến khu
Bắc Việt.
Trong cơn binh lửa, ai cáng
đáng đưa hai bà góa chân yếu tay mềm với cả chục đứa con lít nhít tản cư ra Bắc?
Giữa lúc tưởng chừng vô kế khả thi, thì quý nhân phù trợ. Phao cứu sinh giữa lũ
dữ! Là chàng rể đầu, chồng chị Bích Hà, anh Trần Văn Kinh, đang là tham sự Sở
thuế vụ Trung kỳ. Vừa hay cơ quan kháng chiến có quyết định rời Bình Trị Thiên
khói lửa, chuyển trụ sở ra Thanh Nghệ Tĩnh. Anh Kinh quả quyết:
- Nhà mình không
còn cách nào khác! Mạ, dì và các em đi tản cư với bọn con.
Mạ và Dì kêu lũ con
quây quần ở gian giữa ngôi từ đường, thắp hương khấn vong linh Cậu phù hộ cho vợ
con yên lành tai qua nạn khỏi. Chú bé Văn Trí lặng nhìn tấm ảnh cha mình, ngực
đeo bài ngà lành lạnh, khuôn mặt phương phi phúc hậu rầu rầu mờ tỏ. 30 năm sau,
nhà báo Văn Trí quay lại đúng chỗ ấy, thì không còn bàn thờ nào cả, không còn
ngôi nhà nào cả. Chỉ còn một nền đất hoang tàn cỏ mọc lác đác chỗ xanh chỗ
vàng. Cũng không thể ngờ, phải đúng húy nhật lần thứ ba mươi của thân phụ, Văn
Trí mới lại được thắp hương lần thứ hai trước tấm ảnh cha đặt trên chiếc bàn
làm việc gỗ tạp trong căn phòng nhà tập thể chật chội 12 mét vuông của tòa báo
14 Lê Trực giữa thủ đô Hà Nội!
Ấy là năm 1975, quy cố
hương, đại đoàn tụ. Văn Trí mấp mé tuổi 40, hát váng lên “Ba mươi năm đấu tranh giành toàn vẹn non sông/Ba mươi năm
dân chủ cộng hòa kháng chiến đã thành công”, rồi
nghẹn ngào “tôi lớn rồi mà như ngây thơ…” Sướng vui cực điểm.
Và hẫng hụt lập tức. Ơ
hay, nước Việt toàn thắng, sao người Việt không ai vui trọn vẹn. Tổ quốc hòa
bình, gia đình chiến tranh. Hơn 20 ông chú bà cô của Văn Trí, gia đình đông
đúc, năm 1946 cũng rẽ làm đôi, phần ra Bắc, phần vào Nam. Hòa bình hội tụ cả
trăm con cháu Lê Khắc, mừng mừng tủi tủi. Nhưng các mảnh vỡ từ hai bên cố ráp
vào vẫn rời ra, xộc lệch không tài nào ăn khớp.
Việt Nam độc lập thống
nhất, non sông nguyên vẹn còn đây, nước không mất, nhưng nhà tan. Dòng tộc ly
tán. Tiếng súng im mà lòng người xao xác không yên. Các mối xung đột tự
bên trong gia tộc âm ỉ, rồi bùng phát. Con cháu tung toé tứ tán mười phương.
Ôi, ra là thế, tự khi nào, cuộc chiến sắc tộc khốc liệt đã quyện xoắn với nỗi
niềm bứt phá giằng xé chia rẽ trong từng dòng họ, từng gia đình, thậm chí từng
người. Cuộc đối đầu đụng độ khủng khiếp giữa hai hệ tư tưởng ấy, làm sao chỉ mặt
đặt tên phanh phui lý giải, ngõ hầu hoà giải đồng bào tộc Việt, gắn kết huynh đệ
họ Lê? Công cuộc này khốc liệt cam go không thua 30 năm bom đạn. Dòng tộc thân
thương ơi, lẽ nào phải chắp nối trăm năm mới hoàn nguyên chu trình ly hợp?
Nhưng thôi, đó là chuyện
của nửa thế kỷ sau. Còn mùa thu năm ấy, ở làng quê Văn Xá, nhá nhem tối, hòm xiểng,
va ly, túi xách lỉnh kỉnh, cả đống người lếch thếch xếp khẳm thuyền đêm chèo
ngược sông Bồ. Trẻ nhỏ ồn ào chí chóe. Văn Trí lên 10, vẫn còn là anh của 5 thằng
em trai thau tháu trứng gà trứng vịt.
Đi vào cuộc chiến trường
kỳ. Song đám người vợ góa con côi khờ khạo cứ ngỡ là tản cư tạm thời vài tháng.
Bọn trẻ thất thểu ly hương chạy giặc rồi sẽ lớn lên thành chiến sĩ trường chinh
vệ quốc. Trong cuộc chiến 30 năm đằng đẵng, những người ở lại bám trụ làng quê
đã lập võ công hiển hách. Văn Xá được Nhà nước vinh phong Đơn vị Anh hùng. Xứng
đáng với quê hương, đông đảo anh em họ mạc của Văn Trí, những người thoát ly đi
kháng chiến mà còn sống, khi quay về đều đỏ ngực Huân chương. Còn những ai xanh
cỏ thì đã nằm lại dọc đường.
Chương 2 - Xương tàn vùi đất tổ
Hai người con, trai thanh gái lịch,
xinh đẹp tài giỏi nhất của Mạ, là chị Lê Khắc Giáng Nghê và anh Lê Khắc Tình đã
nằm lại trên đất Thanh.
Thanh Hóa là đất tổ của cả hai bên nội
ngoại! Dòng họ Lê, thế kỷ 15 xuất phát từ huyện Thọ Xuân tiến quân vào Thuận Quảng.
Dòng họ Nguyễn, thì xuất phát từ huyện Hà Trung thế kỷ 16.
Xứ Thanh còn ghi dấu ấn của ngài Văn
Sơn Lê Cát, là cao tổ bốn đời của Văn Trí. Ngài từng làm bố chánh tỉnh Thanh
Hóa, 2 lần làm phó sứ sang Tàu. Năm 1883, thực dân Pháp cướp nước ta, ngài Lê
Cát treo ấn từ quan ở tuổi 55.
Thời kháng Pháp 1946-1954, Xứ Thanh
có vẻ thanh bình giữa cuộc chiến sục sôi. Phía Nam Thanh Hóa là Bình Trị Thiên
khói lửa. Phía Bắc là đồng bằng Bắc bộ địch chà đi xát lại, càn quét, chiếm
đóng. Miền núi Đông Bắc, Việt Bắc, Tây Bắc, ta địch giằng co, liên tiếp nổ trận
đánh lớn.
Thanh Hóa ít khi nghe tiếng súng. Bộ
binh Pháp bị chặn lại ở tít Quảng Bình phía Nam và bị vây hãm ở Ninh Bình phía
Bắc. Chỉ có tàu bay Pháp, năm thì mười họa lẻn vào bắn phá ven biển dọc quốc lộ
Một hoặc bay thấp ngược lòng sông Chu lên ném bom đập Bái Thượng. Toàn loại
cánh quạt. Đa-cô-ta bà già chậm rì rì. Xít-pít-phai cổ ngỗng dài ngoẵng ngổ
ngáo. Hen-Cát đen chũi hung hăng.
Thanh Hóa được coi như hậu phương.
Người trong khu Bốn dồn ra, người ngoài khu Ba kéo vào. Trí thức và văn nghệ sĩ
xuất thân từ nhiều thành phần khác nhau đã rời thành thị, hăng hái đi kháng chiến
theo tiếng gọi của độc lập tự do và tư tưởng dân chủ. Vùng đất tổ “bốn triều vua hai triều chúa” trở
thành trung tâm văn hóa, tập trung những trí thức hàng đầu, giáo sư lừng danh,
văn nghệ sĩ tên tuổi. Ở đây lại là địa bàn của tướng Nguyễn Sơn, tư lệnh Khu
Tư, tài năng quân sự đi đôi với biệt nhãn ưu ái trọng thị trí thức và văn nghệ
sĩ. Đây là mảnh đất màu mỡ nẩy sinh hàng loạt tác phẩm trường tồn như bài thơ bất
hủ Màu tím hoa sim của Hữu Loan hay các ca khúc Dư âm của
Nguyễn Văn Tý, Bà mẹ Gio Linh của Phạm Duy, Sơn nữ ca của
Trần Hoàn...
Kịp đến năm 1949, cộng
quân Mao Trạch Đông đánh quốc quân Tưởng Giới Thạch chạy dạt ra đảo Đài Loan.
Năm 1950, biên giới Việt Trung khai thông sau chiến dịch Cao Bắc Lạng. Chủ
nghĩa Mao như luồng gió cực độc được thể tràn vào Việt Nam gây xáo động
khối đại đoàn kết toàn dân mà chủ tịch Hồ Chí Minh dày công vun đắp. Cuộc sống
âm ỉ va đập tự bên trong các lớp người, từng con người. Tư tưởng ý thức cọ xát
quyết liệt. Trí thức bị gán cái nhãn “tạch-tạch-xè” (tiểu tư sản), bị ép buộc phải tẩy não, lột xác bằng những
cuộc chỉnh huấn thô bạo. Một số không ít đã ly khai kháng chiến, chạy ngược vào
vùng Pháp chiếm đóng, như Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương…
Chính anh Trần Văn Kinh,
người dẫn dắt đại gia đình Văn Trí đi kháng chiến, cũng hồi cư trong hoàn cảnh ấy.
Anh Kinh đã đưa cả đoàn tản cư từ Huế ra tới Thanh Hóa toàn vẹn. Xiết bao gian
khổ trên đường. Máy bay điên cuồng xả đạn đum đum chực dìm thuyền đàn bà trẻ nhỏ.
Trận bom hãi hùng ở ga Đồng Hới quét sạch hòm xiểng đồ thô. Trèo núi ròng rã ba
ngày lên mạn ngược Quảng Bình rồi men triền núi đi dần ra Nghệ Tĩnh. Cõng trẻ
nhỏ, dắt bà già. Ân cần tận tụy. Tới nơi ở mới, chịu thương chịu khó sắp xếp
nơi ăn chốn nghỉ cho nhà Mạ, nhà Dì. Mạ vốn nghiện thuốc lá Cẩm Lệ từ thời con
gái, nay dù thiếu thốn tới mấy cũng không bỏ được thuốc, anh Kinh phải cậy cục
tìm nguồn từ trong Huế ra cung cấp thuốc cho Mạ.
Anh Kinh vừa chăm chút chị
Bích Hà, 3 con nhỏ, và đại gia đình, vừa mẫn cán chu toàn bổn phận một công chức
thuế quan. Nhưng anh không chấp nhận thói khinh thường miệt thị bô bô kiểu Mao:
“trí thức không bằng cục phân!”.
Anh là con cụ Thượng La Hà, tiến sĩ Hán học Trần Văn Thống nức tiếng ở Quảng
Bình. Năm 1942, anh đã trúng tuyển ngạch Âu cao cấp quan thuế. Anh rất giỏi
chuyên môn, nhưng bất phục cấp trên bất tài, nên thường có vẻ cứng đầu cứng cổ,
giảng giải không nghe, răn đe không sợ.
Bấy giờ, đảng Cộng sản Đông
Dương đã tuyên bố tự giải tán vào cuối năm 1945, nhưng thực chất là rút vào hoạt
động bí mật và trước khi ra công khai năm 1951 với tên gọi đảng Lao động Việt
Nam thì hoạt động dưới cái tên “Hội nghiên cứu chủ
nghĩa Mác…” Mấy cốt cán của “chi
hội” thường đưa về cơ quan các cuốn sách chính
trị sơ yếu như “Nguyên lý chủ nghĩa Lê-nin”, “Mao Trạch Đông bàn về mâu thuẫn”, “Lược sử đảng Cộng sản Bôn-sê-vích” … Không ít tiếng xì xầm bàn tán. Và cuộc tranh luận gay gắt
nổ bùng sau khi toàn cơ quan đi nghe học giả Nguyễn Mạnh Tường diễn thuyết.
Sự có mặt của Luật sư
Nguyễn Mạnh Tường trong hàng ngũ trí thức và nhân sĩ hàng đầu đi theo cụ Hồ là
một minh chứng cho tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến. Với tri thức
uyên bác và tài năng hùng biện, ông là người nổi tiếng nhất trong những người nổi
tiếng. Dạy cho sinh viên Dự bị đại học, ông nói: “Tôi
thật là một cái quái thai. Các anh nghĩ có phải quái thai không?”. Học trò ngơ ngác. Ông bảo: “Không
phải quái thai là gì! Ai đời, 16 tuổi đậu tú tài Tây, 22 tuổi đậu một lúc 2 bằng
Tiến sĩ, tiến sĩ Luật rồi tiến sĩ Văn chương”. Sinh
viên hoan hô rầm trời, tán tụng: “Thảo nào văn thầy hay
quá, văn thầy vang như chuông!” Diễn thuyết trước cán bộ
các cơ quan Khu Tư, Nguyễn Mạnh Tường kể chuyện cùng ông Võ Nguyên Giáp dự hội
nghị trù bị Đà Lạt tháng 4-1946 đấu tranh chống lại dã tâm của đối phương nhằm
chia cắt Nam Bộ ra khỏi tổ quốc Việt Nam. Câu nói mà sau này sách báo thường
nhắc tới “Miền Nam Việt Nam là
thịt của thịt chúng tôi, là máu của máu chúng tôi” chính
là câu nói của luật sư Nguyễn Mạnh Tường bằng tiếng Pháp tại hội nghị Đà Lạt: “Le sud Việt Nam est la chair de notre chair,
le sang de notre sang”. Bàn về chính trị kinh tế học,
ông huỵch toẹt “đoan chắc có rất nhiều kẻ nói về Marx
nhưng chưa lần nào đọc về Marx, hoặc nếu có cơ may đọc được vài đoạn trong cuốn Tư
Bản Luận thì họ cũng chả hiểu chi. Nếu cứ thế thì có nguy cơ trong tương
lai họ sẽ phạm những sai lầm ghê gớm kéo theo sự nghi ngờ về cái học thuyết mà
họ đang theo“. Nói về dân chủ và Hiến pháp Việt Nam năm
1946, ông chẳng cần vòng vo úp mở: “Không riêng một
giai cấp, tầng lớp nào của dân tộc lại được coi là nền tảng của thể chế chính
trị Việt Nam dân chủ cộng hòa”.
Anh Kinh lắng nghe “bài học chính trị vỡ lòng” như uống
từng câu. Về cơ quan, khoái chí nhắc đi nhắc lại. Mấy chú chàng hãnh tiến mới nổi
đầu óc nhồi đặc mớ lý luận hổ lốn sặc mùi Mao tức ói máu, nạt nộ:
- Này, chúng ta là cán bộ cách mạng, nghe làm gì
cái lão luật sư tầng lớp trên ăn phải bã bè lũ thực dân phong kiến áp bức bóc lột.
- Nói sai rồi. Tầng lớp trên là thành phần ưu tú
của dân tộc!- Anh Kinh nghênh nghênh vầng trán hói bóng, khịt khịt mũi khinh thị,
cãi phăng- Tầng lớp trên là những ai? Là các nhà khoa bảng trí thức, là chủ xưởng
máy, chủ ruộng đất, có kiến thức, có chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm tổ chức
quản lý, có vốn liếng sản xuất. Họ là lớp người dẫn đầu đưa đất nước đi lên!
- Rồi xem! Mai mốt chỉnh đốn tổ chức, phát động
quần chúng cải cách ruộng đất, sẽ đào hố chôn hết cái tầng lớp trên cho ông trắng
mắt! Tiêu diệt về mặt giai cấp thôi, còn kẻ nào khôn hồn đầu hàng công nông thì
cho được sống, cải tạo thành người lao động vinh quang! Tất thảy trí phú địa
hào, rồi sẽ diệt sạch sành sanh như năm 30, 31. Chờ đó mà xem. Không lâu nữa
đâu!
Giọt nước cuối làm tràn ly! Năm 1952,
Trần Văn Kinh hồi cư. Bất chấp hoàn cảnh ngặt nghèo. Bà vợ chân yếu tay mềm.
Đàn con 5 đứa sàn sàn sinh năm một 1944, 45, 46, 47 và 48! Vợ chồng anh cuốc bộ,
thuê 2 tráng phu, chở con cái và đồ đạc trên xe cút kít (xe đẩy thô sơ có một
bánh gỗ), trà trộn vào các toán buôn chuyến vải vóc thuốc men từ vùng Pháp tạm
chiếm ra vùng tự do. Từ Thọ Xuân ra Nga Sơn, ngồi cút kít. Từ Ninh
Bình vào Hà Nội phóng xe hơi. Rồi cả nhà ngự tàu bay quay về điểm xuất phát 6
năm trước, là Huế!
Nhưng đâu có dứt nổi “món nợ Thanh Hóa”. 23 năm sau, Trần
Văn Kinh buộc phải tái hồi xứ Thanh. Ngược tận miền thượng du Cẩm Thủy. Với
thân phận kẻ đi cải tạo! Lần này, ở tuổi lên lão 60, vị cựu chuyên viên cao cấp
thuế quan “của cả hai chế độ”
ngày nối ngày quần quật chặt cây, trồng sắn, đắp đường. Khí hậu núi rừng khắc
nghiệt, ngày nóng thiêu, đêm lạnh cóng. Với sức đề kháng, thích nghi diệu kỳ,
Trần Văn Kinh 5 năm không hề ốm đau. Da dẻ đỏ au. Thêm bộ râu đen như mun. “Mình râu ria thế này các ông quản giáo đối xử nhẹ nhàng hơn”- anh Kinh nháy mắt thì thầm với Văn Trí hôm cậu em vợ
trèo núi tới trại giam Thanh Cẩm thăm nuôi. Trong 5 năm, 1975-1980, có 4 lần
thăm nuôi thì Văn Trí gánh vác cả 4. Bởi người thân ở xa, tận Sài Gòn Hà Nội.
Thực ra, lúc ấy cư ngụ không xa Cẩm Thủy, còn có mấy người em gái em trai của
chị Bích Hà mà chính anh Kinh đã dắt díu từ Huế ra Thanh Hóa năm 1947. Nhưng cả
mấy chị em đều đã trở thành cán bộ trong biên chế nhà nước, đều có gia đình
riêng con cái bìu ríu. Giữa bầu không khí mê say “chiến
thắng” thời buổi chủ nghĩa lý lịch thống trị, mấy ai
chường mặt dính líu liên quan “người chiến bại”! Ngay Văn Trí cũng kín bưng, không hé cho tòa báo biết tổ
con chuồn chuồn. Chỉ báo cáo lấy công lệnh đi Thanh Hóa thu thập tư liệu viết
bài.
Lần thăm chót kèm cháu
gái là Thục Hà, nhóc tì năm 1952 mới lên 5 ngồi xe cút kít trốn chạy khỏi Thanh
Hóa, nay ngồi tàu hỏa từ Sài Gòn ra leo núi thăm cha. Hôm ấy mưa rừng trút nước
suốt sáng. Trưa, hai cậu cháu quay ra, con suối hiền hòa nước trong vắt lội lắp
xắp bắp chân đã hóa thành con sông hung hãn nước đỏ ngầu tràn bờ cuộn réo như
ngựa lồng. Không có chỗ lui. Mà việc làm báo của ông cậu thì không thể trỉ
hoãn. Quyết định vượt suối lũ, dù cháu gái không biết bơi. Hành lý, quần áo,
chăn màn đi công tác gói hết vào tấm vải nhựa, thành cái phao to tướng. Cột lại
bằng sợi dây thừng ni lông siêu bền to như ngón tay, dài mấy chục mét. Cậu sải
tay bơi chênh chếch qua bờ bên kia, cột một đầu dây vào gốc cây bự tổ chảng, dự
định lượt sau sẽ lợi dụng nước xiết đẩy cháu dạt vào bờ phía hạ lưu.
Thì vừa may, có hai thanh niên địa phương đi tới, sốt sắng nhận kéo dây giúp. Cậu
lại sải tay phóng về. Cháu nằm hẳn lên phao, móc tay vào dây cột, dò dẫm lội
ra. Cậu quẫy chân đùng đùng, hai tay đùn đít cháu, gào thật lực điều khiển bờ
bên “kéo nào”. Oàm oạp một lúc
là sang tới nơi. Hú vía. Môi thâm tím mà cười ha hả.
Cái cô cháu gái
xông xáo nổi trôi trên suối lũ Cẩm Thủy năm 1979 ấy, có ngờ được không, mươi
năm sau quyết chí ly hương, tổ chức dẫn dắt mấy đứa em gái chưa chồng quả cảm
vào vai “thuyền nhân”, thân gái
lênh đênh dặm trường làm một cuộc đào thoát trót lọt nửa vòng trái đất. Tiếp rồi,
mươi lăm năm nữa, lại rinh tùng rinh đưa cả đàn em út cháu chắt vài chục người
Việt hồi hương sum vầy quê Việt. Trái đất rộng nhưng rất tròn. Đất nước dài mà
cũng tròn. Chia rẽ phân ly hay hội tụ hòa đồng là tự ở lòng người. Với gia đình
chị Lê Khắc Bích Hà và anh Trần Văn Kinh, chu trình ly hợp cam go khốc liệt trải
dọc nam bắc đất nước, tràn ngang đông tây địa cầu, trong suốt nửa sau của thế kỷ
20!
Chàng “rể trưởng” Trần Văn Kinh năm 1952 để Mạ, Dì và đàn em ở lại Thanh Hóa
kháng chiến mà không phải băn khoăn lo âu chi nhiều. Bởi, từ mấy năm trước đó,
đã có người em cọc chèo là Kiều Hữu Văn đảm nhận vị thế hạt nhân của gia đình.
Anh Văn là chồng chị Giáng Nghê. Trai tài sắc
gặp gái sắc tài. Anh Văn vốn là cậu tú tài tây sung ngạch tham sự thuế vụ. Vận
động viên ưu đẳng môn quần vợt và bóng bàn. Vóc dáng thể thao cao to rắn rỏi
làm tôn thêm gương mặt tài tử điện ảnh rạng ngời với mái tóc lượn sóng tự nhiên
và đôi mắt tinh anh nheo cười. Chị Giáng Nghê, da trứng gà bóc, mũi dọc dừa
thanh tú, mắt đen láy lặng thầm chứa chất nỗi buồn tiên cảm tưởng như vô cớ. Thời
thiếu nữ là thành viên nòng cốt của đoàn văn nghệ xung kích huyện Hương Trà.
Hát hay, múa dẻo. Viết kịch và diễn kịch. Làm thơ và ngâm thơ. Anh chị Văn-Nghê
bén duyên từ chặng đầu tản cư của “đại gia đình thuế vụ
Khu Tư” ở miền rừng tuyệt đẹp Mỹ Sơn. Hai người hòa ca
Thiên Thai, Suối Mơ, Trương Chi. Giọng nam baritone trầm ấm quyến luyến giọng nữ
soprano lảnh lót. Thư nói lời yêu trao nhau hàng ngày là những bài thơ - những
vần tứ tuyệt, thất ngôn bát cú tức cảnh sinh tình ứng tác.
Chính anh Kiều Hữu Văn dạy nhạc
cho cậu em vợ Văn Trí. Đủ loại hình tân nhạc. Nhạc tiền chiến: Giọt mưa thu, Bướm
hoa, Con thuyền không bến. Hùng ca: Thăng Long hành khúc, Không quân Việt Nam.
Ca khúc thời chiến: Dư âm, Sơn nữ ca, Bình Trị Thiên khói lửa. Dạy Văn Trí độc
tấu mandoline cả những bài nhạc cổ điển rất khó và hay cực kỳ như Valse
favorite, Dance villageois của Mozart- Beethoven. Chiều chiều, hễ mấy anh chị “người lớn” họp đàn, tiếng hát cất
lên“Hướng về Nam- ai từng vô sông Hương từng nương
Thiên Mụ từng ngụ Đập Đá Văn Xá Truồi Nong…” là cậu bé
Văn Trí vớ lấy cây đàn xinh xẻo, “vê”
giòn tan. Có khi nghịch ngợm ôm đàn lên, hai tay nâng cao quá đầu, quay ngoặt
ra phía sau, thả cây đàn lửng lơ áp gáy. Cứ thế ngược ngạo“chơi
mò”. Phía trước hai con mắt tinh quái láo liên. Phía
sau tay trái bấm phím dẻo quẹo, tay phải quơ quào que gẩy tưng tửng từng tưng
không hề vấp váp.
Một năm sau lễ cưới, anh Văn thăng
quan! Được bổ làm trưởng ty thuế vụ Thanh Hóa. Anh xắng xở việc công, nay họp
mai hành. Bỗng dưng trở tính, trầm lặng, nghiêm nghị, ở nhà ít khi đàn hát,
ngâm thơ, dè sẻn cả nụ cười. Bận bã túi bụi. Không phải dễ, trọng trách thực hiện
chỉ tiêu tiền thu thuế cung ứng cho công cuộc kháng chiến. Nguồn thu chủ yếu là
thuế buôn chuyến từ vùng địch tạm chiếm ra vùng tự do. Trạm thuế chẹn
ngang giao lộ các ngả đường huyết mạch hoặc đặt ở các tụ điểm mua
bán ì xèo kề cận thị xã Thanh Hóa tiêu thổ đổ nát như Cầu Bố, Hàm Rồng. Hàng
ngày, nhân viên thuế vụ tỉnh lóc cóc tới các trạm nhận tiền, mang về nộp cho
chính… trưởng ty cất giữ.
Văn Trí còn nhớ, mùa đông năm
đó, nửa đêm, bỗng có tiếng đập cửa gấp gáp:
- Dậy, dậy, bẩm quan, dậy mau.
Ra là có người đi thu tiền vừa
về. Gọi rằng đời dân chủ mà uốn nắn cả năm cũng chưa sửa được thói quen xưa cũ
khúm núm thưa bẩm quan trưởng ty! Viên thừa sai rét run, đặt cái túi vải bạt
dúm dó xuống đất, lắp bắp:
- Bẩm quan, mất hết rồi. Con chập tối đeo bị tiền
đi qua Rừng Thông, có ba bốn thằng xông ra, cướp sạch.
- Thế súng đâu?
- Dạ súng còn đây. Nó múa dao bầu cắt tiết lợn.
Con mà móc súng thì nó thọc dao thấu tim. Nên không dám kháng cự. Nó lấy hết tiền,
bảo: súng của chính phủ chúng tao không lấy.
Không thấy thầy
trò rình rang lập biên bản. Chắc là sau đó cũng không kiểm điểm kỷ luật hoặc
trình báo cơ quan an ninh điều tra. Trộm cướp thời giặc dã, truy xét sao xuể.
Những năm đầu thập
niên 1950, tiếp sau chị Giáng Nghê, thì các chị Bích Khuê, Hương Bình, Xuân
Triêm, Thiếu Mộc cũng lần lượt lấy chồng. Mạ, Văn Trí và chú út Lê Khắc Hân ở
cùng nhà với vợ chồng chị Giáng Nghê. Gia đình ông ty trưởng tản cư đến nơi nào
cũng được bố trí ở nhờ nhà ngói khang trang. Dạo ở Thọ Xuân, tá túc nhà bác Cam.
Một nông dân vạm vỡ, râu quai nón đen rì. Rất tốt bụng. Xởi lởi biếu gia đình
ngụ cư hết rau cải, khoai sọ ruộng nhà tới na dai mắt to thô lố, ổi đào chín tới
thơm lựng hái ở vườn nhà. Còn chất đốt thì sẵn mấy cây rơm nghễu nghện trước
sân, cứ việc rút từng đống cao vượt mặt ôm vào bếp đun nấu thoải mái vô tư. Căn
nhà ngói 5 gian cột lim đen bóng chỉ có một cửa ra vào, hai cánh cửa ghép gỗ
phiến dày dặn. Gian giữa đặt bàn thờ và sập gụ tiếp khách. Hai gian phía đoài đặt
giường bác Cam và anh con trai lớn, cửa ngách thông xuống nhà ngang có bà vợ chất
phác hiền hậu và mấy đứa nhỏ lít nhít đen như củ súng và nghịch như quỷ sứ. Hai
gian mé đông giáp đường làng kê hai giường rẻ quạt. Giường liền vách
dành cho vợ chồng chị Nghê đêm thoang thoảng hương thuốc lá Cotab thơm dịu. Còn
giường của ba mẹ con Văn Trí lúc nào cũng khen khét mùi thuốc lá Cẩm Lệ.
Thời chiến, tư thế sẵn sàng chạy
ra hầm tránh máy bay oanh tạc, kể cả đề phòng quân địch nhảy dù đánh úp, nên quần
áo tư trang luôn xếp gọn trong túi xách. Ngó chướng mắt nhất là cái hòm sắt thô
kệch chềnh ềnh ngự trên giường anh Văn. Chứa đầy nhóc tiền thu thuế. Có dạo còn
thấy lục cục trong đó vài chục cái đồng hồ đeo tay dạ quang toàn loại hảo hạng
Nikles, Wyler, là hàng buôn lậu bị tịch thu. Cơ man tiền của, hẳn là ông ty trưởng
kiêm thủ kho thủ quỹ thâu đêm thấp thỏm canh chừng. Súng lục, đèn pin sẵn sàng
bên gối. Có một chuyện khó hiểu là đêm đêm, cứ tới giờ ngủ thì Mạ “thiết quân luật”, ra lệnh hai con
trai choai choai hiếu động nằm chết cứng trong màn. Đèn tắt phụt. Còn bà mẹ thì
lọ mọ cặm cụi trong bóng tối. Lại cấm ngặt hai con đêm ngủ không được ra vườn
đi tiểu. Cần kíp thì dùng tạm cái bô sắt tây dưới gầm giường. Một đêm, Văn Trí
lò mò nhổm dậy dụi mắt nhìn qua màn, thấy Mạ ngồi rờ rẫm cột dây dợ nhũng nhẵng
nhùng nhằng, nối các chân cột nhà với nhau, nối cả mấy chân giường. Lại treo
thêm hai ống bơ sữa bò. Sáng ra, khi cả nhà ngủ dậy, thì Mạ đã dọn gỡ tinh tươm
tự lúc nào. Hỏi, Mạ “suỵt- im miệng”.
Văn Trí để ý, thấy mỗi tối Mạ buộc một kiểu khác nhau, thay đổi cách thức gài bẫy
bố phòng ma hồn trận.
Cho tới một đêm, ngủ chưa say, chợt
nghe ống bơ xủng xoảng. Tay Mạ bịt miệng con. Từ giường anh chị, ánh đèn pin
loang loáng nhưng không soi thẳng vào chỗ có tiếng động mà quét từ tốn lên đình
màn, chớp tắt chớp tắt. Tiếng chị Nghê suỵt suỵt đuổi chuột. Văn Trí nằm
nghiêng, dòm qua màn, thấy một cái bóng lù lù lồm cồm bò thụt lui qua gian giữa
rồi… trèo lên giường gian bên kia. À, hiểu ra rồi: cách
chống trộm của nhà mình là nhẹ nhàng xua đi chứ không đuổi bắt! Sau đó, cả nhà
yên ắng. Sáng ra, khách trọ và chủ nhà trò chuyện tự nhiên như không. Chị Nghê
chỉ nói bâng quơ: đêm qua để quên cái bánh chưng chắc chuột đánh mùi. Hai bên cứ
mưu mẹo giữ miếng như thế. Đấu trí chứ không đấu lực. Giữ của công đi đôi với
giữ hòa khí. Giữ được chữ lý mà không mất chữ tình. Không ai nghĩ chủ nhà là xấu.
Giữa thời nhộm nhoạm, thấy tiền thu thuế “trời ơi” xếp đống, nổi máu ham, có thế thôi. Mối thiện cảm cán - dân
được giữ vẹn toàn cho đến ngày cơ quan chuyển trụ sở xuống làng Nguyệt Lãng huyện
Thiệu Hóa.
Nơi ở mới nằm kề bờ nông giang nước
xanh mắt mèo. Chú thiếu niên Văn Trí thỏa sức vẫy vùng, kể cả mùa đông lạnh chết
cò - vì nước sông mùa đông ấm lắm. Tung tăng biểu diễn đủ kiểu bơi sải, bơi ếch,
bơi ngửa. Mỗi chiều, đánh trần, như chim bói cá, lao đầu nhảy cắm xuống làn nước
mượt mà gần gụi. Rồi nằm ngửa trên mặt sóng lăn tăn, duỗi chân tay, thả lỏng,
theo dòng trôi xuôi vài cây số mới chịu leo lên bờ chạy về. Nhờ có thói quen
sông nước thuở thiếu thời mà về sau bao lần Văn Trí trên đường làm báo gặp nguy
nan bom đạn, lụt lội, đã không mấy khó khăn bơi vượt sông Lô, sông Đà, sông Mã,
sông Gianh.
Nhưng cũng chính trên bờ con nông giang hiền
hòa này, Văn Trí mất bà chị yêu quý. Chị Giáng Nghê chết vì đẻ khó. Lúc chị
mang thai, cả nhà sướng như điên. Khi chị lo sợ đẻ đau, Mạ cười: cái nòi đàn bà
nhà mình ai đẻ cũng dễ, không đau mô. Mạ sinh 9 lần, chị Hà 5 năm đẻ 5 đứa,
chưa kịp rặn đã nghe tiếng con khóc oe oe, mau như gà đẻ!
Cứ thế mà chờ tới khi chị Nghê chuyển
dạ mới đưa tới nhà hộ sinh thị trấn ở ngay đầu cầu Vạn Quy. Ai ngờ đẻ khó. Nếu
cáng sản phụ tới nhà thương Hà Lũng của tỉnh thì phải đi cả buổi. Rồi chị bị
băng huyết. Bà đỡ cuống quít: phải kiếm ngay vitamine K thì mới cứu
được cả mẹ cả con. Anh Văn nhờ người đạp xe xuống Cầu Bố. Nhưng xe chưa kịp
quay về thì chị Nghê tắt thở. Không cho Mạ tới, anh Văn chạy thủ tục hậu sự,
giao Văn Trí phận sự ngồi canh thi hài– bởi ngại rằng
nhỡ có một con mèo hoang nào đó nhảy qua thì thành quỷ nhập tràng. Chị Giáng
Nghê nằm đó, im lìm, tấm chăn dạ sau này dùng để liệm phủ kín toàn thân. Văn
Trí không rời mắt khỏi cái u vồng lên ở giữa. Cháu ruột của cậu Trí đấy, thôi rồi,
mãi mãi không chào đời, cháu yêu thương không biết là trai hay là gái…
Sau đám tang đơn giản bên
bờ nông giang Vạn Quy đưa chị Nghê về lòng đất tổ, trở lại nhà, thấy Mạ ngồi
như hóa đá ở bậc thềm đất nện loang lổ nắng chiều. Mắt ráo hoảnh. Hai đầu gối
nhòn nhọn gần chạm vào cái cằm nhòn nhọn. Mạ bập bập điếu thuốc Cẩm Lệ tắt ngấm
tự bao giờ, thì thào như mất trí: chị con đi rồi à. Tội nghiệp chị. Cục
vàng của Mạ. Con gái hiếu thảo của Mạ, nuôi Mạ ba năm ni, có miếng chi ngon con
cũng nhịn ăn dành cho Mạ cho em… Con ơi, mai mốt cả nhà
đưa nhau về Huế, còn con nằm lại Thanh Hóa một mình..
Không phải một mình chị Nghê nằm
lại ở Thanh Hóa. Chỉ năm sau, Mạ lại mất tiếp đứa con trai cưng quý nhất, anh
Tình.
Hai con trai rốt cùng của Mạ,
Văn Trí và Lê Khắc Hân, tận cuối đời, sau nửa thế kỷ cầm bút, cầm phấn, cầm
đàn, trầy trật gặt hái đôi chút thành công trong công việc dạy học, viết sách,
làm báo, làm văn nghệ, mới ngộ ra rằng rốt cuộc tài cán của hai thằng em khiêm
tốn thế thôi, chỉ bằng góc nhỏ năng khiếu thiên bẩm của người anh trai vắn số.
Nhắc nhớ anh Lê Khắc Tình, nghe
như văng vẳng tự xa xưa vọng về ca khúc THU LY HƯƠNG anh sáng tác năm 1947.
Gió
thu mang sầu về nhuốm trên ngàn cây
Chiếc
lá vàng bay ngập ngừng vương bóng mây
Dưới
làn mưa sa thánh thót rắc mối sầu u
Ta
mơ quê nhà êm đềm một ngày xưa…
Ngày
xưa yên lành
Làng
quê thanh bình
Ta
sống vui vầy êm đềm bên tre xanh
Nhớ
đàn Bá Nha chiều êm khúc nhạc ru
Nhớ
mộng Tú Uyên đêm nào gặp tiên nữ…
Khi cả nhà ngồi bên nhau
thì anh Tình thay đổi lời, âu yếm đưa tên mấy anh chị em vào câu hát:
Ngày
xưa Nghê Tình Mộc Khuê Triêm Bình
Ta
sống vui vầy êm đềm bên tre xanh….
Anh Tình dạy học Thành
Chung ở Huế là bạn đàn hát sáng tác với hai anh Nguyễn Tăng Hích (Trần Hoàn) và
Hoàng Thi Thơ. Hai người bạn ấy năm 1946 lôi kéo anh Tình cùng thoát ly làm văn
nghệ kháng chiến. Trên đường luân lạc, anh Hích tiến ra, anh Thơ quay vào, rồi
mấy chục năm sau đó cả hai anh tên tuổi nổi như cồn trong làng văn nghệ phía bắc
phía nam.
Lúc hai bạn thiết cốt cùng trang lứa
rủ rê, anh Tình đã 18 tuổi. Nhưng không rộng cẳng bay nhảy. Anh còn mẹ già em dại
phải đưa đi tản cư.
Dòng nhạc tươi trẻ lãng mạn từ
thời Huế mộng và thơ vẫn theo những người trai, như cánh chim, như con đò ngược
xuôi trên đường ly hợp. Anh Hoàng Thi Thơ suốt đời nhắc nhớ thuở ban đầu “Đường xưa lối cũ”: Khi tôi về
nghẹn ngào trong nắng/ Tưởng gặp mẹ tôi rưng rưng đứng đón con về/ Nào ngờ mẹ
tôi ra đi bên kia cuộc đời/ Không lời biệt ly cuối cùng trước khi phân kỳ… Anh Trần Hoàn, ở chiến khu Trị Thiên, thắm thiết bài
ca sơn nữ: “Một đêm trong rừng núi, có cô sơn nữ
miệng cười khúc khích ngắm anh lữ khách rồi lòng bâng khuâng…Sơn
nữ ơi, đời ta như cánh chim chiều phiêu bạt thời gian vun vút trời mây…”. Cũng chiều thu ấy, thuyền tản cư của Lê Khắc Tình “Cắm sào một buổi trên sông vắng/ Lòng vọng mơ về bóng cố
hương…”. Chàng trai phiêu lãng gõ ván thuyền mà
hát:
Thuyền phiêu dạt nơi đâu/
chơi vơi hải hồ/ đâu biết bến bờ.
Đi
từ phương nào thuyền nào có biết
Thuyền
trôi về đâu thuyền nào có thiết.
Đón
gió ngàn phương/ thuyền lướt trôi êm
Buồm
căng muôn hương/ nước ôm lưng thuyền.
Mây
gió vương tơ vàng
Sông
nước hát miên man
Thuyền
say nhạc tràng giang
Lấy
sông sâu làm bạn.
Số
kiếp giang hồ/ thuyền trôi muôn ngả
Bến
cũ mong chờ/ thuyền mơ bến lạ.
Rồi
một chiều thu/ trên một bến thơ
Bỗng
dưng thuyền dừng/ tơ dứt nửa chừng.
Thôi
nước hết chờ mong/ thôi tan nát tơ lòng
Vì
chiều nay thuyền đã cắm sào
Trên
bến bờ xanh thẳm ngàn dâu…
Cắm
sào! Thuyền đã cắm sào
Trên
bến bờ xanh thẳm ngàn dâu.
Mơ
chốn đào nguyên/ nên thuyền lưu luyến
Về
nơi bến tiên/ xây mối tình duyên…
Thế là dứt tình
dòng sông nhạc, “con thuyền Tình”
cắm sào cập bến tiên xây mối tình… thuế vụ. Như duyên
nghiệp tiền định. Giữa thế kỷ 19, ngài cao tổ Lê Cát là bố chánh sứ tỉnh Thanh
Hóa phụ trách hành chánh, thuế vụ. Trong thế kỷ 20, dòng họ Lê Khắc có hàng
trăm người tòng nhiệm ngành tài chính, thuế vụ! Dạo kháng Pháp, cả nhà tản cư
theo cơ quan thuế, phục vụ ngành thuế như chú Lự, anh Điềm, anh Kinh, anh Văn… thì anh Tình vào thuế vụ là đương nhiên. Lại nữa, như một
tiêu chí truyền thống, hậu duệ ngài Văn Xuyên, bất cứ ai, gia nhập phụng sự
ngành nào cũng tận tụy hết mình. Ông Văn Phố xưa từng tự vịnh “Chăn dân cần mẫn báo ân vua”. Con
cháu cũng cần mẫn như ông cha, nhưng không phải nhằm “báo
hoàng ân” mà là để đền đáp công ơn cha mẹ và tự mình chứng
tỏ mình! Anh Tình vậy đấy, công tác say sưa quên ăn quên nghỉ. “Bỏ đàn, bỏ hát, bỏ nàng thơ/ Lê Khắc Tình theo cô… thuế vụ” (nhại bài Cô lái đò của
Nguyễn Bính). Lại thêm tập quán lấy vợ sớm. Con trai ngoài 20 là yên bề
gia thất. Anh Tình rất xứng với cái tên khai sinh mà năm 1928 cha mẹ đã coi tử
vi đặt cho. Năm 1950, 22 tuổi, anh Tình cưới vợ, chị Lê Thị Kim Huệ. Năm 1951,
anh Tình 23 tuổi, sinh cháu gái Kim Thu. “Bỏ đàn,
bỏ hát, bỏ nàng thơ/Lê Khắc Tình… tang đi lấy vợ!- mấy
cô em gái láu lỉnh trêu cợt ông anh. Việc nước việc nhà trĩu hai vai thư sinh gầy
guộc. Anh xuống sức nhanh trông thấy, xanh xao trơ xương. Cơ thể đề kháng yếu,
không tránh khỏi nhiễm khuẩn Mycobacterium
tuberculosis. Căn bệnh lao bấy giờ là nan y. Vi trùng Koch hoành hành đào
khoét hai lá phổi. Không tài nào kiếm được thuốc đặc trị chữa lao
streptomycin. Ăn uống kham khổ. Không có tiền mua thịt cá, chị Huệ phải cầu
cạnh nhà hộ sinh thị trấn xin từng cái nhau thai về giấu giếm xào lên cho anh
Tình bồi dưỡng. Vẫn không thuyên giảm. Thổ huyết ngày thêm nặng. Đành đi nằm bệnh
viện Hà Lũng.
Đầu thập niên 1950 đặt dấu mốc
chia năm sẻ bảy. Anh Kinh về thành. Dì để đàn con ở Thanh Hóa, chỉ dắt theo em
Khôi, ròng rã cả tháng trời lội bộ trèo núi lần về vùng giáp ranh ở Thừa Thiên
móc nối xin tiền bà ngoại và anh Duyệt. Anh Tình đảm nhận nuôi Văn Trí thì ngã
bệnh. Chị Nghê đảm nhận nuôi Mạ và út Hân thì đột tử. Anh Kiều Hữu Văn đau buồn
bám trụ cơ quan ngày đêm, thi thoảng tạt về, biếu Mạ chút tiền rồi quầy quả đi,
không buồn ngó tới cây đàn mandoline đứt dây hoang hoải trên giường đôi cô đơn.
Mạ phải đem út Hân về vùng biển
Hoằng Hóa - Hậu Lộc. Bởi, chồng chị Bích Khuê là anh Đỗ
Văn Nhu đã bỏ ngành thuế quan về Hoằng Hóa dạy cấp 2 tư thục. Chị Thiếu Mộc lấy
anh Lê Trần Cảnh quê ở Hậu Lộc, chị về quê anh làm giáo viên tiểu học. Văn Trí
thì tếch vào Nghệ An theo trường sư phạm.
Mạ xuôi về vùng biển mà ruột cồn
cào như lửa đốt ngóng ngược lên bán sơn địa Thọ Xuân, phấp phỏng bệnh trạng anh
Tình. Rồi thình lình nhận tin sét đánh từ bệnh viện Hà Lũng. Như cây chuối bị
phạt gốc, Mạ nằm lăn. Búi tóc lốm đốm bạc xơ xác xổ tung. Mạ già rộc, tiều tụy.
Tuổi chưa tới 60 mà răng rụng hết. Cả ngày không đụng tới gói thuốc Cẩm Lệ. Đêm
ngủ mơ hoảng lung tung. Sáng ra, thút thít kể lể không đầu không cuối. Con
nì, Mạ vừa thiu thiu đã thấy anh Tình, chị Nghê. Rách rưới lắm.
Không xin cơm mà nài nỉ quần áo. Anh Tình cầu khẩn Mạ ơi bù trì cháu Kim Thu
cho con với. Rồi nằm thấy Cậu các con bệ vệ. Có “Mạ đời
xưa” ngồi bên. Mà lạ lắm, mờ mờ phía sau hai cái bóng
quen quen, một cao một thấp, khóc tức tưởi. Mạ nhích lại gần. Ai đó hao hao như
Dì. Ui chao, không lẽ là Dì với em Khôi…
Chương 3 - Oan hồn nguôi hận
Đi vào cuộc kháng chiến
chống Pháp, trong đại gia đình Văn Trí, dì Nguyễn Thị Điện gian truân khổ ải nhất.
Năm Cậu mất, Dì mới 36 tuổi.
Thất thểu tản cư dắt theo 6 đứa con: Bình, Khác, Khôi, Duy, Kháng, Lượng. Chị
Hương Bình 17 tuổi nhưng không giúp Dì được mấy vì ham vui, cứ quấn quít với
các anh chị cùng trang lứa là con đẻ của Mạ Nguyễn Thị Lâm. Anh Khác, con trai
lớn của Dì, mới 12 tuổi, tản cư ra tới Thanh Hóa thì lẳng lặng bỏ đi đâu mất
tăm. Còn lại 4 em trai lốc nhốc, Khôi, Duy, Kháng, Lượng chưa tới tuổi làm ra đồng
tiền bát gạo.
Năm đầu chạy giặc, Dì còn
mấy lá vàng mười bà ngoại dúi cho, nên đỡ. Cộng thêm khoản tiền tuất của Cậu. Mạ
suốt ba mươi năm chiến tranh có một cái túi vải diềm bâu nhuộm nâu xỉn màu, coi
là báu vật bất ly thân, xuống hầm tránh tàu bay thời kháng Pháp hay kháng Mỹ
cũng kè kè mang theo, sợ bom đạn cháy nhà. Túi đựng toàn giấy má. Giấy khai
sinh của lũ con. Bằng Thành chung (Diplome) của anh Tình, bằng Tiểu học yếu lược
(Certificat) của các anh chị khác. Một tệp giấy croky cồm cộm bằng khoán điền
thổ, trích lục địa bạ ruộng vườn nhà cửa ở Văn Xá. Và, thường được rút ra dùng
là sổ lĩnh tiền tuất của Cậu, một cuốn sổ dày dặn mỗi trang đều kẻ ô vuông vức
dành cho cán bộ tài chính nơi chi trả tự tay ghi số tiền đương sự thực lĩnh hằng
quý. Anh Tình mắc bận việc công nên thằng em Văn Trí có bổn phận mỗi quý một lần
tới cơ quan tài chính kháng chiến lĩnh tiền. Mang về, Mạ chỉ lấy một ít gọi là,
còn dành cho Dì, vì Dì thiếu thốn hơn.
Từ năm 1948-1949, đồng tiền mất
giá, vàng dự trữ hết nhẵn, đói. Dì và các chị vốn thạo nữ công thêu thùa may
vá, móc mối đan thuê áo len. Nhưng nông dân đã nghèo, vùng tự do lại hiếm len dạ,
nên công ăn việc làm họa hoằn mới có. Lại xoay qua nghề tiểu thủ công, quay sợi
dệt vải may quần áo cho mặt trận. Quân nhu cấp phát xa quay sợi và giao bông
tơi để người nhận gia công xe thành con cúi bông rồi kéo ra búp sợi. Xong, cân
nộp búp sợi, nhận tiền công. Cả nhà hăm hở làm thuê. Bọn con trai choai choai
cũng không chịu kém các chị, quay xa vo vo, cuốn rút sợi bông đều tăm tắp. Lại
còn véo von “Tiếng hát quay tơ” của
Tử Phác: “Chiều không hương buông mây lắng xuống đồng
quê…Người chiến sĩ dầm gió rét mưa bay băng mình trong
khói súng chiến trường áo mong manh…Quay quay thương nhớ
quyến vào tơ…quay quay đan áo ấm dâng chàng. Mỗi một đường
tơ là mối dây tình trong lòng em dâng người hiên ngang…” Điệu
valse nhí nhảnh cuốn vành xa quay quay hối hả.
Khi theo cơ quan di chuyển xa,
đành bỏ nghề gia công quay sợi. Các chị lớn lên lần lượt đi công tác, dạy “Ấu trĩ viên” thuộc cơ quan văn hóa
văn nghệ Liên Khu Tư đóng ở Quần Tín hoặc làm văn thư các cơ quan đoàn thể
Thanh Hóa. Chị Hương Bình theo chồng là anh Hồ Trác vào Nghệ An làm ở tài chính
Khu Tư. Chị Xuân Triêm tòng nhiệm ở ty Giáo dục. Chị Thiếu Mộc 15 tuổi cũng làm
văn phòng tỉnh đoàn Thanh niên. Thời ấy, trình độ văn hóa tiểu học đã là quý.
Các chị cần cù, sáng dạ nên được tin dùng.
Bọn em trai dở dang trầy trật
hơn nhiều. Văn Trí hầu như thất học trong mấy năm gia đình phiêu dạt tản cư
theo cơ quan nay đây mai đó. Chỉ riêng chương trình tiểu học cũng kéo lây nhây
đứt đoạn mỗi trường dăm bảy tuần. Năm 1950, anh Tình nhiễm bệnh nan y, Mạ phải
để Trí ra đời mưu sinh. Năm 1952, anh Tình quỵ hẳn, Trí thi vào trường Sư phạm
sơ cấp Liên khu Tư. Các chị bĩu môi “con trai con lứa
suốt đời làm giáo khổ trường làng a?!”. Trí tắc lưỡi:
mai sau lo chi, biết sẽ thế nào, hôm nay cứ kiếm cơm ngày hai bữa!
Vào sư phạm, được nuôi ăn lại
được học văn hóa! Hẳn nhiên, cuộc sống Sư phạm thời kháng Pháp vô cùng gian khổ.
Trường nội trú mà không có “mặt bằng”!
Nơi ăn, chốn học của thầy trò đều nhờ dân đùm bọc mái lá nhà tre. Mỗi giáo sinh
một bộ bàn ghế xếp, khi trường di chuyển thì của ai người ấy cắp theo. Học đêm,
đèn dầu tù mù tự tạo bằng lọ mực, lại phải úp chao che ánh sáng kẻo máy bay địch
dòm ngó. Hàng tháng nhà nước cấp cho 30kg gạo, nửa dành nấu cơm, nửa chuyển
thành tiền mua thức ăn, chất đốt, giấy bút dầu đèn. Ăn đói là cái chắc. Còn mặc?
Ba năm không có thêm quần áo. Mùa đông Thanh Nghệ rét cắt ruột. Tuổi 15 lộc ngộc,
áo cộc phong phanh, quần ngắn lòi chân ống sậy! Nhưng bù lại, tuổi 15 có được mối
tình đầu thơ mộng với cô bạn “giáo xinh” quê gốc Hà thành chính cống. Có đêm thu 1952 dắt tay nhau
ra bờ nông giang Lan Châu ngồi tới khuya ngắm trăng thu. Biết bao hạnh phúc! Cả
đôi chung hưởng 800 ngày đặc biệt trong đời - “Mỗi
ngày tới trường là một ngày hạnh phúc”. Lớp học
đơn sơ mà thiêng liêng như giáo đường. Ngày nối ngày, giáo sinh mê mải tự học
và háo hức đợi giờ tới lớp nghe hướng dẫn. Ấn tượng khắc sâu “cho
tới cuối đời” là sao các thầy giảng bài hay đến thế! Thầy
Trần Đình Gián làm hiệu trưởng mà vẫn lên lớp dạy Địa lý, quả thật thầy như một
pho từ điển sống bộ môn này. Thầy Nguyễn Cảnh Toàn dạy toán chỉ hoàn toàn bằng
cái đầu của mình, ngay cả đề toán thầy cũng tự sáng tạo. Thầy Nguyễn Tài Cẩn dạy
văn, tài hoa, tâm huyết, tự soạn lấy bài Văn học sử, tự tìm chọn bài trích giảng.
Thầy Phạm Bá Rô, thầy Vũ Ngọc Khánh dạy văn hay dạy sử đều uyên thâm, cuốn hút.
Rồi các thầy Nguyễn Thúc Tư, Vũ Quý, Lê Quang Long dạy sinh vật, thầy Lê Khánh
Bằng, thầy Vũ Ngọc Bình dạy Tâm lý-Giáo dục học, thầy Hoàng Ngọc Di dạy Triết học…, đều là tấm gương đức độ và tài năng đầy thuyết phục. Ngành
sư phạm non nớt năm ấy mới ra đời. “Chương trình giảng
dạy” sơ sài, làm gì có tài liệu, sách giáo khoa. Tất cả
do các thầy “tự biên tự diễn”.
Hầu hết các thầy lúc về dạy sư phạm chỉ có trình độ tú tài, nhưng nhờ tìm thấy
chỗ đứng trong cuộc kháng chiến, tìm được nguồn vui trong công việc, nên đã chủ
động thích nghi, hòa nhập, miệt mài tự học, tự mình làm ra…chính
mình! Và sau đó có học hàm học vị giáo sư, viện sĩ, tiến sĩ, chủ yếu là tự đào
tạo thành nhà khoa học đầu ngành, trí thức ưu tú của đất nước. Với
Văn Trí, 27 tháng theo học Sư phạm Khu Tư là giai đoạn tích lũy được nhiều “vốn liếng học đường”, hình thành cái
vốn lớn nhất về mọi mặt để năm 1954 vào đời, vừa làm việc vừa tự học, ròng rã
hơn nửa thế kỷ phụng sự ngành giáo dục làm tròn chức phận nhiều loại việc: đứng
lớp, tổ trưởng chuyên môn, hiệu trưởng, cán sự bộ môn của tỉnh, tổng kết kinh
nghiệm trường học tiên tiến, phóng viên báo ngành, chủ trì lớp đào tạo thông
tín viên, trưởng ban biên tập, chủ bút, điều hành cụm báo chí giáo dục phía Nam…
Dạo cả nhà Văn Trí mới tản cư
ra tới Thanh Hóa, có ba người anh trai Lê Khắc tìm tới. Đầu tiên là anh Điềm từ
Quảng Bình ra Việt Bắc nhận nhiệm vụ mới, tạt qua một buổi thăm hai bà dì và
đàn em. Sau đó là Khắc Luân và Văn Khê. Cả hai mặt mũi xanh xao vàng vọt. Riêng
anh Luân mặc quân phục, áo trấn thủ, mũ nan trùm lưới ngụy trang, nói là ra Khu
Ba phụ trách xưởng may quân nhu. Anh nghỉ lại nhà thím Phủ (Mạ) một tối rồi đi.
Còn anh Khê, gầy như que củi, ở bên Mạ vài hôm, sang Dì vài hôm, tìm chỗ mưu
sinh. Hăng hái đăng ký nhập ngũ mấy lần không được vì chưa đủ tuổi. Lại cậy cục
xin học trường Thiếu sinh quân của tướng Nguyễn Sơn. “Cửa
ải” đầu tiên, khám sức khỏe. Cao lòng khòng, ngực lép kẹp,
“thể trọng chưa trừ bì” bốn chục
ký. Trượt thẳng cẳng! Lại xoay mòng mòng, Văn Khê tốc lên vùng Thủy Tú có mấy
trường phổ thông cấp 2 Hoàng Văn Thụ, cấp 3 Đào Duy Từ, kiếm chỗ làm gia sư nhờ
dân nuôi ăn học.
Dì quyết định không lang thang
theo cơ quan nay đây mai đó nữa mà trụ lại ở Thọ Xuân, buôn bán vặt chạy chợ quê
quanh vùng để nuôi 4 đứa Khôi, Duy, Kháng, Lượng. May có chị Nguyễn Thị Kỳ phụ
tá đắc lực. Không phải họ hàng. Là con nuôi. Nếp nhà quan, con đẻ có cả đàn vẫn
thêm con nuôi, bên Mạ nuôi chị Cầm và bên Dì nuôi chị Kỳ. Tản cư, hai chị cùng
theo. Tới năm 1949 thì chị Cầm đi lấy chồng là nông dân nơi cơ quan trú đóng.
Còn chị Kỳ, tính tình xởi lởi, vóc người nhỏ nhắn, xinh gái, mắt lá răm môi cắn
chỉ nói cười duyên dáng, tới 20 tuổi vẫn chưa chịu “cùng
ai”, thưa rằng các chị lấy chồng cả rồi, con phải ở với
Dì nuôi các em cho tới ngày về Huế. Dì và chị Kỳ không mấy vốn liếng, không có
cửa hàng, chỉ buôn thúng bán mẹt, buôn đầu chợ bán cuối chợ. Chị Kỳ gánh gồng,
còn Dì giao dịch. Khổ thân Dì, cô gái út của ông Thượng thư với bà quận chúa. Mạ
và Dì vẻ đẹp khác nhau. Mạ phúc hậu còn Dì sắc sảo. Tuổi bốn mươi, sinh nở 8 lần
mà vóc dáng Dì vẫn cân đối thanh mảnh, môi tươi mím mím che cái răng cửa hơi hô
(vẩu). Từ khi thắt ruột lo sinh kế thì héo hon rười rượi. Lời lãi chẳng mấy, gạo
đong từng ngày, bữa cơm nào bọn trẻ cũng cạo nồi quèn quẹt, nhặt vụn cháy bỏ miệng
chóp chép ngon lành. Mùa đông mưa phùn tê tái, cái đói vào hùa với cái rét. Bọn
trẻ đang tuổi lớn nhổ giò mà quần áo không đủ ấm, cổ tay cổ chân giơ
xương như cẳng gà tím ngắt. Lại thêm nạn rận. Mấy đứa trêu nhau: Áo
anh sứt chỉ đường tà/ em ngồi bắt hộ được ba rận kềnh. Ba con là phúc. Ba
mươi là ít. Rận trong áo quần nhiều vô kể, chui vào miếng vá, đường tà, đẻ trứng
trắng lổn nhổn, cởi áo lấy cái chai lăn trứng rận vỡ lép bép. Đang ngồi, giật
thột nghe ngứa điên, thọc tay vào thế nào cũng vớ được chú rận gian xảo kếch
xù. Hễ trời nắng ấm là bọn trẻ rủ nhau ra sân cởi trần bắt rận. Bắt không xuể.
Mấy ngày lại phải bỏ tất tật quần áo vào nồi nấu sùng sục. Ba bảy hăm mốt. Chơi
với trẻ trong làng, vài con rận mén lén bò sang sinh con đẻ cháu là đâu vào đấy!
Đường sống tắc tuyệt rồi. Đói
rét sinh bệnh tật. Bọn trẻ ho sù sụ như cụ già, trời trở lạnh kêu đau nhức
xương. Phải cứu đàn con. Dì bàn riêng với chị Kỳ việc cùng em Khôi về Huế xin
tiền. Chị Kỳ nói Dì cứ đi, con ở lại buôn bán vặt, mót lúa mót khoai nuôi Duy
Kháng Lượng. Thế là Dì đưa Khôi đi. Thanh Hóa đang rộn rịp vào mùa “tổng phản công giành thắng lợi cuối cùng”.
Tất cả cho tiền tuyến. Dân công rầm rập, kìn kìn quảy đôi bồ đầy gạo vượt núi
sang Hòa Bình, lên Sơn La Lai Châu tiếp tế cho chiến dịch tây bắc. Vừa đi vừa về
ròng rã cả tháng, mỗi suất dân công đem được 15 cân gạo ra mặt trận, mà ăn mất
20 cân lấy ở trạm dọc đường! Có cả đoàn xe đạp thồ mỗi xe hai ba tạ gạo nối
đuôi nhau vượt đèo cao. Bà con xông pha giữ nước, mà mình quay ngược đường
kháng chiến vào vùng địch chiếm, dù là vào rồi lại ra, thì cũng nhục nhã ê chề.
Cho nên phải giữ kín. Vả chăng, công khai xin giấy thông hành “về
Huế” thì bị tóm cổ là cái chắc! Đi như đi trốn, lúc mấy
đứa nhỏ còn rúc ổ rơm dưới bếp ngủ tít. Dì hẹn đinh ninh dù đau ốm, dù phải ăn
mày dọc đường cũng quyết về tới quê hương xin được tiền mang ra. Chị Kỳ đưa tiễn,
đứng lấp ló ở lũy tre đầu làng dõi theo hai cái bóng liêu xiêu nhòa dần trong
sáng tinh mơ vù vù gió bấc.
Người ra đi đường xa mịt mù chưa rõ
lành dữ. Còn người ở lại thì vừa hay hạnh ngộ duyên may. Chị Nguyễn Thị Kỳ năng
nổ sinh hoạt với chi đoàn thanh niên cứu quốc thôn, rồi nên duyên vợ chồng với
anh Bùi Văn Đĩnh là thương bệnh binh về làng. Dựng được túp nhà tranh. Làng cho
hai sào ruộng. Lại nhờ xóm giềng giúp thêm cho mấy em Duy Kháng Lượng tập tành
nghề nông, làm thuê cắt cỏ chăn trâu. Khấp khởi chờ Dì mang tiền ra. Nhưng càng
trông càng vắng. Biền biệt một hai năm rồi một hai chục năm tuyệt không tăm
tích. Trong đợi chờ vô vọng, người chị nuôi Nguyễn Thị Kỳ đã hóa thành bà chị
ruột hiền thục đảm đang nuôi dạy 3 em trai Lê Khắc mồ côi thành người, thành đạt,
vợ con đề huề.
Tháng 7-1954, ký kết hiệp nghị
Genève. Đình chiến. Cũng là lúc Văn Trí kết thúc 27 tháng học sư phạm sơ cấp
Liên khu Tư gồm 9 tháng ở vùng Bồ Hà - Lan Châu ven núi Nưa Thanh Hóa và 18
tháng ở Thanh Chương Nghệ An, cuốc bộ 150km về Hoằng Hóa với Mạ. Hòa bình, sống
rồi! Nhưng cuộc kháng Pháp thắng lợi dở dang. Làng Văn Xá kẹt lại bên kia cái
vĩ tuyến 17 chia cắt, nhát dao máu ứa cứa lòng đất nước. Sum họp, mấy mẹ con nhắc
ngay tới Dì. Dạo ở Nghệ An, có lần Văn Trí tới thăm anh Hồ Trác và chị Hương
Bình ở cơ quan tài chính Khu Tư. Anh Trác cho Trí một bộ quần áo cũ. Chị Bình
cũng không hề biết tin tức của Dì. Ở Thanh Hóa, anh Lê Trần Cảnh chồng chị Thiếu
Mộc đã có lần lên vùng Quần Tín gặp được chị Kỳ và 3 em Duy Kháng Lượng, nhưng
không hề có tin tức của Dì. Mạ bảo Văn Trí: con chưa nhận công tác, thôi tranh
thủ lên tìm anh Văn Khê trên chợ Cốc Thủy Tú, có mấy trường Trung học kháng chiến
và cả trường Lục quân, nhiều người ra vào Bình Trị Thiên, may ra anh Khê dò hỏi
được tung tích Dì…Văn
Trí lẽo đẽo lội bộ đẫy một buổi sáng lên Thủy Tú. Loanh quanh dò hỏi mãi, kẻ chỉ
đông, người bảo tây, rượt đuổi tin tức qua mấy làng mới lần đúng một nhà anh
Khê từng trú ngụ. Hàng rào găng cao ngang tầm ngực thanh thoát. Trên cổng ngói ốp
mờ mờ con số 1920. Cả nhà đón Trí thân thiết ngay phút đầu. Ông bà chủ dứt
khoát bắt nghỉ lại mai đi, vì anh Khê mấy tháng trước đã chuyển sang dạy học tận
huyện Vĩnh Lộc, từ đây sang đấy phải vượt hai con sông lớn nhất Thanh Hóa.
Trong câu chuyện tíu tít luôn thấp thoáng hình bóng Văn Khê. Anh con trai cả vạm
vỡ như đô vật dữ tướng với đôi mày lưỡi mác, tự giới thiệu tên là Thụ, đang học
lớp 8 trường Đào Duy Từ. Thụ lôi Trí sang gian chái, ấn ngồi bên cái bàn xếp mấy
chồng sách vở: phòng của Khê đó, tối nay em ngủ giường Khê. Cô út trạc tuổi Trí
cũng sang theo. Khuôn mặt bầu bầu mộc mạc. Hai má hồng căng. Nụ cười tươi tắn hồn
nhiên như thân quen từ lâu: “Em tên Vân. Em nhìn thoáng
anh Trí biết ngay là em anh Khê. Vóc vạc y hệt, cao cao trắng trẻo, mặt dài, giọng
thanh nhỏ nhẻ như con gái!” Ông bố đột nhiên đưa mắt
nhìn ra ngõ xem có ai đang đi vào hay không, rồi hạ giọng tiếp lời con gái: “Ông cụ tôi sinh thời là thầy đồ, nên tôi cũng võ vẽ nho y lý
số. Rõ cám cảnh mấy cậu ấm lam lũ con cháu quan phủ quan tuần. Cậu Khê cậu Trí
gương mặt hao hao chữ giáp, nhưng hơi tóp, mờ một nét, nên đường khoa cử long
đong…”
Hôm sau, gà gáy lượt đầu, út
Vân đã dậy lục sục dưới bếp nấu cơm sáng cho Trí, kèm suất ăn trên đường là nắm
cơm mo cau to tướng. Lại dúi vào tay Trí gói khoai khô xéo đường phên- “em gửi cho anh Khê, món này anh ý khoái nhất”. Trí đi đường liên hương chạy ngang mấy xã vùng giữa huyện
Thọ Xuân, vượt sông Chu sang huyện Yên Định. Lại một thôi đường giăng ngang Yên
Định, xuống đò vượt sông Mã sang Vĩnh Lộc. Đường đi chếch phía dưới thành Tây
Giai kinh đô nhà Hồ, chạy sát mé trên vùng Sóc Sơn - Biện Thượng quê
gốc 8 đời chúa Trịnh. Xuyên làng Bồng Trung, vào xóm núi Đa Bút bằng con đường
độc đạo chìm nổi lập lờ vắt qua đồng chiêm nước oàm oạp mênh mông. Ngọn núi Đa
Bút này xưa kia là căn cứ kháng chiến của nghĩa quân Cần vương Tống Duy Tân.
Trên các bức tường rêu phong hai bên đường làng có rất nhiều khẩu hiệu kẻ vôi
nguệch ngoạc “Phóng tay phát động quần chúng- có
khổ nói khổ nông dân vùng lên”. Nhà nhà nhỏ
như bát úp lô xô. Chốc chốc lại một cái ngõ đá tảng xếp lởm khởm chạy ngược lên
sườn núi. Phía sau xa, trên cao, bát ngát rừng ổi, toàn ổi là ổi.
Xóm núi chỉ đủ học trò mở lớp một
đầu tiên sau hòa bình, dân góp gạo nuôi thầy. Không giáo viên nào ở huyện chịu
vào nơi heo hút. Nhờ vậy mới tới lượt Văn Khê. Năm ấy, anh Khê liều mạng ngược
vùng Thủy Tú kiếm cơm kiếm chữ. Xông vô trường tư Hoàng Văn Thụ, nộp
giấy khai sinh kèm lý lịch tự khai, xin học lớp 6. Lớp đủ cỡ tuổi. Có mấy cậu
nhỏ loắt choắt từ phố thị tản cư. Hàng chục chàng trai cao lộc ngộc, đã là anh
nhiêu (có vợ) anh cò (có con trai) hay anh hĩm (có con gái). Bữa đầu thầy ra
bài toán thử sức, Khê vụt giơ tay, nhanh nhẩu lên bảng, nhoáng cái giải xong.
Anh bạn Thụ ngồi bên khoái quá, liền rủ Khê về nhà chơi. Gia cảnh Thụ thường
thường bậc trung thôi, nhưng gia phong nền nã. Chỉ có hai con, là Thụ lớp 6 và
Vân lớp 4. Hấp dẫn Khê nhất là cây đàn banjo alto bóng nhoáng móc
đinh tựa vách gỗ. Thụ lấy đàn xuống phèng phèng bật bông, thật thà “tớ mới mua để tập, say như say thuốc lào”.
Khê nổi máu phô phang, liền đỡ cây đàn, khua khoắng vài bài nhạc hùng tráng rất
hợp với banjo alto như “Thủy quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” của Văn Cao. Lại trổ tài biểu diễn accord (hợp âm) tưng bừng
như một dàn hòa tấu nhiều loại đàn, nghe thoảng cả tiếng trống lung bung bung.
Cả nhà già trẻ quây lại nghe, phục lăn. Vân lí nhí nhắc anh Thụ đừng quên giờ
hướng dẫn em làm toán, bữa nay có hai bài rất khó. Thụ đáp tỉnh bơ: đặc cách
cho Vân thụ giáo thầy Khê giỏi toán nhất lớp anh đấy! Khê đâu có lép: thì em
gái giở vở ra. Cuối giờ dạy kèm, bé Vân hít hà “Anh Khê
giảng giải dễ hiểu hơn cả thầy giáo trường em”.
Chuyện sau đó tất nhiên phải thế. Ông
bà chủ bảo Khê thôi ở lại đây chứ đi mô nữa. Ở đây kèm thêm cho Thụ, kiêm chức
gia sư dạy Vân.
- Kiêm…“rể quý” nữa chứ!-Trí trêu anh- Rước nàng Vân về làm dâu Lê Khắc thì
quá đẹp.
- Còn lâu! Anh mới 20, còn Vân 17, cả hai
nghề ngỗng chưa vào đâu, gia cảnh lại cùng rối như canh hẹ thế này. Cơm chưa ăn
thì gạo còn đó, lo chi. Vả chăng, anh phải ý tứ giữ gìn, biết ơn nhà Vân cưu
mang, cho anh cuộc sống sướng như tiên…
Đó quả là những tháng ngày Văn Khê phỉ
chí. Học hành xuất sắc đến độ nhà trường phóng tay cho chàng trai 18 tuổi khôi
ngô cao lênh khênh học nhảy lên lớp 7. Vẫn ung dung ngang tầm với bọn “ma cũ”. Lại được bồi dưỡng kết nạp
vào chi đoàn thanh niên làm nòng cốt cho hiệu đoàn học sinh. Khê tham gia đội
văn nghệ của trường. Tung tẩy chơi bời. Chơi đây là chơi đàn. Rủ nhau lập ban
nhạc học đường, gom mấy cây đàn, hòa tấu giúp vui cho các đám cưới trong vùng.
Được chén no say, được biếu chút quà song hỷ. Vui nhất là được thỏa sức chơi
đàn. Ngày chủ nhật hòa nhạc suốt từ sáng tới tối, đêm về người lâng lâng tai
ong ong xập xình réo rắt không tài nào đi vào giấc ngủ sâu.
Ngày vui không mấy khi dài. Ập vào đất
Thanh trận bão phát động nông dân giảm tô giảm tức, đánh đổ bè lũ phản động. Có
tháng vài đêm nông dân tập trung đông nghịt ở bãi đấu “vùng
lên kể khổ, vạch tội địa chủ phú nông cường hào ác bá”.
Một số bà con bản tính thuần phác, ngày thì chia sẻ cho xóm giềng từng củ
khoai, bát nước, mà đêm tới, bị ép buộc, xúi giục, như quỷ ám, thoắt biến thành
con rối hung hãn tố điêu. Đấu tố, quy tội, rồi kết án tại chỗ, và thi hành án tử
hình tại chỗ! Thi thoảng ban đêm, đì đọp loạt súng người mình bắn người mình;
sáng ra, đó đây xì xào: ông X. trên huyện, ông Y. trên tỉnh tối qua bị trói gô
giải về, xử bắn rồi! Choáng váng lặng người.
Khê tắc lưỡi:
- Quê chúng mình nằm bên kia giới tuyến lại
hóa hay.
- Ơ, anh nói chi kỳ vậy.
- Anh nói thật. Nếu giới tuyến chia đôi hai
miền theo hiệp định Giơ-ne-vơ không phải là vĩ tuyến 17 mà dịch xuống vĩ tuyến
16, cả tỉnh Thừa Thiên thuộc về ta, thì sẽ xảy chuyện gì với nhà Lê Khắc? Không
bao giờ có chuyện “đặc cách”
cho Huế bỏ qua cải cách ruộng đất. Anh không sợ mất ruộng vườn. Chỉ e mất người.
Năm 45, nhờ Cụ Hồ nhân đức công tâm, quan lại chế độ cũ có tội to với dân tộc
thì xử trí nghiêm minh, còn những ai tội nhỏ thì khoan dung vận động ra làm việc
nước, trả đủ lương hưu, thậm chí lúc chết vợ con vẫn được tiền tuất! Còn nay ấy
à, hùa theo mấy lão yêu tinh bên tây bên tàu giật dây xúi bẩy, đánh đổ tuốt,
tiêu diệt cả cán bộ kháng chiến có công. Giả dụ làng quê Văn Xá phóng tay phát
động quần chúng, thì ắt anh em ta giơ đầu chịu báng. Ngay cả anh Điềm, anh Văn,
anh Trác công tác ngoài miền bắc, trên Bộ trên Khu cũng không yên đâu, nó lôi về
vu vạ là quốc dân đảng phản động trèo cao phá sâu, khó thoát “đòm,
đòm”!
- Khiếp! Ờ mà có lẽ thế thật. Em thấy tình
hình trong Nghệ An cũng y sì. Còn nhà anh Thụ thì sao, anh Khê?
Nhà Thụ ít ruộng, không phát
canh thu tô, không thuê mướn nhân công, cho vay nặng lãi, nhưng thời Pháp thuộc
ông bố có làm hương bạ, nên bị quy thành phần hào phú. Lo nơm nớp sắp tới cải
cách ruộng đất bị đôn lên thành phần địa chủ để đủ chỉ tiêu năm phần trăm mà
trên giao khoán cho “Đội cải cách”.
Không lý lẽ xin xỏ gì được đâu, “nhất Đội nhì trời” mà lại! Phòng xa không thừa, dù quý mến Khê đến mấy, cũng
phải đứt ruột cắt khoản “thuê thầy”. Sợ mai sau mang tiếng quan hệ với cậu giáo con quan lại
phong kiến thì càng nặng tội.
Khê cũng phải tỏ vẻ “dứt tình đôi bên cùng tầng lớp trên”,
chuyển đi ở nhờ nhà một bạn học thành phần trung nông. Nhờ chỗ ở thôi, còn cái
ăn tự lo. Túng thì tính. Khê bèn sắm bộ đồ cắt tóc. Đặt nhờ ghế “catoc” ở điếm canh đầu làng. Bọn
bạn thương tình, kéo tới ủng hộ “hi sinh cho tay kéo tập
việc mặc lòng tùng xẻo”. Nhưng rốt cuộc không ai bị cạo
gáy trắng hếu hoặc “úp lên đầu cái nồi méo xẹo”. Bàn tay con trai búp măng cầm đàn chuyển sang múa kéo,
tông đơ, dao cạo thành thạo không ngờ. Cắt đẹp, phóng tác nhiều kiểu tóc chiều
ý thích từng khách hàng. Lại lấy tiền công rẻ hơn hiệu cắt tóc ngoài chợ Cốc.
Nên khách phải xếp hàng! Mỗi ngày Khê cầm kéo lách cách một buổi cũng đủ sống để
tiếp tục học lên cấp 3.
Học hành không còn
hanh thông như trước, khi trận cuồng phong chỉnh đốn tổ chức kéo tới. Thanh
niên học sinh cải tạo tư tưởng củng cố lập trường giai cấp, vạch ranh giới bạn
thù. Lúc vào Đoàn, Khê đã chót nhỡ thành thật khai hết nhân thân. Bước vào chỉnh
huấn, lập tức bị phân biệt đối xử, xếp loại thanh niên cá biệt cần cảnh giác dè
chừng “tư tưởng dao động rơi rớt ảnh hưởng thành phần
gia đình quan lại phong kiến”. Dạo trước, Khê định cố gắng
học cho xong lớp 9 rồi chuyển lên trường dự bị đại học đang đóng dưới Thiệu
Hóa. Nhưng không khí đấu đá sùng sục nên chán. Tiện lúc thầy cũ được ty giáo dục
điều động làm cán bộ phụ trách huyện Vĩnh Lộc, lôi tuột Khê sang Đa Bút làm
giáo viên “nhân dân đài thọ”.
Thành cậu giáo rồi, Khê
tính chuyện liên lạc với gia đình. Mạ ở tận vùng biển xa xôi diệu vợi. Chỉ có mấy
em con Dì ở huyện bên. Giữa thời đấu tranh giai cấp sùng sục, Khê không dám chường
mặt về ngay, mà phải dò hỏi bạn bè nhà gần chỗ chị Kỳ. Ui chao, cả tỉnh Thanh
Hóa nơi nào cũng căng. Nghe nói chị Kỳ và chồng có tham gia công tác. Khê hi vọng
Duy, Kháng, Lượng mồ côi cha mẹ, là em nuôi của chị Kỳ, chắc không hề gì. Vậy
thì thôi, mình không nên chường mặt dây bẩn lý lịch các em…
- Dại gì- Khê phân bua- Sắp cải cách
ruộng đất rồi, còn khủng khiếp gấp mấy. Chưa biết rồi ai còn ai mất trong cơn động
địa kinh thiên sắp tới. Bọn em út sống với chị Kỳ tạm ổn. Còn việc Dì, trong bụng
anh nóng như lửa đốt. Anh tự mình nghĩ cách…
Thoáng ngần ngừ, rồi quả
quyết:
- Anh em ta thử cách này xem.
- Cách gì?
- Cầu cơ - Khê hạ giọng, nhìn trước nhìn
sau - em còn nhớ chứ, dạo mới tản cư ra Thanh Hóa, anh Kinh với mấy chị thỉnh
thoảng tổ chức phụ đồng cơ, sau phải thôi vì bị anh Văn phê phán mê tín dị đoan…Anh hằng tâm niệm cầu trời khấn phật Dì bình an trở về,
nhưng e không được. Vì nếu còn sống, Dì không đời nào bỏ bầy con bơ vơ đói
khát. Vậy anh em ta thử cố mời vong linh Dì về … Ở xóm
núi Đa Bút này có ông đồng rất cao tay cầu cơ gọi hồn. Năm ngoái bị nông hội đấu
một trận tơi bời. Phải nằm im thít. Nhưng ông ấy trọng lễ nghĩa, quý thầy giáo
lắm. Anh em ta vật nài, chắc ông giúp.
Quả nhiên ông đồng nhận lời. Bố trí
cuộc cầu cơ như họp “hội kín”
thời Tây. Phía sau làng, trên đường lên núi Đa Bút, có ngôi miếu hoang phế, dạo
trước dân tình đồn đại là đêm nào vong hồn quân Cần Vương của ngài Tống Duy Tân
cũng rậm rịch tập trận, văng vẳng tiếng hô xung phong, gọi hàng “hô-lê-manh” (giơ tay lên!). Dân làng
khiếp hãi, đêm không dám ngang qua. Thành ra vắng ngắt.
Chờ tới nửa đêm, cả làng chìm
trong giấc ngủ, ông đồng gầy như que củi ôm túi đồ nghề đưa Khê Trí mò lên miếu
hoang. Khép đôi cánh cửa gỗ lim bản lề lỏng lẻo, ông đồng cắm trên sàn xi măng
mốc meo hai ngọn nến hồng, trải một tấm bìa rộng màu xanh nhờn nhợt kẻ đỏ sậm
ngay ngắn đủ bộ chữ cái và các dấu thanh, các chữ số từ 0 tới 9 (Khê thì thào:
bàn cầu cơ đấy). Ông thắp hương, khấn lầm rầm, đoạn rón rén moi từ túi thổ cẩm
một miếng gỗ nâu sứt sẹo hình trái tim to bằng nửa bàn tay, kính cẩn đặt vừa
khít vào hình vẽ trái tim ở bàn cầu cơ (Khê lại thì thào: trái tim thiêng cắt từ
tấm ván thôi cải mả đấy!). Ba người ngồi xếp bằng tròn quanh bàn cơ. Ông đồng
đặt hờ ngón tay trỏ giữa trái tim thiêng, mắt nhắm nghiền. Bầu không khí nồng
khói hương thêm huyền bí khi tiếng cầu cơ rì rầm cất lên. Thoảng như hơi thở.
Nghe rõ làn gió núi lồng lộn ngoài cửa miếu. Tiếng người hay tiếng rừng khuya?
Gió
hí hút sương khuya mờ mịt
Hồn
lang thang hồn biết về đâu
Vật
vờ hẻm núi
Trôi
nổi chân cầu
Thỉnh
hồn linh nhập trao câu chân tình…
Hết bài cầu cơ 4 đoạn 5
câu, ông đồng khấn lại từ đầu. Tới lần thứ ba thì Trí đã thuộc, lầm rầm đọc
theo. Khê chắp tay trước ngực, kêu khe khẽ “Dì ơi, Dì
khôn thiêng Dì về với chúng con…”
Giữa lúc gần như mê mụ
đi, Trí chợt rùng mình. Miếng gỗ thoắt động đậy, nhúc nhích chầm chậm rồi vụt
lướt như bay trên bàn cơ, nghiêng bên phải, ngả bên trái. Khê trấn tĩnh sớm
hơn, lễ phép:
- Dạ thưa, chào hồn đã tới. Thưa, hồn
là nam hay nữ ạ? Bao nhiêu tuổi ạ? Xin hồn cho biết danh tính.
Miếng gỗ lướt nhanh. Ngón tay ông đồng
bị kéo theo, có lúc tuột lại sau. Phần mũi trái tim như múa lượn, thoăn thoắt sục
tìm các chữ cái, dấu thanh, chữ số. Trí lẩm nhẩm ghép vần:
- Nữ. 41. Nguyễn Thị Điện.
Khê không nén được tiếng
kêu “Dì!” rồi hổn hển:
- Dì ơi, Dì về một mình thôi à?
- Có cả Ịn nữa. Em Ịn ngồi ôm
anh Ặng đó.
Văn Trí dựng tóc gáy.
Không hề sợ. Mà xúc động cực điểm. Trời ơi. Vong linh em trai tôi đang ôm tôi. Ịn
là tên gọi thời thơ ấu của Lê Khắc Khôi và Ặng chính là Văn Trí. Sự tích mười
năm xưa cũ, từ ngày đi tản cư không ai ôn lại. Thuở chưa đầy tuổi tôi, hễ giận
dỗi là nhóc Trí kêu khóc ngằn ngặt oẳng oẳng như chó con chưa mở mắt. Mạ nói:
thằng Trí cứ khóc nấc ặng ặng, thôi thì các anh chị kêu hắn bằng thằng Ặng! Dạo
đó cả nhà đang ở phủ lỵ Tuyên Hóa, đêm mưa quanh nhà dậy tiếng ễnh ương. Khôi
(đẻ sau Trí 3 tháng) tò mò bập bẹ bắt chước tiếng ễnh ương “uệnh-oạng
uệnh-oạng”. Dì cười bảo thôi ta kêu thằng Khôi bằng Ịn
để hai anh em cặp đôi thành tiếng kêu ễnh ương Ặng Ịn uệnh oạng. Khôi ơi, oan ức
cho em, đau buồn cho anh. Hai con ễnh ương Ặng Ịn chúng mình cầm tinh trâu vàng
Đinh Sửu cùng chung phước mệnh, mà sao em Ịn nỡ về đất khi chưa kịp thành
niên, còn lại một mình anh Ặng tiếng kêu thất thanh vô nghĩa.
Dường như âm dương không còn
cách biệt. Miếu hoang đêm khuya không còn lạnh lẽo. Ba bốn mẹ con hàn huyên.
Ông đồng mặt như nặn bằng sáp, mắt nhắm nghiền, ngón tay trỏ đờ đẫn phó mặc hồn
thiêng lôi kéo. Khê sụt sịt hỏi đi hỏi lại Dì ơi em ơi cơn cớ làm sao. Chắp nối
từng câu trả lời rời rạc, Khê và Trí mường tượng sự tình hai mẹ con đi tới cái
chết. Trèo đèo vượt núi cực không thể tả. Gặp trạm gác chẳng biết là ta hay địch,
cứ vòng tránh cái đã. Nhiều bữa đào củ rừng ăn sống thay cơm, say sắn nôn thốc
tháo đứ đừ. Hai mẹ con tơi tả về tới triền núi Văn Xá, nhìn xuống, ga Văn
Xá hiện rõ mồn một. Liều xông vào trạm du kích gác. Xin về làng Văn
Xá Đông gặp anh trai, về làng Liễu Cốc Thượng thăm mẹ già. Người ta bảo bà ngoại
Kỳ Vân chết lâu rồi, ở Huế chỉ còn cậu Nguyễn Hữu Điền em ruột Dì là sĩ quan ngụy
hai bông mai. Và anh Lê Khắc Duyệt làm quan to cảnh sát, quyền thế như trời. Rồi
quát nạt: ai cho về mà về, về tiếp tay giặc Pháp à? Thôi quay ra Thanh Hóa, đi
kháng chiến tới cùng! Còn nếu cứ đòi về làng thì cấp huyện Hương Trà không có
quyền. Lên xin ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh Thừa Thiên, họ cho thì cho. Ủy
ban tỉnh đóng tận Phú Lộc. Hai cái bóng vật vờ dốc toàn lực trèo núi vòng vèo
ba ngày nữa. Vừa tới nơi thì nằm vật ra. Dì cấm khẩu, tắt thở. Khôi nổi cơn
điên chạy lung tung gào khóc “mẹ tui chết oan, mẹ con
tui oan…” Rồi cũng gục chết trên bờ ruộng. Vong hồn nức
nở. Dì giận lắm, Dì hận lắm. Cái ông cán bộ lập trường cứng đơ bất cận nhân
tình ngăn Dì về làng lại là một người họ hàng Lê Khắc…
Khê hỏi dồn: “Dì
ơi Dì chết ngày mô…, à mà Dì nằm chỗ nào để rồi bọn con
đưa Dì về gần Cậu…” Chưa kịp đôi hồi thì gà dưới làng
xao xác gáy. Ông đồng sực tỉnh, lật đật bảo đi về mau mau kẻo người kiếm củi
lên núi sớm bắt gặp thì khốn. Tối mai ta làm tiếp.
Nhưng cái “tối
mai” ấy không bao giờ có. Hôm sau, ủy ban xã Vĩnh Thịnh
(gồm làng Bồng và làng Đa Bút huyện Vĩnh Lộc) triệu tập tất cả cán bộ giáo viên
đi họp chuẩn bị đón đội cải cách ruộng đất. Rồi ông đồng bị quy phản động, đi cải
tạo. Khai giảng năm học mới, Văn Khê được bổ dụng chính thức, gia nhập đoàn
công tác ánh sáng văn hóa lên vùng cao cực tây biên giới. Một cơ duyên với Văn
Trí: Đa Bút cần thầy! Thanh Hóa đang đói, giáo sinh tốt nghiệp sầy vẩy
mới kiếm nổi một suất dạy học “nhân dân đài thọ”. Trí vội xin thế chỗ anh mình. Xong ngay, nhờ có chị Triêm
ngỏ lời gửi gắm với anh Mận, cán bộ tổ chức Ty giáo dục.
Tuy chỉ dạy một học kỳ ở huyện Vĩnh Lộc
rồi xin chuyển về huyện Hoằng Hóa cho gần Mạ, nhưng Trí suốt đời nhớ ơn làng
núi Đa Bút. Mấy tháng ở đó, Trí cố tìm nhưng không moi được tin tức ông thầy phụ
đồng cơ trong trại cải tạo.
Những năm sau, tất thảy mọi người
bị cuốn vào hàng núi công việc dồn dập: thổ cải, sửa sai, đánh Nhân văn gia phẩm,
chiến tranh chống Mỹ, thống nhất đất nước… Việc xác
minh tin tức và tìm di cốt của Dì thành ra dằng dai chờ mãi tới hơn bốn chục
năm sau.
Ấy là
năm 1995. Dòng họ Lê Khắc mở đợt quy tập và tôn tạo lăng mộ tổ tiên ông bà ở
làng Văn Xá.
Thời hậu chiến, bà
con Lê Khắc đã tứ tán khắp nơi, cư ngụ rải rác hàng chục thành phố lớn trên thế
giới. Đông nhất ở Sài Gòn, ngót nghét nghìn người. Chỉ tính riêng con cháu của
8 anh chị em: Lê Khắc Duyệt, Điềm, Bích Hà, Hương Bình, Thiếu Mộc, Trí, Hân, Lượng… cũng trăm nhân khẩu!
Từ năm 1975, ai quan tâm
tới số phận của Dì đều đã đọc hồi ký của anh Lê Khắc Duyệt kể chuyện giữa thập
niên 1950 anh cho người thân tín về huyện Phú Lộc phía nam Huế để tìm Dì. Biết
Dì không còn nữa. Biết cả chuyện người bà con nguyên tắc máy móc chặn Dì lại ở
cửa ngõ Văn Xá. Gia đình người ấy cũng đang sống ở Sài Gòn. Ban đầu chị Bình
không thèm bắt chuyện. Vẫn nuôi hận. Sau phải nhờ chị Huyền là vợ anh Điềm hòa
giải.
Việc đi tìm hài cốt
của Dì may mắn được các nhà ngoại cảm trợ giúp đắc lực. Bấy giờ, Bộ đã điều động
Văn Trí từ Hà Nội vào Sài Gòn, kéo Đỗ Quốc Anh ở Công đoàn giáo dục Việt Nam
sang, cùng Nguyễn Vũ Tiềm là phóng viên thường trú và Lê Khắc Hân từ Sở Giáo dục
thành phố lên, 4 anh em chung tay tạo lập tuần san Thế Giới Mới. Ngay từ buổi
sơ khai, chuyên mục “Vào ngưỡng cửa của thế giới
chưa biết” do Nguyễn Vũ Tiềm khởi xướng đã được
đông đảo bạn đọc tán thưởng. Hai nhà ngoại cảm đầu tiên tới với Thế Giới Mới là
Đỗ Bá Hiệp và Phan Bích Hằng. Cô Hằng, sau này là nhà ngoại cảm gọi hồn siêu việt,
nhưng năm ấy đang dọ dẫm bước vào thế giới tâm linh. Anh Hiệp thì tên tuổi đã
vang dậy khắp nước nhờ năng lực thấu thị kỳ bí. Văn Trí sắp xếp cho chị Hương
Bình trực tiếp gặp các nhà ngoại cảm. Chỉ với tấm chân dung cũ của Dì và vài
thông tin sơ sài, Đỗ Bá Hiệp đã xác định đúng hướng tìm là phía nam Huế. Vừa
hay, anh Hồ Trác nghỉ hưu, thôi giữ chức phó tổng giám đốc Tổng công
ty Bảo hiểm Việt Nam kiêm giám đốc Công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh. Anh
nhận lãnh sứ mệnh “trưởng đoàn”
tổ chức chuyến đi Huế tìm hài cốt mẹ vợ. Anh Trác chị Bình cùng Đỗ Bá Hiệp lặn
ngòi ngoi nước qua bao cánh ruộng đồng chiêm suốt một ngày thì tìm đúng chỗ.
Đào được di cốt, cầm lên tay hàm răng có chiếc răng cửa chìa ra, chị Bình kêu to:
“Dì đây rồi!” Anh Trác ôm khư
khư chiếc túi hài cốt trên xe từ Phú Lộc về Văn Xá.
Giờ khắc thiêng
liêng mừng Dì sau nửa thế kỷ tha hương về giữa lòng gia tộc, có mặt hầu đủ đại
diện con cháu của 3 bà mẹ. Con cháu anh Duyệt, anh Điềm, vợ chồng Trí, vợ chồng
Hân từ Sài Gòn ra. Chị Xuân Triêm từ Hà Nội vào. Vợ chồng em Kháng tới từ Thanh
Hóa - Lê Khắc Kháng, sĩ quan quân đội đã xuất ngũ về làng làm bí thư đảng ủy xã
Thọ Cường, nức nở mấy vần: “Cúi mình con thắp nén
nhang/ Cắm lên mồ mẹ, từng hàng lệ rơi/ Tóc con giờ bạc trắng rồi/ Ngồi bên mồ
mẹ tưởng thời ấu thơ…Về quê con đỡ cô đơn/ Nghe trong
hương đất có hồn mẹ cha… Tất nhiên không thể thiếu
chị Kỳ, người con nuôi hiếu thảo, nghẹn ngào “gặp lại” Dì. Đại gia đình Lê Khắc già trẻ bốn mươi người quây quần
trong nghĩa trang gia tộc. Mộ Dì ấm áp nằm giữa mộ Cậu và mộ Mạ đời xưa. Vong
linh người con gái út cưng quý của cụ Thượng Liễu Cốc hẳn đã mát lòng, nguôi hận.
Hương thơm làng Văn từng bó lớn thắp lên, vừa cắm xuống là đùng đùng bốc cháy,
ù ù hồ hởi trong gió núi quê hương.
Tới tầm quá trưa, khu
Lăng mộ trở lại tĩnh lặng, chỉ còn tiếng phi lao xao xuyến vi vu. Người coi
nghĩa trang kể rằng vài hôm sau đó thi thoảng vẫn có người về thắp hương trên mộ
Dì. Coi bộ không phải người làng. Mà ở đâu xa. Không biết Nam ra, Bắc
vào hay tận nước Mỹ nước Úc về. Đặc biệt, có hai ông già đi xe hơi tới. Một tầm
thước, một cao cao. Nhưng dáng dấp đẹp lão như nhau, tóc bạc như nhau và râu
cũng bạc như nhau. Lúc thúc dắt nhau leo lên leo xuống các bờ đất đi khắp nghĩa
trang thắp hương suốt lượt mấy chục ngôi mộ lớn nhỏ. Rồi ngồi bệt bên mô đất cửa
Lăng, lầm rầm trò chuyện. Hương tàn rồi, người vẫn ngồi. Mãi nhá nhem tối mới bần
thần ra xe. Hỏi tên chi, chỉ nói con cháu Lê Khắc. Văn Trí nghe kể, đoán ngay
là hai ông anh họ vô cùng thân thiết, anh Khắc Luân và anh Văn Khê.
Chương 4- Dấn thân
Văn Khê đặt chân
lên rẻo cao Mường Tè tháng 11 năm 1954.
Nơi tận cùng miền
Tây Bắc, núi rừng trùng điệp, biên giới ba nước Việt-Trung-Lào, “một con gà gáy ba nước đều nghe”.
Đoàn ánh sáng văn
hóa lên Tây Bắc năm ấy có 16 giáo viên trẻ ứng với con số 16 châu đang gấp rút
chuẩn bị thành lập Khu tự trị Thái Mèo. “Đã xung phong
thì xung phong tới chốn”. Nghĩ thế, trong cuộc họp phân
công ở thủ phủ khu tự trị là châu Thuận, Văn Khê nằn nì xin được về vùng rẻo
cao xa nhất: châu Mường Tè.
Anh cán bộ cơ sở từ Mường Tè về
Thuận châu trực tiếp đón nhận nhân lực bổ sung, dáng vẻ phong trần, cũng còn rất
trẻ, ngó bộ chỉ hơn Khê vài ba tuổi. Khê nhìn như nuốt lấy anh. Ngờ ngợ. Một
vóc dáng lực sĩ đối cực với thư sinh Khê. Ngực to bè. Da ngăm ngăm. Mặt vuông.
Cằm bạnh. À, hình như thiếu…cái đầu trọc lóc. Hai bên
chăm chăm nhận dạng rồi cùng lúc hét váng lên:
- Anh Hải-rum-ba!
- Thằng Khê-an-tô!
Rồi lao vào nhau, ôm chầm.
Mới thế mà đã trải qua hai năm
với bao biến cố. Khởi đầu từ cuộc giao lưu lửa trại liên hoan văn nghệ chào năm
mới 1953 giữa hiệu đoàn học sinh Đào Duy Từ Thanh Hóa với học viên trường sĩ
quan lục quân - anh nào anh nấy đầu cạo trọc lóc như ông sư. Tiếp đó anh Vũ Hải
nhảy ra, khua guitare theo điệu Rumba giật giật nhạc phẩm “Lửa rừng đêm” của nhạc sĩ Nguyễn Hữu
Ba: … Rừng càng giá, thân này nào sá sương khuya lạnh
lùng/ lửa càng bùng cháy nung hờn núi sông. Phía học sinh, Văn Khê “đáp lời”, độc tấu banjo alto, quậy
tưng với liên khúc bộ đội cụ Hồ “Chiến sĩ Việt Nam-Không
quân Việt Nam-Hải quân Việt Nam-Kỵ binh Việt Nam”.
Tàn lửa trại, xoắn xuýt Hải-rum-ba và Khê-an-tô. Hẹn ngày tái ngộ.
Chính là hôm nay đây. Vũ Hải năm 1953 ra
trường chiến đấu ở liên khu Ba, được điều lên mặt trận Điện Biên Phủ. Sau đại
thắng vào Mường Tè tiễu phỉ. Rồi cắm bản vận động định cư định canh kết hợp xây
dựng an ninh quốc phòng vùng biên ải. Anh mừng húm thấy Khê mang theo cây đàn.
Trong cuộc vận động dân tộc vùng cao bao đời yêu thích múa hát, thì cây alto của
Khê là vũ khí hiệu lực không kém cây tiểu liên báng gập của Hải!
- Vẫn cây đàn năm xưa à? Sao năm đó
em bảo là mượn của bạn?
- Người ấy đã tặng em làm kỷ niệm.
Vật kỷ niệm đã thành bảo vật!
Vật kỷ niệm đã thành bảo vật!
Dạo Khê đang
dự lớp huấn luyện cấp tốc về sư phạm và dân vận, Thụ mang đàn tới - cây banjo
alto không trần trụi như ngày trước mà đã mặc áo mới hẳn hoi. Thụ nói vắn tắt:
nhà Thụ chắc chắn lên thành phần địa chủ trong đợt cải cách ruộng đất đang ập tới.
Cây đàn này anh em Thụ Vân gửi Khê giữ. Để mãi nhớ nhau. “Thư” của em Vân gửi cho Khê chỉ có hai chữ nhỏ xíu thêu bằng chỉ
màu xanh thẫm trên bao đàn: Suối Mây. Khê sững sờ mở từng cái cúc nhựa màu
huyết dụ, nhận ra ngay bao đàn cắt may từ tấm áo nâu non cô Vân tuổi 16 thường
mặc khi ngồi học thêm với Khê. Khê cởi bao, nâng đàn ngang ngực. Hút lấy ánh mắt,
vẫn hai chữ Suối Mây chìm nổi trên cần đàn được bàn tay con gái tỉ mẩn xăm bằng
kim khâu với mực tàu. Vẻn vẹn hai chữ, đinh ninh khắc ghi hẹn ước hôm nào.
Vân xinh, hiền, có học, được tôn là hoa khôi miền Hạ Lam Kinh, bao đám khá giả
quanh vùng nhòm ngó mối mai. Vân ơi, anh lên biên ải rừng thẳm núi cao đâu biết
ngày về. Con gái có thì. Thôi, em cứ chọn lấy một chàng trai ưng ý. Không, em
không ưng ai, em chờ anh.
Khê nhận lệnh xuất phát lên Tây
Bắc cùng lúc nhận được tin dữ: Thụ không chịu nhục đấu tố, đã trốn ra Hải Phòng
xuống tàu vào Nam. Khê không kịp quay về Thọ Xuân xem gia đình Vân giờ ra
sao.
- Thế là anh em mình cùng
hoàn cảnh ...
Anh Hải chia sẻ. Rồi rút
ví da, moi từ ngăn trong cùng một gói nhỏ dèn dẹt bằng hai ngón tay. Giở lớp giấy
tráng bạc vỏ bao thuốc lá: tấm ảnh bán thân một cô gái tóc dài, mắt lá răm, môi
mím bướng bỉnh. “Na, vợ chưa cưới của anh. Đang học lớp
đệ tứ ở khu Ba. Hẹn nhau: hai năm nữa anh về xuôi thành hôn. Tạm gác chuyện
tình. Bây giờ là lúc đất nước gọi trai tráng chúng mình dấn thân.”
Khê được phát áo trấn thủ, chăn
trấn thủ như tiêu chuẩn bộ đội biên phòng. Lại được tạm ứng 2 tháng lương. Khê
rủ anh Hải ra phố Thuận lùng tìm bằng được 2 bộ dây đàn dự trữ chính hiệu
Argentine. Hải la cà rất lâu ở chợ phiên, len lách giữa ngầy ngật cơ man gái
Thái, Mèo, Dao súng sính váy áo sặc sỡ, tranh mua từng cuộn chỉ thêu đủ màu.
- Hàng độc đó! Với người Hà Nhì
biên ải thì hai cái cổ trai trẻ chúng mình bạnh ra thuyết phục tới khản đặc
cũng không bằng trao tặng cô nàng nửa cuộn chỉ thêu!
Khê liền vỗ vỗ vào cái ba lô đã
căng phồng:
- Vậy lên trên đó anh “chuyên trị” phái nữ nhé. Phái nam
dành cho em. Đồ nghề của em đây, bộ đồ cắt tóc dao kéo tông đơ của thợ cạo siêu
đẳng!
Hai anh em ngồi nhờ ô tô
quân sự vượt đèo cao nối tiếp đèo cao ròng rã một ngày thì lên tới Mường Lay. Từ
đây chỉ còn đường núi cho ngựa thồ.
6 ngày hành quân
lên miền ba biên giới đối với Khê tác dụng như một đợt tập trung 6 tháng rèn
luyện thể lực và nghị lực.
Ngày thứ nhất, 5/11. Mờ
sáng dậy nấu cơm, phần ăn ngay phần nắm mang theo. Vượt sông chính chỗ ngã tư
dòng Đà hội lưu với sông Nậm Na và suối Nậm Lay. Lòng sông mở mênh mang, nước
ào ào réo lên thích thú.
Con đường đá gồ ghề chênh vênh
lượn theo triền núi ven sông Đà. Con sông hung dữ như lẽo đẽo bám theo chân,
réo gào dậm dọa, chờ chực người hay ngựa sẩy chân lăn xuống là cuốn phăng. Qua
Nậm Ty, Nậm Gìòn. Ngủ bản Nậm Nhùn.
Ngày thứ hai, 6/11. Qua Nậm Hàng, đường
đi chếch dần sang phải, tách khỏi con sông Đà. Leo dốc Nậm Cày khá cao. Mồm mũi
tranh nhau thở. Leo tới đỉnh, ngồi nghỉ bên cây gỗ vạt vỏ chôn làm cột mốc: cây
số 37. Sau lưng là châu Mường Lay, trước mặt là châu Mường Tè. Đoạn đường
đổ dốc mới lắm vắt chứ. Vắt ngo ngoe dựng tua tủa trên các lớp lá mục. Chạy!
Khê nhảy loi choi từng quãng ngắn, hễ gặp tảng đá mồ côi ven đường là nhảy vội
lên, gỡ vắt. Hải thì sải từng bước dài, chốc chốc lại ngó nghiêng xuống chân,
cong ngón tay búng một phát, con vắt chưa kịp hút máu bắn vọt ra xa. Y như búng
ghi ta!
Ngày thứ ba, 7/11. Gà gáy, vục dậy,
ăn, lên đường trời còn tối mò. Hôm nay vượt dốc chết ngựa Mường
Mô. Dốc gần như dựng đứng, gót chân người đi trước hất ngang trán người
sau. Nhiều chỗ phải bò bốn chân. Mệt đứt hơi. Từng có ngựa thồ leo tới đỉnh dốc
này thì kiệt sức lăn quay sùi bọt mép. Thành tên dốc chết ngựa..
“Khắc
đi khắc tới”. Rồi Khê cũng lết tới đỉnh. Ngồi bệt lên cỏ,
dốc bi đông nước tu một hơi. Hải rút que xâu dép bằng thép không rỉ ra, chỉnh lại
bộ quai của cả hai đôi dép cao su đã lỏng lẻo sau mấy ngày trèo núi. Anh có cả
một cuộn quai dép dự phòng. Rút kinh nghiệm từ năm ngoái, xuống bản, giữa đường
đứt quai, đành bỏ đôi dép lại bên đường, hôm sau quay về nhặt lên. Khê ngạc
nhiên: để bên đường cả ngày mà vẫn y nguyên? Chứ sao. Đồng bào miền núi rất thật
thà, cái gì không phải của mình thì không lấy. Họ lý sự rằng cho nhau một con
trâu cũng không tiếc, mượn nhau nửa đấu ngô cũng phải trả (Khê cười trong bụng:
hãy đợi đấy, sau này người miền xuôi kéo lên đông đông xem sao!). Em ạ, thêm
vào đó là niềm tin của bà con cho rằng miền rừng chỗ nào cũng có ma. Ma suối.
Ma núi. Trong nhà là ma xó. Có ma xó thật à. Chẳng biết. Nhưng anh đã trải nghiệm
một lần, khi xuống bản. Vừa đi hết cánh rừng, bắt gặp một cái quán chỉ bày độc
một mặt hàng vài chục tấm mía xếp trên sàn nứa. Cạnh đó là một cái bát
làm bằng ống vầu bên trong láo nháo mấy tờ tiền ngân hàng. Không thấy
người bán quán. Chắc một kiểu quán tự giác đây. Đang khát nước, anh lấy đại một
tấm mía, đưa lên miệng, chưa kịp tước vỏ, thì nghe thoảng như tiếng ai đó đếm: một.
Anh nghĩ mình tưởng tượng ra nên bình thản nhai hết tấm mía. Nhặt tấm
khác lên, lại nghe đếm rành rọt: hai. Anh vội đặt một tay lên báng
súng, đi quanh quán, ngó dáo dác xem ai đếm. Lặng như tờ. Cũng hơi rợn, anh
quay lại, rút sẵn tờ giấy bạc cầm ở tay, rồi nhặt hú họa một tấm mía nữa. Tiếng
đếm lần này có vẻ gắt gao hơn: ba. Thế là anh hấp tấp đặt trả hai tấm
mía chưa tước vỏ, dúi tiền vào bát vầu, phóng một mạch về bản.
Đứng ở đỉnh dốc Mường Mô
đã nhìn thấy Mường Bum nhà sàn san sát. Cơ quan Châu ủy hiện đóng tại đó. Mường
Tè mới được giải phóng hoàn toàn tháng 5-1954. Cho tới lúc đó, ở toàn châu, chỉ
Mường Bum có trường học gồm 1 lớp Vỡ lòng và 1 lớp Một với tổng số chưa đầy 30
học sinh con nhà phìa tạo. Ngay cả thống quán, tạo bản cũng còn mù chữ!
Ngày thứ tư, 8/1. Qua Nậm Cắn,
con đường lại chếch dần sang phía trái. Vượt dốc Trung Hầu, mừng rỡ gặp lại con
sông Đà cuồn cuộn, thuyền độc mộc lao vun vút giữa hai bờ vách đá. Qua bản Nậm
Pục xinh đẹp lơ thơ mươi nóc nhà bên rừng ổi gợi nhớ làng Đa Bút xứ Thanh thân
yêu.
Vượt sông Đà sang Nậm Khao. Hôm
kia ở Mường Lay, là vượt từ hữu ngạn sang tả ngạn. Hôm nay quay về hữu ngạn.
Vui gặp cố nhân, sông Đà thoắt đằm tính, dịu dàng. Mấy chiếc thuyển đuôi én nằm
ghếch mũi lên dải cát vàng mịn.
Ngày thứ năm, 9/11. Đi đường thủy. Bản
Nậm Khao cử người chống thuyền đưa cán bộ ngược sông Đà. Ba chàng trai vạm vỡ
dân tộc Nhắng hò hét í ới. Ngược ghềnh, thuyền lắc điên đảo, người như hạt gạo
quăng quật trên mặt sàng. Khúc sông nào cạn thì cánh chân sào nhảy ào xuống nước,
đẩy thuyền băng băng.
Ngày thứ sáu, 10/11. Nhắm đích cuối:
bản Pá Chải chỏm địa đầu ba biên giới. Thử thách đầu tiên là cánh rừng nứa “chín cây số vắt”. Hai anh em “chạy vắt” hớt hải như bị voi đuổi.
Thoát khỏi rừng nứa mới đứng lại. Sắp tới cổng trời. Nhìn xuống, vẫn vực sâu
hun hút, rờn rợn âm ty. Nhìn lên, mây trắng quấn đỉnh núi xanh, tưởng như đó là
tiên giới.
Bản Pá Chải có 19 nóc nhà Hà Nhì cất
men triền núi. Tộc người này cư trú rải rác rẻo cao biên giới Lai Châu và Lào
Cai, tổng số mươi ngàn. Dân bản bao đời du canh du cư. Hải vận
động bà con định cư ở triền núi Pá Chải này mới được nửa năm. Gần như cả bản ùa
ra đón cán bộ. Tíu tít ríu ran. Người giằng ba lô, người gỡ ruột tượng. Không
ai đụng cây tiểu liên. Một cô bé gầy nhẳng có hai ống tay áo thêu hoa văn sặc sỡ
sán lại rụt rè sờ nắn cây đàn. Mấy ông già hốc hác vuốt ve hai cánh tay cơ
bắp cuồn cuộn của Hải, giọng khàn khàn nhắc đi nhắc lại: A lố, i khá xì
nha, i khá mừ… rồi nước mắt rơm rớm. Anh ấy mới xa
bản chừng nửa tháng mà bà con nhớ thương đến thế.
Khê và Hải vào nhà trưởng bản Cheng Pố
Hừ. Nhà ba gian. Tường đất đắp dày tới hai gang tay, bám đầy bồ hóng. Mấy nhà
bên rủ nhau bê rá mây đựng cơm tới đãi khách. Đưa mỗi người một cái gọi là bát
sứt sẹo, giục “chà á hồ” (ăn
cơm đi). Làm theo Hải, Khê thử nếm một miếng nhờ nhờ xám đen. Vội mím chặt môi.
Cơm gì đắng nghét. Anh Hải bảo khẽ: độn củ nâu đấy, em chưa quen khó nuốt nổi.
Năm qua Pá Chải mất mùa. Dân ăn độn củ nâu. Củ nâu gọt vỏ, ngâm nước suối, xắt
lát hoặc giã nhỏ, lại ngâm nước thật lâu, xong phơi khô để dành. Thế mà ăn vẫn
chát xít, ram ráp, nghẹn bứ ở cổ.
… Văn Khê làm ánh
sáng văn hóa, tức là bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan, vệ sinh phòng bệnh…, đủ cả, nhưng việc lớn nhất là xóa mù chữ cho độ tuổi từ 7
tới 25. Chia lớp theo độ tuổi. Lớp thiếu nhi 12 em, nhỏ nhất, lùn như cái nấm,
là chú bé sún răng Pố Xá. Lớp thanh niên 7 nam và 1 nữ - là Pờ Mò Nu, cái cô
gái tò mò sờ cây đàn hôm đón Hải Khê.
Mỗi ngày chỉ học văn hóa hai giờ rồi
Khê vào từng nhà cắt tóc cho người lớn, trẻ em, bày cách vệ sinh nhà cửa, rửa
chén bát, giặt áo quần. Tối tối tụ tập múa hát, thầy trò rủ nhau “cá nhe nhe” (múa xòe). Sau ba
tháng, thầy đã thạo tiếng Hà Nhì, trò đã hiểu bài giảng bằng tiếng phổ thông. Học
hết bảng chữ cái và con số. Bắt đầu tập ghép vần, làm toán. Không một học sinh
nào bỏ lớp.
Sửa soạn vụ lúa nương. Lác đác mưa
vào mùa. Khê chiều nào cũng lên nương, luân phiên mỗi ngày làm với một nhà. Phì
Chừ, chàng trai lông mày đen nhánh, mũi thẳng, mắt sáng, nhanh nhẩu tháo vát nhất
lớp, cùng bé sún Pố Xá bám theo hộ tống thầy Khê như hình với bóng. Mỗi đứa đeo
một con dao đi rừng “lỡ đụng gấu thì khắc
đánh gấu cho thầy chạy!”.
Mùa mưa ai nấy bận tối mắt. Được
cái no hơn. Rau rừng nhiều vô kể. Các loại cá, mùa khô chui rúc ở hang động,
mùa mưa theo nước lũ tràn về quẫy đùng đùng dưới suối. Ngà-bù là “cá chúa”, có con nặng chục ký, thân
có sọc vàng. Bọn trẻ có cá ngon là mang tới cho thầy. Nên Pố Xá thường la cà chỗ
thầy, xin ruột cá về nuôi chú quạ con mà Pố Xá vớ được bữa gió lốc cuốn từ cánh
rừng nào rơi xuống đám cỏ tranh. Đút ruột cá, quạ con ăn thun thút. Quạ nhốt lồng
tre, Pố Xá đi đâu cũng xách theo. Thử thả ra, nó chỉ quanh quẩn bên người. Quạ
bay lên mái nhà, Pố Xá chúm môi gọi là sà xuống, quấn quít. Khê lạ quá: ai mà
nuôi quạ. Ở miền xuôi, chỉ nuôi khướu, yểng, họa mi, cu gáy. Trẻ con thì nuôi
chim sáo, kỳ khu tập cho sáo nói. Hễ thấy quạ, ai nấy xua đuổi ồi ồi như đuổi tà,
sợ quạ kêu báo điềm xúi quẩy.
Chi đoàn thanh niên Pá Chải
thành lập, Khê làm bí thư, Phì Chừ phó bí thư, Pờ Mò Nu ủy viên chấp hành. Cô học
sinh Hà Nhì lớn phổng trông thấy. Không còn bóng dáng cô bé gầy nhẳng ngày nào
rụt rè sờ cây đàn an-tô. Năm ấy Pá Chải được mùa cả lúa nương và đậu tương. No
đủ. Người người tươi tắn sởn sơ. Pờ Mò Nu má hồng táo chín. Ngực tròn căng. Đôi
chân thon dài leo núi thoăn thoắt.
Mùa tỏ tình giao duyên tới
rồi. Hai anh em Hải Khê lại ngay ngáy lo hủ tục tảo hôn tác quái. Dân tộc Hà
Nhì suốt đời quanh quẩn trên đỉnh núi chơ vơ. Đói rét, bệnh tật hoành hành. Người
ốm chết nhiều hơn trẻ sinh ra, số dân ngày càng sụt giảm. Nên cực kỳ coi trọng
sinh con đẻ cháu. Trải bao thế hệ đã thành lệ, người Hà Nhì, gái cũng như trai, xe-thì-khụ (12
tuổi) đã được a-to a-má (cha mẹ) chỉ bày cung cách làm khà-mì
khà-chí (vợ chồng). Con gái khẳng khiu, kệ, cập tuổi xe-thì là bắt
ngủ riêng gian buồng bên chái nhà, liếp nứa he hé ngóng bạn tình. Con trai còi
cọc đêm đêm mò mẫm ngoài sân, cái giọng chưa vỡ eo éo hát gợi tình: “Già mì a nhí đu lá chồ ế/ sò lè á phá chò chi mà khà/ đu lá
chò/ cá hô à mí/ già cồ é sò…” (Em gái ơi ra đây, không
được ở trong nhà đâu, ra đây đi. Ngày xưa còn bé chúng ta đã hẹn nhau rồi…) Phấp phỏng chờ. Cái bụng con gái lùm lùm là loan tin
cho cả bản mừng vui hể hả. Cưới nhau lúc nào cũng được. Cốt phải mang
thai. Năm ngoái, Pá Chải vừa định cư là anh Hải họp ngay dân bản vận động chống
tảo hôn. Giảng giải cặn kẽ rằng đừng ép uổng bọn trẻ sinh nở quá sớm, tai hại mọi
bề, mẹ héo mòn, con sài đẹn, đẻ được mà không nuôi được. Nhưng không ai nghe
theo. Người già nệ vào cái lý tự ngàn xưa: mà lùy số-già mà cự, con
trai con gái không ngủ với nhau thì tộc người Hà Nhì ta không sinh sôi được
đâu.
Hải dặn Khê: anh em mình
phòng thân kẻo sa ngã thì khốn. Hãy coi đòi hỏi thân xác chả là cái đinh. Cũng
lo thủ thế, bèn nói với bà con: cán bộ và thầy giáo có vợ dưới xuôi rồi. Hải giở
cả ảnh của Na ra khoe vợ đây này. Thế vợ của thầy giáo đâu? Đây (Hải chỉ cây
đàn). Bọn con trai con gái cười ồ. Phì Chừ cãi: lấy đàn kiếm vợ chứ không ai lấy
đàn làm vợ. Bèn chỉ cho các em xem hai chữ Suối Mây trên áo đàn và cũng hai chữ
ấy trên cần đàn. Chính tay cô giáo thêu khắc tên hai vợ chồng thầy giáo đấy. Suối
chính là thầy Khê, hiểu rồi chứ. Còn Mây, là Vân, vợ thầy đấy. Tất cả lại ồ
lên, nhao nhao: a lố, vợ thầy là Mây thì ở Pá Chải có sẵn
mây nhiều lắm lắm. Trên trời có mây. Dưới suối có mây. Ngoài nương có mây. Ngay
đây thôi, bên thầy toàn mây. Em chỉ cho coi. Mây đây này. Đây nữa này… Bá vai nhau nói cười rúc ra rúc rích như chim như chuột. Hải
và Khê cãi không lại dàn mắt nở sao lúng liếng, dàn miệng đơm hoa khêu gợi của
đám con gái Hà Nhì đa tình mùa giao duyên tỏ tình!
Tết Hà Nhì náo nức cả tuần
ngay sau vụ gặt. Bản mổ một con trâu. Vài nhà chung nhau đụng lợn. Rượu ngô dốc
từ ống vầu ra bát to, mời nhau “tó xà” (cạn chén). Già trẻ gái trai mở hội vui chơi văn nghệ ở
sân trường. Pờ Mò Nu diện bộ váy áo thêu chỉ ngũ sắc tuyệt đẹp, xòe múa, sáng bừng
khoảnh sân nhỏ. Đêm, đốt lửa trại, đàn hát. Thầy Khê đệm đàn cho học trò đồng
ca “Qua miền Tây Bắc núi vút ngàn trùng xa/ Suối
sâu đèo cao bao khó khăn ta vượt qua/ Bộ đội ta vâng lệnh cha già về đây giải
phóng quê nhà…” Phì Chừ bốc lên, xông lại gần đống
lửa rừng rực, trình diễn hoạt cảnh dân ca Hà Nhì “Hát
gọi người yêu”. Chất giọng nam trung da diết. Mắt
đắm đuối nhìn Mò Nu. Hết bài thì ngửa bàn tay mời xòe. Nhưng Mò Nu nguẩy một
cái. Đám hội ồ lên cười vui.
Khuya, tan hội. Già trẻ chếnh
choáng về hết. Khê nán lại lúi húi dọn dẹp mấy thứ đưa từ ngoài sân vào lớp.
Thình lình Pờ Mò Nu trong bóng tối ập òa ôm siết, hổn hển: “Thầy,
đêm nay em cho thầy…” Khê bủn rủn. Bậy nào, em say rồi.
Em có uống giọt rượu nào đâu mà thầy bảo em say. Em say thầy đấy. Đêm nay em
cho thầy. Không được đâu Mò Nu à. Thầy đã có vợ dưới xuôi. Vợ thầy kệ vợ thầy.
Mò Nu có làm vợ thầy đâu. Mò Nu quý thầy thì cho thầy thôi…
Khê lựa đà cố gỡ vòng tay con
gái nóng hổi quấn riết. Không dám nói to sợ ai đó nghe. Chỉ thầm thì. Mò Nu ơi,
thầy trò mình là đoàn viên thanh niên cứu quốc, cùng nhau đi đầu chống
hủ tục tảo hôn. Thanh niên chúng mình chỉ lấy một người mình yêu. Yêu ai thì
trao cho người đó. Người trao với người nhận nhớ nhau suốt đời. Còn thầy và em,
quý nhau nhất đời thì giữ cho nhau. Để thanh thản suốt đời…
Đôi cánh tay con gái mềm dần,
lơi ra, buông rũ.
Đầu tháng 2-1956, giữa buổi học
sáng, nhận được bức điện hỏa tốc:
“Thầy gíáo Văn Khê xuống
ngay châu Thuận tham gia đoàn đại biểu Khu tự trị Thái Mèo về Thủ đô Hà Nội dự
đại hội liên hoan chiến sĩ thi đua toàn quốc ngành giáo dục lần thứ nhất”.
Chỉ còn một buổi chiều sửa soạn hành
trang. Dân bản kìn kìn mang tới nào đậu tương, nào cá khô, thịt sấy… làm quà thầy mang về xuôi. Hàng tạ! Sức mấy gánh vác ngần ấy.
À, sau Đại hội thầy đi phép thăm cô Vân, mang cho cô vài cân đỗ tương làm quà
vùng cao. Bé sún Pố Xá nghe thầy nói thế, liền chạy bay về nhà, mang tới cái lồng
tre với con quạ đang nhảy loi choi: “Em cho cô Vân. Thầy
Khê đi đường nhớ cho quạ ăn kẻo nó đói nó chết thì em khóc em bắt đền thầy đó”. Văn Khê cay cay sống mũi, xoa đầu Pố Xá: thầy nhờ Pố Xá
nuôi quạ lớn thêm, sang năm thầy mang về xuôi. Pố Xá ngây thơ hớn hở
bằng lòng. Nhìn theo chú bé dân tộc Hà Nhì tung tăng chạy đi, tay cầm cái lồng
tre bên trong có túm lông đen loi choi rối rít, bất giác Văn Khê chột dạ. Mối
nghi ngại cộm lên thảng thốt: điềm gở gì đây? Có lẽ nào, món quà rừng thẳm gửi
cho người con gái miền xuôi đang mòn mỏi trông chờ, lại là một mống quạ đen?
Năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh
phát động phong trào Thi đua ái quốc. “Người người
thi đua/Ngành ngành thi đua/Ta nhất định thắng/Địch nhất định thua!” Đầu tháng 5-1952, Đại hội 154 chiến sĩ
tiêu biểu công, nông, binh và lao động trí óc toàn quốc bầu được 7 anh hùng chiến
sĩ thi đua: Cù Chính Lan, Nguyễn Quốc Trị, La Văn Cầu, Nguyến Thị Chiên, Trần Đại
Nghĩa, Ngô Gia Khảm, Hoàng Hanh. Trong đó, 5 người là anh hùng chiến đấu, 2 người
là anh hùng sản xuất công nông nghiệp. Chưa có anh hùng chiến sĩ tiêu biểu cho
ngành giáo dục! Trong khi, ngay từ năm 1945 đã xác định ba trọng tâm thi đua
yêu nước của toàn dân Việt Nam là “Diệt giặc đói,
diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”.
Thì đây, tháng
2-1956, mở đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc ngành giáo dục lần thứ nhất. Dự đại
hội, “nhà giáo Lê Khắc” có hai
đại biểu, à không, thực ra có tới bốn người!
Sáng Mồng hai
Tết Bính Thân 1956, Văn Trí đang ăn tết ở nhà anh chị Lê Trần Cảnh – Lê Khắc Thiếu Mộc ở chợ Phủ Hậu Lộc thì có công điện hỏa tốc
của Ty giáo dục Thanh Hóa: Hiệu trưởng trường cấp 1 Hoằng Sơn Lê Trần Cảnh
và hiệu trưởng trường cấp 1 Hoằng Thắng Lê Ngọc Ấn lên ngay thị xã Thanh Hóa để
kịp ra Hà Nội dự đại hội chiến sĩ thi đua ngành giáo dục. Vui nổ trời.
Toàn ngành giáo dục Thanh Hóa có hai trường được Bộ tuyên dương thì cả hai đều
là nhiệm sở của anh chị em Lê Khắc. Hai vợ chồng Cảnh - Mộc là hiệu trưởng và cốt
cán của trường Hoàng Sơn. Còn Văn Trí, chiến sĩ thi đua của trường Hoằng Thắng.
… Đại hội khai mạc
sáng 17 tháng 2, tức là Mồng 5 Tết Bính Thân. Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên trực
tiếp điều khiển các phiên họp. Xen kẽ cứ một buổi nghe báo cáo tổng kết, tình
hình nhiệm vụ mới, lại một buổi tuyên dương thành tích đơn vị và cá nhân thi
đua xuất sắc. Họp chung trên hội trường và trao đổi kinh nghiệm ở các tổ phân
theo khu vực Tây Bắc, Việt Bắc, đồng bằng, thành phố…
Sau bữa cơm chiều 21, ban tổ chức
thông báo: tất cả đại biểu ăn mặc chỉnh tề, đúng 18 giờ 30 có mặt ở hội trường.
Hoan hô rầm trời: tối nay chắc chắn được đón Bác Hồ rồi. Chưa tới giờ quy định,
các đơn vị đã đông đủ nghiêm chỉnh ngồi đúng vị trí. Hội trường im phăng phắc
khi đoàn xe ô tô tiến vào, chạy tới cuối dãy nhà. Hồi hộp ngóng nhìn. Không thấy
Bác Hồ đâu, chỉ thấy mươi cảnh vệ mặc thường phục tỏa ra khép hết các cánh cửa
hai bên hội trường. Bỗng, từ cửa ngách sân khấu lớn, Bác đi ra, theo sau là Bộ
trưởng Nguyễn Văn Huyên.
Lê Trần Cảnh ngồi dãy ghế phía
trên, cách chỗ Bác đứng chỉ vài mét. Trước mắt, Bác hiện lên như ông tiên trong
truyện cổ, râu tóc bạc như cước, da hồng, mắt sáng tinh anh, tiên phong đạo cốt.
“… Bác đến đây với
tư cách đồng nghiệp, vì Bác cũng có lúc làm nghề dạy học. Bác muốn nói với các
cô các chú đôi điều về cái nghề các cô các chú đang làm. Ngày xưa, cách đây
trên hai ngàn năm, cụ Khổng làm nghề dạy học, có hơn ba ngàn học trò, đã nói gọn
về cái nghề của mình trong 8 chữ “học nhi bất yếm, giáo
nhân bất quyện” nghĩa là “học
không biết chán, dạy người không mỏi”. Hiểu rộng ra,
người thầy giáo có hai việc song song là dạy và học. Muốn dạy người phải tự dạy
mình. Muốn dạy phải học. Có học không biết chán thì mới đủ vốn liếng dạy người
không mỏi…”
Cả hội trường lắng nghe như uống
từng tiếng.
… Dứt câu chuyện, Bác Hồ
giơ tay vẫy chào rồi quay người đi rất nhanh qua cửa ngách sân khấu.
Lê Trần Cảnh tính chen ra
sân, nhưng các cánh cửa khép chặt. Lát sau, cửa mở, cả hội trường dồn đẩy ùn ùn
kéo ra. Trên sân chỉ còn hai chiếc com-măng-ca đít tròn chở đội bảo vệ xịt khói
nối đuôi ra cổng. Cảnh cố lách lên. Cái cậu mảnh khảnh cao kều ở phía trước bị
huých vào sườn, liền quay lại, lầu bầu “Bác về rồi,
chen làm chi nữa…”. Và mừng rỡ kêu to:
- Ủa, anh Cảnh!
Thì ra anh rể em vợ cùng là đại
biểu chính thức, nhưng khác đơn vị, nên cùng họp một hội trường mà tới ngày thứ
tư mới nhận ra nhau. Anh Cảnh liền kéo Khê tới chỗ ở của đoàn Thanh Hóa, giới
thiệu với Lê Ngọc Ấn. Anh Ấn chỉ ngoài ba mươi tuổi mà nom hom hem, da tái mét
vì bệnh dạ dày kinh niên. Anh xuề xòa: “Mấy
khi nhà giáo miền núi miền biển gặp nhau. Mình cũng họ Lê, nhập nhóm đồng tộc
Lê Khắc luôn.” Văn Khê nói: “Hoằng
Hóa là lò khoa bảng, thời xưa có tới 47 tiến sĩ Nho học. Chẳng thế mà chiếm cả
hai suất điển hình tiên tiến của trường học tỉnh Thanh. Hai anh kể chuyện Hoằng
Hóa cho em học hỏi với nào…” Anh Cảnh cười,
dúi vào tay Khê mấy tờ giấy viết tay chữ chen nhau lít nhít: “Đây,
bản tự thuật anh vừa báo cáo ở tổ. Khê chỉ cần đọc lướt “cóc
nhảy” là biết bà chị với ông anh rể dạy dỗ
ra làm sao…”
“… Tháng
9-1954, vợ chồng tôi nhận công lệnh về trường Hoằng Sơn. Tôi làm hiệu trưởng, dạy
lớp 4. Vợ tôi dạy lớp 2 (vợ tôi sau đó được bầu làm phó thư ký công đoàn giáo dục
huyện Hoằng Hóa). Trường 4 lớp nhưng chỉ có 3 giáo viên, còn lớp 1 chia nhau dạy.
Trước đây, thời kháng chiến, các lớp đặt nhờ nhà dân. Bắt tay xây dựng cơ sở vật
chất, tôi xin xã trưng dụng ngôi đình Bản Định làm trường. Một số hoành phi câu
đối tịch thu trong CCRĐ đang dồn đống trong đình, tôi xin hết làm bảng đen,
đóng bàn ghế. Vẫn thiếu! Tôi bèn xin xã cho hạ cây đa cổ thụ gốc to hai người
ôm. Gỗ ván tạm đủ nhưng không có tiền công thợ. Tôi bèn lập tổ đóng
bàn ghế gồm phụ huynh thạo nghề mộc. Cùng ra đồng khảo sát, đo đạc tại gốc đa,
thống nhất thi công theo cách khoán gọn. Tổ thợ tự lo liệu hạ cây, xẻ gỗ, đóng
bàn ghế. Gốc cây và toàn bộ củi cành chuyển thành tiền công thợ. Ba tuần sau,
trường nhận đủ 20 bộ bàn ghế hợp quy cách. Học trò được ngồi bàn ghế mới thơm
phức. Dân làng ngang qua tấm tắc: hàng chục năm nay mới thấy trường
ra trường!
…Thầy giáo muốn
liên hệ với cha mẹ học sinh nhưng phụ huynh mỗi lớp rải ra mấy xã, đi thăm
không xuể. Bèn tổ chức họp phụ huynh theo khu vực. Mỗi khu vực một giáo viên phụ
trách chung, nắm danh sách tất cả học sinh. Luân phiên nửa tháng họp một khu,
hai tháng là quay vòng hết 4 khu toàn trường. Buổi họp có mặt tất cả giáo viên,
báo cáo, trao đổi cặn kẽ với từng phụ huynh. Bà con khỏi phải đi xa, nên tới dự
đông đủ.
… Trường tôi làm chưa được
nhiều, nhưng trong một thời gian ngắn mà đã có trường ra trường, xây dựng được
mối kết hợp giáo dục nhà trường- gia đình… Tỉnh phong
Hoằng Sơn là “Tổ giáo viên xuất sắc”
để Bộ tặng cờ thi đua…
Tới lượt Lê Ngọc Ấn… Sau này nghe anh Cảnh thuật tỉ mỉ, Văn Trí vừa ngượng vừa cảm
động. Hôm ấy anh Ấn không khoe thành tích hiệu trưởng “con
chim đầu đàn” mà toàn kể công giáo viên trẻ Văn Trí. Rằng
trường Hoằng Thắng đạt xuất sắc, có công to của “nhóc” Văn Trí nhà Lê Khắc đó. Hắn có mấy người em họ là giảng
viên đại học, như Lê Khắc Thành dạy Sử Đại học Tổng hợp Hà Nội, Lê Khắc Bảo dạy
Toán Đại học Sư phạm Hà Nội, trong khi hắn chỉ là cậu giáo cấp 1 trường làng.
Nhưng không mặc cảm tự ty. Hắn nói: mình ít chữ nghĩa thì lo tự học tự rèn. Hắn
như con mọt sách. Ở trọ nhà dân, không có bàn có tủ, đầu giường kê tấm ván
xếp mấy chồng sách cao nghệu. Đi đâu ra khỏi cổng cũng cầm theo cuốn sách. Họp
hành, giờ giải lao cũng cắm đầu vào sách. Hắn là kho đề toán. Bảo rằng học
theo thầy giáo Nguyễn Cảnh Toàn ở sư phạm khu Tư. Mỗi đề toán mẫu trong sách
giáo khoa, hắn chế thêm năm bảy đề tương tự cho học trò làm thêm nhừ
nhuyễn các kiểu bài. Thiếu giấy, hắn rọc rẻo giấy trắng đầu thừa đuôi thẹo ở
báo cũ, tỉ mẩn cắt cùng khuôn khổ cỡ bằng bàn tay, chép đề toán do hắn
nghĩ ra. Dùng xong thì dán nối tiếp đầu đuôi, cuộn tròn như cối pháo để lưu trữ.
Hắn có ba bốn “cối đề toán” như
thế. Hắn là cây sáng kiến. Tự đặt chỉ tiêu mỗi tuần nộp hiệu trưởng một bản
sáng kiến mà hắn đúc rút từ cải tiến đứng lớp. Hiệu trưởng thấy hay hay, liền gửi
thử mấy bản sáng kiến kinh nghiệm của hắn cho tờ Chuyên san cấp một của
Vụ giáo dục phổ thông. Không ngờ họ sử dụng liền liền. Tòa báo không trả nhuận
bút bằng tiền, mà biếu cả đống tem thư. Giáo viên trong trường ai cần gửi thư
đi đâu thì tới Trí lấy tem. Mấy cậu đồng nghiệp người làng Hoằng Trì như Hoàng
Văn Luyện, Hoàng Văn Soái, Phạm Văn Diễn… rất khoái chú
út Văn Trí, phong hắn là “nhà báo trường làng”.
Hắn to gan chòi mòi viết văn.
Mua báo Văn Nghệ, đọc, rồi hí hoáy viết. Thử gửi cái truyện ngắn đầu tay “Người bạn gái của tôi”. Bất ngờ,
báo đăng ngay! “Ấy là bước đi đầu tiên. Rồi cây bút trường
cấp 1 Hoằng Thắng còn tiến...”.
Anh Ấn tiên đoán thế mà đúng. Năm
sau, báo Thống Nhất mở cuộc thi “Viết về đề tài miền
Nam”, Văn Trí gửi truyện kể về một thầy giáo quê
Huế dạy ở miền núi Thanh Hóa. Kết quả, truyện ngắn “Ông
Năm Hạng” của Nguyễn Quang Sáng đoạt giải nhất,
còn “Đôi rắn thần trong hang Pa Kham” của Trí được “an ủi xoa đầu” tức là giải khuyến khích! “Thừa thắng
xông lên”, khi báo Văn Nghệ thi truyện ngắn, Trí liều mạng
gửi “Chuyện một cô giáo mới” dự
thi. Lần này được giải ba hẳn hoi - đồng hạng với truyện ngắn “Cỏ non” của nhà văn Hồ Phương nổi
tiếng. Trí lặn lội ra Thủ đô nhận thưởng, gặp nhà văn Vũ Tú Nam đang
làm thư ký tòa soạn, không khen tác phẩm mà xuýt xoa khen tác giả “trẻ thế, trẻ thế”! Đồng nghiệp ở Hoằng
Thắng thì ưu ái thăng hạng Văn Trí thành “nhà văn trường
làng”!
Được cái, tạng người ốm yếu
của Trí hợp với thủy thổ miền biển: Đất Hồng Văn giếng trong tắm mát/ Đường
Hoằng Trì lắm cát dễ đi! Từ Đa Bút Vĩnh Lộc chuyển về, hắn người mỏng dính
gió thổi bay da xanh lướt. Sau mấy tháng ăn cơm làng Hồng Văn, uống nước giếng
Hoằng Trì, đã da thịt sởn sơ… Ngay năm đầu, lớp 4 Hoằng
Thắng thi hết cấp 1 đậu 100%, dẫn đầu toàn huyện Hoằng Hóa. Kỳ thi chuyển lên cấp
2 đậu 90%. Văn Trí được phong chiến sĩ thi đua, sở giáo dục Liên khu Tư tặng bằng
khen.
… Anh Ấn gật
gù: Mấy anh chị em Lê Khắc đều dấn thân phục vụ sự nghiệp trồng người, khá thật.
Lại trẻ măng. Nhóc Trí chưa đầy 19. Mộc và Khê 22. Cảnh “già” nhất cũng chỉ 24. À nhưng mà Cảnh hậu sinh khả úy, lập
“kỷ lục” đảng viên trẻ nhất, 15
tuổi đã vào đảng Cộng sản Đông Dương, cùng năm 1947 với mình.
Anh Cảnh nói:
Bọn này ít tuổi cũng có cái thiệt là chưa kịp lớn đã đi vào kháng chiến nên thất
học. Như Cảnh đây lên thị xã Thanh Hóa học trung học từ năm 1944, thụ giáo thầy
Hữu Loan, tác giả Màu tím hoa sim, mà tới nay Cảnh vẫn chưa có bằng tú
tài. Mấy anh chị em nhà mình toàn dạy cấp 1.
Văn Khê cãi: Dạy cấp 1 thì sao nào?
Xem đấy, hai trường tiêu biểu của giáo dục Thanh Hóa dự Đại hội giáo dục toàn
quốc đều là cấp 1. Em chỉ mong nước nhà mau thống nhất, mấy chục nhà giáo Lê Khắc
từ miền Bắc kéo về Huế, chăm nom dạy dỗ lớp trẻ nhỏ, gọi là đáp đền ơn nghĩa
quê hương…
…Mấy anh em
rưng rưng hòa điệu hát Phạm Duy: “…Về miền Trung
miền thùy dương bóng dừa ngàn thông/ thuyền ngược xuôi suốt một dòng sông… dài. Ôi quê hương xứ dân gầy/ Ôi bông lúa/ Con sông xưa/
thành phố cũ…”
Chương 5: Họa vô đơn chí
Ngày 24 tháng 02 năm 1956, bế mạc
đại hội liên hoan chiến sĩ thi đua toàn quốc ngành giáo dục lần thứ nhất. Văn
Khê sấp ngửa phi ngay về Thanh Hóa với Vân.
Gia cảnh tang thương phơi bày
trước mắt. Đau đớn nhất là bà mẹ ốm nặng, đã qua đời đúng đợt “chia
quả thực”. Cả nhà dồn xuống ở cái bếp lợp rạ để đội cải
cách chia căn nhà ngói bốn gian cho hai cố nông. Tất tật hoành phi câu đối treo
trên xà trên cột bị chủ mới tháo ra bán hết, trống hoác. Gạch bát lát sân cũng
bị nậy sạch sành sanh. Mấy ông bà bần cố đổi đời, không kiêng nể trời đất thần
phật, hè nhau phá cả ngôi chùa cổ đẹp nhất vùng mà trước đây bà mẹ không ngày Rằm,
Mồng Một nào vắng mặt thắp hương, lễ Phật, cúng dường, làm công quả.
Một mẫu rưỡi ruộng lúa cấy hai
vụ mùa và chiêm cũng bị họ “cắm thẻ”
chia nhau. Còn lại khu vườn ba sào. Vân tận dụng từng rẻo đất trồng đủ loại cây
thuốc nam, mùa nào thức ấy thu hái mang ra chợ bán. Làm lấy mà ăn, vặt mũi đút
miệng, không ngửa tay xin xỏ vay mượn họ hàng. Bố bảo Vân: đói cho sạch rách
cho thơm, giữ lấy nếp nhà. Thạp gạo vét đến hạt cuối, đứt bữa, cả nhà đói vàng
mắt, bố hễ bước chân khỏi cổng là cắm cây tăm vào miệng, ra cái điều vừa mới
cơm xong. Khê ấn vào tay Vân số tiền dành dụm năm qua, nói: em không được giữ kẽ
với anh. Trong cơn khốn khó, ta coi nhau như đã vợ chồng. Năm sau anh về làm
đám cưới. Mất hết nhà cửa cũng không cần. Chúng mình còn có nhau là có tất cả.
… Khê lên lại
bản Hà Nhì Pá Chải được vỏn vẹn hai tháng thì hai anh em Vũ Hải – Văn Khê cùng được điều khỏi vùng cao biên giới Mường Tè. Hải
chuyển xuống đồng bằng Khu Ba tham gia ban phụ trách tỉnh đội. Khê được điều về
Tổ giáo vụ “sư phạm cấp tốc” trực
thuộc Sở giáo dục khu tự trị Thái Mèo. Bản thành tích Pá Chải báo cáo ở đại hội
thi đua, Khê sửa sang, trở thành tài liệu huấn luyện sư phạm được đón nhận nồng
nhiệt. Một lần cô giáo văn sử nghỉ ốm đột xuất, nhờ Khê “chữa
cháy” dạy thay vài tiết. Học trò tán thưởng rầm rĩ “thầy Khê dạy văn hay tuyệt”. Thành “sự kiện”. Thế là Khê được điều hẳn
sang tổ văn sử.
Như rồng gặp mây. Công phu sưu tầm,
sao chép tư liệu văn học lập thành từng bộ hồ sơ đóng bìa nghiêm ngắn. Thích
thú theo dõi báo chí Văn Nghệ tường thuật các cuộc luận chiến về thơ không vần,
thơ Tố Hữu. Mê mẩn từng trang tiểu thuyết “Người người
lớp lớp” của Trần Dần. Mê thơ Trần Dần, đọc bài “Nhất định thắng”, Khê tưởng như đang
cùng Vân dõi theo bước chân luân lạc của anh Thụ- một trong con số khổng lồ
700 ngàn dân miền Bắc di cư vào Nam 1954, 1955: Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc/
Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam/ Những cơn mưa rơi mãi tối sầm/ Họ lếch
thếch ôm nhau đi từng mảng/ Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống/ Hôm nay đây mưa
gió dập vùi - Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc...
Đùng một cái, nổ ra tin Trần Dần
và Tử Phác bị bắt giam. Không có lẽ. Nhạc sĩ Tử Phác “Tiếng hát quay tơ” không bao giờ là
kẻ xấu! Còn Trần Dần, ơ hay, ông ấy rành rành là một văn sĩ cách mạng hàng đầu?
Cơ quan Sở giáo dục, theo chỉ đạo của Tuyên huấn Khu ủy, mở cuộc đấu tranh chống
Nhân văn Giai phẩm “gieo nọc độc”
trong ngành giáo dục. Văn Khê bị đình chỉ công tác chuyên môn. Chuyển làm hành
chính sự vụ. Phụ trách cờ đèn kèn trống các hội nghị và cơm áo gạo tiền cho các
lớp sư phạm. Cả năm trời sau đó, Khê nín lặng ẩn nhẫn.
1957, ngày cuối năm, chập tối,
Vũ Hải xông vào phòng Văn Khê đột ngột. Thôi em bỏ bộ mặt đưa đám đi. Tai nạn
nghề nghiệp, thằng chó nào trên đời thoát khỏi! Đây, mấy tin mừng. Ở dưới xuôi,
anh với chị Na cưới nhau đã sinh thằng cu Sơn. Nghe bảo trên này Khê gặp nạn,
anh đã vận động Ty giáo dục dưới ấy nhận em. Công văn tiếp nhận anh cầm theo
đây. Thêm chuyện rất vui là em về xuôi anh sẽ đưa đi nhận họ Lê Khắc. Ai à? Bí
mật. Hồi hộp mới sướng…
1958, Văn Khê chuyển hẳn xuống giáo dục
Khu Ba, làm cán sự bộ môn Văn Sử. Tới trụ sở tỉnh đội, hai ông anh mừng rỡ ra
đón. Xăm xăm đi bên Vũ Hải là một người tầm thước có cái bớt đỏ như son trên
trán! Khê lao tới ôm chặt cứng: trời đất ơi, anh Khắc Luân!
Chị Na làm văn thư tỉnh đội, anh chị
được chia phòng kép gian đôi nhà tập thể; cháu Sơn một tuổi, khôi ngô, tóc
đen hơi xoăn, mắt một mí, con trai mà da trắng bóc. Đến thăm nhà anh Khắc Luân,
Khê ngơ ngác: lụp xụp hai gian mái tranh vách đất. Như một hiệu may tuềnh
toàng. Gian ngoài, cây sào nứa vắt luồi thuồi mấy bộ quần áo mới bên chiếc máy
may uể oải xạch xạch. Chính anh Luân đạp máy! Gian trong sơ sài, giường đôi bề
bộn cạnh chiếc nôi tre với cu Tân khóc ọ ẹ. Chị Báu vợ anh Luân ngồi giường lơ
đãng thùa khuyết, chốc lại lắc nôi, à ơi điệu ru não nuột. Một bà già cóm róm
nhặt rau ở góc bếp sau nhà. Lạ lắm. Khê chào, bà cúi mặt trả lời lí nhí rồi lầm
lũi lảng đi. Thảo nào anh Hải dặn đi dặn lại Khê rằng tới thăm nhà Luân nhớ ý tứ,
đừng hỏi nhiều, từ từ rồi rõ nội tình uẩn khúc…
Khê được Ty giáo dục phân chỗ ở
là một… giường đơn trong phòng tập thể 8 giường kê gần
sít nhau. Thân phận “nhân văn giai phẩm rơi rớt” mà được thế, cũng do họ nể “ông anh
nuôi làm to bên tỉnh đội”. Tịnh không nghĩ tới phải báo
tin cho anh Lê Trần Cảnh trong Thanh Hóa. Bởi mặc cảm sa cơ lỡ bước. Thôi cũng
đỡ buồn, mình đứt liên lạc với anh Cảnh thì đã có anh Luân bù vào! Chuyện anh
Luân mắc mớ tìm hiểu sau. Tâm trí Khê hôm nay đang để hết nơi Vân.
Thu xếp công việc hòm hòm
là Khê nhào về Thọ Xuân ngay. Địa phương đã tiến hành sửa sai cải cách ruộng đất. (Theo
thống kê chính thức đăng trong cuốn Lịch sử Kinh tế tập 2 thì toàn miền Bắc
trong thổ cải có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông thì
123.266 người bị quy sai, tức là oan, tính theo tỷ lệ là 76%...) Được trả
căn nhà rỗng. Chỉ còn hai cha con chống chếnh. Bố trở lại nghề cũ, kê đơn bốc
thuốc nhì nhằng, kết hợp tự chữa bệnh tim ba năm nay trở nặng. Thầy giáo, thầy
thuốc là nghề sạch sẽ - ông bảo thế. Nên xin cho Vân theo lớp cấp tốc đào tạo y
tá. Vừa hay trạm y tế xã đang củng cố, tuyển thêm nhân viên tập sự và được ủy
ban cho đốn hạ cây đa mấy trăm tuổi ngự đĩnh đạc ở đầu làng, xẻ lấy gỗ xây cơ
ngơi mới.
Khê và Vân bàn định cuối thu
này ta cưới nhau. Và lần này đúng hẹn.
Lễ cưới đơn giản mà vui. Chỉ có
hai tút thuốc lá Bông Lúa (hạng xoàng nhất) chục gói chè bồm “chín
hào ba” (chín hào mua được ba gói) và một bị đầy nhóc kẹo
vừng, kẹo lạc, bánh khảo, chè lam quơ ngoài chợ Cốc. Bạn cũ năm 1952, 1953 của
Khê và Vân kéo tới chật nhà hò hát. Quà mừng đem tới chỉ là đôi khăn mặt sợi
bông, chiếc xoong nhôm khuấy bột cho trẻ em, cái chậu sắt tây tráng men. Trạm y
tế tặng món quà giá trị nhất là cái phích Rạng Đông. Trưởng trạm lại còn ưu ái
cóp nhặt thớt gỗ gốc đa đầu thừa đuôi thẹo, nhờ bác thợ cả đục đẽo kỳ công
thành cái đế phích an toàn nặng chịch! Gã trưởng trạm tên Phiên, người bé loắt
choắt, mặt dơi tai chuột, mồm mép liến láu, nói huyên thuyên “không
để cái miệng kịp đâm da non”- ông bố Vân khinh bỉ nhận
xét. Con nhà mõ, thời thổ cải, lót đường tiến thân, gã cưới đại con mụ “rễ cái của đội” quá lứa lỡ thì. Vợ
gã lên chức phó chủ tịch xã, xí phần cho chồng cái chân phụ trách y tế. Tới kỳ
sửa sai, vợ mất ghế, nhưng gã dẻo mỏ lấy lòng cấp trên, nên yên vị. Gã xấu
tính, trai lơ. Bị vợ cằn nhằn, gã quắc mắt trâng tráo: có im mồm không thì bảo.
Đừng làm vẻ gái nhà lành. Ông biết tỏng. Cái lão đội Phục nó bắt rễ mày, nó xâu
chuỗi mày. Nó quần mày tơi tả bã bượi. Nó ăn ốc chán chê rồi quẳng mê rá sứt cạp
cho thằng Phiên trâu chậm uống nước đục này đổ vỏ!
“Dè chừng thằng
Phiên nhí nhố con ạ”, bố nhắc. Vân bảo bố lo vớ vẩn. Bệnh
quỷ có thuốc thánh. Con trị được gã mà.
Tuần trăng mật thần tiên. Quấn
quít như đôi sam, một bước không rời. Cấu chí trêu chòng nhau như trẻ con. Rủ rỉ
rúc rích. Buồn cười nhỉ, em tưởng chỉ riêng em lớ ngớ, té ra anh cũng gà tồ. Trầy
trật mãi mới mon men hòa điệu vợ chồng. Thăng hoa té ra là thế. Dạo anh kể chuyện
bé gái Pờ Mò Nu ấy mà, em không tin đâu. Cứ nghĩ thầy giáo 21 tuổi nếm
cơm thiên hạ khắp vùng xuôi ngược, lẽ nào ngơ ngáo nghé tơ. Vân này, thực ra
cũng khối lúc anh bức xúc đòi hỏi. Nhưng biết kiềm chế. Tới khi chúng mình
thương nhau là trên đời anh chỉ biết có em. Vân thầm thì: nhớ cái câu sau thổ cải
anh nói với em chứ. Nhà cửa mất hết cũng không cần, hai đứa còn có nhau là có tất
cả.
Cuối tháng 11-1958, chú rể Văn Khê trở
lại nhiệm sở. Lòng lâng lâng. Hễ ngồi một mình là chực véo von Thiên Thai. Chỉ
e khu tập thể phê bình lãng mạn. Mà mình không thể gân cổ cãi rằng đó là siêu
phẩm của tác giả quốc ca. Bèn mang cây đàn alto ra, vê thánh thót giai điệu đã
thuộc nhuyễn ca từ “Tiếng ai hát chiều nay vang lừng
trên sóng/ Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới đào nguyên”. Mấy
cậu giường bên tấm tắc điệu nhạc chi mà du dương! Thế là Khê bốc lên, chơi “phăng-tê-di”, tay cầm que gẩy điệu
nghệ hất mạnh một phát, bất đồ sợi dây “mi” mỏng manh đứt phựt.
Nửa tháng sau. Cuối buổi sáng,
bưu tá sục tận nơi đưa điện khẩn của Vân: “Về giải quyết
việc nhà gấp”. Vội đi ngay. Ô tô tới thị xã Thanh Hóa
đã xế chiều. Khê nài nỉ một bác xe thồ, thuê lai về tới Thọ Xuân thì vừa tối.
Phấp phỏng. Vân điện, hẳn cần kíp lắm. Hay bố ốm nặng? Nhà le loi đèn. Chính bố
ngồi đợi Khê. Cơm canh sẵn, ăn nhộm nhoạm. Cơm xong, bố rót nước từ cái ấm đất
cho cả nhà uống. Thơm thơm ngòn ngọt. Lá chè gì đây ạ? Lạc tiên đấy mà. À, lạc
tiên, an thần. Vân lại rót từ chiếc siêu nhỏ cho riêng mình nửa chén nước thuốc
đặc sánh. Hỏi thì xua tay ra hiệu im. Bố bảo bố nằm nghỉ để hai con nói chuyện.
Vân ơi con dốc ra đi cho nhẹ lòng. Đừng giấu chồng. Tùy anh Khê phán xử…Khê và Vân ngồi quay mặt vào nhau. Y như hội ý hội báo tổ
tâm giao. Muốn cầm tay vợ mà ngài ngại. Trông Vân sao ấy. Gương mặt thất thần.
Mãi không nên lời. Mãi rồi đôi môi nhợt nhạt xé ra từng câu lập bập. Hết cả rồi.
Anh ơi. Không còn gì nữa đâu anh.
Như chớp lóe kéo theo tiếng sét, Khê
kêu to: “Thằng Phiên phải không?”
Vân ắng lặng. Rồi kể. Chậm từng câu,
rành rọt. Thằng Phiên giở trò mó máy sàm sỡ nhiều lần. Vân làm nghiêm, mặt rắn
đanh, gạt bắn bàn tay dơ dáy. Gã có vẻ chịu lùi. Nên Vân không hé miệng báo cho
ai. Cũng không nói với bố, bố lo vô ích. Chỉ tự tin mình chính chuyên cứng cỏi
đố gã làm gì.
Hôm ấy thằng Phiên đi một ngày nói là
lên huyện học Nghị quyết gì đó về đấu tranh giải phóng miền Nam, chiều tà
mới về. Cơ ngơi mới chưa xây xong, trạm y tế vẫn đặt tạm trong căn nhà lá lụp xụp
ven đường, dân làng hay ngang qua. Gã kêu nguy lắm Vân ơi, cô ở lại hội ý ngay
với tôi. Khi còn hai người, gã bảo Vân ngồi xuống cái giường tre ọp ẹp. Miệng
gã chành ra, nghiêm trọng. Biết gì chưa? Tuần trước máy bay Mỹ Diệm xâm phạm
không phận miền Bắc, thả dù gián điệp xuống núi rừng Quảng Bình. May mà dân
quân ta truy lùng tóm gọn. Tỉnh huyện nhắc cảnh giác theo dõi coi chừng chúng
nó móc nối liên lạc với các gia đình có người trốn đi Nam. Trên xã định
đưa nhà Vân vào sổ đen. Tôi tính có khi trạm y tế phải đứng ra bảo lãnh cho cô.
Chứ nỡ nào để Vân mất việc, bố nhà mình suy tim độ ba sống làm sao nổi!
Vân đang thon thót phập phồng
thì thằng Phiên khép ngay cửa lại và thò tay bấm khóa bên ngoài. Cánh cửa ghép
sơ sài bằng các thanh tre, ở bên trong hay từ bên ngoài đều bập khóa mở khóa dễ
dàng. Cửa chỉ khóa hờ cho người ngoài thoáng nhìn nghĩ là cán bộ y tế về nhà hết
rồi. Chứ không bảo vệ được gì. Đứng bên ngoài giật mạnh là bật tung. Hoặc ghé mắt
xuyên lóng tre thưa, nhìn vào bên trong thấy rõ mồn một.
Mặc kệ Vân hốt hoảng kêu “ơ kìa, ơ kìa …”, thằng Phiên thẳng
tay du ngã ngửa. Chiếc giường tre đu đưa ken két. Gã sấn lại, túm hai ống quần
Vân, giật mạnh. Cái quần vải phíp nhèo nhẽo lưng luồn giây chun đàn hồi lỏng lẻo,
tụt gọn lỏn vào tay gã. Vân vừa kịp gượng ngồi lên, gã đã quăng vèo cái quần ra
xa, hùng hục lao vào đè dí Vân xuống giường. Lẻo khoẻo lèo khoèo, gã cưỡng bức
sao nổi cô gái sức vóc. Vân vùng vằng du đẩy. Anh buông ra không tôi kêu làng
bây giờ. Cái mõm hôi như chuột chù nghí ngoáy tởm lợm. Gã liến láu trơ trẽn. Cô
kêu nữa đi. Tôi cùng kêu với cô nhé. Người làng ập vào tôi khắc hô hoán cô cởi
quần quyến rũ van xin tôi đừng đuổi cô khỏi trạm. Rồi coi ai xấu mặt? Tôi như
con trâu lấm sẵn từ đầu tới đuôi, sợ chi không vẩy càn? Chỉ tiếc nhà cô gia
giáo nền nếp. Vỡ chuyện, cha con cô chỉ có nước bán xới khỏi làng. Thôi em
ngoan, nằm yên cho anh yêu cái nào. Mất vốn mất lãi gì. Trước, còn con gái thì
lo giữ. Nay đã có chồng càng dễ chơi ngang, đẻ ra con thiếp con chàng con ai.
Ai biết đấy là đâu. Nhà y cánh ta hết vọc ngực cô này tới chích mông ông nọ. Thịt
da thân xác là cái cóc khô. Thôi cho anh đi. Ngầy ngà coi chừng con quỷ dạ xoa
nhà anh chờ mãi không thấy anh về, nó xồng xộc đi tìm thì vỡ chuyện tóe loe
thiên hạ cười thối mũi.
Vân lựa thế cựa quậy chứ không dám giẫy
mạnh. Gã ngồi hẳn lên bụng. Nhớt nhát như con nhái bén. Kéo cái xoạt, gã tuột
được quần lót. Này này, vùng vẫy thế ngoài đường người ta nghe thấy dòm vào thì
mặt mo. Vân nghiến răng khép chặt hai chân. Gã nhổm người, dồn sức nặng ấn hai
cái đầu gối cứng nhọn như dùi sắt xuống đùi Vân. Đau ứa nước mắt.
Hai chân bải hoải lỏng dần. Đầu gối nó liền sục vào giữa. Hai đùi bị nong
doãng. Giá như mình bung cả hai tay ẩy thật lực thì ắt con chó dái lăn kềnh xuống
đất. Cơ mà động mạnh cái giường tre nó kêu. Yếu trâu hơn khỏe bò. Thằng người
dã tâm mưu mẹo lại trường sức. Gã cứ cù nhầy rón rén. Cho tới lúc Vân trần trụi
rã rời. Đành chịu nhục. Tiếng thét kêu trời không dám bật ra, nghẹn trong cổ họng.
Tối mịt, thằng Phiên trả quần phíp, mở
khóa thả Vân về. Manh quần lót, gã bỏ tọt vào túi. Nhăn nhở bảo để làm kỷ niệm.
Về, đâu dám khóc với bố. Chuyện xảy
ra rồi. Bị gã làm nhục rồi. Nói ra, nỗi nhục lây sang bố. Bố cả nghĩ, trở bệnh
tim thì khốn. Rồi ra, bới tanh bành nhơ nhớp tủi hổ, làng xóm ai biết cho mình
bị hà hiếp oan ức?
Vân dằn vặt tấm tức kỳ cọ suốt buổi tối.
Hôi hám bám riết đâu tận bên trong. Nước xối ào ào, ê ẩm không dịu chút nào.
Đành mang hận một mình. Ngậm miệng cho yên thân.
Nhưng đâu có yên. Hai hôm sau, tái diễn. Vẫn
trò bập khóa, rồi trắng trợn: cô phải chiều tôi thêm lần này nữa. Biết điều tí,
em ơi. Chẳng có tôi về nhà ném cái xì-líp vào mặt con mụ nặc nô nhà tôi cho nó
mang đi bêu khắp làng.
Đã chịu tho lần thứ hai, thì không thể
tránh lần thứ ba. Tâm thần bất định, bối rối chẳng biết tháo gỡ cách nào. Thì lần
thứ tư, bị bắt quả tang. Chính con vợ gã phát hiện. Biết tính thằng chồng mèo mỡ,
thấy cứ vài hôm lại tối mít mới về, con mụ sinh nghi. Liền rủ thằng em trai
rình, ập vào tóm tại trận. Soi đèn pin cho cả hai áo quần tử tế, con mụ mới
cong cớn: thôi tôi tha, nhưng nhà cô Vân khôn hồn thì nghỉ việc ở trạm nhé. Con
vợ không làm to chuyện vì sợ thằng chồng mất ghế. Bởi, dù lão Phiên có vu vạ
Vân quyến rũ, thì gã vẫn dính kỷ luật về hành động hủ hóa.
Nhưng tai tiếng vẫn loang. Thằng
em trai ngứa miệng kể bô bô với trai làng. Mấy ngày sau, đồn rầm. Không biết do
ai che đậy bưng bít mà chính quyền đoàn thể im re không đả động. Không thành án
văn. Chỉ mọc khắp làng bia miệng dơ dáy. Cha con Vân không dám ra đường. Hễ đi
qua đám đông là mấy bà nạ dòng hắng giọng nói đổng. “Thế mới đáng đời. Cỏ đồng ta dâng mõm trâu thiên hạ. Tưởng
gái chính chuyên, ra phường lang chạ”.
Vân ngừng kể từ lâu mà Khê vẫn
ngồi như hóa đá. Chết lặng. Khê biết tội lỗi không phải do Vân. Nhưng vẫn đau.
Giật giật nhức từ thái dương. Đầu ta mọc sừng rồi a? Gần sáng bố bắt hai con đi
nằm. Tắt đèn là ôm riết lấy nhau. Lạ thế, vẫn yêu đương rối rít cuống cuồng như
tuần trăng mật. Có khi còn nồng nã hơn. Có phần dịu ngọt thiết tha đền bù chuộc
lỗi. Có cả phần đắng cay hung bạo rửa nhục phục thù. Mãn cuộc, thân xác rỗng
không, bấy giờ tâm trí mới day dứt ê chề. Cảnh tượng nhơ nhuốc hốt nhiên tái hiện
mồn một trước mắt. Cái thằng chó ấy, lẽ nào gã giống như Khê? Mường tượng cả tiếng
giường tre kêu cót két. Vân nằm đờ đẫn. Chợt rên rẩm: anh ơi, làm sao ấy, chết
mất thôi, em trễ kinh cả tuần. Như người ta, cưới nhau xong chậm thấy tháng thì
mừng. Đằng này… Khê an ủi: em căng thẳng quá nên bế huyết
đấy thôi. Mai sắc ngải cứu uống đi. Ơ, thế lúc tối không biết vợ mình uống chén
thuốc gì ấy nhỉ.
Suốt đêm hai vợ chồng
không chợp mắt. Thế mà trời hửng sáng là vợ ra vườn cuốc đất huỳnh huỵch. Chồng
bảo để đó anh làm thì vợ đột nhiên hai mắt long lên dữ chưa từng thấy. Lại còn
gắt: mặc em. Ông bố nén cơn ho khan, rón rén khuyên giải cũng bị vặc lại hỗn
hào: cha biết gì chuyện con. Trưa, vợ trệu trạo nhai lưng bát cơm, lại ra vườn
hùng hục. Làm lấy chết hay sao. Như người mất trí. Không ai can nổi. Cho đến cuối
chiều, im im, chồng ngó ra vườn thấy vợ đứng như phỗng trong tư thế kỳ quặc,
hai chân bắt chéo. Chồng nhào ra. Thấy hai bàn chân loang đỏ. Băng huyết rồi em
ơi. Không sao đâu - giọng vợ lạnh tanh - em thấy tháng thôi mà…
Không cho chồng bế. Tự mình lần từng bước vào nhà lấy chiếc khăn mặt sợi bông
và cái chậu sắt tây tráng men quà cưới, đem xuống bếp, rồi quay lên cầm tiếp phích
nước sôi, cáu kỉnh hất cái đế gỗ đa lăn vào xó nhà. Chồng hơ hải đứng ngoài
hiên chờ một lúc, bất giác quay vào, lóng ngóng tìm chỗ giấu cái xoong khuấy bột
trẻ em.
Chiều hôm sau, Vân trở dậy
với vẻ mặt cố làm ra tươi tỉnh. Bố bảo Khê và Vân cùng đi cắt thuốc cho cả nhà
một thể. Ba cha con đi ngang một quán tạp hóa. Mấy cậu trai choai choai đang
chơi tu-lơ-khơ, nhìn thấy, lập tức ngừng chia bài. Cả bọn - trong đó có mấy đứa
bé chầu rìa - đồng thanh hô từng nhịp “Hai ba nào -
Phiên xiên Vân. Hai ba nào - Phiên xiên Vân”.
Ba cha con chững lại, tê điếng,
lủi thủi quay về. Lưng bố thốt nhiên còng xuống già sọm. Vân bước lâng châng
như mộng du. Bấy giờ mới choáng váng nhận thấy hết lỗi lầm khiếp nhược khi ngộ
nạn. Bữa ấy giá như mình đánh văng thằng đểu xuống đất, ra sao thì ra. Đáng lẽ
ngay sau vết nhơ đầu tiên, mình lập tức nói với cha, với chồng. Đành rằng có mất
cũng không tới nỗi mất hết. Nhưng mình ngu mình hèn nên kết cục bị dồn tới đường
cùng. Thương bố quá bố ơi. Cả nhà này tính tình khí khái là do bố rèn cặp. Dạo
người ta cắm thẻ nhận ruộng trên thửa bảy sào thượng đẳng điền nhà mình, mẹ mếu
máo, bố còn đe nẹt. Cấm khóc, bà quên lời tôi rồi à, mất của cải là mất ít, mất
sức khỏe là mất nhiều, mất danh dự là mất hết. Dạo anh Thụ bị thanh niên bần cố
đấu đá, dứt áo ra đi, bố không ngăn: ừ con đi đâu thì đi. Cha con mình ninh thọ
tử bất ninh thọ nhục. Đi nơi nào kiếm lấy công ăn việc làm lương thiện, không hổ
thẹn với lương tâm, ngẩng đầu lên mà sống với đời. Đận này thì con gái bố làm hại
bố rồi bố ơi! Bố phều phào: Vân nghe cha này, thuyền theo lái gái theo chồng,
thôi con đánh đường về ngay nhà chồng. Cũng như anh Thụ, con đừng bao giờ trở về
cái làng này nữa. Bố đừng nói đau lòng. Anh Khê cô đơn tha hương làm chi có
nhà. Con đi theo chồng để cha già bệnh hoạn cho ai. Bố thở dài, nín thinh. Khê
nói cha ơi đừng lo nghĩ. Cha với em Vân giữ gìn sức khỏe. Sáng mai con về cơ
quan bàn với ông anh nuôi, sắp xếp chuyện nhà mình ổn thỏa. Chúng con hai đứa
đôi quê, nhờ cha tác hợp nên vợ nên chồng, tới nay tứ thân phụ mẫu chỉ còn lại
có cha. Bỏ gì thì bỏ chứ hai con không bao giờ sao nhãng việc hiếu trọng đại đệ
nhất đời người. Chúng con khắc tìm đường sống sót, bảo bọc nhau làm ăn phụng dưỡng
cha già.
Trưa về tới cơ
quan, tối Khê sang ngay anh Hải. Hai anh em ra sân ngồi ghế đá dưới chân cột
đèn điện. Nghe thủng đầu đuôi, Hải nghiến răng:
- Anh muốn nã một phát đạn vào giữa trán thằng
Phiên.
- Em ý à, nghe Vân kể, em chỉ chực thí cho
gã một nhát dao vào ngực trái. Nhưng kìm ngay. Em lường được hậu quả, manh động
sẽ dẫn tới kết cục bi thảm hơn. Có lúc em sực nghĩ hay là mình kiện gã xâm hại
vợ mình. Rồi biết cũng chẳng ích chi, lũ nó bao che cho nhau. Cuối cùng vẫn nhà
mình thua thiệt. Hiểu là vợ không có tội nên em không một câu nặng nhẹ. Song uất
ức bất lực như hòn núi đè lên ngực em. Mình là thằng đàn ông tồi tệ, đã không bảo
vệ được gia đình, lại không dám phục thù.
- Khê hành xử đúng đấy. Nỗi đau này chưa quá sức
chịu đựng của chúng mình. Tỉnh táo nhìn lại, hai em còn gì nào? Còn
tình yêu tuổi hai mươi. Còn cuộc đời thanh xuân! Vợ em không có lỗi! Thằng chó
đểu thâm hiểm quá. Về chuyện mất mát, chẳng nên để bụng suốt đời. Hôn nhân
điền thổ vạn cổ chi thù. Hơn nhau ở chỗ biết hóa giải oan cừu. Thôi thì bữa nay
anh cho em biết nỗi đau của anh và anh Luân. Khê ơi, cháu Sơn nhà anh, Khê thấy
đấy, da trắng bóc, tóc loăn xoăn, không phải máu huyết của anh. Chị Na không có
tội em à. Trên đường công tác, chị không may sa cảnh huống ngặt nghèo bất khả
kháng. Nên anh thương Sơn như con ruột. Con của người mình yêu quý nhất đời thì
cũng là con của mình! Chị Na đã thôi mặc cảm. Bên nhà Luân - Báu còn khúc mắc
éo le gấp mấy…
Khê kêu lên:
- Thằng cu Tân không phải là con ruột của anh
Luân sao?
- Cháu đích thị là con của Luân. Thế mới đau…
… Anh Luân ra quân
nhu Khu Ba, làm tổ trưởng tổ may, mới gặp chị Báu. Xứng đôi, hút hồn nhau lập tức.
Luân đẹp trai, mảnh khảnh như con gái, ăn nói có duyên. Nghiện đọc sách lịch sử,
hễ có thời gian là cầm cuốn nghiên cứu lịch sử hoặc tiểu thuyết lịch sử. Lại
tài hoa, mười ngón tay thuôn dài vẽ mẫu, cắt may quần áo, đường phấn mũi kéo
tung hoành bay bướm. Báu xinh xắn nuột nà, thắt đáy lưng ong, mắt đen láy, tính
cần cù, suốt ngày hí húi đạp máy vắt sổ thùa khuyết đơm khuy. Gia cảnh giống
nhau, cùng mồ côi cha. Mẹ Luân đi lấy chồng biệt tích khi Luân lên sáu. Báu thì
vừa đủ 18 tuổi là theo xí nghiệp may quân nhu, để mẹ ở một mình trên miền núi
Lang Chánh heo hút, hẹn kiếm được nghề, lấy chồng rồi đón mẹ theo. Nhưng Báu và
Luân cảm mến nhau không chỉ từng ấy. Giữa hai người có sức hút kỳ bí. Thoạt gặp
là quyến bện, bộc bạch tâm tư, rồi không rời nữa. Luân báo cáo với cơ quan đoàn
thể nguyện vọng tiến tới hôn nhân, được chấp thuận dễ dàng. Chỉ còn chờ ra mắt
gia đình. Thề non hẹn biển, sang xuân Đinh Dậu nghỉ phép, Báu đưa Luân về Thanh
Hóa thưa chuyện với mẹ.
Dịp nghỉ kỷ niệm thành lập Quân
đội nhân dân Việt Nam 22-12-1956, Luân Báu rủ nhau ngoạn cảnh Tam Cốc – Bích Động gần cố đô Hoa Lư. Sóng đôi ngồi thuyền nan dọc
sông Ngô Đông uốn lượn. Chui luồn thăm thú “Tam Cốc” - Hang Cả, Hang Hai, Hang Ba. Rồi tay trong tay leo núi
dâng hương Chùa Bích Động – Chùa Hạ, Chùa Trung, Chùa
Thượng. Một ngày vui mệt nhoài. Chiều về tới bến thì gặp nạn. Thằng bé lái đò
sơ ý cập bến vội vàng, va mạnh, chìm thuyền. Nước xăm xắp tới ngực. Lội vô bờ dễ
dàng. Nhưng áo quần ướt sũng. Lại tiết đại hàn, gió mùa đông bắc quất vun vút lạnh
thấu xương. Luân gần như bồng Báu tím tái trên tay, cố chạy vô nhà dân mượn quần
áo thay, rồi sà vào bếp hong quần áo. Không thể kịp quay về đơn vị ngay trong
ngày. Đêm ấy ngủ nhờ ổ rơm dưới bếp. Đêm ấy không ai còn nhớ lời hứa giữ cho
nhau tới ngày cưới. Đêm ấy gieo một mầm sống, là thằng cu Tân đấy. Cũng không
sao, ra giêng ta cưới nhau.
Tết Đinh Dậu tưởng vui vẻ
yên lành, không ngờ lại là những ngày vật vã. Báu đưa Luân về chào mẹ.
Chưa kịp nói gì thì bà mẹ sững sờ dán mắt vào cái bớt son trên trán Luân, run
run hỏi “con là thằng Khắc Luân phải không?” rồi khóc như mưa như gió. Vừa khóc vừa nấc tấm tức: trời
ơi, mẹ thay tên đổi họ trôi dạt tận núi đỏ rừng xanh, sao con biết mà lặn lội
tìm mẹ. Báu ơi, con tài hung, con tìm được anh con đưa anh con về với mẹ…
… Sự thực
nổ ra kinh hoàng. Ba mẹ con rụng rời, ôm nhau khóc. Tiến thoái lưỡng nan. Phút
chót, Báu thú thiệt đã mang thai. Giọng mẹ thốt rắn đanh: thôi đã thế thì cứ thế.
Ý mẹ đã quyết. Giọt nước anh giọt nước em tách đôi trôi dạt biết bao bờ bến còn
tìm ra nhau, hòa vào nhau. Không cưỡng được mệnh trời! Các con trước sau gì
cũng là con của mẹ. Cháu nội hay cháu ngoại cũng là cháu của mẹ. Ở ngoài này xứ
Thanh xứ Bắc nào ai biết gốc gác mẹ con ta. Thôi cũng đành. Cả nhà mình rồi đây
không quay về Huế nữa.
Luân Báu về báo cáo tường tận
và xin nhận kỷ luật của cơ quan, chứ thà chết không bỏ nhau. Anh Hải giở lý lịch
ra soi thật kỹ, mới biết té ra Khắc Luân là anh họ của Văn Khê. Nhưng không
trách được Luân Báu, cũng không thể quy trách nhiệm cho tổ chức. Hồ sơ quân
nhân ghi rành rành, đằng trai Lê Khắc Luân gốc Huế, đằng gái Lương
Thị Báu xứ Thanh, họ tên cha mẹ hai bên không giống nhau lấy một chữ, làm sao
phát hiện hai người là anh em cùng mẹ khác cha?
Cơ quan giữ kín nhẹm. Luân Báu không
hề bị trách phạt. Nhưng hai anh chị dứt khoát làm thủ tục xuất ngũ ra ngoài mở
hiệu may rồi đón mẹ về xuôi.
- Mỗi nhà một cảnh ngộ, nỗi bất
hạnh không ai giống ai – anh Hải trầm ngâm. Ta bàn cách
tháo gỡ dần. Trước mắt bức xúc việc nhà Khê Vân. Dứt khoát phải chuyển gia đình
Vân ra Khu Ba. Bố trí cho Vân theo một khóa cấp tốc đào tạo dược tá rồi xếp
chân bán thuốc ở quầy dược bệnh viện thị xã. Chuyện đó anh lo liệu được. Khê nhớ
biên thư báo tin cho Vân. Rồi tháng sau em tranh thủ về thuyết phục ông bố bán
quách nhà cửa vườn tược ở Thanh Hóa, chuyển ra đây sống với hai em.
Thư cho Vân, Khê viết
ngay. Nhưng việc vận động ông cụ rời bỏ đất tổ quê cha thì không cần nữa. Trái
tim già nua không chịu nổi tai ương dồn dập. Khê về Thanh Hóa chỉ kịp nhìn mặt
nhạc phụ lần cuối. Nhà nho đời cuối thất thế bất đắc chí nằm dán tấm thân mỏng
dính xuống giường. Ông lẩy bẩy cầm bàn tay cô gái út đặt vào lòng tay chàng rể.
Dồn sức tàn, ông mấp máy thều thào. Phải nghiêng đầu ghé tai sát đôi môi khô
héo mới cảm nhận được lời trăng trối. Cha phó thác em Vân cho anh Khê đó. Về
cõi âm với mẹ các con, cha gửi lại dương gian một lời nguyền. Mai sau khi đất
nước thống nhất thì con gái và con rể của cha, dù khó khăn đến đâu cũng phải
tìm bằng được anh Thụ nhà mình. Ngày lịch sử hai miền Bắc Nam đoàn tụ
phải là ngày những người ruột thịt ly tán thời tao loạn cùng nhau sum họp một
nhà.
Anh Luân và anh Khê rủ
nhau mai danh ẩn tích rõ kín, mãi hơn ba chục năm sau Văn Trí mới tình cờ tìm
thấy. Ấy là vào mùa hè 1990, Sở giáo dục Hà Nam Ninh tổ chức đưa đoàn nhà báo
thăm đền Vua Đinh Vua Lê. Trên xe, vui chuyện, anh trưởng đoàn khoe giáo dục
vùng này có “đặc sản” là một
ông giáo già dạy Văn giỏi lắm. Là cán bộ chuyên môn phụ trách cấp 2 của Phòng
giáo dục. Học hàm thụ lấy hai bằng đại học. Dạy kèm cho con mình và mấy bạn nó
thi đại học khối C, cả mấy đứa đỗ cao. Thành nổi tiếng. Học trò quanh vùng đổ
xô tìm tới luyện thi đại học. Có đứa láu lỉnh chép bài giảng của thầy, mang lên
thành phố sao chụp, dấm dúi bán cho nhau. Đắt như tôm tươi. Mấy thầy cô cấp 3 “chính cống” tức tối mà phải ngậm
tăm.
Văn Trí hỏi kỹ gốc gác, mới nhận
ra ông thầy vườn danh giá nọ chính là anh Văn Khê! Sục tận tổ con chuồn chuồn,
mừng rỡ gặp cả hai nhà “hàng xóm”
thân thiết, là anh Luân và chị Na.
Các anh chị thành ông thành bà
rồi. Nhà Khê Vân, cháu nội ngoại chẵn 10 đứa! Bởi có tới 10 con, 5 gái 5 trai!
Thảo nào, tuổi chưa tới 60 mà nom Văn Khê lụ khụ, tóc bạc gần hết. Gì mà không
già, 30 năm thiên họa nhân tai dồn dập!
Từ khi chị Vân ra Khu Ba, anh
Khê tịnh không một lần gợi nỗi đau. Nhưng chị vẫn rầu rầu. Tới lúc
mang thai mới dần tươi tỉnh. Đầu năm 1960, chị Vân đẻ con so. Chị đòi đặt tên
Chuyên. Con trai. Bụ bẫm, trắng như hòn bột. Môi đỏ như son thi thoảng nhoẻn cười
vu vơ chứ không mấy khi quấy khóc. Bác Luân bác Hải quý cu Chuyên không thua cu
Tân cu Sơn. Cu Chuyên được 3 tháng thì Khê Vân phải rời khu tập thể cơ quan, ra
ngoại thị ở nhờ nhà dân. Sáng chuyển nhà đúng ngày Lập Hạ. Nắng to. Khê bồng cu
Chuyên, đi bộ, ngồi nghỉ dưới bóng cây đa xum xuê giữa đồng làng, xi thằng bé
tè một bãi lênh láng. Vào nhà dân, mấy bà hàng xóm sang chơi tranh nhau ôm ẵm
hôn hít cu Chuyên, xuýt xoa tấm tắc con ông giáo đẹp như tranh vẽ. Được mươi
hôm, bỗng sáng tinh mơ bà hàng xóm sang gọi cửa, hổn hển: “Không
xong rồi ông giáo ơi. Đêm qua tôi mơ thấy một ông cao lớn mặt xanh râu bạc bế
cu Chuyên mang sang đưa cho tôi, tôi ú ớ không dám nhận nuôi con ông giáo, thế
là ngài bồng cu Chuyên đi mất. Không xong rồi…” Khê
nghe chỉ cười, chuyện mộng mị vớ vẩn. Nào ngờ chỉ tới sáng hôm sau là cu Chuyên
bỏ bú, đùng đùng sốt cao. Vân cho uống một liều thuốc giải cảm của trẻ sơ sinh.
Vẫn không giảm sốt. Anh Luân anh Hải nghe cấp báo vội chạy tới. Thằng bé nằm li
bì, không khóc một tiếng. Tới xế chiều, quyết định mượn xe đạp đưa lên bệnh viện
tỉnh. Thì đột nhiên cu Chuyên mở to mắt, thảng thốt kêu một tiếng “mẹ!” rồi thiếp đi luôn. Anh Hải vội
bấm huyệt, rồi đập cái chai lấy mảnh nhễ. Dưới gan bàn chân bé tí xíu ứa ra từng
giọt máu tím bầm. Không cứu kịp nữa rồi! Bó cu Chuyên trong tấm chăn trấn thủ
mà Khê mang về từ rẻo cao Pa Chải, anh Hải cùng một cậu trai hàng xóm mang ra đồng
chôn. Anh Luân ở lại giữ không cho anh Khê chị Vân đi theo. Mãi chiều tà hôm
sau, cậu trai hàng xóm mới đưa anh Khê ra đồng thăm mộ con. Trời ơi,
ai xui ai khiến: nấm đất lùm lùm bé tí sao lại nằm dưới gốc đa định mệnh đúng
chỗ tháng trước Văn Khê ngồi xi cu Chuyên tè. Ôm nấm đất lạnh, Khê rùng mình nổi
gai ốc. Tay chân tê dại. Đầu nóng hầm hập. Hai tai bùng nhùng ong ong
thật thế a thần cây đa ma cây gạo…?
Chị Vân ốm một trận mê mết, khỏi
bệnh là vào cuộc…đẻ bù. Thi gan với trời đất quỷ thần!
Đầu năm 1961 đẻ con gái. Giữa năm 1962 đẻ tiếp, con trai. Rồi cứ thế, ba năm
đôi, một gái rồi một trai. Sau 15 năm, tới 1975, đẻ đứa thứ 10, trai út! May nhằm
thời chiến, đất nước thôi không cần “sinh đẻ có kế hoạch”, bởi tiền tuyến hậu phương đều khát nhân lực, trai đi bộ đội,
gái vào thanh niên xung phong. Anh Khê tắc lưỡi: trời sinh voi trời sinh cỏ. Cỏ
ở đây tức là rau dưa vườn nhà, thịt trứng chuồng nhà! Cái khó nhất là cơm ăn áo
mặc, thì đã có tem phiếu Nhà nước cấp cho mua mỗi tháng tạ rưỡi lương thực, mỗi
năm 50 mét vải! Đàn con ào ào như voi phắt lá tre. Được cái cả lũ học giỏi làm
chăm. Xin ruộng phần trăm của hợp tác xã để cấy lúa, trồng rau, nuôi heo nuôi
ngỗng. Xin cả đất đào đóng gạch mộc. Rồi kéo xe cải tiến ra bờ sông Hoàng Long
đón xà lan mua than về nung. Được ba vạn gạch đỏ au. Bán bớt một vạn lấy tiền
mua vôi mua gỗ. Còn hai vạn đủ xây nếp nhà hai gian hai tầng. Nom lênh khênh
như cái chuồng chim. Nhưng là ngôi nhà tầng đầu tiên ở làng. Đông con nên cần
kiệm lo xa, ky cóp từng đồng, tháng nào cũng xén một phần lương mang ra ngân
hàng gửi tiết kiệm. Mỗi đứa con lại có riêng một sổ tiết kiệm, cóp nhóp tiền
mót lúa, bán rau để tự túc sắm xe đạp đi học. Vốn liếng nào có nhiều nhặn gì,
thế mà cũng liểng xiểng với hai vố “đổi tiền 10 đồng
còn 1” năm 1978 và năm 1985. Ngay cái “chuồng
chim hai tầng” cũng suýt nữa sinh vạ: năm 1982 Khê-Vân
bị liệt vào danh sách mấy trăm “nhà lầu giàu có”’ của tỉnh, theo “Kế hoạch Z30” của trung ương thì phải “kiểm tra
hành chính”, tịch thu! May có ông bí thư tỉnh ủy Nguyễn
Văn An chặn lại ở phút cuối, không cho áp đặt vào Hà Nam Ninh theo lệnh miệng của
ai đó – sau khi Hà Nội đã triển khai gây nhiều bức xúc.
Đợt thực hiện Z30 ở Hà Nội, Văn Trí thực mục sở thị. Gần tòa báo 14 Lê Trực có
ngôi nhà hai tầng nho nhỏ, tầng trệt đặt cái ghế cắt tóc. Chính chủ nhà cầm
tông đơ. Trí cứ ba tuần một lần sang đó cho ông ta mặc sức vít đầu vít cổ. Năm
1982 thình lình xe tải xịch tới tịch thu sạch - mà hàng phố chẳng ai biết ông
thợ húi đầu hiền lành mắc tội gì. Hà Nội xáo xác hàng trăm gia đình oan ức.
Toàn người làm thợ, buôn bán vặt vãnh, cực khổ dành dụm được chút ít, nào ngờ
ki cóp cọp xơi.
Thì gia cảnh anh Khê cũng thế thôi.
Chuồng chim hai tầng nhét hai chục con người. Nghe nói có dạo anh Khê còn đặt
trước hiên cái ghế di động cắt tóc chớp nhoáng ban trưa. “Mỗi
trưa cắt ba cái đầu, một tháng cắt chín chục đầu, mỗi đầu ba hào, vị chi thu
hăm bảy đồng, bằng nửa tháng lương cán sự một!”
Anh Hải hi sinh rồi! Hải trở về miền
quê Trị Thiên chiến đấu từ 1966, hi sinh năm 1972 ở Thành cổ Quảng Trị. Con trai
đầu của Hải - Na, cháu Sơn, tốt nghiệp đại học quân sự, về cơ quan tỉnh đội nối
nghiệp cha. Còn cháu gái, tên Thủy, sinh năm 1965, tốt nghiệp cao đẳng sư phạm
về Hoa Lư dạy học và lấy chồng, lấy đúng trưởng nam nhà Khê-Vân. Chị Na nghỉ
hưu, bèn xin đất làm nhà cạnh “thông gia”, tắt lửa tối đèn có nhau. Anh chị Luân –
Báu cũng theo về, mở cửa hàng may. Ba gia đình họp thành một “Xóm
Lê Khắc” đất Hoa Lư có trên ba chục khẩu. Chị Na, chị
Báu, chị Vân gần gựa quấn quít còn hơn ruột rà. Ba chị em xa quê cùng cảnh ngộ,
trắc trở ẩm ương từ thuở cưới chồng, về già quý thương nhau gấp bội.
Sau cu Tân,
chị Báu sinh thêm hai cô gái còn xinh hơn mẹ, lại hay lam hay làm và khéo tay
như cha. Hiệu may hút khách vùng ngoại thị, nhẩn nha đủ sống. Chỉ buồn là thằng
Tân học đại học bách khoa được hai năm thì bỏ ngang về làm thợ sửa xe máy, tính
nết ẩm ương như thằng “chập mạch”.
Bà ngoại, cũng là bà nội, rầu rĩ héo hon, qua một trận cảm lạnh, liệt giường,
đi luôn, nhẹ như cơn gió thoảng. Niềm an ủi cuối đời là bà được dự đám cưới của
cháu gái. Nó dạy toán cấp 2, lấy chồng, chính là cu Sơn nhà anh chị Hải Na.
Anh Luân vẫn không nguôi
ước nguyện hồi hương chăm nom hương đèn từ đường. Tính toán lùng nhùng như gà mắc
tóc. Chả lẽ bỏ Báu và con cháu ở lại Hoa Lư? Còn dắt díu về nhận họ hàng, làm
sao giấu thân phận? Để rồi thắp hương khấn khứa trước di ảnh ông cha, rờn rợn
nghe câu quở trách: con ơi, đã mang tên Khắc Luân sao quên lời thiêng đất trời
cảnh báo? Ờ nhỉ, tổ phụ nghĩ sao mà khai mở dòng Lê Khắc? Gốc tích từ đâu? Luân
đã tra sử sách. Ngày 16 tháng 6 năm 1448, Lê Nhân Tông chỉ dụ lập đoàn quân nam
tiến phạt Chiêm mở mang bờ cõi. Trong số 281 chư tổ, công hầu khanh tướng, quận
công ấm tử thuộc Lê gia Hoàng tộc phụng chiếu tiến binh có 3 ngài Lê Khắc: Lê
Khắc Niêm, Lê Khắc Khiêm và Lê Khắc Minh. Còn một vị cao tổ Lê Khắc nữa, phẩm
hàm chót vót gần như tột bực, là Cung vương Lê Khắc Xương, cháu nội của Lê Thái
Tổ. Đó lại là một số phận bi ai cùng cực. Thê thảm suốt 3 đời. Bắt đầu từ bà nội
là hoàng hậu Phạm Ngọc Trần. Chao ơi, bậc quốc sắc thiên hương mẫu nghi thiên hạ,
mà phải nạp mạng cho thần linh thủy quái, đổi lấy ngai vàng mai sau cho đứa con
lên ba là thái tử Lê Nguyên Long - sau này là Lê Thái Tông. Mà cái ngai vàng
quyền lực đệ nhất cao sang ấy hóa ra là cái ghế quả báo chầm chậm giết người.
Năm 1442 xảy thảm án Lệ Chi Viên, Lê Thái Tông đột tử ở tuổi 20. Bốn con trai
là Lê Nghi Dân, Lê Khắc Xương, Lê Băng Cơ và Lê Tư Thành quay cuồng trong thảm
cảnh nồi da xáo thịt. Lê Băng Cơ mới 2 tuổi được lên ngôi hoàng đế, tức là vua Lê Nhân Tông. Vì là dòng đích mà không được lên ngôi
nên mùa đông năm 1459, Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân đem quân nửa đêm đột nhập hạ
sát vua Lê Nhân Tông và Thái hậu Nguyễn Thị Anh. Nghi Dân tự lập làm vua, phong
cho em là Lê Khắc Xương làm Cung vương, và Lê Tư Thành là Gia vương. Nhưng chỉ được
8 tháng, các đại thần Nguyễn
Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa trừ phản tặc, hạ Nghi Dân xuống
tước hầu để lập một người con khác của Thái Tông. Trong triều có người muốn đưa
Lê Tư Thành lên làm vua. Quan Tư Đồ Lê Lăng can
rằng: Lê Tư Thành còn có người anh là Lê Khắc Xương, không nên bỏ anh lập em để
lại dẫm vào vết xe đổ Băng Cơ - Nghi Dân. Ngày 7 tháng 6 năm 1460, Lê Lăng cùng
triều thần đến đón Cung vương Lê Khắc Xương tôn lập hoàng đế, nhưng Lê Khắc
Xương khước từ. Triều thần bèn tôn lập Gia vương Lê Tư Thành, tức là vua Lê Thánh Tông. Sau khi lên ngôi, Lê Thánh Tông không
quên chuyện cũ nên đã gán tội giết chết Lê Lăng và bắt hoàng huynh Cung vương đổi
sang họ Bùi nhằm loại bỏ dòng dõi hoàng tộc của Lê Khắc Xương, khỏi lo hậu họa!
Năm 1480, con của
Khắc Xương là Lê Chân (lúc này đã đổi họ thành Bùi Chân) đưa gia đình về quê
ngoại là làng Thượng Trưng phủ Bạch Hạc trấn Sơn Tây, khai sáng dòng họ Bùi
danh tiếng ở vùng Vĩnh Tường Vĩnh Phúc ngày nay.
Ờ nhỉ, biết đâu anh em
Luân Khê, gặp vận xui rủi vùng tìm lối thoát, sẽ theo gương tổ tiên mở ra chi
nhánh Lê Khắc trên đất cổ Lê Đại Hành hoàng đế! Không biết Trung phụng đại phu
Văn Xuyên Bồ Nam trù liệu thế nào khi chọn dùng chữ “Khắc”? Phải chăng đường đời người lót tên chữ “Khắc” thường trắc trở gian nan? Chữ “Khắc” có phải là lửa thử vàng gian nan thử sức, là đường dài tỏ
tài tuấn mã, phong ba phỉ chí chim bằng? Mai mốt về quê, anh em mình xin các bậc
trưởng thượng lý giải cội nguồn tổ phụ Lê Từ khởi xướng dòng Lê Khắc…
Chương 6 - Một người mẹ chưa được vinh phong
Là Mạ đấy.
Nói đúng ra, thì quả là Mạ
chưa hề được chính phủ tấn phong danh hiệu vinh dự gì gì đó, chứ do…chính con ông tri phủ vinh phong thì ít nhất cũng đã một lần.
Lần đó, Mạ trở thành nhân vật hữu xạ tự nhiên hương tiếng thơm đồn đại tận các
trường học ven biển xa, rẻo núi cao, được các giáo sư văn học phẩm bình, xưng tụng
điển hình con người mới.
Nguyên là vào một ngày đẹp trời
mùa hè 1961, con trai Mạ bỗng dưng nổi hứng văn chương, sững sờ nhìn Mạ lúc
lâu, kêu tướng lên “đây rồi” và
vớ giấy bút nghí ngoáy biên soạn câu chuyện có cái nhan đề vu vơ Chân trời
xa xôi, kèm cái phụ đề sát sạt “Kính tặng mẹ thân
yêu của những nhà giáo chúng con”. Xưng danh “những nhà giáo chúng con” là có ý
thay mặt 9 người con gái, con trai, con rể, con dâu của Mạ lúc ấy đang hành nghề
dạy học. Đề tặng Mạ bởi Mạ là nguyên mẫu nhân vật trung tâm.
Vào truyện, Chân trời
xa xôi kể rằng “Cả dãy phố nhỏ này gọi cụ là
bà cụ Huế, nhưng thực ra không ai biết đích xác quê cụ ở đâu. Tờ mờ sáng, cụ đã
khóa cửa đi làm, điếu thuốc sâu kèn to bằng ngón tay cái vắt vẻo trên môi. Cụ
bước rất nhanh, đôi vai hẹp và gầy chúi về phía trước, búi tóc bạc phơ như phủ
đầy sương trắng rung rung sau gáy…”
“… Năm vừa
qua, hai mẹ con sống với nhau trong căn nhà ấy, sớm sớm cùng đến trường sư phạm
cấp một thị xã. Con đi học, mẹ làm cấp dưỡng. Cô con gái đi trước, tay khẽ vung
vẩy, tiếng hát trong trẻo quyện lấy làn không khí ngọt ngào buổi sáng. Bà mẹ bước
sát sau lưng con gái như bị hút theo tiếng hát…”
Câu chuyện kết thúc, “…thấp thoáng hiện lên hình ảnh cô giáo trẻ dũng cảm đang bước
nhanh thoăn thoắt trên đường rừng, tiếng hát trong trẻo vút lên át tiếng suối
reo. Ngay cạnh cô là bà mẹ già đáng kính, phải, bà cụ Huế, điếu thuốc sâu kèn vắt
vẻo trên môi, và búi tóc bạc phơ như phủ đầy sương trắng nhảy nhót rung rung
sau gáy.”
Ngoại hình Mạ y sì như vậy.
Ngoại hình ấy tương xứng với vẻ đẹp nội tâm, tính cách, được miêu tả thể hiện bằng
tấm lòng chân thực con trai yêu quý mẹ. Nên Chân trời xa xôi được
trao giải nhất một cuộc thi văn chương cấp quốc gia. Hai thể loại văn xuôi và
thơ cuộc thi ấy chỉ có một giải nhất. Đồng chủ khảo là hai chủ soái văn đàn thi
đàn thời điểm ấy, Nguyễn Công Hoan và Xuân Diệu. Đoạt giải có tới vài chục tác
giả quen thuộc như: Giang Nam, Xuân Sách, Định Hải, Nguyễn Quang Thân, Ma
Văn Kháng, Nguyễn Khắc Phê, Nguyễn Bùi Vợi… Có thể nói,
các tên tuổi lừng lẫy ấy đã vui lòng nhường giải độc đắc cho - không phải cây
bút tiểu tốt vô danh con trai Mạ, mà là - chính người mẹ đáng kính, nguyên mẫu
nhân vật trung tâm, bà cụ Huế.
Mạ đấy. Bà mẹ ấy dắt đàn con nhỏ
rời quê hương đi kháng chiến. Hai người con xanh cỏ trên đường kháng chiến. Mười
người con đỏ ngực Huân chương kháng chiến. Còn người mẹ, chưa tới ngưỡng vinh
phong anh hùng kháng chiến, không hề nhận lãnh một tấm huân chương, nhưng nếm
trải hết thảy gian khổ đau thương của bầy con trên đường dài kháng chiến 30
năm.
Chia làm hai chặng.
Chặng đầu, từ năm 1946 ra đi, Mạ
là mái ấm che chở cả bầy con xúm xít bên trong, suốt đợt trường chinh không một
phút nguôi ngoai mơ tưởng ngày chiến thắng trở về đoàn tụ “…Nga-Tình-Mộc-Khuê-Triêm-Bình lại sống những ngày êm đềm bên
tre xanh”.
Chặng sau, từ năm 1954, thôi
thôi không hi vọng nữa. Mai sau “trong toán quân về
đếm thiếu những ai?” Liệu có còn ai? Rơi rụng dọc
đường hết mất rồi! Nghê và Tình đã nằm lại từ kháng chiến 9 năm. Bích Hà đã
theo chồng trở vào Huế. Quê, Bình, Triêm, Mộc đã lấy chồng ở Thanh Hóa, Hà Nội.
Hai trai còn lại, Văn Trí và Lê Khắc Hân, y như rằng, lớn thành người là cơ
quan hữu trách điều động về Thủ đô công tác, một viết báo giáo dục và một viết
sách giáo khoa.
Mạ về Huế một mình ư? Về
rồi ở đâu? Biết chắc không bao giờ có thể trở lại cái làng Văn Xá thanh bình êm
đềm ngày xưa. Mạ về làm chi. Làm mẹ à, không có con thì sao có thể làm mẹ. Làm
ruộng à? Làm gì còn ruộng, mặc dù mẹ vẫn kè kè nâng niu gìn giữ tập bằng khoán
điền thổ cho tới ngày toàn thắng. Mẹ hoảng hốt hình dung rõ mồn một chuyện gì sẽ
xảy ra ở quê nhà mai sau, bởi mẹ từng sống giữa xóm làng Thanh Hóa những ngày
thổ cải rung trời chuyển đất, từng chia sẻ nỗi đau của bao người bị oan uổng tịch
thu nhà cửa, ruộng vườn, những nhà nông thuần phác hay lam hay làm mà gia sản
và mức sống không thể sánh với “nhà mình-” ở làng Văn.
Năm 1954-1955, tràn ngập
xứ Thanh, cùng lúc với niềm phấn chấn hòa bình thắng lợi là nỗi lo buồn đói
kém. “Chưa có năm nào khổ như năm nay”. Khổ tại địch hại ta. Tàu bay giặc năm ngoái trút bom
phá tan đập Bái Thượng, nông giang năm nay cạn trơ, hàng vạn mẫu lúa thiếu nước
tưới, mất mùa. Khổ tại ta hại ta. Lớp cốt cán đầy tài năng quản lý, giàu kinh
nghiệm sản xuất của ta đã bị chính ta tiêu diệt và đánh đổ, thay thế bằng những
người chưa từng cắp sách tới trường, cầm cày thành thạo mà cầm bút lóng ngóng,
chỉ biết ký tên dưới văn bản bằng cách đánh một chữ thập nguệch ngoạc hoặc
khoanh một vòng tròn meo méo, hoặc là những nông dân nghèo rớt mồng tơi quanh
năm cần cù nhẫn nại theo trâu chứ làm gì biết cách tổ chức khoa học toàn bộ
công đoạn làm ra hạt lúa, bắp ngô trên từng vùng thượng đẳng điền, hạ đẳng điền
mang đặc thù thổ nhưỡng thổ nghi. Lại thêm khổ vì trời hại ta. Dường như thượng
đế nổi trận lôi đình với tội lỗi sai phạm của các bên, ra oai trừng phạt bằng
thiên tai. Nắng hạn chưa từng có đi liền mưa bão chưa từng có.
Mạ và út Hân 12 tuổi phải “ra riêng” tìm đường sống. Giai đoạn
1946-1953, Mạ và Hân vừa sống bằng nguồn chu cấp của Cậu (là vàng lá dự phòng
và tiền tuất từng quý), vừa do hai chàng rể quý là Trần Văn Kinh và Kiều Hữu
Văn cung phụng. Sang năm 1954, khi hai ông anh cọc chèo không còn ở Thanh Hóa,
thì hai chàng rể Đỗ Văn Nhu (chồng chị Bích Khuê) và Lê Trần Cảnh (chồng chị
Thiếu Mộc) tiếp tay mỗi người đỡ đần tạm thời đôi ba tháng. Tới giữa 1954 đói
kém thì cạn kiệt nguồn cấp dưỡng!
Vừa may, xuất hiện chàng rể mới: anh
Nguyễn Đình Cơ chồng chị Xuân Triêm. Anh Cơ là tú tài từ Hà Nội theo kháng chiến,
dạy trường cấp 2 Hoằng Hóa. Anh được thân phụ, giáo sư Nguyễn Đình Phong, đang
dạy trường Bưởi ở Hà Nội, tháng tháng gửi tiền chu cấp. Anh Cơ biếu Mạ tiền vốn buôn
bán. Nói thế cho oai, chứ kỳ thực một vạn đồng bạc ngân hàng Việt Nam năm
1954 chỉ vừa đủ sắm sanh một gánh hàng xén.
Gánh hàng xén này đánh dấu chấm
dứt 57 năm Mạ sống nhờ vào cha là quan thượng thư, chồng là quan tri phủ và
mươi người con là trí thức lớn nhỏ của nhà nước cộng hòa dân chủ. Ở tuổi thiên
hạ nghỉ hưu, Mạ bắt đầu chặng đường mới dằng dặc 20 năm tay làm hàm nhai tự kiếm
sống. Không muốn chường cái thân phận mụ hàng xén nghèo khổ làm xấu mặt (!)
mươi đứa con trai gái dâu rể đang làm cô làm thầy quanh quanh trung tâm huyện
Hoằng Hóa, Mạ chọn nơi mưu sinh là chợ Giầu, cách chợ Phủ Hậu Lộc 4km. Vừa đủ
xa để tránh tai mắt thị phi, vừa đủ gần để tiện con cháu chớp nhoáng tạt qua
thăm nom. Mạ và Hân tá túc ở cái quán tuềnh toàng ven đường, ngày ngày quảy
hàng xén ra chợ Giầu ngồi bán. Chuyển dịch cho được mớ hàng họ lỉnh kỉnh vặt
vãnh rẻ tiền, trên đoạn đường ngàn mét lổn nhổn đá củ đậu, là cả một cực hình.
Mạ lê từng bước, hai bàn tay bợ đòn gánh, san bớt sức nặng nghiến lên bả vai gầy
giơ xương đã đệm mấy lượt áo cũ. Cứ trăm mét lại đặt gánh, ngồi sụm thở hổn hển.
Nhúc nhắc qua ngày.
Năm 1955, xuất hiện tình huống
mới: chị Xuân Triêm sinh cháu gái đầu lòng Thu Hương. Anh Cơ mời Mạ về. Không
có mẹ già đỡ đần thì anh chị đi dạy sao được. Tiếp đó là 20 năm Mạ sắm vai “đại sứ lưu động”, vì Thiếu Mộc đẻ
thêm (liền liền cho tới đứa con thứ 11, phá kỷ lục của Mạ và chị cả Bích Hà),
chị Xuân Triêm sinh cháu Nguyễn Tiến Thanh năm 1960, chị Bích Khuê sinh cháu Đỗ
Vũ Hùng năm 1962, tiếp đó là áp út Văn Trí sinh Lê Khắc Ái 1963, rồi út Hân
sinh Lê Khắc Hoài Nam 1964... Thậm chí, năm 1973, khi Mạ đã 77 tuổi lọm khọm,
anh Cảnh còn ra Hà Nội đón Mạ vào chăm trai út Lê Lam Phong, nệ rằng út trai Lê
Khắc Cường của Đức Trí đã 4 tuổi (dè đâu năm 1975, Đức Trí “tam
nam” còn “phấn đấu” sinh thêm kỳ được cô con gái Lê Khắc Hồng Ngọc, mà cả nhà
âu yếm kêu bằng út gái, còn chính nó thì khăng khăng con là trưởng nữ!). Bầy
con của Mạ sẻ đàn lập tổ, tơi tới tranh nhau đón Mạ. Một mẹ già bằng ba… ba cái gì nhỉ, người nhà quê thì bảo là bằng ba mẫu ruộng,
còn số đông cán bộ nhà nước nói toạc là bằng… ba đứa
ở.
Thì đúng là bằng “ba người giúp việc nhà - ba ô-sin”
chứ gì nữa. Người thứ nhất là quản gia, giao phó xử lý việc lớn nhỏ khi mình vắng
nhà, còn ai hơn Mạ? Hai là đầu bếp, thôi khỏi nói về tài gia chánh chợ búa nấu
nướng xáo xào. Ba là vú nuôi, Mạ đẻ 9 lần đều có vú nuôi, nhưng vẫn tự tay tỉ mỉ
săn sóc con, nên kinh nghiệm đầy mình.
Sướng nhất cho đàn trẻ là
được nuôi dưỡng bằng tình thương con thương cháu vô bờ bến của bà mẹ Huế. Còn
nhớ dạo ở với anh Văn chị Nghê, có tiêu chuẩn đặc biệt mỗi tuần nướng hai gắp
thịt dành riêng Mạ bồi dưỡng. Nhưng bên cạnh Mạ lù lù hai thằng út, đẻ cách
nhau 5 năm mà vẫn chành chọe, thằng anh tính cục, thằng em tính chướng, vừa
chơi đùa vừa trêu chòng nhau. Tới tận lúc đi ngủ, Mạ nằm giữa “thiết
quân luật”, tách hai đứa hai bên, mà thằng em còn cố
khoèo chân thọc sang gây sự, thằng anh thò tay cấu chí trả đũa, hai đứa la oai
oái chẳng biết phân xử cách nào. Mạ chỉ hấm hứ cười trừ: hai thằng giặc. Ai biếu
Mạ món chi ăn được, dù chỉ là cái bánh đa vừng hay túm ổi chín, Mạ kêu một tiếng
là hai thằng nhào vô thi nhau ăn, còn Mạ ngồi í a ngâm ngợi: của không ngon
đông con cũng hết. Biết tính Mạ như thế nên hễ tới giờ đặc biệt “xử lý hai gắp thịt nướng” là chị
Nghê bảo Trí và Hân ra đường chọi đáo quăng khăng chi đó với trẻ hàng xóm, rồi
chị ngồi kề bên ép Mạ ăn đi ăn đi. Mạ chẳng việc gì mà vội vàng, cứ thư thả vừa
ăn vừa nói “bữa ni Mạ mệt hay răng đó mà ăn không thấy
ngon” ( Mạ có kiểu “kêu mệt” đột xuất mà chị Nghê biết tỏng!). Ngắc ngứ ăn hết một gắp,
Mạ kêu “ớn quá, ớn quá” rồi dứt
khoát: thôi Mạ không ăn nữa, đậy lồng bàn chút nữa hai em đi chơi về Mạ nhờ nó
ăn dùm cho Mạ”. Đúng là “ăn dùm
cho Mạ”- khi hai thằng con vồ lấy thịt nướng nhai ngấu
nghiến, thì Mạ hết mệt, cười hể hả. Hẳn nhiên miếng thịt con mình nó đang ăn
ngon lành gấp mấy miếng thịt khi nãy mình ăn… Hai
gắp thịt nướng thành giai thoại. Đến nỗi về sau, khi Mạ ở nuôi con cho chị
Triêm, chị Mộc, hễ có món ngon dành riêng biếu Mạ, các chị đều “ra sức đôn đốc” này này Mạ ăn hết
ngay đi nghe, đừng có mà diễn lại màn kịch cũ mèm “hai
gắp thịt nướng”.
Bây giờ con lớn cả rồi thì trút
tình thương sang cháu nội ngoại (tổng số 32 đứa). Đang làm gì đó mà nghe cháu
khóc ẹ một tiếng là bỏ hết chạy lại. Khi nào lên cơn thèm điếu Cẩm Lệ
(thơm nồng với mình, khét mù với cháu) thì Mạ tránh thật xa cháu kẻo nó hít
khói thuốc hại phổi. Có thể viết hàng chục trang sách kể chuyện bà chăm cháu.
Riêng việc bón bột cũng nhiêu khê. Quấy bột xong, chưng nước lã, phe phẩy quạt
giấy cho nguội khỏi bỏng miệng cháu, chứ không dám thổi phù phù sợ bắn nước bọt
mất vệ sinh. Đút thìa bột, dỗ dành nịnh nọt cháu há miệng, bà cũng nuốt nước bọt
ực một cái, ngon lành, y hệt bà cùng ăn, hai bà cháu nhập thành một tự lúc nào.
Xoay xở từng ấy việc nhà, Mạ
luôn tay luôn chân. Gà gáy là se sẽ trở dậy, lúi húi dọn dẹp bếp núc. Trưa chỉ
chợp mắt một chút lại trở dậy lúc thúc một mình. Con cái nhắc Mạ nằm nghỉ tí đỡ
mỏi lưng thì Mạ sửa lại rằng càng nằm càng mỏi, để cho Mạ xắng xở công kia việc
nọ thêm khỏe người. Toàn thứ linh tinh nhưng việc nhà không bao giờ hết. Tính Mạ
lại cẩn thận. Đến cái rế cũng kỳ cọ thật sạch, cái nồi nhôm sau mỗi bữa ăn là rửa
trong rửa ngoài “kẻo nhọ bếp dính đen thui ngó chướng
con mắt”. Con cái nịnh Mạ siêng năng thì Mạ hớn hở quay
ra nêu gương… cụ Thượng “ông
ngoại rèn cặp từ thời Mạ con gái, ông hết việc trường Quốc học thì về nhà làm
vườn, tưới cây, ông rủ con cái cùng làm, bảo chơi nhởi cả ngày hư thân…”
Khi nào con cái tỏ ra
chăm chú lắng nghe, Mạ không bỏ lỡ cơ hội, “khoe” thêm. “Ông ngoại nói tiếng tây như
gió, xi lô xi la, nghe hay hơn thằng tây nói” (Chuyện!
Du học Pháp 7 năm mà lại, giỏi chi mà giỏi- Văn Trí dèm trong bụng). “Ông là thầy giáo dạy cụ Hồ nữa kia.”
Văn Trí trêu: à, sao Mạ không kể chuyện ông ngoại mình rất chi là quý cậu học
trò cưng Ngô Đình Diệm? Mạ bẽn lẽn: ờ, chuyện lâu quá rồi Mạ già Mạ quên. (Trí
lại cười thầm: có mà quên. Sợ mới đúng. Những năm 1955-1963, loa phát thanh miền
Bắc không ngơi hô hào “đả đảo Mỹ-Diệm”!).
Tháng Giêng 1963, vợ Trí
là Đức sửa soạn sinh con đầu lòng. Mạ hớn hở bảo lũ cháu ngoại ở Thanh Hóa: các
cháu cho bà đi nuôi con cậu Trí nghe! Rồi lên tàu hỏa ngược ga Tiên Kiên lên
vùng đồi cọ Lâm Thao Phú Thọ. Dạo ấy, Trí-Đức đang ăn cơm bếp tập thể giáo
viên. Mỗi suất ăn có ba lưng bát cơm lổn nhổn độn sắn, bát canh rau lõng bõng
nước xanh lơ và một nhúm tép kho. Đức mang thai gần ngày sinh cũng không hề có
thức ăn thêm, tới bữa gẩy gẩy tách từng hạt cơm, ăn chút cơm cho xong, còn sắn
lát trả nhà bếp nuôi heo. Bữa đón Mạ, ra chợ mua thêm được 4 bìa đậu, không có
mỡ rán, luộc chấm nước mắm. Vui vẻ ăn xong, Mạ soạn giấy bút ngồi cặm cụi biên
thư cho chị Triêm. Bọn học trò cấp 2 Lâm Thao, cấp 3 Long Châu Sa đi học ngang
qua, quây vào xem như xem xiếc. Chuyện lạ lần đầu thấy ở vùng quê ấy: bà lão
tóc bạc bập bập điếu thuốc sâu kèn nheo nheo hai mắt không đeo kính hí húi viết
thư. Bọn trẻ tinh nghịch “chỉ xếp sau quỷ và ma” xì xầm bàn tán: “Ơ hay nhỉ, y hệt
câu ca dao Bà già tuổi đã tám tư/ ngồi bên cửa sổ viết thư lấy chồng”. “Láo toét, tao mách thầy cô bây giờ.
Chính là bà cụ Huế đấy, loa phát thanh tả y hệt, thế mà bọn mày
không nhận ra” (Dịp 20-11-1962, ngày quốc tế hiến
chương các nhà giáo, đài Tiếng nói Việt Nam phát đi phát lại truyện ngắn Chân
trời xa xôi khiến cả ngàn học sinh Lâm Thao râm ran khoái chí về “tác phẩm được giải nhất của thầy giáo trường ta!”).
Viết xong, Mạ giở túi trữ
cả tệp phong bì và tem, lấy cơm nguội dán bì thư, rồi xăng xái hỏi bỏ thư ở chỗ
nào. Trí nói dối, xa lắm, Mạ để con bỏ dùm. Rồi mượn xe đạp (mãi năm 1964 Trí mới
tậu được xe đạp) phóng ra bưu điện Lâm Thao. Không thể nén tò mò, Trí ngồi ở ghế
bưu điện rón rén tách mép phong bì, lấy thư ra xem Mạ viết những gì cho chị
Triêm. Từ đầu chí cuối say sưa kể chuyện “vợ chồng em
Trí đón tiếp Mạ rất chi là nồng hậu”. “…Mạ vừa tới thì em Đức bưng ra thau nước nóng mời Mạ rửa ráy
rồi mời vô giường nằm nghỉ. Một lúc thì mời mạ dậy “thời
cơm”(xơi cơm). Ui chao, hạt gạo Lâm Thao nấu thành cơm
thơm điếc mũi, cơm trắng bóc dẻo mềm rất vừa ý Mạ. Các em mua sẵn con gà mái tơ
thiệt to, lúc Mạ tới em Đức mới mổ gà, rứa mà hút tàn điếu thuốc đã bưng lên đủ
món gà xé phay, gà luộc, miến xào lòng gà. Hai em cứ ép Mạ ăn cả cái đùi gà mà
Mạ thì ớn quá… Thôi thế các con trong Thanh Hóa yên tâm
về Mạ. Mạ ở Phú Thọ sung sướng lắm, con trai con dâu đều thương quý chiều chuộng
Mạ, rứa là đại phước…”
Từ đấy, cứ nửa
tháng Mạ biên thư một lần cho các con gái trong Thanh Hóa. Toàn kể sung kể sướng.
Lần đầu đọc những dòng mô tả “ bữa tiệc thịnh soạn
trong mơ”, Trí nghĩ thầm: Mạ rõ hão huyền. Thời buổi một
miếng sắn cõng ba hạt cơm mà đòi hỏi nem công chả phượng! Nhưng sau thì Trí ngộ
ra. Thư Mạ không có dòng nào kể sự thật phải cùng con cháu chịu đựng chia sẻ
thiếu thốn vất vả, cũng không một dòng trách móc giận lẫy con trai con dâu lúc
này lúc khác mải việc trường và chăm con nhỏ mà ơ hờ vô tâm sao nhãng hỏi han
săn sóc mẹ già. Toàn những dòng thật ít bịa nhiều kể chuyện ngọt bùi, nức nở
khen dâu con thảo hiền cháu nội dĩnh ngộ. Trí hiểu lòng mẹ. Mạ muốn bầy con xa
yên tâm về Mạ và cả đàn cháu con đông đúc dù không sống gần nhau vẫn luôn nghĩ
tốt về nhau.
Cuối năm 1962 vào
Thanh Hóa đón Mạ, Trí tạt qua Hà Nội, dạo hiệu sách Tràng Tiền, tình cờ vớ được
cuốn hướng dẫn làm bếp “Những món ăn nấu lối Huế”. Hí hửng nghĩ thầm: chấm dứt mười năm ăn cơm bếp tập thể do
mấy bà mọ cấp dưỡng chân quê chỉ biết chém to kho mặn. Bà cụ Huế nấu ăn theo
sách Huế! Thoạt mường tượng là nước dãi đã tứa ra rồi.
Cầm sách trên tay, Đức giở
loạt soạt xem lướt từ đầu tới cuối, rồi giả bộ ngơ ngác: “Ủa,
sao thiếu mấy bài nhà ta cần áp dụng hàng ngày như “cơm
độn sắn nấu lối Huế”, “rau muống
xào không dầu mỡ kiểu Huế” hay “tép
đồng kho nước muối lối Huế”? Trí ngớ ra: ừ nhỉ. Tóm lại
là cả nhà nhiệt liệt hưởng ứng món ăn nấu lối Huế, duy chỉ có không đào đâu ra
nguyên liệu thịt cá đường mỡ vân vân. Suốt 20 năm, cuốn sách số phận hẩm hiu ấy
không hề giúp được cho ai thi thố tài năng dù chỉ một lần.
Thực phẩm tiêu chuẩn mua
bằng tem phiếu, định lượng mỗi tháng cán bộ E (hạng bét) như Đức, Trí được 3 lạng
thịt, Mạ là “nhân dân” N thì 1
lạng thôi. Cho dù cửa hàng thực phẩm quốc doanh trưng biển “hôm
nay bán thịt cán bộ”, cũng lơ đi, rình có mỡ nước mua tất,
dẻ sẻn để dành, mỗi bữa ăn rón rén nêm nửa thìa mỡ cho “trơn” cổ họng.
Ai đó cứ hay kêu bằng “sổ gạo” là sai to. Chữ in rành rành
trên tờ bìa hộ gia đình là “Sổ lương thực”. Hàng tháng cán bộ được 13 ký rưỡi, người “ăn
theo” như Mạ thì 10 ký. Nhưng phải độn. Kho lương thực
có ngô hoặc sắn thì độn 30%. Có bột mì hay hạt bo bo thì phải 50%, có khi 70%.
Mạ trổ tài chế biến. Nhận sắn củ về thì mài ra thành bột làm bánh. Ngô thì phải
ngâm nước vài giờ rồi cho vào nồi đun sôi lục bục một lúc mới đổ tiếp gạo vào,
cơm độn mềm Mạ ăn được. Nhận bột mì thì cán ra thành sợi. Mạ chỉ được đặc cách
dành riêng một niêu cá đồng kho tiêu với nước mắm mặn chát ăn cho đỡ tốn.
Đầu năm 1964, Mạ “biệt phái” đi giúp vợ chồng Hân Hà
cùng là giáo viên trường cấp 3 Gia Lộc Hải Dương đẻ Hoài Nam, con trai đầu
lòng. Chưa hết năm, Mạ đã quay về Phú Thọ vì mùa hè 1964 Đức Trí đã “năng suất” thêm con trai thứ hai, Lê
Khắc Thao. Đúng năm ấy, chiến tranh phá hoại từ vùng “cán
xoong” Khu Tư leo thang ra toàn miền Bắc. Tiếp tới năm
1966, Văn Trí được điều về Hà Nội làm báo. Mạ 70 tuổi cùng Đức nuôi cháu Ái ba
tuổi rưỡi và cháu Thao vừa tròn 2 tuổi, sống giữa vùng trọng điểm đánh phá ác
liệt của máy bay Mỹ.
Tháng 3-1967, giữa buổi chiều
chủ nhật yên lành, bất đồ hàng loạt bom bi trùm lên làng Sơn Vi huyện Lâm Thao.
Chính là nơi Mạ sơ tán, thuộc ngoại vi nhà máy supe phốt phát Lâm Thao nghe đồn
có sản xuất thuốc súng. Máy bay phản lực “thần sấm” F.105 dạng vỉ ruồi từng đợt lao tới, không bổ nhào, rải những
trái “bom mẹ” to như cái thuyền
thúng phát nổ lưng trời, vung vãi những trái bom hình cầu sơn vàng to cỡ trái
cam, có đuôi chong chóng xoay tít, chạm vật thể là nổ tung. Mỗi bom mẹ chứa 350
quả bom con. Bom con có tầm sát thương 50m, mỗi quả bắn ra 300 viên bi thép bỏng
rẫy xoáy xuyên da thịt lách tìm chỗ mềm nên hòn bi chuyển dịch lung tung trong
cơ thể nạn nhân. Như trăm tấm lưới thép giết người từ lưng trời úp chụp xuống
trong phạm vi 2 km vuông. Tiếng nổ không lớn, nhưng kéo dài, lẹt đẹt lẹt đẹt dậy
lên liên tiếp các phía tưởng như không bao giờ dứt. Nghe nổ liên hồi, Đức kêu
to: nó đánh bom bi rồi! Đức là giáo viên vùng địch thường bắn phá, theo đúng
quy định trực chiến, dứt loạt bom đầu tiên là lao khỏi hầm trú ẩn, không kịp tới
chỗ tập trung lấy súng đạn, vội đội mũ rơm đeo túi cứu thương chạy như bay theo
hướng có tiếng người kêu cứu. Làng Sơn Vi nhiều nhà cháy, nhiều người chết và bị
thương, trong số người chết có 1 thầy giáo và 4 học sinh. Mạ và hai cháu nội,
Ái lên 5, Thao lên 3 an toàn dưới hầm trú ẩn. Dứt trận bom, đề phòng địch đánh
bồi, quyết định rời ngay vùng trọng điểm, chạy về bên ngoại các cháu là làng đồng
chiêm Sơn Dương. Chỉ có ba bà cháu ở với nhau, bởi mẹ hai trẻ phải bám trường.
Nửa năm mẹ
con đôi nơi như thế, đến hết hè 1967, Đức được chiếu cố hoàn cảnh chồng công
tác xa, mẹ già, con dại, cho chuyển vào dạy ở “vùng sâu
hẻo lánh” xã Thanh Đình phía gần Đền Hùng. Rừng cọ xanh
um nối tiếp. 4 mẹ con bà cháu tá túc một gian nhà trên đồi cao đầy mồ mả cũ mới.
Đêm đêm cả một quả đồi vắng lặng chỉ có ngần ấy đàn bà trẻ con. Giường Mạ kê
sát bức đố tre đan trát đất, kề ngay bên ngoài là… mả.
Mạ bảo mạ không sợ, mình có làm gì người cõi âm đâu mà họ hại mình. Chỉ có bữa
nào ban ngày thân nhân tới thăm mộ thắp hương cúng quảy kêu khóc cha ơi mẹ ơi
con ơi rền rỉ thì ban đêm Mạ trằn trọc rờn rợn nghĩ tới thi hài đang nằm cách Mạ
chỉ một hai mét! Ban ngày, Mạ tha thẩn vào rừng cọ nhặt củi, đỡ tốn tiền mua.
Chỉ khiếp rắn. Rắn nhiều vô kể. Những ngày mưa to gió lớn, bà ngồi ôm cháu
trong nhà nhìn ra sân, thấy rắn mẹ rắn con bị nước xối lút ổ dẫn nhau bò cả đàn
lổm ngổm. Có bữa Mạ bước vào cầu tiêu, vừa ngồi xuống thì nghe cái gì rớt trúng
lưng cái bịch, rồi một con rắn loang lổ cỡ cườm tay loằng ngoằng phóng mất hút
vào rừng. Thì ra rắn quấn trên kèo rình chuột, thình lình người vào, “chạm trán”, cả hai hoảng hồn! Không
biết có phải để đỡ vắng vẻ mà Ma động viên con dâu sinh thêm cho bà một đứa
cháu nội nữa, Lê Khắc Cường, vào đầu năm 1969!
Trận “chia lửa” cuối cùng ấn tượng sâu đậm
nhất của Mạ chính là “chiến thắng Điện Biên Phủ trên
không”- 12 ngày đêm cuối năm 1972 quân ta chặn đánh
pháo đài bay B52 ném bom rải thảm Thủ đô Hà Nội. Nói “12
ngày đêm” nhưng ban ngày hầu như yên tĩnh, chỉ giao chiến
ác liệt ban đêm. Nương theo bóng tối, có máy bay tiêm kích “con
ma” F4H yểm hộ, hàng trăm pháo đài bay B52 từ tít trời
cao rải 15.000 tấn bom hủy diệt từng vệt công trình dân sự rộng lớn rải rác từ
nội thành ra ngoại thành. Phía ta, các phi đội phản lực Mic 21 nối đuôi nhau xuất
kích chặn địch vòng ngoài. Tên lửa đất đối không, “rồng
lửa Thăng Long”, vun vút lao lên đánh địch vòng trong,
hiệp đồng với pháo cao xạ các cỡ bắn hạ 81 máy bay Mỹ, trong đó có 34 chiếc
B52.
Ba năm trước trận chiến dữ
dội đó, Đức đã đưa Mạ và các con “lết”
trăm cây số chuyển về trường Tiền Phong ngoại thành, cách trung tâm Hà Nội 20km
đường nhựa và một bến phà Chèm vượt qua sông Hồng, để hàng tuần vợ chồng con
cái được ở với nhau ngày chủ nhật.
Khu tập thể giáo viên
toàn nhà tranh lụp xụp nằm cách trận địa tên lửa bảo vệ Thủ đô chỉ vài trăm
mét. Hầm trú bom đào ngoài vườn, trữ sẵn bi đông nước và một hộp sữa hiếm hoi
Trí mang từ Hà Nội về để dành từ tháng trước. “Lỡ hầm bị
bom nổ vùi lấp, có chút sữa bà cháu ta cầm hơi chờ người đào bới cứu giúp”, bà nội giảng giải cho ba thằng cháu háu ăn. Suốt 12 đêm cả
nhà trải chiếu nằm hầm, khi nào loa phóng thanh oang oang cảnh báo “Máy bay địch cách Hà Nội một trăm hai mươi cây số”, còi và kẻng báo động nổi lên dồn dập, mới ngồi dậy. Mỗi
đêm bom dập rùng rùng ba bốn đợt. Mẹ Đức ngồi ngoài cùng, thỉnh thoảng thò đầu
quan sát dõi theo vệt sáng tên lửa đánh đuổi B52. Bên cạnh đó, bà nội ngồi che
cháu, miệng lầm rầm niệm Phật. Ái Thao Cường tay chống đất, há miệng phòng sức
ép bom nổ, chỉ khi nào bầu trời ngoài miệng hầm chợt sáng lóa như ban ngày thì
mới nghển cổ hưởng ứng tiếng hò reo dậy lên khắp nơi: pháo đài bay cháy rồi!
Sáng tinh mơ, ba đứa trẻ táo tợn dắt nhau ra tận trận địa tên lửa coi các chú bộ
đội có bị sao không, hí hửng mang về mảnh bom bằng gang nặng chịch cạnh răng
cưa nham nhở sắc lẹm, phô với bà nội rằng cháu nhặt được mảnh xác máy bay Bê
năm hai! Riêng út Cường 4 tuổi vẫn không quên hộp sữa ngon lành, lúc lúc dòm xuống
hầm coi có còn đó không, miệng chóp chép tiếc rẻ sao mãi không thấy sập hầm!
Mấy mươi năm
sống với Mạ, Văn Trí chưa chứng kiến Mạ cãi nhau với ai. Cả với con dâu, con rể,
không hề. Chỉ có đôi lần Mạ giận dỗi với chính con trai. Những lần ấy,
con thường thắng thế, mẹ luôn đuối lý.
Cái “tật” to nhất của Mạ là hễ khách khứa
của con cái tới nhà, tìm kỳ được Mạ để chào hỏi một câu cho phải phép, y như rằng
Mạ bất kể thân sơ, tranh thủ “tuyên truyền” nói hay nói tốt cho con cháu mình. Thiệt đó, con tui đứa
mô cũng giỏi dang. Tội nghiệp mấy đứa sinh sau, chưa kịp lớn thì cả nước đánh
nhau to, tản cư tản canh học hành dang dở. Riêng út Hân được các anh chị đùm bọc
phóc thẳng lên đại học, còn mấy đứa lớn èng èng tiểu học. Thế mà làm cho chính
phủ việc chi cũng giỏi. Thì đó, mấy ông chức rất to ở chỗ dạy học, làm báo, viết
sách…, hễ tới thăm tui là khen con tui số một. Đàn cháu
của tui cũng rứa, đứa mô cũng học giỏi nhất nhì trong lớp, đứa vô trường
chuyên, đứa được chính phủ cấp tiền du học. Đúng là con dòng cháu giống nòi nhà
Lê Khắc, không bao giờ kém thua ai…
Tới đó thì Trí quá ngượng với khách
nên chặn ngang:
- Mạ cứ nói rứa. Khá lên được là nhờ đảng
nhờ dân giáo dục và bản thân phấn đấu lấy cần cù bù khả năng, chứ làm chi có
chuyện dòng giống. Con người sinh ra như tờ giấy trắng, vẽ lên cái chữ cái hình
đẹp hay xấu là bởi hoàn cảnh, môi trường.
Mạ chưa chịu ngay:
- Không phải giấy trắng. Cha tui học tận
bên Tây về nói cha mẹ đẻ con ra đúng là như tờ giấy, nhưng không trắng tinh, mà
có chữ chìm bên trong. Con người lớn tới đâu chữ hiện tới đó. Chữ chìm đó là từ
máu thịt cha mẹ truyền cho con. Nên giỏ nhà ai quai nhà nấy, rau nào sâu nấy.
- Á à, đó là ông ngoại bị ảnh hưởng thuyết
di truyền học Men-đen Mooc-gân, quan điểm phản động phương tây! Nay đã bị đánh
đổ! Ngày nay là thời của học thuyết Mit-su-rin Lư-sen-cô, sự phát triển của động
vật thực vật hay bản chất tính khí con người tất thảy do hoàn cảnh môi trường
quyết định. Gió đông thổi bạt gió tây rồi Mạ ơi.
Trí thuyết thao thao. Mạ cãi sao nổi,
chỉ lắp bắp: thôi tui thua, cha con tui chịu thua các người, tui là người xưa
cũ! Rồi lủi thủi lên giường nằm lẳng lặng quay mặt vào tường một lúc lâu mới trở
dậy lúc thúc dọn dẹp bếp núc.
Một lần khác, chỉ có hai mẹ con với
nhau, Mạ làm mặt giận lâu hơn. Năm ấy, dịp húy nhật ông ngoại, Mạ bảo con ơi
năm ni ta hiệp kỵ, làm mâm cơm cúng, thắp nhang tưởng nhớ tổ tiên, cả ông bà nội
ngoại và Cậu nhà mình. Ảnh ngày xưa Mạ còn mấy bức đây. Đang bực mình chuyện cơ
quan, Trí sẵng giọng:
- Ba mươi năm không cúng
giỗ ai, sao bỗng dưng đốc chứng! Thờ cúng mà làm gì, có ích gì. Người chết là hết
chuyện.
- Mô phật. Con nói thế phải tội
với trời.
- Trời phật ở đâu ra, ai công
nhận trời phật. Mạ đi khắp làng trên xóm dưới từ Thanh Hóa ra Phú Thọ, Mạ thấy
tận mắt rồi mà. Đền chùa phá tanh bành, lấy chỗ nào mà thờ cúng. Tượng sành tượng
gỗ chất đống trong kho hợp tác xã, nhiều nơi vứt cho trẻ con bày trò chơi, thả
xuống ao, bức thì chìm nghỉm, bức nổi lềnh phềnh.
- Mô phật. Ăn ở thất nhân thất
đức rồi trời có mắt trời phạt.
- Trời phạt không bằng người phạt.
Mạ nghĩ coi, bây giờ nhà ta giở giói hương hoa thờ cúng tấm ảnh quan nhất phẩm
mặc triều phục, áo gấm, mũ cánh chuồn, đi hia, cầm hốt, khác nào lạy ông tôi ở
bụi này. Ngay bữa sau là cán bộ tổ chức giở lý lịch bọn con ra soi từng chữ coi
cái mũ cánh chuồn kê khai ở trang mấy. Ba mươi năm nay con cháu Mạ bị trù úm
lên bờ xuống ruộng Mạ còn lạ chi. Xã hội chủ nghĩa không đội trời chung với nếp
cổ thói xưa phong kiến thực dân đâu Mạ ơi!
Mạ ngồi thừ, buông
xuôi: “Mô Phật. Thôi tui thua. Mà đay nghiến báng bổ
chi nhiều tội nghiệp trời phật tổ tiên. Tại tui hết. Tui làm răng tiến bộ được
bằng các anh các chị. Tui là người xưa cũ”.
Cuối năm 1975, tuổi 78, Mạ
mãn nguyện về quê sống ở số 10 Trần Thúc Nhẫn thành phố Huế, căn nhà xưa yêu dấu
của 3 tiểu thư Nguyễn Thị Tuyết, Nguyễn Thị Lâm và Nguyễn Thị Điện. Chàng rể út
Lê Trần Cảnh ra Hà Nội đón Mạ đi tàu hỏa vào Thanh Hóa, rồi đưa Mạ ngồi xe
khách đường dài từ Thanh Hóa vào Huế.
Tết Bính Thìn 1976 là đỉnh điểm
hạnh phúc của Mạ sau 30 năm chiến tranh ly tán tha hương. Con cháu cả đàn quây
quần xúm xít bên mâm cỗ Tết đặt dưới bàn thờ phụ thân, Hiệp tá đại học sĩ Nguyễn
Hữu Mẫn, mẫu thân, quận chúa Công Nữ Kỳ Vân và phu quân, tri phủ Văn Phố Lê Khắc
Thứ.
Mấy năm bỉ cực tiếp đó, đời sống
dân Việt bị dồn tới chân tường cùng đường cùng cực. Cố đô Huế phải cuốc vỉa hè
trồng khoai cứu đói. Lại đói! Cái đói dai dẳng sau ngày toàn thắng thậm vô lý
không sao cắt nghĩa nổi. Trên đường phố, nơi công sở, trong gia đình, đụng toàn
những bộ mặt đăm chiêu ủ dột. Tất cả lo buồn.
Nhưng riêng Mạ, ở tuổi 80, nỗi
dằn vặt lớn nhất là đại gia đình ly tán bởi 30 năm chiến tranh, nay đã hòa bình
mà không đoàn tụ trọn vẹn. Ở Huế dạo ấy có hai gia đình Thiếu Mộc và Lê Khắc
Hân, nhưng hầu hết con cháu của Mạ vẫn tản mác hai đầu Nam Bắc. Mạ sống với đứa
này thì thương nhớ đứa kia phát điên. Lại thêm, trẻ khôn qua, già lú lại, Mạ đến
tuổi trái tính. Đùng đùng đòi đưa vào Sài Gòn thăm mẹ con chị Bích Hà (trong
khi anh Kinh đang đi “học tập cải tạo”).
Đùng đùng ra Hà Nội “nhảy dù”
vào tòa báo, nằng nặc đòi Văn Trí “cho Mạ ở đây với
con!”. Suốt mấy chục năm chiến tranh, Mạ chưa từng ngủ ở
14 Lê Trực đêm nào. Vì làm gì có chỗ! Trí được cơ quan phân cho cái phòng xép
12m2, lôi cháu Ái về nội thành học cấp 2, cha con ngủ trên cái giường
gồ ghề ghép từ hai giường một. Mạ ghé lưng tạm, cũng được. Cơm nước thì đơn giản
thôi, mẹ con bà cháu nấu ăn với nhau. Song ngặt nỗi Trí đang phụ trách ban
phóng viên mũi nhọn, mỗi tháng có 3,4 chuyến đi về các tỉnh, thời gian chủ yếu
sống ở địa phương. Lại còn ngày chủ nhật, Trí phải đưa con ra ngoại thành thăm
nhà. Không thể để bà già 80 tuổi ốm yếu sống một mình, đêm hôm lỡ ra…Mạ muốn ở Hà Nội với con trai, nhưng chiều ý Mạ sao được! Tuần
sau, đành đưa Mạ về xã Tiền Phong với con dâu. Lại nẩy sinh vướng mắc khác: thời
bình, không còn khu tập thể giáo viên, Đức và các con đang trú tạm trong gian
kho ẩm thấp của hợp tác xã chăn nuôi. 4 người lèn vào một giường, chật cứng “không có chỗ mà thở”. Mạ ở Tiền
Phong hai tháng là hết chịu nổi. Lại xoay xở tính đường về với chị Xuân Triêm.
Nhưng chị Triêm đang làm hiệu trưởng trường tiểu học Văn Khê thị xã Hà Đông, chủ
nhật đạp xe về Hà Nội với chồng con. Mạ không thể ở Văn Khê với con gái. Cuối
cùng, ông rể Nguyễn Đình Cơ lại chở Mạ về nhà 77 Phạm Hồng Thái Ba Đình Hà Nội!
Được mấy tháng, con dâu Trần
Minh Hà ra đón, Mạ lại về Huế theo vợ chồng Hân lang thang lếch thếch qua ba bốn
nhà tập thể. Cho tới tháng Giêng Tân Dậu 1981, những ngày tàn cuối đời, Mạ quay
về căn nhà 10 Trần Thúc Nhẫn, nằm bệt trên chiếc giường đơn kê trước bàn thờ
thân phụ Nguyễn Hữu Mẫn.
Như cây đèn bão xông pha tỏa sáng,
trước gió bao năm không tắt, nay dầu đã cạn, leo lét lụi dần. Vóc hạc xương
mai. Da xanh trong không sắc máu. Lúc tỉnh lúc mê, quên quên nhớ nhớ. Trần
Minh Hà, dù túi bụi bận việc dạy học nhưng ngày nào cũng từ cư xá Đống Đa đều đặn
hai lần nấu cháo đem sang nhà 10 Trần Thúc Nhẫn cho Mạ. Chị Thiếu Mộc lại đang
ngộ nạn đáo tụng đình. Thành ra, người kề cận Mạ, ngày đêm nâng giấc là
anh Lê Trần Cảnh. Nhìn ông anh rể ân cần săn sóc mẹ vợ, bỗng dưng Văn Trí nhớ lại
rành rọt hết thảy lỗi lầm không nên không phải của mình đối với Mạ suốt bốn
mươi năm qua. Thốt bùng lên cơn phẫn nộ, mình lại xỉ vả mình, đứa con trai Lê
Khắc vô dạng vô dụng cả đời lông nhông đeo đuổi sự nghiệp hão huyền, hết lừa dối
thế gian bằng chiêu bài phục vụ nhân dân lại xoay mòng mòng bìu ríu vợ con, đâu
còn tâm trí đoái tưởng cha mẹ ông bà tổ tiên! Lê Khắc ơi, hãy đẻ toàn con gái,
như 5 cô gái hiếu thảo của Mạ, gắn bó cuộc đời mình với chàng trai nào là đinh
ninh ước hẹn anh thương tôi thì phải thương mẹ tôi. Cho nên Mạ có được 5 chàng
rể hiền thuận, anh Kinh, anh Nhu, anh Văn, anh Cơ, anh Cảnh, chăm chút Mạ thiếu
điều xẻ gan xẻ ruột, trọn đời phụng dưỡng, tịnh không một câu phàn nàn, một lần
nhăn nhó.
Văn Trí từ Hà Nội chỉ vào với Mạ được
mấy ngày. Hễ Mạ tỉnh là gượng dậy đòi anh Cảnh dìu ra hiên nhà, dưới tán vú sữa
sum suê. Gió từ sông Hương thổi tới từng cơn, các tầng lá óng ánh hai màu xanh
thẫm và vàng nhạt lật qua lật lại không thôi, như những tầng kỷ niệm 80 năm trời
xưa nay xưa nay đan xen lao xao gợi nhớ. Có phải chính tán lá này cuối thế kỷ
19 tỏa bóng mát che cô bé Lâm lẫm chẫm theo cha ra vườn tưới cây? Mạ và Trí,
hai mẹ con ngồi bên nhau, trò chuyện. Không hẳn là nói chuyện với nhau. Có khi
bâng quơ nói một mình, ai nói nấy nghe. Câu chuyện rì rầm rời rạc chẳng ăn nhập
đâu vào đâu. Tuồng như chỉ việc đọc to lên những ý nghĩ vụt hiện. Các con ơi
thôi Mạ hết tuổi trời cho thì cứ để Mạ về với ông bà, các con không có chi phải
ân hận. Các con cả đời nuôi Mạ tử tế. Mạ nói chi lạ rứa, nuôi chi mà nuôi. Ai
nuôi Mạ? Mạ làm lụng tự nuôi Mạ. Mạ nuôi bầy con, Mạ chăm đàn cháu. Bốn cục
cưng của bọn con, Ái Thao Cường Ngọc, một tay bà nội ẵm bồng. Thôi con ơi kể
làm chi công lênh của Mạ. Một mụ mạ nuôi tròn 9 đứa con, 9 đứa con không nuôi
tròn một mụ mạ. Nhân gian như rứa cả. Nước mắt chảy xuống.
Thốt nhiên, Mạ vén vạt áo cánh,
lập cập mở kim băng cài túi trong, lấy ra hai viên bi ve xanh đỏ. Nì, Mạ cho thằng
Ái thằng Thao. “Bữa trước” hai
đứa chỉ có một hòn bi xi măng sứt mà chí chóe. Bữa qua Mạ xin con anh Cảnh được
hai viên bi ve thiệt đẹp, Mạ để dành cho Ái Thao khỏi giành nhau. Ui chao, con
biết Mạ thương thằng Ái cháu đích tôn của Mạ, gương mặt hao hao ông cố thượng
thư, dạo Ái còn bé bà nội ngồi thừ nhìn cháu nhớ cha mình. Mạ thương thằng Thao
phương phi giống ông Phủ, dạo Thao còn bé bà nội ngồi thừ nhìn cháu nhớ chồng
mình. Mạ ơi, bọn nó hôm nay cao to bằng sào bằng gậy, đâu còn chơi đáo chơi bi
như 15 năm “bữa trước”. Thằng
Ái đã du học như ông ngoại sang Pháp khi xưa. Thằng Thao đã lên Đại học như Cậu
vào trường Hậu bổ khi xưa.
Mạ qua đời ngày 27 tháng Giêng
năm Tân Dậu 1981, yên nghỉ bên Cậu trong nghĩa trang gia tộc Văn Xá. Bia đề: Phần
mộ cố bà Lê Khắc Thứ, nhũ danh Nguyễn Thị Lâm, 1897-1981.
Thế mà phải đúng 10
năm sau, 1991, ở 33 Lê Thánh Tôn Quận Một Sài Gòn, nhà Trí-Đức mới có được hai
phòng tử tế, dành chỗ tôn nghiêm lập bàn thờ gia tiên. Ngự hàng trên là ảnh ông
nội và ông ngoại, áo gấm bài ngà, đi hia, cầm hốt, đội mũ cánh chuồn. Hàng dưới,
Cậu phương phi, Mạ hiền hậu. Và cũng tự ấy mới giỗ Mạ đều đặn hàng năm. Ngày giỗ,
thắp hương, khấn vái rồi, Văn Trí cứ nán lại bên Mạ. Nước mắt ròng ròng. Ngày
xưa Mạ cực khổ lăn lộn từ giữa nước tới đầu nước nuôi dạy đàn con lo việc nước.
Bây giờ con đàn cháu đống của Mạ đã nên ông nọ bà kia, hãnh diện dăm tá huân
chương, nửa tủ bằng khen, vung vinh đôi chục nhà lầu, mươi chiếc xe hơi… Thì mong ước đơn sơ dâng Mạ hai gắp thịt nướng cũng chỉ có
cách thắp hương đặt lên bàn thờ. “Trông lên nhang
tắt đèn mờ…Thương cha nhớ mẹ bây giờ còn đâu.”
Mười đứa cháu
nội ngoại của Trí Đức kéo xuống tầng trệt phụ việc bày cỗ. Chỉ một cháu gái quyến
luyến nán lại, níu áo ông ngoại, ngỡ ngàng: ơ kìa sao ông lại khóc. Ông nhớ ông
thương mẹ ruột của ông. Ơ mà bà cố chết lâu rồi, thương chi được nữa mà thương.
Lời cháu ngây thơ như muối xát lòng. Trí nhìn bức ảnh thờ chụp từ ngày Mạ mới
sinh Hân, tuổi 45, gương mặt chưa nếp nhăn, không có điếu thuốc Cẩm Lệ trên môi
và búi tóc bạc phơ sau gáy. Chỉ có đôi mắt đăm đắm dõi nhìn con cháu. Ánh mắt
chứa chan muôn vàn tình thương yêu. Ánh mắt thanh thản bao dung, không mảy may
hờn trách. Nhưng từ trong tâm tưởng, đứa con trai bất hiếu tuổi ngoài bảy mươi
vẫn như nghe văng vẳng câu dằn dỗi hiếm hoi từ thời xa lắm vọng về: Mô Phật.
Nói chi tội rứa con ơi. Mạ là người xưa cũ.
Chương 7 - Tích đức thanh liêm - nối dòng thuần hậu
Lê đại tộc khai canh
làng Văn Xá từ nửa cuối thế kỷ 15; sau 10 đời, đến khoảng đầu thế kỷ 17, phát
triển đông đúc, tách thành 5 chi phái (cành nhánh) là Lê Đình, Lê Khắc, Lê Văn,
Lê Quang và Lê Tăng.
Nói “khoảng đầu thế kỷ 17 tách thành 5 chi phái”
tức là kể thời điểm ngài Thế tổ xuất thế, chứ còn “chính
danh chi phái” thì mãi tới ba trăm năm sau, vào nửa đầu
thế kỷ 20, Hội đồng Lê đại tộc mới căn cứ vào “họ tên số
đông thành viên” mà định danh từng chi phái.
Ví như phái Lê Khắc, thì
qua 9 đời không thấy lót chữ “Khắc”.
Thế tổ là ngài Lê Hữu Tài. Thứ tổ là Lê Văn Tín. Thế thứ 3: Lê Văn Lan. Thế thứ
4: Lê Văn Thiệt. Thế thứ 5: Lê Nguyên Huân. Thế thứ 6: Lê Hồng Du. Thế thứ 7:
Lê Hồng Cơ. Thế thứ 8: Lê Cát. Thế thứ 9: Lê Từ.
Bắt đầu thế thứ 10 mới xuất hiện
“người Lê Khắc” đầu tiên. Số
là, tổ phụ Văn Xuyên Lê Từ vốn uyên thâm Nho Y Lý Số, tự mình chấm số tử vi cho
cả 32 người con. Ngài đặt tên con dựa vào nét đại cương đường đời hiện hình
trong lá số. “Cung” là
kính cẩn khiêm nhường. “Thứ” là
khoan dung đại lượng. “Tuệ” là
trí lự khôn ngoan. “Chí” là
ý tưởng khí phách… Nhưng đó mới là cái tên “thiên phú” bẩm sinh. Không phải “thiên định” cứng nhắc, sinh ra như
thế thì suốt đời đóng khuôn như thế. Mà còn có yếu tố “nhân
định”, đương sự vùng quẫy, môi trường tác động thay đổi
đường đời! Ngài Lê Từ suy ngẫm, rồi hạ bút lót thêm chữ “Khắc”! “Khắc’ là
hẳn được thế, có thể như thế. “Khắc”
còn có nghĩa “trái với”, có thể
bị mai một hủy hoại. Ngài Văn Xuyên tự tay cất giữ tất cả lá số tử vi mà không
giao cho từng người, phải chăng để phòng ngừa các con ỷ lại vào số mệnh mà sao
nhãng luyện rèn? Cẩn trọng, ngài chỉ ban cho từng người họ tên khai sinh lót
thêm chữ “Khắc”, là lời khuyến
dụ chỉ đường, vừa khích lệ bồi đắp phẩm hạnh tinh hoa, vừa răn đe cảnh báo dè
chừng sa sẩy! Khởi mạch nguồn Lê Khắc từ đó! Tiếp sau Lê Khắc Cung, Lê Khắc Thứ,
Lê Khắc Tuệ… là các ông em bà em Lê Khắc Thái, Lê Khắc
Hy, Lê Khắc Ủy, Lê Khắc Lự, Lê Khắc Ngọc Đại… Rồi tiếp
nối vị trưởng tộc, mấy ngài em ruột và em họ của Trung phụng đại phu Lê Từ như
Ông Nghè Lê Triết, Ông Khóa Lê Phu… cũng đặt họ tên con
là Lê Khắc…Cứ thế sinh sôi, sang đầu thế kỷ 21 đã có
hàng ngàn người Lê Khắc!
Chi phái Lê Khắc tới
nửa cuối thế kỷ 18, Thế thứ 6, vẫn “độc đinh”, chỉ có một ngài Lê Hồng Du. Thế 7 bắt đầu manh nha Chi Trưởng
và Chi Thứ. Ngài Lê Hồng Cơ khởi đầu Chi Trưởng. Ngài Lê Minh Luân mở ra Chi Thứ.
Song, sang Thế 8 Lê Khắc lại phát triển “ngập ngừng”, mỗi Chi vẫn chỉ có một ngài, Chi Trưởng là ngài Lê Cát
(1828-1890), Chi Thứ là ngài Lê Mẫn (1837-1908).
Đến Thế 9 Lê Khắc mới
đông lên. Chi Trưởng có 4 ngài: Lê Từ (ông Tuần, 1855-1928), Lê Triết (ông
Nghè, 1870-1944?), Lê Trọng Bỉnh (ông Lại, 1871-1943) và Lê Doãn Thăng (ông Thị,
1880-1965). Chi Thứ có 4 ngài: Lê Đôn (ông Viên, 1865-1939), Lê Trí (ông Thừa,
1877-1953), Lê Phu (ông Khóa, ?-1959) và Lê Bang (1893-1917).
Kề vai sát cánh cùng quý
ngài Lê Khắc ở Thế thứ 9, còn có 2 ông rể Lê Khắc cực phẩm, đó là chồng bà Lê
Thị Viên, Thượng Thư Bộ Lễ Mộng Phật Tôn Thất Diệm (“Trượng
Thượng”) và chồng bà Lê Thị Dư, Hiệp tá đại học sĩ nhất
phẩm Tôn Thất Thi (“Trượng Hiệp”).
Hai ông rể Lê Khắc, Trượng Thượng và Trượng Hiệp từ trong tâm khảm đã coi Văn
Xá quê vợ là quê hương bản quán của chính mình!
Danh tính ông trưởng mỗi
Chi được lấy làm tên của Chi; Lê-Từ-chi là Chi Trưởng (tức Chi I) và Lê-Đôn-chi là
Chi Thứ (tức Chi II).
Chi trưởng, Lê Từ
chi, phát triển có phần sớm hơn, có nhiều vị khoa bảng xuất chính
làm quan trong triều và làm quan đầu tỉnh đầu huyện hầu khắp miền Trung. Vào
năm Tự Đức thứ 32 (1880), cao tổ Lê Hồng Cơ được truy phong Phụng Nghi đại phu,
Hàn Lâm viện Thị độc, vinh hiển cùng hiếu tử Lê Cát. Cũng năm ấy, thân mẫu ngài
Lê Cát, cố bà Trần Thị Tánh, được truy phong “Chánh ngũ
phẩm nghi nhân”. Trong sắc phong có câu: “…Lấy đức giúp chồng, dạy con thành đạt, tích phúc làm nền -
ngược dòng nước ắt biết nguồn, không có người mẹ ấy sao sinh được người con ấy!”
Thế thứ 8 Lê Khắc, ngài Lê Cát
(1828-1890), đậu cử nhân khoa Nhâm Tý 1852, từng hai lần phụng chỉ vua Tự Đức
làm phó sứ sang Tàu. Nghiêm thủ vương mệnh, tôn vinh quốc thể. Năm 1883, triều
đình Huế ký thỏa ước mất quyền tự chủ, Gia nghị đại phu Lê Cát treo ấn từ quan ở
tuổi 55.
Thế thứ 9, ngài Lê Từ
(1955-1928), đậu cử nhân khoa Mậu Dần 1878, xưng hiệu là Bồ Nam Tiểu Đào (Đào
Duy Từ nhỏ ở phía nam sông Bồ), được triều đình đặc chuẩn Trung phụng đại phu.
Sắc phong của vua Thành Thái năm 1894 đã “Trẫm
duy, quyến duy” (Nhà vua đoái nghĩ nhận xét) rằng “Thị Lang Bộ binh Lê Từ” “tính tình
nho nhã, khí chất hiên ngang, tài văn học, giỏi chính sự”…
Năm 1908, Tuần phủ Lê Từ
thương dân, bất tuân khuyến cáo của viên Công sứ Pháp, không chịu huy động lính
khố xanh đàn áp nông dân Quảng Ngãi biểu tình kháng thuế, nên chỉ sau một ngày
đã bị Hội đồng cơ mật Nam triều cho hồi hưu, buộc rời dinh tuần phủ Quảng Ngãi
trong vòng 24 giờ!
Sau ba mươi năm làm quan,
ngài Văn Xuyên Bồ Nam hồi hưu về Văn Xá, “bờ
nam sông Bồ”. Tuổi 53 minh mẫn tráng kiện. Thêm 20 năm
gánh vác việc làng việc họ, làm tiên chỉ, làm trưởng tộc. Và thêm 20 năm lao
tâm khổ tứ phát triển dòng dõi Bồ Nam con đàn cháu đống!
Bà chánh thất Tôn Nữ Thị
Chi mất sớm, chỉ sinh được một người con gái là Lê Thị Vũ (1886-1976). O Vũ kết
hôn với dượng Ưng Dự (1878-1975), thuộc phủ Tuy Lý Vương, học sinh tốt nghiệp
khóa đầu tiên của Quốc học Huế, từng làm báo “Thần Kinh”. O dượng sinh được hai con trai là anh Bửu Hiệp
(1910-1952), bác sĩ y khoa, và anh Bửu Viêm (?-1950), cử nhân luật khoa, đều hoạt
động yêu nước hăng say và cùng yểu mệnh bất đắc kỳ tử trong thời kỳ kháng Pháp.
Anh Bửu Hiệp và vợ là chị Đoàn Thị Quỳnh Như sinh được 7 con, 3 trai 4 gái. Anh
Bửu Viêm và chị Hồng Thị Mỹ Thanh chỉ có 2 con trai. Sang thế kỷ 21, hậu duệ của
o Lê Thị Vũ và dượng Ưng Dự, kể cả dâu rể cháu chắt nội ngoại, đã đông đúc tới
số trăm.
Bốn bà vợ kế cùng theo
ông Tuần phủ hồi hưu năm 1908 được dàn xếp cư ngụ kề cận, mỗi bà một cơ ngơi
riêng ở làng Văn Xá.
Từ Huế ra Bắc, theo quốc lộ Một,
nơi cây số 13, có một đường rẽ trái và một đường rẽ phải. Rẽ trái, hướng Tây,
lên Văn Xá Thượng, tức là thôn Giáp Thượng, trên đó có vườn bà Hai. Xưa có chợ
Trên, nên người ta gọi bà Hai là bà Trên. Rẽ phải vào Văn Xá Đông, tức là phe
Ba, thôn Giáp Ba, qua vườn bà Ba còn gọi là bà Giữa. Đi tiếp tới gần sông Văn
Xá thì có vườn bà Tứ còn gọi là bà Dưới. Gần nhà bà Dưới có chợ Dưới do Ông Tuần
lập nên, nay là chợ Văn Xá.
Năm ấy, Bà Hai Hoàng Thị
Huệ (1863-1938) 45 tuổi, có 4 con 3 trai 1 gái. Bà Ba Trần Thị Dung (1872-1956)
36 tuổi có 5 con đều là trai. Bà Tứ Nguyễn Khoa Thị Liên (1874-1969) 34 tuổi,
có 7 con, sau đó sinh thêm 3, vừa chẵn chục 5 trai 5 gái! Bà Năm Võ Thị Xuân My
(1888-1964) thì tròn trặn tuổi 20, về Văn Xá mới sinh một mạch 6 người con, 4
gái 2 trai.
Ba bà kế thất, xếp theo
trật tự thời gian hôn phối, thành bà Hai, bà Ba, bà Tứ. Căn cứ vị trí địa lý cư
ngụ thì kêu bằng “Bà Trên”, “Bà Giữa”, “Bà
Dưới”. Nhưng cả ba bà đều được ông Tuần chính thức
chính danh trong “Hưu phủ Bồ Nam Lê thị gia huấn” gọi là kế phòng (kế phòng họ Hoàng, kế phòng họ
Trần, kế phòng họ Nguyễn)! Kiểu như ở hoàng cung, cùng là Hoàng hậu nhưng có Bắc
cung Tây cung! Hoặc nói theo dân gian, thì “vợ cả vợ
hai vợ ba, cả ba vợ đều là vợ cả”. Riêng Bà Năm, lúc phối
ngẫu còn ít tuổi hơn người con đầu của ngài Lê Từ, được gọi là thứ phòng
(thứ phòng họ Võ), vài chục năm sau đó trong họ vẫn kêu bằng “cô
Niêm” (Năm). Nhưng tất cả 32 người con của 4 bà, ai
sinh trước làm anh làm chị, không phân biệt con của “kế
phòng” hay “thứ phòng”.
Ông Tuần khu xử việc nước,
việc làng, việc nhà đều khuôn phép toàn vẹn ân uy. Nhưng cùng lúc sống liền kề
4 bà vợ còn tràn trề sức sống, mỗi người lại một dòng con tay bồng tay dắt,
tránh sao khỏi đôi khi “phòng”
chị “phòng” em hứ háy đá thúng
đụng nia. May là không tới độ như vua Gia Long xông pha trận mạc dày dạn mũi
tên hòn đạn mà khi về tới hậu cung phải khổ tâm dè chừng phi tần mỹ nữ “… đám yêu phụ làm trẫm điếc tai nhức óc”. Ông
Văn Xuyên Bồ Nam nổi tiếng nhân từ mà nghiêm minh, khoan dung mà công
bằng chính trực, vừa tài “trị quốc”
lại giỏi “tề gia”!
Bà Hai Hoàng Thị Huệ, vốn dòng
nhà nông ở làng Phú Ốc giáp Văn Xá, được chị em quý mến nhất vì tính tình hiền
hậu, ôn hòa, không hề tranh chấp với ai, lợi quyền điền thổ phòng the chi đó lỡ
có thua sút chút đỉnh cũng không lấy làm điều. Nhưng được đệ tam đệ tứ phu nhân
thương mến thương đâu có sung sướng gì. Thảng hoặc xảy chuyện đôi co đụng chạm,
các “phòng” không dám hó hé
thưa trình với đấng phu quân nghiêm minh, mà thường tìm tới Bà Hai “tranh thủ đồng minh”. Thiên vị ai
cũng phiền. Mà giảng giải dàn hòa cho chị em không dễ, bởi ai nấy trong bụng có
sẵn cả bồ lý lẽ. Nhức đầu khó xử! Bà Hai phải tính kế. “Tam
thập lục chước…”. “Thôi tránh
xa ra chút cho khỏe trí!” Bà Hai bèn lên Văn Xá Thượng
mua đất lập cơ ngơi tách biệt, nhượng cho ông con trai Văn Phố cái khu vườn hai
mặt tiền vuông vức mênh mông liền kề dinh cơ của ngài Bồ Nam. Song không
phải xa mặt mà cách lòng đâu nghe! Phu thê tình thâm nghĩa trọng, ông Tuần đều
đặn tháng đôi lần, ngồi xe kéo vượt ba cây số đường làng khấp khểnh lên thăm “Vườn Trên”. Hai ông bà chưa hẳn là
già hủ hỉ dắt nhau tản bộ dưới rặng cây trái sum suê hoa lá cành phủ phê thăm
mít thăm thơm. Khu vườn ân tình ấy, mười mấy năm sau là nơi Ông về yên nghỉ
vĩnh hằng, rồi dần dà các Bà về theo Ông, tiếp đến các con các cháu về theo Ông
Bà. Vườn Bà Hai trở thành nghĩa trang thiêng liêng của dòng tộc Bồ Nam.
Bà Hai Hoàng Thị Huệ sinh hạ được
4 người con, 3 trai 1 gái. Con cả, bác Lê Khắc Cung (1887-1929), có hai vợ là
chị em ruột thuộc Trần thế tộc đồng khai canh làng Văn Xá, tức là dòng bà Thuận
Thiên Cao hoàng hậu Trần Thị Đang mẫu thân vua Minh Mạng. Bác Cung xuất chính
làm một chức quan nhỏ ở tỉnh Thanh Hóa, chưa kịp thăng tiến thì lâm trọng bệnh
qua đời, để lại hai người con, gái là Lê Thị Tường Vy (1905) và trai là Lê Khắc
Cảnh (1927).
Ông Lê Khắc Thứ (1891-1946), thân phụ
của Văn Trí, là con trai thứ hai của Bà Hai. Nhưng từ mấy năm trước khi ngài Bồ
Nam tạ thế, phải xác định đích tôn tập ấm thừa kế, mà bác Cung chưa kịp đẻ con
trai, nên dòng tộc coi ông Thứ là trưởng nam và anh Lê Khắc Duyệt là đích tôn.
Sau khi sinh anh Duyệt (1912), Mạ cả Nguyễn Thị Tuyết cứ liền liền cách 2 năm
sinh một con trai: anh Dần (1914, mất sớm), anh Điềm (1916), anh Di (1918, mất
năm 1942, khi chưa lập gia đình) và anh Hoài (1920). Trong số con trai ấy, cả
nhà thương quý nhất là anh Điềm, bởi lẽ, như lời âu yếm trong hồi ký của anh
Duyệt “chú Điềm tính hiền, từ tấm bé đã đĩnh đạc vẻ
con nhà gia giáo…” Thủa thiếu thời ấy, nhiều bữa
nghỉ học, mấy anh em ồn ào kéo tới thăm ông nội, Ông đang nằm dưỡng bệnh, bảo
các cháu ra vườn chơi, chỉ kêu một cháu Điềm vô ngồi bên cạnh! Có phải vì Ông
quý cái nết cháu Điềm hiền hậu con nhà? Chính Ông lập lá số tử vi cho cháu nội,
soi xét kỹ lưỡng vận số chung thân rồi mới ấn định thành tên: Lê Khắc Điềm. Danh
xưng ấy chính là phẩm chất đặc thù, thuộc tính trọn đời. Kết đọng ở phút giây
thiêng muôn tinh tú giao hòa. Hun đúc di truyền từ khí huyết tinh hoa nội ngoại. Điềm
nhiên tọa thị, điềm tĩnh an bài! Thành quy tắc ứng xử việc đời, thành quy
chuẩn sống trên đời!
Anh Lê Khắc Điềm học tiểu học ở
trường Thượng Tứ (Huế). Năm 1931, anh Điềm 15 tuổi, thi đậu vào trường Quốc Học.
Khoảng thời gian ấy, thân phụ (ông Lê Khắc Thứ) chuyển vào tòng nhiệm ở Quảng
Ngãi. Anh Điềm ở lại Huế đi học, sống với chú ruột là Lê Khắc Chí. Bốn năm sau,
1935, lấy bằng Thành chung (Cao đẳng Tiểu học - Diplôme d’Étude
Primaire Supérieurs). Ông Thứ đông con, không có khả năng chu cấp cho anh Điềm
ra Hà Nội học tiếp như người anh cả là Lê Khắc Duyệt. Anh Điềm phải ở lại Huế,
mua sách tự học chuẩn bị làm thí sinh tự do đi thi Tú tài I…
Năm 1936, Trung Kỳ tổ chức
thi tuyển công chức ngạch bảo hộ. Anh Lê Khắc Duyệt (24 tuổi), vừa đậu tú tài ở
Hà Nội vào, đăng ký dự tuyển. Anh Điềm cũng quyết định dự thi. Năm ấy toàn miền
Trung chọn được 12 người làm Thư ký Tòa sứ (cấp tỉnh chính quyền bảo hộ Pháp).
Cả hai anh em Duyệt và Điềm cùng trúng tuyển. Lê Khắc Điềm trở thành thư ký Tòa
sứ Đồng Hới ở tuổi 20.
Cậu phán Tòa sứ vừa cần mẫn
thành thạo nghiệp vụ vừa ham thích văn nghệ, đàn hát, mê thể thao,
hăng hái tập tành hầu hết các môn bóng bàn, bóng chuyền, bóng rổ, bóng đá, quần
vợt. Ngày nghỉ cuối tuần đi tàu suốt ra tận Hà Nội xem đá bóng rồi quay về ngay
trong đêm để kịp làm việc ở Tòa sứ buổi sáng đầu tuần.
Những năm ấy, 1937-1939, anh Điềm
vẫn còn rộng đường bay nhảy, bởi… bạn gái là chị Lương
Thị Huyền đang bận rộn dạy học ở trường nữ Phan Thiết.
Chị Huyền là con quan đốc
học Lương Ngọc Hướng, từng làm hiệu trưởng trường Hải Lăng Quảng Trị và làm Đốc
học tỉnh Quảng Trị. Mối lương duyên của anh chị Lê Khắc Điềm - Lương Thị Huyền
gắn kết qua hai thế kỷ, từ 1940 tới 2004. Anh chị cùng sinh năm 1916, tuổi Bính
Thìn - “cùng tuổi nằm duỗi mà ăn”-
như ông bà ta thường dạy. Lại cùng học Cao đẳng tiểu học 1931-1936, hai trường
kề nhau, anh là nam sinh Quốc Học, chị là nữ sinh Đồng Khánh.
Rồi chị Huyền theo học hệ kết hợp đào tạo giáo viên tiểu học, lớp
ngũ niên Sư phạm Huế, tháng 5-1937 thì vừa có bằng Thành chung vừa có bằng Sư
phạm. Tháng 10-1937, chị được bổ nhiệm đi dạy ở Phan Thiết cho tới đầu năm 1940
mới trở lại Huế. Về Huế cưới chồng!
Anh Điềm chị Huyền sinh con
trai đầu lòng Lê Khắc Bình ngày 28-10-1940. Đúng hai năm sau, 10-1942, sinh con
gái Kiều Hồng, nhưng cháu Hồng bẩm sinh ốm yếu nên hưởng dương chỉ được 3 năm.
Con gái tiếp đó là Kiều Lục, hình như… chị Huyền “quen dạ”, nên sinh Kiều Lục cũng
đúng tháng 10-1944!
Sinh con, chị Huyền theo chồng về dạy
học ở Đồng Hới. Đó là những năm thời cuộc sôi động. Chiến tranh thế giới lần thứ
hai. Nhật hất cẳng Pháp ở Đông Dương. Mặt trận Việt Minh giương ngọn cờ đánh
Tây đuổi Nhật giành độc lập. Không khí chính trị mới mẻ, khơi gợi ý thức dân tộc,
đặc biệt cuốn hút kích thích tinh thần và tình cảm thanh niên, học sinh, kể cả
lớp công chức trẻ. Anh Điềm được Việt Minh giác ngộ, tháng 8-1945 đã tham gia
cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền ở Đồng Hới. Ông phán Tòa sứ trở thành nhân
viên, rồi trưởng phòng tài chánh của Ủy ban hành chánh tỉnh Quảng Bình.
Thực dân Pháp trở lại gây hấn. Đồng Hới
tiêu thổ kháng chiến. Cuối năm 1946, Ủy ban tỉnh dời lên chiến khu Tuyên Hóa ở
cực bắc Quảng Bình. Chị Huyền bấy giờ đang mang thai, phải đưa cháu Bình và
cháu Kiều Lục tản cư về huyện Quảng Ninh phía nam Đồng Hới, tới tháng 4-1947
thì sinh cháu Kiều Ân. Quân Pháp nống ra chiếm đóng hết vùng đồng bằng; chị Huyền
vào lại Đồng Hới dạy học. Một mình nuôi 3 con nhỏ. Chiến sự lan rộng. Anh Điềm
bấy giờ đã làm trưởng Ty thuế trực thu thuộc Ủy ban kháng chiến tỉnh Quảng
Bình, nhưng không liên lạc được với vợ con. Hi vọng đoàn tụ xa vời, dù hai anh
chị vẫn cùng sống trong tỉnh Quảng Bình, chồng trên chiến khu, vợ ở vùng địch tạm
chiếm.
Tháng 10-1948, chị Huyền đành
mang 3 con trở về Huế, ở nhờ nhà bà cô ruột Lê Thị Cẩn (mẹ của Tôn Thất Lan),
ngôi nhà rường kiểu Huế có vườn cây rộng trên đường Âm Hồn. Tòng sự Sở tài
chánh Thừa Thiên một thời gian, rồi chị Huyền xin quay lại ngành giáo dục, làm
thư ký phụ trách mảng học bổng Nha học chánh Trung Việt. Ổn định cuộc sống. Được
phân nhà trong khu tập thể mới xây dựng, số 14 đường Bộ Thị trong Thành Nội.
Về phần anh Điềm, sau hai
năm làm trưởng ty Thuế trực thu Quảng Bình, tới tháng 11- 1949 thì ra chiến khu
Việt Bắc dự Hội nghị tài chánh toàn quốc, học lớp chuyên tu tài chính khóa 4 ở
Tuyên Quang rồi ở lại Bộ Tài chính làm trưởng phòng chuyên môn Nha công sản trực
địa chính.
Tháng 7-1954, Lê Khắc Điềm
tham gia đoàn tiếp quản thành phố Nam Định được giải phóng trước tiên ở miền bắc,
với cương vị Phó phòng Thuế Công thương nghiệp sở Thuế Trung ương. Vừa làm vừa
tự học, nghiên cứu tài liệu kinh nghiệm
ngành thuế cổ kim đông tây để nâng cao trình độ nghiệp vụ. 20
năm tiếp đó, luân chuyển qua nhiều vị trí: Trưởng phòng Công thương nghiệp Sở
Thuế Trung ương, Phó giám đốc Vụ tài vụ Hợp tác xã nông nghiệp và Thuế nông
nghiệp Bộ Tài chính, Phó vụ trưởng Vụ Thu quốc doanh và Thuế…
Là một cán bộ giỏi chuyên môn, công tác tận tụy, đạo đức gương mẫu dược đồng sự
tin yêu, nhưng Lê Khắc Điềm luôn ngồi ghế “phó”. Đó là hậu quả của một thời chủ nghĩa lý lịch nặng nề. Tuy
anh Điềm tự nguyện gia nhập đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1949, suốt đời tận
tụy phụng sự ngành Thuế, nhưng người ta luôn thành kiến anh xuất thân từ gia
đình quan lại phong kiến, lại có anh trai Lê Khắc Duyệt và em trai Lê Khắc Hoài
đang “ở phía bên kia”. Thậm
chí, sau năm 1975, anh Điềm được điều động vào công tác tại Trung ương cục miền
Nam, phụ trách Nha Thuế vụ rồi về thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ làm Phó giám đốc
Sở Tài chánh kiêm Chi cục trưởng Chi cục thuế công thương nghiệp. Âu cũng lẽ bù
trừ! Cùng là dòng Lê Khắc có trình độ chuyên môn và năng lực quản lý, hễ người
phía bên kia đã làm “Trưởng”,
như giám đốc Y tế (Lê Khắc Quyến), giám đốc Công An (Lê Khắc Duyệt), giám đốc
Điện lực (Lê Khắc Huề)… thì người phía bên này chỉ làm “Phó”, như phó cục trưởng Thu quốc
doanh (Lê Khắc Điềm), phó vụ trưởng giáo dục phổ thông trung học (Lê Khắc
Nhãn), phó tổng biên tập Nhà xuất bản giáo dục (Lê Khắc Bảo)…
Hoặc như Văn Trí, thâm niên kiên trì vai phó tổng biên tập với 45 năm hành nghề
báo chí, làm chủ bút, lần lượt phụ trách nội dung 4 tờ báo của ngành giáo dục!
Lê Khắc Điềm làm quan chức
ngành thuế, ai cũng biết là “nghề nhạy cảm”, thậm chí, là “nghề nguy hiểm”. Nhất là trong bối cảnh đất nước nhộn nhịp xây dựng lại sau
9 năm chiến tranh ở Hà Nội 1954, và sau 30 năm chiến tranh ở Sài Gòn 1975. Ơn
nhờ phúc Tổ, nếp Nhà, anh Điềm luôn tỉnh táo vững vàng vượt cạm bẫy rập rình
cám dỗ. Không để cho hạt mầm lòng tham có đất dinh dưỡng. Mà đó lại là những
năm đời sống dân Việt bị dồn tới chân tường. Các cơ quan xí nghiệp làm việc ì ạch,
tới độ dân tình mỉa mai “cả nước là một đại công trường
lãn công - ban ngày cả nước lo việc nhà, ban đêm cả nhà lo việc nước” (thức khuya xếp hàng chờ hứng nước chảy ri rỉ từ vòi nước
máy công cọng…)
Ai cũng phải tự cứu mình. Cán bộ mang các thứ hàng mua cung cấp, thuốc lá, trà… ra phố bán kiếm tiền chênh lệch. Mười người gắp thăm tranh mua một lốp xe đạp Sao Vàng. Ba người được phân phối một áo may - ô ba lỗ dệt kim Đông Xuân - nên có câu lẩy Kiều “Bắt phanh trần phải phanh trần / cho may - ô mới được phần may - ô”. Cán bộ đua nhau thò một chân ra ngoài làm nghề phụ kiếm thêm. Vợ chồng Đức Trí vốn phận giáo nghèo (Đức suốt đời dạy học. Trí sau này chuyển sang làm báo cũng là mấy tờ báo ngành giáo dục, có viết truyện ngắn truyện dài chi đó cũng chỉ bó hẹp đề tài thầy giáo và nhà trường). Thời bao cấp đã có câu đối bi hài đặc tả nghề gõ đầu trẻ: Thầy giáo tháo giày tháo cả ủng thủng cả áo lấy giáo án dán áo/ Nhà trường nhường trà nhường hết hoa nhòa hết hương dùng lương hưu lưu hương! Đức Trí sắm vai “nhà giáo nuôi heo”, nửa đùa nửa thật “cải chính” rằng đó là “heo nuôi nhà giáo” đấy chứ. Ban ngày heo nằm chuồng ngoài vườn; chiều xuống, như làm xiếc thú, mở cửa chuồng quát “vào” là heo nhảy vọt ra, cung cúc chạy tọt tận phòng ngủ (kẻo đêm trộm nó xơi tái). Gia đình anh Điềm tăng thu nhập bằng cách nuôi gà công nghiệp, cái chuồng gà hôi rình to vật vã đặt cạnh phòng ngủ của anh chị trong căn biệt thự Nguyễn Đình Chiểu quận Ba. Tem phiếu mua nhu yếu phẩm, lương thực, thực phẩm, chất đốt, vải…, chị Huyền đều có kế hoạch sử dụng chi li mới khỏi lâm cảnh ngộ giật gấu vá vai. Giữ gìn thanh danh vị quan chức đầu ngành thuế “nói ra bạc khạc ra tiền” dòng dã 40 năm không chút điều ong tiếng ve!
Ai cũng phải tự cứu mình. Cán bộ mang các thứ hàng mua cung cấp, thuốc lá, trà… ra phố bán kiếm tiền chênh lệch. Mười người gắp thăm tranh mua một lốp xe đạp Sao Vàng. Ba người được phân phối một áo may - ô ba lỗ dệt kim Đông Xuân - nên có câu lẩy Kiều “Bắt phanh trần phải phanh trần / cho may - ô mới được phần may - ô”. Cán bộ đua nhau thò một chân ra ngoài làm nghề phụ kiếm thêm. Vợ chồng Đức Trí vốn phận giáo nghèo (Đức suốt đời dạy học. Trí sau này chuyển sang làm báo cũng là mấy tờ báo ngành giáo dục, có viết truyện ngắn truyện dài chi đó cũng chỉ bó hẹp đề tài thầy giáo và nhà trường). Thời bao cấp đã có câu đối bi hài đặc tả nghề gõ đầu trẻ: Thầy giáo tháo giày tháo cả ủng thủng cả áo lấy giáo án dán áo/ Nhà trường nhường trà nhường hết hoa nhòa hết hương dùng lương hưu lưu hương! Đức Trí sắm vai “nhà giáo nuôi heo”, nửa đùa nửa thật “cải chính” rằng đó là “heo nuôi nhà giáo” đấy chứ. Ban ngày heo nằm chuồng ngoài vườn; chiều xuống, như làm xiếc thú, mở cửa chuồng quát “vào” là heo nhảy vọt ra, cung cúc chạy tọt tận phòng ngủ (kẻo đêm trộm nó xơi tái). Gia đình anh Điềm tăng thu nhập bằng cách nuôi gà công nghiệp, cái chuồng gà hôi rình to vật vã đặt cạnh phòng ngủ của anh chị trong căn biệt thự Nguyễn Đình Chiểu quận Ba. Tem phiếu mua nhu yếu phẩm, lương thực, thực phẩm, chất đốt, vải…, chị Huyền đều có kế hoạch sử dụng chi li mới khỏi lâm cảnh ngộ giật gấu vá vai. Giữ gìn thanh danh vị quan chức đầu ngành thuế “nói ra bạc khạc ra tiền” dòng dã 40 năm không chút điều ong tiếng ve!
Cả trăm bà con Thế 11 ở Hà Nội
và Sài Gòn tự hào có người anh Lê Khắc Điềm phẩm hạnh trong sáng, nối
tiếp truyền thống tiền nhân, noi gương cao tổ Gia nghị đại phu Lê Cát, tổ phụ
Trung phụng đại phu Lê Từ và thân phụ tri phủ Lê Khắc Thứ. Trải mấy đời hành
nghề xử kiện và thu thuế, các bậc tiền nhân Lê Khắc nổi tiếng chính trực thanh
liêm tiết tháo. Nhưng có một điều khác với tiền nhân…
Các ngài Lê Cát, Lê Từ, Lê Khắc Thứ dường như đường hoạn lộ đều kết cục bất
ưng, do bất đồng với kẻ cầm quyền, đều cáo quan từ nhiệm ở tuổi ngoài 50. Lê Khắc
Điềm thì “con hơn ông hơn cha”
là đã bền bỉ cống hiến cho ngành tài chính đất nước tới 40 năm. Là chuyên gia
tài chính hàng đầu của đất nước, có nghiệp vụ tổ chức quản lý thành thạo, lại mẫn
cán thanh liêm, anh Điềm cứ “bị”
cấp trên nấn ná giữ lại ở cương vị chi cục trưởng chi cục thuế, mãi tới tháng
6-1986 mới cho hưu. Vừa tròn 70 tuổi.
Trong mối
duyên tình cầm sắt đằm thắm 64 năm, anh Điềm chị Huyền chỉ phải sống xa nhau 9
năm thời kháng Pháp.
Miền Bắc hoàn toàn
giải phóng, ngày 15-3-1955, chị Huyền cùng 3 con Bình, Lục, Ân bay từ Huế ra Hải
Phòng. Ngày 16-3-1955 đi tàu hỏa lên Hà Nội, chấm dứt giai đoạn 9 năm
vợ chồng chia ly vì chiến tranh. Ngày 06-5-1956, sinh người con thứ tư: Lê Khắc
Hiệp - cái tên đánh đấu thời kỳ hòa bình gia đình sum họp.
Vừa sinh hạ Hiệp đầy
tháng, chị Huyền đã theo học lớp kế toán công thương của Bộ tài chính mở để vào
làm kế toán Khách sạn Thống Nhất Hà Nội, rồi Ngân hàng kiến thiết trung ương.
Năm 1971, tròn 55 tuổi, sau 30 năm làm cô giáo tận tâm rồi làm bà kế toán chỉn
chu, chị Huyền nghỉ hưu với mức lương cán sự hai 56 đồng!
Ở Hà Nội trong thời kỳ đất
nước bị chia làm hai miền 1955-1975, chị Lương Thị Huyền quan tâm săn sóc yêu
thương bầy em Lê Khắc xa quê không chỉ như một bà chị dâu, mà không khác chi bà
chị ruột, bà chị cả! Ngày tết, gia đình đứa em nào ở gần cũng nhận được một món
quà tình nghĩa, không lớn đâu, nhưng thời bao cấp thiếu thốn đặc biệt có ý
nghĩa, như một phần tư lạng mì chính, nửa lít rượu mơ, nửa cân đường kính… Như Văn Trí, dạo còn dạy học ở Thanh Hóa hoặc Phú Thọ, mỗi
khi có việc về qua Hà Nội đều được chị Huyền chăm chút từng bữa ăn, giấc ngủ.
Mãi mấy chục năm sau, gặp nhau ở Sài Gòn, chị còn xuýt xoa ôn nhớ kỷ niệm về cậu
giáo nghèo Văn Trí năm xưa cuốc bộ giữa phố phường thủ đô, đầu đội mũ cát li-e
mất chóp, chân dận dép cao su đứt quai hậu…
Sau năm 1975, vào Sài
Gòn, dòng họ Lê Khắc tụ hội đông gấp bội, chỉ riêng hậu duệ ông Văn Phố cũng
xuýt xoát số trăm! Chị Huyền quan tâm không bỏ sót một ai. Bà con từ hai phía
xáp vô hòa nhập, người trái tính, kẻ cơ hàn, người mất kẻ được, người thua kẻ
thắng, công cuộc hòa giải hòa hợp không đơn giản như vòng quay ly hợp 10 năm của
tổ ấm anh chị Điềm Huyền ngày trước. Biết mấy khúc mắc oán hận trong nội bộ gia
tộc, chị Huyền đều khéo léo nhẹ nhàng khuyên răn dàn xếp bằng cách chân thành
thổ lộ nguồn cơn của chính gia đình mình. Kể cả việc năm 1955, chị ở Huế bí mật
sửa soạn mang 3 con ra Hà Nội sum họp với anh Điềm, mà một người bà con rất có
thế lực nỡ làm khó dễ. Thế nhưng khi anh Điềm vào Sài Gòn phụ trách ngành thuế, anh
chị không chút thành kiến, coi như quên đi giận hờn thuở trước, tận tình giúp đỡ
thu xếp việc làm cho con cái của người bà con ấy. Chị Huyền khuyên: chuyện
đền ơn trả oán, anh chị em nhà mình nên hành xử theo cách phật tử Việt, chớ như
nho gia Tàu. Các em nhớ chứ, ở Huế mình, các kỳ thi nho học khi xưa, bao giờ
cũng xướng gọi thí sinh lều chõng nhập trường thi theo trình tự “Vong báo oán tiên nhập, vong báo ân thứ nhập, sĩ tử thứ thứ
nhập”! Khiếp chưa, ngay cả kỳ thi quyết định số mạng
người ta mà cũng dã man cho oan hồn được ưu tiên vào trước chiếm lợi thế phục
thù. Bây giờ chúng ta nên từ bi hỉ xả, điều ân thì lấy dao khắc vào đá để không
quên đền đáp, còn điều oán thì dùng ngón tay viết lên mặt cát, gió mưa một trận
là xóa nhòa phẳng phiu.
Để anh Điềm yên tâm làm
việc cơ quan, chị Huyền giành hết việc nhà vào tay mình. Không chỉ nội trợ, mà
là “nội tướng”. Thời kỳ 9 năm
kháng Pháp, đơn chiếc chăm nom con cái, đã đành. Ngay khi gia đình đã sum vầy một
chỗ ở Hà Nội và Sài Gòn, chị Huyền vẫn đảm trách săn sóc nuôi dạy 4 người con từ
vun vén cơm áo đời thường cho tới chung thân đại sự dựng vợ gả chồng. Cặp vợ chồng
trưởng nam Lê Khắc Bình – Nguyễn Hồng Thúy. Cặp vợ chồng
trưởng nữ Lê Khắc Kiều Lục – Trương Văn Giới. Thứ nữ Lê
Khắc Kiều Ân – Nguyễn Quang Dung. Và út trai Lê Khắc Hiệp
– Nguyễn Phương Chi. Cả 4 con trai con gái và 4 con dâu
con rể đều học hành đỗ đạt công thành danh toại, nên ông nên bà, con cháu đề huề.
Mãn nguyện, tròn 88 năm sau ngày chào đời, 16-10-2004, chị Lương Thị Huyền
thanh thản về nơi an nghỉ cuối cùng. Hàng trăm bà con Lê Khắc các Thế 11, 12 và
13 tiếc thương đưa tiễn người con dâu hiền thảo đảm đang của dòng Bồ Nam.
Kề sát mộ phần của chị Huyền trong nghĩa trang Sài Gòn là ngôi mộ gió của anh
Điềm. Dịu dàng rắc nắm đất nghĩa nặng tình sâu lên linh cữu hiền nội, anh Điềm
nghẹn ngào lời cuối: thôi bà đi trước, tôi còn nán lại cho con cháu mình bớt phần
hiu quạnh, rồi tôi về đây mãi mãi bên bà…
Bà con Lê Khắc ở Sài Gòn tới
thăm anh chị Điềm Huyền vào ban ngày không mấy khi gặp được anh Điềm vì anh bận
túi bụi việc cơ quan, còn chút giờ rảnh thì lật đật ra sân quần vợt. Chị Huyền
nói như thanh minh: thôi các em tới là quý, chị em ta dốc bầu tâm sự, còn anh,
ưu tiên cho anh chơi thể thao giữ sức!
Là chị nói thế chứ mỗi khi đại
gia đình, gia tộc nẩy sinh việc hệ trọng thì người anh lớn Lê Khắc Điềm dù bận
mấy cũng tham gia hết sức hết lòng.
Dịp kỷ niệm “50
năm thành lập gia đình Đức-Trí 1961-2011”, Văn Trí xúc
động kể cho con cháu nghe chuyện ngày xưa “bác Điềm quyền
huynh thế phụ từ Hà Nội lên Phú Thọ tổ chức hỏi vợ và cưới vợ cho đứa em mồ côi
cha…”. Bấy giờ là mùa hè 1961. Văn Trí vừa một mình đeo
ba lô lếch thếch từ Thanh Hóa lên Phú Thọ dạy học được một năm. Rồi bén duyên Đức,
rồi bàn tính cưới nhau. Thông lệ, trước tiên họ nhà trai phải đặt lễ chạm ngõ,
như hương ước gia phong từ xưa. Mà xã Sơn Dương quê Đức lại là làng cổ tộc Việt
được tạo lập từ thời Hùng Vương dựng nước, hiện đang sở hữu 3 tấm bằng di
tích cổ sử quốc gia: ngôi đình, ngôi chùa và ngôi đền cổ kính cùng với kho tàng
lịch sử thần linh Sơn Minh Vương. Ấy là chưa kể các di tích quý giá khác như
ngôi nhà mà hai trăm năm trước cụ Tổng Cóc từng chung sống hạnh phúc với bà
Chúa Thơ Nôm Hồ Xuân Hương! Thêm nữa, Sơn Dương là làng quê giàu truyền
thống cách mạng. Năm 1930, Pháp dội bom Sơn Dương trả thù khởi nghĩa
Yên Bái. Năm 1947, địch đóng đồn bên kia sông Thao càn sang Sơn
Dương đốt phá. Năm 1965, Sơn Dương lại hứng chịu bom
Mỹ… Đường võ đường văn Sơn Dương đều hiển
đạt. Hiếu học, thời xưa dân góp thóc mở trường cấp 1, cấp 2 dân lập sớm nhất
huyện Lâm Thao. Thanh niên học lên rồi đi xa. Thành ra có tới nghìn cán bộ
thoát ly. Có người làm bí thư, chủ tịch tỉnh Phú Thọ, bí
thư, chủ tịch huyện Lâm Thao. Có quan chức trung ương hàm Bộ trưởng. Có 2
ông tướng Quân đội và Công an. Lại có nhà văn nhà thơ tên tuổi; có cả
chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh! Số người Sơn Dương làm cán bộ đầu ngành ở các
huyện bạn, tỉnh bạn cũng tới trăm vị! Ấy đấy, trai ngoại xã
dòm ngó gái làng Sơn Dương không dễ, huống hồ lại là trai ngoại tỉnh, mà quê
quán tận xứ Huế, xa tít mù tắp ai biết đấy là đâu! Gia đình cô dâu thuộc tầng lớp
giác ngộ, có máu mặt, bà con họ hàng khá giả, ông anh cả Nguyễn Văn Học làm
giám đốc xí nghiệp nhà nước, 4 bà chị ruột, chị Duyên, chị Dụ, chị Hồng, chị Tịch
đều lấy chồng là thương binh, bộ đội tại ngũ hoặc xuất ngũ. Vậy thì, dạm hỏi cô
giáo làng Sơn Dương, phải có bậc trưởng thượng đằng nhà trai trịnh trọng thưa gửi
đúng lề luật phép tắc. Thỉnh ai đi bây giờ? Văn Trí nghĩ ngay tới ông anh trai
Lê Khắc Điềm và ông anh rể Hồ Trác đang tòng sự ở Thủ đô với chức vị ấn tượng!
Tưởng phải nài nỉ khó khăn, nào ngờ hai anh vui vẻ nhận lời ngay, cùng xin nghỉ
việc cơ quan, đi tàu hỏa lên ga Tiên Kiên. Tàu chạy rồi anh Điềm mới hỏi này em
ơi cô bạn gái của em tên là gì ấy nhỉ! Gia đình Đức, cha mẹ và anh Học đón tiếp
đoàn nhà trai “tận trên Bộ tài chính”
rất trọng thị. Hai họ hể hả bàn ngay sang việc tổ chức lễ cưới vào mùa thu
1961. Hôm cưới, anh Trác bận không về được, một mình anh Điềm thu xếp lên Lâm
Thao hai hôm. Anh trịnh trọng trao cho cô em dâu một món sính lễ “hạnh phúc bất ngờ”. Số là 6 năm trước
chị Huyền ở Huế ra, có mang chút vàng dành dụm. Chính sách ngày ấy chỉ cho tư
nhân sở hữu vàng trang sức, nên chị Huyền phải gửi mấy lượng vàng lá nhờ ngân
hàng nhà nước “giữ hộ”. Tháng
10-1961, chị làm đơn khẩn khoản xin Nhà nước cho phép nhận lại một chỉ vàng để
đánh đôi hoa (bông) tai mừng em trai cưới vợ. Món quà quý hiếm thời bao cấp khó
khăn!
Sau ngày thống nhất
đất nước, hai anh em Lê Khắc Điềm và Văn Trí phối hợp gắn kết bên nhau như con
xe con pháo năng nổ xông pha trên bàn cờ gia tộc. Lúc Văn Trí chuyển cư vào Sài
Gòn vừa hay anh Điềm đã nghỉ hưu, chính là “thời điểm
vàng” hoạt động dòng họ Lê Khắc. Đúng vào giai đoạn
1986-1991, cả nước chuyển vào bước ngoặt lịch sử “Đổi mới
hay là chết”. Triệu người choàng dậy sau cơn lầm lạc,
thức tỉnh ngoái tìm về bản ngã, quay trở lại cội nguồn! Thành ngữ “Miền Nam nhận họ” ù ù cạc cạc
xuất hiện giữa năm 1975, tới 1986 thoắt biến nghĩa, biến hình, biến chất. Đã đến
lúc phản tỉnh nhận chân họ hàng đích thực của mình không hề là “Ông-In-Ông-Ao-Ông-Ốp-Ông-Ép” khác
máu tanh lòng, lèo lá bạn thù thò lò sáu mặt, mà chính là những người ruột thịt
cùng chung ông bà tổ tiên gốc gác muôn đời, là gia tộc Lê Khắc, là dân tộc Việt
Nam, đồng bào con Lạc cháu Hồng, phụng thờ Quốc tổ Hùng Vương.
Mấy chục người chủ gia
đình Lê Khắc ở Sài Gòn lúc ấy hầu hết trạc 60, 70, lứa tuổi mà nhiệm vụ công đã
hoàn tất, việc riêng tư thì nhà cửa ổn định, con cái trưởng thành. Ấy là cái tuổi
“nước mắt thôi chảy xuống”, tâm
trí giật thột đổi chiều hướng lên các bậc sinh thành, tưởng vọng tổ tiên. Thôi
rồi, thân sinh ta khuất núi tự bao giờ, bàn thờ sơ sài lạnh lẽo. Quê cha xa mù
mịt, anh em ruột thịt tứ tán, từ đường tổ phụ đêm khuya vắng lạnh, mồ mả cao tổ
cỏ dại xác xơ. Người già ân hận:“Ba mươi năm chẵn xa
quê/Hương đồng gió nội còn gì nữa đâu!” Người trẻ
bơ vơ: “Chôn rau cắt rốn xứ người/Quê cha đất tổ của
tôi phương nào?” Thậm chí, hậu quả một thời “chủ nghĩa lý lịch” ấu trĩ cực đoan,
có gia đình che giấu bưng bít cội nguồn nhân thân, khiến đàn con tha phương mãi
tới Thế kỷ 21 mới vỡ lẽ ra rằng quê hương ta là làng Văn Xá Thừa Thiên-Huế, tổ
tiên ta thời xưa văn võ song toàn vinh hiển, họ mạc ta thời nay giữ nước oai
hùng, dựng nước tài ba...
Thì đây, như dòng họ Lê Khắc của
mình, từ Thế thứ 9 phát triển mạnh, vừa “phát đinh” vừa “phát quý”
- thăng tiến vượt bậc về công danh sự nghiệp. Vài trăm con cháu dâu rể nội ngoại
là quan chức, công chức bậc cao, bậc trung, là trí thức nhiều thành tựu cống hiến.
Có Thượng thư nhất phẩm, tham tri nhị phẩm. Có Tỉnh trưởng Huyện trưởng. Có
quan chức cấp Vụ Viện thuộc Bộ. Có Giám đốc Công an, Tài chính, Y tế, Thuế vụ,
Điện lực, Bưu điện…của Trung kỳ Trung phần Trung
nguyên, hoặc cấp Sở thuộc tỉnh thành. Có học giả, giáo sư tiến sĩ, nhà khoa học
uyên thâm. Có văn nghệ sĩ, cây bút tên tuổi. Có doanh nhân phát đạt tiếng tăm
trong Nam ngoài Bắc. Có cả Đại đức cao tăng Phật pháp thông tuệ Đông
Tây!
Tuy nhiên, những người thành đạt
ấy tất thảy đã rời làng quê về nơi đô hội. Lại thêm, 30 năm bom đạn tơi bời dẫn
tới hệ lụy phân ly. Những người “ra Bắc” thì sau 30 năm, bầu đoàn thê tử yên ổn định cư ngoài Bắc,
và nếu ai đó có xuôi Nam cũng đưa gia đình thẳng tuốt vô Sài Gòn! Chú Lê Thanh
(Thế thứ 10 Chi Thứ) bấy giờ là trưởng phái Lê Khắc, từ Văn Xá gửi cho anh Lê
Khắc Điềm và Văn Trí một bức thư “kêu gọi khẩn thiết”. Giấy tái sinh xỉn màu. Chữ đánh máy kiểu cổ. Nhưng lời bộc
bạch sao mà thấm thía:
“…Phái Lê Khắc
chúng ta ngày xưa có đất có ruộng, con cháu đông đúc sum vầy nên việc nhang đèn
thờ phụng tổ tiên luôn vẹn toàn chu đáo… Nay ruộng đất không
còn, cháu con ly tán ngoại tỉnh, ngoại quốc, số người sống ở làng đều là dân
nghèo…Trước đây hàng năm cúng kỵ vài ba lần, nay tùng
tiệm chỉ còn một, lấy húy nhật ngài Lê Hồng Cơ 27 Tháng 11 âm lịch làm ngày giỗ
chạp cho toàn phái… Nhà thờ rêu phong tiêu điều dột
nát, Lăng tẩm hư hại, mộ đất còn rất nhiều…Tôi là Lê
Thanh, đứng ra kêu gọi con cháu khắp nơi hảo tâm cúng góp để tu sửa tôn tạo Nhà
thờ và 300 ngôi mộ của phái Lê Khắc…”
Anh Điềm là “anh cả” của Thế 11, ắt phải đứng mũi
chịu sào. Tạo sự đồng thuận trong mấy trăm bà con Lê Khắc tụ hội ở Sài Gòn sau
nửa thế kỷ luân lạc từ đầu nước tới cuối nước, đâu có dễ dàng. Phân nửa số gia
đình hôm nay vào tới Sài Gòn sau ba mươi năm ra Bắc chiến đấu vì Tổ quốc độc lập
thống nhất, lòng không giây phút nguôi quên quê hương miền Nam nhưng là một miền
Nam chung chung của giai cấp cần lao toàn thế giới, chứ mấy ai thực bụng da diết
nhớ về tổ tiên ông bà không biết tự lúc nào đã mặc nhiên khiên cưỡng quy kết
thành phần quan lại phong kiến ăn trên ngồi trốc! Phân nửa còn lại, ba mươi năm
ở quê hương gắn bó gần gụi với mồ mả cha ông, nhưng hôm nay có người mất nhà
(do chính bà con mình thế chỗ), có kẻ mất việc (do chính người trong họ thế
chân); thêm nỗi đắng cay thân phận người chủ gia đình chỉ về được Sài Gòn sau
dăm năm tập trung cải tạo nơi rừng sâu núi thẳm. Mà oái oăm làm sao, cả hai “phân nửa” ấy đều có mối liên hệ nhằng
nhịt đủ mùi vị hỉ nộ ố ái với một “phân nửa” thứ ba (!), ấy là mấy chục gia đình đã bỏ Sài Gòn ra đi sau
biến cố 1975. Ấy thế, tư thế, tâm thế như thế, giữa lòng dòng họ sao khỏi tiềm ẩn
âm ỉ rồi bộc phát bao mối bất hòa. Vả chăng, “đất nước
hòa bình, gia đình chiến tranh”, các cụ ông cụ bà trí
thức đủ mọi ngành nghề, tuổi tác sáu bảy chục của họ tộc nào ở nước mình mà chả
chín người mười ý. Chứ riêng chi Lê Khắc!
Người anh cả của Thế 11 bộc
bạch lời gan ruột: thôi từ nay chúng ta gác lại mọi dị biệt hiềm khích bất đồng
lịch sử để chung lo việc hiếu thiêng liêng! Bộ phận nòng cốt hội tụ những người
tiêu biểu hăng hái nhất. “Từ ngoài Bắc vào” có không ít “cán bộ cấp vụ” như Lê Khắc Điềm, Lê Khắc Nhãn, Lê Khắc Hiền, Văn Trí, Lê
Khắc Bảo… “Người ở lại phương Nam”
chững chạc về tuổi tác, chức sắc, học vấn, nhiệt tình…
cũng rất đông, như Lê Khắc Huề, Lê Khắc Sính, Lê Khắc Phò, Lê Khắc Ngọc Cầu,
Tôn Thất Lan… Những năm từ 1993 tới 1997 là “giai đoạn cao trào”. Hình thành “Ban liên lạc bà con Lê Khắc nhánh Bồ Nam” ở Sài Gòn. Lê Khắc Điềm làm trưởng ban, Lê Khắc Nhãn phó
ban thường trực, Lê Khắc Sính thư ký. Ở Sài Gòn có 25 cháu nội ngoại của ngài Bồ
Nam thì cả 25 gia đình hăng hái tham gia, lại lôi cuốn cả năm bảy chục gia đình
Lê Khắc ở các tỉnh thành trong nước và ở nước ngoài sốt sắng hưởng ứng việc tu
sửa nhà thờ và lăng mộ ở quê hương. Thành thử, tuy danh xưng khiêm tốn là “Ban liên lạc tại Sài Gòn” nhưng phạm
vi ảnh hưởng bao trùm “toàn quốc toàn cầu”. Hầu như cứ dăm ba tuần lại có một cuộc họp Ban liên lạc.
Trưởng ban Điềm chủ trì, Thư ký Sính ghi chép ý kiến phát biểu, tiền nong cúng
góp, kế hoạch chi tiêu xây dựng…, rồi Phó ban Nhãn đúc
thành Nghị quyết, chép tay từ số 01 tới số 19 in sao gửi tới từng gia đình
thành viên trong nước và nước ngoài.
Tu sửa nhà thờ, tôn tạo
lăng mộ, việc hiếu việc hỉ, thăm già yếu, giúp nghèo khổ…,
công việc gia tộc luôn đòi hỏi…tiền! Từng đợt phải có
nhiều tiền. Vài ba chục triệu. Một hai trăm triệu. Thu “niên
liễm” bình quân mỗi thành viên 50 ngàn đồng, không bõ
bèn thấm tháp. Cái chính là vận động cháu hiền dâu thảo gần xa hằng tâm hằng sản
cúng góp ra tấm ra món. “Anh em ta phải làm gương! -
Anh Điềm thủ thỉ nói với mấy người em thân cận – Tổ
tiên Lê Khắc có truyền thống làm quan thanh liêm. Làm quan là làm quản lý, cùng
với tài năng và tâm huyết, thì cần phải gương mẫu cuốn hút mọi người…Mà trong họ mình thì thân phụ Văn Phố được coi như trưởng
nam đích tôn, vậy anh em mình phải đi đầu làm việc hiếu…” Năm
1995, xây dựng Nhà thờ thân phụ Văn Phố, 11 gia đình góp kinh phí 43 triệu đồng,
thì anh Điềm, chị Bình và Văn Trí mỗi người cúng 10 triệu (trị giá bằng 2 lượng
vàng 4 số 9). Năm 2007, đại tu nhà thờ tổ phụ Bồ Nam và tu sửa mộ phần các bậc
cao tổ, 54 gia đình Lê Khắc thế thứ 11 góp tổng kinh phí 118 triệu đồng thì gia
đình anh Điềm cúng 21 triệu, gia đình Văn Trí 22 triệu. Những dịp về Văn Xá
khánh thành Nhà thờ, Lăng mộ, anh Điềm tuổi cao sức yếu nhưng đều ngủ lại ở
làng một hai ngày để chuyện trò thăm hỏi các bậc kỳ lão. Bước vào tuổi 90, anh
Điềm chỉ làm cố vấn, nhưng thường xuyên gọi điện thoại bàn việc họ tộc với Văn
Trí. Trí mắc tật khiếm thính từ tuổi 50, thường cười cợt với bạn bè rằng các cậu
là nhà báo tài năng, còn tớ là nhà báo nặng tai. Anh Điềm thì tới tuổi 90 mới
nghễnh ngãng. Hai ông già điếc điện đàm tay đôi vất vả như đánh vật! Bao giờ
cũng phải có cháu Kiều Ân (tuổi 60) đứng cạnh làm “phiên
dịch”, tức là lắng nghe chú Trí nói qua điện thoại rồi
chậm rãi hét từng tiếng vào tai ba Điềm! Nhiều lần bức xúc vì khó trao đổi hết
ý qua điện thoại, ông già đại thọ khăng khăng đòi ngồi sau xe máy để Kiều Ân
đưa từ nhà B4 K.300 đường Cộng Hòa quận Tân Bình tới tận nhà chú Trí ở 5/103/1
đường Nơ Trang Long quận Bình Thạnh. Hai anh em vui vẻ chuyện trò tâm đắc bằng
cách hét qua hét về chậm rãi từng tiếng vào tai nhau…
Cho đến khi trời nắng gắt, ông anh tuổi 93 mới hể hả gật gật đầu chào tạm biệt
ông em tuổi 72, rồi lập cập leo lên ngồi sau xe máy cho bà con gái tuổi 62 đưa
về…
Cuối thế kỷ 20, Thế 11 Lê
Khắc phần lớn vào tuổi 70, 80, quyết định bắt đầu chuyển giao công việc chăm lo
thờ phụng tổ tiên và hòa hợp đoàn kết dòng tộc cho Thế 12 đông đúc và sung sức.
Văn Trí lại được bà con ở Văn Xá-Huế đồng thuận cử làm trưởng phái Lê Khắc “bao quát toàn cầu”. Chọn người con
cháu nào ở Thế 12 làm trưởng ban ở Sài Gòn thay cho Văn Trí? Có ai chịu thương
chịu khó nhận làm cái công việc “ăn cơm nhà thổi tù và
dòng tộc”? Hay là…hay là… đã thử giới thiệu vài cháu, như con của Văn Trí, con của Lê
Khắc Hiền… nhưng không ai nhận lời. Bàn tính nát nước vẫn
bế tắc, lắc đầu thở dài. Cho đến khi anh Điềm bật ra: thôi cử cháu Bình nhà
anh!
Cuộc họp toàn thể
gia tộc năm ấy nhất trí tuyệt đối cử Lê Khắc Bình làm trưởng ban đại diện ở Sài
Gòn. Bình ra đời năm 1940, tuổi cao nhất, lại thành đạt nhất Thế 12!
Đặc biệt thuyết phục là Bình rất tốt tính, cần cù nhẫn nại, điềm đạm ôn hòa giống
như đúc anh Điềm và chị Huyền.
Con đường học vấn của Lê
Khắc Bình, may mắn thay, không hề bị chiến tranh làm gián đoạn. Lấy văn bằng tốt
nghiệp tiểu học mùa hè 1952 ở trường Thượng Tứ rồi học lên trường Thiên Hữu (Huế).
Mùa xuân 1955, ra Hà Nội học tiếp chương trình cấp 2 phổ thông. Tốt nghiệp
Trung học đệ nhất cấp tháng 6-1956 ở trường Nguyễn Trãi. 1956-1959, học cấp 3
Nguyễn Trãi, tốt nghiệp phổ thông trung học. 1959-1962, học Khoa Lý Đại học tổng
hợp Hà Nội, tốt nghiệp tháng 7-1962, được học tiếp năm thứ tư (Khóa 4 năm đầu
tiên của ĐHTHHN) và được giữ lại Trường làm cán bộ giảng dạy Khoa Vật Lý. Tháng
8-1967, sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh ở Viện bán dẫn Lê-nin-grat, ngày
26-01-1971 bảo vệ luận án phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ) Toán Lý.
Trong học tập, công tác,
Lê Khắc Bình là người luôn dám đối đầu với thách thức để không ngừng tiến bộ. Bởi
thế, hễ gặp việc khó, hễ có việc mới, Nhà trường lại nhớ tới Bình! Năm 1973, chọn
cử Bình tham gia đoàn nghiên cứu máy bay F.111 của Mỹ bị quân ta bắn rơi. Năm
1978, cử làm tổ trưởng Tổ Vật lý đại cương của Khoa Vật Lý, trường Đại học Tổng
hợp Hà nội để đẩy mạnh nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của tổ này. Năm 1985, Bộ
trưởng Bộ đại học và Trung học chuyên nghiệp bổ nhiệm Bình làm Trưởng phòng
nghiên cứu khoa học Đại học tổng hợp Hà Nội. Từ năm 1995 chuyển công tác vào
trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2003, Bình được giao nhiệm vụ
thành lập Bộ môn Khoa học Vật liệu trực thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
TPHCM (đến năm 2008 đã trở thành Khoa Khoa học Vật liệu ). Tiếp đó là xây dựng
đề án công nghệ nano và Bình được cử làm chủ nhiệm chương trình nano của Trường.
Bền bỉ mấy chục năm
làm một đảng viên gương mẫu trong sạch, đi đầu vượt khó, giảng dạy tận
tình, nghiên cứu khoa học say mê, tác phong khiêm tốn giản dị, Lê Khắc Bình được
cộng sự rất mực tin yêu. 1977 - 1987, 10 năm liền là chiến sĩ thi đua. Thành quả
lao động sáng tạo miệt mài được tưởng thưởng bằng Huân chương Lao động hạng Ba
ngày 21-4-2004. Nhận chức vụ Phó giáo sư năm 1984 rồi học hàm Giáo sư năm 1996.
Được phong tặng danh hiệu Nhà Giáo Ưu Tú ngày 15-11-1994, và tới ngày
07-11-2002 thì nhận danh hiệu Nhà Giáo Nhân Dân! Vui mừng khôn xiết trước
công tích của người cháu ưu tú, Văn Trí lần duy nhất trong đời, tự mình đạp xe
ra phố hàng bạc đặt làm bức hoành phi thếp chữ vàng CHÚC MỪNG NHÀ GIÁO NHÂN DÂN
GS.TS. LÊ KHẮC BÌNH. Và cuộc họp mặt đông đúc thân tộc hậu duệ ngài Văn Xuyên
Lê Từ hiện cư ngụ tại Sài Gòn cuối năm 2002 đã trịnh trọng vinh danh Lê Khắc
Bình!
Vợ của Bình, Nguyễn Hồng Thúy
(1941), tốt nghiệp đại học ở Đức, về nước năm 1971, công tác tại Khoa
Hóa trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Không may bị bệnh gan và một số bệnh khác,
sức khỏe giảm sút nên đã phải về hưu non (năm 1991). Từ đó, ở nhà lo
công việc nội trợ, tạo thuận lợi cho chồng cống hiến. Nhận về mình trách nhiệm “tề gia”, ổn định cuộc sống với đồng
lương nhà nước, nuôi dạy con gái Lê Khắc Thúy Nga (1971) và con trai Lê Khắc
Minh (1975) tu dưỡng nên người. Vào thập niên thứ hai của thế kỷ 21, Bình và
Thúy, hai ông bà trí thức ngành giáo dục đều tuổi ngoại 70, có đủ cháu nội ngoại.
Cả đời không bon chen, về hưu tiếp tục sống vui sống có ích trong ngôi nhà hai
tầng nho nhỏ trong một hẻm sâu đến mấy “xuyệc” ở quận Tân Bình.
Khởi từ thế tổ Lê Hữu
Tài, thứ tổ Lê Văn Tín, tiếp đến các bậc cao tổ Lê Hồng Du, Lê Hồng Cơ, Lê Cát,
Lê Từ… nối vào các thế hệ hôm qua và hôm nay, Lê Khắc
Thứ, Lê Khắc Điềm, Lê Khắc Bình…, trải qua mấy trăm năm
dâu bể, thế sự thăng trầm, dòng họ Lê Khắc vẫn bền bỉ dạt dào mạch nguồn truyền
thống mẫn cán, thanh liêm, khoan hòa, thuần hậu.
Chương 8 - Kháng
Tan tác bi thương! Đó
là cảnh ngộ những người Lê Khắc ly hương kháng chiến đầu thập niên 1950. Mái ấm
gia đình suy sụp. Mấy cây cột trụ chống đỡ đời sống gãy đổ! Anh Lê Khắc Điềm rời
cương vị trưởng ty Thuế trực thu Quảng Bình, ra Liên Khu Việt Bắc nhận nhiệm vụ
mới ở Bộ Tài chính, chỉ tạt qua Thanh Hóa gặp Mạ và Dì được một buổi. Anh Lê Khắc
Tình đang làm ngành Thuế Thanh Hóa thì bị bệnh lao đánh quỵ. Chị Lê Khắc Bích
Hà theo anh Trần Văn Kinh đem 5 con hồi cư. Chị Lê Khắc Giáng Nghê đột tử lúc
lâm bồn. Chị Lê Khắc Hương Bình theo chồng là anh Hồ Trác vào Nghệ An làm Tài
chính Khu Tư.
Số người còn lại ở Thanh Hóa vất
vưởng đói rét, rau cháo thay cơm. Gánh nặng sinh tồn đè dí. Chòi đạp tứ tán. Mạ
đem út Hân xuôi miền biển Hoằng Hóa sống dựa các anh chị Nhu-Khuê và Cảnh-Mộc
là giáo viên lương tháng ba chục ký gạo. Văn Trí lẽo đẽo sống bám
trường Sư phạm sơ cấp Khu Tư.
Bên phía Mạ, dù sao vặt mũi đút
miệng cũng lay lắt qua ngày. Bên phía Dì, khánh kiệt, khổ sở gian truân không kể
xiết. Đày ải ngoi ngóp với 4 đứa choai choai: Khôi (sinh năm 1937), Duy (1940),
Kháng (1942) và Lượng (1945). Dì đành dứt áo cùng Khôi bươn bả vượt núi tìm đường
về Huế, hi vọng gặp bà ngoại Công Nữ Kỳ Vân và anh cả Lê Khắc Duyệt xin được tiền
đem ra Thanh nuôi bầy con.
Chị Nguyễn Thị Kỳ rắn rỏi hứa: con
nuôi được 3 em, Dì cứ đi! Chị tảo tần buôn vặt, mùa nào thức ấy, mua đầu chợ
bán cuối chợ, có khi quảy gánh trầu cau đi rẻo làng trên xóm dưới. Rồi lên núi
chặt củi đem ra chợ bán. Rồi dẫn mấy đứa em ra đồng mót lúa mót khoai. Lê Khắc
Kháng sau này ghi lại mấy vần mộc mạc: “Ly hương
Văn Xá Thừa Thiên/ Bến bờ dừng lại đất hiền quê Thanh/ Sáng chiều quảy gánh
hàng rong/ Nuôi em! Nắng hạ mưa đông quản gì!... Làm sao trả nổi ơn này/ Chị
như dòng máu tràn đầy trong em…” Kháng là người
trai bộc trực và đa cảm, ngay từ thuở nhỏ. Năm 1952, mấy chị em quẫn bách, phải
tính kế tạm sẻ đàn cho nhẹ bớt, thì em Kháng nói: chị Kỳ ơi, chị cho em đi ở!
Trong khốn khó chống chọi đói nghèo,
sức đề kháng của mấy chục anh chị em nhà Văn Trí thể hiện kiên cường
nhất chính là ở chú bé lên 10 Lê Khắc Kháng!
10 tuổi, Kháng bắt đầu cuộc đời đi ở.
Giống như câu ca dao đứt ruột: “Cuộc đời đi ở
đau thương/ Nửa đêm tỉnh dậy đội sương đi cày/ Người thì mảnh khảnh bé gầy/ Con
trâu to lớn ruộng lầy buốt chân/ Ngã lên ngã xuống trăm lần/ Phong phanh áo
rách tím bầm thịt da/ Trưa về xay lúa quét nhà/ Cánh tay muốn rụng xuống mà vẫn
xay/ Chiều đem trâu thả đồi cây/ Tối về một gánh cỏ đầy trẹo vai…” Duy có điều, nhà chủ của Kháng cũng là nông dân
chân lấm tay bùn, không nỡ nào đối xử tàn tệ tới mức “…Nó
còn đấm đá tát tai/ Thét sao trâu đói chê bai cỏ gầy…” Nhưng
thân phận tôi đòi tránh sao khỏi một nắng hai sương quăng quật…
Chịu thương chịu khó, người
gầy sắt mà hì hục cuốc cày như trâu lăn, bé Kháng được xóm giềng lân cận cảm
thương. Nhà ông Sửu ở Quần Tín mở lòng đón nhận bé Kháng làm con nuôi. Làm con
cái nhà nông, thì vẫn ngày một buổi chăn trâu cắt cỏ, nhưng còn một buổi được cắp
sách theo đám trẻ cùng lứa đi học trường làng. Miệt mài chăm chỉ vừa học vừa
làm, mà đâu đã yên thân! Vừa ấm chỗ đã nổ cơn địa chấn cải cách ruộng đất. Ông
Sửu lên thành phần phú nông, bị quy kết “nuôi Kháng làm
con để bóc lột lao động”! Thế là Kháng phải trở về với
chị Kỳ và anh Duy, em Lượng, tiếp tục nghề nông. Tuổi thơ ấu, lên 10, Kháng đã
cày bừa cấy hái làm ruộng thành thạo như một lão nông. Rồi lớn chút, chớm tuổi
Đoàn, Kháng tham gia sinh hoạt thanh niên, năng nổ xốc vác, làm bí
thư chi đoàn thanh niên Lao động. Xây dựng Hợp tác xã nông nghiệp, Kháng làm đội
trưởng đội sản xuất giỏi nhất xã, giật cờ thi đua. Chi bộ Đảng tin cậy xếp
Kháng vào loại “trợ thủ hậu bị nhiều triển vọng”, cho đi học lớp “cảm tình Đảng”. Nhưng dừng lại ở mức “cảm tình” thôi! Bởi căn cứ hồ sơ lý lịch tự khai thì Kháng có cha làm
quan Phủ, ông nội làm quan Tuần, quê quán bên kia giới tuyến, lý lịch chưa rõ
ràng.
Tròn 24 tuổi, tháng 4-1966, Lê
Khắc Kháng đi bộ đội. Khoác lên vai súng đạn, ba lô tư trang 35kg, đêm hành
quân ngày nghỉ, vượt Trường Sơn đèo cao dốc đứng lởm chởm đá tai mèo. Đi theo
con đường người mẹ thân yêu lặn lội 16 năm trước, Kháng vào chiến khu Trị
Thiên, mở đường nối tới Văn Xá Quê Cha.
Trước khi vượt vĩ tuyến 17,
Kháng được biên chế vào Đại đội 12 - đại đội hỏa lực của Trung đoàn 1 Sư 324.
Đêm 1-6-1966, đơn vị vượt sông ở thượng nguồn Bến Hải, con sông chia cắt Bắc Nam,
giới tuyến 2 chế độ. Cuối tháng 6, Trung đoàn 1 luồn rừng thọc sâu đánh Cù
Đinh, Bản Hiệu, Lèn 300, 402 bắc Quảng Trị. Ngày 5-7-1967, bom tọa độ đánh
trúng đội hình Trung đoàn đang hành quân. Đồng đội thương vong. Kháng bị mảnh
bom găm cạnh sườn, phải nằm Trạm phẫu Trung đoàn chữa trị. Máu đã đổ trên Đất Mẹ
Bình Trị Thiên. Trui rèn trong đạn bom khốc liệt, người trai Văn Xá đã trưởng
thành, bộc lộ phẩm chất trung kiên, ý chí chiến đấu cho Bắc Nam liền một dải.
Chi bộ Đảng Đại đội 12 cử tiểu
đội trưởng Hà Minh Đường thâm nhập vùng du kích huyện Hương Trà Thừa Thiên thẩm
tra lý lịch Lê Khắc Kháng. Anh Đường luồn rừng, vượt trận địa địch phục kích, cắt
đuôi thám báo, ròng rã một tháng thì gặp được tổ chức Đảng Văn Xá. Sau ngày hòa
bình, khi chia tay nhau đi nhận nhiệm vụ mới, anh Đường mới thuật lại cho Kháng
nghe nhận xét cẩn trọng của cấp ủy Làng Văn. “Ông
Lê Khắc Thứ từ 1943 về trước có làm quan tri phủ mấy nơi nhưng tỏ ra thương
dân, thanh liêm, không có nợ máu, sau cách mạng Tháng Tám đã được tin cậy cử
làm chủ nhiệm Việt Minh Văn Xá. Cha của ông Thứ là ông Lê Từ từng làm quan đầu
tỉnh Phú Yên, Quảng Ngãi nhưng bị huyền chức hưu trí sớm, về làng suốt 20
năm không có oán hận gì ở địa phương”.
Ngày 16-8-1967, tại khu rừng
đóng quân bắc Quảng Trị, Lê Khắc Kháng gia nhập Đảng. Tiếp đó tham gia các chiến
dịch dồn dập trên chiến trường quê hương. Cuối năm 1967, Trung đoàn 1 nhận nhiệm
vụ vây lấn Cồn Tiên. Kháng cùng đồng đội tên là Mạnh đi nhận súng bắn tỉa ở
Trung đoàn Cửu Long cách hai ngày đường. B52 vừa ném bom rải thảm xong thì
Kháng và Mạnh tới. Xông vào nơi đổ nát hoang tàn, không kịp giúp bạn khắc phục
hậu quả, mà phải nhận súng quay về ngay trong đêm cho kịp nhiệm vụ chiến đấu. Lại
hứng một trận bom tọa độ trên đường về. Cả hai dính bom. Mạnh bị thương nặng,
gãy chân trái. Kháng bị nhẹ hơn, mảnh bom cắt sượt bánh chè, phải vào Viện 48
điều trị.
Xuân Mậu Thân 1968, Trung đoàn
1 đánh thọc sâu từ Cửa Việt vào Hải Lăng. Chiến đấu suốt 25 ngày đêm, thương
vong đáng kể, thì đơn vị nhận lệnh rút lên bắc Quảng Trị củng cố lực lượng. Hai
chiến sĩ ở Trạm quân giới Trung đoàn là Hảo và Kháng được cài lại xã Hải Thịnh,
phối hợp với du kích giữ địa bàn, địch càn vào ít thì đánh, địch nhiều thì nấp
hầm bí mật bảo toàn lực lượng. Hai tháng sau, Kháng lại được phân công đi cùng
Lê Đức Thuận, phó ban Hậu cần, vượt hành lang sông Bồ, thâm nhập vùng mới giải
phóng Thừa Thiên bắt liên lạc bảo đảm hậu cần chuẩn bị cho Trung đoàn tiến vào.
Tối 16-4-1968, một nữ du kích đưa hai chiến sĩ xuất phát từ rừng Cổ Bi Hiền Sĩ
(gần giáp ranh Văn Xá!). Nửa đêm, cô giao liên đi trước dò đường lọt vào trận địa
phục kích, hi sinh! (Nỗi đau sinh ly tử biệt ấy, sau ngày hòa bình còn nhức nhối
trong bài thơ Gối cưới của Kháng: Giữa thời bom rơi đạn nổ/ Những
sợi chỉ màu vàng xanh tím đỏ/ Trong tay em thành khóm trúc bên đình/ Thành vành
trăng non thành con thuyền tình/ Em thêu gối cưới./…
Ngày Hòa Bình bao lứa đôi hạnh ngộ/ Đêm một mình em nằm lại thung sâu/ Cây rừng
thủy chung đơm hoa bên mộ/ Như nhắn ai về mặc áo cô dâu…) Thuận
và Kháng kịp tháo lui, kẹt lại, lạc đường. 7 ngày liền, chỉ ăn lương khô với gạo
rang, ngày trú trong lùm cây lúp xúp, tối mò xuống uống nước ruộng và múc đầy
bi đông dự trữ. Ngày thứ 7, một đại đội thủy quân lục chiến càn qua, may mà đi
chệch sang hướng khác. Đêm thứ 8, mò vào nhà dân, được hai ông bà già cho cơm
ăn và chỉ đường an toàn đi tới khu du kích huyện Phú Vang.
Cuối năm 1968, Trung đoàn rút
ra Lệ Thủy Quảng Bình tổng kết. Lê Khắc Kháng được bầu chiến sĩ thi đua, nhận bằng
khen, huân chương và cử đi học về làm chính trị viên Đại đội 25 Trung đoàn 1.
Năm 1969, Trung đoàn 1 quay vào
Quảng Trị tham dự chiến dịch Đường 9 Nam Lào. Tháng 3-1971, từ vùng
giải phóng Quảng Trị, Kháng được đi phép theo chế độ sĩ quan thời chiến. Sau 5
năm xa cách, vui mừng khôn xiết gặp lại chị Kỳ, người chị hiền, người mẹ thứ
hai của Duy Kháng Lượng. Đến lần nghỉ phép thứ hai của Kháng, tháng 1-1974, chị
Kỳ tổ chức cho Kháng cưới vợ, là Lê Thị Bằng, thôn nữ làng Cự Tiến xã Thọ Cường.
Năm ấy Bằng 25 tuổi, còn Kháng đã 34.
Suốt từ 1976 tới 1987, Lê Khắc
Kháng liên tục chiến đấu ở chiến trường và thao trường. Năm 1976, đánh Phun-rô ở
Lâm Đồng. Rồi sang Lào làm nhiệm vụ quốc tế. Tháng 2-1979, quân bành trướng
Trung Quốc tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc. Kháng cùng 25 cán bộ Sư 324 đang
ở Xiêng Khoảng (Lào) được lệnh trở về làm bộ khung xây dựng Sư 348 sẵn sàng ứng
chiến. Trung Quốc rút quân, Sư 348 ở lại Thanh Hóa xây dựng đơn vị huấn luyện
quân thường trực. Suốt 8 năm trên thao trường luyện quân, 1979-1987, Kháng lần
lượt đảm nhận các cương vị Phó ban tổ chức, Chủ nhiệm chính trị và bí thư Đảng ủy
Trung đoàn 785 Sư 348.
Ngày 1-7-1987, Lê Khắc Kháng xuất
ngũ, trở về Cự Tiến - Quần Tín - Thọ Cường, với quân hàm cấp tá và tuổi quân “đã quy đổi” là 34 năm.
Trên chặng đường binh nghiệp 22 năm,
đã có hai lần suýt nữa đường đời Lê Khắc Kháng rẽ sang hướng khác.
Lần thứ nhất, đầu năm 1975. Thuộc
diện quy hoạch ở lại lâu dài làm quân nhân chuyên nghiệp và cán bộ “nguồn” đề bạt lên cao, nên Kháng được
cử đi Lạng Sơn học tập trung nâng cao trình độ văn hóa. Chân ướt chân ráo lên tới
nơi thì có lệnh cấp tốc gọi về tham gia chiến dịch “thần
tốc” mùa xuân 1975.
Lần thứ hai là ngay sau đại thắng
30-4-1975. Cấp trên chủ trương điều động một số sĩ quan quân đội tham gia các Ủy
ban quân quản và tăng cường cấp ủy ở các tỉnh và thành phố lớn phía Nam.
Trung đoàn 1 Sư 324 có tên 5 người trong danh sách dự kiến, trong đó Hà Minh Đường
làm giám đốc sở thương nghiệp một tỉnh Tây Nguyên và Lê Khắc Kháng làm bí thư
quận ủy một quận vùng ven Sài Gòn. Vẫn được hưởng nguyên mọi chế độ cấp bậc thiếu
tá như trong quân ngũ, được giúp đỡ thu xếp công ăn việc làm cho người thân đồng
thời được cấp nhà ở tiện nghi. Cấp trên cho phép các đương sự cân nhắc chọn lựa
có nhận hay không nhận sự phân công này. Kháng tức tốc về Thanh Hóa bàn với chị
Kỳ. Bấy giờ, cả ba anh em Duy Kháng Lượng đều đã lấy vợ, làm nhà ở gần nhau.
Vùng bán sơn địa Cự Tiến - Quần Tín - Thọ Cường này đã thành quê hương thứ hai
thân thiết của bốn chị em. Nghe Kháng trình bày đường đi nước bước sắp tới của
mình, chị Kỳ giận dỗi: “Cậu bây giờ thành cán bộ to, đủ
lông đủ cánh tha hồ bay nhảy… Thôi ý cậu muốn vào thành
phố Sài Gòn cho sướng thân sướng đời thì chị cũng tùy cậu!”
Giọng chị nhẹ nhàng, nhưng hai chữ “cho sướng” da diết như xói như cắt vào lòng Kháng. Trong giây lát, trước
mắt hiện lên quãng đời ròng rã 10 năm 4 chị em rau cháo đùm bọc lấy nhau; chị Kỳ
như gà mái mẹ xơ xác xù lông quơ quào bới đất nhặt nhạnh từng hạt thóc lép mẩu
khoai hà chăm bẵm bầy em thơ Duy Kháng Lượng. Thế là Kháng dứt khoát không rẽ
theo ngả đường vào tiếp quản Sài Gòn mà ở lại quân đội hoàn thành nhiệm vụ rồi
trở lại Thọ Cường.
1987, Lê Khắc Kháng
rời quân ngũ với Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng 1,2,3; Huân chương chiến sĩ
giải phóng hạng 1,2,3 ; Huân chương kháng chiến hạng 3; Huân chương chiến công
giải phóng hạng 3…
1987, trở lại Quần
Tín - Cự Tiến, trở lại “đời thường”.
Về làng với tấm thân gầy yếu, vết thương không nặng nhưng di chứng còn mang
theo, vi trùng sốt rét vẫn còn trong máu.
Thử thách cam go đầu tiên
là nạn đói năm 1988 ở Thanh Hóa. Nhiều gia đình nông dân đứt bữa, cháo bột sắn
cũng không đủ no. Đồng lương hưu bấy giờ nào có nhiều nhặn gì, lương thực phân
phối thì 13 kg mỗi tháng đa phần ngô sắn mà kho nhà nước cứ khất lần. Ngay đến
cây rau má mọc hoang bờ ruộng lề đường cũng hiếm dần (…Mới
nghe em chớ vội cười/ Cây rau má- sâm của người xứ Thanh!). Hai vợ chồng
Kháng – Bằng phải vào rừng kiếm củi, làm chổi đót bán lấy
tiền mua bột sắn cho 3 con nhỏ cầm hơi. Nhớ mãi cái ngày 13-3-1988, từ 2 giờ
sáng đã gánh củi trên vai đi chợ Neo cách nhà 12km. Trời mưa, đường trơn, Kháng
ngã 2 lần, củi lăn tòm xuống sông. Củi khô ngâm nước vớt lên càng nặng, nhoi
nhói nghiến vai gầy. Tới chợ, bán 2 gánh củi được 1.600 đồng. Đói hoa mắt, bủn
rủn tay chân. Hai vợ chồng mua 4 cái bánh bột sắn, ăn ngấu nghiến. Giá như còn
trai trẻ thì gian khổ này chẳng thấm tháp so với thời vượt Trường Sơn hiểm trở,
hoặc 7 ngày lạc đường ở Hiền Sĩ Cổ Bi nhai gạo rang uống nước ruộng! Nhưng người
cựu sĩ quan trung niên phút ấy nhớ lại quãng này năm ngoái năm xưa làm chủ nhiệm
chính trị huấn luyện Trung đoàn 785, “nước sông công
lính”, một tiếng hô trăm lời đáp…
Nhìn lại hiện tình thê thảm, tủi thân, nước mắt ứa ra!
Số tiền bán hai gánh củi còn lại
mua được đúng 10 lon bột sắn cứu đói cho cả nhà! Thương cho 3 đứa trẻ. Ăn uống
thiếu thốn, thất thường, thô tạp, bệnh đường ruột hoành hành…Cháu
Bình nhiễm lỵ trực trùng cấp tính, đưa ngay lên bệnh xá huyện Triệu Sơn mà vẫn
không cứu được. Cháu mất ngày 26-4-1988 trong vòng tay cha mẹ. Kháng – Bằng sinh hạ 3 con, vậy là còn lại 2, Lê Khắc Quang Trung
(sinh năm 1978) và Lê Khắc Ngọc Bích (1984).
Năm 1989, kinh tế gia đình vừa
gượng dậy là Kháng quay ra xốc vác việc làng việc xã. Để đáp nghĩa đền ơn cho mảnh
đất Thọ Cường bao năm cưu mang không chỉ gia đình Lê Khắc mà cả mấy chục gia
đình văn nghệ sĩ kháng chiến nức tiếng Liên Khu Tư, từ “lưỡng
quốc tướng quân” Nguyễn Sơn văn võ song toàn tới các
tên tuổi lẫy lừng: Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Sỹ Ngọc, Phạm Duy, Trương Tửu…
1989-1990, Lê Khắc Kháng làm chủ
tịch Hội cựu quân nhân xã.
1991-1992, bí thư chi bộ liên
xóm 7+8.
Từ 1993, bí thư đảng bộ xã Thọ
Cường…
Cuối thế kỷ 20, rồi sang thiên
niên kỷ mới, Kháng chuyển giao trọng trách công tác Đảng cho lớp đàn em sung sức,
nhưng bản thân vẫn hăng hái việc chung: chủ tịch Hội cựu chiến binh xã, thành
viên biên soạn lịch sử đảng bộ Thọ Cường, thường trực Hội khuyến học. Kháng là
người khởi nguồn và duy trì “Tiếng trống học đêm” ở Thọ Cường, giúp học sinh có ý thức, nền nếp tự học. Vừa
gánh việc xã, Kháng vừa làm cột trụ đại gia đình mấy chị em, thay vai chị Kỳ
già yếu đã gắn bó với Thọ Cường liên tục 60 năm.
Chị Nguyễn Thị Kỳ lấy anh Bùi
Văn Đĩnh năm 1953, sinh nở 5 lần nhưng hỏng mất hai đốt. Anh Đĩnh là bệnh binh,
sức yếu, nhất là di chứng thương tật do sức ép của bom. Những năm kinh tế khốn
quẫn, hễ bệnh thần kinh nổi lên là anh Đĩnh thành dữ tính, chị Kỳ và Duy Kháng
Lượng khổ tâm nhẫn nhịn chịu đựng.
Lê Khắc Duy vừa đi học phổ
thông vừa tham gia công tác Đoàn thanh niên, làm ủy viên chấp hành chi đoàn phụ
trách Đội Thiếu niên tiền phong xóm Cự Tiến. Năm 1957, đang học lớp 7, Duy rời
làng quê gia nhập Nông trường Sao vàng Thanh Hóa, gọi là “đi
công nhân”, nhưng nhờ có trình độ văn hóa nên được phân
công dạy bổ túc cho nông trường viên phần lớn là bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc.
Năm 1962, Duy đi học Trung cấp kỹ thuật nông nghiệp môn chăn nuôi thú y. Năm
1964, được Bộ Nông trường cho đi bổ túc nghiệp vụ quản lý 6 tháng rồi về cơ
quan Bộ tham gia các đoàn thanh tra nông trường. 1965-1966, Hoa Kỳ mở rộng chiến
tranh phá hoại bằng không quân ra khắp miền Bắc. Cũng là lúc các nông trường thực
hiện chủ trương mở rộng nhằm góp phần tăng cường lực lượng kinh tế và quốc
phòng. Lê Khắc Duy, 26 tuổi, “thanh niên ba sẵn sàng”, xung phong lên nông trường Chè Hà Cối biên giới Quảng
Ninh, vừa làm cán bộ tổ chức lao động tiền lương, vừa làm đại đội phó pháo cao
xạ 37 ly của lực lượng vũ trang “sao vuông”, tự vệ nông trường. Năm 1975, đất nước thống nhất, Duy chuyển
công tác vào Tây Ninh, sau chiến tranh biên giới Tây-Nam, lại được điều động về
Sở Nông nghiệp Đồng Tháp cho đến khi nghỉ hưu. Hơn 30 năm cống hiến của Duy đã
được tưởng thưởng với Huân chương kháng chiến Hạng nhì.
Trong đợt Duy nghỉ phép năm
1973, chị Kỳ tổ chức cưới vợ cho Duy, là Nguyễn Thị Chức, cũng là thôn nữ Cự Tiến.
Năm ấy Duy 33 tuổi, còn Chức mới 24. 24 tuổi mà đã có thâm niên 6 năm tham gia
chiến đấu. Tháng 4-1966, Chức tình nguyện đi thanh niên xung phong, cống hiến
tuổi xuân cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước, tới tháng 2-1973 mới xuất
ngũ…lấy chồng. Chồng công tác xa, Chức vừa cần cù làm
việc hợp tác xã vừa chăm bẵm 2 con nhỏ là Lê Khắc Dương (sinh năm 1978) và Lê
Thị Mai (1980). Mãi tới 1985, gia đình Duy-Chức mới được sum họp ở Đồng Tháp, cách
xa Thanh Hóa quê vợ Thanh Hóa cũng như Thừa Thiên quê chồng cả ngàn cây số. Tới
2011 thì đã sinh sôi thành một đại gia đình êm ấm. Các con đều đã lập gia đình
riêng và có nghề nghiệp vững vàng. Cháu Dương tốt nghiệp cử nhân Luật làm tại
Viện Kiểm sát thành phố Cao Lãnh. Cháu Mai tốt nghiệp cử nhân Kinh tế làm kế
toán một Công ty đầu tư xây dựng nông nghiệp. Ông bà Duy - Chức đã có 2 cháu nội
và 1 cháu ngoại.
Thiệt thòi nhất nhà có lẽ là
chú em út Lê Khắc Lượng. Cuộc đời ngắn ngủi không kể xiết thương đau. 1946, một
tuổi, mồ côi cha. 1950, năm tuổi, mồ côi mẹ. Cơ hàn từ lẫm chẫm tập đi. Nguy
nan khổ ải từ thưở ấu thơ, thời trai tráng tới tận phút lìa đời. Lượng sinh năm
1945, sau Kháng 3 năm nhưng nhập ngũ tháng Giêng 1966, trước Kháng 3 tháng! Và
Lượng cũng gia nhập Đảng trước anh trai của mình 3 tháng, tức là ngày
19-5-1967, tại chiến trường, sau những trận đánh ác liệt (trong cả đoàn mấy chục
anh chị em lớn nhỏ nhà Văn Trí ngược sông Bồ đi kháng chiến năm 1947, chỉ có
hai người là Lê Khắc Kháng và Lê Khắc Lượng gia nhập Đảng, và đều vào Đảng tại
chiến trường, lúc đang trực tiếp cầm súng hi sinh xương máu vì độc lập thống nhất.
Còn anh Lê Khắc Điềm thì gia nhập đảng Cộng sản Đông Dương năm 1949, cũng tại
chiến trường Bình Trị Thiên kháng Pháp). Chiến dịch Mậu Thân 1968, Lượng bị
thương nặng thủng phổi, phải chuyển ra Bắc điều trị. Thành thương binh 2/4, Lượng
không thể trở về chiến đấu nên quân đội cho đi học. Từ năm 1970 chuyển ngành về
phụ trách tuyển sinh Trường trung cấp Xây dựng ở Quảng Xương Thanh Hóa. Chị Kỳ
lại tổ chức cưới vợ cho chú em út; vợ Lượng là Lê Thị Thiều cũng người làng Cự
Tiến. (Mấy em con Dì Điện vì gia cảnh đều lấy vợ có phần muộn: Lượng năm 31 tuổi,
Kháng năm 34 tuổi, Duy năm 33 tuổi; so với các anh em trai con Mạ Tuyết con Mạ Lâm
đều lập gia đình ở tuổi ngoài 20…).
Đầu năm 1983,
vết thương của Lượng tái phát, liên tục đi cấp cứu ở bệnh viện Thanh Hóa. Nhưng
bệnh tình ngày thêm trầm trọng. Bệnh viện bó tay trả về.
Chiều 28-01-1983, tại
căn nhà tranh vách đất làng Cự Tiến, Lê Khắc Lượng trút hơi thở cuối cùng,
trong niềm tiếc thương vô hạn của gia đình chị Kỳ, gia đình anh Kháng, trong nỗi
đau tột độ của người vợ trẻ Lê Thị Thiều với 3 đứa con thơ Lê Thị Thoa, Lê Thị
Thuận và Lê Khắc Phương.
Khi Lượng hưởng dương 38
tuổi qua đời, Lê Thị Thiều mới 31 tuổi. Góa bụa, một nách 3 con nhỏ dại, cháu
Thoa 7 tuổi, cháu Thuận 5 tuổi và cháu Phương mới lên 2. Bới đất lật cỏ, làm ăn
cực khổ ở Thọ Cường chống chọi với đói rách được 2 năm thì chịu đựng hết nổi.
Tháng 8-1985, Thiều đành dắt 3 con rời Thanh Hóa, vào tận Phú Yên làm công nhân
chế biến chè ở nông trường Sơn Mỹ - cùng với 2 bà chị ruột. Mấy chục năm ròng
nén đau thương, ý chí cao như núi, Thiều nỗ lực phi thường nuôi dạy 3 con nên
người. Cả 3 cháu Thoa, Thuận, Phương, thông minh, năng động, đầy nghị lực, đều
học hành tới nơi tới chốn, đã có bằng Đại học, Cao đẳng và có nghề nghiệp tử tế.
Cả ba làm việc ở Sài Gòn, Bình Dương, đón mẹ vào sum họp. Hai cô gái lớn đã lập
gia đình. Thiều đã có 3 cháu ngoại. Đời sống kinh tế của cụm gia đình ổn định vững
vàng.
Vong linh người con trai út của
ngài Văn Phố ở thế giới bên kia hẳn đã ngậm cười. Nhưng từ trong tâm thức, anh
Văn Trí không quên câu hỏi nhức nhối mà chú út Lê Khắc Lượng thẳng thắn đặt ra
với chị ruột anh ruột ngay buổi đầu gặp lại khi đất nước đã thống nhất:
- Vì sao sau khi hòa bình lập lại năm
1954, cả chục anh chị ruột thịt Lê Khắc ở miền Bắc không một ai trở về Thọ Cường
tìm 3 đứa em bơ vơ Duy Kháng Lượng? *
Sau 1975, Lượng là cán bộ
tổ chức trường trung cấp Xây dựng Quảng Xương, thỉnh thoảng ra Hà Nội họp hành
trên Bộ và đưa công nhân vào bàn giao cho các tỉnh phía Nam, nên có điều
kiện liên lạc móc nối với các anh chị. Hôm ấy, nhờ chị Hương Bình chỉ dẫn, Lượng
đạp xe tới 14 Lê Trực Hà Nội tìm Văn Trí. Trí mừng quá, liền xin tòa báo nghỉ một
ngày đưa Lượng về xã Tiền Phong thăm chị Đức và các cháu. Bấy giờ Trí Đức chưa
xây nhà riêng (năm 1981 mới làm được cái nhà cấp 4 ba gian), đang ở nhà tập thể
giáo viên. Toen hoẻn hai gian nhà lá. Liếp nứa ọp ẹp dán giấy báo lành phành
che gió bấc. Có lần cu Thao nấu cơm trên bếp dầu hỏa, lóng ngóng làm lửa bén giấy
báo cháy bùng, suýt cúng cả dãy nhà cho bà Hỏa! Nhìn cảnh nhà anh chị Đức Trí
tuềnh toàng với ba thằng cháu Ái Thao Cường gầy quắt queo, chú Lượng ngớ ra:
anh chị nhà báo nhà giáo lấy nhau hơn chục năm mà vẫn gieo neo, đâu có khấm khá
hơn bọn em trong Thanh!
Buổi tối, bắc chõng ra
sân ngồi tâm sự, Lê Khắc Lượng mới rơm rớm nước mắt nêu câu hỏi 20 năm chất chứa:
“Vì sao năm 1954, các chị các anh không ai về Thọ Cường
thăm mấy đứa em côi cút? Năm ấy, em mới 9 tuổi, hòa bình lập lại em khấp khởi
chờ tin Dì, em mong chị mong anh…”.
“Sai
trái lầm lỗi sờ sờ ra đấy, quanh co biện bác làm chi” -
Trí nghĩ thầm. Truyền thống gia tộc, tổ phụ Lê Từ đã di chúc dặn dò nhà đông
con thì anh chị làm ăn nuôi em. Thân phụ của chúng ta, đúng như tên gọi “Khắc Thứ”, được bà con quý mến kính
trọng về đức độ khoan dung nhân hậu, thương yêu em út cháu con. Thế mà tới lượt
anh em mình thì đành đoạn bỏ rơi 3 núm ruột của cha của mẹ.
Nhưng rồi Trí cũng phải
suy ngẫm phân tích giãi bày cơn cớ vì sao chứ! Đã hẳn trước tiên là bởi thảm trạng
đói nghèo. 1954 - 1955, cả tỉnh Thanh bị dìm trong nạn đói khủng khiếp. Các anh
chị Nhu Khuê, Cơ Triêm, Cảnh Mộc, giáo viên lương tháng vừa vặn 30 ký gạo, nuôi
một hai đứa con là thiếu trước hụt sau. Năm Dì 40 tuổi ở Triệu Sơn cùng em Khôi
13 tuổi vượt núi xông pha vào miền khói lửa bỏ Duy Kháng Lượng lại hậu phương
cũng là năm Mạ 53 tuổi ở Thiệu Hóa đứt ruột “bỏ” Trí tha phương. Sáng mùa đông ấy, Mạ sụt sịt, nước mắt lã
chã, nhìn theo thằng con áp út 13 tuổi còm nhom, áo vá phơi gió bấc, bê rê ngơ
ngáo đội lệch, lủi thủi chân đất lên Thọ Xuân kiếm sống. Nhờ anh Phạm Phú Thọ,
bạn của chị Bình chị Triêm, dắt dẫn, Trí được một nhà trung nông hiếu học nuôi
làm gia sư dạy kèm cho “anh nhiêu”
(đã có vợ) học lớp 3, trong khi “cậu giáo Trí” chưa qua tiểu học! Chính Mạ và em Hân suốt 8 năm kháng chiến
1947-1954 được các anh chị cưu mang, thế mà sau hòa bình 1954 cũng bị đẩy ra đường,
Mạ bán hàng xén nuôi Hân, giống cảnh Dì năm 1948-1949. Em Lượng có biết không,
chính chị Huyền vợ anh Điềm năm 1955 từ Huế ra tới Hà Nội đã bức xúc hỏi chị
Hương Bình: Dì mất rồi, sao Hương Bình không vào Thanh tìm mấy em mồ côi? Chị
Bình lí nhí: em vào Thanh Hóa tìm 3 đứa rồi ai nuôi bọn nó? Trong ấy có em Kỳ
chạy vạy đắp đổi qua ngày, chứ nếu Duy Kháng Lượng kéo ra Hà Nội thì có ai
chung sức cùng em cáng đáng cho xuể? Vợ chồng em nuôi một cháu Hồ Khắc Châu còn
hụt hơi…
Lại nói tiếp chuyện sau đó
trong Thanh Hóa, năm 1958, em Hân (cùng tuổi với Kháng) lên thị xã trọ học cấp
3 Lam Sơn. Gặp thời, chế độ tiền lương cán bộ công chức nới ra một tí. Giáo
viên tiểu học mỗi tháng được lĩnh 30 đồng. Mà phần Trí chỉ cần 20 đồng tùng tiệm
suất cơm rau. Bèn đưa Hân 10 đồng. Chị Xuân Triêm cho Hân thêm 10 đồng nữa,
tươm rồi! Tới 1960 thì Hân vào đại học Sư phạm, có học bổng, cũng giống như Trí
năm 1952 vào sơ cấp Sư phạm; hai anh em thế là cùng được Nhà nước nuôi ăn học
nghề thầy giáo, anh dạy cấp một, em dạy cấp ba. Năm 1960, rảnh tay trợ giúp em,
Trí 24 tuổi mới hăng hái mưu đồ…cưới vợ.
Trong câu chuyện với út Lượng
tiếp đó, Văn Trí còn thẳng thắn mổ xẻ nguyên nhân sâu xa khiến anh chị em ruột
thịt tiếp tục phân ly khi hòa bình đã lập lại. Chính do khuynh hướng sai lầm một
thuở của hệ ý thức tả khuynh duy vật cực đoan đoạn tuyệt với đạo đức truyền thống!
Sau 1975 Trí vào thăm miền Nam, sống chan hòa với hàng chục nhà Lê Khắc,
sung sướng tắm trong bầu không khí gia đình dòng họ ruột rà ấm áp. Trẻ em lễ
phép, đi thưa về trình, vâng lời cha mẹ, kính trọng ông bà, nhường nhịn chị ngã
em nâng. Người người lớn nhỏ chung một thái độ sống trách nhiệm, yêu
thương chia sẻ, kính cẩn đạo lý và tâm linh! Giữ lại được những đặc thù ưu việt
nhất của Nho giáo và Phật giáo trong bối cảnh hết sức coi trọng Gia giáo – cả tiểu gia đình và đại gia đình! Văn Trí không khỏi liên hệ
so sánh với tư cách đạo đức thanh thiếu niên trong các gia đình Lê Khắc sinh ra
và lớn lên ở miền Bắc. Vẻ như các cháu coi trọng sự giáo huấn của thầy cô và
anh chị phụ trách Đoàn Đội hơn lời dạy dỗ của ông bà cha mẹ? Vẻ như các cháu
quan tâm việc xã hội hơn lo toan chuyện nhà mình? Vẻ như nồng nàn “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào” mà ơ hờ
vô cảm với người ruột thịt, bà con họ hàng? Dường như quên bẵng chân lý giản
đơn: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật
tầm thường nhất, yêu cái cây trồng trước cửa nhà, yêu dãy phố nhỏ đổ ra bờ sông…” Trong khi hăm hở hô hào giác ngộ giai cấp, hí hửng vồ
vập “bốn phương vô sản đều là anh em”,
thì lại lãng quên bồi đắp cái gốc muôn đời là tình cảm gia đình gia tộc, đạo hiếu
phụng thờ tổ tiên.
Cha của chúng
ta qua đời tháng Bảy Bính Tuất 1946 mà tới tháng Bảy Ất Mão 1975, Mạ và các anh
chị mới tổ chức giỗ kỵ lần đầu có mặt đông đúc con cháu, tại nhà anh chị Cơ
Triêm 77 Phạm Hồng Thái. Chứ mấy chục năm qua ở Hà Nội, anh chị em Lê Khắc là
cán bộ trí thức vai vế không ai nhắc nhớ đạo hiếu thờ cúng cha ông! Việc chăm
nom mồ mả cũng thế. Nhà mình có chị Giáng Nghê và anh Tình nằm lại ở Thanh Hóa.
Chị Nghê năm 1952 mai táng ở gần cầu Vạn Quy Thiệu Hóa, Văn Trí đích thân đưa
tang, biết đích xác phần mộ, nên dạo ở trong Thanh có hai lần thăm viếng. Còn
anh Tình, thảm lắm, ốm chết năm 1953, chỉ nghe loáng thoáng rằng bệnh viện Hà
Lũng mang chôn ở nghĩa trang, nhưng anh chị em không ai biết chắc chỗ vùi di cốt.
Lại thêm, giữa anh chị em, còn có bóng ma chủ nghĩa lý lịch ám ảnh. Chính Văn
Trí cuối năm 1975 mới làm động thái “bổ sung lý lịch tự
khai”. Tức là ghi thêm tên anh chị em suốt 20 năm
1954-1974 Trí “lỡ quên”… Đó là
anh Lê Khắc Duyệt, anh Lê Khắc Hoài, chị Bích Hà đang ở đâu đó “phía bên kia trận tuyến? Và Trí từng “quên” cả Duy Kháng Lượng! Ơ hay, 3 em lù lù phía “bên này” thì sợ bóng sợ gió cái gì?
Sợ cán bộ tổ chức hạch hỏi “mấy người em của đồng chí
đã trưởng thành rồi thì đang làm gì?”. Mình đâu có biết!
Mà mình ú ớ ắt bị nghi ngờ, đánh giá lửng lơ “lý lịch
chưa rõ ràng”!
1975, Tổ quốc hòa
bình thì gia đình chiến tranh! Một phần là hậu quả nhãn tiền của lỗi lầm chệch
hướng xa rời cội nguồn truyền thống. Vừa kết thúc cuộc chiến sắc tộc và giai cấp
khốc liệt dằng dặc 30 năm, lập tức trong gia đình, gia tộc bùng phát mâu thuẫn
xung đột gay cấn cam go hứa hẹn kéo dài nhiều năm nữa…
… Không biết khi em
Lượng hỏi, chị Hương Bình có lý giải như Văn Trí hay không? Chỉ biết khi về
già, chị tỏ ra hối lỗi. Năm 1994, chớp cơ hội Văn Trí ở tạp chí Thế Giới Mới bắt
mối nhà ngoại cảm Đỗ Bá Hiệp, chị Hương Bình bám riết, bao lần chị săn đón mời Hiệp
vào Sài Gòn, rồi chị sùng sục ra Hà Nội sắp đặt tổ chức cho Hiệp vào Phú Lộc,
tìm đúng di cốt của Dì đưa về Văn Xá mai táng ngay bên mộ Cậu. Từ những năm ấy,
trong công việc gia tộc, chị Bình ý thức vị thế trưởng nữ của Dì, làm bổn phận
thay phần đàn em. Khi xây nhà thờ Cậu ở Văn Xá năm 1995, chị Bình
khăng khăng đòi cúng góp 10 triệu đồng như anh Điềm và em Trí. Chị nói với Trí: Cậu xưa
kia có 3 “phòng” là 3
chị em ruột, chúng mình làm con có nghĩa vụ ngang nhau. Anh Điềm là phần Mạ Tuyết.
Em Trí là phần Mạ Lâm. Còn chị là phần Mạ Điện. Trong hồ sơ gia tộc mà Trí đang
lưu giữ, các văn bản ghi danh sách bà con đóng “niên liễm” những năm đầu, 1993, 1994… đều có
phần cúng góp của các chị em không cư trú ở Sài Gòn, như các chị Khuê, Triêm, Mộc,
các em Duy, Kháng do chị Bình tự động góp.
Chắc chắn mối ẩn ức ly hợp gia
đình mà em Lượng từng bộc bạch thì em Duy và em Kháng cũng đã có dịp hỏi thẳng
chị Hương Bình. Sau 1975, Kháng đã bao lần tìm về nguồn cội. 1992, hai vợ chồng
Kháng - Bằng cùng chị Kỳ và cháu trai Lê Khắc Quang Trung vào Sài Gòn. Năm
1995, Kháng - Bằng, chị Kỳ và cháu gái Lê Khắc Ngọc Bích về Văn Xá khánh thành
Nhà thờ thân phụ Lê Khắc Thứ và viếng lăng mộ Ông Bà Cha Mẹ. Năm 2011, Kháng lại
vào Sài Gòn, đi Bình Dương, Đồng Tháp thăm gia đình Lê Khắc Duy và vợ con Lê Khắc
Lượng. Ở ngoài Bắc, Kháng là đầu mối kết nối bà con hậu duệ ông Văn Phố. Kháng
ra Hà Nội, đi Quảng Ninh thăm anh Nhu, anh Cơ cùng đàn con cháu của chị Bích
Khuê, chị Xuân Triêm. Văn Trí ở Sài Gòn cuối năm 2010 nhận được thư chuyển tiền
‘vô danh” gửi từ một bưu cục Hà
Nội, đoán mãi không biết ai góp “niên liễm” dòng Lê Khắc. Bèn gọi điện hỏi khắp bà con, mọi người ngơ
ngác. Mãi giữa năm 2011 mới nghe tiếng Kháng trong máy di động gọi từ Thanh
Hóa: “Là em gửi đấy, tiền cúng góp 2 năm của em và cháu
Trung cháu Bích. Các anh trong Sài Gòn quên bẵng tỉnh nghèo xa ngái ngoài này… May cho em, gặp được cháu Dũng con trai chị Bích Khuê phổ
biến định mức, em biết là em gửi liền…” Nghe giọng ông
em cựu chiến binh sang sảng, Văn Trí thốt nhiên ứa nước mắt. Vẫn con người ấy,
nhiệt thành, việc công quả xã hội, việc đạo nghĩa gia tộc, hễ bập vào là xắn
tay áo làm tới nơi tới chốn. Như Kháng đã “lập ngôn” khi chớm tuổi “cổ lai hy”: Quý hơn tất cả bạc vàng/ Là ba báu vật tôi mang trong
mình/ Chữ TRUNG, chữ HIẾU, chữ TÌNH/ Chắt chiu ba chữ để dành cho con… Chữ Trung dâng Tổ quốc. Chữ Hiếu thờ Tổ tiên ông bà
cha mẹ. Chữ Tình, là nghĩa tình lâu bền nồng hậu với anh em bà con ruột thịt, đồng
đội, quê hương xứ sở. Cũng là chữ Tình nồng đượm nghĩa tao khang với người vợ
hiền khéo vén thu xếp việc nhà, gánh vác khó nhọc gian truân, tần tảo
nuôi con để Lê Khắc Kháng 22 năm biền biệt chiến đấu ngoài tiền tuyến, tiếp đó
là 24 năm lăn lộn trên tuyến đầu việc làng việc xã. “Người
đàn bà đứng phía sau”, là Lê Thị Bằng: “Vợ là tài sản riêng tôi/ Đói no ấm lạnh ngọt bùi cưu mang…”
Dịp mừng Lê Khắc Kháng lên lão
70, bạn bè cựu chiến binh Sư đoàn 348, cựu lãnh đạo xã Thọ Cường các thời kỳ,
cùng cán bộ đương nhiệm ở xã thôn, ở hội khuyến học… và
đông đúc con cháu quây quần họp mặt, hân hoan truyền tay tập thơ 60 bài tâm huyết
“Hương quê-Tình đời” của Lê Khắc
Kháng. Thấm thía xúc động ngâm nga những vần cảm khái đau đáu:
Nợ
đời ta có vay đâu
Mà
sao trả tới bạc đầu chưa xong?
Về “món
nợ trả tới bạc đầu” ấy, Trí đã tâm sự với Kháng rằng đó
là anh em ta cùng nhau trả nghĩa hai quê. Với các anh trong này, là làng quê
Văn Xá xứ Thuận Hóa Lê đại tộc tiền khai canh. Còn các em ngoài ấy, là xứ Thanh
Hoa, đất tổ nhà Lê, là làng quê Cự Tiến nơi có ba cô gái nết na gá nghĩa cùng
ba chàng trai Lê Khắc côi cút tha phương. Trả nghĩa, trọng đại hơn trả nợ gấp bội.
Quả là nợ đời ta có vay đâu. Thuở ấu thơ ly hương chạy loạn, ta không có cơ hội
thụ hưởng cơm áo nuôi thân, chữ nghĩa dưỡng trí từ dòng Lê Khắc! Nhưng Trí cũng
như Kháng không bao giờ quên điều thiêng liêng sâu nặng: chảy rần rật trong huyết
quản của anh em mình chính là dòng máu Lê Khắc! Phải chăng lắng đọng ở
tính trời Thuận Hóa, kết tinh từ nết đất làng Văn, thừa hưởng truyền thống tổ
tiên Lê đại tộc, tôi luyện qua trăm năm lịch sử bi hùng, từ trong máu huyết
chúng mình đã hun đúc khí chất ưu việt, phẩm hạnh đặc thù của người con Lê Khắc? “Phẩm hạnh Lê Khắc”, đó là dù vòng
xoáy ly hợp xô đẩy ta tới cảnh ngộ nào, dù thuận hay nghịch, trên đỉnh quyền chức
hay dưới vực đói nghèo, ta cũng vươn lên làm tròn chức phận ở vị thế hàng đầu!
Thì cả cuộc đời Lê Khắc Kháng
là như thế. Suốt 70 năm chìm nổi, phẩm hạnh người trai Lê Khắc đã hiển lộ trong
tất thảy lĩnh vực cống hiến, ở mỗi thời kỳ. Thời thao thức nung nấu suy tư
trung niên, lão niên: cầm bút. Thời bom đạn thanh niên, tráng niên: cầm súng.
Và cả thời ấu thơ bầm dập, chớm tuổi thiếu niên đã sớm cầm cày.
Lê Khắc Hoan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét